Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jun/2025 lúc 9:32am

Phía Sau Bản Án Tử Hình

Cả Thị Trấn bàng hoàng khi xác của chủ tiệm cầm đồ trôi nổi trên sông, tiệm bị lục lọi tan hoang. Chưa đầy 24h, công an tỉnh đã bắt gọn 4 đối tượng thanh niên tuổi đời vừa mười tám đôi mươi.

Phiên tòa được xử lưu động vào buổi sáng mùa đông, trời âm u, bàng bạc một màu lạnh lẽo. Dòng người đổ về khu xử án chen lấn để nhìn bằng được khuôn mặt những kẻ giết người phi tang cướp của đang đứng trước vành móng ngựa. Tôi cũng tìm cho mình một chỗ để theo dõi phiên tòa.

Bốn khuôn mặt non choẹt xanh xao đưa đôi mắt sẫm màu u buồn tìm người thân. Hàng ghế trên, những khuôn mặt khắc khổ,nhăn nheo. Những đôi mắt và khuôn mặt nhòe nhoẹt nước, những bàn tay lặng thầm kéo vạt áo lên lau đi những giọt đau. Không có tiếng khóc, chỉ có nước mắt và những cái cúi đầu…

Tiếng loa vang lên, giọng vị thẩm phán trùng xuống mà vẫn đanh sắt lại: Một tử hình, một chung thân, một 28 năm và một 16 năm. Tất cả lặng đi. Một không khí lạnh ngắt bao trùm trong một quãng thời gian dù rất ngắn. Những tiếng thở dài buông thõng khắp mọi nơi.

- Anh ơi…ơi…ơi…!

Tiếng gọi xé cả căn phòng, cậu bé chừng mười hai mười ba tuổi lao vút lên phía các phạm nhân. Nó lao về phía tội phạm nhận bản án tử hình. Mặc cho hai người công an lôi ra, nó vẫn cố hết sức lao vào.

Chiếc xe chở phạm nhân mở sẵn cửa, các phạm nhân được đưa ra ngoài. Đâu đó đã có những tiếng nấc đau đớn: Con ơi… Cậu bé vừa khóc vừa như lấy hết sức lực để lao lại bằng được với người anh nhận án tử hình của nó. Thân hình gầy tong nhỏ bé của nó nhanh như sóc chui lách giữa những người công an rồi ôm cứng lấy anh… Tử tù khụy xuống, khuôn mặt thanh tú trắng bệch khóc nấc lên. Cậu em ôm chặt lấy anh gào khóc, nó van xin nức nở: “Chú cho cháu ôm anh cháu tý thôi… Chú ơi, chú mở còng cho anh cháu ôm cháu tí thôi; Chú ơi… cháu xin chú, cháu xin chú, một tý thôi…”.

Kẻ tử tù choàng đôi tay bị còng qua cổ em trai nhanh như cẳt rồi ôm chặt lấy. Không ai cầm được nước mắt trước sự việc quá bất ngờ này.

Chiếc xe chở tội phạm sập cửa, chốt khóa và từ từ chuyển bánh, cậu bé lại vằng khỏi tay người thân lao theo đập đập vào cửa xe…. “Anh ơi…anh ơi”…. Dòng người giãn dần, chiếc xe chạy nhanh hơn, đôi chân nó cũng chạy nhanh hơn…Nó cắm đầu cắm cổ lao theo chiếc xe… chiếc xe vù đi, chỉ còn nó liêu xiêu giậm chân giậm cẳng rồi đổ sụp xuống trong khói bụi…

Tôi chuyển về trường mới.. Bước vào lớp, học trò háo hức đón chào. Những ánh mắt rạng rỡ, những nụ cười hồn nhiên. Tôi đưa mắt bao quát một lượt những gương mặt học trò của tôi và chợt sững lại ở bàn cuối cùng… Cậu học trò một mình một bàn với đôi mắt buồn sâu hun hút, không cười, chạm ánh mắt tôi cậu ấy quay ra ngoài cửa sổ… Tôi không nhớ mình đã gặp ở đâu.

Tôi hỏi mọi người về cậu học trò, một đồng nghiệp nói với tôi:

- Nó là con nhà ông X, có thằng anh giết ông Q, tòa xử tử hình mấy năm trước đấy.

Tôi nhớ ra, hình ảnh cậu bé gào khóc bám chặt lấy kẻ tử tù hôm nào rồi đổ sập giữa mịt mù khói bụi trong buổi sáng mùa đông năm ấy trở về. Tự nhiên tôi như muốn khóc, thương đôi mắt buồn sâu hun hút vừa tránh ánh mắt của tôi nhìn về xa xôi…

- Sao cậu ấy lại ngồi một mình.

- Thì có đứa nào chơi với nó đâu.

- Sao lại thế được…?

Một đồng nghiệp bĩu môi: Đấy, đến phần cô cả đấy.

Tôi bắt đầu những tiết giảng văn của mình, những tiết học trôi qua, học trò như quên thời gian… Các bạn ấy bắt đầu chờ đợi những giờ Văn. Tôi và học trò lớp tôi gần gũi, thân thiết nhanh hơn tôi nghĩ. Giờ ra chơi chúng chặn tôi ở cửa lớp để chuyện trò. Niềm vui rộn ràng trong những ánh mắt long lanh. Duy chỉ có Thái, cậu học trò bàn cuối, em trai kẻ tử tù là chỉ đứng từ xa nhìn lại, đôi mắt cứ lặng lặng buồn. Đôi mắt trong những tiết học luôn quay đi khi chạm ánh mắt tôi dù bất cứ lúc nào.

Tôi kéo học trò lại gần thì thầm:

- Sao bạn Thái không lại đây chơi với cô trò mình mà cứ đứng vơ vẩn một mình dưới gốc cây kia nhỉ?

Không đứa nào nhìn lại phía sau, có lẽ hình ảnh đó đã quá quen rồi. Chúng chụm đầu vào tôi khe khẽ.

- Anh bạn đấy giết người bị tử hình đấy cô, bố mẹ bọn em cấm chơi với bạn ấy, ở xóm không ai đến nhà hay nói chuyện với bố mẹ bạn ấy đâu cô ạ…

- Thế à, thế mà cô không biết.

- Ai mà nói đụng đến anh bạn ấy là bạn ấy đánh luôn đấy cô. Bọn em sợ và ghét lắm.

- Ừ, cô biết rồi…

Tôi vẫn lên lớp với những giờ văn, tình cô trò mỗi ngày vun vén thêm bao tin yêu. Bao chuyện buồn chuyện vui bắt đầu thủ thỉ đem ra kể. Đứa thì bố say lùa mấy mẹ con đánh tối ngày, có đêm ngủ ngoài hè mùa đông rét cóng. Đứa thì bố mẹ mất ở với bà, đứa thì không biết bố, chỉ có mẹ thôi nhưng mẹ đi làm nên ở với Bác… Nhiều khi nỗi khổ cực được kể bằng nét hồn nhiên, cứ hất mái tóc, vuốt giọt nước mắt rồi kể. Lòng tôi se sắt buồn, tự nhiên thấy mình chợt nhỏ bé giữa dòng đời khi cần lấp đầy bao khoảng trống thơ dại bên tôi.

Tôi bắt đầu cho kế hoạch của mình. Sao để cậu học trò cô đơn ngay giữa những trái tim đầy yêu thương được.Tôi ngồi cùng Thái bên bờ sông mênh mông, qua con sông này là ra tới biển. Chiều hoàng hôn buông ráng đỏ miên man theo dòng trôi, những cánh diều trên đê liệng chao trong gió. Thái ngước nhìn những cánh diều, nhìn dòng sông, ánh nhìn xa xăm già dặn.

- Hồi nhỏ chiều nào anh cũng đưa em ra đây chơi cô ạ!

Mới nói thế thôi là khóe mắt buồn đã long lanh.

- Anh của em làm diều giỏi lắm cô à, nhà nghèo nên không có tiền mua đâu, toàn anh làm thôi. Nhưng diều của hai anh em lúc nào cũng bay cao nhất.

Tôi khẽ gật đầu. Rồi em kể tiếp, kể hối hả vội vàng như nếu dừng lại thì tôi sẽ không còn ngồi bên cạnh để nghe em kể nữa. Dòng ký ức xối xả buông, lúc nghẹn ngào hân hoan, lúc ngậm ngùi xót xa đầy nước mắt.

Ký ức của em là hình ảnh người anh gầy gầy thư sinh, nụ cười hiền và thương em hết mực. Trong kíý ức ấy, có con đường trơn trượt, nắng chưa kịp có lối lại đã lầy lội hết cả một mùa mưa. Ai cũng quen với hình ảnh người anh sắn quần cõng em trên lưng mỗi buổi tan trường. Có cánh đồng bao mùa anh lặn lội, có đôi bàn tay nhỏ bé của anh móc cua bầm dập, sưng tấy hết mùa này sang mùa khác. Có đông về lạnh cóng đôi vai gầy vì nhường áo cho em. Có những mùa xuân nối tiếp mùa xuân mong manh áo cũ để dành em cả bộ đồ mới đón giao thừa. Có những đồ chơi tết bằng lá dừa, mỗi lần đeo chiếc đồng hồ bằng lá dừa lên tay em anh lại hứa: “Sau này lớn lên đi làm anh sẽ mua cho hai anh em hai cái đồng hồ giống nhau nhé”. Ở trong miền ký ức ấy có khói bếp cay mắt những chiều nhớ mẹ đợi cha… Có bữa cơm cà lúc no lúc đói. Về miền ký ức ấy, nước mắt tôi rơi theo những giọt nước mắt của trò .

- Em thương anh em lắm, em thương lắm cô ạ, không hiểu sao anh ấy lại làm vậy. Em không thể hiểu điều gì xảy ra trong cái đêm kinh hoàng đó…

Những dồn nén cứ thế theo nước mắt tức tưởi tuôn. Tôi có cảm giác nỗi đau khổ ấy đang vỡ vụn ra thành ngàn vạn mảnh sắc nhọn trong lòng Thái. Tất cả thật quá sức chịu đựng của em.

- Các bạn không chơi với em cũng được, em một mình cũng được. Không ai đến nhà em cũng được. Em cũng quen rồi. Chỉ là đừng ai nói đến anh của em. Em muốn tất cả mọi người quên anh của em đi. Một mình em thương và nhớ anh thôi là đủ …

Trời chiều đổ bóng loang một vệt dài tối sẫm trên mặt sông. Những cánh diều đã được thu lại, chỉ còn một bóng chim chiều mải miết đơn độc trên cao.

Tôi vẫn âm thầm thực hiện kế hoạch của mình …

Hết học kỳ 1… lớp tôi không còn cậu học trò ngồi một mình ở bàn cuối, không còn cậu học trò lang thang vơ vẩn trên sân trường chả biết đứng vào đâu trong những giờ chơi. Ánh mắt đã bớt buồn, nụ cười đã trở về trên khuôn mặt già trước tuổi của cậu học trò nhỏ. Nhìn Thái giữa bạn bè, lòng tôi thật an yên… Thực ra những điều ấy phải thuộc về Thái, cậu ấy có lỗi gì đâu. Chỉ là cuộc đời nghiệt ngã đã lấy đi và tôi chỉ đưa tất cả mọi thứ về đúng chỗ mà thôi.

Mỗi ngày qua đi, nghĩa tình buộc chặt Thái bên tôi. Cậu ấy học tốt dần lên. Nhìn cậu học trò luôn dành phần nặng nhọc trong những ngày lao động, tay quẹt mồ hôi, khuôn mặt lem nhem, cái dáng vội vàng để kéo bạn trượt chân bị ngã rồi xoa xoa vết đau của bạn khiến tôi nghèn nghẹn.

Buổi học hôm ấy tôi không có giờ, vừa tan trường một tí thì thấy mấy học trò hớt hải lên nhà tìm tôi.

- Cô ơi, bạn Thái đánh bạn Hùng lớp B, kiểu chi mẹ bạn Hùng cũng đến chửi nhà bạn Thái. Bố bạn Thái sẽ đánh bạn khiếp lắm cô à.

Tôi hối hả lấy xe, chở thêm cô học trò chỉ nhà. Tôi cũng chưa đến nhà Thái lần nào.

Người phụ nữ đứng trước cửa nhà Thái khuôn mặt phừng phừng đang xỉa xói: “Cái loại khốn nạn không biết dạy con. Còn đứa nữa định để nó đi ăn cướp giết người nữa à”… Vừa thấy tôi là chị ấy lôi thằng con lại: “Đây, cô xem, nó đánh con tôi sưng mặt bầm môi lên thế này à. Cái loại con nhà khốn nạn rứa chứ…”

- Chị bình tĩnh, có gì chị vào nhà nói với bác ấy.

- Tôi vào làm gì cô, cái loại cả làng cả nước không ai thèm nhìn mặt…

- ….

- ….

- Thôi, chị cứ về đi, có gì mai em trao đổi lại với chị. Để em vào xem sao.

Thái đang dúm dó ở góc hè, chiếc roi mấy vun vút quật xuống thân hình gầy còm của em. “con xin bố, con đau lắm bố ơi, con xin bố”. Người bố vẫn nghiến răng vụt “Tao khổ lắm nhục lắm rồi, có biết không con ơi… trời ơi, trời ơi, trời ơi”. Cứ mỗi tiếng “ trời ơi”, chiếc roi lại quật xuống đầy đau đớn. Tôi bàng hoàng trước cảnh tượng đó, run lên rồi ngây đơ ra. Rồi như sực tỉnh, tôi lao lại giữ chặt cánh tay đang giơ roi lên nói không ra tiếng: “Anh đừng đánh cháu nữa”. Bố Thái quay lại nhìn tôi đang khóc như mình bị đánh sững lại rồi buông roi. Tôi chạy lại phía Thái, em ôm chặt cứng lấy tôi, những vết lằn ngang dọc tứa máu trên người.

- Cô ơi… cô ơi…!

Bố Thái ngồi sụp dựa lưng vào cây cột nhà nham nhở vết bong tróc, khuôn mặt khắc khổ đen sạm, từ đôi mắt trũng sâu đùng đục những giọt nước mắt ngấm vào những vết nhăn hằn sâu trên má ông. Ông ôm ngực ho rũ rượi. Thái buông tôi lao lại đỡ bố rồi vuốt vuốt ngực. Khuôn mặt ông tím tái, bàn tay co quắp cứng đơ. Thái cuống cuồng đặt bố nằm thẳng xuống day lồng ngực, nắn nắn đôi tay luôn miệng gọi bố ơi. Một lúc thì ông ho lại được, những cơn ho dài như móc ruột móc gan. Mẹ Thái hớt hải từ đồng chạy về, bàn chân còn lấm bùn, bà giang đôi cánh tay gầy quắt khô ôm con ôm chồng rồi khóc. Căn nhà hoang lạnh, trống trải bơ vơ.

Tôi mời cô giáo chủ nhiệm lớp B, phụ huynh và cậu học trò bị đánh vào cuối buổi học. Thái ngồi cạnh tôi run rẩy, những vết roi tứa máu phồng rộp ngang dọc trên hai cánh tay. Một làn roi vút dọc in từ trán xuống cằm… Chả hiểu sao tôi không khóc mà nước mắt cứ giàn dụa, càng cố càng không được. Tôi liên tục lau nước mắt, thở sâu. Thế nhưng không hiểu sao vẫn không được. Nói được mấy câu lại nghẹn lại… Thái cũng khóc, rồi tự nhiên chả hiểu sao cô chủ nhiệm lớp B cũng khóc, rồi cũng chả hiểu sao cậu học trò bị đánh cũng khóc và bà mẹ cậu học trò bị đánh cũng rưng rưng. Tôi không nói nổi, cứ khóc là không sao nói nổi. Tệ thế chứ. Thái sát lại gần bên tôi thêm nữa rồi cậu ấy nói rành rọt rõ ràng.

- Cháu đánh bạn là cháu sai rồi, cháu xin lỗi bác… xin lỗi cô, xin lỗi bạn.

Thái quay về phía cậu bạn giọng trùng xuống: “Anh tôi xấu nhưng không làm gì đến bạn. Anh ấy sai anh ấy đã đền tội rồi. Xin bạn đừng bao giờ chửi rủa tới anh tôi. Nếu bạn vẫn chửi rủa thì tôi vẫn đánh. Bạn nhớ lấy.”.

Im lặng trôi đi…

- Tôi nóng tính quá cô à, thành ra….

Bà buông lửng câu nói… nhìn tôi.

….

Cậu học trò bị đánh cũng xin lỗi cô, xin lỗi Thái. Chúng tôi trò chuyện với nhau thật cởi mở chân tình. Ra về bác phụ huynh nắm tay tôi rồi nói:

- Nói chuyện với cô tôi hiểu thêm được nhiều điều. Cảm ơn cô!

Tôi cũng không còn nhớ rõ là lúc ấy tôi nói những gì. Tôi chỉ biết tôi luôn hướng và giải quyết mọi chuyện tôi gặp bằng thứ cảm xúc bật ra trong lòng mình ngay lúc ấy. Cũng không biết những điều tôi nói chạm vào lòng người thế nào. Chỉ biết là sau đó, người phụ huynh có con bị đánh là người hàng xóm đầu tiên bước vào nhà Thái kể từ khi anh trai Thái nhận án tử hình.

Một ngày chủ nhật, cả nhà Thái lên gặp tôi. Cho dù tôi cố gắng tạo không khí vui vẻ cũng không sao tạo nổi. Đau khổ và những bất hạnh của cuộc đời đã khiến nụ cười gượng gạo trên khuôn mặt bố mẹ Thái trở nên lạc lõng tội tội.

- Tôi lên để cảm ơn cô, nhờ cô mà con trai tôi đã đổi thay nhiều. Suốt ngày nó nhắc cô, cái gì cũng cô. Tôi cũng thấy ấm lòng cô ạ…

- Hôm nay tôi lên để chào cô, vợ chồng tôi tính kỹ rồi, chúng tôi chuyển đi nơi khác sinh sống làm ăn để cho cháu yên tâm học hành. Ở đây, nỗi khổ không thoát ra được…

Tôi bất ngờ quá, ông nói quả quyết… và tôi hiểu đó đã là quyết định rồi. Thái rơm rớm nước mắt…

- Em không biết nói gì… nhưng cô thật sự quan trọng với em…

Thái đến lớp với chiếc áo sơ mi trắng và quần đen mới tinh. Mái tóc nhẹ xoăn vuốt cao, đôi mắt buồn long lanh, nước mắt cứ trực trào. Tôi chuyển toàn bộ hồ sơ chuyển trường cho em rồi nói với lớp.

- Thái đến để chào tạm biệt các em, cô xin lỗi đã không nói trước với các em vì bạn Thái muốn thế.

- Cả lớp ngơ ngác… : ‘Sao ạ?”

- Bạn theo gia đình đến một nơi khác… (Tôi lại chỉ nói được thế rồi lại không nói được nữa).

Cả lớp khóc rưng rức túm tụm quanh Thái, mấy đứa con gái khóc nấc lên. Thái khóc nhiều, những giọt nước mắt ấm áp và hạnh phúc. Những bàn tay đan chặt, những cái ôm không rời… Có những lúc bao nhiêu yêu thương cũng không kịp cho những đắp đền.

Tôi dẫn Thái lên văn phòng chào các Thầy Cô, mọi người ai cũng rưng rưng, cậu học trò của tôi nói những lời chia tay nghẹn ngào trong nước mắt. Chỉ có một người đồng nghiệp quay đi tránh ánh nhìn của tôi.

Tôi tặng Thái chiếc bút đang viết dở, đó là mong muốn của Thái bày tỏ với tôi. Còn em tặng tôi chiếc khăn len màu đỏ rồi nói:

- Mùa đông cô nhớ giữ ấm, đừng để bị ho nhé.

Sân trường nắng vàng trong veo theo gió lấp lánh dưới tán lá. Bóng cậu học trò nhỏ tinh khôi khuất sau cổng trường. Hình ảnh cậu bé chạy theo chiếc xe tử tù ngày nào chợt mờ xa trong tôi. Tôi biết cậu ấy vừa đi vừa khóc…

Học trò lớp tôi vẫn khóc dù tôi đã lau khô nước mắt của mình trước khi bước vào.

- Chúng ta học nhé…!

Thế nhưng tiết học ấy và buổi học ấy lớp tôi không học được. Không hiểu vì sao đứa nào cũng khóc rõ lâu…

- Bạn ấy có viết thư cho cô không?

- Không em à.

- Cô có địa chỉ không?

- Không.

Tôi và học trò lớp tôi mất liên lạc với Thái từ đó, tôi có hỏi thăm nhưng không ai biết. Chúng tôi chỉ còn nhắc Thái trong những giờ chơi, trong những giờ lao động, trong giờ học liên quan đến tình yêu thương, nỗi bất hạnh, sự đồng cảm sẻ chia… Khóa học kết thúc, mỗi trò về mỗi ngả, những lần về thăm tôi cũng không ai biết tin tức Thái ở đâu. Tôi cũng chuyển công tác. Cứ mỗi khi có việc ngang qua triền đê trên bến sông, tôi lại nhớ cậu học trò thưở ấy. Có những lúc tự hỏi thầm: Giờ em nơi đâu? Đã mười ba năm trôi qua….

Chiều nay về nhà, trên bàn có tấm thiệp mời tân gia, tôi nhìn địa chỉ và tên mà không nhớ ra được người mời mình. Nhưng có quý có biết mới mời, nhà tôi cứ có giấy mời là đi, bất kể quen thân đến đâu. Tôi hỏi theo địa chỉ trong thiệp tân gia, con đường mỗi lúc một quen.

Tôi bước vào cổng, ngõ nhỏ dẫn vào nhà lát gạch đỏ tươi, hai bên là hoa mười giờ nở rực. Trong nhà rộn rã. Thái đón tôi ngay trên lối đi. Cậu ấy cứ đứng lặng nhìn tôi.. “ Em già đi nhiều không cô?”… Thái ôm tôi rất lâu, gục đầu vào vai tôi như ngày ấy. Học trò cũ năm xưa cũng có mặt khá đủ đầy. Tôi lại thế, không khóc mà nước mắt cứ lăn dài, nắm tay từng đứa nhắc lại tên. Bố mẹ Thái khỏe hơn nhiều, nụ cười hồi sinh đầy niềm tin sáng trên khuôn mặt đã bớt những khổ đau. Thái bế bé con trên tay và dắt một cô gái giới thiệu với tôi:

- Đây là vợ và con trai em cô ạ!

Cô gái lần đầu tiên tôi gặp khẽ gọi tên tôi: Cô Hoài … Em chào cô! Khuôn mặt tròn trĩnh rạng ngời hạnh phúc.

- Con ôm bác Hoài, cô giáo của ba đi.

Cậu bé nhoài người ôm lấy tôi, hôn lên má tôi: “con chào bác, con yêu bác.”. Tôi bế cậu bé trên tay, hôn lên đôi má bầu bĩnh: Bác yêu con…

Tôi cùng mọi người đi thăm hết các phòng của ngôi nhà mới khang trang, tiện nghi đầy đủ. Khu vườn được cải tạo và trồng nhiều cây ăn quả. Trên bậc thềm, những bông hồng ngoại hồng rực trong nắng tỏa hương…

Thái đưa riêng tôi vào một căn phòng nhỏ, đấy là nơi Thái dành cho người anh trai của mình. Bức ảnh người anh với khuôn mặt thanh tú được đặt ngay ngắn trên bàn thờ. Hoa tươi và trái ngọt được sắp đặt cẩn thận. Phía bên trái là chiếc hộp màu đỏ, Thái mở chiếc hộp cho tôi xem : “Cô ơi, đồng hồ em mua cho anh trai em đấy”. Tôi nhìn chiếc đồng hồ trong hộp rồi nhìn lên tay Thái, hai chiếc đồng hồ ý chang nhau. Hai chiếc đồng hồ cho một lời hứa không thành, hai chiếc đồng hồ thay vào trò chơi bằng lá dừa của anh em Thái…ngày xưa.

Tôi và Thái dạo trên triền đê dọc dòng sông đang xuôi về biển. Chiều buông nắng vàng rực trên mênh mông sông nước và vời vợi những cánh đồng tít tắp xanh…

- Ngay từ khi ra đi, em đã quyết tâm: Dứt khoát phải trở về cô ạ. Những năm tháng qua, mọi nỗ lực, mọi cố gắng của em luôn có một phần vì cô trong đấy. Với em… cô thật quan trọng cô biết không!

…..

Mặt trời chưa khuất núi, trăng đã lên sáng trong bên trời. Buổi chiều chầm chậm êm trôi…

Thái đã quay trở về nơi mình sinh ra, nơi lưu dấu bao niềm thương, bao niềm đau và sự cô đơn. Để trở về thực sự, Thái đã phải đi qua những nẻo đường đầy đau khổ, cơ cực đẫm nước mắt và bao đêm không ngủ. Tôi biết em đã cố gắng không phải cho riêng em. Tôi biết nơi trái tim ấy, lẽ sống đang thắp sáng cho một ký ức ăm ắp những kỷ niệm của tình anh em, soi lối cho một linh hồn trót đi lạc vào bóng tối. Lẽ sống đang cháy vì sự hồi sinh niềm tin trong ánh mắt và nụ cười của mẹ của cha. Lẽ sống đang chảy để xóa mòn một bản án khắc nghiệt giữa cuộc đời…

“Phía sau bản án của một người, niềm tin và hạnh phúc giản đơn trong cuộc sống là điều không dễ dàng có lại được đâu cô…Em chỉ mong cuộc đời bớt đi những bản án khắc nghiệt để niềm đau không về nơi đây…”. Tôi nhớ mãi ánh mắt buồn nhưng đầy nghị lực niềm tin của cậu học trò khi nói với tôi điều ấy.

 

Tác giả: Trần Tuyết Mai. 


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Jul/2025 lúc 9:19am

Trăng Lu 



Xóm Xẻo Lờ. Cái tên khiến những người nhạy cảm dễ đỏ mặt. Nhưng có hề chi. Nó được đặt và quen miệng từ thời cha ông… Nào là xóm Cầu Bà Banh, Cầu Bà Tành, Xẻo trầu, Xẻo Lờ…mộc mạc, giản dị như con nước ngày hai buổi lên xuống, như chuyện trai gái xưa nay, như chuyện của Út Năm và Bé Gái bây giờ.

Hai đứa biết nhau từ hồi còn ở truồng theo mấy ông anh chạy nhong nhong ngoài bờ ruộng hớt cá lia thia. Lớn chút nữa thì chơi trò vợ chồng làm nhà chòi đằng sau mấy đụn rơm. Cho đến khi biết mắc cở trong một lần tắm sông nhìn qua ngực Bé Gái thấy hai cái chũm cau phập phồng… Từ đó là những câu nói trỏng giữa hai đứa “Lấy cái gỗ đựng mấy con cá gô mới bắt đem về cho bà già kho tộ nè” hay “Ăn gau cải không? Non lắm. Tui bứt nghen.”

Tình yêu không cần những câu “anh yêu em, em yêu anh” như trong tiểu thuyết nhưng trai gái xóm Xẻo Lờ biết con Bé Gái là của thằng Út Năm. Chẳng đứa nào nhảy vào mà tranh giành, đâm chém như trong mấy cái phim chuyện tình tay ba tay tư trên Ti vi chạy bằng bình ắc quy coi ké nhà ông Ba. Tám Điếc cha Út Năm khề khà bên xị rượu đế nói to “Con đó ngó cũng đặng. Chờ nó lớn chút nữa rồi tính. Lo cho thằng Tư xong rồi đến mày nghe Năm!”. Út Năm im lặng, nhát búa bổ xuống gốc xoài khô nghe dòn như tiếng pháo chuột.

Nhà Bé Gái nghèo. Cha mất sớm, sống cùng má và chị Hai trong chòi lá cuối xóm. Cái nhà nhỏ mà vui. Mấy đứa trong xóm hay tụ tập mỗi tối ca vọng cổ rồi nướng chuột đồng, nướng khô sặc kèm mấy trái xoài sống làm mồi nhậu. Cuối năm chị Hai cũng sẽ theo chồng, nhà còn trơ trụi hai má con. Nhìn sức vóc thằng Năm, bà má mừng thầm trong bụng. Chà cái thằng, hai tay hai giạ lúa chạy gọn hơ!

Hai đứa thường hẹn riêng nhau ở ngoài cái cầu khỉ đầu xóm, khi trăng thượng tuần như một chiếc móc câu lơ lửng trên bầu trời. Sao vậy cà? Trăng giữa tháng sáng vằng vặc sợ dân xóm thấy xấu hỗ. Cuối tháng trời tối om thì Bé Gái ngại ngùng. Câu chuyện giữa hai đứa cũng chỉ là những chuyện không đầu không đuôi, vớ va vớ vẩn. Gan lắm cũng chỉ thêm một cái nắm tay. Ấy thế mà đêm về không đứa nào ngủ được.

♣ ♣

Mấy năm gần đây, đời sống của cư dân có mòi thay đổi. Nhất là từ khi con lộ được trải đá dăm ra tận thị trấn Cái Tàu Hạ. Đám cưới, đám giỗ đã có nhạc sống. Những bài ca truyền thống Tình anh bán chiếu, Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà chỉ còn dành riêng cho các ông bà tứ thập trở lên; còn các cô cậu choai choai thì rống lên “Tình yêu đến em không mong đợi gì.Tình yêu đi em không hề nuối tiếc…”

Trong các khu vườn, cây trái cũng theo đó mà làm cách mạng. Không ai còn tìm ra giống mít nghệ tươm mật ngày xưa, những chùm dâu da đong đưa như gái mười sáu cũng thành của hiếm. Người ta trồng những công đất rặt giống mít Thái Lan, trái nhiều nhưng ăn nghe sao sống sít sần sật. Những vườn ổi bạt ngàn cũng được hiện đại hóa với hàng ngàn bao nhựa trắng. Nhìn trên cao xuống, màu xanh mát của thiên nhiên trở nên sượng sùng.

Đầu xóm Xẻo Lờ bỗng xuất hiện hai căn nhà ngói sáng rỡ. Nghe đâu của bà Năm Trầu ngoài chợ vô mua đất của chú Tư Năng. Mua đến năm công. Bà Năm Trầu làm gì mà giàu nhanh vậy ta? Mới ngày nào ra chợ còn thấy bà ngồi nhặt từng trái ổi dạt của dân xóm. Ông cha ta nói “người tốt vì lụa” chẳng sai chút nào. Bà Năm mặc áo màu hường hở cổ, ngồi oai phong trên nền gạch bông mát rượi, giọng sang sảng kêu Bé Gái bán cho bả hai quầy dừa giải khát vì “đêm qua ăn thịt gà nhiều quá khô cổ”. Bé Gái bỏ đôi dép nhựa dưới bậc thềm, bước vào cứ sợ chân mình làm dơ sàn nhà bóng loáng, tròn mắt nhìn những thứ đồ lạ lùng cả đời chưa thấy.

Dân xóm đồn đại bà Năm trúng số. Chiều đó ông bán vé số bán thêm được mươi vé cho mấy ông ngồi nhậu dưới gốc cây sanh cổ thụ. Nhưng cũng chính ông ta tiết lộ lý do giàu xổi của bà Năm. Ừa, thì là bà Năm trúng số thật. Trúng bạc triệu lận. “Trúng nhờ hai cô con gái lấy chồng Đài Loan! Ông nào ông nấy hói đầu, có hai cái bụng như đàn bà chửa”.

Má Bé Gái chép miệng “Giàu chi thì giàu chứ gả con cho người già như ông nội thì xưng hô làm sao? Lại còn nỗi chồng nói chồng nghe, vợ nói vợ nghe làm sao mà hòa hợp?”. Chồng sắp cưới của chị Hai cười hà hà “ Chắc họ nói bằng tay, má ơi!”. Bà già đập cái quạt lá bương xuống bộ ván “Quỷ hông hà!”. Út Năm cười hi hi, Bé Gái liếc xéo Út, cười mím chi.

Mới về làm dân Xẻo Lờ được hơn tháng, bà Năm Trầu đã lê la từ đầu trên ngỏ dưới. Bả trề môi chê nước phèn tắm nhớt nhợt, chê “con trai Việt Nam không thơm”, chê “làm ăn quanh năm không bằng qua xứ Đài một tiếng”và tiếc rằng “đã già chứ không cũng ráng đẻ thêm mấy đứa con gái để gả cho Đài Loan!”

Bà vô nhà Bé Gái khen “Cha mẹ cú đẻ con tiên”, quở đôi mắt lá răm của chị Hai, tiếc chị sắp lấy chồng chứ cỡ chị qua xứ Đài thế nào cũng có giá. Bả liếc Bé Gái khen mặt mày cũng khá “ngon cơm” dù nhỏ con. Bà má cau mặt “ Con tui có nơi có chốn hết rồi chị à! Nói chi chuyện tầm ruồng”.

Ngày cưới chị Hai thiệt là vui. Đêm nhóm họ trai gái trong xóm hát hò xôm tụ dưới cái cổng được kết bởi những tàu lá dừa nước. Sau chái, mấy bà mấy chị mổ mấy con vịt xiêm nói chuyện ì xèo. Chuyện sốt nhất là chuyện bà Năm Trầu vừa mai mối cho nhỏ Lài lên thành phố lấy chồng, dĩ nhiên là một ông Đài Loan. Họ chuyền tay nhau mấy tấm hình Lài mặc áo dài, vàng đeo đỏ tay bên bà má mặt mày hớn hở..Ông chồng đứng đằng sau ngó già hơn má vợ nhưng trên cổ có một sợi dây chuyền to như sợi xích chó. Nghe như có tiếng thở dài của một chị khi liếc xéo ông chồng đang cởi trần nốc rượu lè nhè ngoài sân!

Rồi một làn sóng ngầm mà bạo liệt, nhà bà Năm Trầu thì thụp kẻ ra vô. Bà Năm công khai nói oang oang “Tui sắp xóa đói giảm nghèo cho cái miệt này rồi nghen. Để coi, ít năm nữa, xóm này không lên nhà ngói mới lạ!” Mà quả thiệt, ông Tư Thăng nghèo rớt mồng tơi sau khi nhờ bà Năm “làm dịch vụ trọn gói” cho con gái đã chểm chệ trên một chiếc Cup bóng loáng. Nhà bà Bảy tận trong lung cũng lên đời cái mái tôn sau khi Bé Ba theo bà Năm lên Sè Gòn ra mắt đằng trai. Bà Tám Tàng nhiếc con “Mày xấu quá họ chê chứ không tao cũng kiếm được chút tiền dưỡng già!”.Bà nhiếc mà không nghĩ rằng cô con gái giống hệt mình ở hàm răng hô và đôi mắt hí. Chú Ba Hoàng thở ra “Coi chừng mấy năm nữa con trai xứ này ế vợ hết!”

Đời sống ngày một khó khăn, vườn tược thất bát. Ổi hạ giá một kí ba trăm, người ta chặt ổi trồng nhãn rồi lại chặt nhãn trồng xoài. Thêm cái nạn ruồi vàng chích, bọ xít bu trái hư, trái èo uột. Lũ con trai bỏ đất vườn rủ nhau lên thành phố làm ở các khu công nghiệp. Xóm làng buồn như chùa Bà Đanh.

Đêm nay, Út Năm và Bé Gái lại gặp nhau ở gò đất đầu cầu. Hai đứa bó gối nhìn ra mặt sông. Bé Gái thở ra “Con Bé Tám cũng lấy chồng Đài rồi. Em hết bạn tâm sự!”. Út Năm ném một hòn sỏi nhỏ xuống mặt nước “ Anh Tư rủ anh lên Bình Dương làm công nhân, Gái nghĩ sao?”-“Ai cũng đi hết, còn lại toàn ông bà già. Nhưng nếu không đi, lấy gì sống. Em còn Má chứ nếu không chắc cũng phải xin đi may trên khu chế xuất”.Út Năm nói “ Em ráng đợi anh thêm mấy năm, anh kiếm chút vốn cho sau này đỡ cực.” –“Em chờ anh. Má cũng thương anh mà!”. Hai đứa cầm tay nhau. Mảnh trăng thượng tuần như nụ cười dù hơi méo.

♣ ♣

Má Bé Gái đau. Lúc đầu tưởng chỉ là những cơn trái gió trở trời nhưng bệnh ngày càng nặng. Bệnh viện Huyện giới thiệu lên thành phố, bệnh viện thành phố chuyển qua bên ung bướu, kết luận ung thư phổi. Sinh thiết rồi xạ trị, số tiền không phải ít. Tiền nhà nghèo thì có hạn. Hai chị em quyết định bán ba công đất chỉ để lại túp lều trên mảnh đất hẹp. Bên chồng chị Hai cũng không khá giả gì, chị Hai lại đang cấn thai không làm chi được. Bé Gái lo đến thắt ruột. Bà má cầm tay con: “ Để má chết, con đừng lấy chồng Đài. Má mong mày lấy thằng Năm!”

Bé Gái quyết không lấy chồng Đài nhưng vay tiền bà Năm Trầu lo cho má thì có. Xóm này nhà nào cũng vắt mũi đút miệng lấy đâu dư . Bà Năm xởi lởi dúi tiền cho Bé Gái “ Kẹt cứ nói dì, chỗ bà con làng xóm…”

Được ba tháng bệnh viện trả về vì khối u đã di căn. Bà má như bộ xương khô nằm ẹp trên giường. Bé Gái sắc thuốc Nam bằng lá sả, lá đu đủ cho bà uống. Chị Hai thi thoảng chạy về khóc mếu dúi cho em mấy chục rồi tất tả lo phục vụ nhà chồng. Cuối tháng, Út Năm tranh thủ về thăm than thở công việc nặng nhọc, toàn làm tăng ca đêm, hai con mắt trõm lơ.

Bà má chết chưa tròn tháng thì bà Năm Trầu xuất hiện. Không còn vẻ xởi lởi, không “tình làng nghĩa xóm “ nữa, bà tổng kết tiền vay cộng tiền lãi tròm trèm ba chục triệu. Hai chị em nghe muốn xỉu! Út Năm muốn ra tay nghĩa hiệp nhưng nghe số nợ cũng dội ngược. Cả một đời công nhân chắc gì cầm được số tiền ấy trong tay!

Cái vòng kim cô ngày càng thắt chặt. Lời lẽ bà Năm trầu khi ngọt khi nhạt, khi xoa khi đấm. Và cuối cùng, lối thoát duy nhất “vừa xong nợ, vừa sướng thân” là lấy chồng Đài. Ông này tóc không hói, bụng không bự chỉ có cái chân chấm phẩy “lệt quệt chút thôi, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ” như lời bà Năm Trầu! Thôi thì Bé Gái đành bắt chước cô Kiều của Nguyễn Du “ Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Út Năm về thăm, Bé Gái tránh mặt.

Chị Hai bồng con theo Bà Năm Trầu lên thành phố tiễn em. Sau khi trừ hết nợ, tiền mối mai, tiền chụp ảnh, tiền giấy tờ… Bé Gái dúi hai triệu bạc còn lại vào tay chị kèm theo một cái khăn thêu nhờ chuyển cho Út Năm. Cái khăn màu hồng có thêu hai con chim châu mỏ vào nhau là quà tặng của Út Năm ngày lên Bình Dương làm khu chế xuất!

Bé Gái đi xứ Đài được sáu tháng, chưa kịp gởi đồng bạc nào về sửa nhà, chuộc đất như dự tính thì chị Hai nhận được tin em gái chết. Một cái chết thương tâm. Nhảy sông vì bị bạo hành! Xứ Đài không chỉ có nhà cao cửa rộng mà còn chốn nông thôn nghèo xác xơ! Xứ Đài không chỉ có những ông chủ măc vest thắt cổ cồn mà còn có những anh nông dân đội mũ lá ngày ngày cắm đầu trên ruộng, nghèo đến mức không đủ tiền lấy vợ bản xứ! Bé Gái không chỉ làm vợ cho lão già lệt quệt mà còn phải mua vui cho tất cả ba tay đàn ông trong nhà chồng. Ngày về của Bé Gái là chiếc bình nhỏ đựng nắm tro cốt được chị Hai chôn trước nhà cạnh mộ của bà má. Cái nhà tranh ấm áp ngày nào giờ không ai coi sóc ngày càng xập xệ, đìu hiu…

♣ ♣ ♣

Thằng Cu Tí hớt hải chạy về nói với ông Nội: “Con thấy ma bên nhà chị Bé Gái!” Chú Ba Hoàng nạt “ Thời nay còn nói chuyện ma quỷ” nhưng cũng cầm cái gậy tầm vông đi tuần một vòng cho đứng chức năng của An ninh xóm.

.Tháng cuối năm. Cơn gió chướng làm người ông gây gây. Ông bước qua cánh cửa rào tàn tạ. Một người ngồi gục đầu bất động bên hai ngôi mộ, túi xách nhỏ bỏ dưới chân, đốm nhang đỏ lập lòe trong bóng tối. Chú Ba Hoàng tằng hắng, bóng đen ngửng đầu lên, chú Ba Hoàng nhận ra đó là Út Năm. Chú cất tiếng “Mày về hồi nào Năm? Qua nhà chưa mà ngồi đây?” Út Năm trả lời bằng một giọng ướt sủng: “Cháu đi đò qua kinh rồi lội rạch về nhà. Thấy còn sớm, ghé thắp cho Bé Gái cây nhang”. Chú Ba Hoàng thở dài: “ Thôi, con để cho linh hồn nó thanh thản. May mà còn về được cố hương…” Chú bỏ dở câu nói, kéo Út Năm đứng lên. Một già một trẻ đi liêu xiêu trong ánh sáng nhập nhoạng.

Tiếng con dế nào nỉ non bên bụi cỏ ven đường. Trên đầu họ, trăng thượng tuần đã lẫn vào mây.


HƯƠNG THỦY
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Jul/2025 lúc 1:42pm

CHUYỆN BÊN ĐƯỜNG. Tác giả: NV. Lưu Nghi. Người đọc: Thái Hoàng Phi  <<<<<<

Xich%20Lo,%20a%20symbol%20of%20Vietnam%20tourism%20Halong%20Junk%20Cruise




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Jul/2025 lúc 1:57pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Jul/2025 lúc 11:16am

Chiếc Lá Vô Tình 

Hình minh họa: AI generated

Một chiếc lá vàng, chẳng hẹn trước,lững lờ rơi theo gió, khẽ chạm vào trán Thi như một lời nhắc khẽ, rồi nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất tĩnh lặng.Thi bàng hoàng sực tỉnh. Bước chân nàng vẫn chầm chậm, tưởng như đang đi trên một con đường rất dài, dù khoảng cách từ chỗ đậu xe đến cửa sau căn nhà chỉ vỏn vẹn vài thước.

Trước cánh cửa thân quen, Thi hít nhẹ một hơi dài, cố gắng lấy lại nét bình thản. Nhưng dẫu có cố đến đâu, đôi mắt nàng vẫn vương một nỗi ưu tư không che giấu được. Đó là cánh cửa của ngôi nhà mà nàng và Tú đã chắt chiu suốt bao năm để tạo dựng, từng viên gạch, từng khung cửa, từng bóng đèn cũng in dấu bàn tay và giấc mơ của cả hai.

Chợt, một nỗi thảng thốt lặng lẽ dâng lên trong lòng nàng. Thi biết, ngày nàng rời xa mái nhà này không còn xa nữa. Một chuyến đi không định trước. Một khúc rẽ không hẹn ngày trở lại. “Rồi sẽ ra sao?” Nàng không rõ. Nhưng có lẽ, cũng như chiếc lá vừa rồi, nàng sẽ mặc cho gió cuốn. Phó mặc cho định mệnh an bài. Không oán than, không giận dỗi.

16 năm về trước...

Hồi ấy, Thi còn là một cô sinh viên năm cuối tại Đại học Texas ở Dallas. Một chiều đầu xuân, trong buổi tiệc chia tay niên khóa tại nhà một người bạn đồng hương, nàng đã gặp Tú, rất tình cờ, rất nhẹ như hơi sương đầu ngày.

Tú không phải kiểu người ưa náo nhiệt. Chàng chỉ nhận lời đến dự tiệc vì nể người quen, nên từ lúc bước vào, Tú đã lặng lẽ chọn một góc phòng, tay cầm ly rượu, mắt xa xăm nhìn ra khoảng sân vắng. Vậy mà giữa căn phòng đầy tiếng cười, Tú lại nổi bật đến lạ, có lẽ nhờ chiếc áo sơ mi màu hồng phấn, kiểu cách đang thịnh hành thời ấy. Nhưng hơn hết, là đôi mắt sáng như biết nói, gương mặt chữ điền đĩnh đạc, tóc cắt ngắn lộ rõ đôi tai dày, tai to, từng được bạn hữu của mẹ Tú trầm trồ là “có tướng nhà Phật.”

Lần đầu tiên Thi bước chân vào phòng khách, ánh mắt nàng lướt nhẹ qua đám đông rồi dừng lại nơi góc phòng ấy. Không hiểu sao, nàng nhận ra Tú ngay lập tức. Có điều gì đó rất đàn ông, rất tĩnh lặng trong dáng ngồi và cách Tú nhấp ly rượu. Thi không lý giải được cảm giác lúc ấy, chỉ biết rằng tim nàng đã có chút xao động. Một cảm tình nhẹ như tơ mỏng. Và vì thế, nàng muốn tìm cách làm quen với chàng trai trầm lặng kia.

Nàng thong thả bước tới gần góc phòng nơi Tú đang ngồi, dáng đi nhẹ như gió thoảng. Khi đến gần, nàng dừng lại, mỉm cười:

- Chào anh.

Tú giật mình. Chàng đang thả hồn theo tiếng nhạc lặng lẽ thì bị kéo về thực tại bởi giọng nói trong veo ấy. Lúng túng, Tú đáp:

- À... chào... chào cô.

Cái vẻ ngượng ngập chân thật của Tú làm Đan Thi bật cười khẽ. Nàng cảm thấy dễ mến lạ lùng. Với nụ cười vẫn còn vương trên môi, nàng dịu dàng hỏi:

- Em tên là Lê Hoàng Đan Thi. Còn anh?

- Phạm Tuấn Tú.

Chàng đáp gọn, rồi như để tránh ánh mắt của nàng, vội nhấp thêm một ngụm rượu. Thi nghiêng đầu, hỏi tiếp, giọng như gió xuân thoảng nhẹ:

- Anh Tú là bạn của Hollie hả?

Hollie, tức Hồng Phước, là người bạn đồng hương thân thiết với nàng từ thuở nhỏ, nay đã thành chủ nhân buổi tiệc. Sau khi nhập quốc tịch Mỹ, Phước đổi tên là Hollie để người bản xứ dễ gọi.

Tú đáp, vẫn chưa quen với nhịp trò chuyện:

- Dạ, tôi học chung lớp với cô ấy.

- Ồ, vậy là anh cũng ra trường năm nay, ngành quản trị kinh doanh giống chị Hollie luôn hả?

Tú liếc sang Thi, lần này lâu hơn.Nàng đang đứng dưới ánh đèn vàng nhạt, trong chiếc đầm tím lặng như hoa chiều mới nở. Làn da nàng trắng hồng, mái tóc buông mềm trên vai gầy. Đôi mắt to, đen nhánh, long lanh như ánh nước hồ thu. Mỗi khi nàng cười, khóe môi lại chúm chím, rất duyên. Tự dưng Tú thấy lòng dịu lại. Một cảm giác lạ. Dễ chịu. Ấm. Chàng mở lời, giọng nhẹ hơn:

- Cô quen Hollie lâu chưa?

Thi đáp nhanh, ánh mắt ánh lên kỷ niệm:

- Dạ, chị ấy hơn em 2 tuổi. Hồi ở Sài Gòn, nhà em với nhà chị ấy sát vách. Tụi em thân như chị em ruột. Chị ấy qua Mỹ theo diện HO, còn nhà em đi diện đoàn tụ. Ai ngờ trùng phùng bên này, rồi lại học cùng trường.

Tú mỉm cười. Thi nói chuyện tự nhiên, không kiểu cách. Giọng nàng có gì đó rất thật như một cơn gió mát trong buổi chiều hè oi ả. Chàng thấy mình không còn ngần ngại như trước nữa. Như thể, giữa căn phòng xa lạ này, đã có một người khiến chàng thấy gần gũi.

- Vậy cô học ngành gì?

Thi đáp, nhanh nhẹn như bản tính vốn có:

- Dạ, em học quản lý thông tin công nghệ. Còn 2 năm nữa mới xong chương trình.


Và từ đó, câu chuyện cuốn đi như nước nhỏ vào khe đá. Từ học hành đến quê hương, từ những bỡ ngỡ nơi đất Mỹ đến kỷ niệm thời thơ dại ở Sài Gòn. Hai người cứ thế trò chuyện không dứt. Mọi thứ xung quanh như lùi lại, chỉ còn lại hai tâm hồn đang dần mở cửa.

Thời gian sau đó, Thi và Tú trở thành đôi bạn thân thiết. Những buổi học, buổi làm, những buổi trà chiều và cả những ngày mưa lặng lẽ, tất cả đều có hình bóng nhau. 2 năm sau, Đan Thi ra trường, được tuyển vào hãng SolarWinds, giữ vai trò kỹ sư phần mềm. Tú thì tốt nghiệp cao học, rồi đứng ra lập công ty riêng.

Tình yêu không đến ào ạt, nhưng âm ỉ như ngọn lửa trong chiếc đèn dầu, ấm và sáng. Cuối mùa thu năm ấy, họ tổ chức lễ cưới. Không xa hoa, không cầu kỳ, nhưng đầy ắp tiếng cười và lời chúc tụng. Hai họ ai nấy đều tấm tắc khen: “Thiệt là xứng đôi vừa lứa.”

Gần 10 năm chung sống, vợ chồng Tú và Thi vẫn chưa có mụn con nào. Đôi khi, mẹ Tú nhắc khẽ một vài câu, nghe như vô tình nhưng lại khiến Thi tủi lòng. Còn Tú thì lặng lẽ thở dài, không phản bác, nhưng nét bất mãn cũng hiện rõ trong ánh mắt. Con cái vốn là duyên trời, là món quà định mệnh, đâu thể cưỡng cầu. Vậy nên cả hai vợ chồng đều mong mọi sự đến một cách tự nhiên, như mưa đến khi trời muốn khóc, như hoa nở lúc đất trời muốn xuân. Thế nhưng thời gian cứ lặng lẽ trôi qua mà chiếc nôi trong phòng ngủ vẫn còn bỏ trống. Từ chỗ né tránh, họ dần dần sợ hãi mỗi khi ai vô tình nhắc đến chuyện con cái. Những câu hỏi tưởng chừng vô thưởng vô phạt, vậy mà mỗi lời lại như lưỡi dao nhỏ rạch vào trái tim của hai người đã cùng nhau đi qua một đoạn đời không ngắn.

Vài năm sau khi cưới, họ dành dụm, tích góp để mua được một căn nhà xinh xắn nơi ngoại ô phía Bắc thành phố, tổ ấm mơ ước. Nhưng đời sống đâu chỉ có mơ và ước. Tú lao vào công việc như thiêu thân tìm ánh sáng, vùi mình giữa đống hồ sơ, hợp đồng, tính toán, chạy đua với thời gian. Lúc nào cũng có vẻ bận rộn. Có những đêm về khuya, ánh đèn nơi góc làm việc vẫn chưa tắt. Có những sáng sớm, Thi tỉnh dậy một mình trong căn phòng vắng. Tình vợ chồng theo đó mà phai nhạt. Không phải là hết yêu, mà là thiếu thì giờ để giữ lửa. Họ không còn những buổi tối thong dong dạo phố hay ngồi bên nhau nghe mưa rơi. Thay vào đó là những khoảng lặng kéo dài, những cái nhìn vội vã, những câu hỏi chưa kịp hỏi đã bị công việc cuốn trôi.

Thi lúc ấy đã ngoài 30, nhưng nét xuân vẫn còn đằm thắm. Cái đẹp của nàng không chỉ ở dáng hình, mà còn ở sự từng trải, trong ánh mắt biết nói và nụ cười đã đi qua nhiều mùa thương nhớ. Nàng hiểu Tú lao mình vào công việc vì trách nhiệm, vì muốn vun đắp tương lai, nhưng đôi khi trong những đêm dài không ngủ, nàng vẫn ngỡ rằng chàng đang lặng lẽ trốn tránh tình yêu, thứ tình yêu cuồng nhiệt mà ngày xưa họ từng trao nhau dưới những hàng cây rợp bóng.


Thời gian như thoi đưa. Họ vẫn sống bên nhau, nhưng khoảng cách chẳng đo bằng bước chân, mà bằng sự vắng mặt trong tâm hồn nhau. Cho đến một ngày, khi Thi được cất nhắc lên làm trưởng phòng kỹ thuật tại chi nhánh Dallas, mọi thứ bắt đầu rẽ sang một lối khác.

Người sếp mới của nàng là ông Larry Kim, một người Mỹ gốc Nam Hàn, dáng cao lớn, phong thái đĩnh đạc, có nét trầm tư của kẻ từng trải và sự điềm đạm của người từng học ở những nơi danh giá. Larry tốt nghiệp hạng ưu ngành Khoa học Vi tính tại UCLA, từng làm việc cho IBM trước khi được mời về SolarWinds làm Phó Tổng Giám Đốc. Chính ông là người đề cử Thi vào vị trí trưởng phòng.

Larry không chỉ là một nhà quản trị giỏi mà còn là người biết cách khiến người khác cảm thấy mình được trân trọng. Ông không lớn tiếng, không bao giờ tỏ vẻ gay gắt, cho dù nhân viên có lỡ sai điều gì. Giọng ông lúc nào cũng từ tốn, ánh mắt luôn dịu dàng. Chính cái phong cách ấy khiến Larry được lòng nhân viên và trở thành hình mẫu lý tưởng trong mắt nhiều nữ đồng nghiệp, trong đó có cả Thi.

Với mọi người, Larry kín đáo đến lạ. Hễ ai hỏi đến gia đình, ông chỉ cười rồi khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác. Nhưng với Thi, Larry như mở thêm một cánh cửa. Đôi lần, ông kể rằng mình yêu chó mèo, rằng mỗi chiều về đều nhớ những ngày xưa có tiếng chân chó chạy quanh hiên. Ông cũng hay nhắc đến những người vô gia cư ở góc phố, những kẻ yếu thế không ai bênh vực. Có lần, Larry kể về cha mẹ già đang sống cô đơn ở California, ánh mắt ông chùng xuống, môi mím lại như cố nén một nỗi gì sâu kín. Thi nghe mà không giấu được niềm cảm động.

Những buổi trưa làm việc lặng lẽ trôi qua. Giữa hàng tá những cuộc họp, báo cáo, kế hoạch, là những câu chuyện nhỏ riêng tư họ chia sẻ với nhau.Lâu dần, ngoài giờ làm, họ còn gặp nhau như những người bạn tri kỷ. Ở văn phòng, họ là cấp trên cấp dưới; còn khi ra khỏi cánh cửa ấy, là hai tâm hồn tìm được sự đồng điệu giữa muôn trùng xa cách. Và đôi khi, trong những chiều cuối tuần vắng bóng Tú, Thi bỗng thấy lòng mình run nhẹ, như khi xưa, đứng trước người thanh niên ngượng nghịu trong buổi tiệc cuối khóa, đã lỡ đánh rơi ánh mắt vào trái tim nàng.

Những tháng gần đây, Thi thường ở lại văn phòng muộn hơn thường lệ. Khi thì lấy cớ cuối năm công việc nhiều, khi thì vì Larry giao thêm việc, đôi lúc chỉ vì nàng chẳng muốn về nhà quá sớm. Tú ban đầu cũng hỏi han, nhưng rồi dần dà, cả hai mặc nhiên coi đó là điều bình thường. Những câu hỏi trở nên thừa thãi khi lòng người bắt đầu yên lặng với nhau.

Tối hôm lễ Tình Nhân, Thi về nhà sớm hơn mọi khi. Nàng nấu một bữa cơm thật tươm tất, thắp ngọn nến nhỏ trên bàn ăn, chờ đợi. Gương mặt nàng bừng sáng trong ánh nến lung linh. Nhưng đến 9 giờ đêm, Tú mới bước vào, mệt mỏi, tay không. Không hoa, không quà, chỉ là một ánh mắt lúng túng, kèm lời xin lỗi khẽ như gió thoảng. Thi không nói gì. Nàng chỉ gượng cười, mời chồng dùng bữa. Nhưng trong lòng, một điều gì đó đã lặng lẽ trôi đi.

Sáng hôm sau, vừa đặt chân vào văn phòng, Thi chợt khựng lại. Trên bàn làm việc, một bó hồng đỏ rực rỡ đang chờ nàng. Mảnh thiệp nhỏ ghi dòng chữ ngắn gọn: “Happy Valentine’s Day – L.K.” Thi khẽ khàng đặt tay lên cánh hoa mềm. Mùi hương dịu ngọt làm cay sống mũi nàng. Một giọt lệ rớt xuống, lăn dài trên gò má. Đó không hẳn là vì cảm động, cũng không hẳn vì buồn. Có lẽ là cả hai.

Hôm qua là kỷ niệm ngày cưới. Tú, người đàn ông không mấy lãng mạn nhưng rất mực yêu vợ, lần đầu tiên đặt chỗ ở The French Room, nhà hàng đắt đỏ nhất thành phố.Chàng nhắn tin cho Thi, dặn dò giờ hẹn, lòng nôn nao như cậu học trò nhỏ.Thi cũng thấp thỏm chuẩn bị, lòng rộn ràng một thứ hồi hộp khó gọi tên. Cả năm rồi, họ chưa có một buổi tối thực sự dành cho nhau.

Nàng đến đúng giờ, được tiếp tân dẫn vào bàn. Ly vang đỏ sóng sánh trong tay, Thi ngồi chờ. 15 phút... rồi 20... chiếc ghế đối diện vẫn trống. Nàng gọi cho Tú, và nhận được lời xin lỗi vội vã. Anh đang mắc ở một cuộc họp gấp, khách hàng đang nổi giận về một đơn hàng lỗi.

Thi không nói gì. Nàng chỉ gật đầu dù biết Tú không thấy. “Làm sao một bữa tối với vợ lại thua kém một hợp đồng?” Nàng thầm nghĩ, môi bặm lại, mắt nhìn xa xăm qua khung cửa sổ mờ sương. Điện thoại rung. Là Larry.

Giọng Larry trầm và nhẹ như một nốt nhạc buồn. Chỉ vài lời an ủi, vài câu sẻ chia, mà Thi bỗng thấy lòng mình dịu lại. Như có một bàn tay vô hình đang vuốt nhẹ những lằn nứt trong tim. Nàng quên mất là mình đang đợi chồng. Quên cả sự hụt hẫng vừa rồi. Nàng chỉ còn nghe nhạc nền của một bản tình ca cũ, rượu ngấm môi, và lời Larry vang lên trong tai như một bản du ca.

Khi cô phục vụ hỏi nàng có muốn gọi món không, Thi chỉ mỉm cười lịch sự:

- Cho tôi chờ thêm một chút.

Lát sau, một cô hầu bàn khác bước tới, cúi đầu nhẹ nhàng:

- Thưa cô, anh Tú xin lỗi. Anh ấy không thể đến được.

Thi ngẩn người. Câu nói ngắn mà như gió lùa qua tim. Một chút tê tái, một chút ngượng ngập. Nhưng rồi nàng ngồi thẳng lưng lại, mắt nhìn về phía xa:

- Không sao, cho tôi thêm một chút thời gian.

Chỉ 15 phút sau, Larry bước vào. Bộ vest màu than chì ôm vừa vặn vóc dáng cao lớn,gương mặt thư sinh điểm nét từng trải. Trông anh như một nhân vật bước ra từ truyện tình nào đó của thời cũ. Ánh đèn vàng nhẹ phủ lên mái tóc, khiến gương mặt anh càng dịu dàng hơn.

Họ trò chuyện như hai người bạn cũ. Không có gì vội vàng, không một lời vượt giới hạn. Chỉ là những mẩu chuyện đời, những tiếng cười nhẹ, và rượu vang thơm ngát như một khúc dạo đầu cho một bản tình cảm lặng.

Thi thấy lòng mình ấm lại. Nàng cười nhiều hơn. Mắt nàng ánh lên niềm vui mà đã lâu rồi Tú không còn nhìn thấy. Mỗi khi Larry lặng lẽ chạm tay vào ly rượu hay nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, Thi bỗng thấy mình như sống lại những ngày đầu biết yêu. Một cái gì đó rất mềm, rất nhẹ, rất mong manh... mà lại khiến người ta muốn được dựa vào.

Đêm đó, khi Larry nghiêng người dìu nàng ra xe, cánh tay anh nhẹ nhàng như gió thoảng.Thi không chống cự, cũng không tự hỏi. Chỉ có nụ hôn thoáng qua má như dấu lặng trên bản nhạc đời nàng, để rồi cả hai cùng chìm vào khoảng lặng không tên của một thành phố đã lên đèn.


Đêm qua, Thi đã không về nhà. Tú trằn trọc mãi trên chiếc giường rộng chỉ còn lại một nửa thân quen. Gối bên kia vẫn phẳng, mát lạnh, không dấu đầu. Chàng đến nhà hàng tìm nàng, nhưng mấy cô hầu bàn chỉ cho biết Thi rời đi lúc gần 11 giờ đêm. Không ai rõ đi đâu. Không ai đi cùng nàng, hay chí ít là không ai nhận ra.

Tú quay về, lòng ngổn ngang. Căn nhà vắng, đồng hồ kêu tích tắc như những nhát gõ nhè nhẹ vào tim.Chàng gọi cho nàng, đến trăm lần, mỗi lần chờ đợi như găm một mũi kim vào da thịt. Điện thoại vẫn lặng câm. Đêm chìm trong im lặng như một vùng nước sâu, không đáy. Tú thiếp đi lúc trời gần sáng, trong một giấc mộng u tối, lạnh lẽo như lòng mình.

-------

Sáng hôm sau, Larry đưa Thi trở lại nhà hàng để lấy xe. Cả hai ngồi im, không ai nói với ai một lời trọn vẹn. Thi ngồi nghiêng mặt ra cửa xe, ánh nắng sớm len qua khe cửa kính, soi lên gò má thanh tú mà xanh xao.

Larry chăm chú lái xe, đôi khi chau mày, cằn nhằn mấy tiếng vì kẹt đường. Thi không trách. Nàng cũng chẳng biết phải nói gì. Đêm qua với nàng, là một khúc quanh, là một lầm lỡ. Nàng không ghét Larry. Ngược lại, nàng từng quý mến anh như một người bạn lớn, một người đàn ông biết lắng nghe. Nhưng... đó chưa từng là yêu. Không phải thứ tình yêu khiến người ta run rẩy khi nghe tiếng gọi, hay nôn nao khi gần kề. Vậy mà... nàng đã buông mình trong một phút yếu lòng, để rồi sáng nay thức dậy, thấy chính mình xa lạ như một người khác.

Nàng hối hận. Rất nhiều. Nhưng trong lòng cũng chật chội với những lý lẽ nàng tự bào chữa. Không thể quay ngược thời gian, Thi ngập ngừng cất lời:

- Larry, mình đi ăn sáng nhé?

Larry chẳng quay sang, mắt vẫn nhìn thẳng phía trước, giọng khô khốc:

- Đường xá hôm nay kẹt quá... Để đến văn phòng rồi tính. Hôm nay tôi bận lắm.

Thi im lặng. Lòng nàng thắt lại. Sự xa cách trong giọng nói Larry khiến nàng ngộ ra một điều gì đó. Như thể chuyện đêm qua, với anh ta, chỉ là một đoạn thoáng qua, như cơn gió đêm ghé thăm một chiếc lá rơi.

Nàng ngồi thừ, ánh mắt lạc trong khung trời sáng nhòe. Tâm trí trôi về phía Tú. “Khôn ba năm, dại một giờ... Mình đã làm gì vậy?” Nàng cắn nhẹ môi. Một cảm giác nhơ nhớp, xấu hổ lan dần khắp da thịt. Thi muốn khóc, mà nước mắt như rút cạn tự đêm qua.

Về tới văn phòng, Thi lập cập mở máy, nhưng không đủ bình tĩnh để gõ một chữ. Nàng cầm điện thoại, gọi cho Tú. Giọng nàng run nhưng cố giữ vẻ tự nhiên:

- Em xin lỗi vì tối qua... Em giận quá nên ra khách sạn ngủ cho khuây. Bây giờ em tới văn phòng rồi, gọi anh kẻo anh lo. Chiều mình gặp nhau ở nhà nha.

Nói xong, nàng cúp máy như sợ nghe lại chính giọng mình. Mắt nàng cụp xuống. Một ngày dài bắt đầu. Nhưng không giống những ngày xưa cũ.

Laptop vẫn tắt. Tâm trí nàng rối bời. Một đoạn đời vừa gãy khúc. Phía trước là gì, nàng không rõ. Nhưng chắc chắn, mọi thứ đã không còn như cũ. Trong lòng nàng, giữa Larry và Tú là hai con đường: một rẽ ngang bởi đam mê nhất thời, một âm thầm đi cùng nàng bao năm qua, dù có nhạt nhòa. Không thể để mọi thứ treo lơ lửng, Thi quyết định phải nói chuyện với Larry cho rõ. Nếu có thể gọi tên chuyện đêm qua, thì nàng cần biết: đó là điều gì. 

Thi bước vào phòng ăn của công ty. Larry đang đứng khuấy ly cà phê, cười nói gì đó với một cô nhân viên trẻ. Thi lấy lại vẻ bình thản, bước tới gần, cất tiếng:

- Hi Larry, tôi có chút thắc mắc. Anh có thời gian không?

Larry quay sang, nụ cười dừng lại, thay bằng một thoáng e dè:

- A, chào cô Thi. Được, nhưng phải nhanh nhé. Tôi có họp lúc 2 giờ.

- Okay, mình nói chuyện ở phòng tôi được không, hay tôi qua phòng anh?

Larry nhìn đồng hồ, rồi chần chừ đáp:

- Phòng tôi nhé.

Thi gật đầu. Nàng bước theo anh về phía cánh cửa khép kín ấy, cánh cửa sắp mở ra không chỉ là phòng họp nhỏ, mà là lối rẽ cho những gì đang âm thầm nứt vỡ trong đời nàng.

Cánh cửa phòng khép lại sau lưng, cách biệt họ với thế giới ồn ã bên ngoài. Không gian chỉ còn tiếng quạt máy quay chậm và ánh đèn vàng vỡ ra từng vệt mờ trên mặt bàn làm việc. Larry mời Thi ngồi. Ánh mắt anh dửng dưng, không giống cái nhìn đêm qua, cái nhìn từng khiến nàng run lên, vừa xúc động vừa lầm lỡ.

- Em nói đi! 

Anh ta khẽ, như người đang sắp xếp lại giấy tờ trên mặt bàn. Thi hít nhẹ một hơi. Từ lúc rời khách sạn, lòng nàng đã như có gì buộc chặt. Nàng không biết nên gọi đêm qua là gì. Một lần buông thả? Một thoáng yếu lòng? Hay một thứ tình cảm thực sự đang bắt đầu?

Nàng nhìn Larry. Người đàn ông từng dịu dàng với nàng dưới ánh đèn mờ khách sạn, giờ đây ngồi thẳng lưng, ánh mắt xa lạ, miệng khô khốc. Thi ngập ngừng:

- Tối qua... Em...

Chưa dứt lời, Larry đã đưa tay khẽ phẩy:

- Không có gì xảy ra cả. Tôi không nhớ, và cũng không muốn nhớ. Em cũng nên quên đi.

Thi chết lặng. Không phải vì câu nói ấy lạnh lùng, mà vì nó tàn nhẫn đến không ngờ. Nàng nhìn anh, không tin vào tai mình. Nhưng Larry đã ngước mắt nhìn thẳng, giọng nói như sắt cứng:

- Giữa chúng ta chỉ là sự đồng cảm nhất thời. Ham muốn, nếu em muốn gọi thế. Em đã có chồng. Còn tôi, tôi cũng có gia đình. Vợ tôi sắp chuyển về đây, rất sớm thôi.

Nàng nghe loáng thoáng những chữ như “bàn giao công việc”, “California”, “chúng ta nên giữ khoảng cách.” Nhưng đầu óc Thi giờ đã ong ong như có ngàn mũi kim ghim vào. Nàng ôm đầu, đứng bật dậy. Chưa kịp nói gì thêm, Thi đã lao ra khỏi phòng như kẻ mộng du. Tiếng gót giày nàng vang vội vã trên hành lang lót thảm. Gió ngoài hành lang lùa vào khiến vạt áo nàng bay lất phất, như một vệt mây bạc rơi ngang trời chiều sắp tắt. Larry vẫn ngồi im sau bàn. Đôi mắt nhìn theo khe cửa vừa đóng sập lại. Anh ta đứng lên, bước nhẹ ra hành lang, nhìn quanh xem có ai thấy hay nghe gì không. Chỉ là một buổi trưa vắng như bao buổi trưa khác. Không có ánh mắt nào tò mò. Không có nhân viên nào rón rén ngoài hành lang. Anh trở lại bàn làm việc, kéo ghế ngồi xuống, nhấp một ngụm cà phê đã nguội. Đôi mắt khép hờ, môi mím lại như không muốn nhớ gì. Với anh, đêm qua chỉ là một khoảnh khắc vừa đủ để thỏa mãn, không hơn. Và bây giờ, mọi thứ nên được xếp lại gọn gàng như một tập hồ sơ đã đóng dấu “hoàn tất.” Còn Thi, nàng đang lặng lẽ gục đầu trong chiếc xe nhỏ đậu dưới tầng hầm công ty. Ánh sáng hắt qua cửa kính soi rõ những dòng nước mắt rơi không thành tiếng. Cả thế giới như vỡ nát sau một đêm tưởng là thoát thân, nhưng hóa ra là sa xuống vực sâu không đáy. Nàng muốn được tha thứ, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Nàng muốn quên, nhưng quá khứ đã bám vào người như một vết mực trên lụa trắng, càng cố xóa chỉ càng loang rộng.

Thi lái xe trong vô thức, như kẻ mộng du giữa chiều thu ảm đạm. Không biết bằng cách nào, xe nàng lại dừng dưới chân cầu Trinity, nơi ngày xưa Tú từng dắt nàng đến lần đầu hẹn hò, ngồi bên nhau lặng ngắm dòng nước và chia nhau một ổ bánh mì kẹp thịt mua vội. Cảnh vật vẫn đó, gió vẫn thổi, nước vẫn trôi, nhưng lòng người đã khác. Mọi thứ bỗng trở nên xa lạ như thể nàng chưa từng đặt chân đến.

Nàng mở cửa xe, bước xuống, dáng đi mỏi mệt. Những cơn gió lành lạnh lùa qua vai áo mỏng làm Thi rùng mình. Gió như cắt vào lòng, và những giọt nước mắt từ từ rơi, không cần cố giữ. Nàng khóc, khóc cho lỗi lầm của mình, cho một phút yếu lòng đã đánh mất niềm tin của người chồng thủy chung, và cũng cho sự lừa dối từ người đàn ông mà nàng từng kính trọng.Mỗi bước chân trên mặt cỏ khô như nặng trĩu. Nàng ngẩng nhìn dòng sông đang đổi màu dưới ánh hoàng hôn. Chẳng mấy chốc, mặt nước trong xanh đã nhuốm sẫm một màu tro cũ. Những cơn gió mạnh hơn cuốn theo lá khô lăn lóc dưới chân cầu. Thi co ro quay lại xe, khép chặt cửa, ngồi yên lặng rất lâu trước khi cho xe lăn bánh, chạy chậm rãi về nhà như một người đã cạn hơi sức.....


Tối hôm đó, Tú về sớm hơn lệ thường. Anh muốn tự tay chuẩn bị bữa cơm đơn giản mà ấm cúng để đón vợ về, một chút bù đắp cho lỗi hẹn hôm qua. Tú chẳng giỏi nấu nướng, nhưng anh biết Thi thích món canh chua nhẹ với rau thơm và một ly rượu đỏ nhỏ trước bữa tối. Khi nghe tiếng cửa mở, Tú lập tức chạy ra, đón lấy túi xách trên tay vợ, ánh mắt dịu dàng:

- Anh xin lỗi em nhé. Hôm qua anh có gọi em rất nhiều lần, rồi phải nhờ nhà hàng tìm giúp. Anh biết là anh sai. Cho anh sửa sai, được không?

Thi lặng lẽ bước vào nhà, không nói gì. Không phải vì giận, mà vì nỗi xấu hổ đang ăn mòn từng góc tim. Nàng cảm thấy không còn xứng đáng để đón nhận sự dịu dàng ấy nữa. Thấy nàng im lặng, Tú cố gắng mỉm cười:

- Thôi em đi tắm đi cho khỏe. Anh dọn cơm xong hết rồi. Có cả chai rượu em thích nè.

Thi gật nhẹ, không nhìn anh rồi lặng lẽ bước vào phòng tắm. Nàng đổ nước vào bồn, cho vào vài giọt tinh dầu hoa hồng như thói quen vẫn làm khi mệt. Nhưng hôm nay, hương thơm không giúp nàng thấy nhẹ lòng. Nàng ngâm mình thật sâu, mắt nhắm lại, nhưng tâm trí thì rối bời. Những hình ảnh đêm qua hiện lại, nhòe đi trong làn nước nóng. Nàng thấy mình nhơ nhuốc, thấy mình không còn là người vợ mà Tú từng tin yêu.

Thi đưa tay kỳ cọ thân thể, mạnh đến độ làn da rát lên, như thể có thể gột sạch những sai lầm đã lỡ phạm. Nhưng càng kỳ, lòng nàng càng đau. Từng đợt nước mắt lại trào ra, lẫn trong bọt xà phòng, rồi tan vào nước.

Nàng cứ ngồi đó rất lâu, cho đến khi nghe tiếng gõ nhẹ ngoài cửa:

- Xong chưa em? Ra ăn cơm kẻo nguội. Anh thật lòng muốn xin lỗi em mà, vợ yêu.

Giọng Tú nhẹ, tha thiết, như một sợi dây vô hình níu lấy trái tim đã rạn nứt trong nàng. Thi gục đầu vào đầu gối, môi mím chặt, nước mắt lại lăn dài. “Tú là người đầu tiên, và là người duy nhất trong đời mình…” Nàng thầm nghĩ. “Tại sao lại ra nông nỗi này?”

Một lúc sau, nàng gượng dậy, lau khô nước mắt, mặc lại áo, hít một hơi dài rồi đáp khẽ:

- Em ra liền.

Sau bữa cơm tối ngập ngừng và thiếu vắng tiếng cười, Thi ngồi thẳng lưng, đặt đũa xuống, hai tay đan vào nhau dưới bàn như cố gom can đảm. Nàng ngẩng mặt lên, ánh đèn bàn ăn hắt nhẹ xuống khuôn mặt thanh tú giờ đã tái đi sau một ngày dài dằn vặt.

Với giọng nói nhỏ, đều như sợ chính mình nghe thấy, nàng kể lại, từ đầu đến cuối, câu chuyện đã xảy ra. Không thêm, không bớt. Không màu mè, không một giọt nước mắt nào được phép rơi ra lúc ấy, như thể nàng đã nén tất cả vào trong để giữ lấy chút phẩm giá cuối cùng. Nàng không xin tha thứ. Chỉ xin được ra đi.

Tú ngồi bất động. Trái tim chàng như có bàn tay vô hình siết chặt. Từng tiếng trong lời kể của vợ rơi xuống như từng nhát búa gõ vào thành lồng ngực, đau đến không bật ra được một lời nào.

Ngoài kia, những ngọn gió đầu mùa lay nhẹ màn cửa, vài chiếc lá vàng rơi ngang khung cửa sổ, lặng lẽ như một lời chia lìa không ai cất. Một lúc lâu, rất lâu, Thi mới lên tiếng lần nữa, giọng đã vỡ:

- Em xin lỗi... Nếu anh còn thương em chút nào, xin hãy cho em được ra đi, như một cách để chuộc tội.

Tú vẫn chưa nói. Nhưng mắt chàng đã ngân ngấn. Không phải vì oán trách. Cũng không phải vì giận dữ. Mà vì yêu. Tình yêu của Tú không ồn ào, không là những lời hoa mỹ mỗi ngày, mà là thứ tình lặng lẽ như mạch nước ngầm, luôn chảy trong thâm sâu. Bao năm qua, mỗi bữa cơm, mỗi lần gấp quần áo, mỗi lần lặng nghe Thi cười hay thở dài, là một lần Tú vun bồi yêu thương ấy. Nỗi đau này... không dễ gì nói thành lời.

Chàng đưa mắt nhìn ra khoảng tối ngoài kia, nơi đèn đường hắt lên vài chiếc lá đang lả tả rơi. 

“Có phải tình nghĩa vợ chồng cũng như chiếc lá cuối mùa... rụng xuống là hết?” Chàng thoáng nghĩ, rồi lắc đầu như muốn xua đi ý nghĩ ấy.

Nhìn đôi mắt đẫm lệ của Thi, những giọt lệ không van xin mà rất người, rất thật, Tú bỗng thấy lòng mình dâng lên một thứ xúc cảm không gọi được tên. Không phải sự thứ tha. Không hẳn là thương hại. Mà là một sự thấu hiểu sâu xa, vượt trên cả nỗi đau.

Chàng khẽ siết tay vợ, giọng trầm nhưng vững:

- Em yêu... Nếu phải tìm một người có lỗi, thì có lẽ là cả hai chúng ta. Anh đã quá mê công việc, mà quên mất có một người đang chờ được yêu thương mỗi ngày. Nhưng nếu em còn nhớ trong tim em đã từng có anh, thì hãy để anh được bắt đầu lại... cùng em. Mọi chuyện rồi sẽ qua. Chỉ cần chúng ta còn đủ yêu nhau để nhìn về phía trước.

Thi òa khóc. Không phải tiếng khóc của sự tuyệt vọng, mà là tiếng khóc như vừa được buông xuống một gánh nặng nghìn cân. Nàng nhào vào lòng Tú, tay ôm chặt lấy lưng chàng như đứa trẻ lạc đường vừa tìm thấy nơi trở về. Hai người ôm nhau, lâu thật lâu.

Rồi trong khoảng lặng ấy, từng chiếc hôn được tìm về như những ngày đầu, nồng nàn, run rẩy, nhưng đầy niềm tin. Bên ngoài, đêm cuối thu đã sẫm màu, gió vẫn thổi, lá vẫn rơi. Nhưng căn phòng ấy thì ấm. Không bởi đèn vàng, không bởi chăn gối, mà bởi thứ ấm áp khó gọi tên, tình yêu đã đi qua bão giông, và còn đủ sức để bước tiếp. Có thể, cuộc đời không ai tránh được những giây phút lầm lỡ. Nhưng nếu còn biết cúi đầu, nếu còn người ở lại nắm tay nhau thật chặt, thì tình yêu ấy không phải là uổng phí. Và trong một góc nhỏ yên tĩnh của thế gian, một người đàn ông vẫn chọn tha thứ. Một người đàn bà vẫn còn can đảm để ăn năn. Và cả hai, vẫn còn tin vào một điều, rằng hạnh phúc, nhiều khi, chính là học cách yêu lại người mà ta đã từng yêu.


Sáng hôm sau, trời vẫn còn vương sương mỏng.Những tia nắng đầu ngày chưa đủ sức hong khô giọt lệ đọng lại nơi mí mắt ai kia. Thi thức dậy sớm hơn lệ thường. Nàng ngồi lặng bên cửa sổ, tay ôm chén trà đã nguội, mắt nhìn xa xăm ra vườn sau, nơi những cành cây khẳng khiu đang bắt đầu thay lá. Tú đứng phía sau, không gọi, chỉ lặng lẽ nhìn vợ. Có điều gì đó rất yên trong không gian. Không phải là sự quên, cũng không hẳn là tha thứ trọn vẹn, mà là một thứ bằng lòng dịu dàng đang dần hình thành, giữa hai con người đã đi qua một đoạn chênh chao của đời nhau. Nàng quay lại, bắt gặp ánh mắt chồng, khẽ mỉm cười. Nụ cười ấy tuy còn mệt, nhưng không còn tuyệt vọng. Nàng biết mình sẽ phải học lại cách sống bên người mình yêu. Và sẽ phải yêu bằng sự chân thành, giản dị nhất của một người phụ nữ từng lạc đường mà còn được quay về.

Ngoài kia, gió lại thổi qua thềm. Một chiếc lá vàng khẽ tách khỏi cành cao, lượn một vòng rồi rơi xuống lối nhỏ lát gạch. Không ai để ý đến nó, như không ai buồn nhặt lại một mảnh quá khứ đã cũ.

Chiếc lá vô tình đã lặng lẽ rơi vào quên lãng.


Hoành Phong

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jul/2025 lúc 9:38am

Nắng Bên Kia Sông 













Buổi chiều nắng ngăn dòng sông làm hai phần khác biệt, một nửa bên này nắng đã tắt lịm và một nửa bên kia nắng vẫn lóng lánh một sắc vàng nhợt nhạt trong tiếc nuối. Ngày trước bên kia sông là cuộc sống khốn khó, lam lũ của những người làm nghề chài lưới. Bên này sông là cuộc sống nhộn nhịp rực rỡ hào quang của phố xá đô thị. Người bên này ăn trắng mặc trơn, người kia làn da đen sạm vì nắng gió nên người ta thường thậm xưng: “Con gái quận ba bằng bà già quận nhất.” Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, khi những cây cầu bắc qua sông thay thế cho chiếc sà lan ì ạch lúc nào cũng đầy người chen lấn, vùng đất bên kia sông như vươn mình thức dậy sau một giấc ngủ dài. Những resort, biệt thự, khách sạn thi nhau mọc lên biến một bãi biển với rừng dương liễu đẹp như thơ trở thành thành phố du lịch hiện đại.

Nhà tôi ở bên kia sông, chỉ cách biển vài trăm mét, phải chịu nắng gió của biển mà Út cưng vẫn xinh xắn nõn nà như búp bê trưng bày trong tủ kính. Nhà có 3 anh em, ba mất sớm, chỉ sống nhờ vào quán cháo gà của má. Học hết phổ thông, Út quyết định đi thi đại học ở một thành phố khác xa nhà. Nó muốn biết cảm giác nhớ nhà như thế nào.

Thành phố Út học trong 4 năm đại học chỉ cách có một con đèo mà thời tiết thật khắc nghiệt, nắng thì rát bỏng, mưa thì dầm dề dai dẳng, vậy mà nó yêu thành phố đó lạ lùng. Có lẽ nơi ấy đã lưu giữ thanh xuân và tình yêu đầu đời của nó. Út say đắm gởi tất cả niềm tin vào người yêu cho đến ngày tốt nghiệp đại học, nó đẩy chiếc valy về nhà như xác không hồn. Tình phụ. Và cũng chính trong thời điểm đó má tôi phát bệnh hiểm nghèo. Con bé từ bên kia sông chạy qua ngồi khóc với tôi bên này sông:

- Anh Ba à, em đốt hết những gì của người ấy gởi cho em rồi thả cho nó trôi về biển.

Tôi nhìn con bé mà cảm thấy nghẹn lòng. Em gái tôi quá thật thà nên nó đã nhận chịu tất cả thua thiệt cay đắng về mình.

- Ờ! cuộc đời như dòng chảy, rồi tất cả cũng trôi về biển. Cưng lau nước mắt đi.

Con bé ngước mắt nhìn tôi và quẹt nước mắt vào tay áo y chang ngày thơ bé khi tôi bắt nạt nó.

- Em năn nỉ anh ấy hứa với má một câu thôi, rằng anh ấy sẽ cưới em cho má yên lòng nhắm mắt, rồi sau đó thì sao cũng được, chỉ cần cho má thanh thản ra đi. Vậy mà nhất quyết không.

Tôi lặng người, đàn ông khi say đắm thì dữ dội nhưng khi đã cạn tình thì cũng quá nhẫn tâm.

Má đã tảo tần thức khuya dậy sớm với quán cháo gà nuôi con ăn học. Tôi lập gia đình rồi qua bên này sông để vợ chồng anh Hai cùng má buôn bán sinh sống. Dù không nói ra nhưng tôi và và Út đều muốn thoát khỏi mùi dầu mỡ tỏa ra từ nồi cháo gà hằng ngày đến ngán, thêm vào đó là tiếng gà kêu quang quác vào nửa đêm chập chùng trong giấc ngủ. Đó là lúc vợ chồng anh Hai cùng má cắt tiết gà, nhổ lông, làm lòng gà... rồi chế biến thành món gà nổi tiếng thu hút khách hàng vào ra nườm nượp từ sáng cho đến chiều tối. Đó cũng là nguồn sống cho cả gia đình và tiền ăn học cho hai anh em. Nên dù có ngán ngẫm thì hai em cũng lặng lẽ tìm một quán nước bên bờ sông thư giãn trò chuyện chứ tuyệt đối không than vãn một lời. Cả hai anh em đều thấy thương má và vợ chồng anh Hai nhưng chưa bao giờ hỗ trợ cho họ trong việc buôn bán và dường như họ cũng không yêu cầu như mặc nhiên đó là việc của họ, việc của hai anh em là học hành để thoát ra khỏi cuộc sống mà họ phải sống.

Má không yên lòng nhắm mắt. Đôi mắt má cứ nhìn về hướng có Út. Mắt Út ráo hoảnh, Út nhẹ nhàng vuốt mắt cho má: “Má hãy yên lòng, Út của má sẽ sống thật hạnh phúc”.

Ngày giỗ đầu của má, Út cưng đưa về nhà một chàng trai nhìn vừa quen vừa lạ.

- Anh Ba nhớ bạn này không?

- Hình như là... cu Sóng, ngày trước ở gần nhà mình, học cùng lớp với Út.

Út bật cười, anh chàng đỏ mặt.

- Người ta bây chừ là kĩ sư điện tử rồi mà anh Ba vẫn gọi là cu Sóng.

- Thì lúc nhỏ cu Sóng đến nhà học chung với Út anh vẫn gọi như thế mà.

Từ nhỏ không hiểu vì sao Út chẳng có được một đứa bạn gái mà chỉ toàn là bạn trai, suốt ngày chỉ thấy nó đi theo bọn con trai lộc cộc phơi nắng phơi gió. Cu Sóng là đứa bạn thân nhất của nó, cu Sóng rám đen và chắc nịch đúng nghĩa con dân chài thì Út trắng hồng, môi đỏ thắm chỉ có mái tóc tơ hoe hoe vàng màu nắng. Sóng thường đem đến cho nhà tôi khi thì mớ ghẹ xanh bò lổm ngổm, khi thì mớ tôm mớ cá tươi xanh như mới vớt lên từ biển. Má tìm mọi cách để trả tiền mà nó lắc đầu nguây nguẩy rồi bỏ về, má chép miệng:

- Cá tôm nhà hắn tươi ngon mà ăn hoài thì mắc nợ biết lấy gì mà trả?

Anh Hai đùa:

- Thì má gả con Út cho hắn là xong.

Út giận anh Hai cả tuần không ngó mặt.

Gần 10 năm mới gặp lại, thấy Sóng lạ hẳn. Anh chàng chững chạc, tự tin, không còn vẻ bẻn lẽn nhút nhát ngày xưa đến nhà rủ Út đi học. Những năm khó khăn người dân xóm chài họ rủ nhau vượt biển, ba Sóng lái tàu đánh cá nên việc vượt biển của ông cũng dễ dàng, ông đã đưa cả gia đình ra đi trong trời yên biển lặng. Gia đình Sóng may mắn ổn định cuộc sống nơi đất khách nhưng ba Sóng thì vẫn nhớ biển, ông mất ngủ vì không nghe được tiếng sóng của quê nhà, nên Sóng đưa ông về. Và cũng là cơ hội cho cu cậu đi tìm Út.

Đám cưới Út và Sóng diễn ra nhanh chóng, Sóng hoàn thành thủ tục giấy tờ để bảo lãnh đưa Út ra đi.

Út kể cho tôi nghe về việc nó đi làm nail, lần đầu tiên cầm bàn chân của khách, tay nó run bần bật, nó sợ làm chảy máu người ta kiện nên nước mắt chảy dài trên má, rơi xuống chân khách. Bà khách ngạc nhiên hỏi lý do khóc, nó thú thật, bà khách bật cười bảo nó cứ bình tĩnh làm cẩn thận không sao đâu.

- Ở đâu cũng vậy anh Ba à, hoa cho người giàu, lệ cho người nghèo. Sóng không muốn em đi làm nail, anh muốn em đi học tiếp nhưng em muốn phụ Sóng chi phí cho sinh hoạt, ở đây cái gì cũng đắt đỏ quá.Và em cũng muốn để dành tiền gởi về cho anh Hai chuyển nghề, đừng bán cháo gà nữa, em sợ tiếng gà bị cắt tiết lắm.

Bây giờ thời tiết đang chuyển mùa, không còn cái nóng gắt gỏng hầm hập của mùa hạ nữa, mà trời đất như lơ lửng, lưng chừng không nắng không mưa, và cảm giác bâng khuâng nhớ Út, nhớ má đến cồn cào. Nhớ những ngày này má thường phơi mực trên chiếc nia trước hiên nhà đầy nắng, Út ghiền mực nướng chấm tương ớt thật cay trong những ngày mưa bão... Út gọi cho tôi:

- Gần đến ngày giỗ má rồi mà em không về được, anh Ba thắp hương cho má giúp em.

- Thành phố giãn cách từ tháng 5 đến bây giờ, ai ở đâu ngồi yên ở đó, rào chắn khắp nơi, anh Ba mấy lần chạy thử về nhà mà bị chặn lại Út à.

Tôi nghe tiếng Út “Dạ” thật nhỏ, nghèn nghẹn trong nước mắt.

Thành phố giãn cách hết tháng này sang tháng khác, vậy mà ngày giỗ má may mắn lại hết giãn cách, tôi vội vàng chạy về nhà má bên kia sông. Ngạc nhiên vì quán xá bàn ghế vợ chồng anh Hai dọn dẹp gọn vào góc nhà thay vào đó là cửa hàng tạp hóa.Chị hai lăng xăng đằng sau quầy hàng chỉ chừa đủ khuôn mặt cười với tôi:

- Thức khuya dậy sớm với mấy con gà đuối rồi chú Ba, nhất là dịch giã kéo dài chẳng mua bán gì được, cũng may cô Út gởi tiền về hổ trợ anh chị mở tiệm tạp hóa, bán những hàng nhu yếu phẩm này đỡ lo hơn.

Anh Hai đang thắp hương trên bàn thờ, di ảnh ba má vẫn đăm đắm ưu tư.

Không biết sao dịch giã vậy mà Út vẫn gởi được bánh trung thu về thắp hương cho má, nó vẫn nhớ má thích bánh trung thu.

Tóc anh Hai đã lấm tấm bạc, nước da vàng như nghệ, tự nhiên tôi thấy nước da anh Hai giống má trong những ngày má mới trở bệnh lạ lùng.

- Anh Hai à, anh có khoẻ không?

Anh Hai ngước mắt nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Anh vẫn bình thường mà, hôm qua anh ăn hết nồi chè đậu đỏ chị hai nấu đó.

- Anh thích ăn ngọt từ bao giờ vậy? Anh vốn ghét ăn ngọt mà.

- Ờ thì dịch bệnh tự nhiên anh lại thèm ăn ngọt.

- Sao có mấy tháng không gặp mà em thấy anh gầy và xanh xao quá. Mai em về đưa anh đi bệnh viện kiểm tra lại sức khoẻ nhé.

- Thôi anh bệnh gì đâu, vào bệnh viện lúc này lây nhiễm sợ lắm.

Năn nỉ, dỗ dành, đe dọa mãi anh cũng không nghe, tôi đành dắt xe ra về với ngổn ngang âu lo.

Mùa đông bắt đầu bằng những ngày mưa bão não nề và đoàn người tháo chạy trở về từ phía nam. Có lẽ tôi chưa bao giờ chứng kiến một mùa đông nào thương tâm đến vậy. Sài gòn hoa lệ, hào phóng và bao dung đã không còn an toàn để cưu mang những số phận mưu sinh. Covid đã khai tử nghề bán cháo gà của gia đình tôi rồi mà số phận cũng nghiệt ngã không tha cho anh Hai. Anh bệnh nặng, nằm trên giường không ăn không uống, da bọc xương, nghiến chặt răng để khỏi bật ra tiếng rên la. Anh nhất quyết không chịu vào bệnh viện vì vào đó lúc này rất khó, chỉ nằm một mình, người nhà không vào chăm sóc được.

- Anh không muốn ra đi trong cô độc đâu em à, ở nhà ít ra anh còn có gia đình.

Hoàng hôn lặng lẽ khóc, anh Hai tôi chưa tròn 40 tuổi mà tóc bạc trắng như mây với những vết nhăn hằn trên mắt như mắt mẹ.

Ráng chiều tím ngát chìm khuất trong mây, những giọt nắng cuối ngày thoi thóp bên kia bờ sông rồi cũng tắt hẳn.... Út ơi! anh Hai đã qua sông với má rồi.


Trần Thị Trúc Hạ


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2025 lúc 7:37am

Đôi Mắt Người Thương

 
Hình minh họa

Nó và tôi không xa lạ. Thời sinh viên, tôi là gia sư của anh em nó. Trái với đứa anh, nó thông minh, có cá tính, nhưng ham chơi biếng học. Tôi mất nhiều thì giờ dậy dỗ nên nhớ nó rất rõ.

Sau cuộc biển dâu, gặp lại nhau trên đất khách quê người. Dù nó đã lột xác, tôi vẫn nhận ra.

Thật là thích thú được nghe câu chuyện đời tư của nó.

Tôi chỉ viết lại theo lời kể, không thêm bớt. 

Ghi chú: nhân vật xưng “Tôi” chính là nó. 

                                                *** 

TÀI XẾ VÀ THÁNH NỮ

Tôi là một người Việt gốc Hoa. Nhà tôi có 3 anh em. Trên tôi là anh Hai, hơn tôi gần 2 tuổi. Dưới tôi là gái út, kém tôi 4 tuổi.

Thuở nhỏ, tôi và anh Hai học cùng lớp. Anh sáng dạ, học rất khá. Tôi lười học, chỉ giỏi mầy mò tháo ráp máy móc, thích đánh lộn.. 

Đến tuổi quân dịch, anh Hai nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh buồn lắm, nhìn thấy tương lai mờ mịt, suốt ngày than thở. Thương anh phải bỏ dở chuyện học hành, tôi ngỏ lời tình nguyện đi thay. Tôi và anh hoán đổi lý lịch.

Sau này, dù đáo hạn tuổi, anh vẫn được hoãn dịch, lý do gia cảnh, vì anh trở thành con trai duy nhất còn lại trong gia đình.

Cha mẹ đồng ý.

Phường khóm chỉ biết chúng tôi với những cái tên ở nhà nên khi tôi cầm giấy tờ của anh trình diện, không ai nghi ngờ. Vả lại, anh em tôi nhìn không khác nhau nhiều.

Sau khi mãn khoá quân trường, ông nội lo lót cho tôi về phục vụ trong ban quân xa của một đơn vị ngoại thành.

Một dịp ngẫu nhiên, tôi được điều động đi sửa chữa khẩn cấp xe jeep của một vị sĩ quan cấp tá chết máy khi đang trên đường công tác. Thấy tôi nhanh nhẹn, tay nghề vững chắc, vị sĩ quan rất hài lòng. Mấy tuần sau tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm tài xế cho vị sĩ quan đó. 

Cuộc đời tôi bước vào một ngã rẽ, và số mệnh đã được định đoạt từ đây.

Ngoài công tác lái xe, tôi được ông Tá (tên vị sĩ quan) xem như người nhà. Khi rảnh rỗi, tôi tình nguyện giúp sửa chữa những việc lặt vặt tại tư gia của ông. Thỉnh thoảng được mời ngồi ăn cơm chung với gia đình. 

Ông bà có 4 người con, 2 trai 2 gái. Tất cả đều học trường Pháp. Cô gái lớn tên Sylvie xinh đẹp, có dáng dấp khỏe mạnh tây phương, rất tự nhiên với tôi. Nhưng tôi thì không tự nhiên khi tiếp xúc, có cảm tưởng cô chỉ xem tôi như một gia nhân. Tự ti mặc cảm, tôi chấp nhận, không thắc mắc.

Một ngày nọ, bà Tá bận việc không đón cô tan học như thường lệ nên ông Tá nhờ tôi. 

Hôm đó trời mưa tầm tã suốt buổi.

Chiếc xe jeep nhà binh không có vạt che 2 bên, mưa tạt mạnh vào trong. Trông cô như một tài tử đang diễn cảnh vừa rơi xuống hồ bơi mặc nguyên quần áo, bước lên xe. Run rẩy.

Chiếc chemise trắng và chiếc jupe vàng dán sát làm phông, nổi bật nội y. Lồ lộ một bông hoa đang hé nở. Toàn thân phác họa sẵn những đường nét hình thành một thần vệ nữ tương lai.

Tôi không ướt nhiều mà cũng run rẩy. Mặt nóng bừng bừng, mê man trong cơn sốt ảo.

Chỉ đến khi cô nhắc cho xe chạy tôi mới sực tỉnh. 

Tôi cởi chiếc áo khoác lính đưa cô che đậy. Tránh ánh mắt nhìn hau háu, chiêm ngưỡng, ghen tỵ của những chàng trai qua đường.

Tôi sung sướng suốt mấy ngày. Cười nói huyên thuyên. Chiếc áo khoác tôi treo sát đầu giường, không bao giờ phơi, không bao giờ giặt. Hương thơm phảng phất cho tôi quên hết mệt nhọc sau ngày dài làm việc và ban đêm dìu tôi vào giấc ngủ dễ chịu êm ái nhất. 

Hình ảnh hôm ấy của cô khắc sâu trong tâm trí. Nếu là họa sĩ tôi có thể vẽ không thiếu một chi tiết.


DI TẢN VÀ ĐỊNH CƯ  

Ngày di tản. Dòng người hối hả chen lấn xô đẩy khi chiếc máy bay chưa kịp ngừng hẳn. Tôi xách 2 chiếc vali định trao cho ông Tá rồi trở về nhưng bị chèn ép, không thoát ra được. Bị nhét vào bên trong máy bay, trở thành người di tản bất đắc dĩ. 

Chúng tôi được định cư ở Grand Rapids thuộc tiểu bang Michigan. 

Tại Mỹ, tôi hội nhập dễ dàng hơn gia đình ông bà. Hội nhà thờ giới thiệu tôi và ông Tá làm công nhân trong một xưởng sản xuất phụ tùng xe hơi. Tôi học thêm nghề hàn, sống khá thoải mái. Bà Tá vẫn còn hoài niệm mệnh phụ phu nhân, không chấp nhận lao động chân tay. 4 người con được xếp vào các lớp học theo độ tuổi. 

Trong hãng xưởng có nhiều công nhân Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Buổi ăn trưa chúng tôi thường tách thành nhóm riêng, nói tiếng Việt rôm rã. 

Một hôm, có một thanh niên không hiểu sao sừng sỏ, nói bóng gió, ở VN làm tướng làm tá hách dịch, qua đây thằng nào cũng như thằng nấy, cũng cu li như nhau. Tôi không dằn được cơn giận, định dậy cho anh ta một bài học nhưng ông can ngăn.

Tôi lớn tiếng, ông thầy tôi đã ngã ngựa nhưng vẫn khí khái. Không nề hà công việc nào, miễn là lương thiện, anh phải kính phục hơn là khinh thường. Hơn nữa tuổi của ông ta bằng tuổi cha chú của anh, anh không được hỗn xược gọi ông là thằng. 

Mọi người vỗ tay hoan nghênh, anh ta xấu hổ bỏ đi, từ đó bị tất cả xa lánh. 

Ông Tá lủi thủi bước, cúi mặt, nói với chính mình, “Thằng ông lưu vong ơi, đã đủ nhục chưa?”.

Cô Sylvie bỏ học, theo đám bạn bè cùng lứa, sống bầy đàn khiến ông bà phiền lòng không ít. Ông vốn sống lặng lẽ lại càng lặng lẽ. Tôi là người duy nhất hầu chuyện ông, giúp ông khuây khỏa.  

Có lần ông nói với bà mà tôi vô tình nghe được, phải chi con Sylvie chịu lấy thằng … thì đâu đến nỗi.

Bà trừng mắt nói, ông muốn gả con gái ông cho ai? Cho nó ư? Nó chỉ là thằng lính tài xế!

Ông nhỏ nhẹ, tuy thế nó biết trên dưới, biết lễ độ, biết chí thú làm ăn, không khá hơn cái đám bạn bè ăn chơi của con bà ư?  

Tôi không khỏi suy nghĩ. Tự nhủ, phải quyết tâm tìm chút công danh cho mở mắt với đời. Tôi dành thời giờ buổi tối, ôn luyện chương trình trung học. Sau đó nhờ bà láng giềng tốt bụng hướng dẫn ghi danh học ở Kalamazoo Valley Community College 2 năm và tiếp theo 2 năm nữa ở University of Michigan-Flint. 

Bốn năm học tập vất vả rồi cũng qua. Tôi nhận được văn bằng tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Kỹ thuật Cơ khí. Ông Tá chúc mừng, đãi tôi bữa cơm thân mật. Ông nói với bà:

-Bà thấy chưa? Mỹ là đất nước của cơ hội. Mọi người đều bình đẳng. Có ý chí phấn đấu sẽ thành công. Từ thằng tài xế nó đã trở thành ông kỹ sư. Không tiến thủ, ỷ lại, sẽ bị bỏ rơi phía sau như con gái bà. Đấy! Cô tiểu thư của bà, dân trường tây trường đầm bây giờ có ra gì! 

Bà Tá tỏ vẻ bất cần, không đáp trả.


Tôi tìm được công việc mới, phù hợp với khả năng. Ông Tá thay đổi công việc vài lần rồi tới tuổi hưu trí. 

Mỗi cuối tuần tôi đều rủ ông đi uống cà phê, đi câu cá, đi ăn ngoài hoặc đi gặp các bạn già của ông. 

Ông rất quý mến tôi. Riêng tôi vẫn kính trọng ông như ngày xưa, nói với ông, tôi lúc nào cũng là lính của ông.

Tôi âm thầm theo dõi sinh hoạt của cô Sylvie, vẫn tôn thờ thánh nữ của tôi. Đồng thời cùng chia sẻ sự lo lắng của ông bà Tá. 

Tôi hứa với cô, bất cứ khi nào cô cần đều có tôi, không điều kiện. Những lần cô gọi tôi giúp giải vây đám côn đồ, tôi đều hăng hái. Cô xem đó như là nhiệm vụ của tôi phải bảo vệ cô. Buồn ít nhưng vui nhiều.


ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG  

Những năm sau này tôi nhận ra mắt thường bị khô, cộm. Đôi lúc nhạy cảm với ánh sáng, nhất là với ánh sáng chói. Tôi nghĩ, có lẽ do hậu quả của thời gian làm nghề hàn nên không quan tâm.

Tôi hối hận đã không mua thêm bảo hiểm cho dịch vụ khám mắt định kỳ, ngoài Medicaid của tiểu bang. Nếu được phát hiện sớm tôi đã không lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo.

Cho đến khi thị lực giảm, nhìn mờ. Soi gương thấy có đốm trắng trên giác mạc, tôi hoảng hốt, đến bệnh viện nhãn khoa khám thì tỉnh trạng đã khá nghiêm trọng. 

Bác sĩ chẩn đoán thoái hóa giác mạc nặng, thị lực có thể suy giảm theo thời gian. Nguy cơ mù vĩnh viễn nếu không được điều trị kịp thời. 

Các loại thuốc nhỏ mắt và thuốc nhỏ nước mắt nhân tạo chỉ giúp giảm khô mắt và bảo vệ giác mạc tạm thời.

Hai giải pháp được bác sĩ đưa ra. Hoặc cấy ghép mô nhân tạo bằng phương pháp hiện đại giúp tái tạo giác mạc, hoặc phẫu thuật ghép giác mạc của người hiến tặng. Giải pháp thứ hai có lẽ thích hợp với tôi hơn, nhưng danh sách chờ ghép quá dài, vi hiếm nguồn hiến tặng. 

Tôi được giới thiệu ghi danh tại chi nhánh của tổ hợp “Northwest Eye Surgeons” ở Chicago, với hy vọng rất mỏng manh. 

Tin dữ ập đến với gia đình ông bà Tá. Cô Sylvie bị tai nạn giao thông! Tình trạng nguy kịch. Bệnh viện tiên liệu xấu, khó qua khỏi. Gia đình họp khẩn cấp. Không ai giữ nổi bình tĩnh ngoại trừ ông Tá. 

Tôi nghe tin mà bất lực, mắt đã mờ hẳn, không thể di dịch xa như ý muốn. Cậu em trai của cô chở tôi đến bệnh viện gặp mọi người. 

Cô Sylvie đã chết não. Bà Tá khóc lóc thảm thiết, ôm con nói trong nước mắt ràn rụa, con tôi chết trẻ, chết oan uổng, làm sao có thể nhắm mắt. 

Ông Tá nghe thế, đột nhiên có một ý nghĩ nảy sinh trong đầu. Ông đề nghị hiến giác mạc của cô Sylvie cho tôi để cặp mắt của cô sẽ sống mãi.

Bà Tá không đồng ý nhưng dưới áp lực và lời khuyên chân thành cuối cùng chấp nhận. 

Quá bất ngờ, tôi không kịp suy nghĩ, bất động, cảm kích không nói nên lời. 

Việc lấy giác mạc phải được thực hiện trong vòng 6-24 giờ sau khi người hiến qua đời để bảo đảm chất lượng mô nên xe cứu thương đưa xác cô Sylvie và tôi đến bệnh viện nhãn khoa “Northwest Eye Surgeons” tức thời. 

Cuộc phẫu thuật thành công như mong đợi. Ghép giác mạc là một phẫu thuật ngoại trú. 

Sau khi theo dõi vài giờ, không thấy có nguy cơ biến chứng, tôi đã được xuất viện cùng ngày. Phải giữ băng mắt trong 2 ngày và dán nắp kính bảo hộ khi ngủ, để tránh vô tình chạm dụi mắt. 

Sau 2 ngày thì tháo băng. Không có cảm giác khó chịu và sưng nên tôi lại nhờ cậu em trai đưa về nhà ông bà Tá để cảm ơn tấm lòng nhân đạo bao la của ông bà và cũng để đến trước di ảnh cô Sylvie thành tâm tưởng nhớ. 

Ông bà muốn xem đôi mắt tôi nhưng không được vì vẫn còn mang kính do nhạy cảm với ánh sáng và chảy nước mắt. Chỉ khi thị lực ổn định mới được để mắt trần. 

Điều kỳ lạ, mỗi khi nhìn vào gương, tôi không thấy chính mình, mà thấy hình bóng cô Sylvie. Đôi mắt ấy, cái nhìn ấy – là của cô! 

Mỗi lần nhắm mắt, tôi đều cảm nhận như cô vẫn ở bên cạnh, cười với tôi, nói chuyện với tôi bằng chính đôi mắt đó.

Bà Tá vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận sự thật. Bà không biểu lộ thiện cảm với tôi vì nghĩ tôi không xứng với con gái bà. Nhưng giờ đây, mỗi lần nhìn tôi, bà lại thấy đôi mắt ấy – đôi mắt của cô Sylvie, trong veo mà day dứt. 

Có lần bà buồn bã nhìn tôi, chợt hỏi: 

– Dạo này… con có nhớ Sylvie nhiều không? 

Tôi sững lại. Bà chưa từng gọi tôi là “con”. Tôi khẽ gật đầu:

– Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút bà ạ. 

Bà Tá im lặng nhìn tôi. Gọi tôi là con nhưng có bao giờ bà xem tôi như con đâu. Giờ đây, từng ánh nhìn, từng cử chỉ của tôi đều gợi cho bà hình bóng cô Sylvie. Có lẽ, định mệnh đã sắp xếp để chàng trai này cùng chung sống với một phần cơ thể của con gái bà.

Một buổi chiều muộn, tôi ghé thăm nhà. Ông Tá ra mở cửa, vỗ nhẹ lên vai tôi, vẫn ánh mắt ấm áp: 

– Vào đi con, lâu rồi sao con không tới ăn cơm với gia đình?

Căn nhà từng đóng kín cửa vì nỗi đau mất con, hôm nay lại mở rộng với tôi. Bước vào, thấy trên bàn thờ di ảnh cô Sylvie, rạng rỡ như ngày nào. Tôi khẽ cúi đầu, thì thầm trong lòng:

-Cô…, cô vẫn đang đồng hành củng tôi trên con đường đời, đúng không? 

Ngoài hiên, gió nhẹ lay lay những chùm hoa giấy, nghe như tiếng động gật đầu. 

Từ ngày bước vào căn nhà của ông bà với tư cách một người thân, tôi dần quen với sự hiện diện của bà và ông trong cuộc đời mình. 

Bà Tá vẫn không thể gọi tôi là “con rể”, nhưng sự quan tâm của bà dành cho tôi không khác gì mẹ lo cho con. 

Bà kín đáo quan sát tôi. Mỗi lần đến thăm, bà đều cho tôi thưởng thức những món ăn Sylvie từng thích. 

Đôi khi bà hỏi han chuyện công việc của tôi, rồi chuyện nọ chuyện kia. Nhắc nhở tôi giữ gìn sức khỏe.


Tôi không biết từ khi nào tôi đã trở thành một thành viên của gia đình ấy. 

Mỗi khi ở bên ông bà, tôi cảm thấy gần cô Sylvie hơn, như thể cô vẫn hiện diện đâu đây, qua từng món ăn, từng bức ảnh, từng kỷ niệm nhỏ mà mọi người kể lại.

Sau ca ghép giác mạc, tôi phát hiện ra một điều lạ lùng. Đôi mắt tôi không chỉ giúp tôi nhìn rõ hơn mà dường như còn chứa đựng một phần ký ức. 

Có những lúc mơ màng, mơ mà như thực. Tôi thấy mình lái xe dưới cơn mưa tầm tã đón cô ở cổng trường, thấy bàn tay mình cầm một cuốn sổ nhỏ với những dòng chữ quen thuộc tôi chưa từng viết.

Một đêm nọ, tôi giật mình tỉnh dậy, tim đập thình thịch. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang đứng trước gương, nhưng khuôn mặt phản chiếu không phải của tôi, mà là của cô. Cô cười vui, hàm răng trắng bóng, ánh mắt tràn đầy yêu thương. 

– Cô vẫn ở đây, bên tôi, đúng không? Tôi lẩm bẩm, nhìn chằm chằm vào gương.

Đôi mắt trong gương loé lên ánh nhìn linh động. Không có tiếng trả lời, nhưng tôi có cảm giác như cô đang mỉm cười với tôi qua chính đôi mắt ấy. 

Tôi không kể điều này với ai. Tôi sợ nếu nói ra, người ta sẽ bảo tôi bị bệnh hoang tưởng. Dần dần cảm giác đó không ám ảnh nữa. Nó trở thành một sự hiện hữu quen thuộc, một niềm an ủi đích thực. 

Tôi không còn thấy cô đơn, vì biết rằng cô vẫn ở bên tôi, theo một cách đặc biệt.


Bà Tá lúc đầu vẫn giữ khoảng cách với tôi, nhưng càng ngày, bà càng thấy hình ảnh của chính con gái mình rõ nét hơn trong từng ánh mắt, từng cử chỉ của tôi. 

Bà lặng lẽ nhìn tôi chăm sóc chậu hoa giấy con gái bà từng yêu thích, thấy tôi cẩn thận lau chùi từng món đồ kỷ niệm của Sylvie, thấy tôi thỉnh thoảng lặng người nhìn về phía bàn thờ, như đang trò chuyện với cô.

Một hôm trong bữa cơm, bà bỗng giật mình, dí sát, nhìn vào mắt tôi, rơi cả đũa. Ảo giác khiến bà lạc giọng: 

– Đúng rồi! Đúng đứa con gái bé nhỏ của mẹ đây rồi! Con tôi đã trở về! Con tôi! Mẹ đã thấy con trong đôi mắt con. Mẹ…mẹ muốn…cho mẹ ôm con vào lòng…

Bà giang hai tay ôm một chiếc bóng vô hình rồi hôn lên mắt tôi. Bà nếm những giọt nước mắt lăn dài mà tôi không biết chảy từ lúc nào. 

Bà nói trong nước mắt:

-Cứ khóc đi con! Mẹ và con cùng khóc ! Những giọt nước mắt hạnh phúc của hai mẹ con mình! 

Qua cơn xúc động, bà trìu mến hôn lên mắt tôi một lần nữa:

-Hay là con dọn về ở đây đi. Mẹ muốn thấy con của mẹ mỗi ngày. 

Rồi giọng bà mềm đi:

–Ừ!, mẹ biết… con thương Sylvie. Con hãy xem nơi này như nhà nghe con. 

Tôi nghẹn lời. Đã vài lần bà gọi tôi là “con”, nhưng lần này gọi con xưng mẹ một cách tự nhiên. Cảm giác nhận được chân tình của bà tràn ngập trong lòng, tôi khẽ gật đầu.

Từ hôm đó, tôi qua lại nhà ông bà hàng ngày. Tôi chăm sóc họ như cha mẹ mình, còn họ xem tôi như con trong gia đình. Bà không khách sáo, mà dần chấp nhận sự thật. 

Bằng tâm linh, con gái bà vẫn tiếp tục sống trong thế giới này, với đôi mắt ấy, thông qua chàng trai trước mặt bà. 

Thời gian trôi qua, tôi vẫn không yêu ai khác. Trong lòng tôi, cô chưa bao giờ rời xa. 

Tôi vẫn giữ thói quen đi dạo trên những con đường cô từng đi, vẫn giữ quyển sổ nhật ký của cô bên mình, dù chưa một lần mở ra. Tôi sợ biết những điều không muốn biết.

Một buổi chiều, khi đang ngồi bên hiên nhà ngắm nhìn hoa giấy bay trong gió, bà Tá chợt hỏi: 

– Con vẫn không định tìm một ai khác sao? 

Tôi mỉm cười lắc đầu. Không cần phải nói gì thêm, vì bà đã hiểu. 

– Thôi được rồi… Bà thở nhẹ, không còn băn khoăn như trước. Dù sao thì, con vẫn là con của gia đình. 

Tôi nhìn bà, cười tươi. Tôi biết, dù cô đã không còn, nhưng tôi thay chỗ cô trong gia đình, vẫn cùng cô đi đi về về. 

Và dẫu cuộc sống có ra sao, tôi vẫn luôn mang theo đôi mắt người thương, để nhìn thế gian này bằng ánh mắt của cô, để yêu thương mọi thứ theo cách cô từng yêu thương. 

Hoàng hôn buông xuống, nhuộm vàng cả khung trời. Qua làn gió thoảng, dường như có ai đó đang cười bằng mắt.

***

Đồng cảm, người viết gửi tặng người trong truyện mấy câu:

Một đôi mắt, nhập hai tâm hồn,

Vui buồn cười khóc với thế nhân.

Sống-chung đời-lòng thề không đổi,

Nhắm mắt cùng nhau lúc lìa trần.

 

Nguyễn Cát Thịnh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Jul/2025 lúc 10:22am


ICS%20Center

Nhìn các con tôi được sanh ra và lớn lên ở đất nước thứ hai đã xong đại học, cả ngày bôn ba, ban ngày đi làm, chiều về làm cơm nước lo gia đình con cái, tối lại lấy thêm course để kiến thức được luôn cập nhật, làm tôi chạnh nghĩ đến cuộc đời mình đã từng như thế trong suốt mấy chục năm qua.


Mới đó, một chớp mắt đã 40 năm ở xứ người mà tôi cảm thấy thân quen hơn quê hương thứ nhất nơi chôn nhau cắt rốn; 40 năm chưa một lần tôi quay trở về thăm nơi ấy, vì ba tôi, chú tôi, những người anh và các bạn tôi một thời sống ở chính nơi mình được sanh ra, đã bị bắt bớ, tù đầy mà không biết vì tội tình gì! Nay kẻ chết, người thành phế nhân…

Tuy nhiên, nền văn hóa Việt và truyền thống đạo đức đẹp đẽ Á Đông vẫn mãi chảy trong huyết quản của tôi.

Một cuộc tình không đoạn kết mãi mãi ghi dấu ấn trong trái tim tôi, đã chôn vùi tận sâu trong lòng, hôm nay bỗng hiện về:

Tôi bắt đầu làm ngân hàng Montreal ở tuổi 26 khi vừa ra trường 1990.

Tôi nhớ ngày đầu tiên, họ dắt tôi vòng quanh xuống basement của một tòa nhà hai tầng thật to và bề thế, lối vào là một sảnh rộng, sàn làm bằng ceramic trắng bóng loáng, soi thấy cả bóng dáng người. Bên trái sảnh là một giàn sáu cô tellers tiếp khách, rút và bỏ tiền vào công, cuối gian phòng cô thư ký ngồi cho bất kỳ câu hỏi nào của khách.

Công việc của tôi là xếp những tấm séc của khách hàng theo thứ tự của số tài khoản, thuở ấy, chưa có máy móc nên tất cả phải xếp bằng tay, chỉ ngồi xếp chi phiếu theo thứ tự thôi, cần đến ba người vì cả ngàn tấm, kế đến phải dò trên hồ sơ nhận từ head office mỗi sáng, chi phiếu nào bắt buộc hai chữ ký vì tài khoản hai người đứng tên, hoặc account nào bị vấn đề, phải đem tấm séc đó so sánh với chữ ký trên hồ sơ chính lần đầu mở tài khoản…

Những công việc này kéo dài hết hơn nửa ngày; sau đó chúng tôi mới ngồi vào máy bấm những tài khoản để rút tiền từ những tờ chi phiếu đó. Việc này tuy là thấp nhất, nhưng đòi hỏi rất nhiều sự tập trung chú ý, vì nếu bấm vào máy lộn một con số thì Nợ và Có sẽ không cân bằng, phải mất rất nhiều thì giờ để coi lại từng cái check với từng con số đã bấm vào máy.

Nhóm chúng tôi gồm 6 người, ba người xếp chi phiếu, hai người bấm máy, một người chạy việc phụ bên ngoài như coi hồ sơ, dò chữ ký… và xoay tua vào mỗi hai ngày.

Tôi học việc rất nhanh, hòa đồng với mọi người; làm được hai năm thì tôi nghỉ một năm sanh con, rồi trở lại làm việc. Vì công việc đã quá quen đến thuộc lòng, tôi định bụng sẽ thi lên một chức vụ mới.

Giờ cơm trưa được một tiếng, cả đám ngồi quây lại với nhau ăn uống, đứa nào cũng đem bánh mì sandwiches với trứng hay jam, chỉ mỗi mình tôi thường đem bún với thịt và rau để ăn cho nhẹ bụng, khi hâm lên mùi thịt xào hành tỏi bay khắp bếp. Từ đó ai cũng để ý đến tôi, và cũng chỉ có mỗi mình tôi là người Á Châu làm việc trong ngân hàng giữa những người tóc vàng và nâu. Chúng tôi nói chuyện với nhau thật rôm rả, ai cũng kể hoàn cảnh gia đình mình ra sao, rồi chia ăn thử đồ ăn của nhau, nhất là món ăn của tôi ai cũng muốn thử!

Thói quen của những người Tây phương là chỉ rửa bát vào cuối ngày, khi bồn đầy chén dĩa, chứ không như người Á Đông, rửa ngay và úp chén cho sạch sẽ. Bữa trưa hôm đó, chén bát bày bừa, tôi thấy khó chịu nên tự ý đi rửa để có cái sạch cho tốp sau vào ăn, từ một giờ đến hai giờ trưa thường là những cấp bậc cao như cố vấn, chuyên viên, giám đốc… Phần lớn hôm nào cũng chỉ một mình tôi đứng rửa bát và xếp vào tủ thật ngăn nắp vì như đã nói ở trên tôi làm việc rất nhanh vì thạo việc nên không cần nhiều thì giờ lắm.

Hôm nay vì chén bát hơi nhiều, tôi rửa mãi vẫn chưa hết, cho đến hơn một giờ, tôi nghe tiếng nói trầm ấm của người đàn ông vang lên sau lưng:

-Cô LiLy siêng năng quá!

Tôi quay lại bắt gặp Martin, giám đốc phân khoa cố vấn, tôi niềm nở chào :

-Chào anh, anh khỏe chứ?

Martin đứng bên cạnh tôi, tay cầm hộp cơm đem từ nhà, định hâm lại:

-Mình làm cùng một nhà băng, mà chẳng bao giờ có thì giờ nói chuyện với nhau, lâu lâu gặp nhau ngoài cửa hoặc vào những buổi họp, tôi chỉ biết nhóm các cô làm việc rất tốt, cho chúng tôi một hậu thuẫn rất đắc lực, nhờ nhóm làm việc cẩn thận nên khách tôi rất hài lòng, gởi lời khen đến các cô đấy.

-Anh đã quá khen thôi; chúng tôi chỉ làm việc theo yêu cầu của khách hàng, khi làm việc phải rất thận trọng, kỹ lưỡng, cũng muốn ngân hàng mãi giữ vị trí số một của Montreal chứ…. Vả lại công việc này tôi đã làm được ba năm nay rồi, nên rất rành, đến thuộc luôn những tên của khách “xộp”.

-Hôm nay tôi mới có cơ hội gặp cô để nói tiếng cám ơn… và đến cả nhóm cô luôn.

-Chúng tôi thường xuyên làm việc dưới basement nên chỉ biết các vị giám đốc, cố vấn … trên list tên của sở, chưa bao giờ được gặp trực tiếp và nói chuyện như vậy…. Hôm nay vì phải rửa đống chén này nên mới có dịp gặp anh!

-Oh mà sao không có ai giúp… em rửa hết vậy? họ ăn xong là bỏ đi hết như vậy sao?…thật bậy quá!

Anh ta lục lọi xung quanh chỗ tôi đứng, lôi ra một cặp găng khác, đeo vào tay và cùng giúp rửa với tôi. Tôi vội vàng xô nhẹ anh ta ra, nói:

-Anh hãy đi ăn cơm trưa đi, không đói hay sao mà đứng rửa chén chứ?… Coi chừng xỉu vì cái bụng rỗng đấy!

Chàng cười vui, để lộ hàm răng trắng đều:

-Tôi cũng muốn được hàn huyên với em một chút đó mà, chén không còn nhiều nữa, hai người rửa sẽ mau hết thôi.

Lần đó tôi mới biết người ta thường nói đàn ông tây phương ga-lăng quả là không sai. Martin vừa rửa chén, rồi lau và xếp vào tủ rất nhanh và thành thạo, còn khoe thành tích :

-Hồi tôi học trung học, đã từng đi làm ở những restaurant rồi nhé, từng khiêng đồ ăn, lấy menu, và rửa bát rất rành, đừng chê tôi đấy!

-Tôi đâu có dám chê, mà ngược lại, phục anh quá, thấy anh rửa là biết người có kinh nghiệm rồi, không có anh giúp thì chắc tôi phải đứng đây thêm nửa tiếng nữa đấy…Lại trễ giờ làm việc!

-Hôm nay nhóm em có nhiều công việc không?

-Cũng không nhiều lắm, chúng tôi rất quen và thạo việc nên cũng không bận lắm.

-…Ah mà em đã làm công việc này bao lâu rồi nhỉ? Nếu hơn hai năm rồi thì nên đổi việc đi!…Có thích công việc đầu tư không? …Nói chuyện với khách, cố vấn họ đầu tư vào loại nào…Em hãy gởi resume cho tôi, phân khoa chúng tôi đang cần người đó!

Chàng như đọc được ý định của tôi.

-Chắc chắn là tôi thích đổi việc rồi, mà …có nhiều người thi vào công việc này không?

-Khoảng vài người thôi, em cũng rất có cơ hội mà, đừng sợ nhé, hãy tự tin chứ!

Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt Martin, giữa bóng tối của gian bếp, cặp mắt trong xanh lơ của anh ta thật sáng và đầy cảm tình, cho tôi thêm sự tự tin, chàng lập lại :

-Đừng lo, làm việc với tôi em sẽ tràn đầy năng lượng mỗi ngày…

***

Martin đã hỏi về cách làm việc của tôi rất nhiều qua giám đốc trực tiếp, nghiên cứu resume, nói chuyện với bà giám đốc nhân sự, ai cũng nói tôi rất chăm chỉ, có trách nhiệm và vui vẻ hòa đồng với mọi người.

Chức vụ đó có 4 người thi vào, tôi thật sự rất lo vì ngoài trình độ học vấn không kể đến, họ cùng là người bản xứ, cùng suy nghĩ và tiếng nói với nhau, lẽ nào lại chọn tôi? một người gốc Á, tỵ nạn ở nước họ chưa được bao lâu!… Thôi kệ cứ thi đại cho có kinh nghiệm.

Niềm vui vỡ òa khi một tuần sau đó tôi nhận được email người trúng tuyển vào chỗ trống đó là tôi! Các bạn dưới basement ôm hôn tôi và chúc con đường sự nghiệp của tôi được thăng tiến, nhiều may mắn. Tôi biết mình sẽ xa nhóm bạn cũ, nên trưa nào ăn cơm xong, tôi cũng đứng rửa bát cho mọi người, đến nỗi anh bạn Mario khuôn mặt rầu rĩ nói:

-Sau này cô sẽ bận làm việc lắm, sẽ không có thì giờ xuống dưới đây ăn cơm với tụi này đâu, cô sẽ phải ăn cơm với khách, với các giám đốc …nên bây giờ cứ rửa bát để nhớ đến chúng tôi đi!

Suzy cũng buồn buồn nói lời chia tay dí dỏm với tôi:

-Không biết sau này nhà bank có tìm được ai dễ thương giống Lily không nữa, vừa giỏi việc làm lại siêng năng rửa bát giúp tụi mình…

-Sẽ không còn người nào giống vậy nữa đâu!

Tôi ôm hôn từng người, từ giã họ để rời lên lầu hai làm việc, hứa sẽ xuống thăm mọi người khi có dịp.

***

Martin là giám đốc trực tiếp của tôi, chàng dành cho tôi một phòng làm việc ngay đối diện với phòng chàng, phòng tuy không rộng lắm, nhưng hai bên tường toàn bằng kiếng nên buổi sáng ánh nắng ấm áp chan hòa tràn vào cả phòng, tôi có thể thấy được những người khách đến từ sảnh chính dưới nhà.

Ngay khi bước vào phòng làm việc mới của tôi, đập vào mắt là một bức tranh vẽ bằng mực tàu núi non, có đồng cỏ và ruộng bậc thang, những đường nét đậm lạt cho thấy được không gian đa chiều và có cảm giác nhẹ nhàng thư thái. Tôi được biết bức tranh này do chính tay Martin đã chọn và nhờ người treo lên, tôi trang trí thêm cây trầu bà leo trên đầu tủ sách, hy vọng nó mang đến sự bình an và may mắn trong công việc.

Mỗi sáng, tôi phải xem trên list những khách hàng bỏ tiền vào trương mục của họ, một số tiền trên 10 ngàn đô, xuất xứ từ đâu, với mục đích gì; bấm vào tài khoản của người ấy, xem tất cả mọi dịch vụ của họ có đầy đủ chưa, nếu thiếu dịch vụ nào thì phải phone đến lấy hẹn với khách để mời chào họ, ngoài ra phải có đầu óc nhạy bén nhận biết người này nghề nghiệp gì, hoàn cảnh gia đình ra sao để giúp đỡ họ sâu sát hơn, tạo cho họ một niềm tin vào đội ngũ chúng tôi, lôi cuốn thêm gia đình, bạn bè…

Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiệm của Martin, nhóm chúng tôi gồm bốn người, giám đốc, cố vấn đầu tư, cố vấn cho vay tiền, và một người cho dữ liệu vào máy, chúng tôi làm việc phối hợp nhịp nhàng, lấy hẹn với khách, trình bày đầy đủ mọi chi tiết dịch vụ…nhóm chúng tôi là nhóm đầu tiên của ngân hàng nhận thêm một lượng khách lớn với khối tài sản khá cao.

Sau ba tháng cùng làm việc, sáng nào vào phòng dù sớm hay trễ, tôi cũng thấy ly cafe nóng hổi được pha sẵn với hai gói đường và sữa nhỏ bên cạnh. Lúc đầu tôi tưởng cả nhóm ai cũng được ông giám đốc để mắt lo cho, nhưng khi nói chuyện với họ thì mới biết chỉ có mình tôi được chàng « tốt bụng » thôi.

Có lúc đang bận rộn dán mắt vào màn hình xem từng trương mục của mỗi người khách trên một list dài, chợt khi ngước mặt lên, tôi thấy từ bên kia phòng đối diện, Martin đang ngồi nhìn tôi chăm chăm với một nụ cười đầy ẩn ý, mắc cỡ, cúi xuống, gục đầu vào máy mà trong lòng tự hỏi « tại sao ông ấy lại nhìn mình hoài thế kia! »

Buổi trưa mọi người đi ăn, tôi ngồi nán lại cho xong một hồ sơ, tôi nghe tiếng chân nhẹ của ai đó bước vào phòng, thì thầm :

-Tôi … mua đĩa bún với thịt này ở nhà hàng Việt gần đây, em ăn thử xem gu của họ có ngon như của em làm không nhé…Hãy ngừng tay nghỉ ngơi đi, đừng làm quá sức, còn nhiều ngày ở phía trước mà!

Khi tôi quay đầu nhìn ra, Martin đã để đĩa cơm ở góc bàn, khép cánh cửa phòng nhẹ lại để cho tôi biết ngừng công việc và ăn cơm.

Trong một tuần lễ, mỗi nhân viên phải ở lại một ngày trễ vào buổi chiều đến 8 giờ tối, Martin luôn tìm cách ở lại với tôi để cho tôi quá giang về nhà, nhất là khi trời mùa đông lạnh tuyết và trời tối nhanh.

Chàng rất hiểu hoàn cảnh tôi có hai con nhỏ, nhà trẻ đóng cửa vào giữa mùa hè, tuần gần cuối tháng bảy đến nửa đầu tháng tám, những nhân viên làm thâm niên thường hay lấy hè vào lúc này để được nghỉ hè cùng gia đình. Theo quy định ngân hàng chỉ cho phép hai người nghỉ cùng một thời gian thôi, nhưng chàng dùng « uy quyền » giám đốc cho phép tôi lấy ba tuần liên tiếp nghỉ ở nhà trông con vào thời gian nhà trẻ đóng cửa này; có lúc chàng còn nói với tôi :

-Có tôi ở đây, em hãy hưởng mọi đặc ân mà tôi có thể cho phép được… Đừng ngại!

Tôi chớp mắt tỏ lòng cảm ơn:

-Tôi thật may mắn gặp anh, anh đã nhận tôi vào chức vụ này, tạo điều kiện cho tôi học hỏi thêm, quen biết với nhiều người trong giới ngân hàng, những vị chức cao, cấp liên bang, tôi rất biết ơn!

-Đừng nói thế, nếu không có tôi, em cũng sẽ biết họ thôi, làm ở nhà bank em phải đi họp với họ mà… Làm việc với em, tôi rất thích, tôi cũng được học ở em rất nhiều thứ, mà điều quan trọng nhất là tính cẩn thận và sự khiêm tốn; đừng nói là em mang ơn tôi nhé, mà ngược lại đấy thôi.

Mỗi lần nói chuyện với tôi, chàng nhìn thẳng với đôi mắt trong xanh lơ, tôi có thể nhìn thấy tận đáy tình cảm của chàng dành cho tôi, như một thứ duyên lành câm nín không có dụng ý nào khác, giúp tôi bằng mọi cách, đem lại cho tôi nhiều lợi lộc là niềm hạnh phúc của chàng.

Những buổi tối cho tôi quá giang về, chàng kể về vợ và con trai, trạc bằng con tôi, vợ chàng là người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, ít hiểu nhau vì hai người lập gia đình hơi vội. Trước đó chàng có yêu một cô gái người Nhật, nhưng gia đình cô gái ấy không chấp nhận, cô phải vâng lời cha mẹ, lập gia đình với một người cùng xứ; mối tình đầu tan vỡ đã làm chàng suy sụp và hạnh phúc không trọn vẹn khi lấy người sau này do tình cờ gặp nhau trong một quán bar.

Tôi rất thương cảm những lời tâm sự chân tình của giám đốc, dốc lòng làm việc và trả ơn bằng những kết quả thât khả quan.

Luôn nhủ thầm là người phụ nữ Á Đông, dù xã hội có thay đổi nhưng thấm nhuần sự giáo dục của gia đình, tôi vẫn giữ gìn phẩm hạnh, tôn trọng giá trị gia đình như một cốt lõi đạo đức.

Tôi nhớ nhất vào ngày Giáng Sinh năm 2000, ngân hàng chỉ mời nhân viên thôi, không mời người phối ngẫu tham dự như những năm trước, để tất cả được nhảy nhót, vui chơi hết mình với nhau. Tổ chức ở một nhà hàng lớn sang trọng vùng Laurentide cách Montreal một tiếng rưỡi, khi xe chúng tôi chỉ còn cách nhà hàng chừng một cây số, hai bên đường được trang trí bằng những dây đèn vàng đỏ lấp lánh, hòa với những hạt tuyết trắng lấp lánh trên những hàng thông, có tiếng nhạc réo rắt, tạo thành một cảnh quang vô cùng ngoạn mục như đường vào thiên thai.

Bữa đó là ngày thứ sáu, chúng tôi làm xong lúc 4 :00 chiều, phụ nữ thay quần áo dạ hội, đàn ông mặc tuxedo, đi xe cùng nhau thẳng đến đó; tôi nhớ như in, chàng đã uống khá nhiều như muốn bỏ hết mọi chuyện buồn gia đình sau lưng, muốn vui chơi với các bạn trong công sở hết mình.

Khi tiếng nhạc valse nổi lên, chàng đã nghiêm trang ra trước mặt tôi, hạ người xuống thấp với một tay để sau lưng và một tay đưa ra phía tôi một cách rất lịch sự, mời tôi nhảy bản valse đầu tiên.

Tôi rụt rè và hơi chùn bước, ánh mắt chàng lấp lánh, trong xanh như vì sao đêm, chàng thì thầm bên tai :

-Hãy nhảy với anh… sẽ chẳng còn cơ hội nào khác nữa đâu!

Trái tim tôi thôi thúc, tôi nhận lời, để bàn tay mình vào bàn tay ấm áp của chàng, chàng siết nhẹ lấy tay tôi, kéo ra sàn, chúng tôi không nói với nhau một lời nào, chỉ say sưa đắm đuối nhảy với tất cả trái tim, phút giây ấy như chỉ có hai chúng tôi, gia đình và con cái không còn tồn tại trong đầu óc nữa; qua đó tôi hiểu chàng đã giành cho tôi một thứ tình cảm rất sâu đậm mà không thổ lộ được!

***

Những ngày tháng tiếp nối theo, năm này sang năm khác, thoáng một chốc bốn năm, chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc chăm chỉ và đầy nhiệt huyết, chỉ tiêu của nhóm bao giờ cũng đạt hàng đầu, làm chàng thật vui và hãnh diện là đội tiên phong, lập nhiều công trạng nhất cho ngân hàng, cả nhóm tôi đều được hưởng những « bổng lộc » đặc biệt của nhà bank, dưới sự lèo lái tích cực của chàng; mỗi lần được thưởng bonus, chúng tôi lại kéo nhau đi ăn ở một nhà hàng khác nhau, nổi tiếng, để cả nhóm có thể nếm được những món ngon vật lạ của các nước trên thế giới.

Có những lúc làm việc căng thẳng, tôi nhìn sang phòng thấy chàng gục đầu xuống bàn, hai tay ôm lấy thái dương, mặt nhăn nhó, tôi text cho chàng :

-Anh hãy đi khám bệnh xem có bị gì không nhé, độ này thấy anh có vẻ mệt mỏi lắm!

-Chắc làm việc nhiều quá thôi, anh bị migraine từ nhiều năm nay rồi, khó ngủ nữa.

Tôi tiếp tục làm việc trên máy đến giữa trưa, bỗng nghe một tiếng « rầm » như ai bị té xuống đất! Hốt hoảng, vội đứng lên nhìn qua phòng đối diện, giám đốc mặt nhăn nhó, hai tay ôm lấy đầu, mồ hôi vã ra như tắm, chàng gục xuống bàn quằn quại, sắp té xuống đất, xô đẩy lọ đựng viết, bình hoa rớt xuống sàn nhà vỡ toang, rên rỉ :

-Nhức đầu quá! … tôi…tôi…

Tôi vội chạy bay qua phòng chàng, lo lắng gọi khẽ :

-Martin! Martin… anh có sao không? Có cần gọi ambulance không?

-Ôi nhức quá!… nhức…

***

Ba ngày sau, khi bước vào nhà thương, mùi ether nồng nặc, chúng tôi được chỉ lên lầu ba, phòng 304B, tầng này dành riêng cho những người bị bệnh thần kinh, óc não…Tôi thấy những người bệnh mặc những chiếc áo màu xanh lơ dài xuống dưới tận chân, đầu tóc rối bù, những cặp mắt vô thần, đôi môi xám ngoét, tay bị chích bởi những dây nhợ chằng chịt, kéo lê theo những bình nước biển, yên lặng di chuyển qua lại ở hành lang, họ có vẻ từ trong giường mới ra cho đỡ mỏi vì đã nằm lâu quá.

Vừa bước vào phòng giám đốc Martin, đầu chàng quấn băng trắng muốt, đôi mắt khép chặt, bàn tay phải bị chích một chai nước thuốc, vợ chàng ngồi ở ghế bên cạnh, trên bàn bình hoa glaïeul tươi đẹp làm át đi mùi khó chịu của nhà thương, nàng đang cắt cam để sẵn trên bàn, nàng ra dấu cho chúng tôi đi ra ngoài để cho chồng nàng tiếp tục được ngủ yên lặng.

Ra đến ngoài, Clara, vợ của Martin òa khóc nức nở, giọng run run kể cho chúng tôi nghe :

-Bác sĩ báo… báo… Martin bị cancer não, khối u đã lấn chiếm rất to, khó có thể cắt đi được, đôi mắt đã …mù 70% vì bị khối u chắn ngang tầm nhìn, mạng sống của anh ấy có thể tính theo ngày thôi! Hôm nay các bác sĩ đã mổ, chàng đang trong trạng thái bị say thuốc mê… Tôi không biết sẽ sống như thế nào đây… nếu…

Chúng tôi bàng hoàng ôm lấy Clara, đau xót, tôi không giữ được nước mắt, thấy cả người run lên bần bật, muốn té xuống đất, một con dao vô hình đâm thẳng vào tâm hồn, tôi đau cùng một nỗi đau với nàng, chàng còn quá trẻ để …giã từ cuộc sống này! Tại sao chuyện lại xảy ra nhanh như thế? Chàng đã hại ai? Đã làm gì sai để bị trừng phạt như thế chứ? Tại sao những chuyện không may lại xảy đến với người tốt vậy chứ! Trái tim tôi như nổ vỡ, tung ra khỏi lồng ngực!

Tin dữ này được Clara báo cho giám đốc phòng nhân sự, cả ngân hàng ai cũng chết lặng vì Martin là một giám đốc rất nhiệt tình, sôi nổi và làm việc rất hăng hái, đem nhiều tiền và lợi ích cho nhà bank.

Từ ngày không thấy bóng dáng chàng ở phòng đối diện, tôi như người mộng du, đôi mắt luôn hướng về nơi ấy; căn phòng thật trống trải, chiếc ghế da cao đầu được xếp quay vào bên trong, lưng quay về phía phòng tôi, có cảm giác như chàng vẫn ngồi ở đó, nhưng bóng lưng ấy sẽ không còn bao giờ quay lại nhìn tôi mỉm cười, đưa ngón tay cái lên động viên tôi nữa, sẽ chẳng còn ai như anh, chẳng còn cái cười nửa miệng, ánh mắt như nói với tôi vạn điều…

Tôi đem trả lại tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ mà chàng đã mua tặng tôi khi chúng tôi cùng nhau đi gặp một người khách hàng người Hoa, ông ta có một tiệm tạp hóa bán những đồ lưu niệm dưới phố Tàu, đặt trên đầu tủ sách của chàng, để ngài phù hộ cho chàng sớm tai qua nạn khỏi, về làm việc lại với đội tôi.

Tôi nhớ khi chàng trao tặng tôi chiếc tượng Phật, chàng nói :

-Tôi mong sao em có thật nhiều may mắn trong cuộc sống, mong em đạt được mọi ước muốn, hạnh phúc! Phụ nữ cần nhất là hạnh phúc; làm gì được để đem lại hạnh phúc cho em, tôi cũng muốn làm, cho dù có khó khăn bao nhiêu…

Tôi đã rất xúc động, biết mình đã có gia đình, con cái, tôi không muốn đi quá giới hạn cho phép, cũng không muốn gây thêm sự hy vọng viển vông cho chàng, tôi chỉ biết nhìn chàng với cặp mắt đầy vẻ biết ơn và quay đi thật nhanh.

Tượng Phật Quan Âm mãi nằm ở ngăn đầu tiên trong tủ sách của tôi, tôi đều tâm sự với Ngài mỗi khi không tìm ra cách giải quyết với một khách hàng khó tính, hôm nay tôi đem trả lại phòng của Martin, mong Ngài sẽ giúp đem lại cho chúng tôi một Martin khỏe mạnh vui tươi hăng hái như xưa!

Điều ước này chắc có lẽ đã quá phù phiếm! Tôi không có phép màu để có thể níu giữ được sinh mệnh chàng!

Cho dù hình hài chàng không còn tồn tại nữa, nhưng trong tâm hồn và trái tim tôi mãi vẫn âm thầm để một ngăn trống cho hình bóng người!

Chờ đợi người về một kiếp mai!

Mơ màng tới câu « tình đừng phai »

Trần gian phũ phàng, buồn theo năm tháng

Tình duyên đành lỡ làng!  (chờ một kiếp mai- Xuân Tiên- Ngọc Bích)

Sỏi Ngọc

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Aug/2025 lúc 8:57am

Xóm Cũ Tình Xưa 


Lom khom tìm CD giọng ca Như Quỳnh, Trường Vũ trong tiệm bán nhạc Trung Tín tại chợ Việt Nam, tôi chợt bắt gặp bàn tay trắng nõn của một cô gái bên cạnh, đang cầm một CD, lẩm bẩm đọc tên các bài hát. Bàn tay với những ngón thon dài nuột nà, như có ma lực thu hút tiềm thức, khiến tôi đứng ngây người. Giây phút nào đó, sự trỗi dậy một dư ảnh, một dư hương hoặc một dư âm cũng đủ đánh thức nỗi niềm chôn sâu âm ỉ tận đáy tâm hồn.

Trả tiền xong, cô gái tiến ra cửa. Tôi chỉ kịp nhìn thấy mái tóc dài buông hờ hững trên đôi vai tròn trịa.

Đã từ lâu, ấn tượng về một người con gái đến với tâm tư tôi, không phải thân hình bốc lửa, không phải dáng đi uyển chuyển, không phải giọng nói dịu dàng, không phải đôi mắt u huyền mà là đôi bàn tay. Bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, chiêm ngưỡng người khác phái, tôi nhìn đôi bàn tay trước tiên. Âu đó cũng là cách lý giải nguyên nhân mà mãi sau này lúc định cư tại hải ngoại tôi mới khám phá được ý nghĩ chính mình.

-------

Đầu thập niên 70, tôi được lệnh gọi thi hành quân dịch. Sau 3 tháng huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tôi về Trung Đoàn 7 SĐ5 BB.

Khi Hiệp định Paris năm 1973 ký kết, Tiểu Đội tôi được lệnh đóng tại khu vực Đồng Xoài – Phú Giáo, cắm cờ VNCH, để phân biệt lãnh thổ trong chiến dịch mà địch gọi là “chiếm đất giành dân”. Lúc bấy giờ tôi mang lon Binh Nhất, phụ trách khẩu đại liên M60, vì là nông dân nên thân hình tôi rất vạm vỡ và chắc nịch.

Trong một đêm tao ngộ chiến, khẩu đại liên đang khạc đạn như mưa, bỗng tôi bị hất tung lên vì một trái súng cối của địch nổ gần. Tôi không biết mình mê man bao nhiêu ngày. Khi hồi tỉnh, tôi cảm thấy môi mình ngòn ngọt. Một người nào đó đang đổ sữa cho tôi uống. He hé mắt, ánh sáng chói lòa khiến tôi phải nhắm nghiền lại ngay. Một bàn tay mềm mại đặt lên trán tôi. Tôi hi hí mắt nhìn một lần nữa. Khuôn mặt trái xoan ngược ánh sáng, chỉ có đôi mắt hai mí long lanh nhìn tôi. Mái tóc dài cúi xuống, phủ lên ngực tôi khiến tôi nhột nhạt, khó chịu. Ánh nắng chiều nhuộm đôi bàn tay với mười ngón thuôn đuột búp măng mà tôi mường tượng đôi bàn tay tiên xoa dịu cơn đau nhừ thể xác. Giọng nàng reo vui:

– A ! Anh Trường đã tỉnh rồi.

Cố moi óc, vẫn không sao nhớ được nàng là ai, tôi thì thào:

– Ai vậy ?

Nàng nũng nịu:

– Em Kim đây. Bộ anh hổng nhớ hả?

Bàn tay mát rười rượi của nàng nắm chặt tay tôi. Tôi thiếp đi lúc nào không hay...

Nhà Kim và nhà tôi cùng xóm, cái xóm nghèo nàn của xã 2, Thủ Thừa Long An. Khi học hết bậc tiểu học, Kim lên Phú Định Chợ Lớn, ở nhà người chú, học tiếp Trung học. Phần tôi gia cảnh quá nghèo, đành bỏ dở dang, ở nhà phụ ba má tôi lo ruộng vườn.


Mỗi kỳ nghỉ hè hoặc Tết, Kim về thăm quê, chúng tôi tiếp tục chung vui những ngày hồn nhiên dang dở. Thời gian trôi qua mau, Kim đã trở thành một thiếu nữ biết e thẹn, biết làm duyên.

Con gái quê tôi, Thủ Thừa, không biết nhờ dòng dõi hay nhờ nguồn nước sông Vàm Cỏ, cô nào cũng cao ráo và trắng ngần. Kim cũng nằm trong số đó. Tuy vậy, con gái xứ này thường hay lấy chồng xa, có lẽ trai nơi đây không đầy đủ điều kiện cho các cô coi là thần tượng. Bởi lẽ ấy, tôi biết phận mình, biết hoàn cảnh mình nên giữ ý không dám mơ mộng hão huyền.

Một lần Tết Trung Thu, Kim về nghỉ cuối tuần sau kỳ thi Lục Cá Nguyệt. Chúng tôi ra bờ sông Vàm Cỏ đầu thôn, ngồi chờ trăng lên.

Chiều quê nắng tắt hẳn. Màu tím bàng bạc, sẫm dần. Màn đêm như chợt hửng vàng khi ánh trăng vành vạnh từ từ nhô tận chân trời phương Đông. Tiếng côn trùng rỉ rả, nỉ non, đôi khi hòa vui như chung hơi thở nhịp tim rộn rã. Mùi hương cau tỏa nhè nhẹ, gió hiu hiu từng chập. Thời gian tĩnh lặng như ngừng trôi...

Tôi thẳng thắn tỏ ý niệm mình xuyên qua những cuộc tình duyên trai gái tại địa phương. Tôi không dám mơ ước gì ở Kim ngoài tình bạn như thời ấu thơ. So với trai thành thị, tôi chỉ là một người nhà quê nghèo hèn, tính tình chân chất, kiến thức nông cạn và tài năng kém cỏi.

Nhìn tôi một lúc thật lâu, Kim cười. Dưới ánh trăng rằm sáng vằng vặc, tôi nhìn rõ má lúm đồng tiền và hai hàm răng đều như bắp non. Kim nói:

– Em không giống các bạn gái ở đây. Họ không có bạn từ thuở nhỏ, thân thiết như anh với em. Vì hoàn cảnh, anh không tiếp tục học được chớ không phải anh không muốn học. Có lên Chợ Lớn, so sánh các bạn trên đó, em thương các bạn ở quê mình hết sức. Các bạn nghèo, thiếu thốn đủ thứ, từ vật chất đến giải trí. Cha chú ở quê có người chưa bao giờ biết Đà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang... Suốt đời họ chỉ quanh quẩn với đình làng, với hàng tre xanh, với mương tôm ao cá.

Tôi thở dài:

– Làm sao hơn được hả em? Chính anh, anh cũng phải chịu chung số phận như cha chú mình...

Chúng tôi nói với nhau nhiều lắm, nhiều lắm... nhưng vẫn chưa đề cập gì đến tình yêu giữa hai đứa.

Khi Tổng Y Viện Cộng Hoà báo tin cho gia đình tôi biết tôi bị trọng thương, ba má tôi cuống quít, sang nhờ ba má Kim lên Chợ Lớn cho Kim hay. Ba má tôi chưa hề lần nào biết Saigon, nghe đồn trên đó rất xô bồ và phức tạp thì e ngại vô cùng.

Ba tôi bán rẻ 5 giạ lúa để Kim lấy tiền chăm sóc tôi. Mặc dù có y tá, nhưng những giờ nghỉ học ở Đại học Dược, Kim vào bệnh viện lo cho tôi từng miếng ăn, từng ly nước uống. Quần áo bệnh nhân của tôi dơ dáy, Kim không quản ngại, nàng mua sà phòng, mang ra vòi nước giặt và phơi nắng giết vi trùng. Tôi không tắm được, Kim đã nấu nước nóng lau từng ngón tay, từng bàn chân cho tôi, còn hơn người vợ săn sóc chồng. Nàng vì lòng thương hại của em gái hậu phương đối với một thương binh? Nàng vì lòng bao la của một người có tâm huyết công tác xã hội? Tôi không sao lý giải và cũng không cần giải lý. Tôi chỉ biết mình hưởng những gì mà các thương binh chung quanh tôi không được phước hưởng.

Sau gần một năm nằm bệnh viện, tôi được các bác sĩ hội chẩn và lại tiếp tục trở về đơn vị tác chiến cũ. Ngày chia tay, những giọt nước mắt nóng bỏng của Kim khiến tôi bùi ngùi. Thời chiến, như Phạm Duy đã phổ nhạc lời thơ: “Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại?” 

Ngày 1/5/1975 tôi trở về quê cũ thì gia đình Kim đã di tản, không biết về nơi nào. Mặt trận Long An những ngày cuối cùng, từ quốc lộ 4 đến các quận, thôn làng sôi động khác thường.


Cũng như những người đi tìm tự do, năm 1982 tôi vượt biên với gia đình và thành công.Vị chỉ huy cũ Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 7 SĐ 5 BB có ghe, có vàng nên cho chúng tôi đi theo. Thoạt đầu ba má tôi không chịu rời xóm làng. Ông bà quyết định sanh nơi đây thì chết cũng nơi đây. Khi thằng em kế tôi đi thanh niên xung phong, bỏ thây trên Campuchia, ba má tôi mới lo sợ cho thằng út, và nói một liều ba bảy cũng liều...

Tại Chicago, thằng út lập gia đình và đã có cháu nội cho ba má tôi ẵm, nên tôi không bị ép lấy vợ. Làm sao tôi quên được đôi bàn tay của Kim đã chăm sóc khi tôi nằm bệnh viện. Là sinh viên Dược, nàng có quyền chối bỏ cực nhọc, dơ bẩn đối với người thương binh thất học. Kiến thức chênh lệch, nàng có quyền xa lánh người binh sĩ, có cấp bậc thấp trong quân đội như tôi. Nỗi ray rứt, ký ức về bàn tay ngà ngọc khiến tôi quyết định về chốn cũ, tìm lại những gì đã mất theo tháng năm mà mối tình câm nín của Kim và tôi đã chôn chặt vào dĩ vãng...


Thế rồi cuối cùng tôi trở về thăm xóm cũ. Bao nhiêu năm xa cách, cảnh vật như xưa, nhưng người đã khác hẳn. Cũng những mái tranh nghèo xơ xác, cũng vũng rãnh ao tù nước đọng, cũng ruộng nương ngập phèn chua váng đỏ, rong rêu lều bều. Dân thôn xóm năm xưa giờ đây tứ phương cầu thực. Vì miếng cơm manh áo, người tìm cuộc sống mới nơi phồn hoa đô thị, kẻ lìa bỏ lũy tre xanh rợp bóng thôn làng.

Đứng trước quang cảnh cũ, lòng tôi bồi hồi xúc động. Chỉ có những người xa quê hương đằng đẵng, tâm trạng mới trào cuồn cuộn sóng yêu thương, nhung nhớ khoảng trời dẫy đầy dấu tích. Con đường ngoằn ngoèo xuyên qua xóm, giờ đây vẫn còn lũy tre bao phủ. Hàng cau cao vút thấp thoáng xa xa. Xóm nghèo của tôi ở đó.

Bước qua hàng rào bằng các nhánh cây găm xuống đất cho có lệ, tôi tiến vào nhà cũ của mình.Căn nhà tăm tối, ẩm thấp. Mái lợp lá dừa nước cũ kỹ, tả tơi. Vài đứa trẻ nhà bên cạnh thập thò nhìn tôi dáng vẻ tò mò và xa lạ.

Tôi bước qua nhà cũ của Kim. Một ông già tay run run chống gậy, đưa đôi mắt đờ đẫn nhìn tôi, không nói năng lời nào. Tôi nhắm nghiền mắt lại. Ba của Kim đây rồi. Hai giọt lệ ứa ra. Tôi khóc!

Đứng lặng yên như thế một lúc thật lâu, tôi đỡ ông cụ ngồi xuống chiếc phản gỗ bên cửa sổ. Có lẽ ông cụ lãng trí, không còn biết những gì xảy ra chung quanh.

Một bé gái trạc tám chín tuổi, vừa ngoài ruộng về, tay cặp chiếc rổ đựng vài con cá rô bằng hai ngón tay, thấy tôi lạ nên bước lại hỏi:

– Chú tìm ai ?

Tôi trả lời ngay:

– Tôi tìm cô Kim, cháu biết cô Kim ở đâu không?

Đứa bé ấp úng:

– Má cháu...

Tôi cũng ấp úng theo nó:

– Má cháu... má cháu... ở đâu?

Đứa bé không trả lời, lẳng lặng đem rổ cá ra sau bếp. Khi trở lên nhà trên, nó nắm tay tôi đi về hướng sông Vàm Cỏ. Chui qua cụm dừa nước, đứa bé đưa tay chỉ người đàn bà đang lúi cúi cầm rổ thưa hớt cá ven bờ sông, nước lên đến gần đầu gối. Nó không nói câu nào, quay phắt trở về nhà. Tôi xắn quần, cởi giày vớ cầm tay và lội bì bõm xuống chỗ Kim. Cố gắng dằn lòng, nhưng sao tim tôi đập nhanh quá.

Hình ảnh cô sinh viên Dược tươi mát săn sóc tôi năm nào tại Tổng Y Viện Cộng Hòa và hình ảnh một thiếu phụ thôn quê nghèo khổ đang vớt từng con cá, từng con ốc nuôi sống gia đình, chen lẫn nhau, nhạt nhòa trong mắt tôi... Còn cách độ vài thước, nghe tiếng lội nước, Kim đứng thẳng người lên nhìn ngoái lại.

Mái tóc dài bây giờ không còn buông xõa mà bới cao sau ót, để lộ mảng da vẫn trắng nõn như xưa. Đôi mắt hai mí long lanh độ nào, đã vương nét u uẩn thăm thẳm, xa xôi vời vợi. Kim ngạc nhiên hỏi:

– Ông tìm cái gì mà lội ra đây?

Nàng chẳng nhận ra tôi. Giá con gái nàng không dẫn đến, khi gặp nàng, chưa chắc tôi đoán biết được nàng.

Quá xúc động, tôi nhìn nàng, không biết mở lời ra sao. Hai người nhìn nhau một lúc. Kim chợt nhớ lại người bạn thân cũ năm xưa, nàng lúng túng cúi gằm mặt xuống. Tôi tiến lại nắm tay Kim. Dẫu rằng trải qua nắng mưa,dẫu rằng tuổi đời chồng chất,hai bàn tay nàng vẫn thon đẹp, từng ngón búp măng vẫn nõn nà và đài các, duy lòng bàn tay bị chai cứng vài chỗ. Dáng nàng cao cao, toát ra vẻ đẹp kiêu sa giữa miền đồng chua nước mặn. Làn da mặt mịn màng, trắng tự nhiên, chợt ửng hồng khi nhận ra tôi, không khác gì thuở còn son trẻ.

Mười mấy năm xa cách, tình cảm câm nín năm xưa đến bây giờ cũng vẫn nín câm. Có lẽ hai chúng tôi đều nghĩ rằng những lời tự đáy lòng không cần nói ra, vì lời nói đầu môi chót lưỡi đôi khi chỉ là những lời giả dối, ai thốt cũng được. Hai ánh mắt nhìn nhau cũng đủ tỏ rõ tình yêu tự đáy lòng mình.

Kim kể rõ đầu đuôi cuộc tình kết tinh một bé gái mà mãi đến bây giờ nàng mới có dịp thổ lộ.

Khi miền Nam sụp đổ, gia đình nàng theo vợ của chú nàng ngược ra miền Trung vì nơi đây là quê hương của thím. Lúc gia đình tôi vượt biên, Kim đang làm công nhân phòng thuốc tại một bệnh viện ở Huế. Được tin tôi ra đi, nàng tuyệt vọng và sống thầm lặng qua ngày. Rất lâu sau đó nàng lập gia đình với một bác sĩ. Biết Kim là sinh viên Dược, ông quí nàng vô cùng. Vợ bác sĩ này rời Việt Nam ngày 30/4/1975, định cư tại California, trong khi ông còn kẹt ở Đà Nẵng.

Khi hai chính phủ Mỹ và Việt Nam thỏa thuận chương trình “Ra Đi Trong Vòng Trật Tự” (O.D.P.), vợ ông bác sĩ lập thủ tục bảo lãnh chồng. Kim ôm đứa con gái, tan nát cõi lòng. Má nàng vì con, buồn rầu sinh bệnh rồi chết. Ba nàng dần dần mất trí nhớ. Kim nuốt lệ đưa gia đình về quê cũ sống. Đối với cha, nàng luôn tròn chữ hiếu, đối với con gái, tình mẫu tử thiêng liêng bao trùm khiến Kim không màn tấm thân ngày càng tàn tạ. Kim thở dài: – Em làm quần quật từ sáng tinh sương đến tối mịt. Từ làm cỏ mướn, cày bừa, vét mương, tát đìa... em chỉ mong được bà con chung quanh trả công vài ký gạo, cha con ông cháu tạm no lòng, con em được manh quần tấm áo lành lặn. Giấc mơ tầm thường như vậy, nhưng đối với em là một cuộc vật lộn gay go với hoàn cảnh xã hội từng ngày.

Tôi siết chặt tay Kim. Lòng bồi hồi thương cảm:

– Anh rất khâm phục sự chịu đựng của em. Anh là đàn ông, chưa chắc anh đã can trường như em.

– Làm sao hơn hả anh? Phải vùng vẫy trong sự khốn đốn để tồn tại. Và...

– ... Và đến nay mình mới có cơ hội gặp lại...

Ánh trăng vẫn như năm nào khi chúng tôi ngồi cạnh nhau bên bờ sông, có khác chăng giây phút này, cõi lòng mỗi người thổn thức một cách khác biệt. Thâm tâm tôi lo lắng cho nàng, không gợn một chút gì thương hại, mà là tình cảm thuần khiết. Một người con gái vì xã hội, vì hoàn cảnh gia đình, tương lai bế tắc, phải chui rúc trong xóm nghèo, trong khi các bạn nàng sống sang trọng trên Saigon đầy ánh sáng hoa lệ.

Với chiếc áo bà ba nâu bạc màu, con người Kim giản dị và mộc mạc như các cô thôn nữ khác. Thế nhưng tôi hình dung được trong tâm hồn nàng, một ý chí cương quyết mãnh liệt, không hề lùi bước trước gian khổ. Tuy đời sống không như ý muốn, nhưng Kim an phận với hiện tại mà không kêu ca, than phiền vì nếu có than phiền và kêu ca cũng không ai giúp được.

Hôm nay, sau những năm xa cách nơi chôn nhau cắt rốn, nơi trải qua thời ấu thơ đầy kỷ niệm, tôi được trọn vẹn thưởng thức những gì hằn sâu tận tiềm thức. Vả lại, ước vọng gần gũi người mình nhớ nhung từ lâu, nay trở nên hiện thực. Tôi muốn thời gian dừng lại. Tôi muốn không gian bất biến để níu giữ, dồn nén thật chặt niềm rạo rực vào trái tim lỗi nhịp, đôi khi quặn thắt đau.

Tiếng cười đùa hồn nhiên của trẻ thơ đánh thức tâm trạng người xa xứ. Vui buồn lẫn lộn tràn ngập lòng tôi. Quê tôi nghèo quá. Dân quê làm lụng vất vả mà vẫn không đủ sống. Đời người cơ cực triền miên. Trẻ em thất học là điều tất nhiên, mà càng suy nghĩ càng thương tủi cho những em bé xa ánh sáng văn minh thành phố tại Việt Nam, chứ chưa dám so sánh với trẻ em trên các nước khác trên thế giới.

Khi đặt những bước chân đầu tiên về quê, từ đầu làng đến xóm cũ, tôi nhận thấy trẻ em quần áo xác xơ, tóc tai bù xù, chân tay đen đúa, nét mặt không có vẻ gì tinh anh, ngơ ngác nhìn tôi xa lạ. Trong những ánh mắt đó, tôi có cảm tưởng vùng đất tôi đang đi là một vùng đất đầu tiên đón tiếp con người. Các em đang phụ cha mẹ đào khoai lang trong đám đất khô cằn, hoặc vớt tép, vớt cá trong những đường mương đục ngầu.

Tại Mỹ, tôi từng chứng kiến các trẻ em vừa ăn vừa vứt đổ những thức ăn vô tội vạ. Những phần Mc Donald, những miếng thịt bò mềm mại,những khúc sườn nướng vàng lườm, những tô súp thịt gà ngậy béo, những tô phở thơm ngon, ăn không hết, họ thản nhiên dồn vào thùng rác. Trong gia đình, thức ăn thừa mứa qua ngày, mặc dù bảo quản trong tủ lạnh, nhiều bà nội trợ vẫn không thích dùng đến, vì ngăn ngừa bệnh hoạn. Đồng tiền làm ra tương đối dễ dàng. Cuộc sống sung túc, đầy đủ tiện nghi, sự phí phạm không sao tránh khỏi.


Tại quê tôi, dân làng chắt mót từng hột gạo, từng muỗng muối, từng con ốc, từng con cá, con tép bằng ngón tay để bồi dưỡng cơ thể. Suốt ngày dầm mưa dãi nắng, làm quần quật mới có miếng ăn. Hôm nào đau ốm nằm một chỗ, gia đình thêm vất vả, chạy đầu này mượn lon gạo nấu cháo, đến chỗ kia xin nhúm muối để nêm. Xóm nghèo, nhà nào cũng như nhà nấy, nhưng lá rách đùm lá nát, giúp đỡ nhau không nề hà. Chưa kể những năm lũ lụt đã tàn phá các thửa ruộng nho nhỏ, cướp trọn những gì dân quê dành dụm suốt một kiếp con người... Những người lớn trong gia đình ở lại xóm nghèo, có lẽ thâm tâm họ không muốn rời nơi từng cưu mang họ trong thời gian chiến tranh khói lửa,nơi ông bà cha mẹ an táng tại đây và nhất là nơi họ sẽ an nghỉ vào cuối đời. Chỉ tội đám trẻ con sống với ông bà cha mẹ, đành chấp nhận chung hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực.. 

Bàn tay xinh đẹp mà tôi ấp ủ bao năm trời, đang nằm gọn trong tay tôi. Bàn tay khác hẳn những bàn tay phái nữ hải ngoại nuôi dưỡng da bằng lotion, rửa tay bằng xà bông ngoại hạng, gọt giũa móng tay kỹ lưỡng và sơn phết đủ màu trong các tiệm Nail. Cùng là phái nữ, hoàn cảnh và thế đứng xã hội là đầu mối phân chia giai cấp để người này sống đầy đủ tiện nghi, người kia thiếu thốn mọi thứ.

Đôi bàn tay xinh đẹp năm xưa, trắng muốt và dịu êm, đã tận tình chăm sóc tôi tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, đã cứu vớt gia đình nàng qua cơn hoạn nạn, thoát những ngày đói khổ. Phân tích lòng mình, tôi có nhiều ấn tượng và lý do để cất giấu hình ảnh nàng tận đáy tim tôi, trong khi tôi dư điều kiện tìm những người con gái khác đẹp hơn, trẻ hơn tại Mỹ cũng như tại Việt Nam.


Xóm cũ nghèo nàn, nhưng chứa chan nồng thắm của tình người và tình quê hương. Xóm cũ ngày xưa đã ấp ủ nàng, một người âm thầm đi vào cuộc đời tôi. Tôi cám ơn rặng tre làng, tôi cám ơn dòng sông Vàm Cỏ phù sa đã hun đúc bẩm chất nàng trở nên hiền thục lẫn cương cường. Nàng như nguồn nước mát cơn mưa chiều xoa dịu những ngày oi bức trong cơn mộng cằn cỗi và tuyệt vọng của tôi, mà những ngày còn lại cuộc đời, tôi sẽ hết lòng trân trọng và nâng niu nàng như chính bản thân mình.


Minh Nhã Nguyễn Thanh Dũng

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Aug/2025 lúc 1:08pm

5530%201%20ChiecLaLacDuongNGThem

       Hôm nay cuối tuần, gió thổi rất mạnh ở Riverside. Những hàng cây trước đường uốn cong, lắc lư như những nàng vũ nữ.

        Gió thổi lá khô tấp vào ngạch cửa. Những chiếc lá xanh, chưa nhuốm màu vàng của mùa thu mà bị gió đánh tả tơi lăn lóc bên đường. Và lá dừng lại bên thềm như một người lỡ bước đầy bất trắc, muốn gõ cửa vào nhà tôi xin tá túc.

       Ơ hay sao tôi lại vẫn vơ nói về một chiếc lá không tên, hãy dùng chổi quét đi hay hốt bỏ vào thùng rác. Chiếc lá sao lại như nhìn tôi ngậm ngùi. Sao như muốn kể chuyện mình.

        Có phải tại vì tôi đã đọc bài "Con tôi đi nhận xác chồng" của hội AHBH vừa gửi vào mà tâm hồn man mác.

        Có thể lắm chứ. Một bài viết của người cha có con gái lên đường đi nhận xác chồng sắp cưới vừa tử thương ở chiến trường Afghanistan đã làm tôi xúc động.

5530%202%20Chiec%20LaNgThiThem

       Tâm tình của người cha thương con. Của người con gái tràn đầy niềm tin và hy vọng. Của người lính chiến yêu quê hương, trái tim đầy nhiệt huyết tuổi trẻ.

        Một con người sẽ có những bước hành trình ngập tràn hoa thơm cỏ lạ của một mái ấm tương lai. Tôi đọc xong bài. Cảm xúc thật sự, cứ miên man nghĩ về người lính. Người chiến sĩ có tên là Liam J Nevin (1981-2013)

5530%203%20Chiec%20LaNgTThem

       Vâng! Đời người tội nghiệp như vậy. Có những chiếc lá xanh tươi tốt, đã bị một biến cố xa cành tan tác trong cơn gió lốc.

      Tôi lại nghĩ đến hơn 40 năm trước,  tôi đã đưa xác người em họ của chồng về miền Trung. Chú ấy đã hiên ngang gục ngã ở chiến trường An Lộc. Tôi chưa một lần gặp chú, cũng chưa nghe tên bao giờ. Thế mà tôi lại đưa xác chú về gia đình ở Đà Nẵng, một nơi tôi chưa từng đặt chân tới.

      Đó là mùa hè 1972 tôi đi đám ma người quen, sẵn dịp ghé thăm mẹ chồng ở Biên Hòa. Má chồng tôi nói:

- Thằng Hanh con Mụ Khóa Yên đã tử trận ở An Lộc. Hậu cứ liên lạc để đem xác hắn về nhà. Gia đình hắn không có ai ở Sài gòn. Mi thay mạ đưa hắn về dùm. Gia đình hắn ngoài làng đã chạy vào Sơn Trà. Mọi thủ tục đã có hậu cứ lo. Theo hắn về chỉ có người em chú bác đang đi tu. Chú còn nhỏ, không biết chi nên mi thế mạ lo cho hai anh em hắn. Có thể mi ra ngoài nớ sẽ gặp thằng Trai. Hắn (chồng tôi) nghe đâu cũng đóng quân ở Đà Nẵng.

       Thế là không có thời gian đón xe về nhà tôi ở Long Thành để lấy áo quần. Tui vơ vài bộ đồ cô em chồng mặc ở nhà đem theo. Thay chiếc áo dài trắng đi đám ma vội lên xe vào ... Tôi không nhớ rõ nơi đó gọi là gì. Hình như là Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa.

       Nơi đó hòm hòm tiếp nối những hòm. Máy bay trực thăng gầm rú để đáp xuống tải xác người. Một không khí lạnh lẽo tang tóc, thê lương. Theo sự hướng dẫn, tôi đến nơi để linh cữu Thiếu Úy Hanh (Tên của chú ấy). Bên cạnh chiếc hòm bọc kín bằng thiếc hay kẽm gì đó. Một chú tiểu ngồi chấp tay mặt buồn so đang  lâm râm tụng kinh.

       Lần đầu tiên tôi đối diện với cái chết của người lính ngoài mặt trận. Mặc dù đã nghe rất nhiều, đọc rất nhiều sách nói về cái chết bi hùng này. Nhưng lần đầu tiên đối diện, tôi thấy mình nghẹn ngào, xúc động dâng lên thở không được.

        Hình chú Hanh trên cái bàn nhỏ, một lọ hoa nhỏ và bát hương.  Chú mang lon thiếu úy, tử trận ở chiến trường An Lộc.Tôi đứng tần ngần nhìn bức hình trên bàn thờ. Chú còn rất trẻ, khá đẹp trai với gương mặt góc cạnh rất đàn ông. Tôi không sợ hồn ma của chú hay những hồn ma vô hình đang tràn ngập ở đây. Trong tôi sự tiếc nuối dâng lên nghẹn ngào và thật buồn. Cái buồn của sự  biệt ly và thương cảm.

       "Hồn tử sĩ gió ào ào thổi", câu thơ xưa diễn tả đúng nơi này. Gió thổi về lành lạnh, Tôi đã thay áo dài, mặc bộ đồ của cô em chồng lúc đi tới nơi đây. Cô ấy cao và to con hơn tôi nên cái áo và cái quần rộng thùng thình, tôi mặc không giống ai.Tôi lấy thêm một cái áo nữa mặc bên ngoài để bớt lạnh. Tối đến, ban "Lễ Nghi Quân Cách" đến làm lễ truy điệu, phủ cờ và truy phong chú Hanh lên Trung Úy. Cũng kèn, cũng chào, cũng đầy đủ nghi thức mà sao trong cái ngậm ngùi dường như không có cảm xúc. Có lẽ việc này như là thông lệ thành ra vô cảm. Mỗi ngày cũng ngần ấy thao tác, từng ấy lời truy điệu, từng ấy kèn thổi bi ai. Thời kỳ chiến tranh leo thang, người lính chết như rạ. Ban truy điệu làm việc hết năng xuất mỗi ngày. Đi  hết khu này lại qua khu khác làm lễ không biết bao nhiêu đám. Từng đó động tác chỉ khác tên người lính, ngày sinh, quê quán, ngày chết, địa điểm và chức vụ trong quân đội. Những người làm nhiệm vụ này dường như cũng chết cứng, chai lì không còn cảm giác. Hay sự đau thương làm tê liệt mọi dây thần kinh xúc cảm.

       Đời trai trong thời chiến thật thảm thương. Chú Hanh chưa lập gia đình lại là con trai một. Cái chết của chú chắc sẽ là vết chém hằn sâu nhất trong gia đình.

        Tôi bảo chú Cảm "Thôi em đi ngủ đi, chị trực cho". Chú tiểu tên Cảm dựa vào một góc nhà mệt mỏi đi vào giấc ngủ. Tôi thế chú ngồi niệm kinh, đốt nhang và thầm thì trò chuyện với người khuất mặt. Nói gì đây? tôi là ai và chú là ai? Cả hai chưa từng một lần gặp mặt. Nếu linh hồn chú lẩn khuất đâu đây chú sẽ rất ngạc nhiên thấy một người phụ nữ lạ như tôi ngồi canh xác mình. Tôi gọi tên chú, đọc kinh, niệm Phật cầu nguyện chú được siêu thoát. Nguyện cho chú bình an rời khỏi cái thế giới đầy chiến tranh tàn ác này về nơi bình yên ở một cõi khác.

        Ngồi mãi cũng chán, tôi một mình đi lòng vòng hết nhìn tên người này đến hình người khác. Gặp các thân nhân chờ đợi ngày mai đem xác thân nhân về nhà hỏi thăm chuyện vãn. Thời kỳ đó chiến trường sôi động, lính tử thương liên tục đưa về. Không khí ảm đạm, gió lạnh và dường như những hồn thiêng tử sĩ lẩn khuất mọi nơi.

        Buổi sáng hôm sau, quan tài được đưa lên máy bay đem về phi trường Đà Nẵng. Trên chuyến bay có thêm hai quan tài nữa. Càng lên cao do áp suất không khí, những chiếc hòm căng tròn lên, lớp thiếc bọc xung quanh như bong bóng được thổi căng lên trông rất tội nghiệp và dễ sợ.

      Xe hậu cứ đưa chị em tôi và quan tài về trước sân nhà của gia đình chú Hanh. Cả nhà đang ở trong trại tạm cư.

       Người ta túa ra khóc lóc, gào thét. Chị Bưởi, (chị của Hanh) khóc suýt ngất, người ta phải vực chị ấy vào nhà xoa dầu và để chị cách ly với cái hòm.

       Vì cuộc chiến ở cổ thành Quảng Trị đang rất khốc liệt nên cả làng Câu Nhi phải chạy thoát thân . Chính quyền ra lệnh di tản và dân trong làng được bố trí tạm cư gần bãi biển Sơn Trà. Mọi người ai cũng bà con, họ hàng hay người làng quen biết. Chỉ có tôi, một người lạ mặt. Một cô gái Sài Gòn lạc lõng ôm cái túi đồ lẫn vào một góc nhà đứng đó tần ngần.

        Mãi một lúc thật lâu,không khí tạm dịu lại, gia đình mới được chú Cảm báo là tôi đã đưa xác chú Hanh về. Họ túa đi tìm và bắt gặp tôi đang đứng một mình. Một người phụ nữ luống tuổi hàm răng nhuộm đen nhánh đi tới bên tôi. Đó là má của chú Hanh. Bà ôm tôi khóc và tôi cũng khóc theo. Họ đâu biết tôi khóc ngoài vì xúc động còn vì tủi thân, lo lắng không biết tối nay, ngày mai, và kế tiếp tôi phải làm gì. Bằng cách nào tôi mới được về lại Biên Hòa. Tôi đi đám ma người quen, tiền mang theo không nhiều, quần áo của mình không có, không một người quen biết ở đây. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà, đi ra miền Trung trong lúc chiến tranh bùng nổ. Tôi hối hận vì sự nhẹ dạ của mình. Tôi ngoan ngoãn không dám cãi lại mẹ chồng chỉ vâng lời một cách vô thức vì thương người. Đêm đó tôi thức trắng trên một cái chõng tre ưu tiên dành cho khách. Tiếng khóc, tiếng người đến chia buồn mà tôi gần như không hiểu họ nói gì vì tiếng Quảng Trị rất khó nghe. Người tôi bềnh bồng lửng lơ như say sóng.

        Chiều hôm sau chồng tôi được tin anh vội vã về tìm. Chúng tôi gặp nhau nghẹn ngào trong cái buồn đứt ruột của một cái đám ma. Anh xin phép đưa tôi về nhà người cô chồng ở Phước Tường gần sân bay Đà Nẵng. Đây là những người thân ruột thịt của chồng mà bây giờ tôi sẽ được biết từ khi lấy chồng. Nghe nói đây là nhà người chị của cha chồng tôi. Thay vì tản cư ra ở cùng chỗ với người làng, bà ở nhà con gái.

        Đến nơi, hình ảnh đầu tiên tôi nhìn thấy lại là một đám ma. Một cái rạp dựng chưa xong trong sân nhà và những tiếng khóc xé lòng từ trong nhà vang ra làm tôi chới với. Anh Phú anh rể của chồng tôi, từ trong nhà chạy ùa ra ôm lấy chồng tôi nghẹn ngào:

- Anh Phúc chết rồi. Tôi vừa đưa xác anh về tới.

       Tôi biết mặt anh Phú vì có lần anh về thăm nhà mẹ vợ và đã gặp tôi. Đám cưới tôi anh chị không về tham dự vì chị sinh con. Cho nên cả chị ruột của chồng tôi cũng không hề biết mặt. Còn anh Phúc là ai, tôi là cô dâu mới, họ hàng bên chồng ở xa tôi không hề quen biết.

        Anh Phúc là con trai của cô chồng tôi (Mụ Khóa Mãn) Trong vai vế gia tộc, anh Phúc là anh cô cậu của chồng tôi. Anh đi lính Biệt Động Quân tử thương ở chiến trường  Khe Sanh và thi hài cũng được đưa về Đà Nẵng.Anh vừa mới ra trường mang lon chuẩn úy. Bây giờ sau buổi lễ truy điệu, anh được vinh thăng  "cố thiếu úy"

       Khi đưa xác người lính trẻ về nhà, ngồi suốt một đêm trong giang sơn của người chết trận. Tôi mới thấm thía nỗi lo sợ của người vợ lính. Tôi mới xác định rõ chỗ đứng của mình bên bờ vực của sự biệt ly.

       Cả hai người sĩ quan chết trẻ trong gia tộc, được đưa về Đà Nẵng trên dưới một ngày. Hai người đều chưa lập gia đình nên không có cảnh người góa phụ tóc còn xanh mang vành tang trắng khóc chồng. Không có cảnh con thơ mồ côi cha khi vừa tròn tuổi. Đó cũng là tâm tư của những người lính trẻ yêu nhau trong thời chinh chiến. Họ không muốn làm khổ người mình yêu nên nhiều mối tình thầm kín phải tan vỡ, chia tay trong nhớ thương, ân hận.

        Chồng tôi cũng đang ngoài mặt trận. Một ngày nào đó biết đâu tôi cũng sẽ quỳ gục bên một cái quan tài phủ cờ tổ quốc. Người nằm trong kia là anh ấy: Chồng tôi với những vết thương máu đã khô đông cứng hay một thân xác không còn nguyên vẹn bởi đạn pháo hay mìn.

        Tôi thường lạnh người khi nghĩ đến điều này và căm ghét chiến tranh. Chiến tranh thật tàn khốc ai cũng biết, cũng hiểu, nhưng ngày nào trên thế giới cũng có chiến tranh. Người ta đã đem sự sống chết của người lính, người dân và một dân tộc lên bàn cờ chính trị, trả giá và thu lợi ích. Biết rằng đời người ai rồi cũng phải chết. Nhưng nhìn những người trẻ tuổi, giỏi giang, tương lai sáng rực đi vào thiên thu ai không khỏi đau lòng.

*****

       Ôi chao! Một chiếc lá xanh tấp vào ngạch cửa mà tôi đã lôi theo bao nhiêu nỗi ưu tư. Thì ra tôi đã già rồi. Già thật rồi nên cứ loay hoay nhìn về quá khứ.

Hãy cho tôi một nụ cười.

5530%204a%20NuCuoiTreThongTThem5530%204b%20NuCuoiNgTThem

      Nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ để an vui xóa đi những hình ảnh đau thuơng của những ngày xưa cũ.

Nguyễn thị Thêm



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23861
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 1:56pm

Thuyền Đời Ơi 


Hồi còn nhỏ, tôi đã biết cười với hoa vừa mới nở và tôi cũng đã biết buồn với lá, những cành sắp đổi thành vàng buổi đầu thu. Tôi cũng đã biết mừng khi mẹ đi chợ về có bánh cho tôi. Và tôi cũng đã biết lo khi mà cuối tháng cầm học bạ về cho cha xem.

Anh Hai tôi thì cứ hay cú đầu tôi, "mầy học ngu hơn con gái"

Cha thì, "thằng nhóc nầy diễn xuất thật hay" chả là vì tôi cứ đấm lưng cho ông và nắn nót cái bả vai mỏi mệt của ông mỗi lần tôi trình học bạ. Tôi cứ nghĩ làm sao cho ông thoải mái chút thì có lẽ ông không cần phải la Trời tiếng rõ to. Nhưng nhiều lần lắm, ông vẫn la Trời ơi thật lớn khiến tôi sợ hãi phải chạy lủi ra ngoài sân.

Thời thơ ấu của tôi đó. Thời thơ ấu của tôi có ...

Con nhỏ nó tên Mê, nhà gần bên trong xóm vẫn luôn hay dặn tôi rằng:

- Khi ấy lớn lên thì đừng đi đánh lộn nữa nha? Ấy cứ thây kệ nó mà.

Sở dĩ nhỏ Mê hay lên mặt dặn dò tôi là vì buổi đó thằng Khương ký lên đầu nó nghe một cái cụp. Thằng Khương bự con nhất đám và cũng là hung hăng nhất hạng, dù nó không có xâm mình nhưng cái vết thẹo vắt ngang sau lưng vì leo cây té xuống hàng rào kẽm gai cũng đủ làm cho đám nhóc tụi tôi phải e dè.

Tuy nhiên bữa đó, bữa mà nó ký đầu con Mê đã không biết vì sao mà làm cho tôi xung lên máu nóng. Tôi nhào tới sừng sộ thì bị ăn ngay một quả đấm của nó, tá hỏa tam tinh tôi định khóc nhưng chợt thấy ánh mắt hoảng hốt của con Mê, tôi đanh mặt lại làm liều, với nắm được tay thằng Khương, tôi giằng mạnh một cái, nó mất thăng bằng, tôi dùng chân chận ngang đầu gối. Nó té xuống nghe cái xụp, máu lỗ mũi nó chảy ra.
Đám con nít, kể cả con Mê cùng thét lên: "Có người chết! Có người chết!"
Tôi sảng hồn, co giò tôi chạy.
Thằng Khương cũng sảng hồn, cũng co giò chạy, tay bụm mũi, máu chảy dài.

Kể từ đó, kể từ khi tôi bung ra một đòn nhu đạo nhẹ nhàng làm xịt máu mũi của thằng Khương thì đám con nít đặt cho tôi một biệt danh: Dê Mặt Xanh. Vì khi giận, mặt tôi biến thành xanh lè và hễ khi nào mặt tôi biến thành xanh thì thể nào cũng có mặt một đứa nào đó biến thành đỏ. Đỏ của cái lỗ mũi ăn trầu.

Mà phải xin nói rõ hơn là những đứa đó đều là con trai và đều to con hơn tôi, chứ đời nào tôi nỡ lòng đánh con gái? Hay nỡ lòng đánh mấy đứa nhỏ con, nhỏ tuổi hơn?
Vì vậy bỗng dưng tôi trở thành anh hùng. Bỗng dưng mấy đứa con gái ngưỡng mộ tôi. Bỗng dưng tôi có khế chua với me ngào ăn dài dài.

- "Anh Dê Xanh ơi, anh Dê Xanh! Anh đi rước lồng đèn với tụi em nghe?" Tiếng con Mê nằn nì.

Bởi là vì tụi thằng Khương và Khảnh và Khừng cứ núp trong góc với cọng dây thung và đống bì cứng bắn lủng lồng đèn đêm Trung Thu của mấy đứa con nít hoài. Nhưng hễ chỗ nào có Dê thì chỗ đó bình yên như vại, nên Mê mới rũ Dê cùng đi bên cạnh, bên cạnh khoảng thời gian cuộc đời của con nít.

Đến khi lớn lên, đến khi những đứa bé của con hẽm nhỏ số 175 đường Da Bà Bầu biết thoa son và vẽ mắt, biết mặc áo sơ mi trắng bỏ trong quần xanh và rẽ tóc đường ngôi bốn sáu thì Mê không còn rũ Dê đi bên cạnh nữa, mà chính Dê bao giờ cũng vẫn tình nguyện đi bên cạnh Mê như là một thói quen không thể nào bỏ được vì đã khắc sâu từ ở thuở còn thơ.

Và cuộc đời cứ không thể, ấy thôi kệ nó mà.

Cuộc đời đưa tôi vào vòng chinh chiến lớn, đưa tôi vào cuộc đánh lộn dữ dằn không phải chỉ cần một thế võ Judo mà là cần lắm nhiều lựu đạn với xe tăng.

Sau hai tiếng Trời Ơi thật lớn của ba tôi và ba thằng Khương thì hai đứa tụi tôi khăn gói lên phi cơ quân sự C130 bay thẳng ra Nha Trang thụ huấn khóa Hạ Sĩ Quan ở quân trường Đồng Đế.
Quân trường mà nhìn thẳng qua bên kia có "Anh đứng nghìn năm thao diễn nghỉ, em nằm xỏa tóc đợi chờ anh".
Quân trường của những anh rớt tú tài anh đi Trung Sĩ, em ở nhà vá áo đợi chờ anh. Bao giờ xong nợ nước non, anh về, áo đó, còn em đâu rồi?

Những tháng dài ở Nha Trang gió lộng và biển gầm gừ đã ràng chặt tình bạn Dê, Khương vào thành một gút. Gút của những tuổi trẻ, thôi giã từ ngày tháng rong chơi, ghìm trước mặt những kẻ manh nha và nhìn sau lưng những thằng đâm lén.

Tuổi trẻ vào đời, đời nhọc nhằn gớm giếc.
Tuổi trẻ về Bình Long, hai Trung Sĩ trẻ mang hai Cánh Gà mới toanh cùng về chung đơn vị, những tưởng sẽ có những cánh rừng cao su bạt ngàn và người xinh trắng như lụa mộng.
Nhưng năm đó lại là năm 1972,
Bình Long có mùa Hè rực những lửa.
Lửa của mặt trời và lửa của cà nông.
Và cùng cơn địa chấn. Những tiếng rầm rì nghiến nát.
Những khối sắt nặng nề của chiến xa tràn ngập bể dập thân cao su mủ chảy, những chiến xa cầy lên hẳn hình hài Việt Nam. Cầy lên hai tuổi trẻ kinh hoàng hoảng hốt.

Thằng Khương gọi tôi giật giọng:

- Mầy nhào lên dứt một cái 72 cho nó coi?

Mặt tôi xanh như tàu lá, cái nón sắt đã rớt mất từ đời nào, chắc từ cái lúc mà chiếc T54 gầm gừ rượt theo hai đứa từ giao thông hào này qua giao thông hào khác.
Tôi lúng túng với cây M72, giương nó ra như thế nào đây? Tôi đã quên bài học vũ khí trong quân trường. Mà thật ra lúc thực tập thì lại chính ông Hạ Sĩ phụ tá Sĩ Quan huấn luyện viên bắn chứ tôi nào được rờ vô?

- "Mầy như con ...kẹ ông". Thằng Khương chửi tôi như thế, nhưng chính nó, nó cũng loay hoay với cây hỏa tiển đang cầm trên tay. Hai đứa ngồi dựa vào vách đất khô cằn của hố đại bác pháo kích mới hồi hôm sáng. Tôi đọc tấm hình chỉ dẫn in ngay trên khẩu hỏa tiển M72, à, thì ra thế, giản dị chỉ có kéo dây, giương lên và bóp cò vậy thôi. Thằng Khương mặt cũng sáng ra. "Mầy cũng như con ...kẹ tao thôi Khương à" Tôi sủa ngược lại nó. Hai thằng nhìn nhau cười một cái.

"Oành! Oành!" Hai tiếng nổ long trời, con cua T54 lãnh đủ. Sức dội làm tụi tôi rát mặt đến bật ngữa người ra sau. Chiếc T54 đỏ ửng lên, khựng lại rồi xìu xuống.
"Banh càng rồi! Banh càng rồi" Tôi mừng quá hét lên! Thằng Khương cũng cười ha hả.

Cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, vẫn còn nhiều T54 lồng lộn trong thành phố. Tụi tôi, những toán diệt chiến xa lểnh khểnh mang trên vai nhiều M72 đi làm pháo bông rực đỏ giang sơn.

Ba tháng dài như vậy, ba tháng ăn đạn pháo hằng ngày, ba tháng trồi lên lùng diệt chiến xa, ba tháng dưới giao thông hào chỉa súng chống lại từng đợt tấn công, tôi như bít bùng mọi cảm giác, không còn sợ nữa, không còn lo nữa, không còn cha nữa, không còn mẹ nữa. Tôi chỉ còn mê sảng với những phản ứng tự nhiên, hễ thấy bóng người xung phong định tràn ngập thì tôi chỉa súng bắn, hễ nghe tiếng chiến xa rần rộ thì tôi bật dậy với khẩu 72, hễ nghe tiếng rít gió của đại pháo thì tôi rúm người lại trong hố.

Nhưng đến một bữa kia thì mọi cảm giác lại về tràn ngập trong tôi, đó là bữa mà cái hố của thằng Khương bị lãnh nguyên một quả đại pháo.
Mọi lần thì tôi và nó cùng nằm chung một chỗ, ăn cũng dưới hố, ngủ cũng dưới hố, đi tiêu đi tiểu cũng hố đó, quẹo đầu mà ngủ cũng cùng một hố, vì vậy mà mùi nồng của mọi các cái đã bắt đầu tấn công vào khứu giác, hơn nữa trận chiến đã bắt đầu dịu đi, quân Nhảy Dù đã bắt tay được với quân tử thủ nên thằng Khương sanh tật đòi dời qua hố khác. Tôi có nói với nó:

- Mầy với tao nằm đây từ ngày đầu đến giờ, chẳng bị ăn một quả pháo nào, vậy hố này là hố thiêng, hố đã được ếm bùa hộ mạng, sống chết gì mình cũng trụ tại đây.

Nó cứ cười ngất mà chê là tôi ở dơ. Nó dời qua bên hố kế chỉ cách có 2 tầm nhảy xa. Không ngờ đại pháo chọn ngay hố nó mà rơi. Tôi chồm qua thì chỉ thấy mảnh lưng có dấu thẹo quào của sợi dây kẽm gai ngày xưa.
Tôi khóc lên.
Mọi cảm giác buồn thương mến sợ bỗng chợt tràn về.

Và cuộc chiến Bình Long vang dội trên những nẻo đường đất nước ở miền Nam cũng tàn dần theo những đổ nát khắp thị trấn. Sức của những người còn sống chợt vươn lên, như ta thấy tự nhiên ở tận cùng đau khổ vẫn còn lóe lên chút niềm hy vọng. Có những bông hoa lạ kỳ luôn tồn tại với thời gian biến đổi, người xưa đặt tên hoa là Huyền Diệu Muôn Phần. Những hoa này thật là khó thấy, người ta chỉ có cảm giác được mà thôi.

Lệnh từ ông Thiệu, Tổng Thống Thiệu đưa xuống, tất cả quân nhân tham dự trận Bình Long đều được tăng thêm một cấp, như vậy lần đầu tiên trong quân sử thế giới có một chiến trường không có binh nhì. Ai cũng có cái niềm hãnh diện để mang trên vai. Riêng tôi thì ông định thăng cho tôi nhiều cấp một lần một vì tôi cũng bị một mảnh đại bác chui ngay vào mông bên phải mà ông bác sĩ quân y lại cho đó chỉ là vết gà mổ. Tôi cũng thầm mong là ông bác sĩ bị ít vết gà mổ ở mông coi coi có ngồi ăn cơm thoải mái yên lành hay không?
Dù gì đi nữa thì phần thưởng quý báu ngon lành vẫn là một tháng dưỡng thương cùng 14 ngày phép thưởng.
Nhấp nhổm ngồi một bên mông, tôi lên xe đò về Sài Gòn.

Sài Gòn ơi,

Ớ kìa, con hẽm thương của tôi, con hẽm 175 đường Da Bà Bầu có hai hàng bông gòn bay trắng xóa. Tôi mới xa nhà chưa đủ để nhớ nhưng khi vừa về lại thì bỗng thấy mình thật cần.
Đám nhỏ thay thế đám nhỏ ngày xưa của tụi tôi đổ ra reo hò:

- Anh Dê, anh Dê mới dề

- Anh Dê mặt ngầu, tóc dài thòng

Vang vang trong đám có đứa ngâm lên Bình Long anh dũng, An Lộc kiêu hùng.

Tự nhiên tướng tôi đi bỗng đổi khác, ngực tôi tự nhiên phồng lên, tôi vui sướng làm người về từ miền rực nóng, về với hình hài nguyên vẹn dù sao cũng là một vui thích hơn là phải có người khiêng về.
Mẹ tôi thì khỏi nói, bà khóc một cái òa. Điều đó làm nước mắt tôi cũng chảy ra tràn trề, tại bà làm tôi khóc chứ đám con gái có cả con Mê đang chăm chú nhìn tôi kìa. Ba tôi thì đôi con mắt đỏ hoe, ông gật gật cái đầu, đôi bả vai ông hình như hơi vươn lên như hai bả vai của tôi. Ông cười, trong nụ cười của ông có dấu hiệu của nỗi lo vừa mới bay tan và đồng thời nỗi lo đó sẽ kéo lại ngay tức thì.

Cuộc chiến vẫn còn mà.
Cuộc chìến vẫn còn tiếp diễn ở mảnh đất miền Nam.
Phải chi miền Bắc ngừng lại vào thời điểm đó thì đâu còn những ánh mắt lo âu nữa?
Phải chi miền Bắc đừng làm chuyện bậy bạ Giải Phóng thì bên nhà thằng Khương đâu đã treo ảnh của nó trên bàn thờ nhang khói khi mà nó hãy còn trẻ măng?

Những giấc ngủ ngoài chiến trường thường thì là những giấc chập choạng. Về lại được mái nhà thân thương thì không hiểu tại sao những giấc ngủ của tôi có quá nhiều những mộng lành.
Tất cả tiếng động ồn ào chói tai của bom đạn được thay bằng lời âu yếm dịu dàng của mẹ tôi. Cha tôi thì vẫn còn Trời Ơi như những lần coi qua học bạ, tuy nhiên nó lại không có cái âm của một tán thán tự giận dữ hay là một sự thất vọng, mà tiếng Trời Ơi của ông nghe như lời cầu gọi Thượng Đế hãy giúp đở cho tôi sự sáng láng lúc còn đi học và những yên lành khi đã vào đời.

Tôi bao giờ cũng vẫn ngàn lần cảm ơn hai đấng sanh thành của tôi đã nhẫn nại với thứ hạng học hành của tôi cũng như con đường thi cử.
Còn đối với anh tôi thì tôi không bao giờ cảm ơn hắn được một lần. Hắn lúc sinh ra, nghe kể lại thì lúc ăn thôi nôi hắn chọn lấy cây viết dù bao nhiêu là đồ chơi rực rỡ sắc màu để cạnh bên, cho nên lúc lớn lên cắp sách đến trường hắn học giỏi lắm, được nhà trường khen thưởng loạn cả lên, thậm chí có một hôm hắn nói với mẹ tôi rằng: "Má biết hông? Hai chục điểm là ngon lắm rồi, vậy mà có ông thầy kia muốn cho con 21 điểm lận!"

Tôi thì cũng có điểm vậy, mười hai mười ba trên hai mươi, ít nhất bài làm của tôi cũng trúng được phần nào chứ không phải như đám bạn của tôi, có thằng còn nợ lại ông thầy nữa kìa.

Và vì cái mặc cảm đi bên cạnh người học giỏi nên khi anh tôi định hy sinh một ngày học ở trường Y Khoa để chở tôi lên Tổng Y Viện Cộng Hòa cho mấy ông bác sĩ khám cái đít thì tôi nhẹ nhàng nhưng cương quyết không chấp thuận, vì dù sao Mê cũng đã hứa sẽ đưa tôi đi mà?

Hôm qua tôi có nói chuyện với Mê:

- Nhà Dê ai cũng bận, Dê bị vết thương hành muốn té xỉu. Chẳng hay Mê có biết đường xe buýt lên Cộng Hòa?

Mê chớp mắt:

- Anh bị thuơng ở đâu? Thấy tay chân mặt mày lành lặn mà?

Không lẽ nói bị thương ở mông? Ai mà nói vậy với con gái bao giờ? Kỳ lắm!

- Dê bị ở ...bụng

Mê hoảng hốt. Ánh mắt hốt hoảng của nàng làm tôi nhớ ngàn đời. Nếu kiếp sau có đi lính, tôi cũng xin được bị thương đâu đó nhè nhẹ, để tôi được nhìn ánh mắt hốt hoảng của em.

- Mê chở Dê đi cho!

Ới đất trời ơi! Xin đừng sập xuống ở giây phút này.

Mộng lành tôi đến bù đắp cho những ngày mộng dữ. Xin ngày mai trời cứ mưa cho nước ươm ấp tình nồng.
Mà nếu cho dù hôm nay trời có sập xuống tôi cũng vẫn cảm thấy vui vì hình như Mê cũng đã dành cho tôi tình cảm đầu đời.
Hay là nếu trời không mưa mà có nắng ráo thì Dê nầy cũng thỏa được lòng, nắng cho em tươi một nụ hồng thì trông cũng đẹp.

Trên chiếc PC, tôi đèo Mê tìm đường lên trời, nàng mặc áo dài trắng nữ sinh cán sự điều dưỡng, tôi mặc áo trận ủi hồ phẳng phiu, lon Trung Sĩ Nhất nằm dài trên cánh tay trái, đôi bốt đờ sô tôi bóng loáng sáp đèn cầy. Đám nhỏ hàng xóm nói coi anh Dê phong độ như Thiếu Tướng. Ừ ừ...thế nào tôi cũng lên tướng, tướng trong lòng của Mê.

Và khi ra đến đường thì tôi để ý có mấy thằng cũng chạy xe Honda dòm dòm Mê mà thiếu điều xém nữa đụng vô gốc cây dầu trồng dọc hai bên đường Nguyễn Văn Thoại chỗ trường đua Phú Thọ.

Gió thổi vì vèo.
Có vài cành lá lả lơi, có cuộc tình vừa chớm. Đường đi có vai mềm của thiếu nữ chạm nhẹ vào vai tôi. Có ngất ngây cuộc đời.

Mê hỏi:

- Nếu mình cứ chạy thẳng hoài con đường này thì sẽ tới đâu?

Tôi ngây ngốc trả lời, sẽ tới ngả tư đèn xanh đèn đỏ. Tôi chưa đủ khôn để hiểu rằng, "anh ơi ta đi bên nhau đến suốt cuộc đời nha anh?"

Con gái, họ có nhiều ý tưởng trong một lời bình thường lắm. Tôi thì cứ hiểu bình thường như lời họ nói, nên đôi khi cứ ọc rơ hoài!

Đến cổng bệnh viện thì Mê thở dài. Tôi tưởng Mê mệt. Tôi đâu biết rằng, con gái họ lo rất xa, Mê tiếc rẽ con đường đi sao quá ngắn? Mê lo ngại đường về chẳng được dài hơn? Tôi làm sao biết được đằng sau tiếng thở dài ấy là cả một trời triết lý lo xa của người đàn bà?
Tuy nhiên thấy Mê thở dài thì tôi nghĩ mình cũng nên thở dài một cái để biểu lộ đồng tình dù tôi chẳng biết đồng tình cái gì?
Tôi bèn đánh ...thượt.
Mê nhìn tôi lắc đầu.

Bẽn lẽn tôi đi vào phòng khám bệnh.

Phòng Khám Bệnh

Vô gặp ông Trung Úy Quân Y Sĩ thì ổng trợn mắt nhìn tôi vẻ vô cùng ngạc nhiên:

- Trời có chút xíu vầy vô đây làm chi?

- Chút xíu chứ đau thấy mồ tổ Trung Úy à! Ông không nhớ hồi nhỏ mình bị đòn cứ ngay mông mà quất sao? Nhảy nhổm chứ chẳng chơi?

Ông cười cười, ừ thì cũng đau, mà cậu bị đòn hoài hay sao mà rành vậy?

Cha nội này lại muốn đi vào đời tư của tôi nữa rồi. Ba má thương tôi như trứng mỏng không hề quẹt một phát vào mông. Cho dù tôi học có dở thiệt nhưng những mục khác của tôi lại có giá vô cùng. Thí dụ như tôi đấm lưng và nhổ tóc bạc cho cha tôi khi ông đang mê mê giấc ngủ trưa, thí dụ như tôi gảy đàn ca cho mẹ tôi nghe bản lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào. Nhiều thí dụ lắm, làm sao kể ra được hết những 18 năm cùng một mái nhà?

Ông Trung Úy quẹt quẹt cho tôi vài miếng thuốc đỏ. Trời, Chiến Thương Bội Tinh của tôi mà chỉ có ngần này hay sao? Ít nhất cũng phải băng bột chứ?
Và rồi ông ngạc nhiên khi thấy tôi mang lon Trung Sĩ Nhất mà mặt còn trẻ măng, thường thì trong quân đội, những Trung Sĩ Nhất là những gương mặt dầy dạn gió sương bụi đường cát trắng phủ đầy. Còn gương mặt của Chuẩn Úy mới là trẻ.

Tôi hãnh diện bỏ nhỏ cho ông biết tôi về từ cõi chết, cõi Bình Long hoang tàn.
Ông lại làm tôi ngạc nhiên khi ông hỏi Bình Long ở đâu? Á, chắc có lẽ miền Nam có nhiều địa danh hoang tàn quá nên người ta không còn nhớ đến nơi nào hoang tàn hơn?
Thật là lãnh tụ miền Bắc đã biến đồng bằng sông núi miền Nam thành vùng bất ổn ngập tràn những trận lụt nước mắt khóc người thân.

Tôi không thèm nói chuyện với ông bác sĩ nữa vì ông không cùng nằm chung một chiến hào với tôi. Ông ở mút chỉ ngoài sau.
Tôi thèm nói chuyện với Mê.

Trên đường bước ra cổng, có anh binh nhì Quân Y kia đưa tay lên chào lon Trung Sĩ Nhất của tôi, tôi chào trả lại, lòng hân hoan ừ ừ ít nhất tôi cũng còn hiện diện trong quân đội.

Mê hỏi:

- Nặng không Dê?

Tôi giả vờ mặt rầu rầu:

- Chắc là phải mổ

Mê rú lên, Trời ơi!
Tôi khoái chí vì hình như Mê lo lắng cho tôi nhiều lắm. Làm sao trên đời này có được một người lo cho mình thì có phải đó là niềm hạnh phúc tuyệt vời?
Tuy nhiên tôi cũng phải trấn an nàng:

- Thiệt ra thì ông có quẹt cho thuốc đỏ và hình như các ông ấy còn phải họp nhau để bàn là có nên mổ hay không? Nhưng Dê thấy khỏe lắm rồi. À mà bây giờ mình đi đâu đây? Đi uống sinh tố há?

Mê nhỏ nhẹ:

- Tùy anh

Mê ơi, nếu cuộc đời của em cứ tùy anh thì có lẽ đến một lúc nào đó em sẽ rách bươm ra. Tương lai của anh chắc chắn là những chuỗi ngày ...thôi không dám nghĩ tới nữa.

- Mê ơi, sau uống sinh tố xong rồi, mình ra Đại Nam coi phim Mùa Hè Năm Ấy nha?

- Dạ!

Mùa Hè Năm Ấy

Mà ngày ấy Mê cho tôi hôn lên má nụ nồng nàn. Tôi thề với Mê, chỉ có một mình em thôi đủ làm tôi vui sướng. Mê thề với tôi, chỉ một mình Dê thôi khiến em hạnh phúc ngập tràn.
Vậy mà hôm nay, nơi đây, trên đảo Guam, tôi lưỡng lự có nên về lại nước Việt Nam có Mê và có cha mẹ với anh tôi?

Ngày hôm di tản chiến thuật xuống chiến hạm, tôi cứ tưởng là quân đội sẽ tái phối trí lại và lập những khu tử thủ như xưa kia ở Bình Long ở An Lộc, ở Khe Sanh.
Tôi không ngờ tôi phải rời khỏi nước Việt Nam.

Ngày mai, chiếc tàu Việt Nam Thương Tín sẽ nhổ neo về lại Việt Nam. Chính phủ Mỹ giành quyền quyết định cho từng cá nhân một, ai về thì sẽ được chu cấp cho một số ít vận dụng cần thiết.
Tôi suy nghĩ miên man, có nên về hay không?

Có những người biểu đừng về vì Việt Cộng rất tàn ác, sẽ thủ tiêu và giam nhốt tất cả các quân nhân.
Những người Bắc tản cư từ năm 1954 đã đưa họ ra làm một ví dụ hùng hồn vì sao họ đã bỏ miền Bắc Cộng Sản để chạy vào trong Nam. Có cụ gào lên: "Giời ơi! Mầy cứ rượt theo ông mãi!"

Có những người chưa đã chuẩn bị tinh thần để làm một chuyến đi xa rời tổ quốc, gia đình, nơi chôn nhau cắt rún. Họ muốn về, họ hy vọng rằng dù dưới chế độ nào, dù ai là Tổng Thống, cũng phải lo cho dân. Ông người Bắc gầm lên: "Chú ...nhầm!" Xém chút đã có đánh lộn nhau.

Tháng 9, 1975, chiếc tàu Việt Nam Thương Tín hụ hồi còi dài rời bến trực chỉ Việt Nam. Cả hơn ngàn người lòng ngổn ngang trăm mối. Ngong ngóng, chờ đợi lo âu. Không còn chắc là quyết định mình có đúng?
Trên bong tàu gió lộng. Tôi thầm thì:

- Mê ơi, anh về lại bên em. Cha ơi, mẹ ơi, anh ơi, con về.

Sau 2 tuần lễ lênh đênh trên biển thì tàu về đến Cấp, nhưng không được phép cập bến mà phải thả neo ngoài khơi. Từ xa nhìn vào bờ biển Vũng Tàu đã thấy một màu tang trắng. Mọi người bắt đầu hoang mang và hối hận. Nhiều người đổ bệnh vì thể xác và tinh thần đều suy nhược. Ba ngày chờ đợi để được xuống đất liền như 3 thế kỷ nặng nề trôi.

Tôi nhìn lên trời thấy vạn vì sao. Những sao về phương Tây sao rực sáng, những sao về phương Đông quê hương tôi sao tối mù mù. Trong những sao tối mù ấy, tôi nhận ra sao bổn mạng của tôi.Tôi muốn mời sao xuống kể lể chuyện ngày xưa, nhưng sao sao cứ lặng lờ
Tôi chợt nhận thức rằng, có những sự việc phải quyết định không bằng trái tim mà phải bằng lý trí.

Rồi thì sau cùng tàu bị áp giải ra Nha Trang. Đàn bà con nít được thả về, đàn ông con trai bị nhốt ráo.
Mùa hè năm ấy mà tôi tưởng là mùa hè đoàn tụ. Nhưng không, mùa hè năm ấy, mùa hè báo hiệu của chia ly.

Có những mùa hè đẹp đẽ đong đầy kỷ niệm trong từng tâm khảm của từng người, như Mùa Hè 1942 của Herman Raucher, kể lại chuyện những cồn cát đợi chờ, người thiếu phụ trẻ bên song đang trông ngóng bước chân chồng nơi xa, căn nhà bên đồi cạnh bờ biển cô đơn và cơn cuồng vội vì nhớ nhung. Đã đưa Mê và Dê cùng các bạn chòm xóm, GócTrời Paris, Berlin với Nokian92 và Vann cùng NvhN, có Nắng và Buồn, cùng July đã ngây ngất với kỷ niệm êm đềm lần ngơ ngác đầu đời của ông.

Tụi tôi dù có cúp cua trốn học đi xi nê hay ôm vở thả rong trong Sở Thú Sài Gòn thì cũng chỉ làm giàu cho kỷ niệm của những ngày thân ái xưa. Thế mà cha tôi vẫn Trời ơi khi biết tôi đang làm giàu cho kỷ niệm của tôi, và nếu tôi có con thì chắc tôi cũng Trời ơi khi biết rằng nó cũng đang sưu tầm để cho kỷ niệm của nó được giàu hơn. Nôm na ra là tui phét vào đít nó vài ngọn roi khi mà biết rằng nó cúp cua đi cine với đào. Giản dị và quyết định là vậy. Ơ mà, cha tôi đâu có đánh tôi roi nào?

Và mùa Hè 75, cũng có cồn cát Nha Trang, cũng có biển rì rào, cũng có nhớ nhung ngập đầy nhưng khác cái là tôi bị nhốt trong tù. Tội của tôi ư? Tội vì thương nhớ và quyến luyến gia đình cùng người tình thân mến.

Mỗi người có mỗi mùa Hè khác nhau.
Herman Raucher sống trong xứ bình yên.
Tôi, Dê Xanh, sống trong xứ không yên bình.

Và rồi, sang Mùa Hè Năm Sau

Mùa Hè Năm Sau

Tôi được thả về, gặp lại cha mẹ và anh tôi và gặp lại Mê.

Chỉ 2 mùa hè thôi, cảnh đã thay đổi đến rợn người. Thay vì đèo nhau trên chiếc PC chỉ rồ ga thì chạy, nay tôi phải nhổm mông đạp những vòng bánh xe tròn quay lăn trên phố những ổ gà, may mà cái mông tôi đã lành lặn nhờ thuốc đỏ của ông Trung Úy.
Tôi vẫn mặc cái áo trây di của quân đội, chỉ có cái Cánh Gà mà hồi nào quân đội đã giao cho tôi trong sứ mạng giữ gìn đất nước cũng như những huy hiệu của đơn vị đã bị Mê tháo ra.

Mê nói: "Đất nước không còn, Dê làm sao mà còn mang được những biểu tượng này trên thân?" Tôi nghe qua, quả luống là những nghẹn ngào. Đúng vậy, nhiệm vụ của tôi là giữ gìn đất nước. Tôi giữ làm sao mà giờ thì mất hẳn nước, làm sao tôi dám mang trên vai lon Trung Sĩ Nhất như ngày xưa?

Những con đường bây giờ tôi chở Mê trên vòng bánh xe đạp chính là những con đường mà trước kia Mê và tôi hằng đi qua.
Tiệm bán cơm tấm ở Trần Quý Cáp có nước mắm thật dịu và cơm thật nóng với chả thật ngon nay đã đóng cửa im lìm, quán kem ở Lê Lợi ở Lê Lai không còn là quán kem nữa với mùi sầu riêng thơm lừng mà nay chỉ còn lại là một vũng nước đọng thật to, hình như sau cuộc đổi đời, kem cũng tan chảy vào quá khứ.

Gò lưng tôi đưa Mê xuống ngã Sáu ăn nghêu. Nghêu đâu tôi không thấy mà chỉ thấy một phố thị vắng tanh.
Những kỷ niệm nhẹ nhàng, những nơi chốn thần kỳ tôi và Mê đi qua, giờ thì thật tình không còn tìm ra được nữa.

Hai đứa tôi định ghé qua Casino Sài Gòn hy vọng tìm ra một vài phim hay để giải sầu như phim Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh mà chỉ còn thấy ly nước lạnh tanh chứ không có chút mặt trời nào đâu nữa.

À, rạp đang chiếu phim Thép Đã Tôi Thế Đấy, phim Liên Xô tức là xô nhau liên tục. Nhớ hồi xưa đi coi cine phải xô nhau mà mua vé thiếu điều muốn cắn nhau. Nay phim Liên Xô không còn xô nhau nữa mà cứ đánh thức cô bán vé ngủ gà gật mua vé một cách dễ dàng.
Phim bật lên chiếu một đoạn, tôi và Mê xô nhau chạy ra ngoài.

Tôi và Mê xô nhau làm đám cưới.
Hãy tìm những an ủi cho nhau chứ đời này sao mà hồi hộp quá, như cái loa ngày nào cũng hăm dọa Tao sẽ giết chúng mày. Tao sẽ giết chúng mày. Bằng cách nhai hoài một bài dài thòng buồn nôn về những nhận định chính trị của các đồng chí đồng rận đồng rệp. Cứ những điệp khúc nhàm chán nhét hoài vào lỗ tai như quê hương tôiđang hồi mạt rệp cứ ra rã hàng ngày thì chẳng chóng thì chầy người nghe sẽ phải tới thời kỳ long óc.

Tôi và Mê cưới nhau. Tôi không còn là Trung Sĩ Nhất nữa mà tôi được thăng cấp Tướng, như đám nhóc Da Bà Bầu đã tiên đoán hồi xưa, tướng trong lòng của Mê, tướng chịu quyền ...sinh sát của Mê.
Tôi chấp nhận vậy!

Không biết quyết định lần này của tôi có dại khờ như kỳ quyết định ở đảo Guam hay không?
Nhưng dù gì tôi cũng đã quyết định.
Và Mê cũng đã chấp nhận và cha mẹ hai bên cũng đã đồng lòng.
Đám cưới tụi tôi, đám cưới trong đường hẻm.
Ba tôi lấy cái nia, dán tròn mảnh giấy trắng vẽ chữ đỏ hồng:

Tân Hôn Trong Ngõ Hẻm

Mẹ tôi có một số tiền nhiều hơn số ấn định của nhà nước nên bị buộc phải đưa cho nhà nước quản lý giùm. Nay muốn rút ra vì lý do chính đáng, lo việc cưới vợ cho con, nhưng cái ông Lập, Phường Trưởng nói giọng miền Nam: "Dì mà chị gút nhiều dậy? Đồng bào ta còn nghèo, đất nước ta còn chưa xây dựng, chị sao mà xài phung phí?"
Mẹ tôi trả lời:

-Ông thấy với vật giá bây giờ, chỉ đủ mua ít rượu thịt, ít trái cây đãi bà con lối xóm thôi!

Nếu tôi đem chuyện nhà nước ép dân phải đưa tiền cho nhà nước giam giữ và kỳ kèo khi dân cần rút ra cho người ngoại quốc nghe thì chắc có lẽ họ sẽ cho là tôi vu khống và mạ lỵ nhà cầm quyền với nhiều đỉnh cao nhòng trí tuệ. Thôi thì hãy cứ lặng thinh mà tưởng tượng rằng, nước Việt Nam cũng được cai trị bởi những con người cũng cùng đi bằng hai bàn chân vậy!

Đám cưới, bàn đặt dài trong hẻm, mỗi người phải tự mang đến chén dĩa cùng ly và ...ghế. Cha nào không mang theo ghế thì ráng mà đứng.
Đàng trai đàng gái hùn tiền mua thức ăn có heo quay bánh hỏi cùng rượu đế. Quan khách hoan hỉ chén chú chén tui cũng rộn ràng lắm. Thời buồn bã gặp tiệc nhậu còn gì vui bằng?
Cha tôi phải năn nỉ ông Phường Trưởng tắt cái loa đi cho có vẻ là tiệc cưới chứ không phải là buổi học tập chính trị.

Tôi nghe có tiếng thì thầm:

-Vậy là con Mê không phải lấy chồng thương phế binh Việt Cộng rồi!

Lời đồn hoảng hồn này đã khiến bao cô gái xuân thì miền Nam vội vã đi lấy chồng...đại. Tôi nghĩ lời đồn này chắc từ mấy cha bợm nhậu mà ra chứ nhà nước ta nói một là một như đinh đóng cột: "Vì hạnh phúc của toàn dân, đảng ta mần cuộc cách mạng vĩ đại"
Vậy mà dân không tin, các bà con gái cứ vội vàng cắt hết móng tay, không dám thoa son làm điệu, không dám trang phục chỉnh tề, guốc cao gót bẻ gót cho hết cao và sau cùng thì vội vã đi lấy chồng. Đám con trai được quyền lên giá. Há.

Tôi mặc áo sơ mi trắng với cà vạt xanh. Mê mặc áo dài nữ sinh, xem em thật dịu dàng. Đời em và tôi bắt đầu bằng sự giản dị trước hết.

Nhưng những ánh mắt người lớn trong đó có ánh mắt e dè của cha tôi áng chừng như, tuổi trẻ hôm nay xây dựng cuộc đời riêng trong một chế độ chưa hề biết xây dựng.

Lạy tạ ơn tứ thân phụ mẫu, dưỡng dục sinh thành. Tôi thì thầm với Mê:

-" ♪♪♪...dù cho mưa hay cho bão tố có kéo qua đây, dù có gió, có gió lạnh về, có lá sầu gầy. Mình ơi, anh vẫn yêu em" (Niệm Khúc Cuối -Ngô Thụy Miên)

Mê chớp mắt, mắt nàng đẹp như trời mưa nhẹ

Biết rằng bám lại Sài Gòn thì đói rã họng vì chỉ có biết bán các vật dụng trong nhà mà ăn từ từ chứ đâu có công việc gì làm? Tôi xin cha mẹ hai bên một ít tiền cùng tiền của tôi và của Mê gom lại. Tôi mua một ...chiếc thuyền.

Mê trợn mắt tròn xoe.
Cha tôi la lên:

- Trời ơi!

Những người dân thành thị làm gì biết đi thuyền? Tôi giang hồ tứ chiếng, tôi từng trải ở vùng 4 kinh ngòi sông rạch. Chuyện lái thuyền chèo ghe với tôi như dân Sài Gòn phóng xe Honda Dame vậy.

Vợ chồng son tụi tôi sẽ chèo ghe đi bán hàng bông.
Nhất định tôi sẽ đưa Mê ...

Xuống Xuồng Về Quê

Xuồng tôi cũng khá lớn nên người ta gọi là ghe.
Ghe tôi gồm hơn 9 mảnh ván góp lại, nên người ta gọi là tam bản, mà ghe tam bản của tôi coi ra lại thấy lớn hơn loại tam bản thường, do đó người miền quê gọi là ghe tam bản ...bự.
Tôi mua lại của thằng Hổ.
Hổ là bạn cùng đơn vị hồi xưa. Kỳ tan hàng năm 75, Hổ có nói với tôi là nó về quê vợ ở Hộ Phòng, Bạc Liêu. Và sau này khi có ý thối lui về vùng 4, tôi nảy ra ý định đi tìm Hổ, dù không hề biết địa chỉ nhưng khi tôi hỏi Hổ chồng của cô Dần thì người ta chỉ cho tôi trúng phóc.
Từ chợ Hộ Phòng đi vào nhà Hổ phải đi bằng tắc ráng chứ không có đường xe. Vợ chồng nó có một hàng đáy và 5 công ruộng, hễ con nước sắp lớn thì nó thả đáy kiếm cá tôm, còn khi rảnh thì lội ruộng thăm lúa. Hai vợ chồng hai đứa con lúc nào cũng thoải mái hơn dân ở Sài Gòn.

Hai đứa gặp nhau mừng lắm! Thôi thì cứ huyên thuyên.
Nó ra kéo cái vó, những con tép bạc nhảy múa trong đó, hú một tiếng gọi mấy bạn bè chòm xóm, cả đám nhậu suốt một đêm.
Trong đám nhậu có anh Thân, anh cũng lớn tuổi rồi, có đến 9 đứa con, nhà ở tuốt Cà Mau, anh lên Hộ Phòng thăm cô Dần là em ruột.

Anh Thân trước kia là giáo viên dạy bậc Tiểu Học, nay anh là sư phụ tổ chức vượt biên. Anh lùng sục mua những ghe biển ghe cào nhỏ tu sửa lại và kiếm mối tìm người vượt biển.
Anh có quen với một xóm biển kia toàn là người của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà đứng đầu là Sáu Dân với thằng Dám. Tôi cũng có theo anh Thân ra xóm biển đó nhậu nhẹt hết mấy ngày để quen mặt và thuộc đường vì anh Thân sẽ bỏ tiền ra để gắn cái máy cũng như lợp khúc mui ghe cho tôi, bù lại tôi phải hứa sẽ lòi người ra tàu lớn 2 chuyến cho anh khi anh cần. Tôi chấp nhận làm chuyện đó nhưng tôi không có nói cho Mê nghe.
Anh Thân dặn tôi rằng:"Với đàn bà mình phải làm vài chuyện lén, chỉ vài chuyện thôi, đừng làm nhiều quá thì hay bị lộ vì người đàn bà là thầy của các bậc tiên tri, cũng như bà lão mù người Bulgary, Vanga Dimitrova đã từng tiên đoán chính xác về thảm họa nổ tung nhà máy nguyên tử Chernobyl, có đúng hông? Tuy nhiên nếu bao giờ bị bể thì mình phải chối biến đi liền"

Tôi không coi câu đó là khuôn vàng thước ngọc nhưng tôi nghĩ thà là một người bị hồi hộp còn hơn là cả hai phải cùng lo âu. Cứ để yên cho Mê thắc mắc về những lục bình từ đâu đến mà trôi sao nhiều quá? Tôi phải lo chuyện cơm nước và tương lai, những chuyện đó đầy hồi hộp và gay cấn lắm rồi.

Ghe được gắn thêm máy và được lợp mui, tôi và Mê thấy thoải mái hơn nhiều. Tôi không còn phải gò lưng bước tới bước lui theo nhịp chèo. Mê cũng không còn phải nhẫn nhục thò cánh tay xuống nước quạt quạt cho nhanh hơn mà cho kịp con nước. Ghe tôi chạy vù vù.
Mới mấy tháng sống cuộc đời trôi nổi trên kinh rạch sông ngòi, Mê đã hòa vào cuộc sống đến độ kinh ngạc. Nàng đã mạnh dạn nhảy ùm xuống sông, tay vịn bẹ ghe khi muốn làm chuyện tiểu tiện, đó là khi nói về hãy còn là chèo, nhưng nay đã có máy gắn trong lòng thì tôi đã đóng 4 miếng ván thành hình hộp cho phòng tiêu tiểu de ra ở phía sau của ghe để hầu theo kịp đà văn minh của chế độ. Duy chỉ có điều Mê vẫn còn phải trùm nón lá che mặt khi bước vào phòng lộ thiên đó vì nàng vẫn còn mắc cỡ khi làm chuyện ấy với gió hây hây thổi.

Mê cũng đã biết lái ghe, đẩy cần qua phải để quẹo trái và qua trái để quẹo phải cũng nhưđã dám thòng ngược người xuống để tháo bỏ những đám lục bình cuộn vào chân vịt. Mê trở thành Phó Tổng Bí Thư của con...xuồng quốc gia chỉ có hai đứa.

Nay thì tụi tôi có thể đi xa hơn là cứ chèo vòng vòng vùng Hộ Phòng, Giá Rai mua đồ hàng bông ghé chợ bán lại.
Tụi tôi đi thẳng lên Sóc Trăng băng qua Cù Lao Dung, nơi mà những người dân vẫn còn chưa dám mặc áo quần màu sáng mãi từ thời Pháp thuộc. Vì họ sợ là chỉ điểm của những cuộc oanh tạc của phi cơ. Họ mặc áo quần màu nâu hay màu đen để hòa với đất.
Tụi tôi không biết điều đó, Mê mặc áo bà ba màu xanh, tôi mặc áo thung màu trắng vào rẫy của họ hỏi thăm mua chuối khoai lang khoai mì, họ nói chuyện mà cứ nhìn lên trời lo sợ máy bay đầm già rồi họ biểu tụi tôi thay áo quần cho họ yên tâm.

Theo sông nước kinh ngòi, ngược giòng Cửu Long thuyền tôi lên đến Cần Thơ, vựa trái cây miền Nam nước ngọt. Ngang qua Trà Ôn lên đoạn nữa gặp Trà Nóc có những quán cà phê người Tàu bán lá trà xanh. Tụi tôi đưa thuyền quành lại Cái Vồn rồi xèn qua Cái Khế mua chôm chôm măng cụt.

Cuộc nổi trôi trên kinh ngòi có những buổi chiều vàng ngồi trên mui ghe, chân quặp vào cần lái, tôi nhâm nhi hũ rượu Tắc Kè mua ở Tắc Sậy, đốt lên điếu thuốc rê nghe Mê đang dựa lưng kể lại chuyện Sài Gòn.
Sài Gòn có những con đường mòn, mòn gót nhiều cặp tình nhân.
Nơi đây, tôi và Mê có những lục bình đẩy đưa niềm ân ái. Mê đã có bầu, hài nhi trong bụng Mê theo từng cơn sóng nhẹ của những con sông hiền hòa đang lớn dậy.
Cho đến bữa kia, anh Thân nhắn tôi chuẩn bị ...

Đưa Người Ra Biển

Xe đò ngừng lại ngay chợ Hộ Phòng.
Thằng Hổ nhảy xuống trước, đoạn 6 người vừa đàn ông, đàn bà và 2 em nhỏ theo xuống sau.
Mỗi người xách trên tay một cái bịch hay một cái giỏ. Ai cũng ngơ ngác vì lạ cảnh, áo quần đầu tóc mặt mày chẳng giống chút nào là dân địa phương, có chị kia cũng mặc bà ba đen nhưng mà còn mới tinh. Thoáng nhìn qua thì ai cũng biết nhóm này đang tính chuyện đào tẩu đây.

Tôi vội vàng xấn lại nói to, giọng mừng rỡ:

-"Chị Ba, em nè chị Ba, Dê nè, đen quá hả? Chị nhìn không ra hả?" rồi nhỏ nhỏ giọng tôi nói:"Chị Ba à, làm ơn cười cười cái coi" Chị sợ sệt cười như mếu.

Tôi kéo đại tay anh kia:

-"Anh Ba, má mạnh khỏe hông anh? Hai đứa con của anh đây hả?" Thằng chả tính lắc đầu nhưng thấy cái nheo mắt của tôi thì dả gật gật.

Tôi bỏ nhỏ:"Anh cười lớn lên cái coi"
Dả cười khà khà làm cả đám cũng cười theo khà khà.
Tôi kéo anh Ba và chị Ba cùng hai đứa nhỏ đi thẳng vô chợ bỏ mặc thằng Hổ với mấy người kia.
Đột nhiên có một bà rượt theo:

-"Ới trả con tui lại!"

Tôi muốn són đái trong quần nhưng cũng phải làm tỉnh nói:

-"Chời, chị Nga, em mới dẫn con chị đi ăn bún mắm mà chị la làng um sùm dậy?"

-"Tui cũng theo nữa" Bà mà tôi gọi đại là Nga trả lời.

Hên là không có ông nào rượt theo đòi vợ.

Tụi tôi đi tới hàng bún mắm kéo ghế ngồi xuống. Nhóm thằng Hổ cũng rề rề đi theo. Tôi hoảng hồn nháy mắt, mầy dẫn qua ăn hủ tíu đi, chứ ngồi chùm nhum một đống thế nào cũng bị công an Hộ Phòng tóm cổ.
Tụi tôi phải đợi 2 tiếng nữa con nước mới lớn, mới có thể xuống ghe về nhà thằng Hổ.

Mê thì đang giữ ghe đậu sau lưng tiệm sửa máy của ông Sáu Mẫn. Dù anh Thân có dặn tôi đừng cho Mê biết nhưng làm sao tôi đừng được? Đời tụi tôi chỉ có hai đứa! Giấu nhau cái gì ông hai?
Tôi mua một tô bún mắm đem xuống cho Mê.
Mê hỏi:

-"Mấy người lận Dê?"

-"Tám"

-"Họ đang ở đâu?"

-"Ở trên chợ"

-"À,"

-"Anh sẽ đem bớt hai người đàn ông xuống ghe trước nha"

-"Dạ"

Những người đàn bà khi vô chợ thì họ trở thành dạn dỉ và tự nhiên hơn, còn các ông đàn ông thì sao cứ lúng túng như đi lạc vào thế giới xa lạ.
Ém trong nhà thằng Hổ qua đêm đó thì hôm sau anh Thân đưa đến thêm 2 người nữa và dặn hễ nước bình thì phải khởi hành để kịp chuyến ra khơi buổi khuya. Mật hiệu với tụi thằng Dám là đèn pin chớp 331, chớp 332 là bể ổ.

Nước vừa bình trước khi ròng thì tôi và Mê đưa đám người đi, những người đàn ông thì cứ xà lỏn áo thung ung dung ngồi nhậu, đàn bà thì cứ rọc mía nấu cơm làm cá ăn chiều. Trên ghe còn nhiều mía và trái cây.

Có chị kia hỏi nếu gặp công an thì mình ăn nói làm sao?
Tôi trả lời là cứ nói ra xóm biển ăn cưới, cứ nói là quen với Sáu Dân và thằng Dám và cùng lắm thì mình mỗi người một mớ hối lộ cho tụi nó.
Nhưng tôi biết là suốt đoạn đường đó không có công an, ra gần tới cửa biển Gành Hào mới đầy dẫy, tuy nhiên tôi sẽ quẹo vào kinh rạch trước đó một đoạn xa rồi luồn lỏi tới xóm chài và theo nhiều đường lạch nhỏ để ra ngoài biển.
Cửa Gành Hào là để cho những ghe đánh cá lớn đi mà thôi. Với tam bản thì không ai nghĩ rằng sẽ dám ra biển vì dễ chìm không nhảy được sóng vì mũi không cao. Mà tam bản lường cũng không sâu nên không sợ mắc cạn.

Tôi chớp đèn 331 cho thằng Dám, nó chớp lại an toàn.
Rồi nó dẫn đầu cùng với mấy chiếc giỏ lải chở thêm một số người nữa xé nước chạy ra tàu mẹ.
Mây che trăng mờ mờ, gió thổi mạnh, sóng dập dình, người ta nắm níu nhau leo qua tàu mẹ. Tàu mẹ là chiếc ghe cào không to lắm có cái mũi cao để chẻ sóng đang ình ình tiếng máy nổ.
Nhóm người đã lên hết, bỗng nhiên từ trên tàu mẹ anh Thân nhảy xuống ghe tôi:

-Chết cha rồi Dê ơi! Thằng tài công nó không chịu ra. Giờ làm sao bây giờ?

Tiếng gió thổi át đi lời ảnh.

-"Vậy chứ ai lái tàu ra đây?" Tôi hỏi

-Thằng Hổ

-Vậy anh nói nó đi luôn đi

Hổ cũng từ bên tàu nhảy xuống:

-Tui đi hổng được đâu anh Thân à, vợ con tui còn kẹt ở nhà á! Hay là mày đi đi Dê?

Anh Thân cũng nói thêm:

-Dê với Mê đi luôn đi.

Mê và tôi nhìn nhau lưỡng lự.
Tụi tôi đã có ý định vượt biên từ lâu, những đêm cặm sào ở mé sông hai tôi thường nằm nhìn trăng, vẽ ra một cuộc sống đoàn tụ dưới mái ấm gia đình, có cha có mẹ, có những ngày lễ giỗ cùng nhau ngậm ngùi chia sẻ. Con cái sẽ phải học hành đầy đủ, có được tự do để phát triển, chứ không thể sống đời trôi nổi như chúng tôi, không nhà không cửa không cột trụ.
Tụi tôi bao lâu vẫn coi nhà của thằng Hổ như là nhà của mình, một chỗ để dừng chân giữa hai chuyến lang thang trên kinh rạch.
Tụi tôi dự định sẽ tìm cách đưa hết cả gia đình cha mẹ, anh chị em hai bên, qua vùng trời tự do có nắng ấm để sống được đời của con người.

Nay sự thể xảy ra thế này, tôi và Mê có cơ hội liều một chuyến để vượt thoát, lành dữ chẳng biết ra sao?

Tôi nhìn Mê. Mê nhìn tôi.
Tôi gật đầu. Mê cũng gật đầu.

Anh Thân mừng ra mặt:

-Anh sẽ bán ghe này đem tiền về Sài Gòn giao cho ba má tụi em, cho anh địa chỉ nhà hai em đi.

Tôi và Mê viết vài giòng gửi về gia đình.
Chắc chắn mẹ tôi sẽ đầm đìa nước mắt.
Chắc chắn cha tôi sẽ Trời Ơi tiếng rõ to.
Tôi và Mê đã quyết định ...

Vượt Trùng Dương

Chiếc ghe cào xoay một vòng, lúng túng tôi không biết đi về hướng nào, biển sao mênh mông, đêm sao tối ngòm.
Thằng Dám trước khi quay mũi giỏ lải về đất liền, nó gào lên trong tiếng gió, hướng đó đó.
Tôi ngạc nhiên sao trong đêm đen mà nó phân biệt được hướng nào?
Nhìn theo tay nó chỉ, tôi ngộ ra, dù mây che đi mặt trăng nhưng vùng đó vẫn mờ sáng hơn tất cả, à hướng Tây. Tôi nhắm mắt mường tượng lại bản đồ, chênh chếch hướng Tây là Thái Lan. Đúng rồi, tôi lấy mũi ghe chếch về phải khoảng 10 độ của mặt trăng. Từ đó, cứ vậy tôi đi.
Sóng nước bây giờ đã nhồi từ sau mông đưa đến, Mê ngồi kế bên mồi cho tôi điếu thuốc. Tôi chỉ hướng cho Mê thấy và đưa cần lái cho nàng. Nàng cũng có cảm giác là mình đang xuôi theo giòng.

Đó là tháng Năm nhưng biển vẫn còn êm như lụa. Giờ thì ai cũng đã quen với gió, gió không còn lồng lộn nữa, gió chỉ còn là vi vu.

Tàu lướt đi 4 đêm 4 ngày, tụi tôi thấy những hàng cây tre trồi lên giửa mặt biển, trên đó viết chữ ngoằn ngoèo của Thái Lan.
Cả tàu mừng quá la lên đến Thái rồi, đến Thái rồi!

Nhưng niềm vui chợt tắt ngúm vì tụi tôi thấy từ xa 2 chiếc tàu cao ngất xịt khói đen phóng đến thật dữ dằn. Tôi bỏ chạy nhưng chẳng mấy chốc thì chúng bắt kịp.
Những thằng hải tặc Thái Lan với 2 khẩu M16 và dao búa nhào xuống ghe, giật phăng tất cả đồng hồ dây chuyền, bới tung hành lý kiếm vàng vòng. Đoạn bắt tất cả đàn bà con gái lên tàu chúng và giồng tàu tôi đến đảo Koh Kra.
Vừa bước chân lên đảo, thoáng thấy Mê cùng đứng với những người đàn bà. Tôi vùng chạy tới nhưng hai gã giữ tôi lại, thằng thứ ba đấm thẳng vào mặt tôi, đom đóm tóe ra, tôi gục xuống nhưng tôi vẫn còn nhìn được Mê. Nàng bị kéo xệt đi, cát quệt lại một đường dài.
Trong ánh mắt hốt hoảng tuyệt vọng của Mê có lồng theo sự thất vọng kinh khủng. Nỗi thất vọng vì tôi không bảo vệ được nàng. Bóng tối và ánh sáng quay cuồng dữ dội trong óc, tôi ngất đi.

Ba ngày dài tôi nằm liệt trong cơn giận dữ, chúng dùng súng để không chế đám đàn ông, còn đàn bà thì chúng mang khuất qua bên kia hảm hiếp. Ôi còn nỗi đau lòng nào hơn cho tôi, ước gì tôi có được một khẩu súng, một khẩu M72.

Cao ủy Liên Hiệp Quốc ra đảo mang chúng tôi về đất liền.
Những niềm tủi nhục ngậm ngùi.
Những người đàn ông cúi đầu trong nghẹn ngào, uất hận.
Những phụ nữ mang vết thương lòng khôn nguôi.

Và rồi dù gì đi nữa, chúng tôi cũng phải khiêng niềm đau đớn cùng hành trang qua ...

Xứ Lạ Quê Người

SpringField, Ohio

Về cánh đồng mùa Xuân nhưng Mê và tôi không tạo được mùa Xuân trong mái ấm.
Nàng đã tránh mặt tôi không trò chuyện nhiều như ngày xưa nữa và bao giờ cũng dùng thật nhiều thì giờ để lặng lẽ dùng khăn ấm lau tay lau chân cho bé Mãi, nàng ngắm nghía gương mặt của con nhỏ, đoạn thở dài và đưa khăn lên lau mặt con, ý chừng như không muốn con nàng mang những vết nhơ uế từ nàng truyền sang.

Sau những giờ mệt mỏi làm công ở những cánh đồng bắp, tôi dùng thì giờ để khuyên lơn an ủi và xin lỗi những tai nạn của cuộc đời xảy đến cho Mê mà những tai nạn ấy làm Mê đau nhiều nhưng đã làm tôi đau còn nhiều hơn nữa. Vì tự trong thâm tâm của tôi đã mang một mặc cảm nặng nề là không đủ khả năng để bảo vệ cho người vợ bao giờ cũng nhỏ nhẹ "tùy anh", người tin tưởng tuyệt đối vào tôi và nay người vì tôi mà mang niềm thất vọng.
Tôi muốn uống rượu thật nhiều cho quên sự cắn rứt kia đi, nhưng khi nhìn con bé Mãi, tôi thấy tôi không cần uống rượu nữa mà tôi sẽ dành tất cả tình thương cho con tôi.

Đến một ngày kia, có lẽ sự ẩn ức đã khiến Mê chọn một quyết định, nàng để lại một lá thư trên bàn "Sao anh không táng em một bạt tai thật mạnh? Sao anh không nguyền rũa em một lời? Sao anh không cứu em lúc đó? Sao anh không để em phá thai?"

Thư nàng làm sao tôi biết đường trả lời?

Tôi qua nhà bà Kathy nhận con về, ôm bé Mãi trên tay tôi thì thầm, hai cha con mình chờ mẹ về.

Nhiều mùa Đông tuyết phủ, nhiều lắm những đêm tôi ngồi khơi bụi than lò sưởi, trong tiếng nổ tí tách cuả cây củi tôi thấy hồng lên khuôn mặt của Mê, tôi thấy con thuyền tam bản của tụi tôi đang xuôi theo giòng và tiếng cười trong trẻo của nàng.

Mãi ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt Mãi y như Mê, dịu dàng. Năm nay là năm cuối Trung Học của Mãi. Nàng hỏi:
-Ba nhớ má hả?
Tôi gật đầu. Tôi từng trả lời cho Mãi nghe là má con bị thương nặng trong lòng phải đi chửa bệnh hồi lúc Mãi hãy còn nhỏ và hỏi mẹ con đâu? Đến khi nàng lớn lên thì tôi kể hết những gì xảy ra lúc đi vượt biên. Mãi đầm đìa nước mắt nói nhỏ:"Con là con ruột của ba má mà phải không?" Tôi ôm con vào lòng, yes, yes ...

Cái nông trại nhỏ của cha con tôi nhờ những tháng năm dài làm quần quật để quên đi những gì không cần nhớ đã trở thành một kiểu mẫu xóm làng ở Việt Nam, nghĩa là cũng có cổng Tam Quan chào đón, có hai hàng cây cau, có sân rộng nện đất cho rắn để thành sân đình, với bóng mát của nhiều cổ thụ, có ngôi miếu nhỏ kề bên, tôi và Mãi lui cui đào giếng. Mãi và tôi lái xe xúc đất làm thành con rạch, mùa mưa có nước chảy quanh nhà. Hai cha con đi xa nửa ngày trời cắt tranh lợp thành mái phủ bên trên lớp ngói. Và có cây cầu tre.

Thì đột nhiên hôm kia có người vào hỏi mua đứt luôn nông trại, mùa bắp tôi cũng đang rộ nở.
Tôi và Mãi cương quyết lắc đầu dù họ trả giá nhiều gần gấp đôi của giá trị.
Tôi và Mãi cương quyết giữ một chỗ để đợi Mê về.
Tôi biết Mê sẽ về.

Nhớ hồi trên thuyền lang thang bến nước, Mê ao ước được mở cửa một căn nhà để biết à ta đã về nơi tổ ấm, nhà to hay nhỏ, rộng hay hẹp cũng là một nơi chứa đầy sinh khí tự do thoải mái.
Bởi vậy trên hai cánh cửa gỗ dầy ở căn chính, tôi cặm cụi khắc tên mỗi đứa một bên. Sau này lớn lên, Mãi cũng dùng dao nhọn uốn éo cho thành Dê Mê Mãi coi như là dấu ấn của cả ba.

Khi tôi từ chối thì họ lộ vẻ thất vọng, họ đề nghị là trả tôi một khoản tiền để dùng nông trại làm hậu cảnh cho một đoạn phim sắp quay.
A! Đây là đoàn quay phim người Pháp hèn gì âm tiếng Mỹ của họ nghe nhè nhẹ tựa tiếng Việt Nam.
Mãi thì mê phim lắm, mắt nàng sáng hẳn lên. Làm gì có dịp để chứng kiến những cảnh quay phim ở xứ khỉ ho cò gáy này? Tôi cũng tò mò, ừ để coi đằng sau hậu trường như thế nào?

Họ rầm rộ đem từng đoàn xe tải chở dụng cụ đến, xây những căn lều dã chiến cho các nam nữ tài tử đóng phim. Tôi mời họ cứ sử dụng tạm nhà tôi, có bộ phản uống trà, có những cột trụ khắc vân một vòng tay ôm không xuể.

Phim họ quay là đoạn của một phụ nữ Pháp sang Việt Nam tìm người tình Việt Nam có một thời du học ở Pháp. Hai người yêu nhau nhưng xả hội và gia đình thời đó không chấp nhận cho tình yêu khác nòi giống. Người phụ nữ muốn làm một cuộc đả phá các hủ tục để tình yêu giữa loài người không còn phân biệt chủng tộc nữa.

A! Vậy là có tài tử Việt Nam nữa, hy vọng không phải là ông Đơn Dương.

Tôi thấy ông đạo diễn cứ gay gắt với ông tài tử Việt hoài, tôi mới thắc mắc hỏi Mãi vì Mãi tiếng Pháp giỏi lắm là ông đạo diễn cự cái gì? Mãi nói, "Ông đạo diễn muốn ông Việt phải rầu rầu chờ đợi người tình Tây mà ông Việt không chịu rầu cứ ngó đâu đâu, kìa ba thấy, ông đạo diễn lấy hai bàn tay banh cái miệng rồi kéo xuống thì có nghĩa là phải sầu bi lắm mới được, vậy mà ông Việt không rầu được nên ông đạo diễn cứ kêu cắt cắt hoài"

Tôi thở dài, lấy điếu thuốc ra hút, không ngờ đóng phim một đoạn ngắn như vậy mà cũng lắm công phu từ sáng mãi đến trưa. Chợt tôi nghe bà phụ nữ Pháp xổ ra một tràng dữ dội với ông đạo diễn làm ông đạo diễn quýnh lên.

Tôi hỏi thì Mãi trả lời:

-"Bả hăm dọa nếu mà ông Việt còn...cà chớn vậy thì bả bỏ luôn chẳng có qua Việt Nam tìm người tình ...xin lỗi ba ...làm con mẹ gì nữa. Bả chửi thề chứ không phải con à nha ba!"

Ông đạo diễn buồn bực biểu thôi tất cả nghỉ, đi ăn cơm. Chữ ăn cơm thì tôi hiểu, "à la táp" hồi đó ở Việt Nam nói hoài.

Tôi bước ra ngoài sân định mang cây chổi tàu cau cất trong nhà, nhưng bỗng ông đạo diễn nhíu mắt nhìn tôi một cách ngạc nhiên rồi vội vàng bước tới chìa tay:

-Bonjour! Parler-vous Francais?

Tôi bắt tay ông:

-Non, non Francais, Anglais sồ sồ

Ông liền bật qua tiếng Việt:

-Ông có muốn đóng phim không?

Tôi liền nhảy nhổm:

-Giỡn hoài cha nội!

-Hổng giỡn đâu, nói thiệt đó. Đứa nào nói láo làm con liền

-Rồi, OK, thử há? Rầu rầu thương nhớ chờ đợi phải hông?

-Ừ ừ...quay phim, quay phim, bà Pháp lại đây, ngó!

Tôi ngồi xuống chỗ anh Việt, tôi nhìn bà Pháp, tôi tưởng Mê, tôi buồn. Tôi biết Mê sẽ về. Tôi biết Mê hãy còn yêu tôi và con quay quắt. Giá nào tôi cũng chờ Mê, anh đang đợi Mê ơi, vết thương em lành chưa?
Gương mặt tôi hiện lên chữ waiting rõ ràng, mà rõ ràng là tôi đang wait.

Bà đầm Pháp liền xà xuống:

-Anh, những ngày xa nhau anh có làm nên bài thơ?

-Có, bài dài hàng thế kỷ. Những mùa Đông lạnh hay những mùa Hè khô, những mùa Thu lá đổ hay mùa Xuân nụ nẩy mầm đều nằm trong ánh mắt em tất cả.

Bà đầm chu môi đòi hôn tôi sau bao ngày xa cách. Làm sao tôi hôn bà được? Tôi chỉ hôn mỗi mình Mê. Bà đầm ngước mắt nhìn đợi, mắt bà trong, mắt bà có mùa Thu chết trong đó. Bần thần tôi tưởng mắt Mê. Tôi muốn hôn Mê, hôn lên mắt bao nhiêu đợi chờ. Tôi xiết bà đầm, tôi tưởng Mê, tôi hôn từ mắt đến môi, tôi hôn cuồng nhiệt.
Đám đông vỗ tay, tôi tỉnh mộng, tôi nhìn lên. Mãi nhìn tôi nhăn mặt.

Những đoạn tình tứ, ôm vai bà đầm bước rảo kể cho nhau nghe chuyện lúc chia xa, tôi cũng vẫn tưởng đó là Mê, tôi kể chuyện dài, tôi cười rộn rã. Mê tôi đã về. Nhưng lúc thảng thốt khi nhìn ra lại thấy bà đầm chứ chẳng phải là Mê đã khiến khán giả cùng đạo diễn vỗ tay tán thưởng như những chấm phá của tình cảm được bộc lộ thật chân tình.

Cuốn phim đưa tôi lên đỉnh cao danh vọng.
Chiếu bên Pháp, người ta gào lên: Dê Dê
Chiếu bên Đức, người ta gào lên: Dê Dê
Chiếu bên Mỹ, người ta gào lên: Goat Goat

Tôi đưa Mãi đi cùng khắp Âu Châu, tôi đưa Mãi đi vòng quanh xứ Mỹ.
Ba tháng sau, tôi và Mãi trở về nông trại.

Qua cửa Tam Quan, qua cây cầu tre tôi bỗng thấy bùi ngùi, chợt tôi nghe mùi hương quen thuộc, chợt tôi cảm tiếng con tim nhẹ nhàng. Hình như trong gió có gì gần gủi, hình như trong nắng có gì thân thương.
Nhưng mà ...

Ai kìa đang ngơ ngẩn nhìn hàng tên trên cửa?
Ai kìa sao lại mặc áo bà ba?
Dáng ai sao nhẫn nại?
Ơ, ai như là em? Có phải là Mê? Hay tôi đang mê? Tóc em vẫn dài, dáng em vẫn dịu.
Đúng là Mê rồi!

Nàng xoay người lại, nước mắt đã đầm đìa. Hai cha con tôi chết sửng. Mãi nhận ra ngay đó là mẹ dù Mãi chỉ biết nàng trong một tấm ảnh chụp ngày xưa.
Mê vẫn vậy, em vẫn vậy. Có chăng là vết thương em đã lành. Em đã là y tá, em đi khắp các trại tị nạn chữa lành vết thương nạn nhân và vết thương em.
Tôi ôm chầm lấy Mê, Mê ôm chầm lấy Mãi. Dê Mê Mãi, chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Như trong mơ.
Mê nhìn tôi trong phim, Mê biết vết thương tôi vẫn còn, Mê về Mê chữa tôi lành hẳn.
Tôi biết, tôi phải giữ lại nông trại vì có ngày Mê sẽ về và nay Mê đã về thật.

-Kiến Hôi-


Thuyền Đời Ơi!

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.516 seconds.