Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Apr/2024 lúc 3:30pm
GẶP LẠI CỐ NHÂN
Gặp%20Lại%20Cố%20Nhân%20-%20SONGTHU31065

 Tôi trang điểm xong và sửa soạn thay váy áo chỉnh tề mà lòng vừa rộn ràng vừa hồi hộp. Chốc nữa ra mắt cố nhân sau 50 năm bặt tin xa vắng. Anh có nhận ra cô gái xinh xinh tuổi hai mươi ngày xưa anh từng tương tư và thề nguyền sẽ cưới làm vợ không nhỉ? Còn anh ấy, tôi không quên mái tóc bồng bềnh của chàng sĩ quan Hải quân mỗi lần anh về phép thăm tôi và tôi từng mơ là thi sĩ để dệt những vần thơ trên tóc anh.

 Bây giờ tôi đã 70 và anh 75 tuổi đời rồi.

 Tôi và Nguyện yêu nhau được một năm, vào lúc cuộc chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa 1972 anh bỏ dở học hành vào đời lính biển. Tình yêu càng xa cách càng nhiều nhớ thương chất ngất, tôi và Nguyện luôn khao khát chờ mong một ngày nào đó hai đứa sẽ nên duyên chồng vợ. Nhưng biến cố năm 1975 chúng tôi chia lìa nhau, mất nhau không một tin tức nào của nhau cả.

 Bao nhiêu năm qua chuyện tình xưa và hình ảnh Nguyện chỉ còn là kỷ niệm đẹp, rất đẹp để đôi lần có dịp nghĩ lại tôi thấy thương nhớ và nuối tiếc bâng khuâng. Bỗng tuần trước tình cờ trên Facebook Nguyện liên lạc với tôi.

Thế là kỷ niệm sống dậy cứ như tôi vẫn là cô gái tuổi hai mươi ngày ấy. Cả hai cùng vui mừng thăm hỏi nhau. Nguyện sau cuộc hôn nhân dài đổ vỡ hiện sống một mình, còn tôi cũng một mình vì chồng tôi đã qua đời vài năm nay.

Hai chúng tôi ở cùng tiểu bang, ở hai thành phố lân cận nhau, cách 2 giờ lái xe. Nguyện đã mời tôi một buổi tái ngộ để anh được trực tiếp giải bày xin lỗi và hàn huyên thăm hỏi nhau nhiều hơn. Để thuận tiện cho tôi điểm hẹn sẽ là một nhà hàng trong thành phố của tôi và anh sẽ lái xe đến. Anh chọn nhà hàng Tao Ngộ vừa có ý nghĩa vừa nổi tiếng thức ăn ngon.

 Tôi sẽ đến trước giờ hẹn nửa tiếng vì háo hức và tò mò muốn trộm nhìn anh xem dung nhan ấy bây giờ ra sao (như trong một bài hát) và tôi sẽ có thì giờ sửa soạn điệu đàng vào gặp anh sau. Thật là thú vị.

 Đến khu parking nhà hàng Tao Ngộ tôi lượn xe chầm chậm tìm chỗ đậu vì chiều cuối tuần nhà hàng đông khách đông xe. Tuổi về già từ lâu tôi đã biết điều luôn tìm chỗ đậu xa, vắng vẻ để dễ vào lane khỏi đụng chạm đến ai. May quá có một chỗ trống tôi cố lái xe len vào thế mà vẫn xuýt đụng xe bên cạnh may mà tôi thắng kịp. Tức thì một ông đầu hói từ trong xe hung hăng bước ra thô lỗ quát to:

 – Này, này… Không có mắt à? Mắt mũi để trên trời à?!

 Nói xong ông đóng cửa xe cái “rầm” bày tỏ sự tức giận và vội vã bước đi, tôi ngượng ngùng vì chưa kịp nói lời xin lỗi chỉ biết nhìn theo bóng dáng to kềnh của ông với chiếc áo khoác màu da bò đang hối hả bước vào nhà hàng.

Tôi bước ra khỏi xe nhìn lại chỗ đậu của mình thấy rõ ràng xe đậu lệch méo mó lấn sang lane xe bên cạnh, thật đáng đời nghe ông kia quát mắng, may mà chưa đụng làm trầy da tróc vẩy chiếc xe, chắc ông sẽ nắm áo đòi bồi thường, vừa phiền phức vừa mất thì giờ.

 Tôi đi vào nhà hàng, hi vọng đừng đụng mặt ông ta lần nữa, mất hứng cho giây phút hẹn hò của tôi với cố nhân. Tôi thong thả từng bước vào nhà hàng và kín đáo tìm chỗ khuất để Nguyện khó có thể nhận ra tôi.

Theo ước hẹn của nhau là Nguyện và tôi đều mặc áo màu trắng, màu áo lính Hải quân của chàng và màu áo học trò của tôi để cả hai cùng nhớ về một thời tình yêu trong trắng. Nguyện sẽ đến nhà hàng trước đặt bàn và ngồi chờ tôi trên bàn có sẵn một bình hoa hồng đỏ.

 Tôi đứng nép một góc cửa phía xa nhìn vào trong nhà hàng và sững sờ khi thấy người đàn ông áo trắng đầu hói đeo kính đen bệ vệ ngồi một mình bên cạnh bình hoa hồng đỏ. Hoa hồng thì đẹp và nên thơ nhưng chàng thì như một tay xã hội đen đang ngồi… rình mồi để trả thù ân oán giang hồ chứ không phải kẻ đang đợi người tình xưa.

Nếu ông to béo màu mỡ này là Nguyện. Chàng Hải quân vóc dáng chuẩn hào hùng thanh nhã ngày xưa của tôi đâu? Ngày xưa mỗi lần chúng tôi sánh vai dạo phố thế nào mấy cô thiếu nữ cũng có kẻ phải quay đầu lại để suýt soa chàng Hải quân đẹp trai quyến rũ làm cho tôi tự hào biết bao. Và mái tóc bồng bềnh nếm bao nhiêu mùi vị biển mặn nắng gió phương xa của chàng Hải quân lãng tử đâu?

 Tôi an ủi mình cũng già đi, cũng thay đổi, toàn đồ giả trên người thì đòi hỏi chi nữa, nên lại hân hoan và khoan thai bước vào nhà hàng, đứng trước mặt người đàn ông áo trắng đeo kính đen tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:

 – Có phải là anh Nguyện không?

 Ông ta nhìn tôi hồi lâu mới từ từ… tháo kính đen ra. Chắc đôi mắt láo liên của chàng sau màn kính đã tha hồ săm soi lướt nhìn tôi từ đầu đến chân để đánh giá tôi rồi, chàng có phát hiện ra mái tóc giả của tôi không? Phấn son che giấu những vết nhăn vết nám trên gương mặt tôi không? Chiếc ví xách tay hàng hiệu đẹp sang cũng là hàng giả hàng nhái chàng có biết không?

 Ôi trời ôi, còn tôi đã nhận ra ngay bản mặt của lão hói đầu lúc nãy mắng tôi sa sả chỗ bãi đậu xe, không lầm lẫn vào đâu được vì tôi đã thấy chiếc áo khoác màu da bò lão ta vắt trên thành ghế bên cạnh.

 – Xin lỗi, chắc… tôi lầm.

 Tôi lắp bắp nói xong định quay đi thì chàng gọi lại:

 – Anh là Nguyện đây mà.

 Tôi thẫn thờ ngồi xuống ghế vì đã qua cơn choáng, đã tỉnh trí ra, Nguyện chứ còn ai vào đây, dấu hiệu mặc áo trắng, bàn có bình hoa hồng rành rành ra kìa. Chỉ tại chàng đeo thêm đôi kính đen mà thôi. Bồi bàn đến, chúng tôi gọi món ăn và bắt đầu nói chuyện.

Bây giờ đối diện tôi nhìn Nguyện kỹ hơn, nét đẹp trai hiền lành tao nhã ngày xưa đã thay thế bằng nét cau có đăm đăm của một ông già khó tính. Có nhà nhân chủng học nào, nhà tâm lý nào nghiên cứu giùm tôi tại sao thời gian lại có tài biến đổi lạ lùng đến thế không!

 Chàng không hề nhận ra tôi mụ đàn bà vô duyên xớn xác đậu xe không nên thân vì lúc ấy tôi còn ngồi trong xe.

 Biến cố 1975 chàng đã lên tàu ra khơi và sau đó không thể liên lạc được với tôi nữa. Đường đời chúng tôi hai ngã rẽ. Tôi không trách móc gì chàng, bao số phận con người đã chìm trong bể dâu cuộc đời nào chỉ hai chúng tôi.

 Nguyện kể công:

 – Anh đã đến sớm nửa tiếng trước giờ hẹn để chọn bàn chọn chỗ ngồi cho buổi tái ngộ này. Tất cả chỉ vì em.

 Tôi cảm động quá, chàng cũng như tôi đều đến sớm vì nao nức chờ mong và tôi tha thứ cho chàng tội thô lỗ “mắng” tôi lúc nãy, chàng không biết đó là tôi và vì chàng đang vội vào nhà hàng. Ăn uống và chuyện trò xong gần 2 tiếng đồng hồ, bồi bàn mang đồ tráng miệng ra cùng một cái dĩa có tờ bill tính tiền. Chàng cầm lên xem và bất mãn kêu lên:

 – Trời! Chỉ có hai người mà những 160 đồng kể cả tiền tip. Nhà hàng này chém ngọt thật.

 – Chắc họ tính tiền cả bình hoa hồng nữa anh ạ.

 Chàng xót xa lẩm bẩm:

 – Chúng ta có ăn bình hoa hồng này đâu, chưng bày xong lát nữa họ lại cất vào mà.

 Tôi ái ngại giùm chàng, chẳng lẽ tôi móc bóp trả tiền làm mất mặt chàng quá nên đành im lặng để cho chàng thể hiện sự ga lăng như trước kia chàng đã từng ga lăng mỗi lần về phép là mỗi lần tôi đều có quà tặng hậu hĩ. Nhưng chàng đã tiếp làm tôi giật cả mình:

 – Anh và em chia hai, mỗi người trả một nửa 80 đồng.

 Tôi còn đang bàng hoàng chàng thản nhiên giải thích:

 – Anh đến Mỹ 1975 sống quen kiểu Mỹ từ lâu rồi. Mời đi ăn chung nhưng phần ai nấy trả.

 Tôi lấy lại bình tĩnh:

 – Em cũng đến Mỹ 1975 em hiểu mà.

 Tôi mở bóp lấy ra 80 đồng để trên bàn cạnh 80 đồng của chàng:

 – Thôi tạm biệt anh. Cám ơn anh một buổi chiều tái ngộ.

 Tôi đứng lên và bước ra khỏi nhà hàng, chàng cũng vội bước theo tôi, tôi bước nhanh chàng tuy to béo cũng cố bước nhanh và hụt hơi gọi vì thấm mệt:

 – Này, em… này… em…

  Tôi khựng bước lại, hay là chàng hối hận đã bắt tôi hùn trả tiền ăn và muốn nói điều tình cảm gì đó trước khi chia tay cho tôi đẹp lòng? Chàng đã bắt kịp tôi vừa thở vừa nói:

 – Này em, nãy giờ mình nói chuyện đủ thứ mà anh quên chưa hỏi em một điều quan trọng…

 Tôi chờ đợi:

 – Vâng, anh cứ hỏi.

 Chàng khẩn khoản:

 – Anh muốn biết tiền hưu trí mỗi tháng em lãnh bao nhiêu có tương đương với anh không? Để khi chúng ta quyết định nối lại tình xưa về sống chung bên nhau không ai phải thiệt thòi. Thế thôi.

 Tôi nhìn thẳng vào cố nhân, người đã từng làm tôi thổn thức tiếc thương và trả lời dứt khoát không còn thương tiếc gì nữa:

 – Chúng ta tái ngộ tâm sự chuyện 50 năm qua chứ em chưa hứa hẹn sẽ về sống chung với anh và sẽ không bao giờ đâu. Anh khỏi phải tính toán trước cho mất công.

 Nguyện thất vọng, mặt trở nên lạnh tanh và ngạc nhiên thấy tôi vẫn đi cùng hướng, ra tới chỗ đậu xe chàng mới hiểu khi tôi mở cửa xe chui vào. Tôi nói:

 – Em “de” xe nếu đụng xe anh, anh đừng nổi cáu mắng em đồ không có mắt nhé.

 Trong khi tôi đang toát mồ hôi nhích từng chút một, quẹo tới quẹo lui cho cái đuôi xe méo lệch ra khỏi lane tôi còn nghe giọng anh ta thô lỗ vang lên y như lúc nãy:

 – Thế mà làm người ta mất thì giờ đến đây, lái xe cả đi lẫn về 4 tiếng đồng hồ và tốn hết nửa bình xăng!

  Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Apr/2024 lúc 9:53am

A Lìn

 

Tây ăn bánh mì vì thổ nhưỡng, khí hậu vùng đất của Tây sinh sống trồng được lúa mì. Ta ăn cơm vì thổ nhưỡng, khí hậu vùng đất của Ta sinh sống trồng được lúa nước. Còn như Tàu có chỗ nó ăn cơm, có chỗ nó ăn mì (sợi). Vì đất Tàu có nhiều vùng thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, từ phương Nam lên phương Bắc, nên họ trồng được cả hai thứ.


Do người Việt hầu như ngày nào cũng ăn cơm nên trong lời nói, chữ viết về cơm, nó nhiều hằng hà sa số, nhiều vô thiên lủng. Nấu bằng nếp thì gọi là cơm nếp. Gạo bị bể, nấu thành cơm thì gọi là cơm tấm. Gạo bình thường nấu thành cơm thì có: cơm trắng, cơm tẻ, cơm nóng, cơm nguội...

Còn phân biệt cơm theo cách nấu: đem cơm nguội đi chiên thì gọi là cơm chiên. (Như cơm chiên Dương Châu chẳng hạn). Gạo nấu chung với đồ ăn trong cái niêu gọi là cơm tay cầm. Cơm tay cầm là một món gồm có cơm và đồ ăn nấu, chưng cách thủy chung, dọn chung cho cả bàn, nhiều người cùng ăn. Như hải sản, gan heo, gà quay... hấp chung với cơm trắng trong cái nồi nho nhỏ có một tay cầm. Sau khi chín, muốn có cơm cháy thì để cái niêu lâu lâu một chút trên bếp lửa. Cơm tay cầm không phải là cầm tay, gặm khúc bánh mì như bà con mình tự trào đâu nhe!

Sau văn sĩ miền Bắc tràn vô Sài Gòn, xài chữ lung tung! Tụi nó gọi ‘cơm tay cầm’ là ‘cơm niêu’.

Ngay cả nhà báo Lê Văn Nghĩa, vỗ ngực khoe dân sanh đẻ tại Chợ Lớn, nhưng trong bài ‘Chợ Cũ ở Sài Gòn’, ông dám đặt bút viết ‘cơm tay cầm’ còn được gọi là ‘cơm thố’ (?)

Viết trật lất! Cơm thố chỉ là gạo (không có đồ ăn), chưng cách thủy trong thố nhỏ cho tới chín mà thôi.


Cơm thố Sài Gòn khu Chợ Cũ, lừng lẫy một thời, trên đường Tôn Thất Đạm quận Nhứt, thoạt kỳ thủy là của người Tàu gốc Quảng (Đông). Cơm thố người Quảng gọi là ‘chung phàn’. Chung là cái thố, phàn là cơm. Xực là ăn. Xực phàn là ăn cơm. Xực ‘chung phàn’ là ăn cơm thố. Còn ‘cẩu xực xí quách’ là Thằng Cẩu (hoặc con chó) ăn xương!

Thố như chén, dĩa, tô, tộ. Nghèo thì mua bằng sành làm ở lò gốm ở miệt Lái Thiêu. Giàu thì mua thố làm bằng sứ như chén kiểu Giang Tây làm tuốt ở bên Tàu.

(Nhậu sừng sừng, cầm đũa ngà khỏ vào thành chén, giữ nhịp cho em hát, nó kêu bong bong: “Anh ơi chiều nay một trăm phần trăm”). Thố có nhiều cỡ, lớn nhỏ. Thố có loại có quai, loại không quai, loại có nắp, loại không nắp.

Nồi dùng để hấp cơm thố phải bự chà bá mới được. Bên trong nồi, đặt nhiều cái xửng bằng tre có nhiều lỗ thoát hơi, lớn bằng ngón tay cái. Trên cái xửng sắp nhiều cái thố đựng gạo. Dưới đáy nồi là nước sôi, bốc hơi lên ngùn ngụt. Gạo dùng nấu cơm thố: như gạo Sóc Nâu, gạo hột dài, gạo Nàng Hương Chợ Đào, Long An.

Cho ít gạo, đã vo sạch để ráo nước, vào từng cái thố. Châm nước vào thố một lần thôi. Mỗi bao gạo mới mua, nấu một lần là biết ý để gia giảm lượng nước sao cho cơm chín không khô, cũng không nhão.

Vào tiệm cơm thố, phổ ky bưng lên, ăn bao nhiêu thố tính tiền bấy nhiêu. Mỗi thố cơm độ một chén cơm nhỏ chút tẳn, và vài lần là hết. Bởi hấp cho cố, xài cái thố lớn bành ki nái đựng nhiều gạo, thì chỉ có hơi nước của nồi súp de (chaudière) trên xe lửa mới làm gạo chín hết thành cơm.

Cái vụ hấp nầy người Quảng (Đông) xài nhiều. Nhứt là món nào ăn nóng mới ngon, như hấp bánh bao. Mía cũng hấp luôn! Còn người Việt thì hấp bánh bò, hấp khoai mì. Xôi cũng hấp. Như vậy hấp, chưng cách thủy chỉ là một cách làm chín thức ăn bằng hơi nước.

Muốn đổ bánh bò, em yêu cần cái chung. Muốn cho chàng ăn cơm thố thì em yêu cần cái thố! Thố cũng như chén dĩa là do mấy lò gốm làm chén, dĩa ở miệt Lái Thiêu nơi có đất sét tốt.

Tuỳ theo cách nấu mà ta có các loại cơm khác nhau! Nấu bằng nồi đồng thì có cơm cháy giòn giòn, thơm thơm, ăn với tép mỡ rắc đường cát trắng. Bù lại cơm thố dẻo và giữ nóng lâu, lúc nào nó cũng bốc khói. Ăn cơm thố đã điếu nhứt là lúc trời cuối năm trở lạnh.

Đồ ăn cơm thố cũng giống đồ ăn cơm thường. Chỉ cần ba món: canh, mặn (kho) và xào. Nên giàu nghèo đều xơi cơm thố được hết ráo! Hao xu nhiều hay ít là do giá của đồ ăn. Hẻo lúi thì ăn cơm nhiều hơn là ăn đồ ăn.

Cả chục thố cơm chỉ với một dĩa cá khô kho mặn, hay dĩa thịt kho. Rủng rẻng thì cơm thố với những món mắc tiền, cao lương mỹ vị: (mà giờ nhà báo bây giờ hay viết là món ăn cao cấp. Món ăn chớ đâu phải chức vụ mà có thấp có cao vậy mấy cha?). Như: cá hấp, gà nướng, bồ câu quay, gà ác tiềm thuốc Bắc.

Còn hổng giàu cũng hổng nghèo, đứng chàng hảng thì ăn cơm thố với canh cải bẹ xanh, sườn xào chua ngọt, ‘hầm vĩ chưng hột vịt’ hoặc ‘hầm vĩ chưng giấm đường”. (Hầm vĩ là cá lù đù trộn chung hột vịt rồi hấp hoặc chưng, ăn với dĩa rau sống, dưa leo).

***

Hồi xưa, bị tổng động viên Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, đi lính, vô quân trường Quang Trung rồi Thủ Đức, tui ăn cơm nấu bằng chảo đụn, xúc bằng xẻng, có bỏ thêm Vitamin B1, gọi là cơm nhà bàn! Nhà bàn là nhà ăn có nhiều dãy bàn dành cho Sinh viên Sĩ quan Trường Bộ Binh Thủ Đức ăn cơm.

‘Cư an tư nguy’ trên phù hiệu của Trường Bộ Binh Thủ Đức thành ‘Cứ Ăn Tự Ngủ’ với cái bụng đói! Chính vì vậy, KBC tức Khu Bưu Chính của Trường Bộ Binh là 4100, bốn ngàn một trăm; tụi nó giễu, đọc trại đi là ‘bốn người một mâm’. Vì một phần ăn, hỏa đầu quân dọn ra một mâm cho 4 đứa (một ‘carré’, tiếng Pháp, một hình vuông) 4 cục thịt. Mỗi đứa một cục bằng ngón tay cái, đủ nhét kẽ răng. Tạ ơn cái ‘gô’ (lon sữa bột Guigoz) tép rang, cá hay thịt chà bông (để lâu được) của em yêu. Chúa Nhựt nào chàng bị cắm trại, là nàng cụ bị mang lên Khu Tiếp Tân cho chàng ăn dặm thêm với cơm cho đỡ đói.


Còn tui xui rủi là con Bà Phước trong cái thời đường trường xa, con chó nó tha con mèo. Nhưng Trời không hại người ‘gian’! Nên lúc đi chiến dịch Hiệp định Paris, 27 tháng Giêng 1973, ngừng bắn da beo tại xã Tân Phú Trung, quận Bình Đại, tỉnh Kiến Hòa, tui ‘cua’được ‘A Lìn’. Em là Tàu lai, dân Chợ Cũ Sài Gòn về thăm má ở quê chợ xã. Tui hỏi: ‘Lìn’ tiếng Việt nghĩa là gì? Em cong cái mỏ, cái mỏ nho nhỏ, cái mỏ cong cong: “Lìn là Liên, là bông Sen. Thơm lắm nhe anh!”. Em nói đúng. “Liên thơm thiệt!”

Hết chiến dịch 4 tháng, tui trở về Trường Bộ Binh Thủ Đức ở đồi Tăng Nhơn Phú; cũng là lúc A Lìn trở lại Sài Gòn đi học. Về phép cuối tuần Thứ Bảy, tui ghé thăm em. Đã hết những ngày ăn chực cơm do em nấu ngon hết biết ở quê. Giờ chàng phải ăn cơm nhà bàn! Cảm thương chàng nên em dắt chàng đi Chợ Cũ ăn cơm thố.

Với tui, cơm thố, cơm thường, món nào cũng được nếu do chính tay em Lìn dấu yêu nấu như ngày cũ trước khi mất Sài Gòn. Nhưng đau đớn thay, tù cải tạo ra, tui trở về Chợ Cũ để hy vọng gặp lại được Lìn. Hy vọng Lìn sẽ dẫn cái thân tàn ma dại của tui đi ăn cơm thố, một lần thôi cũng được, để bù lại những ngày đói khổ trong tù; thấy cái gì nhúc nhích là ăn.

Làm tài tử ‘Xô Xích Le’ tức chạy ‘xe xích lô’ tìm em hoài mà không gặp được người xưa. Cuối cùng, tui mới hay Lìn, tức Liên của tui ngày cũ đã xuống thuyền ra biển biệt tăm hơi. Đôi ta mất nhau từ độ ấy.


Đoàn Xuân Thu.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Apr/2024 lúc 9:31am



Bài viết sau đây là tự truyện về gia đình người chỉ huy phó Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch tại Phan Thiết sau biến cố 30 Tháng Tư. Tác giả bài viết là một cô giáo, người vợ tù, một mình nuôi con. Sau nhiều năm cơ cực, gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. và đây là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà.

******* 

Bây giờ ở Mỹ đang mùa Xuân. Đi đâu tôi cũng gặp hoa muôn màu muôn sắc rực rỡ, chim chóc hót líu lo, gió mát nhẹ nhàng thổi. 

Hôm nay tháng Tư lại về. Tôi thấy lòng mình chùng xuống khi nhớ lại những ngày sau 30-4-75. Hồi đó, khi còn ở Việt Nam, tôi đã khóc biết bao mỗi khi tháng Tư về. Bây giờ hình như không còn nước mắt để khóc nữa, nhưng vết thương lòng qua bao nhiêu năm tháng vẫn chưa lành.

 

Tôi nhớ Sư Bà Huyền Không ở Phan Thiết đã từng nói với tôi: “Bao nhiêu đau khổ vây quyện đời con, nhưng dù hoàn cảnh nào, con vẫn là một người vợ hiền, một người mẹ tốt nghe con”.

Đời tôi, nhờ niềm tin tôn giáo, nhờ Ơn Trên che chở mà tồn tại đến ngày hôm nay. Thuở nhỏ tôi là con bé yếu đuối, đau ốm liên miên, mấy lần suýt chết đuối trên sông Hương, mấy ai ngờ có ngày oằn vai “gánh” cả một gia đình sáu người, rồi cuối cùng vượt đại dương đến Mỹ để sống những ngày cuối đời nơi đất khách quê người nhưng lại đậm tình đậm nghĩa.


1. Những ngày trước 30-4-75 

Lúc đó, gia đình chúng tôi ở Phan Thiết, trong khu trại gia binh. Tình hình chiến tranh sôi sục, nhất là những ngày đầu Tháng Tư. Mỗi ngày tôi hồi hộp theo dõi tin tức thời sự qua đài BBC, hãi hùng với tiếng súng ầm ầm từ những cuộc giao tranh. Ông Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện đã lặng lẽ bỏ đi, để lại cho ông xã tôi, Chỉ Huy Phó, một mình vừa cứu thương, vừa điều khiển Quân Y Viện. Tôi hoang mang, lo sợ. 

Để rảnh tay lo việc công, anh ấy cho năm mẹ con tôi di chuyển vào Sài Gòn trước ở tạm nhà người bà con. Tôi hồi hộp trông tin anh từng ngày, từng giờ mà không biết hỏi ai, chỉ biết cầu nguyện Phật Trời che chở. Tôi cứ băn khoăn lo lắng không biết rồi vợ chồng còn gặp nhau không. Thôi thì phó mặt cho số phận đẩy đưa.

Ông xã tôi là người lúc nào cũng hết lòng về công vụ. Hồi mới ra trường, anh đổi ra làm việc ở Quảng Trị. Gặp trận Hạ Lào, anh ấy mỗi ngày phải thường trực giải phẫu 24/24 để cứu thương bệnh binh. Lúc đổi về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết, anh vẫn một lòng tận tụy với nhiệm vụ. Anh không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền, không lươn lẹo ăn bớt thuốc men trong Quân Y Viện. Do đó anh rất được quân nhân các cấp trong QYV thương yêu quý mến.


Sau khi tôi và các con đi rồi, biết tỉnh Bình Thuận sắp thất thủ, anh ấy lo di tản các thương binh còn nằm ở Quân Y Viện vào Vũng Tàu. Vì mặt sau của Quân Y Viện là biển, và lúc bấy giờ các tàu Hải Quân VNCH còn khá nhiều, nên việc di tản được suôn sẻ. Đến lúc tỉnh Bình Thuận bị lọt vào tay Cộng quân (19-4-75) thì ông xã tôi mới theo tàu Hải Quân vào Sài Gòn.

Chúng tôi gặp lại nhau. Chỗ ở trọ không tiện chút nào. Người bà con có nuôi hai con chó. Đêm nào chúng cũng leo lên chỗ chúng tôi nằm (vì giành giường của tụi nó) gây tiếng động ầm ĩ, chẳng ai ngủ được. Chúng tôi lại đi xin ở nhờ một người bà con khác. Nhà này có ba tầng. Lúc dọn đến chúng tôi được cho ở tầng ba, còn hai tầng kia Mỹ mướn. Ngày hôm sau, chúng tôi được biết có một tàu Mỹ sắp đi Thái Lan. Nếu chúng tôi lanh trí, ngỏ lời xin “quá giang” thì chắc được chấp thuận rồi. Một phần vì lòng yêu quê hương, không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, một phần vì chưa sống với Việt Cộng và cũng chủ quan anh ấy thuộc ngành y đâu có tội lỗi gì nên ở lại. Đời mấy ai học được chữ ngờ! Cũng vì không biết chớp lấy thời cơ đó mà cuộc đời xô đẩy gia đình tôi vào hoàn cảnh oan nghiệt. 

2. Thời làm vợ tù

Sau lệnh đầu hàng của vị Tổng Thống ba ngày, chúng tôi trở lại Phan Thiết và rồi tôi trở thành vợ tù. 

Tôi bị rơi vào hoàn cảnh một thân một mình nuôi chồng và bốn con còn nhỏ dại, chưa được chuẩn bị để thích ứng với tình huống này! Thời trước 1975, cả hai vợ chồng sống bằng đồng lương ít ỏi của nhà nước. Lương nhà giáo quá khiêm tốn, ai cũng biết rồi. Còn anh ấy là một Bác Sĩ Quân Y thanh liêm, tận tâm với trách nhiệm, không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền mà dành hết thời giờ cho công vụ. Do đó, tôi đã phải tiện tặn hết mức để không mang công mắc nợ. Khi anh đi tù tôi không còn chút tiền dư bạc để. Do đó tôi rơi vào hoàn cảnh đôi vai gầy guộc, ốm yếu của tôi gánh hai gánh nặng thân tình, ngang ngửa nhau, không thể bỏ gánh nào được cả. 

Từ khi Việt Cộng chiếm miền Nam, gia đình chúng tôi không còn được ở trong Khu Gia Binh Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch nữa. Tôi phải xin tá túc nhà ông TTP, cũng là Sĩ Quan của Quân Y Viện. Khi ông xã tôi vào tù, tôi thấy không thể ở nhà người ta mãi nên tìm cách ra ở riêng. Dốc hết tư trang ngày cưới, tôi mua một miếng đất trên động cát thuộc phường Phú Thủy, Phan Thiết. Nơi đó có sẵn một căn nhà lá lợp tôn, để ngoài giờ đi dạy ở trường cấp 2B (tôi được lưu dụng với đồng lương đủ cho chục ngày chợ!), tôi “lao động sản xuất” thêm để tự cứu mình và cứu gia đình.


Các con tôi bị xô vào hoàn cảnh nghèo khó. Nhờ vậy chúng trở nên khôn trước tuổi. Con chị mới 9 tuổi đã biết đi chợ nấu ăn, giặt đồ, dỗ em. Khi nào em khóc (thằng út mới 3 tuổi) thì con chị ra chặt mía, róc, chẻ nhỏ rồi đút cho em ăn. Thằng em trai kế nó, mới 8 tuổi cũng đã biết cùng với mẹ đi xin phân heo, cuốc đất, tưới nước để trồng khoai lang, khoai mì, biết xắt lát củ khoai phơi khô để dành thăm nuôi cha nó, biết cất lại một phần khoai để ăn độn với gạo cho đỡ đói, vì gạo tiêu chuẩn có bao giờ ăn đủ cho 5 người! Hình ảnh đáng thương nhất là con bé H. L. 5 tuổi ngồi đưa võng cho thằng em 3 tuổi, vừa đưa vừa hát à… ơi nghe đau lòng đứt ruột! Khi trái chùm ruột chín, con bé tự ý giã muối ớt, đựng chùm ruột trong chiếc rỗ nhỏ, rồi đem ra đầu hẻm nhà mình mời các bạn nhỏ trong xóm mua.


Tội nghiệp các con tôi! Các con tôi cũng đói lắm, cũng thèm nhâm nhi chùm ruột với muối ớt lắm, vậy mà… Có người mẹ nào tim không quặn thắt, ruột không đứt từng khúc từng đoạn trước những tình cảnh này! 

Cuộc sống của 5 mẹ con tôi trong căn nhà lá ấy, không sao kể xiết nỗi thống khổ, vất vả và đói khát. Tôi nhớ một câu văn của Thạch Lam: “Đói như cào ruột, đói như chưa từng thấy bao giờ”. Bây giờ thì tôi đã có kinh nghiệm xương máu cái nghèo, cái đói đây! Nghèo đến nỗi khi đổi tiền, tôi không đủ tiền để đổi nữa. Học trò hàng xóm tốt bụng đưa tiền nhờ đổi giùm, sau đó tặng cho chút đỉnh gọi là “để cô mua bánh cho mấy em.” 

Ông xã vào tù rồi, phải mất mấy tháng sau, tôi mới được giấy cho đi thăm nuôi. Đây là lần thăm nuôi đầu tiên. Thời gian thật ngắn, vui thì ít mà xót xa lại nhiều. Tôi cảm xúc viết vài dòng thơ nói lên nỗi bi ai của tôi sau khi về nhà: 

Khóc hết nước mắt đêm thâu
Sáng nay tươi tỉnh em vào thăm anh.
Chân em thoăn thoắt, nhanh nhanh,
Quản chi xách nặng, thênh thênh đường dài.
Ra đi định nói bao lời,
Đến khi gặp mặt hỡi ơi nghẹn rồi!
Bàn ngăn hai đứa ai ngồi
Lù lù một đống, muốn sôi gan mình.
Nói qua quýt, chuyện loanh quanh….
“Mấy con sức khỏe?” Băn khoăn hai người…
Còi huýt: “Năm phút rồi thôi!”
Bây giờ đôi ngả, đôi nơi chia lìa!


Có dạo đi thăm nuôi ông xã, tôi gởi cho anh ấy mấy đồng để mua đồ ăn thêm. Nhiều tháng sau, lúc ra thăm trở lại, hỏi anh tiền hôm đó có mua được gì không. Anh nói vẫn còn nguyên. Tội nghiệp cho cả gia đình tôi! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nỡ “nuốt cái đói khát” của vợ con! Còn nỗi chua xót, đau đớn nào cho tôi hơn nữa!!! 

Ở tù được hai năm rưỡi thì anh ấy được thả về. Thôi thì hết làm thợ mộc, thợ nề, lại đi bốc, đi vác… khi áo blouse xưa không được dùng đến nữa. Được hơn ba tháng thì Ủy Ban Nhân Dân Phường gọi anh ấy đến để “động viên” nhắc nhở “đăng ký” đi kinh tế mới”. Anh ấy không chịu, lấy lý do: trong trại cải tạo, anh đã được học tập về đường lối, chính sách của nhà nước là sẽ lưu dụng những thành phần chuyên môn, và anh đang chờ đợi. Không ngờ đó lại là cái cớ để họ bắt anh vào tù lần thứ hai, bị ghép vào tội chống nhà nước. Lần sau này anh bị đưa vào trại biệt giam. Mấy tháng sau họ mới cho thăm nuôi. Khi gặp mặt, tôi thấy anh xanh xao, u buồn. Anh dặn dò: “Lần sau nhớ mua cho anh cây lược dày để chải chí và thuốc Dep để trị ghẻ.” Điều kỳ cục là trại này không cho người tù nhận những món như bánh tráng, gạo…, chỉ cho nhận những thứ ăn chơi như: kẹo, bánh, đường, đậu… Lỡ mang đi, bị buộc mang về. Ra về lòng tôi vừa xót xa… 

Lão trưởng khóm nơi tôi ở nói với tôi: “Chồng cô sẽ ở tù suốt đời vì tội phản động”. Tôi nghe mà bủn rủn tay chân. Thôi chết rồi, biết làm sao đây! Tiếp theo phường lại “động viên” tôi, biểu tôi đi kinh tế mới. Tôi đáp: “Tôi yếu đuối, 4 con còn quá nhỏ, tôi làm được gì nơi đó?” Cũng may, nếu nghe lời họ, bây giờ mấy mẹ con tôi biết còn sống không?


Suốt mấy năm gian khổ, khi không thể cầm cự nổi nữa (năm 1980) tôi xin thôi việc, bỏ Phan Thiết về Long Xuyên để ở gần cha mẹ tôi (lúc bấy giờ ông bà đang sống cùng gia đình người anh của tôi). Ông xã tôi lúc đó còn trong tù, tôi phó mặc cho Trời, vì tôi không còn sức lực, không còn khả năng đi thăm nuôi nữa. 

Trên danh nghĩa, tôi về Long Xuyên để nhờ anh tôi giúp đỡ. Chưa đầy một tháng thì anh ấy đưa toàn gia đình đi vượt biên hết (sau này tôi mới biết nhiều lần ông ấy đã đi vượt biên không thoát, nên gợi ý tôi về hòng che mắt công an, phường khóm.) Cha mẹ tôi lúc đó đã già. Anh tôi đi, ông bà mất chỗ dựa, lại thêm địa phương làm khó dễ vì nhà có người vượt biên nên bị khủng hoảng tinh thần, lâu dần sinh bệnh, nhất là mẹ tôi, bà đau ốm liên miên. Cuộc sống ở đây tuy gần cha mẹ tôi, nhưng lúc nào lòng tôi cũng thấp thỏm lo âu, cứ nơm nớp sợ không biết ngày nào người ta sẽ đuổi mình ra khỏi nhà, chừng đó biết đi đâu? 

Hơn một năm sau, 1981, thình lình ông xã tôi được thả về. Từ đây, anh đi chích dạo, bán thuốc lá lẻ, bán vé số, làm đủ mọi nghề cho đến ngày nộp đơn đi H.O. 

3. Từ giấy ra trại tới cuộc phỏng vấn 

Vì bị tù hai lần, ông xã tôi như một con chim bị đạn, cứ lo sợ không biết còn bị bắt lại nữa không. Vì thế, lúc nghe người ta kể về việc nộp hồ sơ đi Hoa Kỳ theo diện H.O., ông xã tôi vô cùng e ngại, lo sợ bị gạt, phải chờ đến khi có người bạn đi trước gởi thư về khuyên nhủ ông mới mạnh dạn làm thủ tục để ra đi. 

Giấy ra trại là một vấn đề khiến gia đình tôi không yên tâm chút nào, vì trên giấy ghi rành rành “tội phản động chống chính quyền”! Chúng tôi hỏi thăm nhiều người, không ai có tờ giấy ra trại ghi như thế cả. Chúng tôi cũng được biết chính phủ Mỹ chỉ cho những thành phần quân, cán, chính chế độ cũ ở tù 3 năm trở lên mới được đi định cư ở Mỹ, còn những người chống chính quyền thì không được. Chúng tôi lại hỏi ý kiến bạn bè và được khuyên làm sẵn một tờ tường trình lý do bị tù lần hai. Vậy là có tờ report chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn.


Rồi ngày gia đình tôi vào gặp phái đoàn Mỹ cũng tới. Tôi nhận thấy những gia đình H.O. được phỏng vấn trước, hầu như đều được giải quyết mau lẹ, không như gia đình tôi. Những đêm trước khi phỏng vấn, tôi đã cầu nguyện cho mọi việc suôn sẻ. Vậy mà, khi gặp phái đoàn chúng tôi vẫn run, nhất là khi bà Mỹ nêu câu hỏi: “Tại sao anh là Bác Sĩ mà phải đi cải tạo cả 5 năm rưỡi?”. Ông xã tôi khựng lại. Tim tôi đập thình thịch! Lát sau, bình tĩnh lại, tôi nhắc: “Anh, tờ report.” chừng đó anh mới sực nhớ ra và đáp: “Xin bà đọc tờ report.” Sau khi đọc xong, họ OK liền. Vậy là thoát nạn. Lúc ấy cả nhà tôi như vừa chết đi được sống lại. 

4. Thời qua Mỹ

Gia đình tôi đến Hoa Kỳ năm 1992. Riêng tôi, qua năm sau mới được đi vì phải ở lại điều trị bệnh. Lúc mới qua, chồng và các con tôi đều nỗ lực làm việc và học hành. Con gái, con trai đều đổ ra shop may: Con trai thì ủi đồ và cắt chỉ, con gái lãnh đồ may. Sau một thời gian, con tôi vào Đại Học, nay thì đã tốt nghiệp và đi làm. Ông xã tôi, lúc mới qua, tự thấy lớn tuổi rồi, nếu học lại để lấy bằng thì ai thèm mướn nên cũng đành ra shop may lãnh đóng khuy nút một thời gian, sau đó vô làm ở một hãng Mỹ chuyên sản xuất nữ trang cho đến ngày nghỉ hưu. 

Riêng tôi, thời gian vất vả trong những tháng năm cũ đã vắt kiệt sức lực của tôi. Tôi chỉ có thể làm những việc lặt vặt trong nhà, chứ không bươn chải nổi như người khác được. 

Đến Hoa Kỳ, không ngờ chúng tôi có cơ duyên gặp lại những người bạn Việt Nam thân quen gần nửa thế kỷ, thật là vui! Có hai ông Bác Sĩ người Mỹ là Colman và Denatale cùng làm việc với ông xã tôi hồi ở Quảng Trị, trước mùa hè đỏ lửa, cũng tìm tới tận nhà thăm chúng tôi. Ai dám nói người Mỹ thực dụng, thiếu nghĩa tình? Vài tháng trước đây, cô con gái của ông Bác Sĩ Krainick từ Ohio cũng gọi phone qua hỏi thăm và nhắc lại những kỷ niệm xưa của cha mình với ông xã tôi (Bác Sĩ Krainick ngày xưa dạy ở Đại Học Y Khoa Huế, là thầy của ông xã tôi, bị Việt Cộng sát hại năm Mậu Thân). Thật là đậm đà tình người! 

Đời tôi, những lúc vui buồn đều có bạn bè chia sẻ. Hôm tôi gởi bài viết của H.L., con gái tôi, kể chuyện thời đi bán vé số ở Long Xuyên bị người ta nhiếc mắng, chị LT người bạn thân ở Phan Thiết, từ Michigan gọi qua nói trong nước mắt: “Tội quá! Sao hồi đó em thiếu thốn, khổ cực thê thảm như vậy mà không chịu nói ra. Em làm chị đang ân hận là đã không giúp em!”. Tôi đã câm lặng bao nhiêu năm trời để giữ gìn cái danh dự gia đình của tôi: “Đói cho sạch, rách cho thơm” “Hãy đứng trên đôi chân mình và ngững cao đầu tiến bước.”


Nhìn lại những chặng đường đã qua, tôi tự thấy mình đã tận lực trong vai trò người mẹ, người vợ của một quân nhân VNCH trước và sau 30-4-75. Đời tôi sống đơn giản, không đua đòi se sua, không xúi giục chồng làm giàu bằng con đường tắt cong queo. Đó là nguyên nhân tôi nhận lãnh những cay đắng của cuộc đời, và những tủi nhục của tình đời. Tuy nhiên, hạnh phúc nào mà không trả giá bằng đau khổ? Nếm đủ cay, chua, mặn, đắng… chỉ làm cho ta cuối cùng thấy hạnh phúc thêm ngọt ngào hơn. 

Cám ơn cuộc đời đã cho tôi và gia đình tôi nếm trải qua đủ mùi vị. Cám ơn nước Mỹ đã đưa gia đình tôi qua đây để được sống những ngày an lành, hạnh phúc.

 

N. K.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Apr/2024 lúc 12:09pm

Một câu chuyện tình yêu

200%20hình%20nền%20hoa%20hồng%20tuyệt%20đẹp%20cho%20máy%20tính%20-%20QuanTriMang.com

Đây không phải là tình mẹ yêu con mà là tình yêu vượt ra ngoài mọi giới hạn -yêu những đứa bé tội nghiệp con riêng của chồng và cả người đàn bà đã làm đời mình dang dở. Câu chuyện cảm động đầy lòng nhân ái, xin mời các bạn cùng đọc và chia sẻ trong những ngày đầu năm. NS

Chuyện xảy ra vào những năm đầu thập niên 1950 trong căn apartment nhỏ bé của gia đình Taylors ở Waltham, M***achusetts. Edith cứ nghĩ rằng cô là người phụ nữ may mắn nhất trong khu chung cư này. Cô và Karl lấy nhau đã 23 năm và trái tim cô vẫn đập hụt một nhịp khi anh bước vô phòng. Về phần Karl, anh vẫn biểu lộ tình yêu đối với vợ. Vì công việc của hãng anh phải thường xuyên đi xa, song hằng đêm vẫn viết thư về cho vợ và khi có dịp ghé nơi nào anh đều có quà cho Edith.

Tháng hai năm 1950, Karl được điều đi Okinawa vài tháng để lập chi nhánh mới cho hãng. Thời gian xa nhau quá dài nhưng phải đành thôi. Lần này không có quà gởi về. Edith hiểu. Anh đang cố gắng để dành tiền cho ngôi nhà mà hai người từng mơ ước.

Những tháng cô đơn chậm chạp trôi qua. Mỗi khi Edith nhắn Karl về thì anh lại nói phải ở thêm “ba tuần nữa”, “một tháng” rồi “hai tháng nữa”. Và rồi một năm trôi qua, thư từ gởi về ngày một thưa. Không có quà thì cô hiểu được. Nhưng còn thư?

Một ngày cuối tuần sau nhiều tháng im lặng, cô nhận được một cái thư ngắn.

Edith yêu,

Anh ước mong phải chi có một cách nào tử tế hơn để nói với em rằng chúng mình không còn là vợ chồng nữa…

Edith đi tới cái sofa và ngồi xuống. Trước đó anh đã viết đơn qua Mexico để xin ly dị. Anh đã cưới Aiko, một cô gái Nhật Bản chuyên làm việc vặt cho hãng, mới mười chín tuổi. Còn Edith thì đã bốn mươi tám.

Ôi, nếu tôi hư cấu chuyện này thì tôi sẽ cho người đàn bà bị phụ bạc kiện chống lại cái đơn ly dị vội vàng kia. Cô sẽ thù ghét chồng cô và người đàn bà. Cô sẽ trả thù kẻ đã làm cuộc đời cô tan nát. Nhưng ở đây tôi chỉ kể chuyện thật đã xảy ra. Edith không thù ghét Karl. Có lẽ vì cô yêu anh quá lâu rồi nên không thể hết yêu.

Cô có thể mường tượng ra tình huống. Một người đàn ông lâu nay luôn có người bên cạnh bỗng dưng phải cô đơn. Nhưng cho dù vậy, Karl cũng không thể hành động dễ dãi và đáng chê trách như vậy. Anh có thể ly dị trước đã hơn là lợi dụng một cô giúp việc còn trẻ. Ðiều duy nhất Edith không thể nào tin là Karl hết yêu cô. Có thể một ngày nào đó anh sẽ trở về lại.

Giờ đây Edith làm lại cuộc đời mình dựa vào ý nghĩ này. Cô viết cho Karl bảo anh thường xuyên cho cô biết cuộc sống của anh. Và anh cho biết anh và Aiko chờ đứa con đầu lòng chào đời. Bé Maria sinh năm 1951, và năm 1953 Helen ra đời. Edith gởi quà mừng hai bé. Cô vẫn tiếp tục viết thư cho Karl và anh viết cho cô. Helen đã mọc răng, tiếng Anh của Aiko ngày một khá trong khi đó Karl đang bị sụt cân.

 

Và rồi sự khủng khiếp xảy đến. Karl đang vật vã với bệnh ung thư phổi. Lá thư cuối cùng của anh đầy giọng hốt hoảng. Không phải anh sợ cho anh mà lo cho Aiko và hai bé gái. Anh đã dành dụm tiền cho hai bé đi học ở Mỹ nhưng tiền viện phí đã nuốt hết những gì anh tích góp. Hai bé rồi ra sao đây.

Ðã tới lúc Edith nghĩ đến việc tặng anh món quà cuối cùng để giúp cho tâm hồn anh được yên tĩnh. Cô viết cho anh gợi ý nếu Aiko bằng lòng cô sẽ nhận hai đứa bé và nuôi dạy chúng ở ngay Waltham này. Nhưng nhiều tháng sau khi Karl qua đời, Aiko vẫn không để cho hai bé đi. Làm sao đây khi cuộc đời trước mặt ba mẹ con chỉ là nghèo đói, tuyệt vọng. Tháng 11 năm 1956, hai bé lên đường tới với “Dì Edith thân yêu”.

Edith cũng biết rằng thật là khó cho cô ở tuổi năm mươi bốn phải làm mẹ hai đứa năm tuổi và ba tuổi. Cô đã không nghĩ ra một sự thật là kể từ khi Karl qua đời, hai đứa bé quên dần mớ tiếng ít ỏi của chúng. Nhưng may thay Maria và Helen học rất nhanh. Nỗi sợ hãi không còn trong mắt các bé, khuôn mặt của chúng bụ bẫm dễ thương. Và Edith, lần đầu tiên từ sáu năm nay, lại tất bật từ sở về nhà. Bữa cơm trở lại vui vẻ như ngày nào. Chỉ buồn một nỗi là những bức thư do Aiko gởi về. “Thưa Dì, xin Dì cho biết tôi phải làm gì bây giờ. Mary và Helen có khóc không?” Qua thứ tiếng Anh lủng củng, Edith đọc được sự cô đơn quạnh vắng của cô gái vì Edith từng biết nỗi cô đơn ấy. Cô nghĩ thế nào rồi cũng sẽ mang mẹ của hai đứa bé tới đây thôi.

Xem thêm: Cánh én báo tin vui
Thế là Edith quyết định, nhưng kẹt nỗi Aiko vẫn còn mang quốc tịch Nhật, trong khi đó danh sách di dân tới Mỹ còn rất dài. Chính lúc ấy Edith Taylor viết cho tôi, hỏi tôi có giúp gì được không? Tôi trình bày hoàn cảnh ba mẹ con trong cột mục của tôi. Các báo khác cũng lên tiếng. Kết quả là vào tháng tám năm 1957, Aiko Taylor được phép tới Mỹ.

Khi máy bay tới phi trường quốc tế ở New York, Edith chợt có một lúc lo sợ. Phải làm sao nếu cô cảm thấy ghét người đàn bà đã làm Karl phải xa cô. Người cuối cùng rời máy bay là một người đàn bà nhỏ bé gầy yếu khiến Edith nghĩ rằng đó là một cô bé. Người đàn bà đứng bám vào lan can và Edith chợt nghĩ nếu hoàn cảnh làm cho mình lo sợ thì với cô gái kia đó là nỗi kinh hoàng.

Edith gọi tên Aiko và cô gái chạy xuống thang, buông mình vào vòng tay Edith. Khi hai người ôm chặt lấy nhau, Edith chợt có một ý nghĩ kỳ lạ: “Mình cầu nguyện cho Karl trở về. Giờ đây anh ấy đã trở về – trong hình hài hai đứa con gái nhỏ và người phụ nữ gầy yếu anh đã yêu. Chúa ơi, xin giúp con yêu cả người đàn bà ấy.”

                                                                                                                                                                                                  NS

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2024 lúc 8:20am

Chiếc Đòn Gánh 

 

Những người phụ nữ quê tôi không ai không biết đến chiếc đòn gánh vì ai cũng đã từng hơn một lần gánh nó trên vai. Quê tôi miền Trung nghèo lắm. Từ những bé gái mới lớn lam lũ giúp mẹ thổi cơm gánh nước, đôi vai nhỏ như oằn xuống với một cánh tay bấu vào thân đòn nặng trĩu còn tay kia dùng lấy cân đối gánh hai thùng nước sóng sánh – đến những bà mẹ già nhanh lẹ gánh những bó rau, bụi cải hay con gà con vịt thong dong ra chợ bán. Rồi những đứa em, người chị, phần nhiều cứ rãnh việc, buông tay ra là động đến chiếc đòn gánh. Gánh lúa, gánh phân, gánh mạ non, gánh nước … Toàn bộ việc làm nặng nhọc đặt trên vai người phụ nữ. Đàn ông quê tôi lại ít thấy gánh gồng gì. Dĩ nhiên là họ làm những việc khác có khi còn nhọc nhằn hơn nhưng ít khi động đến chiếc đòn gánh …

Tôi nhớ như in lúc tôi còn là thằng bé sáu, bảy tuổi, chiều chiều ra đứng trên đầu cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Rướn người trên thành cầu sắt thật cao, tôi đưa mắt hướng về phía chợ. Hễ cứ thấy từ xa ai đó đang quang gánh bước tiến là lòng tôi lại thấp thỏm mừng vì nghĩ đó là mẹ mình. Cái dáng quay quồng, lam lũ của những người đàn bà quê tôi phần nhiều ai cũng giống nhau. Cho nên, tôi thường nhìn lầm. Tôi đợi từ xa và dõi mắt nhìn chằm chằm vào dáng đi khó khăn vất vả cũng với hai cánh tay, một nắm trên thân đòn và một lấy cân đối, buông lỏng theo từng bước chân như chạy. Không lẫn vào đâu được, đúng là bước chân của mẹ tôi. Bước chân mẹ lạ lắm, có gì đó như lo toan, vội vã, nhẫn nhục, nhọc nhằn trong mỗi nhịp đi quay quồng. Nhưng khi bóng người đàn bà kẽo kịt gánh gồng đến gần, thì lại không phải. Niềm vui biến mất, khuôn mặt buồn xo, tôi lại ngồi xuống thành cầu đợi mẹ tôi .


Cuối cùng thì mẹ cũng xuất hiện! Từ xa, nhận ra mẹ, tôi đã ba chân bốn cẳng chạy ùa tới mừng rỡ. Tôi chẳng quan tâm gì đến mồ hôi mồ kê trên gương mặt mẹ chảy ròng ròng vì mệt, vì nắng rát mà điều quan trọng nhất là nhìn vào hai cái mẹt đong đưa hai bên đòn gánh dưới cái quang bằng dây thép uốn tròn. Quà của tôi nằm ở đó! Khi thì là chiếc bánh mì, vài viên kẹo dẻo, một lóng mía ghim, có khi là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền bằng nhựa … Thích nhất là được mẹ mua cho bánh bò ông ba tàu ngoài cổng chợ. Tôi mê bánh bò ông thì ít mà thích con gái ông thì nhiều! Chẳng là con ông học cùng lớp với tôi. Nó học giỏi nhì lớp, còn tôi hạng nhất. Bọn trẻ con thường cắp đôi tôi với con Lẻm, tên nó. Không biết nó nghĩ gì không chứ riêng tôi thì thích! Mà cũng lạ, không ai như tôi, mới học đến lớp hai, lớp ba mà đã biết mắc cỡ khi gặp nó … Nhưng đó là chuyện hồi con nít …

… Không cần đợi mẹ chấp thuận đồng ý, tôi đã lục mẹt lấy quà của mình vì biết mẹ chỉ mua cho tôi. Nhà có mấy chị em, ba mất sớm mà tôi là con trai duy nhất nên mẹ thương tôi hơn cả. Trăm lần như một, chiều nào mẹ đi chợ về, sau khi bán hết mớ rau cải, bầu bí trồng ở vườn nhà, thế nào mẹ cũng dành tiền ki cóp mua cho tôi ít quà. Tôi cầm gói bánh bò tung tăng chạy trước, mẹ gánh cặp mẹt đi sau. Không nhìn vào mắt mẹ nhưng biết chắc mẹ đang cười nhìn tôi niềm hạnh phúc. Đôi gánh nhẹ hẫng trên vai mẹ và nhiều lúc mẹ còn nói vói theo nhắc yêu tôi : Ranh con, chạy vừa vừa chứ, té ngã giờ đây !


Tôi thật không biết chiếc đòn gánh do ai nghĩ ra và Open tiên phong vào khi nào nhưng quả thật, đó là một dụng cụ tuyệt vời để vận động và di chuyển vật nặng từ nơi nầy đến nơi khác bằng sức người ở quê tôi. Nó được làm bằng cây tre già ngâm nước càng lâu càng tốt, để tre dẻo, chắc và khỏi mục. Tôi đã thơ thẩn hàng giờ nhìn người ta đục đẽo chiếc đòn gánh. Thật cũng lắm công phu ! Sau khi chỉ lấy đoạn gốc tre già ngâm nước chừng vài tháng, người ta làm hai chiếc máng ở hai thân đòn. Hai cái máng nầy phải giống nhau như một, giữa khắc một cái rãnh sâu dùng để móc quang vào cho khỏi lệch. Cái máng nầy cũng lắm chuyện. Gặp tay thợ đẽo giỏi, nó là hình tròn trụ, hình ô van có khi còn được tạc vào dấu thập hoặc chữ vạn mà tôi không biết để làm gì. Có lẽ lấy hên mua may bán đắt khi gánh trên vai chiếc đòn gánh ấy chăng, hay chỉ là khắc lên cho đẹp … Chưa hết, còn phải gọt đẽo thân đòn cho thật thẳng, đoạn ở giữa mỏng dính hơn hai bên đầu làm đòn đong đưa cho nhẹ sức hơn khi gánh nặng … Khoảng hơn tiếng đồng hồ đeo tay đẽo gọt thì chiếc đòn gánh sinh ra. Nó hoàn toàn có thể dùng hết đời nầy đến đời khác trong một mái ấm gia đình quê tôi vì hiếm khi bị gãy. Đến khi nước bóng ở thân đòn nổi lên màu đen mun thì không biết chiếc đòn đã thấm biết bao nhiêu mồ hôi từ trên đôi vai những người đàn bà tần tảo …

Nhưng chiếc đòn gánh của mẹ tôi không chỉ có thế. Nó còn là một trời kỳ diệu. Nó mang đến tuổi thơ tôi những niềm vui háo hức tràn ngập, cả những giấc mơ xinh xắn nhất trên đời. Còn gì sung sướng hơn khi được đặt ngồi vào một đầu quang, đầu bên kia là trái bầu trái bí mẹ gánh suốt dọc đường ra chợ. Tôi cứ ngồi im như thế trên suốt con đường làng, hấp háy đôi mắt hãnh diện nhìn quanh xem có đứa bạn học nào để mà vểnh mặt lên, tự hào được ngồi gánh mẹ. Tôi cũng không buồn khi thấy chỉ mấy con trâu, con bò dọc đường làng chào tôi kêu nghé ọ và những đứa trẻ chăn trâu nhìn theo cười chế giễu. Tôi biết chúng nó ganh tỵ vì không được ngồi gánh như tôi … Và vì tôi nặng hơn mấy trái bầu bí ở gánh bên kia nên mẹ phải đưa vai chệch về phía tôi để giữ cân đối. Mệt lắm nhưng mẹ vui. Tôi biết được điều ấy trên đôi mắt lộng lẫy, hài lòng bừng lên trên mặt mẹ …


Đến gần chợ là tôi dứt khoát bảo mẹ cho xuống, có năn nỉ mấy cũng không chịu ngồi thêm. Tôi sợ con Lẻm, con ông ba tàu bán bánh bò đầu cổng chợ nhìn thấy. Vì sao sợ nó cười, tôi không biết nhưng rõ là tôi thích được nhìn nó Open với hai chiếc nơ xinh xắn, chạy lò cò trước cổng, mắt tròn xoe nhìn tôi và gật đầu chào. Tôi làm như ngó lơ, chạy lúp xúp theo mẹ, mắt liếc thật nhanh vào con Lẻm còn tay thì cứ cầm dây quang phía sau chiếc đòn gánh mà nhắc để khỏi mắc cỡ : Đi nhanh lên mẹ, con đói bụng lắm rồi …

Tuổi thơ tôi và chiếc đòn gánh mẹ như không hề rời nhau. Cũng có những hôm không bán được hàng, mẹ quảy gánh về mà không có quà cho tôi. Tôi cứ cầm lấy đòn gánh mẹ mà khóc tấm tức, dỗ mấy cũng không nín. Tôi nghĩ mẹ không thương tôi hoặc là quà của tôi mẹ đã cho ai mất rồi. Tôi chẳng nhìn lên mắt mẹ để thấy mẹ buồn như thế nào vì không tiền mua quà cho đứa con cưng. Có hôm mẹ tủi thân cứ nhìn tôi, ôm tôi mà khóc …


Nhưng cũng có lúc, chiếc đòn gánh với tôi là cả một cơn ác mộng ! Tôi nhớ có lần đi hái trộm xoài non của bác Hai Trầu cạnh nhà. Bác Hai qua mét mẹ và chuyện đã xảy ra … Tôi mới bước chân về đến cửa, mẹ tìm hoài không thấy roi nên sẵn cây đòn gánh, mẹ phát vào mông tôi mấy cái. Dĩ nhiên là mẹ phát nhẹ thôi vì chiếc đòn gánh thì to bảng mà mông tôi thì nhỏ. Nhưng mà đau thấu trời xanh. Ghê thật là cái vị đòn làm bằng cây tre già ngâm nước ! Nó thấm vào thấu bên trong, đau và nhức buốt hơn mọi loại roi nào khác. Tôi chỉ còn cách quỳ xuống đất nức nở mà xin lỗi mẹ vì đau và sợ ăn đòn tiếp. ..

Tối đó, mẹ vừa khóc vừa bôi dầu nhị thiên đường vào mông tôi đã nổi lên mấy vết hằn đỏ. Mẹ dằn vặt mình vì đã giận đánh con. Tôi làm bộ quay mặt vào tường không nhìn mẹ. Tôi giận, mẹ hỏi gì cũng không nói và thiếp đi khi nào không hay. Khi thức dậy vẫn còn thấy mẹ ngồi chằm chằm nhìn tôi, nghẹn ngào : Mẹ đánh con bậy quá … Nhưng ai bảo con hư … Lúc ấy, với đôi mắt nhạt nhoè, tôi chỉ muốn ôm mẹ mà khóc. Vì hờn, tủi thân hay còn giận mẹ, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc một điều là mẹ yêu thương tôi vô bờ bến !


Chiếc đòn gánh của mẹ, với tôi còn là những kỷ niệm không thể nào quên ! Khi tôi đã lớn, nhà nghèo, mẹ hàng ngày trĩu nặng nó trên vai – khi thì gánh phân, gánh gạo đi bán – khi thì gánh nước, gánh hàng tảo tần nuôi tôi ăn học. Những năm tháng còn là sinh viên, mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi lại ra cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Nhưng mẹ giờ đã yếu lắm ! Mẹ không còn gánh nặng được nhưng phải cố, vì tôi. Hình hài mẹ nhỏ quắt lại, đôi vai như muốn run lên theo bước chân, môi mắm chặt mỗi lần mẹ cố sức. Duy đôi mắt mẹ thì không hề đổi khác ! Đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc và tự hào nhìn đứa con trai phổng phao, chững chạc sắp trưởng thành. Tôi đứng lặng trên cầu, rơm rớm nhìn vào thân thể và đôi vai gầy guộc của mẹ oằn xuống dưới mỗi bước đi … Tôi muốn lao vào ôm mẹ mình nhưng đã không làm như vậy. Cho mãi đến tận giờ đây, tôi vẫn ân hận trách mình vì điều ấy …

Ngày ấy, mẹ vẫn thường nói vui: Chính nhờ chiếc đòn gánh của mẹ nuôi con ăn học đấy! Mẹ mong khi mẹ không còn đụng đến nó nữa thì con đã trưởng thành …Còn giờ thì vì con – mẹ đâu, nó đó …

… Bây giờ tôi đã thành đạt. Sự nghiệp, công danh sự nghiệp đến muộn nhưng sau cuối cũng đến. Mẹ mừng hơn ai hết. Con Lẻm con ông ba tàu bán bánh bò ngoài cổng chợ giờ là vợ sắp cưới của tôi. Ngày tôi lấy vợ, từ dưới quê mẹ lên thăm. Xuống bến xe đón mẹ, tôi thật ngỡ ngàng khi mẹ cứ hi hoáy tìm một vật gì để dưới gầm xe. Tìm mãi, sau cùng mẹ mới lôi được ra cây đòn gánh ! Thì ra thói quen, mẹ mua cau trầu mừng đám cưới tôi và cứ nghĩ sẽ đến nhà tôi với đòn gánh trên vai và cặp quang sắt rỉ ! Tôi buồn cười và hơi tức bực về sự lẩm cẩm của mẹ. Ai đời lên đến thành phố rồi mà còn đem theo nào quang nào gánh, dáng đi cứ quay quồng, lo âu như ngày nào. Ngoài việc mướn xe chở cau trầu, tôi còn phải kêu thêm một chiếc xích lô chở riêng cặp quang và chiếc đòn gánh theo về vì không biết để đâu. Bảy mươi tuổi, có khi mẹ lẩn thẩn rồi cũng nên. Tôi nhủ thầm như vậy …


Mừng đám cưới tôi có mấy ngày, mẹ đòi về nằng nặc. Nhà không ai trông nom, vườn tược, gà heo không ai chăm nom, mẹ bảo thế ! Hầu như đêm nào ở nhà tôi mẹ cũng thức trắng, trằn trọc không ngủ. Mẹ lo những việc không đâu, nào ai biết được. Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi dậy, húng hắng ho. Tôi làm thế nào dỗ giấc ngủ, lo ngại đòi mẹ uống thuốc nhưng mẹ bảo không sao. Me lo chuyện rau mọc nhiều không ai cắt bán, lo gà vịt không ai cho ăn, lo nước trong lu không ai gồng gánh … Đúng mẹ lẩm cẩm thật rồi !

Tôi và con Lẻm mời mẹ ở lại luôn trên thành phố với vợ chồng tôi nhưng mẹ nhất định không chịu. Mẹ ở không quen chốn đông đúc, ồn ào hơn nữa còn phải chăm mộ bà nội, ba con dưới quê, ở lâu làm thế nào được, mẹ nói cái lý của mẹ. Cái lý của các bà mẹ thì khi nào cũng thuyết phục được bất kể ai trên đời chứ chẳng phải riêng tôi …

Ngày mẹ ra bến xe về quê ngoài quà mừng của vợ chồng tôi gửi bà con lối xóm vẫn là chiếc đòn gánh đã lên nước theo cùng. Nhìn dáng mẹ quay quồng, quay quồng, lòng tôi trào dâng niềm thương vô bờ bến nhưng biết làm thế nào giữ mẹ. Đến lúc nầy, mẹ mới móm mém cười, chắc là muốn chúng tôi đừng buồn khi chia tay :

– Đó, con thấy không ? Nhờ đem theo đòn gánh mà khi về, mẹ mới mang hết mấy thứ quà con gửi cho lối xóm … Không có nó, mình mẹ bê sao nổi !

Tôi nhận ra mẹ mình có lý. Một đời mẹ tảo tần đắm đuối vì con với chiếc đòn gánh cùng theo mẹ đi suốt bao năm trời gian nan mãi cho đến khi con đã trưởng thành vẫn còn mãi lo âu …

Rồi mẹ tôi qua đời ! Tuổi già và những căn bệnh triền miên không cho mẹ ở lại cùng tôi mãi. Cuộc chia tay đớn đau sau cuối rồi cũng đến ! Trong nỗi đau mất mẹ, tôi chỉ còn biết lặng người, xót tím tâm can.


Lúc nhập quan, khi người ta đưa hình hài nhỏ bé, khô quắt của mẹ vào quan tài, ngoài những bộ đồ cũ nát mẹ vẫn thường mặc khi còn sống cùng những đồ vật thường dùng, tôi chợt nhớ đến chiếc đòn gánh đã đi theo suốt đời cùng mẹ. Nó vẫn nằm đó, trong góc nhà kia, vẫn ánh lên thứ nước màu đen tuyền với cái thân đòn hình như cong lên vì khó khăn vất vả. Chợt nghĩ về những ngày ấu thơ gian nan, chợt nghĩ về tình yêu bát ngát, thắm thiết của mẹ, tôi trào dâng nước mắt …

Tôi nhớ đến lời mẹ tôi khi còn sống – mẹ đâu thì nó đó – chiếc đòn gánh ấy! Và cố thuyết phục mọi người xin đưa cây đòn theo cùng mẹ sang thế giới bên kia … Ai cũng cản tôi nhưng cuối cùng thì họ xiêu lòng. Vậy là trong quan tài mẹ tôi lại có thêm chiếc đòn gánh đã từng một thời bôn ba cùng mẹ.

Khi mọi người ra về sau lễ tang, còn một mình ngồi bên mộ mẹ, tôi đã khóc như chưa khi nào được khóc như thế. Rồi cũng sẽ qua hết mọi khổ đau, niềm hạnh phúc, mọi cao sang, quyền quý và cao sang kể cả những vụn vặt thấp hèn trên đời nầy nhưng tôi biết, hình ảnh mẹ tôi và chiếc đòn gánh nhọc nhằn thời xưa sẽ theo mãi tôi đến suốt quãng đời còn lại …

 Nguyễn Minh Phúc



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 9:59am

Hồng Nhan 

 

Sãi là một vùng đất
Sãi không chỉ nổi tiếng với bánh bèo mụ Thí, nem lụi mụ Năm mà Sãi còn được thiên hạ biết đến qua nhan sắc của cô Lý xóm Hậu Kiên. Mấy ông trên Tòa Hành chánh Tỉnh cuối tuần xuống Sãi nhậu thường trầm trồ “Đẹp ác liệt!”; xóm giềng thì thầm “Cha mẹ cú đẻ con tiên”; có mụ đàn bà nhiều chuyện còn xa gần “Biết mô con ai đem bỏ chùa nầy?”.

Sãi là một vùng đất thơ mộng hiền hòa nằm bên con sông Vĩnh Định. Không biết thời Chúa Nguyễn Hoàng chọn Quảng Trị làm thủ phủ có bà Phi nào lạc loài trong dân gian không mà con gái Sãi phần lớn nhan sắc thuộc loại trên trung bình. Nổi nhất là gái xóm Hà, gái xóm chợ Cổ Thành … Nhưng tất cả đều thua cô Lý Hậu Kiên. Thấy cô Lý từ xa, gái đẹp đã tìm cách né kèm theo một cái nguýt dài tám thước – nếu đo được.

Cô Lý con nhà ai và răng lại như rứa? Suy cho cùng, mọi chuyện đều có căn nguyên.

Nói đừng tự ái chớ một thời nhà vệ sinh là khái niệm xa lạ với phần đông dân Sãi. Con nít thì khỏe. Kêu chó tới “chóc chóc” là xong. Người lớn xuống dưới biền, nói khéo là “đi sông”. Ai lịch sự hơn thì xách một cái cuốc lui sau vườn. Cái ăn mới là chuyện lớn!!!

Quốc sách Ấp chiến lược ra đời, Tỉnh trưởng đi kinh lý. Để tạo bộ mặt khang trang cho nông thôn mới và cũng để đánh bóng tên tuổi với thượng cấp, quận cho xây một cái nhà vệ sinh trên đám đất rộng cuối làng Hậu Kiên, phục vụ cho đầu ra của làng.

 Không người Sãi nào chịu phụ trách bán vé tháng và quản lý nhà cầu. Chuyện này ngày xưa dành cho thằng mõ, giai cấp cùng đinh. Cho dù thời buổi tiến bộ, cấp trên đã phong tước “nhân viên vệ sinh”cũng không ai thèm làm. Mãi sau cùng có một người tình nguyện. Lâu dần, không ai gọi là nhà vệ sinh như cái bảng sơn xanh trang trọng bên trên. Người ta gọi là “ Cầu xia ông Chác”. Mà oái oăm thay, ông Chác là cha cô Lý!

Ông Chác không phải là người địa phương. Người có chữ nghĩa gọi là “dân ngụ cư”. Ông xuất hiện ở làng Hậu Kiên từ sau hiệp định Geneve chia đôi hai miền Nam Bắc, một vợ ba con.Cô Lý lúc đó đang ẳm ngữa là con đầu. Đẻ sinh đôi hai đứa sau thì bà vợ chết vì băng huyết.

Đọc văn Nam Cao, người ta ấn tượng với khuôn mặt của Chí Phèo, khuôn mặt mà cả làng Vũ Đại phải tránh vì vừa dữ vừa xấu. Nhưng nếu có cơ hội so sánh với ông Chác, có khi Chí Phèo còn đẹp trai hơn!

 Các bà mẹ thường đem ông Chác ra dọa khi con mếu máo. Trẻ con sợ ông như sợ cọp. Các ông, các bà tự xếp mình vào đẳng cấp “danh giá” tránh tiếp xúc với ông Chác như sợ “mùi cầu xia” bám vào mình. Lâu dần, nhà ông Chác như biệt lập với xóm. Người đã nghèo, lại xấu, lại ít nói, lại làm cái nghề “hạ tiện”!!!

Nhưng lạ thay cô Lý con ông lại đẹp, một cái đẹp không cần đến sự hỗ trợ của son phấn. Da cô trắng như bông bưởi. Hai hàng lông mi cong vút. Con mắt đen nhánh dưới chân mày cong lá liễu. Đôi môi hồng tự nhiên của tuổi đôi tám…Con gái đẹp nhìn cô còn ganh tị huống chi các chàng trai đương tuổi rạo rực yêu đương!

Ở Sãi, con gái mới lớn đã có người mối mai nhưng cô Lý hai mươi vẫn chưa có người dạm ngỏ. Lý do đơn giản: người ta dị ứng với cái nghèo, cái nghề “giữ cầu xia” của ông Chác! “ Lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống”. Chung quanh ông Chác, nhiều người cũng nghèo, thậm chí còn nghèo hơn nhưng họ vẫn tự hào xem mình thuộc đẳng cấp cao hơn thằng “quét cầu xia”!

Vậy nên ngoài hai mươi, cô Lý vẫn “ế”! Và đó cũng là nguyên nhân khiến miền gái đẹp vừa ganh tỵ vừa coi thường cô Lý.

Cô Lý bán nón ở chợ Cổ Thành. Hàng của cô khuất trong một cái hốc nhưng vẫn có nhiều khách. Loại khách thứ nhất là những o, những mệ vì cô Lý thuộc hạng khéo tay trong nghề chằm nón. Vừa bán, vừa chằm, cô có thể làm xong một cái  sau phiên chợ sáng. 

Nhìn ngón tay cô thoăn thoắt chằm nón, nức nón ngó thấy mê. Cô lại khéo ở khâu lựa lá, ủi lá, xây vành  nên nón của cô rất bền. Những cô gái ganh tỵ nhan sắc của Lý không bao giờ đến hàng cô nhưng vẫn đội nón cô Lý do mạ họ chọn mua. 

Loại khách thứ hai đến không phải để mua nón mà chỉ để “nghễ” cô Lý theo lời đồn. Đó là những công chức Tòa Hành Chánh trên Tỉnh, những anh lính  Bảo An và có cả những thầy giáo được xếp vào thành phần “trí thức danh giá” của địa phương. Ai cũng nắc nỏm trước cái đẹp nhưng rồi ai đến cũng chỉ để nhìn. Chẳng phải người xưa đã dạy “Tốt danh hơn lành áo” đó chăng? Trong số người ngắm có thầy giáo Hoàng…

Thầy Hoàng cũng không phải là người địa phương. Thầy ở tận trong Thành Nội Huế. Tốt nghiệp trường Sư phạm, thầy được bổ nhiệm ra dạy tại quận Triệu Phong. Mặt mày sáng sủa, ăn mặc lịch sự, truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Quảng Trị khiến đẳng cấp thầy cao chót vót. Thầy được mời trọ trong một căn nhà ngói khang trang, ăn riêng với chủ nhà là một ông Ấp trưởng ở nhà trên, ra đường mỏi miệng mỏi cổ trước những cái cúi đầu trân trọng của dân làng.

Thầy Hoàng cũng là người có tư tưởng tiến bộ. Bằng cớ là thầy đến hàng cô Lý không chỉ một lần dù đã nghe nói về cái nghề “gác cầu xia” của cha cô. Nhan sắc và sự ngây thơ của cô Lý đã làm thầy rung động dù ban đầu thầy cũng có hơi chợn. Thầy mượn cớ đặt nón cô Lý để đem vào Huế, cả gan đối địch với xứ sở của nón bài thơ! Thầy đã làm ba bài thơ ca ngợi  mỹ nhân. Và can đảm hơn tất cả những chàng trai khác, thầy đã trao ba bài thơ  ấy cho cô Lý.

Ý thức về thân phận khiến cô Lý không thể không e ngại. Nhưng “mưa dầm thấm lâu”, sự kiên nhẫn của thầy Hoàng đã khiến cô Lý mềm lòng và dẫn tới tình huống “ Đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa”. Nhưng họ cũng khôn khéo lắm trước dư luận người đời. Thầy Hoàng không ra chợ Cổ Thành nữa. Họ hẹn nhau những đêm Ba mươi dưới gốc cây ngô đồng trên đường ra chợ  gần nhà ông Ba chuyên nghề làm kẹo xóc.

Tình yêu làm cô Lý ngày càng đẹp ra, những cái nguýt của các cô gái khác bây giờ kéo dài cả mười thước. Thỉnh thoảng học trò nghe thầy Hoàng huýt sáo trong giờ dạy. Một đoạn thơ “ Kim Trọng gặp gỡ Thúy Kiều”của Nguyễn Du mà thầy dạy hoài dạy mãi chưa xong vì tâm đắc (!). Sự đoan trang của cô Lý, sự chuẩn mực của  ngành mô phạm đương thời nên hai người chỉ dám có những cái cầm tay, vuốt tóc suông. Nhưng với cặp đôi đang yêu này, thế là quá đủ !

Bà Ấp trưởng- chủ nhà trọ của thầy Hoàng cũng có hai cô con gái đang ở vào lứa tuổi cập kê. Nhan sắc của cả hai đều xếp vào hạng dưới trung bình – nếu không nói là xấu.

 Nhưng bà Ấp là người đàn bà có tầm nhìn xa. Bà có cái tham vọng một trong hai con sẽ thành bà giáo danh giá trong tương lai. Bà không thiếu tiền, vàng nhưng bà vẫn ý thức được con gái mình là người nhà quê.

 Bà không biết câu triết lý của phương Tây “Tình yêu đi qua dạ dày” nhưng bà rút kinh nghiệm từ cuộc hôn nhân với ông chồng. Người đàn bà xấu nhưng không đần này đã chiếm đươc ông Ấp trưởng bảy chục kí lô nhờ vào ba xị đế và món bồ dục xào trứ danh!

Tiền cơm tháng thầy Hoàng đưa cho bà chủ cũng tương đối như các bạn nhưng đồng sự của thầy thi thoảng ghé chơi thường  xuýt xoa trước những món ăn được dọn riêng cho ông chủ nhà và thầy giáo. 

Mùa Đông có cá lúi kho khô với một bụng trứng, mùa Thu có chim mỏ nhát ướp ngũ vị hương chiên thơm phức, mùa Hạ có  canh cải nấu cá rô ăn mát ruột, mùa Xuân dĩa thịt gà luộc vàng như nghệ… Chưa kể ăn xong còn có quả chuối lùn chín cây, miếng đu đủ ngọt ngào tráng miệng. Cuối tháng vào Huế thăm mạ, bà già thường nắn bóp tay thầy Hoàng “Gạo Quảng Trị ngó bộ ngon hơn gạo Huế con hè! ”

Thầy Hoàng có hiểu thâm ý của bà Ấp trưởng không nhưng ngó thầy vẫn cứ tỉnh bơ. Khi yêu, người ta chỉ biết tới người mình yêu! Tình yêu lên cao càng tỷ lệ thuận với những cuộc hẹn hò. Bây giờ, thầy Hoàng với cô Lý tăng cuộc gặp gỡ lên mỗi tuần một lần. Cứ chủ nhật, ăn tối xong, tắm rửa sạch sẽ, chải brillantine láng mượt, thầy Hoàng huýt sáo ra khỏi nhà và chỉ trở về trước nửa đêm…

Kinh nghiệm “chuyện trai gái” cho bà Ấp biết rằng thầy Hoàng đang yêu. Nhưng yêu ai là một ẩn số. Trường Triệu Phong chỉ có ba cô giáo nhưng một cô lớn tuổi góa chồng và hai cô khác thì tay bồng tay mang. Bà Lý thắc mắc và ghen thầm cho con gái. Bà bỏ không ít tiền trau chuốt cho hai con gà mái nòi nhưng thầy Hoàng ngó bộ chẳng quan tâm. Bà quyết định…

Một đêm tối trời, bà Ấp lẳng lặng theo chân thầy Hoàng. Chó ông Ba kẹo xóc gầm gừ đến quá canh ba…

Cũng đêm ấy, cô Lý đi quá giới hạn sau lời đinh ninh của thầy Hoàng “ Tuần sau mạ anh ra đi chạm ngõ !”.

Trưa thứ hai, chào cờ xong, dạy thêm bốn giờ Văn, thầy Hoàng mệt đứ đừ. Về nhà, thầy rửa mặt và ngồi vào bàn ăn như thường lệ. Chào hỏi ông Ấp cho phải phép, thầy Hoàng đơm cơm vào bát. Cơm hôm nay có món lòng heo chấm mắm nêm. Nếu có thêm ly rượu thì tuyệt cú mèo!

Nhưng miếng lòng heo chưa qua khỏi cổ thì thầy Hoàng đã vội nhả ra. Miếng lòng còn nguyên mùi xú uế, mắm vừa mặn vừa hôi. Răng lạ ri hè? Bà Ấp đủng đỉnh từ nhà dưới đi lên. Nhìn cái nhăn mặt của thầy Hoàng, bà la vọng xuống nhà dưới: “Đứa mô ngu rứa bây. Ăn cơm không thích cứ thích ăn c…”

Tuần sau, như lời hứa, thầy Hoàng đưa mạ ra Quảng Trị dòm mặt cô Lý. Trước đó, thầy đã khéo léo làm công tác “Dân vận”: “Dâu mạ đẹp, đảm đang, hiền lành, buôn bán giỏi. Mạ coi cái nón o nớ làm còn đẹp và chắc hơn nón Huế…” Mấy lâu ni, thấy thầy Hoàng đỏ da thắm thịt, coi bộ bà mạ cũng xuôi xuôi. Quảng Trị với Huế cũng nỏ xa xôi, cách chừng sáu mươi cây số ngó cũng đặng. Miễn là con nhà tử tế. Dù sao con bà cũng là thứ có ăn có học.

Đúng là một bà già Huế đi coi mặt con dâu. Bà mặc một cái áo dài gấm vàng còn thơm phức mùi long não. Cái kiềng vàng cất tận đáy rương được moi ra mang vào cái cổ khẳng khiu. Tay bà đeo thêm chiếc vòng hạt huyền gia bảo. Miệng bỏm bẻm nhai trầu, hai mẹ con lên xe đò ra Quảng Trị rồi đi xe lôi về Sãi.

Bà Ấp trưởng đón mẹ thầy giáo Hoàng thật nhiệt tình. Bà sai bắt con gà mập ú nấu cháo, thịt xé phay. Bà bảo con gái trải chiếc chiếu mới cho mạ thầy Hoàng nghỉ ngơi chờ ngày mai đi ra chợ Cổ Thành coi mặt cô Lý rồi về chuẩn bị cau trầu. Bà ngọt ngào chị chị em em với bà già. Bà tâng thầy Hoàng lên tận trời xanh với những lời nhận xét của hàng xóm: “Đẹp trai, dạy giỏi, khiêm nhường, ai tu bảy kiếp mới có con rể như rứa”…

  Mạ thầy Hoàng nghe mà mát ruột mát gan. Ăn cơm tối xong, thầy Hoàng vội vã ra chỗ hẹn dặn dò người yêu. Bóng thầy vừa khuất, bà Ấp cũng đưa mẹ thầy Hoàng đi dạo mát mà bước chân hướng về “Cầu xia ông Chác”.

Hôm đó nhằm đêm mười sáu, trăng sáng vằng vặc. Ông Chác lấy ánh trăng thay đèn quét dọn nhà vệ sinh. Ông mặc cái quần cũ rách hai đầu gối, đội chiếc nón cời theo thói quen,  tay xách thùng nước, tay tê cầm cái chổi cùn, mùi nhà cầu vương trong gió thum thủm.

 Gặp hai người đàn bà đi ngược đường, ông ý tứ nép qua một bên nhưng mạ thầy Hoàng cũng kịp đưa tay che ngang lỗ mũi. Chặp sau, bà Ấp trưởng buông nhẹ một câu: “Sui gia của chị đó nghe!”. Bà mạ thầy Hoàng sững sờ, ngó bộ chân đi không nổi.

Thầy Hoàng vẫn chưa về. Hai bà rù rì trong giường suốt đêm. Mặt mạ thầy Hoàng tím rịm như trái mùn quân. Sáng mai, mạ thầy Hoàng dậy muộn. Thầy thay áo quần đi dạy. Gấp chi. Mạ còn ở cả tuần…

Sáng ni, cô Lý dọn hàng sớm dù đêm qua từ chỗ hẹn về bóng trăng đã xế ngang đầu. Lòng cô hồi hộp, xốn xang. Anh ấy đúng là một người quân tử “ nói lời đã giữ lấy lời”. Cô tưởng tương ra vẻ mặt hiền hậu của người mẹ chồng tương lai. Rồi cô sẽ nấu cho anh những bữa ăn thật ngon, rồi cô sẽ  giặt ủi cho anh những bộ áo quần thẳng nếp. Và cô cũng sẽ thật dịu dàng cho đúng với địa vị của một bà giáo, dù là bà giáo nông thôn…

Một bóng người xuất hiện trước chồng nón. A, có người mua. Sáng ni ra ngõ gặp thằng cu Cường đứng đái đúng là may mắn. Cô hé cặp môi hồng định nói câu chào thật dịu nhưng một tràng chửi rủa đã ập xuống mặt cô. Bài chửi hay như một bài hát: “Bớ làng dưới An Tiêm, làng trên Nhan Biều. Bớ xóm dưới Cổ Thành, xóm trên Cửa Hậu, lại đây mà nghe tui chưởi…”

Chợ mới dọn, người đi chợ chưa đông, các mệ, các o, các thím bán hàng xúm lại coi một bà già xa lạ đến ngoác mồm chửi cô Lý. Bà già xỉa miếng trầu chửi tiếp: “Tổ cha cái đứa dụ dỗ con trai nhà bà. Con yêu con quý con cầu con tự của tau gặp phải con thần đanh mỏ đỏ, con thằng gác cầu xia…

Da cô Lý tái ngắt. Cô đã biết người đang chửi là ai. Cô nghẹn ngào cúi xuống lấy nón úp mặt. Bà già chửi tiếp: “Mi muốn sống làng ni thì mi liệu hồn mà buông mà thả con trai nhà tau. Bằng không tau đào mả tam đại tứ đại nhà mi, bật săng ngũ đại thất đại nhà mi…

Thiên hạ xúm lại vòng trong vòng ngoài. Tội cho cô Lý không có lỗ nẻ mà chui xuống. Chưa hết, bà già lại véo von: “Hôm nay tau chưởi một bài. Ngày mai tau chưởi đến hai bài liền. Nhà bà là giống công giống phượng, không ai thèm sui gia với nhà thằng quét cầu xia…Mi còn theo con bà thì ngủ giường giường sập, ngủ võng võng đứt…Nói cho nhà mi biết mà liệu thần hồn…”

Bà nhổ toẹt bãi cốt trầu đỏ lòm xuống đất, ngoe nguẩy bước đi trong tiếng bàn tán xôn xao của những người đi chợ. Đã có mạ con bà Ấp trưởng hộ tống ở bên ngoài. Họ hả hê ra về với nụ cười chiến thắng.

Đêm hôm đó, cả nhà ông Chác bỏ đi khi nào không ai hay…

Sáng ngày mai thầy Hoàng mới biết mọi chuyện xảy ra qua lời kể của cô giáo đồng nghiệp. Thầy bỏ dạy chạy ra chợ thì hàng nón không còn, qua nhà ông Chác thì “Trước sau nào thấy bóng người”. Chạy xuống bến đò An Tiêm nghe ông Lái nói nhà ông Chác đã qua sông lúc quá nửa đêm.

 Ông Lái cũng giao lại cho thầy Hoàng cái nón và đôi guốc mà cô Lý để quên, đôi guốc Phi Mã sơn màu nâu mà thầy đã mua tặng cô Lý trong một lần về Huế. Đôi guốc chưa vẹt gót, cái quai nón màu tím còn vương mùi da thịt thơm nhè nhẹ, quen quen. Thầy Hoàng thất thểu ôm cái nón, xách đôi guốc đi dọc bờ sông Vĩnh Định…

Bà Ấp trưởng gạt được cái gai trước mắt, tiếp tục chiến dịch “cơm gà cá gỏi” chinh phục ông thầy. Mạ thầy Hoàng ngọt nhạt lý lẽ trước sau để thầy lấy con gái bà Ấp nhưng thầy câm lặng như  cái xác không hồn. Học trò cũng không bao giờ còn nghe thầy huýt sáo nữa. Mấy mụ nhiều chuyện phẩm bình “Đũa mốc mà chòi mâm son”, người hiểu biết thì nhân ái hơn “Đúng là hồng nhan đa truân”.

Cuối năm học, thầy Hoàng xin chuyển nhiệm sở. Thầy không về Huế. Thầy xin về một ngôi trường xa xôi, hẻo lánh bên bờ phá Tam Giang tỉnh Thừa Thiên. Ở đó không ai biết thầy và chuyện tình đau đớn.

“Cầu xia ông Chác’’ không còn ai coi sóc dần bỏ hoang và thành chỗ cho trâu bò ăn cỏ. Vả lại, đời sống cũng tiến bộ hơn, gia đình nào rồi cũng có nhà vệ sinh.

***
Thầy Hoàng lúi húi bên bụi cỏ mực mới trồng ngày qua. Cuối Đông, đầu Xuân đám hà thủ ô đã tàn chuẩn bị cho người lấy củ. Đằng xa, giàn lạc tiên đang trổ bông. Mùi cây thuốc Nam tỏa ra từ gian bếp nhỏ…

Sau năm 75, thầy bị nghỉ việc, “vô lương” vì hai từ “biệt phái”. Mẹ già đã mất, thầy nhường căn nhà Thành Nội cho ông anh làm từ đường. Một thân một mình cần chi nhà cao cửa rộng. Thầy mua hai sào đất, cất căn nhà nhỏ gần chỗ dạy cũ, chuyển sang làm ông thầy thuốc Nam. 

Người xưa “Tiến vi quan, thối vi sư”, còn thầy tự hào vì trước sau vẫn cứ là “thầy” qua cách gọi thân quý của dân làng. Thú vui của thầy giờ đây là sưu tầm những cây thuốc dân gian và chiều chiều bắt sâu nhổ cỏ cho vườn thuốc.

Không hiểu vì “mát tay” hay nhờ cuốn “Y học  bí truyền” của ông Nội để lại mà thầy trở nên nổi tiếng. Xa xôi cũng có người tìm đến. Những thang thuốc của thầy chắc chắn hơn những viên Xuyên tâm liên, bệnh xá huyện phát cho người bệnh uống từng nắm mà không thấy hiệu nghiệm.

Vuốt mái tóc hoa râm, vói tay đấm lưng mấy cái, thầy lững thững đi vào nhà. Tô nước chè xanh ngan ngát hương thơm. Thầy thở một hơi dài khoan khoái.

Tiếng chó sủa ngoài sân báo hiệu có khách. Khách quen không ai đến giấc này, chắc chỉ là bệnh nhân.

Một thanh niên đang dìu người đàn bà bước qua khung cửa hẹp. Ngó bộ người ốm đã lâu ngày, chân đi chập chững, chiếc khăn kẻ ô vuông che nửa mặt. Uống cạn tô nước, thầy Hoàng lên tiếng:- Chắc bà và em đến từ xa. Xin bà ngồi nghỉ rồi tôi sẽ chẩn mạch.

Người đàn bà hơi rùng mình như có làn gió lạnh thổi qua. Thầy Hoàng ý tứ khép cánh cửa và bật điện. Ánh sáng vàng vọt vừa đủ để soi sáng căn phòng hai mươi mét vuông vừa làm phòng khách vừa làm phòng khám.

Chiếc tủ dài có nhiều ngăn kéo đựng các vị thuốc kê sát vách. Trên tường treo bức tranh thủy mặc lớn vẽ dòng sông, con đò, bến nước…Phía bên dưới, có treo một chiếc nón. Chiếc nón vàng úa, lá khô cong đẫm dấu vết thời gian, vành nón có chỗ bung chỉ, quai nón bạc phếch. Và trên mặt tủ là đôi guốc cũ vẹt gót, lỗi thời nhưng lại được trân trọng đặt trong một khung gỗ.

Người đàn bà nhìn sững bức tường, cổ phát ra một tiếng rên nhẹ rồi ngồi bệt xuống cái ghế nhỏ. Anh thanh niên cuống quýt kêu lên: Má! Má!… Như không còn đủ sức lực, người đàn bà dựa hẳn vào vai con.

Thầy Hoàng lau tay vào chiếc khăn sạch rồi nói với người trai trẻ: “Chẩn mạch sáng sớm lúc âm khí chưa động, dương khí chưa tán sẽ dễ thấy mạch bệnh hơn. Nhưng ngó bộ bà bệnh đã lâu, nghỉ một chút cho khí huyết điều hòa rồi tôi sẽ chẩn bệnh, kê đơn, bốc thuốc”.

Người bệnh nằm trên chiếc giường nhỏ, cánh tay phải duỗi ra, bàn tay để ngửa. Thầy Hoàng ngồi nghiêng, dùng tay trái chuẩn bị chẩn mạch. Thầy xăn tay áo người bệnh lên, đặt ngón tay giữa vào bộ quan chuẩn bị ngón trỏ và áp út thành ba bộ mạch… Bàn tay người đàn bà run run, sợi gân xanh phập phồng. Giữa cổ tay, một cái nốt ruồi son lớn nhô lên, đỏ sẫm…

Thầy Hoàng chớp mắt, giương mục kỉnh cố nhìn cho rõ. Cái mụt ruồi quen quen ngày ấy. Cái mụt ruồi  độc đáo thầy hay sờ sẫm trong đêm khuya. Cái mụt ruồi mà có lần thầy đã nói “Nhờ nó, anh có thể tìm ra em trong vạn người”…

Thầy kéo mạnh cái khăn kẻ ô vuông che mặt người đàn bà. Ôi, rõ ràng là khuôn mặt của cô Lý, người đẹp Hậu Kiên hơn hai mươi năm trước! Qua bao thăng trầm vẫn còn đây vẻ duyên dáng dù “Mười phần xuân có gầy ba, bốn phần”.

Hai người ôm chầm lấy nhau trong sự ngỡ ngàng của người con trai mang đường nét của thầy Hoàng thời trai trẻ.

Ngoài trời, mưa Xuân rơi nhè nhẹ. Cây mai giữa sân đang chuẩn bị kết nụ đâm chồi.


Hương Thủy
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.420 seconds.