Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Lại thêm 1 Tháng Tư Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Chủ đề: Lại thêm 1 Tháng Tư
    Gởi ngày: 10/Apr/2013 lúc 7:00am

TIN VUI
:


Thư Thượng-Nghị-Sĩ Black Giải Thích Về Nghị-Quyết SJ455
(04/10/2013)

Tác giả : Nguyễn Ngọc Bích



Sau khi có tin là Nghị-quyết Lưỡng-viện SJ455 của Virginia đã được thông qua để lập ra một "Ngày Việt Nam Cộng Hòa" (Republic of Vietnam Day) ở Virginia, nhiều người đã gọi về để chia xẻ sự mừng vui khi nhận được tin này. Từ Seattle, Washington State, cựu-Đại-tá Phạm Huy Sảnh đã yêu-cầu gởi cho ông và các bạn thuộc nhiều binh-chủng trong Quân-lực VNCH miền Tây-bắc bản văn của Nghị-quyết bằng tiếng Anh để xem có thể đưa ra được những nghị-quyết tương-tự ở các tiểu-bang miền Tây-bắc Hoa-kỳ hay không. Giáo-sư Nguyễn Chính Kết ở Houston, Texas, cũng gọi lên ca ngợi việc làm này của đồng-bào ở Virginia. Từ Arizona cũng có người yêu-cầu được có bản tiếng Anh "để vận động ở Arizona" cho một bản nghị-quyết tương-tự. Chương-trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ở Nam Cali cũng ngỏ ý muốn được phỏng vấn về câu chuyện hình thành nghị-quyết tiên-phong này. Từ Paris, một cựu-chủ-tịch Tổng-hội Sinh-viên cũng muốn có một bản tiếng Anh để phổ-biến đến các bạn ở Âu-châu.

Nhưng đặc-biệt nhất là có một vị, ký tên Thi-Kham Nguyen ở Côte d'Azur miền Nam nước Pháp, đã điện cho Thượng-nghị-sĩ Dick Black, người đỡ đầu cho Nghị-quyết SJ455 từ những ngày đầu tiên cho đến khi nó được thông-qua vào tháng 2/2013. Điện-thư của vị phụ nữ này viết gỏn gọn có mấy chữ: "THANK YOU FOR VN DAY THAT YOU'RE AGREED WITH US: REPUBLIC VN DAY+FOREVER" ("Cám ơn Thượng-nghị-sĩ đã đồng-ý với chúng tôi về một Ngày VN: NGÀY VNCH MÃI MÃI"). Vì văn-phòng TNS Dick Black không rõ về giới-tính của người viết điện-thư nên đã trả lời và xem đó là một người đàn ông. Văn-phòng ông đã chuyển đến cho chúng tôi nội-dung lá thư và xin một bản dịch Nghị-quyết S455 sang tiếng Việt để có thể gởi cho vị phụ nữ nói trên. Chúng tôi đã cho văn-phòng ông biết người viết là một phụ nữ, nhưng dưới đây chúng tôi xin dịch nguyên-văn thư trả lời lúc ban đầu của TNS Black. Thiết tưởng lá thư này cũng giải tỏa được một số thắc mắc mà người Việt chúng ta có thể có được về nghị-quyết vừa thông qua ở Virginia. Lá thư có tiêu-đề của văn-phòng TNS Black với nội-dung như sau.

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013
Thưa Ông Nguyễn:

Cám ơn Ông đã gửi cho tôi điện-thư về nghị-quyết mà tôi đã thảo ra và đưa ra khóa năm nay, 2013, để cho Đại-nghị-viện Virginia thông qua. Nghị-quyết đặt ra lệ là kể từ nay, ngày 30 tháng 4 sẽ được đánh dấu như Ngày Việt Nam Cộng Hòa ở Virginia. Nghị-quyết đó đã được đồng-thanh biểu quyết ở Thượng-viện và chỉ có một phiếu chống trong số 100 dân-biểu ở Hạ-viện.

Tôi viết nghị-quyết trên là để tạo ra một văn-bản lịch-sử chính-xác và vĩnh viễn về sự can trường của người Nam Việt Nam đã chiến-đấu chống bạo-quyền Cộng-sản. Nghị-quyết ghi lại cái dã man ác độc của bọn đồ tể đã cưỡng-chiếm được miền Nam. Nó nêu ra chuyện hai triệu người đã bỏ trốn khỏi "Thiên-đàng Nhân-dân" của tên độc-tài khát máu ************. Nó kể lại chuyện những quân-nhu quân-cụ bị cắt đứt, làm cho những chiến-binh anh-dũng của Quân-lực VNCH đã không còn đạn dược để tiếp-tục chiến-đấu, và chuyện hơn một triệu người vô tội đã bị gởi đi đến các trại tập trung, nơi dây khoảng 1/3 số người trong đó đã chết.

Hiệp-hội Thương mại Á-châu đã mời một nhóm cựu-quân-nhân và cựu-cảnh-sát VNCH đến văn-phòng của tôi để bàn thảo cái nghị-quyết và đảm bảo là nó chính-xác. Tôi biết ơn Ông Tính Phan, Chủ-tịch, và Bà Mỹ-Lan Trần, Giám-đốc Điều hành của Hiệp-hội, đã đứng ra tổ-chức buổi gặp gỡ đó. Tôi cũng biết ơn Ông Nguyễn Ngọc Bích, Chủ-tịch Ban Điều-hợp Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ, là đã đóng vai trò hướng-dẫn trong cộng-đồng người Mỹ gốc Việt, cũng như Thượng-nghị-sĩ Toddy Puller và các Dân-biểu Mark Keam và Bob Marshall, mỗi một vị này đã có một vai trò đặc-biệt trong việc biến nghị-quyết thành hiện-thực.

Chúng tôi đang dịch nghị-quyết sang tiếng Việt, và tôi mong rằng nghị-quyết này sẽ vào được tận Việt-nam hiện đang bị [CS] chiếm đóng. Nhân-dân Việt-nam đáng được biết là Tiểu-bang Virginia công-nhận sự can trường của người miền Nam VN trong chiến-đấu và rằng những hy-sinh của họ sẽ không bị lãng quên.

Là một phi-công, tôi đã chuyên chở hàng trăm binh-sĩ VNCH đi vào chiến-trường. Như một sĩ-quan bộ-binh thuộc Trung-đoàn 1 TQLC Mỹ, tôi đã tham-dự nhiều trận chiến dưới đất vai kề vai với các binh sĩ VNCH anh-dũng. Trước khi rời VN, tôi bị thương trong một trận ở sông Hội An, ở phía nam Đà Nẵng. Tôi hy-vọng là những người con, trai cũng như gái, của những anh-hùng đã chiến-đấu để bảo vệ tự do của Việt-nam Cộng-hòa sẽ học được sự thật khi nghị-quyết này về đến tận Việt-nam đang bị [CS] chiếm đóng cũng như đi ra khắp thế-giới.

Thân kính,
[ký tên]
Richard H. Black
Thượng-nghị-sĩ Virginia, đơn-vị 13


Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 02/May/2015 lúc 3:34am
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 19/Jun/2013 lúc 12:53am

Tôi mở lòng xem lại vết thương
(Ngô Đình Châu)



      Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa,
      Hoa táo hoa lê nở trắng vườn,
      Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi,
      Em mở lòng xem lại vết thương,
      Anh ạ! tháng tư sương mõng lắm,
      Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê,
      Hay sương thành lệ tra vào mắt,
      Mờ khuất trong em mọi nẽo về.
    
Sau khi đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng thảng thốt. Đã 37 tháng tư trôi qua,bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẵng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt. Ba mươi bãy năm về trước, đám sĩ quan trẽ chúng tôi chĩ mới ngoài 20, đến nay đầu đã lớm chớm bạc, "cùng một lứa bên trời lận đận", sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 75, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời" : Thằng thì đang còng lưng trong các Shop may tại Santa Ana Cali, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, thằng thì đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài gòn"(trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngác như kẽ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết,chỉ có chúng tôi tự trách mình, chúng tôi đã làm gì cho Tổ quốc?.

    Trước năm 75, tôi là người lính trong hàng ngũ Quân đội Miền Nam, với cấp bậc thấp nhất là Thiếu Úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng, ngoài số lương đũ sống mà tôi lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bỗng lộc nào từ phía "triều đình". Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiễm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên, tôi không hề có một mơ tưỡng nào về một hào quang của ngày tháng cũ, và tôi cũng không muốn tiếp tục một hành trình" Việt nam Cộng Hòa kéo dài". Tôi viết như để thắp hương tưỡng niệm,những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay tại hải ngoại này.

    Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thời ấy gọi là Mùa Hè Đỏ lửa, mượn cái tên từ Tập bút ký chiến trường rất nỗi tiếng của Phan Nhật Nam. Mùa Hè đỏ lửa năm 72 là năm Quân đội của hai miền Nam-Bắc dốc sức đánh một trận chiến sinh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong. Niên khóa năm 71-72, tôi là Sinh viên Ban Sử Địa thuộc Đại Học Văn Khoa Saigon, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành, tin tức chiến sự từ các mặt trận gởi về dồn dập, lúc đó bạn bè tôi lớp chết lớp bị thương, lũ lược kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại,tôi thấy miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được hỗ trợ bằng tiếng hát ma quái Khánh Ly, đã làm băng hoại chán chường cả một thế hệ thanh niên thời đó. Ngoài ra, còn khá nhiều những bài ca những tiếng hát đã đâm thấu lòng người "anh trở về trên đôi nạng gỗ,anh trở về bại tướng cụt chân, anh trở về hòm gỗ cài hoa,trên trực thăng sơn màu tang trắng..."Tai sao trong một đất nước đang có chiến tranh mà có những điều kỳ lạ này xuất hiện. Điềm Trời báo trước chăng?.

   Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh tổng động viên, tất cả các nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ những người xuất sắc. Lúc đó những gia đình có tiền của, họ chạy đôn chạy đáo lo cho con cái của họ chui vào chỗ này chui vào chỗ nọ, miễn sao khỏi ra mặt trận. Đối với họ,chuyện ngoài mặt trận là chuyện của ai khác, không liên quan gì đến gia đình họ, hàng ngày họ xem TV thấy cãnh khói lửa ngập trời, người chết hàng hàng lớp lớp, họ coi đó là chuyện ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới họ. Còn tôi thì ngược lại ,tôi muốn ra mặt trận càng sớm càng tốt, hình như định mạng đã an bày cho tôi. Trong bài Đai bác ru đêm của Trinh Công Sơn có một câu rất "độc", "đại bác đêm đêm dội về Thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe", tôi chính là người phu quét đường đó. Tiếng đại bác đã làm lòng dạ tôi nôn nao, tôi muốn ra mặt trận để chia lửa với những người bạn cùng thời với tôi, đễ chịu chung khổ nạn với đồng bào tôi,trong những ngày tháng điêu linh nhất của đất nước. Tiếng Đại bác đã âm ĩ trong lòng tôi,kéo dài mãi từ ngày đó cho tới tận bây giờ.

   Thế rồi cũng đến phiên tôi nhập ngũ, giả từ Trường Văn Khoa với Đại Giãng Đường 2 bát ngát, giả từ những bài giãng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng,của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, thôi nhé giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn. Tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức,năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuễ các thanh niên nhập ngũ nên đã đưa một số ra thụ huấn ngoài Trường Đồng Đế Nha Trang,toàn bộ tinh hoa của Miền Nam được tập trung vào hai quân trường này,Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.

    Vào quân trường,Khóa 4/72 toàn là các sinh viên các trường ĐH tụ họp về đây, chúng tôi làng xoàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết, tuổi trẻ mà,lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có Trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì sự huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự thành một người lính thật thụ là điều không đơn giãn. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng một cơ thể gan thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bảo táp. Trong 5 tuần lể đầu tiên vào trường, gọi là giai đoạn "huấn nhục", đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi tuân phục sự chỉ huy điều động của các huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ mọi hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy không được đi... các huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm tới chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần lễ huấn nhục, ai vượt qua được, sẽ tham dự lễ gắn Alpha, để chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan. 
 
Ngày quì xuống Vũ Đình Trường để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập một kỳ công là tự chiến thắng chính mình để trở thành một người lính,không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà Xập, cầu Bến Nọc... Cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài đại đội vượt sông, đại đội di hành dã trại...Cuối cùng điều mà chúng tôi mong đợi từ lâu, đó là ngày làm lễ ra trường, tất cả chúng tôi trong quân phục Đại Lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường, rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên Sĩ quan chỉ huy buổi Lễ: Quì xuống các SVSQ, sau khi đọc các lời tuyên thệ và được gắn lon Chuẩn Úy, tiếng thét chỉ huy lại cất lên một lần nũa: Đứng lên các Tân Sĩ Quan". Trong số chúng tôi có người muốn ứa nước mắt , cái lon mới được gắn lên vai, đã đánh đổi bằng biết bao mồ hôi gian khổ sao kể xiết.

   Ngày hôm sau chúng tôi tụ họp lên hội trường để chọn đơn vị, tới phiên tôi lên chọn có một điều làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phạn chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư Đoàn 7 cho gần Sài gòn, bỗng cái Ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng bèn đưa ra lời bàn: "Chuẩn Úy nên chọn về Sư Đoàn 9 vì vùng trách nhiệm nhẹ hơn, SĐ 7 trách nhiệm vùng Cái Bè Cai Lậy rất nặng nề. "Oái oăm thay ngày hành quân đầu tiên của tôi là vùng Cái Bè, bởi lẽ đơn vị tôi tăng cường cho SĐ 7.

   Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh SĐ 9 tại Vĩnh Long, SĐ này có 3 Trung Đoàn: 14,15 va 16. Tôi được đưa về Trung đoàn 14. Tôi lại mang vác ba lô về trung đoàn 14 đang hành quân vùng Cái bè. Từ Sài gòn qua Ngã ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai lậy rồi tới Cái bè, xong quẹo mặt,chạy tít mù vào sâu bên trong khoãng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái Xã mang tên Hậu Mỹ, ngay tại đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe cái tên Hậu Mỹ là đũ ớn xương sống. Không hiểu sao, ở giửa ĐTM lại có một nơi dân cư sinh sống bằng nghề nông rất trù phú. Đám Tân SQ chúng tôi sau khi trình diện Trung Đoàn trưởng thì được giử lại Bộ Chỉ huy vài hôm để tập làm quen với cách làm việc của nơi này. Sau đó Ban Quân Số phân chia về cac nơi. Vị Sĩ quan Quân số hỏi có Chuẩn Úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận. Nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẩy Súng,tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này,mà trong lòng không có một chút oán thù nào về phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.

    Một Trung Đoàn Bộ Binh có 3 Tiểu Đoàn và 1 Đại Đội Trinh Sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về cac Tiểu Đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh Sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn gặp nhau nữa. ĐĐ/TS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại Đội Trưởng, lúc đó đơn vị đóng ở ngoài căn cứ của Trung Đoàn. Trung Úy Đại đội trưởng có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao to trông rất dử dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giong nói gầm gừ trong họng, tất cả đều toát ra một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện (trong đó có tôi). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân phong quân kỷ: "Chuẩn úy NĐC,số quân 72/150181,trình diện Đại Bàng". Ông ta nhướng mắt nhìn tôi,trên gương mặt hình như có nét thất vọng (mãi về sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi ông ta phán cho tôi một câu nhớ đời: "Anh về làm Trung đội Phó Viễn Thám". Trời đất, tôi nghĩ thầm, cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Tr.đội phó là sao nhĩ? Lúc đó tôi không biết rằng làm Tr.đội phó là còn may, các Sĩ quan về sau nữa có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở

   Đai Đội lúc đó có khoãng trên trăm người, được chia làm 2 Trung đội Trinh Sát và 1 Trung đội Viễn Thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất ngầu, uống rượu như điên đồng thời nói năng rất bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn, phần lớn họ là gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều là tất cả những người lính này đều đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật quân đội chăng? Sau một thời gian sống gần gủi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phát, rất tôn trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẳn sàng xã thân, họ hoàn toàn không dể sợ như tôi nghĩ lúc đầu.

   Vài hôm sau, gặp bửa Đại đội tề tựu đông đủ, Đại Bàng đưa tôi ra giới thiệu trước ĐĐ, rồi bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi!  Tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẫy bẫy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp hồn như thế này bao giờ đâu, cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẻn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng, bây giờ nghĩ lại tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắc lưởi bực mình của Đại bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dử kéo tôi ra chổ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:"Chuẩn Úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy? "Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, bởi vì khi ông xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đáp:"Tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức". Ông ta bèn xáng cho tôi một câu nhớ đời: "Vậy mà tôi tưỡng Chuẩn Úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân chứ"!  Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông ta đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là Sinh viên Sĩ quan trong Thủ Đức, chúng tôi coi là điều sĩ nhục, khi bi cấp trên mắng là Nữ Quân Nhân. 

Tối hôm đó khi đi ngủ tôi buồn lắm, hình như tôi bị quăng vào môi trường sống không phù hợp với mình, một nơi chốn mà tôi chưa từng biết bao giờ, bỏi lẽ trước nay tôi chỉ là anh học trò, bấy lâu chỉ làm bạn với sách vở,với bạn bè với trường lớp. Bây giờ giửa chốn ba quân này, tôi bỗng nổi bật lên như cái gì đó không giống ai. Lúc đó, tôi nhớ Ba mẹ tôi ở nhà, và tôi nghiệm ra một điều rằng, ăn chén cơm của Ba Mẹ tôi sao mà sung sướng quá, bởi lẽ Ba Mẹ chớ hề sĩ nhục tôi, còn khi ra đời, ăn chén cơm của người đời sao đầy cay đắng, tôi lặng lẽ ứa nước mắt.

   Tôi về làm Phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân CTKD, thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh ta thương tình kêu đệ tử giúp đở cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài dở khóc dở cười, không sao quên được. Chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ, thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, nhưng tôi lại rất sợ đĩa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông mà xối lên người. Tắm một hồi, tôi cảm giác có cái gì  đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, và xầm xì bàn tán chuyện gì đó, rồi bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có tên lính lên tiếng: "Sao Chuẩn Úy không xuống tắm như tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! Sao da của Chuẩn Úy trắng nõn như da con gái vậy. Tôi ngượng điếng người, máu chạy rần rần trên mặt,muốn chui xuống đất mà trốn cho đở xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, có cái ông Thượng sĩ già đứng gần, còn đớp cho tôi thêm một nhát: "Ý cha! cái bàn chân Chuẩn Úy sao mà đẹp quá, bàn chân này có số sung sướng lắm đây!!! Thiệt là khổ cho cái thân học trò của tôi, hết làm Nữ Quân Nhân, bây giờ lai giống con gái, thiệt là chán.

   Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy, Hậu Mỹ là nơi đã tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị, cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng Đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi là bắt đầu nai nịt lên đường, súng đan ba lô trên vai, để tham dự cuộc hành quân thường ngày, bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đấu gối,rồi khi qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế quần áo ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo tụi tôi nhuộm phèn vàng chạch, trong rất kỳ quái.

   Khi ở quân trường tôi tưởng nỗi gian khổ của người lính là cao nhất, sau khi ra đơn vị tôi mới thấy được rằng, nỗi khổ quân trường chỉ là khúc dạo đầu, không thấm thía gì so với ngoài thật tế. Vùng Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ ruộng, khi dặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không  ngừng giửa đường được. Đất ruộng người dân họ cày xới lên từng tản to nhỏ như trái dừa,ngổn ngang lổ chổ, và nước lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế để đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên rút bàn chân lên thật khó nhọc, mặt trời rọi ánh nắng gay gắt, mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăng tăng lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có đệ tử mang vác phụ. 

Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn,họ phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối... Người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chão, họ lặng lẽ bước đi, tôi không hề nghe một lời than van nào hết, họ cắn răng lại mà cam chịu, có than van cũng không ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo ra vắc, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật xuống đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết, lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn,đời lính sao mà khổ quá!

   Theo Đặc San Cư An Tư Nguy (câu này là châm ngôn của Trường BB Thủ Đức) phát hành tại San Diego, thì Quân Trường này đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn SQ đã tử trận, và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế binh thương tật. Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường, và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng ( các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính, khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng không có bạn nữa mà chỉ có phía bên kia. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như vậy, súng đạn vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẵng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế. Vậy mà tôi còn làm Trung đội phó, không biết nói sao nữa.

   Có một bửa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra,tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh một hồi rồi bỗng thấy làm lạ sao  thấy C/U Thắng im lìm không có lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính Truyền tin nói với C/U Thắng: " Đại Bàng kêu C/U lên trình diện gấp" C/U Thắng bỏ đi một đoạn, thì lính Truyền tin lại bảo tôi: " Đại Bàng muốn gặp C/U Châu". Tôi cầm ống nghe áp vào tai, thì nghe Đai Bàng chửi xối xả, giọng Ông lồng lộng một cách giận dử, té ra là do C/U Thắng quá sợ nên không dám tấn công, ông hét lên bảo tôi: " Nè ! C/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẩn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không?". Tôi nghe mà sợ muốn "té đái", run lập cà lập cập, rồi trả lời ông xin tuân lịnh. 

Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi vói tay lấy khẩu súng trường của người lính bên cạnh, miệng chỉ kịp kêu lớn: "Tất cả theo tôi". Lúc đó tôi "quíu" quá, nên không nhớ bài bản chiến thuật nào mà tôi từng học ở quân trường, tôi xông lên vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa), cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo tôi. Phía người anh em bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, tưỡng tôi bị điên, bèn lập tức tháo lui, tronglúc vội vã họ còn quẵng lại tặng tôi mấy cây súng nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút, ai cũng tưỡng tôi gan dạ, chứ đâu biết rằng tôi làm thế vì quá sợ ông xếp của mình. Thiệt là khôi hài. Đại bàng kéo quân lên ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lập chiến công "khùng điên ba trợn" như tôi. Hết cơn giận,ông trả quyền chỉ huy lại cho C/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.

   Sau đó tôi được điều qua các Trung Đội khác, xử lý công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương... Một điều may mắn cho tôi, (hay Trời đãi kẻ khù khờ), khi tôi nắm quyền tạm thời đó, những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp. Đại Bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đở ái ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi. Đại Bàng sau đó được thuyên chuyễn qua một đơn vị khác và một Đại bàng mới đến thay thế, ông Trung úy mới đến này có dáng dấp thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, khiến  tôi rất có cảm tình. Trong bửa nhậu bàn giao chức vụ, Đại bàng cũ giới thiệu các Sĩ quan trong đơn vị cho ĐB mới được biết. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra một nhận xét làm sững sốt mọi người: " Đây là một tay Sĩ Quan xuất sắc, một tay chơi tới bến ... "Hai người sững sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình và cũng không hề muốn bương chãi về phía trước. Đối với ĐB mới, ông ta lấy làm lạ là phải, bởi vì ông cứ ngở SQ xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng, sao lại là cái ông Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẫn này. Tôi cũng không ngờ, cái lời nhận xét đó đã đẩy tôi vào một khúc ngoặt khác, đầy hung hiểm chết người.

   Một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại bàng mới cất nhắc lên làm Trung Đội trưởng thật thụ. Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải động não đến cao độ cho công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp Chỉ huy, chính điều đó đã đẩy Trung đội tôi vào nơi Tử địa. Khi Đại đội tiến quân vào nơi nguy hiểm, Trung đội tôi được lịnh đi đầu, và khi rút quân từ nơi đó, Tr.đội tôi được lịnh bao chót. Khi tấn công tôi được giao chổ khó gặm nhất, và khi phòng thủ Trung đội tôi được nằm ở vị trí nặng nề nhất. Người ta thường nói: "Nhất Tướng công thành vạn cốt khô", tôi không phải là Tướng, chỉ là một Sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều đến nỗi, tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại bàng dành cho tôi, mà Trung đội tôi phải gánh chịu những tai ương này. Ông ta rất quí mến tôi, ông chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời, có món nào ngon ông sai đệ tử đi mời tôi đến cùng ăn với ông, có Huy chương nào quí giá , ông cũng ưu tiên dành cho tôi. Ông quí tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu ông cứ xử dụng tôi như vậy, trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống nỗi, khi xua quân đi hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà toàn là những nơi đầu sóng ngọn gió. Vậy mà tôi sống, mới kỳ.

   Khi về đơn vị này, tôi có được một sự may mắn là đơn vị lưu động khắp các tỉnh Miền Tây. Khởi đầu của tôi tại Cái Bè -Cai lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo , Láng Biển... Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, từ Tuyên Nhơn kéo qua Tuyên Bình, có một chổ tận cùng tên Bình Thạnh Thôn, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của Đồng bằng Sông Cửu Long. Từ nơi này chúng tôi ngồi Thiết giap băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng Ngự, và chính cái lúc băng ngang này, tôi mới biết rỏ về ĐTM, đây là một vùng đầm lầy kinh sợ nhất, đi suốt 1 ngày với xe Thiết giáp, tôi không thấy một cây cỏ nào mọc nỗi ngoại trừ loại cây bàng (một loại cây họ cỏ dùng dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng chạch, tóm lại không có 1 sinh vật nào sống nỗi trong vùng này, đừng nói chi đến con người, vùng đầm lầy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm đến ghê rợn.

 Rời Mỹ Tho, chúng tôi băng ngang Sông Tiền bởi Phà Mỹ Thuận, rồi băng ngang Sông Hậu với Phà Cần Thơ, xuôi theo lộ tới Cái Răng-Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền -Cầu Nhím, tôi ngạc nhiên trước một vùng đất giàu có tột bực này, ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lền trên mặt sông để đến điểm tập trung giao hàng đi các nơi, nhà cửa ở miệt vườn mà trông rất bề thế. Rồi chúng tôi đến Phong Phú-Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai-Cờ Đỏ, sự trù phú không sao kể xiết, có khi chúng tôi ngồi Tắc ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, 2 bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ, không hề có nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng có xe máy cày đậu trước sân. Tuy nhiên vào sâu hơn nữa,chúng tôi cũng gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm -Thát Lác, dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa hoang phế, trông rất âm u rợn người.

    Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm, vừa thích thú vừa buồn rầu. Mỗi khi hồi tưỡng về một thời chiến trận, tôi đều nhớ về nơi ấy. Cuộc chiến đã ngừng 37 năm qua, vậy mà tôi chưa hề một lần nào trở về lại nơi chiến trường xưa, để thắp một nén hương tưởng mộ những đồng đội của tôi đã nằm xuống nơi này. Mùa Khô năm 74, Đại Đội chúng tôi được Trực thăng bốc từ Phi trường Cao Lảnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu, khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất nơi đây. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả (sau này tôi được biết đây là vùng nước nổi,khi nước từ Biển Hồ tràn về, thì không có bờ ruộng nào chịu đựng nổi,nên người ta cứ để trống trơn như vậy, ruộng của ai người đó biết). Trên cánh đồng lại có rất nhiều gò nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi Trung đội tôi rời khỏi Trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm 1 gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho tất cả dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ, rồi tôi phóng 3 khinh binh vào lục soát, sau một hồi thấy không có gì, họ khoát tay cho cả Trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi, sau khi bố trí xong, tôi thấy trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát, và có vài đìa cá, lính tráng lội ùa xuống xúm lại tát đìa, khi đìa cạn,cá lộ ra lội đặc lền như bánh canh. Một lác sau cả Đại đội theo Trực thăng kéo tới kéo vào gò trú ẩn cũng vừa đủ. 

Đêm tới, chờ trời tối hẳn, Đại bàng ra lịnh kéo cả đơn vị ra đồng trống để đóng quân đêm, vì vị trí ban ngày đã bị lộ, đêm đó chúng tôi không ngủ được gì cả, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc, lùng sục chổ đóng quân của chúng tôi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có 1 đoàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chổ đóng quân, lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói họ kéo nhau đi tát đìa, trời đất, tát đìa mà kéo một đoàn xe bò như thế này ư!. Chiều đến, không biết họ đi đến đâu, mà khi kéo xe về, xe nào cũng đầy ắp cá, họ chứa lủ khủ trong thùng trong chậu lớn, sau đó họ kéo ra bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẳn, chở cá về Hồng Ngự.

   Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo bờ Rạch, có tên là Rạch  Cái. Khi vào đến nơi tôi lại đứng trố mắt ra nhìn, nhà gì mà kỳ dị như thế này, người dân họ cất nhà cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn, tôi biết ngay là họ phải cất nhà như thế để sống cùng với lũ. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất, tiếng Bình dân gọi là Hóc bà tó, đây cũng là vùng đất tranh chấp giửa hai bên, chiến trận nổ ra liên miên, nên người dân họ sống rất là tạm bợ, cả xã có vài ngàn người mà chỉ có vài người biết đọc biết viết. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng Tạp hóa, hay ghe hàng bông (rau quả), được chở tới từ Hồng Ngự. Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào nhà chơi, Chủ nhà rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượi đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn dấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi ăn với khoai lang hay bắp luột, lúc đầu tôi thấy sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã hãi nói chi tới ăn. 

Đám lính chúng tôi đang lội sình mệt nghĩ, được đưa về một nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là đã đời, chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong tôi linh cảm điều gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào những nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này. Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường 1 Chi đoàn Thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hằng ngày, chúng tôi ngồi trên xe Thiết giáp hành quân lục soát nơi này nơi nọ, vẫn yên bình, không hề có tiếng súng. Rồi cái ngày giông bảo đó đã đến. Hôm đó, bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân. Đi đến các điểm đã được chỉ định sẳn trên bản đồ, đi đến chổ này lục soát, không có gì lại đi đến chổ khác. Cuối cùng đoàn xe đến 1 điểm,  bất chợt đoàn xe dàn hàng ngang ngoài ruộng, hướng về mục tiêu là một bờ vườn rậm rạp. 

Lính Trinh Sát tụi tôi được lịnh xuống xe, tiến vào bờ vườn,T rung đội tôi tiến về phía bên trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng: " Tất cả tản ra mau, đi túm tụm như vầy dể ăn đạn lắm!". Không ngờ lời nói của tôi "linh như miểu", Đạn phát nổ vang trời dậy đất, tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu ở đâu chảy xuống mặt tôi thành dòng, tôi ra lịnh bắn trả xối xã, nếu không phía bên kia họ thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im lặng, lúc đó tôi mới rãnh rờ rẩm khắp người xem mình bị thương nơi đâu. Tôi giật mình kinh ngạc và cảm thấy hết sức lạ lùng, bởi vì tôi bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn súng tiểu liên AK, một viên bắn trúng vào đầu mủi súng ngắn tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng tứ tán lên mặt lên cánh tay, nên máu tuôn ra thành dòng là vì thế, xong phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi, máu tuôn ra khá nhiều nhưng không nguy hiểm. Viên đạn thứ 2, mới thật là ghê rợn, viên đạn bắn trúng vào cái bóp tôi để trên túi áo trái, ở phía trước trái tim, viên đạn quậy nát cái bóp, tôi để rất nhiều tiền vì mới lảnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn lại, nằm yên trong đó, có lẻ viên đạn được bắn ra trong khoảng cách quá gần, làm viên đạn không đủ sức xuyên phá. Lúc đó tôi sợ lắm, bởi vì tôi nghĩ phải có một phép lạ thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi, chứ trên đời  này hiếm có ai bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn mà còn sống như tôi vậy.

    Cũng ngay lúc ấy, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: " Thiếu Úy ơi ! cứu em ! "Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nảy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết , bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước mặt, cách tôi chừng dăm ba thước. Thông thường các Sĩ quan Trung đội Trưởng có 2 người lính đệ tử, 2 người này có nhiệm vụ lo chổ ăn chổ ngủ và lo mang vác đồ đạc cho ông Thầy. Những người lính đệ tử của tôi thường đối với tôi rất chí tình, họ sẳn sàng sống chết vì tôi mà không hề so đo tính toán, khi tôi dẩn Trung đội xung trận, 2 người lính này theo sát để bảo vệ cho tôi. Hôm nay, một trong hai người đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó từ ngày ấy cho đến bây giờ. 

Vậy mà 37 năm đã trôi qua, tôi chưa có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhang nói lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn văn Đồng, một cái tên vừa bình thường vừa vô danh, nằm lẫn khuất đâu đó trong một triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh tức tưởi này. Sau khi tôi bị thương, tôi giao Trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn Úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài, leo lên xe Thiết giáp ngồi nghĩ và ngó vào trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn Úy Tường dàn đội hình hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: " Đừng làm thế,Tường ơi ! ".Sau đó Trung đội tôi bị bắn tan tác, C/U Tường bị trúng đạn chết tại mặt trận, mắt vẫn mở thao láo, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung Đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. "Tường ơi ! Vĩnh Biệt".

     Không biết sao Đại Đội tôi đóng quân bên bờ Rach Cái  rất lâu. Rồi tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không có cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước mỗi ngày dâng cao cả gang tay, đến lúc này đây mới thấy lúa Xạ là một loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì cây lúa cũng dài nhằng ra 5-6 mét, tôi chưa nơi nào cây lúa lại kỳ dị như vậy. Rồi đến lượt cá Linh tràn về, cá nhiều đến nỗi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nỗi lền lên cả một khúc sông, và kỳ lạ một điều nữa là người Dân ở đây thà ăn mắm ăn muối chớ họ không ăn cá linh, họ nói họ thấy cá Linh cả đời nên tự nhiên họ đâm ngán tới cổ. Ô ! nước cứ dâng lên mãi,khiến chúng tôi kiếm chổ đóng quân khá vất vã, chúng tôi rút lên gò thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng chúng tôi trông thật ghê khiếp. 

Cả Đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán, vào hôm đó toán của Thầy trò chúng tôi đi tới một cái gò còn khô ráo, đêm đó như thường lệ tôi ngủ dưới một mái lều, tới nữa đêm tôi đang ngủ mê mệt,thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình, ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức, tôi cũng vậy, tôi tưởng lính gác báo động nên vội ngồi dậy ngay, tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vắng vặc một em bé gái khoãng 13-14 tuổi đứng nhìn tôi và mĩm cười thật tươi tắn, tôi trố mắt nhìn ngẫn ngơ một hồi rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội vàng nằm xuống kéo mền trùm kín đầu. Sáng hôm sau, tôi thấy chổ tôi ngủ nằm kề bên 1 cái bàn thờ bằng gổ xiêu vẹo mục nát. Tôi bèn rảo bước vào xóm để hỏi thăm về cái gò này, được người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng, đem vô xóm bán dạo, một hôm em cũng chèo ghe ra đồng như hàng ngày, sau đó súng đạn nổ ran, em bị đạn lạc chết trên gò, em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm hiện về khóc lóc thảm thiết, dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái bàn thờ gỗ để nhang khói cho em, câu chuyện thật tội nghiệp. 

Ở nơi chốn tên bay đạn lạc này,đời sống người dân khốn khổ không sao kể xiết,nếu họ muốn đi đến một nơi chốn an lành khác, họ cũng không biết đi đâu, mà nếu có đi cũng không biết lấy gì mà sống. Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận, vậy mà có một lần tôi đã phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ. Chuẩn Úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi khoãng một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Tôi nhớ hồi tôi mới ra trường trông đã rất chán, anh chàng này trông còn chán hơn tôi nữa. Mặt của Hà còn đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ngậm kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống, vừa uống vừa chắc lưởi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe súng nổ anh ta nhắm chặt mắt, bịt kín lổ tai, và mặt mày thì tái mét. Anh ta về làm Phó cho tôi, làm giọng "chảnh", tôi hỏi anh ta một cách xách mé:" Sao ông nhát như vậy mà xin về Trinh Sát. "Anh ta bèn phân trần, anh ta đâu có xin xỏ gì đâu, Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện nên chỉ định bừa, dè đâu trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, còn phải để ý đến anh ta nữa chứ, anh ta có biết gì đâu, thiệt khổ. 

Càng về sau các Sĩ quan rơi rụng dần dần, C/U Hà cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng. Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Cả Đại Đội được lịnh tấn công vào mục tiêu, Trung đội của Hà và một Trung đội nữa vỗ vào mặt chính diện, Trung đội tôi thọc vào bên cạnh sườn. Hà dẩn Tổ Đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra 1 trái hỏa tiển B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng ngay vào người Hà, tội nghiệp Hà chết không toàn thây. Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà Hà ở Sài gòn, để mang dùm quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình của anh ta. Hà mất được chừng một tháng, thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi bèn ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đính anh ta. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi, rồi hỏi dồn dập: "Sao cái hôm em Hà nó chết, mà cháu lại không về đưa đám tang em? ". 

Tôi lúng túng trả lời : "Thưa, lúc đó chúng cháu đánh nhau tưng bừng, làm sao cháu bỏ đơn vị mà về cho được."  Thế là vừa ngồi xuống ghế,hai ông bà khóc ngất ngất, lúc đầu ông bà còn lấy tay lau nước mắt, lúc sau thì để mặc, nước mắt tuôn ra xối xã làm ướt đầm cả ngực áo. Tôi kinh hoàng ngồi chết điếng, tôi chưa bao giờ gặp phải một trường hợp bi thương tột độ đến như vậy. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Cha mẹ nào có con ra mặt trận, coi như đã chết nữa linh hồn, đêm ngày sống trong hốt hoãng lo âu, mong ngóng con mình, mãi về sau tôi mới nghiệm ra được điều này. Nghe ông bà than khóc một hồi, tôi không chịu đựng nỗi nữa và tôi cũng không nói một lời phân ưu gì nữa hết, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mác quá lớn lao này. Rồi tôi nghĩ đến tôi, đến Ba Mẹ tôi,trong lòng tôi bỗng xộc lên một nỗi buồn khũng khiếp. Tôi lảo đảo đứng dậy từ giả hai ông bà để ra về. 

Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình, tôi buồn lắm. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi quá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này đây. Tôi chợt nhớ đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Cha mẹ Hà, lúc đó bỗng nhiên tôi thương Ba Mẹ tôi vô cùng. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt. Cuối cùng vào tháng 2 năm 75, tôi bị thương một lần nửa tại mặt trận Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Tiểu đoàn 9 Quân Y tại Vĩnh Long. Tại Bịnh xá, tôi theo dõi tình hình Chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuộc, tôi linh cảm có điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-75, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy. Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi Bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4, tôi nhìn về hướng Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm khác, có tên gọi là "Mạt Lộ".

    Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.
 


Viết xong ngày 1 tháng 6 năm 2012.
Ngô Đình Châu.



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2013 lúc 11:12pm

Ngụm Cà Phê Tháng Tư

Trần Mộng Tú


Ta ngồi một mình
ly cà phê cạn
lòng như tháng tư
Đứt ra từng đoạn.

Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!
Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu. Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù lòa.
Tháng tư của ba mươi bẩy năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được.
Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.
Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy lạc lõng lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình. Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình lạc lõng ngay chính trên quê mình.
Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.
Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.
Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương
Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop.
Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe khẽ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở của người ngồi ở bàn gần mình.
Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết trang mạng của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu súng đang nhả đạn.Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh….Tất cả hiện ra trên khung hình nhỏ.
Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.
Ba mươi bẩy năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:
Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.
Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.
Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.
Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.
Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; Sợ phải xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh sách tự vận của các cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan. Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần...
Ba mười bẩy năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc….
Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.
Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản.
Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.
Anh ạ tháng tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về.





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 21/Aug/2013 lúc 10:00pm

 

Cái chết của cha tôi : trung tá Nguyễn Văn Long tự sát tại tượng đài TQLC VN                                                                                                

 Giao Chỉ,  San Jose.

 

 Vẫn chuyện tượng đài.                                                                         

  Cô Hoàng Mộng Thu của biệt đoàn Lam Sơn vừa lên radio thông báo về việc San Jose thực hiện bức tường tưởng niệm các vị anh hùng Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết. Trong 7 vị anh hùng dự án lựa chọn có hình ảnh của trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long. Hình ảnh do 1 thân hữu gửi đến. Sinh quán chưa biết rõ, năm sinh chưa tìm ra. Bỗng một hôm có người gọi cho cô Thu. Thân nhân của ông Long là chúng tôi đây. Hình này không chắc là hình của cha tôi. Bà là ai vậy? Tôi là con gái của ông Long. Thưa bà ở đâu gọi vậy. Tôi ở San Jose đây này. Tôi ở đây đã 11 năm rồi.

   image          

              

image

 Bức tường tưởng niệm sẽ dựng tại San Jose và hình ảnh lịch sử tại Sài Gòn, trung tá Nguyễn Văn Long tự sát tại tượng đài TQLC VN                                                                                                                                                                                                         

   Cô Thu bèn điện thoại cho bác Lộc. Chết rồi bác ơi. May mà mình còn đang quyên tiền. Chưa làm hình trên đá. Hình đó không phải của ông Long. Con gái ông nói chuyện với cháu đây này. Nhưng chuyện không hay mà lại thành duyên kỳ ngộ. Tìm kiếm bao năm nay để xin tin tức, bây giờ gặp may. Tôi phải liên lạc gấp với gia đình trung tá Long ngay tại San Jose


Nhắc chuyện năm xưa                                 

        Khi nhận ngôi nhà làm Viện bảo tàng năm 2003 cách đây 10 năm, tôi đã có ý muốn ghi lại hình ảnh các vị anh hùng


image

tuẫn tiết. Chúng ta thường nghe nói danh tiếng của 5 vị tư lệnh tự sát được gọi là ngũ hổ tướng. Sau đó có bài viết  nhắc nhở đến vị anh hùng thứ sáu là đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tại Cần Thơ. Chúng tôi bắt đầu lưu tâm tới vị anh hùng thứ bẩy là trung tá Nguyễn văn Long. Không ai có được hình ảnh của 6 vị anh hùng đã hy sinh ra sao. Cả trường hợp đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tháng 8- 1975 tại Cần Thơ cũng không có hình ảnh. Trên internet có phổ biến hình tên cộng sản dí súng vào đầu ông Cẩn. Đây là hình chụp trong một vở kịch . Riêng hình trung tá Long chết vào buổi trưa ngày 30 tháng 4-75 là hình ảnh đăng trên hầu hết các báo hải ngoại, và sau này thì tràn đầy trên internet. Quả thực tấm hình này gây xúc động lớn lao cho toàn thể báo giới tây phương vào thời kỳ tháng 4 -1975 đã 38 năm qua. Tôi được thấy tấm hình này lần đầu trong thư viện thành phố Springfield ở Illinois. Trên tạp chí Newsweek đã cũ vào năm 1976. Xuất xứ nguyên thủy là hình trên báo Pháp. Tờ Paris Match. Tấm hình này và chỉ cần 1 tấm hình này đã làm mờ nhạt tất cả các hình ảnh tang thương khác của miền Nam vào ngày quốc hận.

                 image        

              Trung tá Long là người đầu tiên đáp lại lệnh bỏ súng đầu hàng của tổng thống cuối cùng Dương văn Minh. Ông tự sát rồi buông súng. Bức hình chụp được phổ biến cho thấy ông nằm nghiêm chỉnh dưới bức tượng xung phong của thủy quân lục chiến trước tòa nhà quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Có nhiều người chứng kiến nhưng không ai là nhân chứng kể lại giây phút cuối cùng. Dường như có người đã sắp xếp lại di hài vị anh hùng mang cấp bậc trung tá cảnh sát. Hai tay để ngay ngắn trên bụng. Nón trước ngực. Tấm hình chụp thật rõ ràng. Ai đã sắp xếp lại. Đồng bào miền Nam hay anh phóng viên chụp hình cho tờ báo Pháp. Bức hình của người sĩ quan bại trận nằm yên nghỉ nhưng hết sức lẫm liệt. Đó chính là vị tử sĩ thứ bẩy chúng tôi muốn đưa vào danh sách tiêu biểu của tượng đài anh hùng. Chúng tôi cần có tấm hình, ngày và nơi sinh. Đi truy tầm suốt 10 năm không thấy. Chợt tìm ra đáp số vào đêm nay 5 tháng 8- 2013. Tôi gọi điện thoại cho bà Tâm là con thứ ba của trung tá Long. Nhận được câu trả lời hết sức rõ ràng đơn giản. Trung tá Nguyễn văn Long sinh tại Phú Hội, Huế ngày 1 tháng 6 năm 1919. Ông ra đi năm 1975 lúc đó 56 tuổi, là người cao niên nhất trong số các vị tuẫn tiết.

 

Hình ảnh 1 gia đình Việt Nam Cộng Hòa.                                                   

         Bà Nguyễn thị Tâm năm nay ngoài 60, đã có cháu nội cháu ngoại nhưng mãi mãi vẫn là cô nữ sinh Đồng Khánh. Bằng một giọng nói xứ Huế pha tiếng Saigon, bà Tâm nói chuyện tuôn trào trôi chảy và đầy hãnh diện khi nhắc đến người cha anh hùng.  Câu chuyện 38 năm xưa kéo dài qua điện thọai giữa   canh  khuya.

        Chuyện của cha tôi đã được viết đầy đủ trên báo chí, trên các web của quân đội và cảnh sát. Nhưng bây giờ chỉ nói riêng về thời gian của tháng 3-1975.

         Gia đình rất đông con, tới 13 anh chị em. 6 trai 7 gái. Con trưởng là thiếu úy biệt động quân hy sinh tại Quảng Tín năm 68. Anh Nguyễn Công Phụng (1942-1968) được truy thăng trung úy. Nhà 6 con trai mà 5 anh em đi lính. Chỉ còn con trai út 13 tuổi là học sinh. Hai lính không quân, 1 thiết giáp, 1 cảnh sát và 1 biệt động quân.

      

image

SVSQ Nguyễn Công Phụng.( Anh cả)

      

Tên các con trai như thể hiện ước mơ của cha.

Các anh Phụng, Hoàng, Minh, Tiến, Quang, Hội.

       Các tên con gái như hình ảnh dịu hiền của mẹ. Đào, Tâm, Thiện, Hòa, Hảo, Hiền , Huê.

        Ngày nay có 3 chị em ở Hoa Kỳ, các anh chị em khác còn ở Việt Nam với Mẹ. Mẹ của các con tức là vợ trung tá Long qua đời mấy năm trước.

        Đó là hình ảnh của 1 đại gia đình, có người cha anh hùng đã ra đi, để lại tấm hình hết sức đặc biệt.

image



Cái chết của cha tôi

                              Bà Tâm, người con gái thứ ba bắt đầu kể về những ngày cuối cùng. Lúc đó vào cuối tháng 3- 75 ở Đà Nẵng. Ba vẫn làm việc trong trại, không về nhà. Hai cậu em không quân, một ở Đà Nẵng, một ở Biên Hòa. Một cậu đưa cả nhà vào sân bay Đà Nẵng chờ di tản. Nhưng rồi cũng không đi được. Vào ngày cuối người cha về nhà không thấy gia đình. Ông nghĩ rằng vợ con có thể đã đi thoát trong phi trường. Ông xuống bãi và ra đi bằng tàu. Vào đến Saigon đã có cô con gái lớn đón cha về ở tạm. Lúc đó mới biết vợ con còn kẹt ở Đà Nẵng. Ông Long lại vào trình diện tổng nha cảnh sát để làm việc. Trưa 30 tháng 4-75 khi radio phát thanh lời tổng thống đầu hàng thì 1 phát súng đơn độc nổ trong thái dương, trung tá Long ngã xuống. Ông buông cây súng nhỏ theo lệnh tổng thống. Cây súng tùy thân trung tá vẫn mang theo từ Huế, Đà Nẵng vào đến Sài Gòn.

       Một lần nữa, xin ghi lại. Có thể đây chính là người đầu tiên thi hành lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng. Lẫm liệt và công khai.

       Hình ảnh trên youtube do người vô danh đưa lên có cảnh những người dân khiêng xác vị anh hùng lên xe. Đó là hình ảnh cuối cùng. Không một tin tức nào loan báo trên báo chí cộng sản trong nước. Dân Việt từ Huế vào Sàigon không ai biết tin. Nhưng cả thế giới đều biết qua hình ảnh.

       Cuối tháng 5 -1975 có người từ nhà thương Đồn Đất  (Grall) của Pháp liên lạc đưa tin về Đà Nẵng. Trong quân phục của trung tá Long có địa chỉ của gia đình. Hai vợ chồng bà Tâm thay mặt cả nhà tìm đường vào Nam. Gặp chị và em ở Saigon. Chị em tìm vào nhà xác của bệnh viện Grall. Nhân viên phụ trách mở tủ lạnh. Xác cha cô vẫn còn nguyên vẹn. Quân phục, cấp bậc huy hiệu và mũ cảnh sát. Nhân viên nói lại rằng nhà thương cho biết đây là di hài một người anh hùng. Phải bảo quản chờ thân nhân. Phải giúp cho gia đình tẩm liệm mai táng chu đáo. Chị em lúc đó giữa cuộc đổi đời đành gạt nước mắt đi chôn cha tại nghĩa trang Bà Quẹo.

        Chuyện đó đã xảy ra 38 năm xưa. Đây là lần đầu tiên có người hỏi và bà kể rõ lại cái chết của cha. Chúng tôi có hình của ông bà trung tá Long thời còn trẻ nên không giống hình thời 75. Bây giờ có hình chính xác. Lại còn tìm hiểu thêm giờ tổng thống phát thanh lệnh đầu hàng và giờ ông Long tự kết liễu cuộc đời căn cứ vào bóng mặt trời trong tấm hình. Làm sao phóng viên báo Pháp lại tình cờ có mặt để chụp hình. Di hài trung tá Long nằm đó bao lâu. Có nhiều bệnh viện quanh Sài Gòn sao lại chở vào nhà thương của Pháp. Phải chăng có mối liên hệ với anh phóng viên? Trước đó một ngày, 29 tháng 4, thiếu tướng Phạm văn Phú tự tử bằng thuốc cũng trong nhà thương Grall của Pháp. Qua đến 30 tháng tư ông mới ra đi. Khi uống thuốc tự vẫn, ông Phú chưa biết đến lệnh đầu hàng. Ông chỉ uất hận vì trách nhiệm bỏ Vùng 2. Cái chết của ông Long hoàn toàn vì lệnh đầu hàng 30 tháng tư. Ngày 30 tháng tư trong cuộc chiến Việt Nam, đã  có nhiều tấm gương oanh liệt. Trường hợp của ông Long là cái chết hào hùng nhất. Ông đã chọn đúng giờ và đúng chỗ.

        Thời gian là trưa 30 tháng 4-1975 và địa điểm là chết giữa lòng Saigon. Phương cách chết là cầm súng bắn vào đầu. Gia đình ông có 5 con trai trưởng thành và đi lính hết. Nhưng dù trai hay gái, tất cả đều thấm nhuần giáo huấn của cha. Tất cả đều sống hòa thuận và yêu thương đất nước. Các con đều hiểu được tấm lòng của cha khi quyết định hy sinh vào ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975. Đó là lý do chúng tôi đã chọn được vị anh hùng thứ bẩy để đưa vào tấm bia vĩnh cửu. Gia đình còn lại 12 người con và hơn 30 người cháu bây giờ ở 2 bên bờ Thái bình Dương đều không quên ngày 30 tháng tư. Ngày tang đất nước và ngày giỗ người cha anh hùng.

 

  Giao Chỉ




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 21/Aug/2013 lúc 10:03pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2014 lúc 2:18am

Niềm tin yêu và tri ân Quý Thương binh VNCH, ngày 23.09.2014

 

https://www.youtube.com/watch?v=su3ZHWgnKfY&feature=player_detailpage

 

image

 

 


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/Apr/2015 lúc 7:39pm

~::Trích Dẫn nguyên văn từ Nam Map

TIN VUI:

Thư Thượng-Nghị-Sĩ Black Giải Thích Về Nghị-Quyết SJ455
(04/10/2013)

Tác giả : Nguyễn Ngọc Bích


Sau khi có tin là Nghị-quyết Lưỡng-viện SJ455 của Virginia đã được thông qua để lập ra một "Ngày Việt Nam Cộng Hòa" (Republic of Vietnam Day) ở Virginia, nhiều người đã gọi về để chia xẻ sự mừng vui khi nhận được tin này. Từ Seattle, Washington State, cựu-Đại-tá Phạm Huy Sảnh đã yêu-cầu gởi cho ông và các bạn thuộc nhiều binh-chủng trong Quân-lực VNCH miền Tây-bắc bản văn của Nghị-quyết bằng tiếng Anh để xem có thể đưa ra được những nghị-quyết tương-tự ở các tiểu-bang miền Tây-bắc Hoa-kỳ hay không. Giáo-sư Nguyễn Chính Kết ở Houston, Texas, cũng gọi lên ca ngợi việc làm này của đồng-bào ở Virginia. Từ Arizona cũng có người yêu-cầu được có bản tiếng Anh "để vận động ở Arizona" cho một bản nghị-quyết tương-tự. Chương-trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ở Nam Cali cũng ngỏ ý muốn được phỏng vấn về câu chuyện hình thành nghị-quyết tiên-phong này. Từ Paris, một cựu-chủ-tịch Tổng-hội Sinh-viên cũng muốn có một bản tiếng Anh để phổ-biến đến các bạn ở Âu-châu.

Nhưng đặc-biệt nhất là có một vị, ký tên Thi-Kham Nguyen ở Côte d'Azur miền Nam nước Pháp, đã điện cho Thượng-nghị-sĩ Dick Black, người đỡ đầu cho Nghị-quyết SJ455 từ những ngày đầu tiên cho đến khi nó được thông-qua vào tháng 2/2013. Điện-thư của vị phụ nữ này viết gỏn gọn có mấy chữ: "THANK YOU FOR VN DAY THAT YOU'RE AGREED WITH US: REPUBLIC VN DAY+FOREVER" ("Cám ơn Thượng-nghị-sĩ đã đồng-ý với chúng tôi về một Ngày VN: NGÀY VNCH MÃI MÃI"). Vì văn-phòng TNS Dick Black không rõ về giới-tính của người viết điện-thư nên đã trả lời và xem đó là một người đàn ông. Văn-phòng ông đã chuyển đến cho chúng tôi nội-dung lá thư và xin một bản dịch Nghị-quyết S455 sang tiếng Việt để có thể gởi cho vị phụ nữ nói trên. Chúng tôi đã cho văn-phòng ông biết người viết là một phụ nữ, nhưng dưới đây chúng tôi xin dịch nguyên-văn thư trả lời lúc ban đầu của TNS Black. Thiết tưởng lá thư này cũng giải tỏa được một số thắc mắc mà người Việt chúng ta có thể có được về nghị-quyết vừa thông qua ở Virginia. Lá thư có tiêu-đề của văn-phòng TNS Black với nội-dung như sau.

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013
Thưa Ông Nguyễn:

Cám ơn Ông đã gửi cho tôi điện-thư về nghị-quyết mà tôi đã thảo ra và đưa ra khóa năm nay, 2013, để cho Đại-nghị-viện Virginia thông qua. Nghị-quyết đặt ra lệ là kể từ nay, ngày 30 tháng 4 sẽ được đánh dấu như Ngày Việt Nam Cộng Hòa ở Virginia. Nghị-quyết đó đã được đồng-thanh biểu quyết ở Thượng-viện và chỉ có một phiếu chống trong số 100 dân-biểu ở Hạ-viện.

Tôi viết nghị-quyết trên là để tạo ra một văn-bản lịch-sử chính-xác và vĩnh viễn về sự can trường của người Nam Việt Nam đã chiến-đấu chống bạo-quyền Cộng-sản. Nghị-quyết ghi lại cái dã man ác độc của bọn đồ tể đã cưỡng-chiếm được miền Nam. Nó nêu ra chuyện hai triệu người đã bỏ trốn khỏi "Thiên-đàng Nhân-dân" của tên độc-tài khát máu ************. Nó kể lại chuyện những quân-nhu quân-cụ bị cắt đứt, làm cho những chiến-binh anh-dũng của Quân-lực VNCH đã không còn đạn dược để tiếp-tục chiến-đấu, và chuyện hơn một triệu người vô tội đã bị gởi đi đến các trại tập trung, nơi dây khoảng 1/3 số người trong đó đã chết.

Hiệp-hội Thương mại Á-châu đã mời một nhóm cựu-quân-nhân và cựu-cảnh-sát VNCH đến văn-phòng của tôi để bàn thảo cái nghị-quyết và đảm bảo là nó chính-xác. Tôi biết ơn Ông Tính Phan, Chủ-tịch, và Bà Mỹ-Lan Trần, Giám-đốc Điều hành của Hiệp-hội, đã đứng ra tổ-chức buổi gặp gỡ đó. Tôi cũng biết ơn Ông Nguyễn Ngọc Bích, Chủ-tịch Ban Điều-hợp Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ, là đã đóng vai trò hướng-dẫn trong cộng-đồng người Mỹ gốc Việt, cũng như Thượng-nghị-sĩ Toddy Puller và các Dân-biểu Mark Keam và Bob Marshall, mỗi một vị này đã có một vai trò đặc-biệt trong việc biến nghị-quyết thành hiện-thực.

Chúng tôi đang dịch nghị-quyết sang tiếng Việt, và tôi mong rằng nghị-quyết này sẽ vào được tận Việt-nam hiện đang bị [CS] chiếm đóng. Nhân-dân Việt-nam đáng được biết là Tiểu-bang Virginia công-nhận sự can trường của người miền Nam VN trong chiến-đấu và rằng những hy-sinh của họ sẽ không bị lãng quên.

Là một phi-công, tôi đã chuyên chở hàng trăm binh-sĩ VNCH đi vào chiến-trường. Như một sĩ-quan bộ-binh thuộc Trung-đoàn 1 TQLC Mỹ, tôi đã tham-dự nhiều trận chiến dưới đất vai kề vai với các binh sĩ VNCH anh-dũng. Trước khi rời VN, tôi bị thương trong một trận ở sông Hội An, ở phía nam Đà Nẵng. Tôi hy-vọng là những người con, trai cũng như gái, của những anh-hùng đã chiến-đấu để bảo vệ tự do của Việt-nam Cộng-hòa sẽ học được sự thật khi nghị-quyết này về đến tận Việt-nam đang bị [CS] chiếm đóng cũng như đi ra khắp thế-giới.

Thân kính,
[ký tên]
Richard H. Black
Thượng-nghị-sĩ Virginia, đơn-vị 13





Nguyên văn Dự luật S-219 "

Ngày của Hành trình đến tự do"

 


http://www.ledinh.ca/2015%20Bai%20Dang%20Tan%20Hau%20S%20219.png

 Thượng Nghị Sỹ Canada gốc Việt, ông Ngô Thanh Hải


Dưới đây là nguyên văn bản Anh ngữ và bản dịch Việt ngữ của Luật sư Đặng Dũng (Nam Cu Phuong Dinh) từ Sài Gòn về Đạo Luật S-219 "Ngày của Hành trình đến Tự do" do Thượng Nghị Sỹ Canada gốc Việt, ông Ngô Thanh Hải đề xướng đã được Quốc hội Canada thông qua ngày 22 tháng 4 năm 2015. Toàn quyền Canada, ông David Johnston đã ký sắc lệnh hoàng gia ban hành đạo luật S-219 nói trên hôm 23/4/2015.



Nội dung tóm tắt

2nd Session, 41st Parliament / Phiên họp thứ Nhì, Quốc Hội kỳ thứ 41

62-63-64 Elizabeth II, 2013-2014-2015 / Niên hiệu 62-63-64 Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị, 2013-2014-2015

Chapter 14 / Chương 14

Royal ***ented to 23rd April 2015 / Sắc lệnh hoàng gia ký ngày 23/4/2015

Parliament of Canada / Quốc hội Canada

BILL S-219 / Đạo Luật S-219 

As P***ed by the Senate on December 8, 2014 and the House of Commons on April 22, 2015

An Act respecting a national day of commemoration of the exodus of Vietnamese refugees and their acceptance in Canada after the fall of Saigon and the end of the Vietnam War

Một đạo luật bày tỏ sự trân trọng về một ngày lễ của quốc gia để nhớ đến việc di cư của các người dân tỵ nạn Việt Nam và sự chọn lựa sinh sống và được sống tại Canada sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ và chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

AS P*** BY THE SENATE DECEMBER 8, 2014 AND THE HOUSE OF COMMONS ON APRIL 22, 2015

ĐƯỢC THƯỢNG VIỆN THÔNG QUA NGÀY 08/12/2014 VÀ VIỆN THỨ DÂN THÔNG QUA NGÀY 22/4/2015

SUMMARY TÓM TẮT

 

This enactment designates the thirtieth day of April in each and every year as “Journey to Freedom Day”.

Việc ban hành đạo luật này xác định rằng ngày thứ 30 của tháng 4 hàng năm sẽ được coi là kỷ niệm “Ngày Hành trình đến Tự do”.

 

Whereas the Canadian Forces were involved in the Vietnam War with supervisory operations to support the aim of establishing peace and ending the Vietnam War by ***isting in the enforcement of the Paris Peace Accords of 1973;

Xét rằng Quân đội Canada đã liên quan đến cuộc chiến Việt Nam bằng hoạt động giám sát và hỗ trợ với mục đích thiết lập hòa bình và chấm dứt cuộc chiến Việt Nam bằng việc tham gia vào lực lượng thực thi Hiệp định Hòa bình Paris 1973;

 

Whereas on April 30, 1975, despite the Paris Peace Accords, the military forces of the People’s Army of Vietnam and the National Liberation Front invaded South Vietnam, which led to the fall of Saigon, the end of the Vietnam War and the establishment of the Socialist Republic of Vietnam Government;

Xét rằng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù đã có Hiệp định Hòa bình Paris nhưng quân đội Việt Nam và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã xâm lược Miền Nam và dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến và thiết lập nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;

 

Whereas the United Nations High Commissioner for Refugees has reported that these events and the conditions faced by individuals in Vietnam, including deteriorating living conditions and human rights abuses, contributed to the exodus of approximately 840,000 Vietnamese people, who were referred to at the time as “Vietnamese boat people”, to neighbouring countries in the ensuing years;

Xét rằng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về tị nạn đã báo cáo rằng các biến cố đó và vì mỗi con người Việt nam phải đối mặt với nó và điều kiện sống ngày một xấu đi và cùng với việc bị xâm phạm nhân quyền, những điều đó đã khiến cho cuộc di cư của khoảng 840.000 người Việt nam mà chính họ vào thời gian đó là trở thành các “thuyền nhân Việt Nam “ di cư đến các quốc gia láng giềng của VN vào những năm sau đó;

 

Whereas the United Nations High Commissioner for Refugees has reported that at least 250,000 Vietnamese people lost their lives at sea during the exodus of the Vietnamese people for reasons that included drowning, illness, starvation and violence from kidnapping or piracy;

Xét rằng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn đã báo cáo cho biết rằng có ít nhất 250.000 người Việt Nam đã bỏ mạng ngoài khơi trong cuộc di cư của người Việt Nam, họ đã chết vì chết đuối, bệnh tật, đói khát, bị bạo lực, bắt cóc và hãm hiếp;

 

Whereas the sponsorship refugee program in Canada, ***isted by the efforts of Canadian families, Canadian charities, religious groups and non-governmental organizations, contributed to Canada accepting more than 60,000 Vietnamese refugees, among whom it has been estimated that 34,000 were privately sponsored and 26,000 were ***isted by the Canadian government;

Xét rằng với chương trình bảo trợ người tỵ nạn ở Canada, được thực hiện với những nỗ lực của các gia đình người Canada, của các hội từ thiện Canada, của các nhóm tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ, đã đóng góp vào việc Canada đã chấp nhận hơn 60.000 người tỵ nạn trong số đó có đến 34.000 người được các hội đoàn tư nhân bảo trợ và 26.000 người tỵ nạn được bảo trợ bởi chính quyền Canada.

 

Whereas the major and sustained contribution by the people of Canada to the cause of refugees was recognized by the United Nations High Commissioner for Refugees when it awarded the Nansen Refugee Award to the “People of Canada” in 1986; And whereas April 30 is referred to by many members of the community of displaced Vietnamese people and their families in Canada as “Black April Day”, or alternatively as “Journey to Freedom Day”, and is, therefore, an appropriate day to designate as a day to remember and commemorate the lives lost and the suffering experienced during the exodus of Vietnamese people, the acceptance of Vietnamese refugees in Canada, the gratitude of Vietnamese people to the Canadian people and the Government of Canada for accepting them, and the contributions of Vietnamese-Canadian people — whose population is now approximately 300,000 — to Canadian society;

Xét rằng đa số sự giúp đỡ duy trì được bởi người dân Canada vì nguồn gốc của việc tỵ nạn của người tỵ nạn được chấp nhận bởi Cao Ủy LHQ về người tỵ nạn, và sự giúp đỡ này đã được tưởng thưởng bằng giải thưởng cao quí về Người tỵ nạn Nansen cho người dân Canada vào năm 1986, và xét rằng ngày 30 tháng 4 được mọi người nói đến trong cộng đồng trong việc họ phải thay đổi cuộc sống và nơi định cư của người dân Việt Nam và gia đình của họ lưu lạc đến Canada như là “ Ngày tháng Tư đen” trở thành “Ngày Hành trình đến Tự do” và do đó thích đáng để trở thành ngày mà mọi người nhớ đến và tưởng niệm những mạng người đã bị mất và những kinh nghiệm đau đớn mà những người tỵ nạn phải trải qua trong cuộc di cư của người dân Việt Nam và sự được chấp nhận cho người Việt Nam được sinh sống tại Canada và được chính phủ Canada chấp thuận và cũng là để nhớ đến sự đóng góp của người dân Canada - và người dân Việt Nam mà số dân này hiện nay có vào khoảng 300.000 người trong xã hội Canada;

 

Now, therefore, Her Majesty, by and with the advice and consent of the Senate and House of Commons of Canada, enacts as follows/

Do vậy, nay nhân danh Quyền năng của Nữ hoàng,căn cứ và với sự cố vấn và đồng thuận của Thượng Viện và Thứ Dân Viện nước Canada, nay ban hành đạo luật:


SHORT TITLE / TÊN GỌI NGẮN GỌN:

1. This Act may be cited as the Journey to Freedom Day Act. JOURNEY TO FREEDOM DAY.

1. Đạo luật này được gọi là “Ngày Hành trình đến Tự do”.

 

2. Throughout Canada, in each and every year, the thirtieth day of April shall be known as “Journey to Freedom Day”.

2. Khắp đất nước Canada, hàng năm và mỗi năm, vào ngày thứ Ba mươi của tháng Tư sẽ được biết đến như là “Ngày Hành trình đến Tự do”.

 

3. For greater certainty, Journey to Freedom Day is not a legal holiday or a non-juridical day.

3. Để rõ nghĩa hơn,“Ngày Hành trình đến Tự do” sẽ là ngày lễ kỷ niệm nhưng không phải là ngày nghỉ lễ chính thức.

 Asia Clinic, 13h46' ngày thứ Bảy, 25/4/2015
Theo: Bshohai


http://nguoidongbang.blogspot.com/2015/04/nguyen-van-du-luat-s-219-ngay-cua-hanh.html



===================


 

Đạo luật S-219 (Canada)

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


Đạo luật S-219 (tiếng Anh: Bill S-219, còn gọi nôm na là "Đạo luật ngày 30 tháng 4"[1]) là một đạo luật của Canada nói về việc chọn ngày 30 tháng 4 hằng năm làm quốc lễ của Canada để tưởng niệm những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam đã vượt biên ra đi tìm tự do và cũng để cảm ơn chính phủ và nhân dân Canada đã cưu mang họ trong gần 40 năm qua. Dự luật này ban đầu có tên là "Tháng Tư đen", sau đổi lại là “Ngày Hành trình đến Tự do” (Journey to Freedom Day)[2] do Thượng nghị sĩ người Canada gốc ViệtNgô Thanh Hải khởi xướng và được Quốc hội Canada thông qua lúc 19 giờ 15 phút (giờ Ottawa) ngày 22 tháng 4 năm 2015.[1]

 

Mục lục


Bối cảnh

Chỉ trong hai năm 1979 đến 1980 Canada đã nhận 60.000 thuyền nhân Việt Nam. Nếu tính từ năm 1975 cho tới năm 2015, số người Canada gốc Việt đang sống ở Canada vào khoảng 300.000 người[3] Theo thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, dự luật ông đưa ra là "để tưởng nhớ làn sóng hai triệu người đã ra đi, để tưởng nhớ 250.000 người chết trên biển cả và để cảm ơn chính phủ Canada và nhân dân Canada đã mở rộng vòng tay để đón tiếp chúng ta, cũng đồng thời để công nhận rằng Canada là quốc gia duy nhất được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng Nansen là một giải thưởng đã đóng góp rất nhiều trong vấn đề tị nạn."[4],[5]


Nội dung cơ bản

  • Xét rằng, Quân đội Canada đã tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam với các hoạt động giám sát nhằm hỗ trợ các mục tiêu về việc thiết lập hòa bình và chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng cách thúc đẩy trong việc thi hành Hiệp định Paris 1973;
  • Xét rằng, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, bỏ mặc Hiệp định Paris, các lực lượng quân sự của Quân đội nhân dân Việt NamMặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam, dẫn đến sự sụp đổ của Sài Gòn, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và lập nên Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
  • Xét rằng, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn đã báo cáo rằng người dân ở Việt Nam phải đối mặt với những vụ việc và hoàn cảnh, bao gồm cả việc suy giảm điều kiện sống và vi phạm nhân quyền, đã làm thành cuộc di cư của khoảng 840.000 người Việt, mà ngày nay được gọi là "thuyền nhân Việt Nam", sang các quốc gia láng giềng trong những năm tiếp theo sau đó;
  • Xét rằng, ở Canada có các chương trình tài trợ tị nạn được yểm trợ bởi những tấm lòng của các gia đình người Canada, các tổ chức từ thiện của Canada, các tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ, khiến Canada đã đón nhận hơn 60.000 người tị nạn Việt Nam, trong đó ước tính có 34.000 người được tư nhân tài trợ và 26.000 người được chính phủ Canada hỗ trợ;
  • Xét rằng, sự đóng góp quan trọng và bền vững của người dân Canada cho những trường hợp người tị nạn đã được Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn công nhận khi trao Giải Nansen vì người tị nạn cho "nhân dân Canada" vào năm 1986;
  • Và xét rằng, ngày 30 tháng 4 được nhiều người trong các cộng đồng người Việt di dân và gia đình của họ ở Canada gọi là "Ngày Tháng Tư Đen", hay gọi cách khác là "Ngày Hành trình đi tìm Tự do", và do đó, cần có một ngày thích hợp để ấn định làm ngày ghi nhớ và tưởng niệm những ai đã bỏ mạng và chịu những đau khổ khi trải qua cuộc di cư này của người Việt, sự đón nhận của người Việt tị nạn tại Canada, lòng biết ơn của người Việt dành cho người dân Canada và Chính phủ Canada khi đã đón nhận họ, và sự đóng góp của người Canada gốc Việt - mà dân số hiện nay là khoảng 300.000 - vào xã hội Canada;

Cho nên bây giờ, Nữ hoàng, với những lời khuyên và sự đồng ý của Thượng viện và Hạ viện Canada, phê chuẩn như sau:

1.    Đạo luật này có thể được gọi là Ngày hành trình đi đến Tự do.

2.    Trong khắp đất nước Canada, trong mỗi năm, ngày thứ ba mươi của tháng tư được gọi là "Ngày hành trình đến Tự do".

3.    Chắc chắn hơn, Ngày hành trình đi đến Tự do không phải là một ngày nghỉ theo pháp lý hoặc bất theo pháp lý.


Phản ứng

Tranh luận tại Hạ viện Canada

Khi được đưa ra thảo luận tại Hạ viện Canada, Dự luật S-219 cũng có những ý kiến trái chiều. Một số dân biểu đề nghị lấy ngày 27 tháng 7 thay vì ngày 30 tháng 4. Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải cho rằng, những dân biểu đó đã được đảng cộng sản Việt Nam hoặc tòa đại sứ cộng sản Việt Nam (tại Ottawa) đến lobby (vận động hành lang), vì ngày 27 tháng 7 là Ngày thương binh liệt sĩ (của Quân đội Nhân dân Việt Nam).[3]

 

Chính phủ Việt Nam

Ngày 24 tháng 4 năm 2015, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã triệu Đại sứ Canada tại Hà Nội để phản đối và nêu rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam về đạo luật này. Cùng này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ: "S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ. Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này"[6] Hồi tháng 12 năm ngoái, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã viết thư trực tiếp cho Thủ tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ quan ngại về dự luật này. [7]

 

Chú thích

1.    ^ a ă Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4' (có thể bị ngăn truy cập từ Việt Nam)

2.    ^ 40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219 (có thể bị ngăn truy cập từ Việt Nam)

3.    ^ a ă Dự luật "Ngày hành trình đến tự do" thành luật (có thể bị ngăn truy cập từ Việt Nam)

4.    ^ Thượng viện Canada thông qua dự luật công nhận 30/4 là Ngày Hành Trình Đến Tự Do, RFA, 2014-12-12

5.    ^ CANADA, Huân chương Nansen và luật S-219, “Ngày Hành trình tìm Tự do”

6.    ^ Việt Nam triệu Đại sứ Canada để phản đối đạo luật S-219

7.    ^ Việt Nam triệu Đại sứ Canada, phản đối ‘đạo luật 30/4’, VOA, 26.4.2015


Tham khảo


http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o_lu%E1%BA%ADt_S-219_%28Canada%29





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 01/May/2015 lúc 9:20pm
mk
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 01/May/2015 lúc 12:09pm
Ngày xửa ngày xưa, khi lòng người ly tán, trời Nam sụp đổ như trong mơ, mọi người ai chạy khỏi nước được thì cứ nhanh chân mà dông cho lẹ thì ở trại tỵ nạn GALANG 1, INDONESIA, có anh chàng Khu trưởng khu 3, tình nguyện làm việc không công giúp dân vượt biển để bù lại những gì anh đã không thể làm ở miền Nam trước năm 1975 (Đó là ý của anh trong đầu chớ chưa bao giờ anh tâm sự với ai.)
Những người biết chuyện kể nhau nghe 1 câu chuyện vô cùng buồn cười nhưng cũng vô cùng mai mỉa cho các đấng mày râu, mất nước, phải lưu vong xứ người.
Lúc đó, ở trại GALANG 1 người tỵ nạn được vào barrack tạm trú, chia thành 5 khu, từ khu 1 cho đến khu 5, 1 ban đại diện cho trại để giúp đồng bào lo ăn ở, thủ tục đi nước thứ ba định cư. Năm 1981 có khoảng 12000 người.
Đó là thời của trưởng trại Hải quân thiếu tá N. X. T., thiếu tá Biệt động quân N. T. A là trại phó. Cuộc đời ở trại tỵ nạn êm đềm trôi, mọi người chỉ ăn, ngủ và đi tắm biển, học tiếng Anh chờ ngày đi định cư. Cho đến 1 hôm, ban đại diện trại họp tất cả các phòng, ban, khu trưởng lại và bất thình lình ban hành 1 “nhật lệnh” mà ai nghe cũng rởn tóc gáy. Nhật lệnh “lệnh” rằng: Tất cả những con dân Viêt Nam trên đảo từ nay tự túc sống dưới sự “lảnh đạo” của ban đại diện, không cần chính quyền INDO hay Cao ủy LHQ trong trạị can thiệp nửa. Tất cả những người sống trong barracks phải ra hết ngoài sân để nghiêm chào quốc ca và quốc kỳ “VNCH” mổi buổi sáng, kéo cờ INDO xuống, và chỉ thượng cờ VNCH mà thôi. 5 khu trưởng phải tuyệt đối đồng ý 5/5 để “nhật lệnh” được thi hành. Anh khu trưởng khu 3 năm đó mới vừa tròn 27, buồn vô cùng nhưng không biết làm sao. Tạo sao trại tỵ nạn ở xứ người lại để xảy ra những chuyện trớ trêu như vầy? anh tự hỏi lòng. Cuối cùng anh quyết định không giơ tay đồng ý, tức nhiên chỉ có 4/5, “nhật lệnh” tạm thời ngưng lại. Ngày hôm sau, ban đại diện trại GALANG 1 có 1 cuộc họp khẩn cấp, trưởng trại N. X.T. đọc một lệnh khẩn của bà Trưởng phòng Cao ủy LHQ, tất cả đều lắng nghe. Lệnh của bà Cao Ủy là “Buộc thôi việc khu trưởng khu 3”, lý do: chưa đúng 30 tuổi để cưu mang chức khu trưởng. Anh khu trưởng khu 3 mặt mày tái xanh, nhưng vì đây là lệnh của Cao Ủy, có mộc và chử ký của bà thì không thể nào chống. Nội trong ngày, anh trả lại hồ sơ, bàn giao nhiệm vụ cho người khu phó đang tức rơi nước mắt ở văn phòng khu.
Anh về barrack mà lòng buồn rười rượi, vợ anh bảo anh nên coi chừng cái đám trật tự của trại đang vây xung quanh barrack sẻ hành hung anh, thân cô thế kiệt, anh đành nhẩn nhục làm thinh. Sáng hôm sau, đang ngồi chơi với con trong barrack, khu phó khu 3 dẩn tới 1 cảnh sát INDO, muốn tìm gặp anh để cho hay rằng ông Trung Tá Chỉ Huy Trưởng đồn Cảnh Sát INDO muốn nói chuyện với anh. Anh thay bộ đồ lành lặn, ngồi lên motocycle của ông cánh sát trẻ nói tiếng Việt rất rành đến gặp ông cảnh sát trưởng ở văn phòng.
Sau khi ngồi xuống ghế đối diện, ông cảnh sát trưởng vô cùng lịch sự gọi anh là ông và xin lỗi anh vì mời anh đến văn phòng bất thình lình. Ông bắt đầu hỏi anh về chuyện xảy ra hôm qua, vì ông đả có công văn của trưởng trai N.X.T. báo cáo đến ông rồi. Anh thuật lại cho ông nghe đầu đuôi tự sự qua người cảnh sát thông dịch. Ông nghe chưa hết câu chuyện, vụt đứng vậy, hỏi anh một câu “theo ý anh thì anh muốn như thế nào? Tạm sống dưới sự kiểm soát của chính quyền INDO, chờ ngày đi định cư, hay là ở đây để tự túc mà sống, treo cờ VNCH và kéo cờ của INDO xuống như trại trưởng N.X.T. đang làm? Anh khu trưởng thẳng thắn trả lời rằng “đây là đất nước INDO, chúng tôi mang ơn nhân dân INDO cứu mạng, do đó không cách gì tôi chống lại chính quyền INDO. Chúng tôi ở đây tạm thời rồi đi, trại phải treo cờ INDO, không nên treo độc nhất cờ của người tỵ nạn cộng sản ở đây.
Ông bảo tôi và anh cảnh sát thông dịch ra xe Jeep, lái thẳng dến văn phòng trại, ra lệnh tập họp tất cả người trong ban đại diện, ban trật tự, ban tài chánh, ban… lung tung… và 5 anh khu trưởng. Ông muốn coi cái lệnh của bà Cao Ủy, xem xong, ông gọi đt cho bà tới gấp, có chuyện quan trọng cần bàn. Bà Cao Ủy hớt hải chạy Jeep tới, không biết ông Trung tá cảnh sát nầy có gì mà gấp vậy. Khi vào đến nơi, ông Trung Tá đưa bà đọc cái giấy “trục xuất” người của bà. Bà rất là ngạc nhiên trợn tròn 2 con mắt la lên rằng, ai làm giấy nầy, tôi đâu có biết gì đâu, khu trưởng khu 3 dưới 30 tuổi đâu có gì là sai trái đâu.
Bà hầm hầm giận bỏ đi ra xe, trong khi đó mặt ông trại trưởng N.X.T. xanh như tàu lá chuối, thiếu tá N.T.A trại phó ú ớ những gì trong họng không ai biết. Bây giờ, ông Trung Tá chỉ huy trưởng đồn cảnh sát mới thẳng thừng tuyên bố, Mr. T., Mr. A out of the door, don’t let me see you again in this office. Mr. Zone 3 Leader reinstated, be careful, behind his back is me. Pull your flag down, raise up the INDO flag immediately. Lúc đó mọi người vở lẻ ra, tất cả lệnh ông T., ông A vẻ ra toàn là giả mạo kể cả chử ký và mộc của Cao Ủy LHQ.
Anh khu trưởng khu 3 giờ trở lại khu mình, dân tỵ nạn trong 17 barrack khu 3 vổ tay hoan hô, từ rày không phải nghe loa phát thanh yêu cầu ra khỏi barrack đúng nghiêm chào quốc kỳ, quốc ca VNCH trong trại tỵ nạn nầy nửa.
3 hôm sau. N. X. T., N. T. A được phái đoàn Mỹ kêu lên, xé toàn bộ hồ sơ chuẩn bị đi Mỹ của 2 ông… Nghe đồn 2 năm sau, A đi Úc diện hốt rác và T. đi Canada… Ban trật tự trại cũng không còn thái độ hống hách như ngày trước.
Đó cũng là một bài học cho lòng tự trọng của người tỵ nạn Viêt Nam mình… Chuyện nầy truyền miệng nhưng hoàn toàn chính xác viết theo lời người bạn kể lại.

Năm Mập viết lại theo lời của Sáu lùn, Xóm Đạo



Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 02/May/2015 lúc 3:39am
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.203 seconds.