Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thể Thao
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Thể Thao
Message Icon Chủ đề: VÕ-THUẬT Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 3 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 19/Oct/2012 lúc 6:25am

Về câu ca dao “Roi Thuận Truyền – Quyền An Vinh”

 

Viết bởi Nguyễn An Pha   

Thứ tư, 03 Tháng 2 2010 14:09

               Trong các võ đường, môn phái võ cổ truyền Bình Định thì mỗi nơi có những nét độc đáo riêng nhất là hai môn quyền (võ tay không) và roi (côn) nhưng tiêu biểu ở làng Thuận Truyền vang danh về roi, làng An Vinh nổi tiếng về quyền.         
                 Chưởng môn phái võ quyền An Vinh là ông Nguyễn Ngạc sinh năm 1885, Nguyễn Ngạc người làng An Vinh (Tây Vinh, Tây Sơn), xưa làm chức Hương mục nên thường gọi là Hương mục Ngạc. Hương mục Ngạc là học trò của ông Phạm Văn Trường (ông cố của lão võ sư Phạm Thi) người làng Kiên Chánh (nay là thôn An Chánh, xã Tây Bình, Tây Sơn, Bình Định). Ông Phạm Văn Trường võ nghệ tinh thông, làm quan khiển binh triều Nguyễn, chuyên huấn luyện võ nghệ cho quân lính nên có tên gọi là Khiển Phạm. Trong các học trò xuất sắc của ông Khiển Phạm như Nguyễn Ngạc, Năm Nghĩa, Phạm Đào… thì Nguyễn Ngạc vốn thông minh, chuyên tâm đường võ đạo, được thầy Khiển Phạm thương yêu như con đẻ và tận tâm truyền dạy võ công nhất là môn võ quyền. Nguyễn Ngạc tiếp thu thấu đáo các chiêu thức “tấn - trụ - thủ - lui”, các đòn thế tối ưu của các bài quyền: Ngọc trản, Lão mai, Thần đồng, Thiền sư, Lão hổ, Hùng kê quyền…, các đòn tay như: Âm dương nhất thủ, thế rút, trụ, Xa luân thủ, đặc biệt là thế độc Song xỉ (đánh găm, móc bằng hai ngón tay). Các thế chân như: Định cước, Nghịch cước, Song cước, Cản hậu cước,… Sau khi bái tổ, tạ sư, ông về quê chuyên tâm nghiệp võ. Từ tính ưu việt của võ cổ truyền, ông nghiên cứu, thử nghiệm và đề ra niêm luật của võ An Vinh là “đi như lá, đứng như đá, công thủ đi liền, vừa hư vừa thật”. Từ đây bước đầu đã khẳng định cái riêng của võ quyền An Vinh.

                     Trong sự nghiệp làm rạng danh võ An Vinh, ông đã đào tạo các con ông và nhiều học trò xuất sắc. Các con ông là Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác đều là những võ lâm cao thủ. Tiêu biểu là Bảy Lụt, ông tên thật là Nguyễn An, làm chức Cai nên thường gọi là Cai Bảy. Ông thông minh, tính tình cương trực nên được cha truyền kỹ các đòn thế bí truyền, ông thường hạ đối thủ rất nhanh từ các chiêu cầm nã (vật ngã đối phương), Kim Ngưu chuyển giác (tay nắm đánh móc từ dưới lên) và các thế đánh ngã: Đả quyền trực tấn, Đảo sơn cước,… Trong nghiệp võ của Cai Bảy, chuyện như huyền thoại: lúc bấy giờ có đảng cướp khét tiếng do Dư Đành cầm đầu, Dư Đành người to khỏe có sức mạnh vô địch. Nhắc đến Dư Đành là nỗi ám ảnh của nhân dân, là điều mất ăn mất ngủ của các hương hào, lý trưởng trong vùng. Dân gian có vè rằng:

“ Dư  Đành sức mạnh hơn trâu

Vùng lên đánh ngã cả xâu triều-đình

 Hoặc như:  “Bình Khê có đảng Dư Đành

Phạm Thủy, Phạm Hựu ba danh thiệt tài…

         
                Nghe thiên hạ đồn cả phủ Quy Nhơn không ai dám đương đầu với Dư Đành thì máu anh hùng nhà võ nổi lên, Cai Bảy tuyên bố sẽ bắt trói Dư Đành cho thiên hạ xem mặt tận tường, tiêu tan nỗi ám ảnh, sợ hãi bấy lâu. Trong một đêm tối trời, Cai Bảy chạm trán với Dư Đành tại Suối Bèo (thôn Trường Định, xã Bình Hòa, Tây Sơn) Dư Đành dùng miếng đòn diện cước (đạp trước) đá vào mặt Cai Bảy, Cai Bảy nhanh như chớp né một bên rồi dùng thế Đảo Sơn Cước (đòn chân gạt ngang) kết hợp đòn tay Cương Đao Phạt mộc (bàn tay chém xuống) sau đó dùng thế cầm nã vật ngửa Dư Đành xuống đất định trói, nhưng đồ đảng Dư Đành quá đông, kịp thời ứng cứu, Cai Bảy phải bỏ chạy.

                    Tám Cảng là con gái cưng của Hương Mục Ngạc, bà đã thách đấu với nhiều người nhưng chưa một lần thua. Thường những lễ hội đổ giàn An Thái bà đã từng cướp được heo trên giàn và từ đó đã có câu ca “Trai An Thái, Gái An Vinh”. Chín Giác tên gọi Hương Kiểm Cáo con trai út ông Ngạc, tuy võ công không bằng Bảy Lụt nhưng có sức mạnh hơn người, bạo gan, nói đánh là đánh, nói đấu là đấu, không sợ một ai.  
    
                     Hương Mục Ngạc có nhiều học trò giỏi như: Tám Tự, Ba Thông, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ (Đinh Hề), Sáu Hà, Mười Đậu… và nhiều học trò của học trò ông cũng vang danh võ nghệ khắp đó đây và hiện nay đang duy trì nghiệp võ như: Phan Thọ, Phạm Thi (con rể ông Sáu Hà), Trần Dần, Đinh Văn Tuấn, Văn Xuân Ngọc, Đỗ Hượt, Phan Sơn… Trong những học trò xuất sắc ấy có Trần Dần, Đỗ Hượt đã hạ đo ván hai võ sư Đại Hàn (Hàn Quốc) ngũ đẳng huyền đai.     
                Nghiệp võ của Hương Mục Ngạc có sự kiện đáng nhớ nhất là vào năm 1908, được sự hậu thuẫn của bạn thân ông là tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo (người làng Hòa Cư, An Nhơn), ông làm nòng cốt đứng ra tổ chức hiệu triệu dân làng, trai tráng, võ sinh hai làng An Vinh, An Thái đấu tranh kháng thuế, đoàn biểu tình có hàng ngìn người, mang theo biểu ngữ rầm rầm, rộ rộ kéo xuống phủ đường. Một số tên cường hào, ác bá bị môn sinh của ông bắt giết để thị uy; một số hương hào, lý trưởng trong vùng nộp triện và tham gia đoàn biểu tình… Trước khí thế đấu tranh sục sôi của đoàn biểu tình mà đứng đầu là Hương Mục Ngạc và các sĩ phu yêu nước, buộc chính quyền sở tại lúc bấy giờ phải nhượng bộ.

         
                  Về “Roi Thuận Truyền”, người đầu tiên nổi tiếng về võ roi là ông Hồ Khiêm, người làng Thuận Truyền (xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn). Hồ Khiêm là học trò nhất của ông Phan Hạnh. Ông Phan Hạnh là bạn thân và cùng quê ông Khiển Phạm, do làm chức Cai nên thường gọi là Cai Hạnh. Cai Hạnh tinh thông võ quyền và thập bát binh khí (thập bát ban) nhất là võ roi, ông đã truyền cho Hồ Khiêm các phách, chiêu thức của roi chiến, đặc biệt là thế lạc côn. Hồ Khiêm là chưởng môn đầu tiên võ roi của làng Thuận Truyền nhưng đến Hồ Ngạnh mới là đỉnh cao.

          Hồ Ngạnh sinh năm 1886 tại làng Hòa Mỹ, tổng Thuận Truyền, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) là con của ông Hồ Đức Phổ (tục gọi là ông Đốc Năm) và bà Lê Thị Huỳnh Hà, hai người đều là võ lâm kiệt xuất đất Thuận Truyền. Hồ Ngạnh tên thật là Hồ Nhu, vì có con đầu tên là Ngạnh nên người ta gọi ông là Hồ Ngạnh (theo phong tục địa phương gọi theo tên con cả). Nghiệp võ của Hồ Ngạnh bắt đầu từ cha, mẹ dạy. Cha ông và Thầy Đội Sẻ dạy ông võ quyền, võ roi thì mẹ ông dạy những bài học cơ bản, nhất là rèn luyện công lực. Hồ Ngạnh tròn mười lăm tuổi mẹ ông bắt đầu dạy roi, bà yêu cầu rất cao về sự chuẩn xác đường nét các bài thảo: Tứ môn, Trực chỉ, Thái Sơn, Đoản côn, Tề mi, Thất bộ, Nhất quái, Ngũ môn… Khi con đã thuần thục, bà bắt đầu rèn luyện công lực. Hằng đêm, bà dẫn con ra khoảnh đất trống sau nhà, vẽ một đường vôi tròn, dùng bốn đĩa dầu phụng (dầu lạc) làm đèn thắp sáng xung quanh vòng tròn, bà bắt con đánh các bài thảo và chỉ được di chuyển chung quanh vòng tròn ấy. Ngày qua tháng lại cho đến khi sức gió từ những đường roi phát ra làm tắt phụt bốn ngọn đèn cùng một lúc và cùng lúc đó bà di chuyển xung quanh dùng những hòn sỏi ném vào, sỏi va vào roi mỗi lúc một giòn, cho đến khi những vốc sỏi ném vào bị đường roi đánh bạt trở ra nghe rào rào như những cơn mưa đá là lúc con thành đạt. Năm Hồ Ngạnh tròn hai mươi tuổi, bà bắt đầu tìm thầy cho con thọ giáo các phách roi, những đòn thế của roi chiến trong đối kháng. Người thầy đầu tiên mà bà chọn là ông Hồ Khiêm; Hồ Khiêm là thúc bá đồng đường với ông Hồ Đức Phổ hết mực thương yêu và truyền dạy cho Hồ Ngạnh sử dụng thuần thục các phách roi “Hoành, Khắc, Lắc, Tém, Bát, Bắt, Triệt, Chận”, đặt biệt là thế lạc côn tuyệt kỹ. Lạc Côn là thế roi “Bách đả nhất trừ” (né một đòn, đánh trăm đòn), khi đối phương tấn công ta rút ngựa sau đó vận dụng phép cộng lực, dựa sức đối phương đánh đối phương, làm cho đối phương bối rối và phải dính đòn. Bà nghe danh ông Bầu Đê (ở Phước Thuận, Tuy Phước) thiện nghệ đòn roi đâm so đũa. Bà đích thân khăn gói lên đường mời ông Bầu Đê về nhà dạy cho con đòn đâm so đũa. So đũa là đòn khi đối thủ đâm tới ta không đỡ mà chỉ tránh và đâm trả, khi mà đối thủ chỉ lo tấn công, ta bất ngờ phản đòn đâm trả vào những chỗ sơ hở của đối thủ một cách chớp nhoáng khiến cho đối thủ không thể tránh né được.

          Còn chuyện ông Tạo sĩ võ (tương đương Tiến sĩ văn) dạy roi cho ông Hồ Ngạnh là cơ duyên. Ông tạo sĩ là bạn thân ông Đốc Năm, làm quan ở triều đình Huế chuyên đảm trách việc luyện roi cho quân cấm vệ. Do bất mãn triều đình ông về ở ẩn nhà ông Đốc Năm, vì cảm mếm Hồ Ngạnh và để trả ơn bạn, vị tạo sĩ truyền cho Hồ Ngạnh đường roi đánh nghịch. Roi nghịch là đường roi hiểm sử dụng phép âm dương cộng lực, thông thường khi đối phương tấn công thì dùng đầu roi đỡ hoặc né đòn, nhưng roi nghịch thì dùng đốc roi bắt (âm công), dùng đầu roi (dương công) phản công nhanh, làm cho đối phương bị động không biết đường chống đỡ. Khi Hồ Ngạnh đã thuần thục đường roi bí truyền, cũng là lúc ông ra đi trong một đêm tối trời và không ai biết vị tạo sĩ tài danh phiêu bạt phương nào.

          Ngoài việc tinh thông các đòn thế roi bí truyền của các bật danh sư, Hồ Ngạnh nghiên cứu công phu từ các thảo đoản côn, tề mi côn chế ra ba đường tuyệt chiêu là roi rút, roi đổ thủy và roi điểm huyệt. Roi rút là đòn cực kỳ lợi hại, là phép dùng nhu thắng cương, khi đối thủ tấn công ta tránh, rút ngựa đánh lừa và phản công ngay, đối thủ lâm thế mà trúng đòn. Roi đổ thủy là roi khi giao đấu đầu roi hạ thấp, đốc roi lên cao, đối phương chỉ đối phó ở đầu roi, bất ngờ dùng đốc roi đâm xéo, đòn này đã đâm là trúng. Còn roi điểm huyệt là chỉ chấm vào các huyệt của đối phương. Hồ Ngạnh là một danh sư về võ y, ông nắm chắt các huyệt, thậm chí giờ nào thì điểm vào huyệt nào, người bị dính đòn huyệt chỉ có ông mới bốc được thuốc giải.

          Hồ Ngạnh có nhiều giai thoại về những đường roi thượng thừa. Ông đã từng đấu thắng một võ sư danh tiếng người Tàu ở Phú Yên.

          - Chuyện Dư Đành đánh lén ông: Dư Đành nghe danh Hồ Ngạnh là bậc thượng đẳng về roi chiến, nhiều lần mời ông tham gia đảng cướp, Hồ Ngạnh nhất mực từ chối và đã có lần can thiệp làm hỏng vụ cướp lớn của Dư Đành, vì những nguyên cớ ấy mà Dư Đành quyết tâm hạ gục Hồ Ngạnh. Một hôm nhà Bảy Ghình học trò ông có ngày giỗ tổ khai môn, đoán biết thế nào Hồ Ngạnh cũng đến dự. Dư Đành núp sẵn ở một bụi rậm ven đường với một cái bắp cày bằng gỗ kiền kiền nặng trịch. Đúng như dự đóan, Hồ Ngạnh vừa trờ tới, Dư Đành vung bắp cày phạt vụt một đòn ngang cổ, nghe hơi gió Hồ Ngạnh trụt xuống, bắp cày của Dư Đành phạt ngang làm cây bồ lời ven đường đứt tiện làm đôi. Nhanh như chớp, Hồ Ngạnh di ngựa áp sát, chụp ngang bắp cày trên tay Dư Đành rồi vận dụng phép âm dương cộng lực của thế lạc côn, biến sức đối phương thành sức mạnh của mình, hất Dư Đành vào giữa lùm tre gai đánh soạt. Dư Đành thất kinh bái phục và tha thiết van nài xin tha tội chết, Hồ Ngạnh nguôi giận, nhờ người dùng rựa phát lùm gai tre lôi Dư Đành ra. Dư Đành quỳ mộp xin tạ tội và hứa từ đây xin gọi bằng anh Chín không dám gọi “thằng Ngạnh này, Ngạnh nọ” như trước nữa.

          - Một võ nhân miệt trong, tinh thông võ roi, nghe đâu nhiều người trong vùng không địch nổi. Tin đồn Hồ Ngạnh đất Thuận Truyền là cây roi thượng đẳng, ông tìm cách thử tài bằng kế giả ăn trộm bò, nếu Hồ Ngạnh giỏi thì học thêm mấy đường. Một đêm trời sáng trăng, xóm làng yên tĩnh, Hồ Ngạnh nghe tiếng cụp cụp ngoài chuồng bò, đoán là kẻ trộm. Ông chồm dậy nắm cây roi lao ra, tên trộm tấn công tới tấp. Nhanh như chớp, Hồ Ngạnh né tránh mấy đường rồi thối lui, bóng đen tiếp tục tấn công, bỗng dưng nghe tiếng ứ ự bóng đen vụt chạy, có lẽ tên trộm bị ông chấm một đòn vào huyệt hiểm…

          Hồ Ngạnh đã dạy được nhiều học trò xuất sắc, tiêu biểu như: Xã Nung, Hồ Tiền, Cả Đang, Xã Trước, Hương Bộ Lâm, Lê Thành Phiên, Hương Bộ Trấp, Bảy Ghình, Dư Trốn, Xã Thọ, Dư Đính, Đặng Vĩnh Nghê, Lê Bá Cừu, Hương Bộ Trọng, Tạ Liên, Tạ Thức, Hồ Sừng, Dương Công Đạo, Mai Xuân Thiện… Hiện nay, một số võ sư và võ nhân các thế hệ học trò ông mở nhiều võ đường trong và ngoài tỉnh. Hồ Sừng (cháu nội ông) kế thừa sự nghiệp võ của ông mở võ đường tại nhà nơi ông đã trưởng thành và vang danh. Các thế hệ học trò đã cùng ông làm rạng danh một vùng đất được thiên hạ tôn vinh “Làng roi Thuận Truyền”. Câu ca dao “Roi Thuận Truyền, Quyền An Vinh”, hai làng võ tiêu biểu của võ cổ truyền Bình Định, được truyền tụng trong dân gian từ ấy đến giờ.

ST.

mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 24/Oct/2012 lúc 7:50am

 

Đánh gậy: Môn võ truyền thống

Người đăng tranguyen Ngày đăng: 01:55 - 12.09.2010

Ðánh gậy là môn võ chiến đấu và cũng là môn thể thao được hình thành rất sớm ở nước ta. Truyền thuyết Phủ Ðổng Thiên Vương nói lên gậy đã được sử dụng nhiều và phổ biến từ hồi đầu thuở các vua Hùng dựng nước.

Nhà võ xưa cho rằng gậy là tiền thân của các loại binh khí cầm tay cổ điển khác. Gậy vót nhọn có thể trở thành giáo, lao hay ngọn bút v.v… Gậy còn được gọi là Roi, Hèo, Trượng, Tiên, hay Côn… và có nhiều loại dài ngắn khác nhau. Gậy dài được gọi là Gậy Bẩy hay Trung Bình Tiên, dài bẩy thước ta (khoảng 2,80 mét); gậy ngắn có tên là Gậy Ba dài ba thước ta (khoảng 1,20 mét) tiết diện tròn. Gậy ngắn tiết diện vuông hay chữ nhật được gọi là tay thước hay giản. (Ðôi khi giản có tiết diện lục giác và cán cầm). Nhiều lò võ xưa thực dụng hơn, không phân chia gậy, côn theo thước tấc như trên mà linh động căn cứ vào tầm vóc lớn nhỏ của từng người xử dụng, căn cứ vào chiều cao từng võ sinh để phân chia gậy ra nhiều loại dài ngắn với những tên khác nhau như Trường Côn, Tề Mi Côn, Trung Côn, hay Ðoản Côn. Ðoản côn có chiều dài từ bả vai hay nách xuống tới đầu ngón tay người xử dụng duỗi thẳng. Trung côn dài từ mặt đất chân đứng thẳng đến ngực người xử dụng. Tề mi côn dài từ mặt đất đến ngang tầm mi mắt. Trường côn dài nhất, từ mặt đất tới đầu ngón tay với thẳng của người xử dụng (được gọi là “dài một đầu một với”). Do đó Tề Mi Côn của người này có thể là Trung Côn của người khác.

Ðánh gậy là môn võ chiến đấu và cũng là môn thể thao được hình thành rất sớm ở nước ta. Truyền thuyết Phủ Ðổng Thiên Vương nói lên gậy đã được sử dụng nhiều và phổ biến từ hồi đầu thuở các vua Hùng dựng nước. Cậu bé đánh giặc Ân bằng ngựa sắt, roi sắt. Chưa hết, roi sắt bị gẫy, cậu bé dũng sĩ anh hùng làng Gióng đã nhổ từng khóm tre ngà làm roi quay tít hàng trăm vòng rồi quất mạnh xuống đầu giặc :

Ðứa thì sứt mũi sứt tai,
Ðứa thì chết nhóc vì gai tre ngà.
(Bài ca Hội Gióng)

Truyền thuyết cho biết thêm theo Thánh Gióng đi đánh giặc còn có ông Ðường Ghềnh (Trung Mầu, Gia Lâm) cầm vồ đập đất, có đoàn trẻ chăn trâu Hội Xá (Gia Lâm) cầm roi, cầm khăng, có người câu cá vác cần câu đuổi giặc.

Gậy đã gắn liền vào sinh hoạt hàng ngày của tổ tiên chúng ta. Gia đình nào trước đây cũng có cái gậy dựng ở góc nhà. Cái then cài cửa, cái cán cuốc, cán xẻng, cái mái chèo thuyền, cái bắp cầy, đòn gánh, cần câu, v.v…. lúc biến cũng dễ dàng trở thành cây gậy ngừa phòng bất trắc. Tới dịp hội hè đình đám, đánh gậy là môn thể thao được thanh niên trai tráng trong làng đua nhau thi sức, trổ tài. Họ lập ra những phường hội để tập dượt, để giúp nhau trau dồi tài nghệ, tinh luyện về môn đánh gậy. Tác giả Toan Ánh nói về ngày hội thi đấu trung bình tiên xưa như sau :

” Thường tại các hội quê, khi có đấu trung bình tiên dân làng đều có treo giải như giải đánh vật hoặc giải bơi thuyền hoặc như nhiều cuộc vui xuân khác vậy. Các võ sĩ dự cuộc đấu roi, vì giải thưởng thì ít, vì tinh thần thượng võ, nhất là vì danh dự của từng lò roi thì nhiều. Hai tiếng lò roi để chỉ những tay chơi trung bình tiên xuất thân ở một xã nào, hoặc ở một nhóm nào, có người huấn luyện chỉ dẫn.”

“Ðánh trung bình tiên, đánh tay đôi, ai đánh trúng địch thủ vào những chỗ hiểm và đánh trúng nhiều được coi là thắng.”

“Trong cuộc đấu, chiếc gậy thường được bịt giẻ ở đầu để tránh sự nguy hiểm cho các đấu thủ. Ðầu bịt giẻ, được nhúng vào nước vôi trắng, để một khi địch thủ nào đánh trúng đối phương sẽ có dấu vết để lại. Vết vôi ở người mỗi địch thủ giúp cho ban giám khảo xét định hơn thua. Trận đấu gồm nhiều hợp và mỗi hợp tính theo những động tác của các đối thủ”. (1)

Năm 1258, quân Nguyên lần thứ nhất sang xâm lược Ðại Việt. Khi đã chiếm được Thăng Long, bọn giặc xua quân đi càn quét, cướp phá các vùng lân cận. Tới Cổ Sở (nay là Yên Sở phía tây ngoại thành Hà Nội), giặc bị nhân dân trong vùng dùng gậy, dùng dáo đánh cho thua to. Nói về trận đánh này, sử cũ đã ghi :” Ðời Nguyên Phong (Trần Thái Tông), quân Thoát Hoan vào cướp, khi đến xã Cổ Sở ngựa không tiến được, người trong xã chống phá được giặc”.

Sử cũ cũng ghi :”Năm Mậu Tuất (1298) (đời Trần Anh Tông), mùa thu tháng tám thi đấu gậy “. Tuy sử không thuật rõ thể thức thi đấu thế nào, song cuộc thi được kể là ở triều Trần, diễn ra sau khi đất nước đã ba lần đánh thắng giặc Mông Cổ và cuộc thi đấu có ý nghĩa khuyến khích quân sĩ và nhân dân trong nước mài sắc cảnh giác, luôn luôn tập luyện sẵn sàng đứng lên chiến đấu đập tan mọi cuộc ngoại xâm. Một sự kiện cũng liên quan đến đánh gậy đã được Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép : Quí Hợi, [Ðại Khánh] năm thứ 10 [1323], mùa thu, tháng 8, ngày 22, vua ngự đến nhà Thái Học. Có tên Mặc trong quân Thiên thuộc ở Hoàng Giang đỗ khoa thi Thái Học sinh, vua xuống chiếu bắt trở lại quân ngũ, làm quân lại quân Thiên đinh, đến khi thi đánh gậy, [Mặc] lại đỗ cao (2).

Ðánh gậy là một môn võ truyền thống của dân tộc đã được nhiều người ngưỡng mộ và tập luyện. Không những thanh niên trai tráng tập luyện mà ngay cả nữ giới cũng trau dồi kỹ thuật chiến đấu này :

Ai vô Bình Ðịnh mà coi,
Ðàn bà cũng biết cầm roi đi quờn (quyền).
(Ca dao)

Tháng 11 năm Mậu Thân 1788 quân Mãn Thanh xâm chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, sau khi đăng quang tại Phú Xuân (Huế), vội kéo đại binh thần tốc đi Bắc phạt. Tới Nghệ An, nhà vua dừng lại đây vài ngày để mộ thêm quân và nhanh chóng tuyển dụng được trăm ngàn tân binh. Theo truyền thuyết vùng Thanh Nghệ, cả cánh rừng tre rộng lớn nơi đây đã được nhà vua trưng dụng để lấy tre làm binh khí, làm quân dụng cho đoàn tân binh nghĩa quân này. Ðiều đó nói lên gậy tre vót nhọn có lẽ là binh khí chủ yếu của đoàn tân nghĩa binh, bởi với thời gian ngắn ngủi kỷ lục không dễ rèn đúc đủ binh khí bằng sắt thép trang bị cho cả trăm ngàn quân.

Tới thế kỷ 19, võ gậy ở nước ta đã được phát huy tới trình độ cao. Gậy dùng để tập và thi lúc này ngoài gậy tre còn có hai loại nữa là sắt và gỗ. Gậy sắt theo qui định có loại dài hơn 6 thước 3 tấc ta (khoảng 1,50 mét) và nặng tới 40 cân ta ( khoảng 25 kg); còn gậy gỗ dài 6 thước 5 tấc với chu vi 2 tấc 6 phân. Việc thi gậy thời này có hai môn : múa và đấu. Múa gậy để biểu diễn tài khéo léo và sức mạnh. Ðấu gậy để thẩm định kỹ thuật chính xác, dũng mãnh và linh hoạt cần thiết cho chiến đấu.

Thể thức thi Hội, ngoài các môn võ bắt buộc phải thi khác, riêng môn đấu gậy đầu thế kỷ 19 sử sách có nói rõ : “Thi đấu côn gỗ cứ một người thi đấu với hai người, người nào thắng luôn cả hai là hạng ưu; thắng một người và ngang sức (hòa) một người là hạng bình ; thắng một người và kém (thua) một người hoặc ngang sức hai người là hạng thứ ; không thắng là hạng liệt “. Rõ ràng đây là môn đấu đòi hỏi người thi phải có tài năng, sức lực, dũng cảm, và mưu trí. Ðó là cuộc thi đấu gậy để đạt danh hiệu Cử Nhân Võ.

Còn đấu gậy trong thi Ðình thì mức độ yêu cầu cao hơn. Một người phải đấu với năm người, thắng cả mới được là ưu; nếu chỉ thắng bốn ngang sức một hay thắng ba ngang sức hai là bình. Còn thắng hai ngang sức ba hoặc thắng một ngang sức bốn là thứ ; không thắng là liệt. Ðó là cuộc thi đấu gậy để đạt danh hiệu Tiến Sĩ Võ.

Song dù thi Hội hay thi Ðình, người thi đều phải qua cuộc thử sức bằng môn múa hai loại gậy gỗ và sắt. Yêu cầu múa phải nhanh, mạnh, khéo, gọn,…, gậy múa phải quay tít trên cao và bao kín quanh mình, không trống không hở.

Chàng Lía, một dũng sĩ đất Qui Nhơn Bình Ðịnh nổi lên chống bất công của triều đình nhà Nguyễn, có tài đánh gậy rất khéo léo, tinh vi :

Ðường côn trọn vẹn trăm bề,
Múa như giông tố tiếng nghe vù vù.
(Vè chàng Lía)

Khi quân Pháp nổ súng tấn công cướp thành Gia Ðịnh năm 1859, nhân dân Nam Bộ đứng lên dùng gậy tầm vông xông ra chống giặc Pháp cứu nước. Tinh thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân dưới trướng chủ tướng Trương Ðịnh đã được cụ Nguyễn Ðình Chiểu ca ngợi trong bài ” Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ” nổi tiếng :

Ngoài cật có một manh áo vải,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông.

Các thế võ gậy cổ truyền với những đòn miếng lợi hại mỗi địa phương trên đất nước, mỗi lò võ xưa có những đặc tính khác nhau. Có lò võ thích xử dụng gậy dài, có lò chỉ chuyên luyện gậy ngắn.

Về kỹ thuật cầm gậy, cầm côn, thường dùng cả hai tay nhưng cũng có thể xử dụng một tay cho gậy ngắn, và có nhiều lối nắm cầm gậy khác nhau tùy theo thế võ hay đấu trường. Thông thường có hai lối cầm gậy dài : Nhật nguyệt áp chưởng và Long trảo hộ châu. Nhật nguyệt áp chưởng là lối cầm gậy hai tay đối nhau hai bên, tay trong tay ngoài nắm chặt gậy nằm gọn ở giữa hai lòng bàn tay. Long trảo hộ châu là lối cầm gậy bằng mười đầu móng tay và cả hai tay đều cùng ở một phía gậy.

Ðể tạm kết thúc, xin đơn cử hai bài võ gậy cổ truyền, một bài về gậy dài, bài “Lữ Vọng Tâm Côn” và một bài về gậy ngắn, bài “Hoàng Kim Giản Pháp”.

I/ Lữ Vọng Tâm Côn

Thượng trình thọ thế lưỡng biên khai,
Tam tấn xà thương nhất điểm lai,
Bảo tử kinh xa hồi tọa mã,
Kinh châu hổ cứ trấn Trung sơn,
Ðiểm thủy phong đao phi chiếc dực.
Thạch bàn Lữ Vọng tọa lý ngư, (2)
Phi khứ phi lai biên quơ thảo,
Ðàng địa phi xa luyện trung thiên.

II/ Hoàng Kim Giản Pháp

Bình thân lập thế,
Lưỡng long thủ châu,
Khuynh thân bái tổ,
Thiềm thừ vọng nguyệt,
Kim giản bạt sơn,
Tiềm tàng long hổ,
Phượng vũ xuyên lâm,
Phi giao đoạt ngọc,
Mãnh sư trấn động,
Cuồng phong tảo diệp nhất,
Cuồng phong tảo diệp nhì,
Tiềm tàng long hổ,
Phượng vũ xuyên lâm,
Phi giao đoạt ngọc,
Mãnh sư trấn động,
Cuồng phong tảo diệp,
Tiềm tàng long hổ,
Lão tiều quải sơn,
Thiềm thừ vọng nguyệt,
Lão tiều quải sơn,
Vân gia hồi giản,
Ðoạt mệnh kim giản,
Khuynh thân bái tổ.

Phan Quỳnh.

http://vothuat.co/%C3%B0anh-gay-mon-vo-truyen-thong.html

mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 24/Oct/2012 lúc 8:05am

Bình Định Và Võ Thuật

Con Gái Bình Định

Đào Đức Chương  (Thếkỷ 21 No.109, May 1998)

Phụ nữ ở Bình Định được học võ đến nơi đến chốn để trở thành bậc cao thủ, đem tài võ nghệ làm nên lịch sử như nữ tướng Bùi Thị Xuân người đất Tây Sơn cũ, quán làng Xuân Hòa xã Bình Phú quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) thì xưa nay chưa có người thứ hai. Nhưng con gái Bình Định được cha mẹ cho học võ phòng thân, nhất là trước năm 1945, thì hầu như cô gái nào cũng biết qua hai môn võ căn bản:

 

Ai về Bình Định mà coi,

Con gái Bình Định múa roi, đi quyền (Ca dao)

 

Tuy nhiên, đôi lúc cũng có những cô gái học võ không chỉ để phòng thân mà muốn phát huy cái đẹp của võ truyền thống như trường hợp Thanh Tùng, hoặc còn đi xa hơn, thi thố với đời, trở thành cao thủ trong làng võ. Điển hình có bà Mân sống vào thời chúa Nguyễn, cô Quyền vào giữa thế kỷ 19 và sang đầu thế kỷ 20 lại có Tám Cảng.

 

Bà Mân chưa phải là nhân vật lịch sử nhưng với tài võ nghệ, bà được dân Bình Định ca tụng qua bài vè Chú Lía dài 1434 câu thơ lục bát và được lưu truyền khắp các tỉnh miền Nam Trung phần.

 

Theo bài vè, bà Mân ở gần vùng Truông Mây, nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn do cha Hồ chú Nhẫn và sau có thêm chú Lía cầm đầu, nay thuộc xã Ân Đức huyện Hoài Nhơn. Một hôm hai tên Hồ, Nhẫn đem cả lực lượng hùng hậu đến bắt heo nhà bà, cả làng khiếp sợ không ai dám tiếp cứu:

 

Lân la bốn chục theo rày

Thẳng đường xuống xóm chật đầy đường quan

 

Trong tay bà chỉ có cây roi ngắn nhưng với lòng can đảm và tự tin, bà xông ra cự địch với một đảng cướp mạnh khét tiếng trong vùng:

 

Mụ Mân độ khoảng bốn hai

Làu thông võ nghệ ít ai sánh bì

Thình lình chưa biết việc chi

Tiện tay mụ với tức thì đoản côn

Bước ra thấy rõ thiệt hơn

Mụ không thèm hỏi huơ côn đánh liền.

 

Ai cũng tưởng phen này bà Mân bị nát thây vì hai tên Hồ, Nhẫn không những võ nghệ phi thường mà còn hung bạo chưa từng có. Nhưng không may cho chúng, thế võ của bà sâu hiểm vô cùng, áp đảo được ngay đối thủ:

 

Cả ba vùng vẫy đua tranh

Mụ Mân quả thực liệt oanh ai tày

 

Chỉ mới so tài ở hiệp đầu mà bọn cướp đã bị ngọn roi thần của bà cuốn người như bão táp, chúng phải đổi từ thế công sang thế thủ rồi tìm đường tháo lui:

 

Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai

Đuối tay kéo chạy như bay khác nào!

 

Thân đàn bà mà đánh đuổi bọn cướp đông đảo để bảo vệ tài sản là điều hiếm có. Nhưng cũng tại huyện Hoài Nhơn còn một cô gái khác, trong tay chỉ có con dao mà hai lần đánh thắng cọp để cứu mẹ, mới là chuyện phi thường.

 

Trần Thị Quyền, cái tên do cha mẹ đặt gắn liền với võ nghệ, âu đó là cái nghiệp tiền định làm nên kỳ tích mà chính cô cũng không ngờ được. Nhà nghèo, cha mất sớm, không có anh em, cô là người duy nhứt sớm hôm với người mẹ. Cô có nhan sắc, nhiều người đến xin cưới nhưng nhất mực từ chối để làm tròn chữ hiếu.

Thường ngày hai mẹ con vào núi chặt củi đem ra chợ bán kiếm tiền nuôi thân. Một hôm cô Quyền đang chặt cây để cho mẹ gom thành bó, bỗng có một con cọp nhảy ra vồ người mẹ, bà phải lăn người mới kịp né tránh. Cô Quyền đang cầm cái rựa, thấy thế vội xông đến cứu mẹ. Nhờ có võ nghệ và bình tĩnh, cô tránh được tầm nanh vuốt của mãnh thú và chém trả lại nhiều nhát chính xác, cọp đau quá đành bỏ chạy.

 

Câu chuyện đánh cọp tưởng đã lãng quên theo năm tháng, không ngờ cọp luôn luôn rình rập quyết báo thù. Một đêm bà mẹ có việc phải ra sân, như có linh tính, cô Quyền cầm dao theo mẹ phòng thú dữ.

 

Thình lình cọp nhảy bổ ra vồ hai mẹ con, cô vội kéo mẹ dạt sang một bên để tránh rồi dùng dao chống trả. Cọp được lợi thế nhờ đêm tối, còn cô Quyền cũng có lợi điểm đánh cọp nơi quang đãng, tiện bề công thủ. Hai bên quần thảo với nhau, cọp vồ hụt nhiều lần đâm ra mệt trở nên hung dữ, liều lĩnh lao tới, cô tràn bộ ( né tránh. Cọp đang tầm phóng chưa kịp xoay mình lại, nửa phần thân sau của nó là mục tiêu ngon lành cho mũi dao của cô cắm phập vào hông cọp. Tuy bị thương nhưng cọp còn thừa sức quay đầu lại chồm lên, chuyển hết thần lực vào hai chân trước để trả đòn. Lanh như chớp, cô Quyền hoành bộ (2) rồi phóng mạnh lưỡi dao ngọt xớt vào lồng ngực nở nang của đối thủ, trước khi nhảy trái tránh cú vồ sinh tử. Khi dân làng đèn đuốc kéo đến tiếp cứu, con cọp to lớn chỉ còn là một cái xác giãy giụa trên vũng máu.

 

Nếu bà Mân tên tuổi sống mãi trong văn học dân gian, chuyện cô Quyền giết cọp được truyền tụng trong làng võ của tỉnh nhà thì trường hợp của bà Tám Cảng là một bài học đáng suy ngẫm.

 

Ông Hương mục Ngạc, kế tổ của phái quyền An Vinh mà phương ngôn đã có câu truyền tụng "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh" có ba người con: Bảy Lụt là trai trưởng, kế là Tám Cảng và út nam là Chín Giác. Tuy là gái nhưng Tám Cảng có sức mạnh hơn người và ham mê võ thuật nên được cha cưng chiều truyền dạy chu đáo. Tiếng đồn con gái ông Hương mục Ngạc mới 18 tuổi, trong tay chỉ có cây đòn gánh mà đánh bạt cả hàng trăm thanh niên cầm gậy bủa vây tại sân chùa Bà An Thái trong ngày lễ hội Đổ Giàn càng làm thiên hạ phục sát đất lò võ của ông Hương mục Ngạc nhưng đồng thời càng không ai dám tính chuyện trăm năm với cô. Năm Tám Cảng 20 tuổi vẫn chưa được nơi nào dạm hỏi dù rất có nhan sắc. Ông Hương mục Ngạc thông cảm nỗi khổ tâm của con, tuyên bố với mọi người rằng nếu ai đánh bại được Tám Cảng thì ông sẽ gả con gái cho mà không đòi hỏi một lễ vật gì. Có ba người đến xin đấu võ với Tám Cảng. Người thứ nhất bị Tám Cảng cho một cú đá văng vào hàng rào. Người thứ hai, võ nghệ khá hơn, kịt ngựa (3) nhanh nhẹn, công thủ song hành nên cầm cự được hiệp đầu, sang đến hiệp thứ hai thì bị Tám Cảng dùng ngón gia truyền ép vào bể cạn, đánh gục. Người thứ ba là Dư Hựu (không phải tên Hựu, quân sư trong đảng cướp của Dư Đành) bị Tám Cảng đạp nhào vào hồ cá, đành bỏ ra về tầm sư học đạo. Một năm sau lại đến xin đấu, lần này Tám Cảng tung cước bị Dư Hựu tóm được chân, ném trả vào hồ cá.

 

Dư Hựu thắng. Giữ lời hứa, ông Hương mục Ngạc làm lễ vui qui cho con gái. Năm ấy Tám Cảng 22 tuổi. Nhưng cũng chỉ sống chung với nhau được ba năm. Một hôm vợ chồng lời qua tiếng lại, Tám Cảng quen thói bướng bỉnh, trả lời khinh khỉnh làm Dư Hựu điên tiết. Anh thuận tay chụp cái bình hoa chưng trên sập gụ ném mạnh vào mặt vợ. Nếu là người khác thì đã nát mặt, nhưng Tám Cảng nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy đem đặt trên bàn và mỉa mai: "Bình xưa mà làm ngơ không bắt, để bể cũng uổng." Dư Hựu càng giận, với lấy cái chày đâm tiêu bằng đá ném mạnh vào đầu vợ. Tám Cảng cũng đưa tay chụp cười gằn giọng châm chọc: "Cái đầu mà quáng mắt lầm cái cối đâm tiêu hả?" Dư Hựu giận lắm, mất hết trí khôn, chụp con dao phay, bằng thế võ rất lợi hại, phóng thẳng vào ngực vợ. Đường dao quá mạnh, Tám Cảng không thể chụp được, đành phải té ngửa để tránh. Con dao ngon trớn cắm phập vào vách đất ngập đến cán. Dư Hựu sực tỉnh thì mọi việc đã xảy ra rồi, suýt nữa gây nên án mạng. Tám Cảng lồm cồm ngồi dậy, còn Dư Hựu bỏ chạy một mạch đến nhà cha vợ. Gặp ông Hương mục Ngạc, anh ta sụp lạy kể lại đầu đuôi câu chuyện và nhất quyết xin trả Tám Cảng mà không đòi hỏi một điều kiện nào.

 

Chuyện Dư Hựu trả vợ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Nhân đó câu ca dao trên được sửa lại:

 

Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định cầm roi rượt chồng

 

 

Các bậc phụ huynh ở Bình Định rút kinh nghiệm, thôi không dám chiều ý con gái cho học nhiều võ nghệ nữa, sợ bị ế chồng như Tám Cảng. Họ chỉ luyện con gái vài thế võ thủ thân, thế cũng đủ cho đối phương kinh hồn rồi. Sau đây là một trong hàng trăm chuyện về phản ứng tự vệ của các cô gái Bình Định.

Ai đến Tuy Phước cũng biết câu ca dao về các phiên chợ trong quận: "Chợ Huyện liệng Cây Gia, Cây Gia xa chợ Mới, chợ Mới tới chợ Dinh, chợ Dinh rinh Bồ Đề, Bồ Đề kề chợ Huyện." Phiên Huyện nhằm các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26 âm lịch, là phiên chợ lớn nhất của huyện nhà nhưng lại cách thị trấn Tuy Phước hơn ba cây số.

Ngày phiên, không những dân trong vùng tập trung về mà còn đủ mặt dân buôn từ xa đến mua gom sản phẩm địa phương và bán hàng hóa ở nơi khác mang tới. Con đường quốc lộ 1 từ huyện lỵ đến chợ Huyện người mua kẻ bán đi lại tấp nập có cả những chàng trai đi dạo chợ để tìm ý trung nhân:

 

Trai khôn tìm vợ chợ đông

Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.

(Ca dao)

 

Tuy nhiên cũng có kẻ lợi dụng đám đông để giở trò xằng bậy. Từ sáng, tại cổng Lý Môn có hai thanh niên ăn mặc chải chuốt, cười nói rổn rảng, chốc chốc lại trông ra đường. Nhìn dáng điệu biết ngay là dân ăn chơi từ tỉnh thành lạc đến. Trong dòng người từ chợ về, có một thanh nữ cao lớn, bước đi chậm chạp, hai tay xách hai giỏ nặng đầy ắp thức ăn. Đợi cho cô gái rẽ vào con đường đất dẫn vào cổng làng, hai "công tử" bước tới đón đàng, buông lời chọc ghẹo và giở trò sàm sỡ. Nhanh như chớp, cô gái buông hai giỏ thức ăn, xoay nghiêng né tránh tầm tay của kẻ vô hạnh đang sấn tới ngực, rồi đưa tay đánh phất qua một chiêu. Bị phản ứng bất ngờ, một trong hai tên né sang bên nhưng hắn đã lầm vì đó là hư chiêu. Cô gái thấy hắn trúng kế, thuận chân tung cước trúng thẳng vào hông làm hắn lăn xống ruộng, bùn bê bết từ đầu đến chân. Tên thứ hai mất tinh thần nhưng trước đám đông hắn tự ái liều mạng xông tới. Cô gái trong tư thế đứng ngựa (4), đón hắn bằng ngón võ gia truyền, chiếc khăn quàng cho ấm cổ trở thành roi nhuyễn tiên quất mạnh vào mặt đối thủ làm hắn không kịp tránh cú đá song phi, lảo đảo cắm đầu xuống ruộng.

 

Thanh nữ ấy là con gái út nhà họ Đào, quan Trung nghị Đại phu Quang lộc Tự khanh người làng Vinh Thạnh, nay bà đã giữa tuổi thất tuần thường kể lại câu chuyện năm xưa lúc bà chưa lập gia đình. Và ngón võ phòng thân ấy do ông cậu Năm Hương ở thôn Dương An nay thuộc xã Phước An huyện Tuy Phước truyền dạy cho bà lúc tuổi trăng tròn.

 

Vào đầu thập niên một chín bảy mươi, một ngôi sao lóe sáng trên vòm trời Võ học Bình Định: nữ võ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Cô được phong võ sĩ và được làng báo Sài Gòn tặng biệt danh "Hổ Cái Miền Trung" không phải vì cô đã thắng trên võ đài hoặc đã từng tranh tài cao thấp với ai; người ta chỉ thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung trong ngày hội Đống Đa biểu diễn các bài quyền như Lão Mai Độc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du với thế thủ như cản gió che mưa và thế công dồn dập như bão táp là đã đủ khiếp.

 

Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà võ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một dòng họ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh (1891 - 1976, kế tổ của phái roi Thuận Truyền). Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai trò đứng đầu hàng võ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà võ. Nhưng với bản chất kín đáo và nhũn nhặn, Thanh Tùng ngoan hiền về nhà chồng như bao cô gái Bình Định khác, ngày ngày chăm chỉ bên chiếc máy may, nhỏ nhẹ với khách hàng. Trông dáng dấp liễu yếu đào tơ, không ai thấy ở Thanh Tùng một dấu vết gì về võ nghệ, một thời nổi tiếng biểu diễn quyền roi. Chớ lầm! Khi cần tự vệ, "con người võ" của Thanh Tùng nổi dậy. Đôi mắt hiền lành sẽ rực sáng như gươm bén và đôi tay mềm mại sẽ biến thành thanh sắt.

 

mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 27/Oct/2012 lúc 11:42pm

Bài 4 - Thái sơn côn đăng 22:51 07-08-2011 bởi Phi Long Hồ

- Tên gọi : Thái Sơn Côn
- Nguồn gốc : Võ Cổ Truyền Bình Định.

Thái Sơn Côn có tên gọi trước đây là Roi Thái Sơn hoặc Thái Sơn Thảo Pháp, là bài roi chiến rất nổi tiếng trong làng võ Tây Sơn - Bình Định - Việt Nam. Thái Sơn Côn không hoa mỹ, cầu kỳ nhưng các thế chiến đấu hiệu quả, lối đánh thực dụng, thật đúng với danh xưng một bài roi chiến.

Người giới thiệu và thị phạm bài Thái Sơn Côn ghi băng hình lần thứ I năm 1993 tại TP.HCM là Võ sư Đinh Văn Tuấn, Võ phái Hồ Ngạnh - Thuận Truyền và Võ phái Hương Kiểm Mỹ - An Vinh. Đơn vị Bình Định.

Người thị phạm bài Thái Sơn Côn ghi băng hình lần thứ II năm 2001 tại Khánh Hòa là Võ sư Đinh Văn Tuấn, Võ phái Hồ Ngạnh - Thuận Truyền và Võ phái Hương Kiểm Mỹ - An Vinh. Đơn vị Bình Định.

Người thị phạm bài Thái Sơn Côn ghi đĩa hình lần thứ III năm 2007 tại Hà Tây là Chuẩn võ sư Trần Duy Linh. Đơn vị Bình Định.

Bài Thái Sơn Côn được bình chọn trong Hội nghị chuyên môn VTCT toàn quốc lần thứ I năm 1993 tại TP HCM.

 

I. Lời thiệu

A. Nguyên văn

    1. Khuynh thân bái tổ khởi môn tiên

    2. Thái Sơn trích thủy địa xà liên

    3. Thượng bổng kỳ lân thoái bạch viên

    4. Quy kỳ độc giác trung bình hạ

    5. Thượng thích đài đăng tấn thừa thiên

    6. Hồi đầu trực chỉ liên tam thích

    7. Đồng Tân thuận thế phá giang biên

    8. Tẩu thố tồn sơn hoành phá kiếm

    9. Linh miêu mai phục tấn thích ngưu

    10. Thừa châu bố địa loan côn thích

    11. Hồi tiểu kim kê đả trung lang

    12. Phi phong tẩu võ khai ngưu giác

    13. Tiểu tử tam phiền giá mã an

    14. Lập bộ như tiền bái tổ sư.

B. Phú nôm

 

Tay cầm roi đản khai trương

Vọng tiền bái tổ là đường xưa nay

Diện tiền thế ấy rất hay

Thái sơn trích thủy, côn này đổ nghiêng

Đại xa phục thổ chẳng hiền

Kỳ lân phản ứng ngựa liền cao bay

Hoành roi một bước lướt vào

Quy kỳ Độc giác trực giao diện tiền

Côn trùng tấn thích trung thiên

Hồi đầu trực chỉ diện tiền tam giao

Đồng tân xuất thế anh hào

Giang biên phá trận xông vào tiền môn

Hoành sơn thỏ chạy dập dồn

Phục châu hạ địa vươn côn đảo trừ

Linh miêu núp dưới bóng người

Chờ trân vùng dậy ngựa chuồi tới đâm

Thừa châu côn nọ tay cầm

Biến thiên bố địa mà đâm diện tiền

Lui về giữ thế trung kiên

Đề côn đả kích phá yên trận đồ

Gió rung lá rụng ồ ồ

Sừng trâu mở rộng côn đồ chiến chinh

Thuyền rồng giữa biển linh đinh

Mã yên Triệu Tử ba lần thành công.

 

II. Kỹ thuật của bài quyền

 

1.Tấn pháp

    - Đinh tấn- Trung bình tấn- Xà tấn- Hạ mã tấn- Trảo mã tấn- Hạc tấn

2.Côn pháp

    -Đập- Đâm- Đỡ- Chặn- Bẫy- Loan- Quét- Vớt

3.Kiếm pháp

    - Thích – Trảm- Loan- Vớt- Đỡ

 

III.Điểm dừng kỹ thuật của bài- Thời gian thực hiện

 

1.Tấn thừa thiên

2.Đồng tân thuận thế

3.Khai ngưu giác

             - Điểm dừng ở cuối các câu thiêu,thời gian dừng cho mỗi động tác không quá 03giây.

             - Thời gian thực hiện kỹ thuật toàn bài-tính cả thời gian dừng là 01 phút 20 giây.

 
 
n

 

 



Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 28/Oct/2012 lúc 12:06am
mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 05/Nov/2012 lúc 7:34am

Võ cổ truyền côn pháp: Tấn nhất ô du

February 7th, 2012

Tấn Nhất Ô Du hay còn gọi là Thảo Ô Du, Roi Tấn Nhất; cùng với Roi Thái Sơn, Roi Ngũ Môn… là những bài binh khí côn pháp nổi tiếng của Võ thuật cổ truyền Việt Nam. Miền đất võ Bình Định được xưng tụng: Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái. Roi danh trấn một thời, cho đến nay vẫn được coi là báu vật lưu truyền với những kỹ thuật, thế đánh bí hiểm.

Roi Thuận Truyền có nguồn gốc thôn Thuận Truyền, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, trước xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng đến đời ông Ba Đề thì truyền cho Hồ Nhu, tên thật của ông Hồ Ngạnh (1891 - 1976). Ông nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, huyện Tây Sơn, trú quán ở Thuận Truyền, xã Bình Thuận. Cha là ông Đốc Năm, một võ quan của triều Nguyễn, mẹ cũng là con nhà võ. Ngay từ lúc bé, ông đã được cha mẹ dạy võ gia truyền. Lớn lên, ông học roi của cao sư Ba Đề, học nội công của ông Đội Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm. Ðường roi kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô cùng. Từ roi thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo. Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông đã vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nghe danh, học trò đến thọ giáo rất đông. Con trai chết sớm, ông truyền nghề cho cháu nội là ông Hồ Sừng. Học trò lớp lớn có ông Mười Mỹ, sinh năm 1912 ở Trường Úc , xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước được riêng dạy ngón võ bí truyền. Học trò lớp sau có Đinh Văn Tuấn ở Qui Nhơn, đang độ sung sức, nối nghiệp làm vẻ vang cho làng võ Thuận Truyền. Hồ Ngạnh được gọi là “võ sư huyền thoại”. (Bách khoa toàn thư mở)

 

Pháp dùng côn (roi) có những kỹ thuật chung nhất định nhưng các võ phái, môn phái Võ cổ truyền vẫn có hệ thống căn bản côn pháp riêng. Theo tài liệu nghiên cứu về Võ cổ truyền Bình Định thì côn là loại binh khí dài thông dụng, với nhưng thế đánh được coi là tuyệt kỹ như «lạc côn», «nghịch côn», «đâm so đũa », «đánh văng roi», «phá vây»…

Phần kỹ thuật căn bản côn của Võ cổ truyền Bình Định gồm có 12 thế tập luyện theo các nhóm: – Đâm, bắt, lắc, đánh; – Bát, bắt, triệt, chận; – Hoành, bắt, lắc, tém (có tài liệu chép: Hoành, khắc, lắc, tém). Ngoài ra còn nhiều phương pháp khác như luyện tay trước, luyện tay sau; tay trái cầm đốc côn là hậu vệ, vừa đỡ đòn, vừa trợ thủ tấn công, tư thế tĩnh, tư thế động, với ưu điểm hai đầu và đốc, công thủ, thủ công liên hoàn. Những kỹ thuật căn bản này là nền tảng cho các bài côn chiến đấu và cũng là sự biến hóa trong cách dùng côn của người Việt Nam. Nhiều giai thoại về các thế bí hiếm của côn pháp trong dân gian đến nay vẫn lưu truyền qua sách vở.

1. TẤN NHẤT Ô DU:

Tấn nhất, trung bình đản số phiên.

Tế sương giáng hạ thích đơn tiên.

Tọa tả, tọa hữu, giai trùng nhị (1).

Thân khởi tề mi phụng võ tuyền.

Xà hành trích thủy khai côn đả.

Tấn bộ tự nhiên yểm chước quyền.

Hướng hậu khinh thân liên tam đả.

Xích phê tiếp túc trạng phi anh.

Lưỡng đầu tịnh tấn hoàn cựu sở.

Phản diện hoành khai hổ bộ hoành.

Thích trung cử tả, phiên thân dược.

Án tý bằng phi khí lực sanh.

Hồi đầu chỉ hữu trương ngư điếu.

Phục địa lan hoành tấn phế tranh.

Kình khởi ba trung dương độc thủ.

Phụng đầu phản bộ lập đình canh.

Tấn thoái luân tiên phi tự tiễn.

Quan Âm bái tổ võ công thành (2).

(Tài liệu Võ cổ truyền Bình Định. Một vài tài liệu chép có đôi  chỗ khác so với lời thiệu này, như : (1) Tả tả, tả hữu vai trùng nhị. (2) Lão ông bái tổ lập như tiền)

2. ROI TẤN NHẤT

Tấn nhất trung bình đả tả biên.

Thế thiên giáng hạ thích đơn tiên.

Tạ tả tạ hữu giai trùng nhị.

Phượng vĩ tề mi phụng võ truyền.

Xà thành đích thủy song song đả.

Lập bộ lôi công tấn bộ chuyền.

Giang khê tẩu mã qui Lũ Vọng.

Tấn thích biên giang lập bộ tuyền.

(Roi Tấn Nhất, Đảo Đào Hoa – Lão Đông Tà,  Môn phái Sa Long Cương Bình Định)

Hội nghị chuyên môn Võ cổ truyền toàn quốc lần thứ IX, từ 27/12 đến 28/12 năm 2007 tại Khánh Hòa, Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam bình chọn một số bài võ, trong đó có bài Roi Tấn Nhất. Theo tài liệu giới thiệu của võ sư Nguyễn Minh Trí, đơn vị Bình Dương: « Bài Roi Tấn Nhất thuộc dòng võ Bà Trà Tân Khánh khoảng năm 1851, đã áp dụng huấn luyện kháng chiến chống thực dân dưới hình thức gậy tầm vông vạt nhọn trong những năm 1945 – 1954 ».

3. ROI TẤN NHẤT

Bái tổ Tấn nhất.

Tấn nhất trung bình đả sổ phiên.

Càn khôn giáng hạ xích đơn tiên.

Tấn khởi tề mi phụng võ truyền.

Xà hành đích thủy khai côn đả.

Lôi phong tam tẩu hồi tam chiến.

Xích phê tiếp túc trạng phi anh.

Lưỡng đầu khinh tấn Hoàn Công sở.

Khinh thân đích thủy kỳ chấn thế.

Loang hồi đả ngư lưỡng xà vỹ.

Loang phóng càn thương hồi ngọc chuẩn.

Lập bộ như tiền bái tổ sư.

(Dòng võ Bà Trà Tân Khánh)

 Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà, là một trong những môn võ nổi tiếng ở Nam Bộ, có từ thế kỷ XVII do những người Việt từ miền Thuận Quảng, xứ Đàng Trong vào khai phá vùng đất Đồng Nai. Đến thế kỷ XIX, tương truyền gia đình bộ tướng Tây Sơn đến lánh nạn chính sách trả thù của vua Gia Long, có hậu duệ là người con gái tên Trà, chiêu mộ binh mã chống trả sự áp bức đương triều năm 1850 tại vùng rừng rậm làng Tân Khánh. Tên Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà gắn kết từ đó.

 Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà nổi tiếng với những trận đánh cọp của các võ sư tiền bối. Võ sư Từ Thiện, tên thật là Hồ Văn Lành (1914 – 2005) có công phát triển môn phái đến Sài Gòn và đào tạo nhiều thế hệ môn sinh ưu tú, vang danh ra các nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Indonesia, Hồng Kông. Năm 1969, võ sư Hồ Văn Lành cùng các võ sư tâm huyết như: Võ sư Lê Văn Kiển (1914 – 2003), Môn phái Nam Tông, võ sư Mai Văn Phát (1917 – 1997), Môn phái Trung Sơn và một số võ sư khác sáng lập ra Tổng hội Võ sư Nghiên cứu và Phổ biến Võ học Việt Nam, gọi tắt là Tổng hội Võ học Việt Nam. Võ sư Hồ Văn Lành đã đưa vào chương trình huấn luyện thống nhất của Tổng hội Võ học Việt Nam hai bài: Đồng nhi quyền và Tấn nhứt côn. Hiện nay Võ sư Hồ Văn Tường, con trai của võ sư Từ Thiện Hồ Văn Lành, đang là người tiếp bước Môn phái Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà. (Theo tài liệu của Môn phái Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà

Võ cổ truyền Việt Nam phong phú, nên cũng cùng tên một bài nhưng có nhiều cách thể hiện khác nhau. Phương pháp nhận chân bài võ xưa nay dựa theo nguồn gốc môn võ, thời gian lưu truyền được sàng lọc. Lời thiệu phải có ý nghĩa và đúng với kỹ thuật, thế đánh trong bài. Các thế đánh phải theo võ lý của từng loại hình quyền thuật hoặc binh khí. Các tư thế tấn công, phòng thủ, phản đòn, biến thế; đòn độc hành, đòn liên hoàn, âm dương tương tế, nhất điểm phát vạn thủ, vạn thủ quy nhất điểm, đều phải thể hiện tính hiệu quả đích thực của các thế võ.

Dùng võ như dùng binh, điều cốt yếu là sự biến ảo khôn lường, cho dù đọc thuộc các binh thư cũng không thể bị binh pháp trói buộc.

Võ sư Trương Văn Bảo

(Võ đường Trần Hưng Đạo Đà Lạt)

 

mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 08/Nov/2012 lúc 7:54am

Hùng Kê quyền

 

Chuyện xưa kể rằng: Khi ba anh em Tây Sơn bí mật chiêu mộ anh hùng hào kiệt về tụ nghĩa, một lần nọ lúc xem 2 chú gà chọi nhau vào dịp Tết, trong đó có một con nhỏ hơn đối thủ nhưng biết vận dụng yếu thế "nhỏ con" của mình để triệt hạ đối phương, bằng thiên tư võ thuật của mình Nguyễn Lữ đã nghiền ngẫm và sáng chế ra bài Hùng Kê quyền, gọi nôm na là võ gà. Ngày nay, bài Hùng Kê quyền đã trở thành "danh trấn giang hồ" và được Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam đưa vào hệ thống những bài quyền thi đấu bắt buộc tại các giải…

* Mãnh lực của một bài quyền

Người có công lớn trong việc làm cho bài Hùng Kê quyền không bị mai một và được truyền bá rộng rãi cho đến ngày nay là lão võ sư Ngô Bông, năm nay đã 76 tuổi, hiện đang sống thôn Điền Chánh, xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi). Trong một buổi chiều giáp Tết, tôi có dịp hầu chuyện với lão võ sư Ngô Bông tại tư gia của ông…

"Hùng Kê quyền là bài quyền mà tôi yêu thích nhất. Ngày xưa sư phụ của tôi kể rằng: Nguyễn Lữ rất thích bài quyền này, đến đời sư phụ tôi cũng thế. Bài quyền như có sức hút mãnh liệt mà hết thảy những ai đã được học nó đều rất mê. Riêng tôi tự thề với lòng rằng: trước khi nhắm mắt lìa đời, tôi phải đi vài đường của bài quyền Hùng Kê rồi, nếu không làm được như thế tôi sẽ không nhắm mắt được". Lão võ sư Ngô Bông bắt đầu câu chuyện của mình như thế.

Sư phụ của võ sư Ngô Bông là ông Mười Diệp, trong tiềm thức của lão võ sư Ngô Bông thì thầy Mười Diệp là "truyền nhân" của một người lính dưới trướng Nguyễn Lữ, tên gọi là Lý Trường Xuân. Người lính này rất được Nguyễn Lữ tin dùng và truyền hết những tuyệt kỹ của bài quyền Hùng Kê.

Cùng thời với lão võ sư Ngô Bông, có rất nhiều võ sư tại Bình Định và Quảng Ngãi rất giỏi bài quyền này, trong đó đáng kể nhất là võ sư Sáu Nghê, võ sư Hồ Sắt (quê ở Phù Mỹ), võ sư Hồ Nguyệt (quê ở Tây Sơn), Hòa Thượng Thích Đại Long (quê ở Tuy Phước)… Nhưng tất cả đã mất vì tuổi cao, vì chiến tranh. Duy chỉ còn lại Ngô Bông cho đến nay. Năm 1989, võ sư Ngô Bông thực hiện bài quyền Hùng Kê tại một giải đấu quốc gia và đạt giải cao. Đến năm 1993, tại Đại hội võ thuật của Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam, đã thống nhất lấy bài Hùng Kê quyền đưa vào hệ thống thi đấu bắt buộc ở nội dung biểu diễn và võ sư Ngô Bông chịu trách nhiệm truyền dạy, hướng dẫn bài quyền này…

"Các đòn đánh của bài quyền Hùng Kê cực kỳ chuẩn xác và biến ảo. Cái thần thái của bài quyền là sử dụng sức mạnh của thủy để đánh đối phương. Mà cậu biết rồi đó, nước mà chảy là mạnh lắm và không thể nào tránh né cho khỏi. Các đòn đánh của bài quyền Hùng Kê cũng vậy. Nó đánh vây tứ bề, dùng ba đến bốn mũi giáp công chỉ nhằm đánh vào một điểm, đánh từ dưới thấp lên cao, từ trên cao phủ đầu xuống thấp…".

* Hùng Kê quyền: trong võ có văn

Mới xem qua trình diễn thì có thể nhiều người sẽ nhầm đây là một bài quyền đơn giản. Chỉ khi vận dụng nó mới biến ảo khôn lường, nó ví như "thủy" có thể len qua mọi ngóc ngách nhưng khi tập trung lại thì mạnh như thác lũ.

Các chiêu thức của bài quyền Hùng Kê khi đánh ra lúc thì vây tứ phương tám hướng như trận đồ Bát quái ví như nước lũ tràn về, lúc thì như nước từ trên cao ập xuống bởi các đòn bay người lên cao, đánh ập xuống, sử dụng "nhất dương chỉ" đâm vào các tử huyệt trên cơ thể khiến đối phương khó lòng tránh né…

Hơn hết, bài quyền Hùng Kê rất tiêu biểu cho người Việt Nam với các đức tính sau: Con kê (gà) có dáng đi đẹp, đôi chân có cựa sắc bén thể hiện cho tướng võ, trên đầu lại có mào như tướng văn. Thấy kẻ thù dù to lớn nhưng không khiếp sợ đó là đức dũng, trong lúc chiến đấu luôn uyển chuyển, biến ảo đó là đức trí, khi gặp mồi (thức ăn) không ăn ngay mà gọi đàn cùng đến là đức nhân. Ngoài ra cái chủ ý trong bài thiệu đã lồng chứa tất cả cốt lõi của nền võ trận Việt Nam, nó mang một nguyên lý khoa học ở võ thuật, nghệ thuật chiến đấu mà nhà Tây Sơn đã có công sáng tạo dựa trên nguyên tắc: thấp có thể tranh cao; nhỏ có thể đánh lớn; yếu có thể đánh mạnh; gần có thể đánh xa mà vẫn có thể chiến thắng được đối thủ…

* Những truyền nhân của Hùng Kê quyền

Bài thiệu Hùng Kê quyền:

"Lưỡng Kê giao thủ thủy tranh hùng

Song túc tề phi trảo thượng xung

Trấn ải kim thương như Bạch Hổ

Thủ quan ngân kiếm tựa Thanh Long

Xuyên khung độc tiễn tăng ư trác

Hồi thủ đơn câu thủ tứ hung

Thiểu tẩu vượt trâm thiên sở tứ

Nhu, cương, cường, nhược tận kỳ trung

Bình thân bái tổ đứng lập tần".

 

Thời trai trẻ, lão võ sư Ngô Bông đã dạy và hướng dẫn cho không biết bao nhiêu là học trò khắp đất nước. Nhưng ông nhớ nhất là 2 võ sư Thanh Long (Hoài Nhơn) và Nguyễn Lê Hương (Quy Nhơn). Ông cho biết: "Tôi không phải là sư phụ của 2 người này, tôi chỉ hướng dẫn cho họ bài Hùng Kê quyền thôi, nhưng 2 người này rất sáng ý, họ tiếp thu bài quyền rất tốt, đánh đẹp, chuẩn xác và nghe đâu hiện nay 2 người này cũng đã dạy cho rất nhiều đệ tử bài quyền Hùng Kê này… Riêng tại Quảng Ngãi thì đã có Ngô Lâm, là con trai tôi nối nghiệp nên tôi rất yên tâm, không sợ bài quyền bị thất truyền…".

Hiện nay, bài Hùng Kê quyền đã trở thành bài quyền mang tính đại trà, bất cứ một VĐV thi đấu ở nội dung biểu diễn nào cũng phải biết vì nó mang tính bắt buộc. Nhưng để đánh chuẩn xác, đẹp và có hồn thì không phải VĐV nào cũng làm được.

Anh Trần Duy Linh, HLV của bộ môn võ cổ truyền Bình Định, là người rất giỏi về Hùng Kê quyền tâm sự: "Bài quyền Hùng Kê hay lắm, các chiêu thức đơn giản nhưng chính xác, biến ảo, tự bản thân tôi cũng rất yêu thích…".

. Công Tâm

 

mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2012 lúc 8:46am

Học võ và dạy võ

December 29th, 2011

 
Học võ.

Người xưa dạy rằng: “Tập võ chi đạo có thể được cường thân, mẫn trí. Một người tập võ thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối của võ thuật trước tiên là phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học vấn.” Võ thuật là môn học rộng lớn, thâm sâu, có tính khoa học, nghệ thuật, giáo dục văn hoá truyền thống…

Võ là khoa học, nghệ thuật vì võ dạy cho con người phương pháp rèn luyện sức khoẻ, phát triển sức mạnh, ngăn ngừa bệnh tật theo khoa học giáo dục thể chất trong một nghệ thuật thần kỳ nuôi dưỡng tinh – khí – thần và nghệ thuật tự vệ, chiến đấu. Khoa học võ thuật đích thực có các nguyên lý cấu thành và liên hệ mật thiết với những khoa học tương cận như vật lý học, sinh học, y học, quân sự…Đặc biệt là triết học Đông phương.

Võ là giáo dục văn hóa truyền thống vì võ dạy cho người học biết nuôi dưỡng nhân tính và sống theo đạo lý trong một tôn chỉ rèn luyện nhân cách làm người.

Việc luyện tập võ thuật là một cuộc trường chinh để tự thắng chính mình, đưa con người đến sự giản dị, điềm đạm, khiêm tốn, đạt đến chân – thiện – mỹ trong cuộc sống. Chỉ có những ai không đi hết trọn con đường mới phải tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch. Trong tập sách Từ sinh lý đến dưỡng sinh, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết: “Tập vận động cho thân thể có nhiều cách, có những vận động tự nhiên như chạy, nhảy, bơi lội…thì ai cũng nên tập. Ngoài ra còn có các môn thể dục, thể thao tay không hay dụng cụ nhưng muốn rèn luyện để có các vận động điêu luyện thì tập võ là phương pháp hay nhất.”

Thật vậy, tuy võ thuật có đặc thù là chiến đấu nhưng tập võ còn là phương pháp tốt để nâng cao sức khỏe, qua đó con người có thể rèn luyện được nhiều đức tính quý báu như bền bỉ, chịu đựng, nhanh nhẹn, mưu trí, gan dạ và nhất là ở đỉnh cao người học võ thì khiêm tốn, điềm đạm, giản dị, giàu lòng vị tha và nhân ái. Thuật làm cho thân thể được khoẻ mạnh có rất nhiều. Biết được một thuật đủ để cho thân thể khoẻ mạnh và sống lâu. Võ thuật là một trong các nghệ thuật đó. Võ thuật không chỉ là loại hình vận động thể dục thể thao giản đơn mà còn là một hiện tượng văn hoá thần kỳ với những thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái… những công phu đặc dị, khí công, âm dương, ngũ hành, điểm huyệt, giải huyệt…

Do vậy cổ nhân thường ví võ học sâu như Đông hải, rậm rạp như rừng, mênh mông như biển cả. Võ thuật là giáo dục, văn hoá truyền thống, khoa học, quân sự, là phương pháp rèn luyện tu tập thể chất lẫn tinh thần và là môn học mang lại nhiều bổ ích. Đức Phật Thích Ca dạy các đệ tử rằng: “Đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng chính mình, tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”.

Tứ thư, Ngũ kinh là những bộ sách lớn, có giá trị trên nhiều phương diện, nhất là giáo dục. Chương thứ I, sách Đại học, bộ Tứ thư, luận về sự học viết:

Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.
Tri chỉ, nhi hậu hữu định. Định, nhi hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhi hậu năng an. An, nhi hậu năng lự. Lự, nhi hậu năng đắc.
Vật hữu bổn mạt; sự hữu chung, thuỷ. Tri sở tiên, hậu, tắc cận đạo hỹ.
Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên tri kỳ tri. Trí tri tại cách vật.
Vật cách, nhi hậu tri chí. Tri chí, nhi hậu ý thành. Ý thành, nhi hậu tâm chính. Tâm chính, nhi hậu thân tu. Thân tu, nhi hậu gia tề. Gia tề, nhi hậu quốc trị. Quốc trị, nhi hậu thiên hạ bình.
Tự Thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. Kỳ bản loạn, nhi mạt trị giả, phủ hỹ. Kỳ sở hậu giả bạc, nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu giã.
Khang Cáo viết: “ Khắc minh đức”.
Thái Giáp viết: “Cố thị Thiên chi minh mệnh”.
Đế Diễn viết: “Khắc minh tuấn đức”. Giai tự minh giã.

Dịch nghĩa

Cái đạo của đại học là ở tỏ đức sáng, ở mới dân và ở chỗ chỉ ư chí thiện.
Trước hết phải biết mục đích, rồi sau mới quyết định, quyết định rồi bình tĩnh, bình tĩnh rồi sau mới vững được tinh thần. Tinh thần có vững mới nghĩ được những công việc cho đi đến kết quả.
Vật có gốc ngọn, việc có trước sau. Biết phân biệt thứ tự là gần với đạo vậy.
Người đời xưa muốn tỏ đức sáng cho thiên hạ biết thì trước khi trị nước phải lo cho yên nhà. Muốn lo cho yên nhà, trước hết phải sửa mình. Muốn sửa mình thì tâm phải ngay thẳng, ý chí phải thành thật. Muốn cho tâm được ngay thẳng, ý chí đươc thành thật, thì trước hết phải thông suốt vấn đề, phải hiểu lẽ sự vật.
Hiểu lẽ sự vật rồi sau mới thông suốt vấn đề, rồi ý chí mới thành thật. Ý chí thành thật rồi tâm mới ngay thẳng. Tâm ngay thẳng rồi thân mới sửa. Thân sửa rồi nhà mới yên. Nhà yên rồi sau nước mới trị. Nước có trị rồi thiên hạ mới bình được.
Từ Thiên tử cho đến người thường dân, ai ai cũng lấy sửa mình làm gốc cả. Gốc loạn mà ngọn yên không bao giờ có vậy. Cũng như chưa có ai đối với người hậu với mình mà xử bạc, đối với người bạc mà xử hậu.
Thiên Khang Cáo nói: Phải làm cho sáng đức.
Thiên Thái Giáp nói: Bao giờ cũng phải xét kỹ cái mệnh sáng của trời.
Thiên Đế Diễn nói: Phải sáng đức lớn.
Tất cả đều nói phải tự làm sáng đức mình vậy.
(Tạ Thanh Bạch dịch chú)

“Học võ là học đạo, trước tiên là đạo làm người, học võ còn để rèn luyện thân thể, lấy “dục thể, dục trí, dục đức” làm mục đích phấn đấu, bất luận trong hoàn cảnh nào, tinh thần thượng võ phải được tôn trọng. Người biết võ nên đóng góp công sức vào những việc ích nước lợi dân. Người giỏi võ mà kém trí đức chỉ là hạng võ biền hại người hại mình.” (Võ sư Hoắc Nguyên Giáp – Tinh võ môn)

Dạy võ

Thầy: tiếng gọi thiêng liêng, như tiếng gọi cha, gọi mẹ. Thầy là “sư phụ”, xưa quan niệm thầy là thiên chức không phải là nghề, thầy dạy chữ là giáo sư, thầy dạy võ là võ sư. Thầy là người có công ơn dạy dỗ, trau giồi, truyền đạt kiến thức, hun đúc ý chí, làm tấm gương soi rọi về nhân phẩm, đạo đức cho học trò noi theo mà nên người. Thành nhân là tôn chỉ của giáo dục. Dân gian có câu: “Không thầy đố mày làm nên”.

Người xưa quan niệm truyền thụ võ công là việc trang nghiêm, người học đến võ đường phải làm lễ nhập môn, bái tổ, bái sư. Nghi thức ấy xem ra cổ mà kính, đó là khởi nguồn của lễ. Võ thuật bắt đầu bằng lễ và kết thúc cũng bằng lễ. Chính từ những quan niệm xưa ấy mà thầy trò giữ lễ với nhau, lấy nhân nghĩa làm tiêu chí hành xử. Thầy sẽ là tấm gương soi trong sáng cho hậu thế, lời nói đi đôi với việc làm, tri hành hợp nhất. Ngoài khả năng chuyên môn, tư cách đạo đức, người thầy còn làm sáng lên nhân cách xử thế, người học nhìn vào mà noi theo.

Người xưa trọng tinh thần hơn vật chất, do vậy ít nghe chuyện khoe khoang, quảng cáo, công nghệ đánh phấn tô hồng chữ tôi, mà tâm niệm học võ là để phát huy chữ đức. Thầy quang minh lỗi lạc, chính trực công minh như tướng lĩnh can trường ngoài mặt trận. Chuyện dùng những thủ đoạn thấp hèn, độc quyền xưng bá đồ vương võ lâm là điều không có với những người thầy liêm sỉ. Thầy trượng phu, quân tử coi cuộc đời như thủy bạc, tình nghĩa đón đưa đôi bờ, bốn bể là nhà, đất trời là giang sơn. Văn hóa võ thuật như rừng cây có nhiều gỗ quý.

Thầy là sự mẫu mực, từ tri thức đến đạo hạnh. Dạy môn sinh bằng tâm đức, lấy lòng yêu thương, tâm huyết truyền thụ võ công, nên có câu: “danh sư xuất cao đồ”. Làm người thật khó, làm thầy thật khó hơn. Quan niệm xưa và nay bây giờ đã khác. Ngày xưa quan niệm: “Hữu xạ tự nhiên hương”, thầy giỏi và đức độ học trò tự “tầm sư học đạo”. Ngày nay kinh tế thị trường, quảng cáo tiếp thị là phương tiện giúp con người tìm đến nhau, nên có thầy đã tìm trò. Chính vì vậy mà nảy sinh chênh lệch đạo lý thầy trò, xã hội nhìn hình ảnh người thầy bằng một góc khác. Võ thuật là môn học đặc thù, trọng võ đức, nêu cao tinh thần thượng võ, thuyền trưởng chết theo tàu, tướng lãnh chết theo thành.

Dạy võ là dạy nhân cách sống, nhân cách hành xử:

- Điều thứ nhất là trong võ có đạo, đạo ở đây là đạo đức thuợng võ, đạo làm người, vì vậy người dụng võ trước tiên phải trọng võ đức, khi hành xử phải tự chủ, tự thắng chính mình để tránh được tối đa các kết quả xấu, ngoài ý muốn.

- Điều thứ hai là võ không chỉ đơn thuần là quyền cước, binh khí chiến đấu mà đỉnh cao của võ là trí tuệ, mưu lược, khôn ngoan, uyển chuyển, khi cần thì lên cao, lúc không cần thì xuống thấp, linh hoạt ẩn hiện như con rồng. Người đánh trăm trận trăm thắng chưa phải là người giỏi nhất, không đánh mà buộc đối phương phải hàng, tâm phục khẩu phục mới thật là người giỏi nhất.

- Điều thứ ba khi cần thiết phải dụng võ để chiến đấu tự tồn, mưu sinh thoát hiểm thì như mãnh hổ chốn rừng sâu, uy nghi, dũng cảm, cương quyết, tỉnh táo làm chủ trong mọi tình huống.

- Điều thứ tư là văn ôn võ luyện, võ là hơi thở hằng ngày, là hành trang vạn dặm, có như vậy thì sự học võ mới không hoài công vô ích.

- Điều thứ năm, là Thiên Mưu Công trong Tôn Tử Binh Pháp viết:
Biết người biết ta trăm trận không nguy;
Không biết người chỉ biết ta một được một thua;
Không biết người không biết ta hễ đánh là nguy.

Nhưng dù sao đi nữa thì: “Trong thế gian không có hương thơm nào bay ngược được chiều gió, chỉ có hương thơm đức hạnh mới có khả năng bay ngược chiều gió và tỏa ngát muôn phương”. (Kinh Pháp cú).

Thầy dạy võ là:
“Sổ hàng di biểu lưu thiên địa.
Nhất phiến đan tâm phó sử thi”.
Có nghĩa là:
Đôi hàng soi dấu lưu muôn thuở.
Một tấm lòng son tạc sử xanh.
(Cổ thi)
Võ sư Trương Văn Bảo
Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam



Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 14/Nov/2012 lúc 9:06am
mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 29/Nov/2012 lúc 9:01am

MỘT BÀI THUỐC VÕ THẬT HAY

 

            Huy-Tường thân tặng  các bạn yêu mến thể-thao và võ-thuật một bài thuốc rượu thật hay để xoa bóp. Chúng ta chơi thể-thao hoặc tập luyện võ-thuật, có khi cơ-thể bị thương-tổn, hảy dùng bài thuốc nầy để xoa bóp, Đây là bài thuốc Luyện Thiết sa chưỡng mà Huy-Tường đã từng dùng qua. Bài thuốc này còn có thể dùng vào vào những trường hợp khác trầm-trọng hơn, sẽ giải-thích sau.

7) BÀI THUỐC NGÂM RƯỢU LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU : 1. Qui vĩ – 2. Hồng hoa – 3. Nhủ hương – 4. Mộc dược – 5. Mộc hương – 6. Chỉ xác – 7. Kiết cánh – 8. Xuyên khung – 9. Đơn bì – 10. Kinh giới – 11. Đào nhơn – 12. Chi tử – 13. Xích thược – 14. Huyết kiệt – 15. Hổ cốt – 16. Trầm hương

CÁCH CHẾ : tất cả 16 vị, mỗi vị 3 chỉ, tán nhuyễn thành bột ngâm chung với hai lít rượu trắng, 7 ngày sau dùng được, càng lâu càng tốt.

CÁCH DÙNG : Trước khi luyện,rót thuốc ra thoa bóp cho nóng hai bàn tay xong mới luyện, sau khi luyện xong cũng hành dược công như thế. Khi nào hết thuốc thì đi bổ thêm thang khác. Luyện công hành dược tữu đúng 100 ngày thì thuốc mới thấm vào tới xương làm xương, gân cốt cứng mạnh vô cùng.



Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 29/Nov/2012 lúc 9:10am
mhth
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2013 lúc 11:44pm

Các bạn đã tập Thái sơn côn, hôm nay tôi xin mời các bạn tập bài BÁT QUÁI CÔN nầy nhé.

Bài 7 - Bát quái côn

đăng 22:54 07-08-2011 bởi Phi Long Hồ

- Tên gọi: Bát Quái Côn.
- Nguồn gốc: Võ Cổ Truyền Việt Nam. Tuy Hoà - Phú Yên.

Người giới thiệu và thị phạm bài Bát Quái Côn ghi băng hình lần thứ I năm 1995 tại TP.HCM là Võ sư Trương Hùng. Đơn vị Phú Yên.

Người thị phạm bài Bát Quái Côn ghi băng hình lần thứ II năm 2001 tại Khánh Hòa là Võ sư Trương Hùng. Đơn vị Phú Yên.

Người thị phạm bài Bát Quái Côn ghi đĩa hình lần thứ III năm 2007 tại Hà Tây là Võ sư Nguyễn Hưu Phước. Đơn vị TP.HCM.

Bài Bát Quái Côn được bình chọn trong Hội nghị chuyên môn VTCT toàn quốc lần thứ III năm 1995 tại TP HCM.

 

I. Lời thiệu

 

A. Nguyên văn

    1. Phát bản linh thủ, xà vương khai môn

    2. Long du điền hải, điểu thủy đăng thiên

    3. Xuyên sơn định trận, nhất tướng ngũ môn

    4. Bát quái đồng thần, lưỡng kê linh thủ

    5. Vạn phụng như hoa, bát phương loạn xạ

    6. Điểu trá yên phi, thạch thân xuất thế

    7. Lão tôn loạn đả, tứ tướng hồi môn

    8. Triều bàn bát quái, độc giác chiến xa

    9. Bạch xà môn trận, đơn phụng triều dương

    10. Kim thương trá thủ, phi sa yên thạch

    11. Hoành sơn mạng nhện, thần ngư vũ thủy

    12. Trung hải nhất trụ, độc linh yên bái

    13. Bái tổ sư, lập bộ như tiền.

B. Chú giải

1.Đưa roi giơ tay, rắn chúa mở cửa

2.Rồng chơi ruộng biển, chim nước lên trời

3.Qua núi xem trận, một tướng giữ năm cửa

4.Tám cõi có đồng thần, tay lành giữ kê

5.Muôn phụng như hoa, tám phương loạn bắn

6.Chin giỡn khói bay, người đá ra đời

7.Lão Tôn joạn đánh, bốn tướng về cửa

8.Nhìn khắp tám cõi, chiến xa một sừng

9.Rắn trắng trận rồng, một chim phượng nhìn mắt Trời

10.Thương vàng trao tay, cát bay khỏi đá

11.Núi ngang có màng nhện, cá thần mưa nước

12.Giữa biển một cột, một luồng như khói

13. Bái tổ sư, đứng bộ như đầu.

C. Phú nôm

Tay cầm một chiếc roi linh.
Xà vương mở cửa bước lên diện tiền.
Rồng chơi ruộng muối thủ liền.
Như bầy vịt nước bay lên lưng trời.
Qua non nhìn trận hẳn hòi.
Một mình xông trận phá thời năm môn.
Thần đồng tám cõi đứng trông.
Tay linh cầm gậy thẳng xông trận tiền.
Côn loan phụng ngả hoa nghiêng.
Tám phương quyết chiến ra liền thần oai.
Tựa hồ chim giỡn khói bay.
Thân hình đá tạo từ ngày thoát ra.
Lão Tôn tên đặc ai qua.
Tướng trời bốn cửa đuổi mà hồi cung.
Bàn đào bát quái lướt xông.
Chiến xa độc giác cũng không nhằm gì.
Bạch xà xông trận càng nguy.
Triều dương đơn phụng tức thì phá ngay.
Thương vàng đã được đổi tay.
Trận đồ đá dội cát bay sá gì.
Hoành sơn mạng nhện khá nguy.
Thần ngư phun nước tức thì giặc tan.
Biển khơi một cột dựng sang.
Mới hay linh vật thiên quang tựa vào.

 

Người dịch: Lão võ sư Phạm Đình Trọng - Lâm Đồng
Hội nghị chuyên môn VTCT toàn quốc lần thứ III – 1995

 

II. Kỹ thuật của bài quyền

 

    1. Tấn pháp

    - Trung bình tấn- Đinh tấn- Trảo mã tấn- Xà tấn- Hổ tấn- Hạc tấn- Lập tấn

    2. Cước pháp

    - Kim tiêu cước

    3. Côn pháp

    - Đập- Đâm- Bẫy- Vớt- Đỡ- Chặn- Loan- Quét- Ém.

 

III. Điểm dừng kỹ thuật của bài- Thời gian thực hiện

 

    1.Vạn phụng như hoa

    2.Tứ tướng hồi môn

    3.Thần ngư vũ thủy

             - Điểm dừng ở cuối các câu thiêu,thời gian dừng cho mỗi động tác không quá 03giây.

             - Thời gian thực hiện kỹ thuật toàn bài-tính cả thời gian dừng là 01 phút 20 giây.

 



Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 04/Feb/2013 lúc 10:47pm
mhth
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 14/Feb/2013 lúc 7:54pm
 
 
Vừa mới đọc được bài nầy xin gởi lên đây và mời hai bạn Huy Tưởng và Hoàng Ngọc Hùng xem.

 

Độc xà thám nguyệt

 
Đó là thế võ độc đáo mà võ sư Phan Thọ đã sử dụng để ba lần hạ gục các cao thủ taekwondo đến từ Hàn Quốc.



Lão võ sư năm nay đã 87 tuổi, sống ở xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, Bình Định. Thấy chúng tôi tò mò về Độc xà thám nguyệt, ông chậm rãi giải thích bằng chất giọng Bình Định không lẫn vào đâu được: “Độc xà thám nguyệt hiểu nôm na là một con rắn ngóc đầu lên dòm (nhìn) trăng, đó là tuyệt chiêu mà tui đã dày công khổ luyện từ thời trai trẻ”. Nói xong, ông dẫn chúng tôi ra trước hiên nhà, nơi vẫn còn dấu tích một trận so tài kỳ lạ.
 
 
Lão võ sư Phan Thọ - ẢNH: ĐÀO TIẾN ĐẠT
Năm 1998, khi võ sư Phan Thọ đã 73 tuổi, có một đoàn khách từ Hàn Quốc đến thăm. Trong đoàn có một cao thủ taekwondo mới ngoài 30 tuổi. Qua người phiên dịch, võ sư Phan Thọ được biết anh người Hàn kia có ý chê võ cổ truyền Việt Nam chưa đẳng cấp, nên ông tự ái. “Nói thấy ghét nên tui phải trổ nghề”. Mọi người can ngăn vì võ sư tuổi đã cao, lỡ có chuyện gì thì không hay nhưng ông đã quyết.
Khoảnh sân trước nhà là nơi tỷ thí. Hai đối thủ, một già một trẻ vừa chào sân thì anh chàng người Hàn đã tung ngay một cú đòn chân sấm sét. Võ sư Phan Thọ hụp đầu xuống né cú đá. Vẫn còn đà, bàn chân đi giày của anh kia vung thẳng đến cây cột trước hiên nhà, kêu đánh rầm một tiếng, cả căn nhà cũ như rung rinh muốn sập, còn cây cột xi măng thì bị rạn nứt.
Cú đá kinh hồn này chưa xong thì đã đến cú đá khác. Đợi cho đối thủ vung chân lên thật cao, võ sư Phan Thọ lẹ làng rùn người xuống thấp rồi dùng toàn lực của cơ thể tập trung vào phần đầu, húc mạnh vào bụng dưới của anh ta. "Độc xà" đã "thám nguyệt"! Anh chàng người Hàn bị húc bay lên cao rồi rơi cái ịch xuống sân gạch, không nhúc nhích, mọi người phải khiêng lên ô tô. Tỉnh lại, anh ta thừa nhận đã nhận định sai về võ cổ truyền Việt Nam.
Lão võ sư chỉ tay vào cột nhà bị nứt, nơi vẫn còn in dấu giày của một cao thủ taekwondo - ẢNH: TÂM NGUYỄN
 
 
Trước đó, cũng với tuyệt chiêu Độc xà thám nguyệt, võ sư Phan Thọ đã hai lần hạ gục các cao thủ taekwondo khác. Những năm chiến tranh, Bình Định là địa bàn đóng quân của Sư đoàn Mãnh Hổ, Đại Hàn (Hàn Quốc ngày nay). Biết ông có võ, một sĩ quan Mãnh Hổ đến nhà cà khịa thách đấu, nói rằng ông mà thắng thì viên sĩ quan này sẽ cho ông một rổ lựu đạn để đi đánh cá trên sông Côn. Ông nhận lời, không phải vì rổ lựu đạn mà vì tự ái dân tộc. Ông nói: “Tui học võ là để bảo vệ mình và giúp người, không hề có ý định đánh nhau với ai, nhưng hễ kẻ nào chê võ cổ truyền Việt Nam là tui chịu không được, phải oánh”.
Địa điểm thi đấu là một khoảnh đất rộng tại thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn). Vào trận, ông để cho viên sĩ quan kia thoải mái tung chân còn ông liên tục né đòn, rồi bất ngờ tung ra tuyệt chiêu Độc xà thám nguyệt. Viên sĩ quan đổ gục như cây chuối bị một cây đao sắc phạt ngang lưng.

Nhưng vang dội nhất là trận võ sư Phan Thọ thắng một ngũ đẳng huyền đai taekwondo tại Pleiku (Gia Lai) vào quãng năm 1971 - 1972. Lần ấy, nhân Giỗ tổ Hùng Vương, đoàn võ thuật Bình Định do võ sư Hà Trọng Sơn (người được võ lâm tôn vinh là Hùm xám miền Trung) dẫn đầu lên biểu diễn võ. Trong những người xem có một thiếu tá của Sư đoàn Bạch Mã, Đại Hàn. Ra mặt coi thường, viên sĩ quan này đã rủ các võ sĩ Bình Định đánh nhau, xem võ nào hơn. Phan Thọ được mọi người đề nghị nhận lời thách đấu.
 
 
Lão võ sư Phan Thọ đang truyền nghề cho cháu nội - ẢNH: TÂM NGUYỄN

Lúc ấy, sàn đài đã tháo dây. Võ sư Phan Thọ chỉ 58 kg còn viên sĩ quan kia to cao, nặng trên 80 kg. Mới xáp vô là đối thủ động thủ liền, không thèm chào sân. Biết được thế mạnh của taekwondo là các đòn chân, võ sư Phan Thọ cứ để viên sĩ quan ra chân thoải mái. “Anh ta tung chân vun vút chừng mấy chục cái thì tui sử dụng chiêu Độc xà thám nguyệt. Anh ta ngã dập mặt xuống đất, máu chảy nhiều, nên xin ngừng trận đấu”, võ sư Phan Thọ kể lại.

Cuộc đời của lão võ sư Phan Thọ không chỉ là mấy trận tỷ thí kể trên mà còn nhiều giai thoại khác. Ví dụ như lần đánh nhau với con heo rừng nặng trên 200 kg để bảo vệ dân làng. Là người thông thạo 18 loại binh khí cổ truyền, ông dành cả cuộc đời để học và nghiên cứu võ. Giờ tuổi đã cao, nhưng ông vẫn nhận lời truyền dạy võ cho một đơn vị đặc công của quân đội.
 
 
Biểu diễn một thế võ cổ truyền - ẢNH: ĐÀO TIẾN ĐẠT

Nhớ lại chuyện hồi trẻ đã từng bán bò của vợ đi học võ, ông cười vang: “Nhà có hai con bò, tui nói với bả bán bớt một con để tui học võ. Vậy là bả vui vẻ nói bán luôn hai con để anh học cho giỏi”.




Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 14/Feb/2013 lúc 8:01pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 3 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.338 seconds.