Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh
Message Icon Chủ đề: SA GIANG TRẦN TUẤN KIỆT Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Chủ đề: SA GIANG TRẦN TUẤN KIỆT
    Gởi ngày: 30/Mar/2008 lúc 10:23pm

Sa Đéc không xa Gò Công, đất và người ở đây cũng nhiều điều độc đáo và nhà thơ Trần Tuấn Kiệt là một trong số đó. Có lẽ Bùi Ngọc Tuấn là một trong những người yêu quý và hiểu biết về Sa Giang Trần Tuấn Kiệt hơn cả.

__________________________________
 
 

Trần Tuấn Kiệt, mây phiêu du

 



Tóc bay khuất giải Ngân Hà
Tuyệt vời thấm mộng, đêm là đêm xưa



Một buổi tối cuối năm - đâu đó vào năm 1965, 1966 - trong sân trường Đại Học Văn Khoa, vắng lặng, yên tĩnh ngay giữa những ồn ào của trung tâm thành phố Saigon đang chờ đón Tết, Trần Tuấn Kiệt vời tay lên vầng trăng đọc cho tôi nghe hai câu thơ tuyệt vời ấy.


Kiệt đọc xong, đứng im lặng. Tôi đứng im lặng. Hồi lâu. Bởi vì không còn gì để nói vào lúc đó. Bởi vì không có gì nên nói vào lúc đó. Những câu thơ ngân vọng mãi đến bây giờ. 40 năm sau.

Tôi quen Trần Tuấn Kiệt một cách tình cờ, khi anh đến trường Đại Học Văn Khoa tìm Phạm Quốc Bảo. Chúng tôi đi uống café ở góc đường Gia Long và Nguyễn Trung Trực, trước cổng trường Văn Khoa, rồi thân với nhau từ đó. Không ngày nào không đi lang thang với nhau, nhiều hôm cả sáng, cả chiều, cả tối. Trần Tuấn Kiệt thủa ấy có một cái xe velo solex, tôi đi một cái xe mobylette. Tôi thường chở Kiệt trên cái mobylette đó. Nơi chúng tôi lang thang là hè phố Saigon, những hành sách cũ, những quán vỉa hè. Cả hai đứa ít khi nào vào La Pagode ngồi, hình như vì cái phong thái giang hồ của hai đứa ít hợp với nơi 'bàn cao, cửa kính' ấy. Quán café, quán ăn vỉa hè là nơi hai chàng 'tọa thị' hàng giờ. Ngoài việc làm thơ, Kiệt không làm gì cả. Còn tôi thì đi học như đi chơi. Đầu năm đến ghi danh rồi mỗi ngày đến trường gửi xe, xong ra quán café ngồi, cuối năm đi thi. Hai đứa tôi có nhiều thì giờ hơn ai hết, ở Saigon lúc đó.

Trước đây, khi viết về Nguyễn Đức Sơn, tôi có nói rằng: '…ở Việt Nam tuy có rất nhiều người làm thơ hay, nhưng chỉ có ba người thật sự sống cuộc đời thi sĩ, họ và thơ là một, ngoài thơ ra họ không có gì khác, không còn gì khác, không muốn gì khác, không là gì khác. Sơn là một, hai người kia là Bùi Giáng và Trần Tuấn Kiệt…’ Quả tình ngoài thơ ra, Kiệt không làm gì cả, không có gì cả. Hình như khi viết về Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền có nhắc lại lời Khổng Tử nói về Lão Tử (trong Nam Hoa Kinh) để ví Bùi Giáng như là một 'con rồng'. Nếu Bùi Giáng như ‘rồng’ thì tôi thấy Trần Tuấn Kiệt như một 'vầng mây trắng', bay lang thang vô định. Vầng mây trắng không làm gì cho trời, cho đất. Nhưng đất trời sẽ không còn là đất trời nếu thiếu đi những vầng mây phiêu du khắp chốn ấy.

Hãy đọc mà nghe:


Nai
Lên theo đỉnh núi mơ màng
Một con nai đứng vọng ngàn trong sương
Vách cao đá dựng trăng buồn
Tơi bời tiếng lá, mưa luồng lũng sâu
Gót thầm nai tếch ngàn thâu
Nhân gian nghe cũng vọng sầu bao la



Mới đọc lần đầu, nhạc điệu, âm hưởng man mác của bài thơ làm ta bâng khuâng. (Như tiếng hòn sỏi vừa ném xuống hồ nước). Đọc lại những lần nữa, những ý tình tiềm ẩn thấp thoáng ẩn hiện, chợt vang vọng lên, ngân dài bất tuyệt (như những vòng sóng lan ra trên mặt nước lặng). Thơ Trần Tuấn Kiệt như thế. Và hãy đọc thêm vài bài khác:


Mùa vu lan
Mộng vàng ai thếp màu son nhạt
kiếm khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
Em đẹp còn đây dáng mỹ nhân
Tây Thi gái Việt sắc mê hồn
ta say tình sử thương thiên cổ
mấy nếp lâu đài rộn gót son
Ấy ai cưỡi ngựa chơi vườn cũ
khua trống chiêng xưa bóng chập chờn
kìa xem trăng mộng thành thiên cổ
hoa lá vin cành điệp dưới thôn
Em đi lễ Phật Vu Lan mới
dạo chùa lễ Phật nức hương sen
cho anh gởi chút tình ân ái
về dưới Phật đài vui với Em


Tượng
Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian


Bến ngựa
tặng Bùi NgọcTuấn

Khi xưa ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hồ
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn


Em còn hái trái
tặng Phan Bá Thụy Dương

Em còn hái trái bên cây
Vết son mùa để dấu hài đầu tiên
Loi choi bước nhảy chân chim
Gió tan mây tụ đảo điên hồn người
Em còn hái nữa hay thôi
Vết tay chín móng đã mười yêu thương
Phiêu-du trở bến trong vườn
Một giòng nước thẳm bên nguồn em đang…
Vườn chim trái mộng hoa vàng
Nửa đêm trăng cũng huy hoàng bên em


Quê hương
tặng PhươngTriều

Lòng ta vì quá đỗi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên đường
Bến khuya Sa đéc trăng mười sáu
Mấy độ chìm theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân quy
Nàng hát ta nghe hát những gì?
Tóc xõa bốn trời trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát nữa nàng ơi! não bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng trường giang lạnh đến trời



Từ thời còn rất trẻ, vào thập niên 1950, Trần Tuấn Kiệt đã xuất hiện trên ‘Văn Hoá Ngày Nay’ của nhà văn Nhất Linh. Ngay từ bài thơ đầu tiên trong đời được đăng báo, Kiệt đã được trả tiền nhuận bút, khá hậu hĩnh. Cái tên Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ngay từ buổi đầu đã có chỗ đứng riêng biệt, vững vàng trong thi đàn Việt Nam.

Tiếng thơ Trần Tuấn Kiệt đầy những âm vọng của thơ Lý Thương Ẩn và Đỗ Phủ, thêm vào đó là những ngậm ngùi, mênh mang của giòng thơ lục bát nói về những u sầu của lòng người mà ngàn năm cứ trầm vang những nỗi niềm của cuộc phù sinh. Ngoại trừ tập ‘Triều Miên Ngâm Khúc’ nói về những đớn đau của một người cha mất con, nhìn vào cuộc đời đầy sinh ly tử biệt; Những tập khác như ‘Nai’, ‘Cổng Gió ‘, ‘Thơ Trần Tuấn Kiệt’, ‘Em Còn Hái Trái’, ‘Lời Gởi Cây Bông Vải’ … là những tiếng lòng u hoài miên viễn trước kiếp người hữu hạn giữa giòng thời gian bất tận, và của đời người trầm luân trong một thời ‘Xuân Thu mới’ nhiễu nhương không khác gì thời Xuân Thu trong cổ sử. Trần Tuấn Kiệt không có những loại thơ tình của những tình nhân bình thường, như ta thường thấy trong thơ tình của những thi sĩ lừng danh khác. Không có những đắm say nồng nàn, không có những đáng cay, quằn quại. Chỉ có những mối sầu miên viễn, sầu tình hòa cùng sầu đời, man mác, ngậm ngùi. Thơ tình của Trần Tuấn Kiệt không bao giờ có những lời tỏ tình trực tiếp, mà luôn luôn là những ẩn dụ và mối sầu tình cũng luôn luôn hòa với mối sầu thiên cổ.

Ngôn ngữ Trần Tuấn Kiệt giản dị mà chở đầy những hình ảnh dù man mác mà thê thiết, trong một nhạc điệu trầm ngân như một tiếng thở dài. Tình yêu quê hương Việt Nam, yêu tiếng Việt vốn tràn ngập trong thơ văn Trần Tuấn Kiệt, nhưng ngắn gọn, rõ ràng và quyết liệt nhất là trong quyển ‘Tiếng Đồng Nội’, với vài giòng bố cáo đơn sơ ở đầu sách, đại khái là: cấm dịch ra bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa là phải người đọc phải đọc cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Việt Nam

Kiệt viết rất nhiều, thơ, truyện ngắn, truyện dài, biên khảo (‘Tác Giả, Tác Phẩm’, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại’ dày hàng nghìn trang…., nhưng thơ vẫn là thể loại chính, hàng 5, 7 nghìn bài trong 50 năm qua.

Thủa đó, nơi hai chàng lãng du là những quán vỉa hè. Ngồi trên những chiếc ghế đẩu thấp sát đất. Uống những ly rượu đế nhỏ. Nhắm những con khô mực nướng thơm. Kiệt thường nói: 'tao nghèo mà vui'. Nghèo thì cũng đúng, nhưng vui thì đúng hơn. Tôi cho rằng trên đời này chỉ có một mình Trần Tuấn Kiệt là không biết buồn, biết lo. Những nỗi buồn, lo của sinh kế, của đời sống hàng ngày, của mọi người. Kiệt hồn nhiên như một đứa trẻ. Chỉ biết có thơ và rượu mà thôi.

Một buổi chiều tối, trong lúc đang ngồi uống café ở bên lề đường Lê Thánh Tôn, Tôi rủ Kiệt đi ăn tối. Kiệt không chịu, nhất định kéo tôi về nhà ăn cơm. Nhà Kiệt thời đó ở trong một ngõ hẻm nhỏ trên đường Phan Đình Phùng, gần chợ Vườn Chuối. Căn nhà hẹp hơn một căn phòng của người khác. Rộng chừng 2 thước, sâu chừng 4, 5 thước. Phòng khách là một cái bàn nhỏ với hai cái ghế. Phòng ngủ (và cũng là phòng ăn) là một cái giường. Sau một bức vách ngăn là nhà bếp nhỏ. Trên vách nhà treo đầy tranh của những họa sĩ hàng đầu thời đó (Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề…) tặng cho Kiệt. Đó là nơi hai vợ chồng Kiệt và cháu gái nhỏ sống (Lúc đó cháu Trần Triều Miên - con đầu của vợ chồng Kiệt đã gặp nạn, qua đời).

Về tới nhà Kiệt bảo vợ: 'anh Tuấn ăn cơm tối với tui'. Nói rồi, Kiệt kéo tôi xuống bếp khoe gà. Kiệt ham mê gà chọi. Anh có thể đói, nhưng gà phải no, phải có rượu bóp. Kiệt mở bu, bế gà ra vuốt ve hồi lâu. Hãnh diện nói với tôi: 'mày thấy con gà này ngon không, đá vô địch'. Tôi biết gì về gà đá… Cười. Vợ Kiệt dọn cơm lên giường. Một niêu cơm nhỏ, một nồi cá kho nhỏ. Trong nồi chỉ có một con cá kho, trắng, to bằng 4 ngón tay. Nồi cơm được chừng 2 bát lớn, 3 bát nhỏ. Vợ Kiệt bế con đi, chừng 5 phút sau chị trở về với một ca sắt đầy bia. Kiệt với tôi chuyền nhau ca bia, uống. Vợ Kiệt bế con, đứng nhìn chúng tôi ăn, mặt cười rặng rỡ. Tôi chợt biết rằng mình đang ăn phần cơm của chị. Lòng đau thắt.

Kiệt làm thơ rất tức cười, gặp tờ giấy nào cũng viết lên đó, nào là tờ lịch, bì thư, bản vỗ… Viết xong bài thì bỏ vào một cái sọt tre lớn treo trên vách, kế cái bàn nhỏ tiếp khách. (Sau này nhớ lại, tôi mới thấy là trong nhà không có tủ, mà chỉ có vài ba cái sọt treo trên tường đựng đồ dùng. Cái sọt treo ở phòng khách là để đựng thơ). Những tờ báo hỏi xin bài, thì Kiệt quơ tay vào trong sọt, lấy ra dăm bảy, bài đưa cho họ. Kiệt làm thơ gần như không sửa đổi bao giờ. Thơ viết ra giấy là xong rồi. Hình như thơ đẵ nằm trong đầu hàng loạt, hàng mươi bài mỗi lần. Có sửa gì, thì sửa trong đầu, chứ đã viết ra giấy là xong rồi. Không nghĩ đến nữa. Tuy thế, mỗi bài thơ là một hoàn chỉnh. Không thể sửa gì nữa. (Cũng giống như cách Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn làm thơ). Ba ông này quả thật là kỳ tài.

Trần Tuấn Kiệt là một cao thủ của trường phái Tây Sơn Nhạn. Có thời anh dạy võ. Một hôm tôi bảo Kiệt chỉ cho một vài ngón để phòng thân. Kiệt nói: 'mày không học tới nơi mà chỉ biết vài thế, tụi nó đánh chết'. Nói rồi anh bảo tôi khi sắp đánh nhau thì tay trái chống vào cạnh sườn, tai phải nắm lại, nhưng ngón trỏ thì thẳng ra chỉ chỉ vào mặt đối phương mà tiếp tục cãi, rồi bất thình lình cụp ngón trỏ lại, đấm ngay giữa trán đối phương, trước khi bỏ chạy. Cái cú giả vờ cãi rồi lừa địch thủ mà đấm trước rồi chạy này tôi chưa có dịp thử, nên không biết hiệu nghiệm ra sao.

Một buổi tối kia. Hai đứa tôi vào hiệu ăn Chung Nhuận Hy (ở góc đường Công Lý - Lê Thánh Tôn), ngồi ở một bàn ngay bên lề đường, không gọi món ăn, mà chỉ uống 2 ly café bí-tất, mặc chủ hiệu lườm nguýt. Kiệt nói chờ lát nữa vào nhà sách Khai Trí lấy tiền nhuận bút. Đến 7 giờ rưỡi, mà Kiệt vẫn không chịu đi. Nói chờ đến 8 giờ, nhà sách đóng cửa mới gặp ông Khai Trí. Chúng tôi đến đó lúc Khai Trí đang sửa soạn đóng cửa, đang đếm tiền. Kiệt hỏi tiền bản quyền cuốn sách. Ông Khai Trí trả cho Kiệt hai ngàn - rẻ mạt. Chúng tôi đi về, Kiệt chia xấp tiền ra làm hai. Lật bọc yên xe Solex lên dấu xuống đó một phần, nói là để mang về cho vợ nuôi con. Còn một phần bỏ túi dắt tôi vào quán nhậu. Ăn nhậu hồi lâu, Kiệt bỏ tôi ngồi đó, đứng dậy đi ra ngoài chừng mươi phút. Khi trở vào gọi thêm rượu, thêm món ăn. Hai thằng say tuý luý. Ăn nhậu xong còn rủ đi uống café. Tôi bảo Kiệt đi về đưa tiền cho vợ. Kiệt nói tỉnh queo: 'hồi nãy tao ra lấy để trả tiền nhậu hết rồi'. Tôi lạnh người, tỉnh hẳn rượu nhưng càng choáng váng. Viết một quyển sách mất rất nhiều thời giờ, tim óc, nhà xuất bản trả không được bao nhiêu, vậy mà không mang về cho vợ lấy được một nửa, dắt bạn đi nhậu hết. Có ai như ông trời này?

Ông Khai Trí còn nắm trọn bản quyền của hơn chục cuốn tiểu thuyết Kiệt viết, mỗi quyển trả vài ngàn bạc mà chỉ có đôi ba cuốn được in. Độc giả không bao giờ được đọc những quyển kia. Trong 40 năm nay tôi vẫn tự hỏi nên khen hay nên trách ông Khai Trí. Ông đã mua rẻ bản quyền cất tủ, hay ông đã tìm cách giúp nhà văn nghèo?

Để có thêm tiền, Kiệt làm cách khác. Thấy tôi có tí vốn chữ Hán, còn mình vốn đã giỏi võ, Kiệt bắt tôi chở vào Chợ Lớn, đến những hàng sách bên đường của người Tàu, tìm mua sách dạy võ. Gặp quyển nào có hình người khoa chân múa tay cũng cầm lên hỏi tôi 'quyển gì đây?'... Cứ vài ngày chúng tôi lại mua được đôi ba quyển. Khi thì Thiếu Lâm, khi thì Võ Đang… Chúng tôi lại về khu trường Văn Khoa cũ, tôi ngồi uống café dịch miệng cho Kiệt nghe, từng thế đánh, thế đá. Nhiều chữ không rành, vậy mà Kiệt nhờ giỏi võ biết ngay và hiểu rõ. Sau đó anh dựa trên những quyển sách này mà viết một lô sách dạy võ. Bán rất chạy. Kiếm được tiền nuôi gia đình. Tôi cười gần chết.

Tôi rất nhớ và mến đời sống giản dị của Kiệt. Giản dị đến không ngờ, như có lần tôi hỏi Kiệt hồi còn ở Sa Đéc sống ra sao. Kiệt nói: ‘mỗi ngày tao đặt cái lờ ở ngoài mương bắt cá. Buổi sáng ra gỡ lấy 3 con cá lớn nhất. Một con tao đổi lấy một lít rượu, một con tao đổi lấy một lít gạo, nấu cháo, còn con thứ ba tao nướng, rồi ngồi nhậu’. Tôi hỏi tiếp: ‘rồi ngày mai làm sao?’ Kiệt đáp tỉnh queo: ‘mơi làm dzậy nữa!’.

Đời trôi về mỗi hướng. Sau mấy chục năm tôi vẫn là kẻ lãng du ở cuối vườn ảo mộng. Kiệt vẫn là vầng mây trắng, phiêu du giữa đất trời vô định. Đêm nay nhớ lại bạn xưa, lòng dạt dào thương nhớ. Chén rượu đêm mưa đầu mùa thu ở Minnesota xót xa như nước mắt. Năm xưa có viết 2 bài thơ tặng Trần Tuấn Kiệt, như sau:



đêm buồn uống rượu một mình
(gửi Trần Tuấn Kiệt)



nửa đêm nhớ một vầng trăng
chén nâng mời rượu - từng giòng lệ sa
sóng bên này giải ngân hà
thoảng âm tiếng khóc từ bờ bên kia
xuôi giòng tử biệt sinh ly
quê nhà nơi đó mà về được đâu
kể từ dâu biển rời nhau
trăng đêm nay vẫn nguyên mầu cố hương
biết đây là cõi vô thường
mà tâm thể vẫn đoạn trường xiết bao
buồn ơi đầy đọa mãi sao
lòng tươi muối xát - gan bào tái tê
buồn ngồi uống rượu nửa khuya
chén này chưa cạn - chén kia nối tràn
chén sầu dằn vặt tâm can
trăng vàng đêm lạnh lời than não nề
buồn ơi! ta đã làm chi
ta ơi! buồn đã làm gì đời ta



và:

mới ốm dậy đêm nằm nghe mưa [viết gửi Trần Tuấn Kiệt]



đêm khuya không rượu mưa rơi
quạnh hiu bốn cõi - ngậm ngùi tâm tư
nằm im nghe động mái nhà
những năm tháng đã ra ma trở về
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào
tang thương tàn cuộc binh đao
cơ trời sao để nghẹn ngào sử xanh
đêm mưa không rượu buồn tênh
đầm đầm lệ đổ - ý tình héo hon
mưa như đêm ở Saigon
trời se se lạnh theo buồn xa xăm
lòng rung theo tiếng mưa thầm
giơ tay vuốt mặt lặng nằm nghe mưa
giọt sa, giọt nhẹ mơ hồ
giọt dài, giọt ngắn, nghe như giọt sầu
một mình không rượu, đêm sâu
năm qua, ngày hết, mái đầu gió sương
quê nhà mù mịt đôi phương
một mình thương tưởng, sao buồn chứa chan
rượu không, mưa ngớt, đêm tàn
nàm im nghe vọng thời gian nặng nề
rượu không mà tưởng say nhè
tay bưng mặt khóc hỏi quê chốn nào

 

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 30/Mar/2008 lúc 10:31pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2008 lúc 10:35pm
.

Ðêm Xuống Nơi Ngã Tư



Nguyễn thị Hàm Anh



Sau phóng sự Saigon giữa ngọ, tôi muốn viết về Saigon midnight. Không phải đêm của quán bar, phòng trà có thể giống nhiều chỗ khác, như mọi chỗ khác ở các thành phố lớn mà là ngoài vỉa hè, nơi diễn ra các sinh hoạt của thành phố một cách chân thật, gần gụi nhất. Khi tất cả cửa tiệm đã đóng cửa đi ngủ, vỉa hè không nghỉ ngơi vẫn miệt mài cuộc sống của mình. Có điều khuya khoắt quá tôi không dám lang thang lề đường một mình, Saigon midnight mãi vẫn chưa viết được.


Rồi tôi cũng tìm được người thường hay thức cùng đêm sâu. Nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt cư ngụ khu Hàng Xanh, một ngày ông ra ngoài đường bất cứ lúc nào, có lẽ phần vì nhà cửa chật chội, và dù cái nắng giữa trưa miền Nam có chang chang vẫn đỡ khó chịu hơn gian gác nhỏ luôn nóng bức như lò nướng bánh. Sớm uống cà phê đương nhiên, chiều và tối đều ra ngoài. Thậm chí nửa đêm về sáng không ngủ được ông cũng ra quán cóc trầm tư cùng đèn đường và trăng sao.



Tôi ngồi với ông nơi ấy. Vỉa hè Hàng Xanh thật lý tưởng để ngóng đêm thâu vì là đầu cửa ngõ xa lộ ra vào thành phố. Khi mọi nao nức của ban ngày lắng xuống, cuộc sống về đêm lặng lẽ hơn nổi lên những sắc màu chìm đắm. Bà quét rác đi thu tiền góp, xe đò thả người khách xa lỡ độ đường, những cô gái ăn sương trắng phếch mặt phấn, tên cao bồi xấc xược xin mồi thuốc hay đứa bé quỳ gối ăn xin.



Từ đó khám phá ra cái thú ngồi quán, tôi theo nhà thơ đổi chỗ dài dài khắp hàng quán suốt dọc Hàng Xanh, Thị Nghè, không nhà hàng sang trọng hay tiệm nước cửa kính riêng rẽ, tách biệt mà là những nơi hòa lẫn vào giữa cuộc nhân sinh chao đảo. Nhà thơ thường xuyên ngồi đó trầm ngâm nhìn những cảnh đời chung quanh. Ông hút thuốc liên tục và chuyện trò lan man.

Khi tôi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng. Bài thơ đầu tiên tôi xem là Trăng Xuân Thu.



Mai ta về sau núi
Mà cất am tị trần
Vẽ hình nàng trên gối
Ngồi ngắm suốt mùa xuân.



Về sau đọc nhiều hơn tôi mới biết thơ của ông không chỉ đượm nét hào hoa của cổ thi mà còn nhiều khuynh hướng khác: thần bí, hiện thực, tượng trưng. Không phải chỉ thơ tình cảm lãng mạn mà còn các vấn đề xã hội và tâm tưởng. Ông cũng thường xử dụng một thể thơ mới gồm nh?ng câu, nhưng bài thơ ngắn mà một số người lầm tưởng Haiku hay Tanka.



Có một tiếng khua.
Trong hành lang sự sống
Bọt bể trầm tư
hay
Ta vẫn ngồi
KhắÔc tượng đá đời mình
Bên bờ vắng
Một hớp rượu tình người
Ồ ai ôm lấy vai gầy
Hai bàn tay thế kỷ



Bài thơ đầu tiên Tình Trương Chi đăng ở báo Sinh Lực của Ðồng Tân. Sau, ông cộng tác với Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Vui Sống của Bình Nguyên Lộc, Sống, Sóng Thần và hầu hết các báo về văn học nghệ thuật từ 1963 đến 1975. Trần Tuấn Kiệt làm thơ rất nhanh và nhiều. Thơ làm xong ông bỏ đầy lộn xộn trong ngăn tủ!



Mấy tập trường ca chính:



Bài Ca Thế Giới, Trường Ca Ðất đã đăng đoạỳn đầu trong báo Nghệ Thuật của Mai Thảo, Ngôi Ðền Cổ, Triều Miên ngâm khúc là khúc kinh khóc con trù định viết đủ một ngàn câu nhưng đến chín trăm chín chục câu thì ngưng, ông cho đó là ý Trời cuộc đời này không bao giờ được đầy đủ tròn vẹn. Thi phẩm Lời Gửi Cây Bông Vải đoạt giải thưởng Văn học nghệ thuật quốc gia viết về chiến tranh VN lồng trong hình ảnh thần thoại dân tộc. Ngoại trừ thơ tuyển đưa vào hàng chục tập: Hồng Hạc riêng tặng người mẹ mất sớm và nơi chôn nhau cắt rốn, Thơ Trữ Tình, Thái Hằng, Cổng Gióà Lạc Ðạo Thi đang viết hiện nay được hơn hai trăm bài. Nhưng ngày bé thơ giữa thiên nhiên Cồn Tiên đã tạo nhiều kỷ niệm rất quan trọng trong việc hình thành nên các sáng tác chính của ông. Một trong nh?ng kỷ niệm đó là Ngôi đền thiêng. Một buổi gió vi vu trắng xóa vườn bông vải bốn bề hoang vu, ngoài xa sóng vỗ sông dài, nằm nhìn lên mây trắng trên cao, ông thấy không phải bức tranh vân cẩu mà dường vẽ ra hình dáng một ngôi đền vĩ đại, ấn tượng ấy đã trở thành sự ám ảnh mạnh mẽ đi theo suốt cuộc đời ông để hiện diện vào trong nhiều tác phẩm.



Sau này bận nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn ghé ông ngồi quán, vào sớm mai cuối năm mang mang cảm giác bùi ngùi của mùa Ðông, buổi chiều hoàng hôn đỏ ối mặt trời chưa bị nhà cao tầng che khuất, hay đầu hôm trước dòng xe cộ tuôn tràn như thác lũ, tôi nghe ông kể nhiều chuyện về cuộc đời. Thời ấu thơ ở Sa đéc rồi nh?ng tháng ngày lưu lạc đất Saigon. Tôi ngạc nhiên khi biết ông từng học trường Quốc gia âm nhạc khóa I cùng với cô Lê thị Kim Ngôn, vận động viên bóng bàn nổi tiếng một thời và ông Nguyễn văn Ðời, sau này đảm nhiệm chức trưởng khoa âm nhạc dân tộc của Nhạc viện thành phố, là thầy dạy tôi môn đàn tranh. Âm nhạc đã rớt rơi trên cuộc đời lang bạt, chỉ còn sót lại ống sáo từ lâu chủ nhân không còn thổi, cũng không dùng để dạy nữa, treo quên trên tường nhện giăng bụi bám, năm ngoái ông đem tặng nốt cho người bạn thơ mới quen đến nhà. Không biết có phải vì thông thạo các nhạc cụ cổ truyền, vì gắn bó chặt chẽ với quê hương từng bước thăng trầm, nên thơ ông luôn phảng phất lòng hoài niệm, sự ray rứt mãnh liệt và niềm tin yêu vô bờ đối với đất nước và dân tộc.



Tôi tức cười khi nghe kể cây sáo của ông được chế tạo bằng đồng chứ không phải làm từ thân trúc, vì không những chỉ dùng để véo von lên những giai điệu Trương Chi mà đó còn vừa là vũ khí phòng thân. Là môn đồ Tây Sơn Nhạn, một chi nhánh của dòng võ Tây Sơn, ông từng nổi tiếng trong làng võ với bộ đá Bình Sa Lạc Nhạn của Tây Sơn Nhạn và đòn Phá Dao, cũng võ cổ truyền. Vừa giỏi võ, vừa đọc sách võ hiệp thuở nhỏ, nhưng bộ sách quen thuộc thời bấy giờ như Long Hinh Quái Khách, Bồng Lai Hiệp Khách  khiến ông có thể tự đặt ra nhiều chiêu thức thực hành trong đời sống và đưa vào các cuốn truyện võ hiệp của mình, có lúc còn mong muốn trở thành chưởng môn của một môn phái võ thuật tự sáng lập. Một nhà thơ thậm chí đôi khi thượng đài lấy tiền vui chơi với bạn bè và khi cần, có thể thu nhận môn sinh để sở truyền lại các ngón võ.

Cây sáo cuối cùng đã cho đi, nói gì đến thanh âm của đàn nguyệt, đàn tranh. Dẫu sao đó chỉ là những hương vị thêm vào cuộc sống. Chung thủy đến cuối đời, như máu chảy trong huyết quản, như hơi thở tự nhiên, đối với ông, chính là thơ trên bước đường đời không mang nhiều dễ dàng, may mắn. Ông gõ tay lên bàn, ngâm nga quán vắng dưới đèn đường đỏ quạnh phủ lấp ánh trăng non. Giọng ngâm thơ mới sang sảng ngày nào ở chương trình Nghệ Thuật Truyền Thanh và các trường Văn Khoa, Vạn Hạnh cùng Trần Dạ Từ, Ðỗ Quý Toàn, Viên Linh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Tú Kếu... giờ khàn khàn trút vào một thoáng xa xăm.



Em đi chân bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người



Nhiều người nghĩ rằng ông duy nhất chỉ làm thơ. Thật ra ông lăn lộn trong nghề báo suốt từ năm 1963 đến 1975 với rất nhiều báo chí bấy giờ: Sống, Liên Minh, Phổ Thông, Dân Ta, Sân Khấu... Ngoài thơ và biên khảo thơ là sở trường, ông còn viết khoảng hai trăm cuốn truyện kiếm hiệp, dã sử tình cảm ký Lan Sơ Khai, Xuân Thu, Hồng Lĩnh Sơn..., sách võ thuật lấy tên Hồng Lĩnh, Phi Long, Ðại Tâm. Sách về tư tưởng dưới bút hiệu Việt Thần, Duy Thức, Việt Hoàng, không kể một số truyện: Tiếng Ðồng Nội, Sa Mạc Lan Dần, Mê Cung, Màu Kỷ Niệm... Trong đó Tiếng Ðồng Nội là tác phẩm mang tính độc đáo của văn chương Nam bộ đặc trưng. Vào khoảng thập niên 70, ông còn chủ trương nhà xuất bản Hồng Lĩnh với Mặc Tưởng, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn chủ yếu in các tác phẩm của mình và bè bạn. Sau này, lúc bắt đầu mở cửa, có thời gian sách kiếm hiệp trở lại bán chạy, ông viết đều đặn cứ mỗi đêm năm mươi trang truyện, sáng ra có người đến lấy bản thảo trao lại năm trăm đồng. Riêng bộ Thần Đạo mà tư tưởng xuyên suốt tác phẩm các loại từ trước đến giờ không nhằm viết chạy gạo, mà chính là tâm huyết cuối đời dốc kiệt sức lên trang giấy trắng.



Còn chút hơi tàn với bóng đêm
Máu rơi ba giọt dưới chân thềm



Văn thơ là vậy, ám vào người cầm bút không buông tha, một đời hiến cho nghiệp ấy, bởi vì ngoài viết lách, ông không thể mưu sinh bằng bất kỳ công việc nào khác. Ông viết mê mải cho tới khi không còn ngồi vững, nhiều lần quỵ ngã lâm ngọa bệnh. Không dùng máy chữ hay vi tính, ông miệt mài trên từng xấp bản thảo dày cộm. Lãng du trong cõi thơ thật xa lạ với những giới hạn của đời thường, ông luôn luôn đẩy nh?ng đam mê của mình đi đến chỗ tận cùng. Không quan tâm đến tiện nghi vật chất và coi nhẹ thói thường, ông thông thạo thú nuôi chim, đá gà, trồng hoaà và chén trà tịch mặc, ly rượu ngả nghiêng, và gởi trọn niềm say đắm tới những nàng thơ. Ông sống thật ngang tàng bạt mạng, cũng thật dễ mềm lòng, cả tin, không màng lưu giữ chút gì riêng tư cho bản thân, ông phóng khoáng cùng bằng hữu và tấm lòng luôn trải rộng chẳng chút nghi hoặc với nhân gian.

Những năm tháng vui vầy bè bạn đã trôi qua, chìm vào ký ức. Rồi đến quãng thời gian dài khốn khó chung như mọi người. Dòng thơ không vì thế mà ngưng chảy. Ông và thơ chỉ là một. Vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ, tất cả đều thể hiện qua vần điệu.



Giang hồ luân lạc tuổi xanh
Càn khôn rượu chuốc năm canh một hồ
Ðầm đầm máu lệ chưa khô
Trăng thiên thu rạng cõi bờ bể dâu



Là người có tư tưởng, ông dành ra nhiều năm soạn thảo bộ Ðại Việt Thần Ðạo, bản thảo đồ sộ viết tay đóng lại thành mười lăm tập dày. Tác phẩm có tham vọng đề ra một tôn giáo, một triết thuyết đặc biệt riêng cho dân tộc Việt đi từ cội nguồn Thần minh của Việt tộc tự xa xưa trong huyền sử, thần thoại đến hiện đại. Vượt lên sự thở than, chán nản mặc thời gian hoài phí trôi qua hoặc lẩn tránh trước những biến cố gai góc, thách đố như nhiều ngườii cùng cảnh ngộ, cho đến bây giờ dù mái tóc ngả sương, sức khỏe đã hao mòn, ông vẫn giữ được tính cách mạnh mẽ không hề biết đến xuôi tay. Cây bút vẫn cứng cỏi trong tay ông.

Và từng đêm lại xuống không nguôi khắc khoải, ông vẫn thao thức giữa ngã tư đời giao nhau nghìn nỗi nước non. Bình yên là điều không bao giờ Thượng đế trao đặt nơi tâm hồn ông, niềm ưu tư hằn rõ trên gương mặt. Nhưng cùng lúc, điều ân phúc cũng do Thượng đế trao tặng bất biến theo thời gian, khiến nhà thơ không trầm luân theo đời mọn mà thong dong trên nghìn trùng hoa lá, chính là tình yêu gửi ngườii mãi mãi nồng nàn.



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 30/Mar/2008 lúc 10:39pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.127 seconds.