Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: Một thoáng quê hương Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Admin
Admin Group
Admin Group


Tham gia ngày: 01/Jan/2006
Thành viên: OffLine
Số bài: 199
Quote Admin Replybullet Chủ đề: Một thoáng quê hương
    Gởi ngày: 02/Jun/2007 lúc 12:53am

Một Thoáng Quê Hương

                          Nguyễn Văn Bá

 

THAY LỜI MỞ ÐẦU

            Ðầu năm tháng 3 năm 2004 tôi về thăm quê hương Việt Nam.  Chuyến đi lần này chỉ có 3 tuần. Mục đích chánh là dự đám giổ của Mẹ tôi và in cuốn sách Danh Ngôn Anh Ngữ. Vớ ít  thì giờ còn lại tôi đi tìm hiểu thêm về di tích lịch sử nơi sinh quán Gò Công. Anh Nguyễn Văn Duy, nguyên hiệu phó Trung học Trương Ðịnh, đã nhiệt tình chở tôi xuống Gia Thuận thăm đền thờ Trương Ðịnh và Ao Vinh, và sau đó đưa tôi về Tân Tây thăm Giồng Tháp cổ kính. Và anh còn tặng một số tư liệu đánh máy về miếu thờ Trương Ðịnh, di tích mộ nghĩa quân Trương Ðịnh, Ao Vinh, tiểu sử bà Trần Thị Sanh, và bản đồ Gò Công trước năm 1975. Thay lời mở đầu cho bài ký sự du lịch này, tôi chân thành cám ơn sự giúp đỡ tận tình của anh Duy trong việc nghiên cứu lịch sử quê hương Gò Công.

 


LŨY PHÁO ÐÀI VỚI SÚNG THẦN CÔNG

Pháo Ðài và Cù Lao Lợi Quan là hai địa danh hiện diện trong ký ức của tôi từ thời học sinh.  Làng tôi Tân Ðiền có một số người qua lại  bên vùng Pháo Ðài để là nghề cá. Làng tôi kế bên làng Tân Thành. Hai làng điều nằm dọc theo bờ Biển Ðông. Bên kia sông Cửa Tiểu là Cù Lao Lợi Quan. Phần cực đông của cụ Lao hay Ðất Mũi có một duy tính lịch sử gọi là Lũy Pháo Ðài mà dân địa phương gọi là Lũy Trương Ðịnh. Nhiều bến đò đưa khách từ Gò Công qua Cù Lao như Tân Long, Bến Chùa và Ðèn Ðỏ. Bến đò gần Lũy Pháo Ðài nhất là bến Ðèn Ðỏ. Dân địa phương cho biết, phải chờ nước lớn mới có đò. Ðò Bến Chùa tuy xa hơn nhưng có nhiều chuyến qua lại liên tục.

            Sáng ngày 18 tháng 3, tôi và người em út đi xe máy từ Cầu Huyện, thị xã Gò Công, vô bến đò Bến Chùa. Nắng lên, ít gió, dòng sông ít sóng, đò qua sông Cửa Tiểu thoải mái, mất nửa giờ. Lên bờ, chúng tôi quẹo trái, lần theo con đê mới đấp cao và rộng chạy về hướng Ðông nơi có rừng cây xanh thẳm, xa mút mắt, mà theo lời chỉ dẫn của khách hàng đi đường, đó là Lũy Trương Ðịnh.  Ðầm lầy hoang vu với cỏ bưng, bụi rậm và rừng lá dầy đặc trước kia không còn nữa, nay đã trở thành đất đai phì nhiêu và giá trị. Chúng tôi cố vượt qua con đường gồ ghề và quanh co dài độ 12 cây số dưới nắng trưa gây gất giữa tháng Ba. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại hỏi thăm đường. Ðến chợ Phú Thạnh, gần bến đò đi Bình Ðại, chúng tôi quẹo lên hướng Ðông Bắc và gặp bến đò đi qua Ðèn Ðỏ. Sau khi qua cầu của con rạch thông ra biển, cách đó không xa, chúng tôi theo bờ ruộng nhỏ quanh co độ 500 mét, len qua vài cái nhà lá có vườn mãng cầu chen lẫn bụi rậm và cỏ cao.  Sau cùng xe máy chúng tôi đến cái lũy kiên cố và bí hiểm nằm cạnh cửa sông, sát biển đầy rừng lá và bụi rậm. Ðó là Lũy Pháo Ðài.

            Lũy Pháo Ðài được Bộ Văn Hóa và Thông tin Việt Nam công nhận là di tích quốc gia. Việc trùng tu di tích này hoàn thành năm 1999. Nền đài bằng đá xanh. Ðài cao độ 5 mét, hình vuông có mái đỏ uống cong hình con rồng tại bốn gốc. Chung quanh đài là vòng thành bằng đất cao độ 1 mét 50 với đường kính độ 100 mét. Bên trong vòng thành đặt hai súng thần công màu đen hướng về Biển Ðông. Sau đây là đoạn lịch sử Lũy Pháo Ðài, ghi trên bia đá đặc trong đài.

            Ðể bảo vệ cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) triều đình nhà Nguyển cho xây dựng tại đây một bảng bằng đất, gọi là đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378 mét) cao 5 thước 5 tất (tức 2,57 mét) mở 2 cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) và thứ 7 (1847) đồn được sửa chửa lại. Sau khi thành Ðịnh Tường thất thủ (tháng 4 năm 1861), Trương Ðịnh trở về Tân Hòa xây dựng lại căng cứ chống Pháp. Ðồn Từ Linh được dùng là chiến lũy, gọi là Lũy Pháo Ðài, có trang bị súng thần công loại lớn.

            Phía trước bia đá có lư hương cho khách tham quan tưởng niệm. Trong tương lai khi đường xá được nâng cấp tốt đẹp, di tích lịch sử này cùng Cồn Ngang đang nổi lên ngoài biển cách Cửa Tiểu vài cây số sẽ thu hút được nhiều du khách.

            Sau khi chụp ảnh tại bia và súng thần công, chúng tôi trở lại bến đò Phú Thạnh cách đó độ 3 cây số để qua sông Cửa Ðại thăm huyện Bình Ðại. Sau bửa cơm trưa tại quán ăn gần trường trung học Bình Ðại A, chúng tôi đi xe máy về hướng tây, qua cầu An Hòa và đến Bến phà Rạch Miễu. Chúng tôi qua phà và trở về thị xã Gò Công theo ngã Mỹ Tho -  Chợ Gạo. Chuyến đi trong ngày rất thú vị và bổ ích.

 

LÝ NHƠN: CHỔ DỰA CỦA NGHĨA QUÂN TRƯƠNG ÐỊNH

            Bên kia sông Soai Rạp, đối diện với xã Gia Thuận là xã Lý Nhơn. Lý Nhơn thuộc Rừng Sác, cùng kinh độ với Vàm Láng, Kiễng Phước, Tân Ðiền và Tân Thành. Với rừng cây dầy đặc, cọp beo, cá sấu, rắn độc và muỗi, Lý Nhơn trước kia là nơi ẩn náo an toàn cho nghĩa quân Trương Ðịnh. Ngày 25 tháng hai, năm Quý Hợi, 1863, quân Pháp tấn công vào căn cứ Tân Hoà, Gò Công.  Tân Hòa thất thủ, Trương Ðịnh kéo quân về vùng Lý Nhơn (Gs Phạm Thiều, Cao Tự Thanh, Lê Minh Ðức, Nguyễn Hũu Huân, trang 188). Nhờ sông lớn, nghĩa quân tại Lý Nhơn liên lạc được với nghiã quân tại các vùng phía Bắc như: Cần Giuộc, Nhà Bè, Bến Nghé và xa hơn nữa như Long Thành, Biên Hòa và Ðồng Nai.

            Lý Nhơn ngày nay thuộc huyện Duyên Hải, thành phố Hồ Chí Minh và cách thị trấn Cần Giờ độ 50 cây số. Ðất rừng được khai phá để làm ruộng hoặc nuôi tôm. Dân cư phù trú. Lý Nhơn càng ngày càng cao giá. Từ đền thờ Trương Ðịnh có con lộ dẫn đến bờ bao Gia Thuận. Ðến bờ bao quẹo phải hướng đông về Vàm Láng độ 2 cây số là đập Cống Gia Thuận. Tại đây có bến đò đi Lý Nhơn. Sông Soai Rạp tại đoạn này rộng độ 3 cây số. Ðò máy chạy mất độ 40 phút. Có nhiều chuyến đò qua lại trong ngày. Ngày xưa Lý Nhơn là chổ dựa của nghĩa quân chống Pháp. Ngày nay Lý Nhơn là nhịp cầu phát triển kinh tế trong vùng đông bắc Gò Công và khu du lịch Cần Thơ.

            Bờ bao ngăn mặn liên xã, chạy từ Cầu Nổi qua Tân Phước, Gia Thuận, Vàm Láng, Kiểng Phước, Tân Ðiền, Tân Thành đến Bến Chùa là con đê chiến lượt kinh tế của Huyện Gò Công Ðông. Vào năm 1863, địa hình này là đầm lầy và rừng rậm mà Nghiã quân Trương Ðịnh đã ẩn náo để chống Pháp. Nhiều địa danh còn ghi trong sổ sách như: Rạch Bùn, Rạch Cùng, Trại Cá, Bến Chùa và Lũy Pháo Ðài bên kia sông Cửa Tiểu.

 

AO VINH: NƠI TRƯƠNG ÐỊNH TỬ TIẾT

            Chiều ngày 19 tháng 3, anh Nguyễn Văn Duy chở tôi xuống Gia Thuận thăm đền thờ Trương Ðịnh và Ao Vinh. Chúng tôi khởi hành tại thị xã Gò Công, khi đến ngỏ tư Kiểng Phước nối liền với Bình Ân và Tăng Hòa, chúng tôi quẹo trái đi hướng bắc lên Rạch Già gần sông Bao Ngược.

            Con đường dài hơn 10 cây số mới đổ đất đầy các bụi chạy qua nhiều xóm nhỏ vắng lặng trông xa thăm thẳm dưới nắng chiều gay gắt như cháy da. Chúng tôi đến Ðền Thờ Trương Ðịnh lúc 4 giờ chiều. Chị bảo vệ đền mở cửa tiếp chúng tôi. Tôi đến thăm nơi này lần thứ nhì. Lần đầu vào tháng 1 năm 2002. Hơn hai năm qua cảnh quang khu vực quanh đền không biến đổi nhiều. Nếp sống người dân nơi này chất phát và thật thà. Sau khi ký sổ lưu niệm và chụp ảnh, chúng tôi thăm Ao Vinh, cách đền độ khoảng 500 mét về hướng Bắc. Ao hình vuông nằm ngoài ruộng cạnh đường liên xóm. Gần bờ ao phía đông có miếu nhỏ. Cách đó vài trăm mét là khu mộ của dân làng với màu vôi trắng phản ánh dưới nắng chiều xuân.

            Năm 1864, Trương Ðịnh bị quân Pháp vây chặc và bám sát. Không đầu giặc, Ông anh dũng rút gươm tử tiết tại đây. Khu vực này là rừng rậm mà truyền thuyết cho là “đám lá tối trời”. Lúc đó chưa có ao. Về sau dân chúng khai khẩn đất hoang làm ruộng và gọi nơi đây là “Miếng đất Vinh” hay “Khuôn Vinh”. Năm 1903, dân làng đào một cái ao tại đây để lấy nước uống, nên ao này được gọi là Ao Vinh. Ao Vinh được giử gìn từ đó đến nay và nạo vét lại mỗi khi khô cạn. Ao không có bia kỷ niệm. (theo tư liệu về Ao Vinh của Nhà Bảo tàng tỉnh Tiền Giang.)

            Sau khi thăm di tích lịch sử Gia Thuận, anh Duy chở tôi về thành phố Gò Công theo ngã Tân Phước, lộ trình mà xe đò đi Chợ Lớn chạy hàng ngày. Ðến chợ Tân Tây, anh quẹo phải qua cầu, đưa tôi tới Giồng Tháp để thăm chùa, miếu và mộ cổ có liên hện đến anh hùng Trương Ðịnh.

 

TÌM VỀ CỘI NGUỒN

            Giồng Tháp vùng đất gò cát, bề thế, có nhiều nhà xưa, nhiều mộ cổ bằng đá ông và tô miếu. Tại đây có miếu thờ Trương Ðịnh thiết lập năm Canh Tuất, 1970. Cách đó 100 mét là mộ đốc binh Chấn. Sách “Gò Công Cảnh Cũ Người Xưa” của tác giả Việt Cúc, trang 62, cho biết đốc binh Chấn lập công to trong trận đánh Pháp tại sông Tra và phục kích quân Pháp tại Xóm Tre và Sơn Qui. Phá được vòng vây, Ông cùng với Trương Ðịnh rút quân về Gia Thuận. Sau khi Trương Ðịnh tử tiết, đốc binh Chấn bị bắt và lưu đài ra Côn Ðảo 9 năm. Sau đó được trả tự do, ông về nhà dạy học tại Giồng Tháp và chết tại đây.

            Giồng Tháp không những làm nơi địa linh nhân kiệt mà còn là đất hứa tổ tiên tôi. Tổ tiên tôi họ Nguyễn, xuất phát từ Quảng Ngải vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ 19. Sau đó con cháu cùng với một số họ tộc khác tiến vô hướng Ðông, khai hoan lập ấp tại vùng đầm lầy và rừng rậm với thú dữ và nước mặn ven biển tạo thành khu An Ðiền và Bình Ðiền, hiện thân của xã Tân Ðiền ngày nay. (Nguyễn Văn Bá ‘Tân Ðiền Ngày Xưa và Nay’’, Ðặc San Xuân Quí Mùi 2003, Hội Thân Hữu Gòm Công, trang 30-40).

            Ông Nguyễn Văn Tòng, ba tôi, đã đến Giồng Tháp nhiều lần để tì mộ ông cố của ông chôn nơi đây trước 1900, nhưng không tìm được. Ông Nguyễn Văn Lỏi, ông nội của Ba tôi, chết trong trận bảo Giáp Thìn 1904 và chôn tại Giồng Tháp. Về sau con cháu dời mộ về ấp Bắc, xã Tân Ðiền. Ðây là lần đầu tiên tôi đến Giồng Tháp, tôi bùi ngùi cảm thấy đang đi hành hương tìm về cội nguồn dân tộc.

            Ðể thay lời kết luận cho chuyến về thăm lại Gò Công, tôi nghỉ rằng không nơi nào đẹp bằng quê hương. Không đất nào thiêng liêng bằng nơi chôn nhau cắt rún. Thật vậy, trong sách ‘Ði Tìm Nhân Dạng (In search of Identity, 1978) tổng thống Ai Cập Anwar Al-Sadat có viết câu văn bất hủ, “Ðất nước bất diệt vì nó chứa những huyền bí của tạo hoá.” Một thoáng quê hương tuy ngắn ngủi, nhưng tình quê đậm đà và lai láng biết bao!

Florida, ngày 22 tháng11, năm 2004
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2008 lúc 10:31am

Mùa vui rơm rạ

Đã tám năm khui nước mặn vào ruộng nuôi tôm, ông Bảy Tất, cậu tôi, nói là có những đêm đột ngột trời mưa về sáng, ông vẫn giật mình thức vì ngỡ còn mùa phát.

Vui nhất với trẻ con là mùa gặt. Nhưng trước mùa gặt còn cả một mùa cốm dẹp hấp dẫn. Thường mỗi nhà đều có cấy thêm đôi công lúa nếp, dành làm xôi bánh cúng giỗ, lễ tết nhưng chủ yếu là nấu rượu làm “thuốc vui” cho cánh đàn ông. Khi lúa nếp vừa có đôi hạt ngả vàng ở cuối bông, gọi là lúa đỏ đuôi, trẻ con được mẹ cho ra đồng cắt lấy những bông tốt nhất về giã cốm dẹp. Sau khi tuốt ra, đem ngâm nước độ vài giờ, lúa nếp được rang lên bằng chính lửa rơm của nó, khi có những hạt bắt đầu phát nổ báo hiệu gạo đã chín, đổ lúa rang vào cối bòng giã bằng chày vọt cho đến khi hạt gạo nếp bẹp mỏng thành hạt cốm xanh nõn. Cốm dẹp trộn với cơm dừa nạo nhuyễn, thêm chút đường mía là món quà quê không dễ gì quên.

Khác phía Tiền Giang đồng cạn, lúa cắt liềm, thợ gặt đập mớ lúa mới cắt vô bồ để lấy lúa hạt, rơm bỏ lại trên đồng; miệt Hậu Giang đồng trũng, mùa thu hoạch chân ruộng hãy còn ngập nước, nên lúa gặt bằng vòng gặt, bó thành bó, bẻ cò chân rạ lại gác bó lúa lên cho khỏi ướt. Sau vài nắng, lúa bó được chất lên cộ trâu kéo về sân nhà. Những trận đòn vì trốn học theo trâu, chỉ để được đứng trên cộ, là chuyện cơm bữa của con nít mùa này. Nếu đồng xa thì phải có một cái sân lúa trên đồng. Trên sân lúa ấy có bao nhiêu chuyện anh, chuyện nàng đã xảy ra. Khi để ý một cô gái nào đó cho con trai mình, đến mùa đập lúa, các bà thường “mượn” các cô đến phụ giúp giũ rơm. Sân lúa giữa đồng đêm trăng, anh đập lúa, em giũ rơm, cứ thế miệt mài cho đến khi trăng xế, rơm vun và chuyện “lửa rơm” từ đó mà sinh ra.

Cậu tôi, cái ông giật mình nghe mưa ấy, ngày mới lớn đã có một kỷ niệm “kinh hoàng” với chuyện lửa gần rơm. Số là một khuya, đống rơm nhà cô bạn ông phát cháy phừng phừng. Xóm làng phở lở kéo nhau tới dập lửa. Cũng may lửa chỉ mới thiêu rụi đống rơm, còn chưa bắt được qua dãy cà lang lúa bó. Người ta nghi hoặc đủ điều, cố truy thủ phạm. Cô bạn gái mặt mày tái xanh rỉ tai cho biết là do cái tàn thuốc của ông. Ngày đó ông mới tập phì phèo điếu thuốc để làm cho mình thêm phần “người lớn”…

Đống rơm là “sào huyệt” của trò trốn tìm, cút bắt trẻ con; cũng là nơi dự trữ thức ăn cho vịt rúc, gà bươi quanh năm, vì lúa bó đập vẫn còn để lại nhiều lúa kẹ (hạt không chắc) trên thân rơm. Miền này đồng mênh mông cỏ, nên trâu thường không phải ăn rơm. Để sa mưa có được nấm rơm, người ta trộn lẫn rơm nếp với rơm lúa tẻ, để riêng ra một nơi trũng thấp. Sau vài đám mưa đầu mùa, sáng ra đã thấy nấm mọc lủ khủ.

Hạt lúa về bồ, rơm về sân, rạ ở lại ngoài đồng là số phận bị người bỏ quên, trừ trẻ con. Khi tát một vũng cá cạn trên đồng, việc đầu tiên của trẻ là gom gốc rạ đốt một đống lửa để nướng những con cá ngon nhất. Và khi nước trên đồng bốc hơi theo nắng, mặt đất ruộng hiện lên, thì cũng chính những đứa trẻ là người phát hiện ra cả một cánh đồng rau đắng đất non mềm nương theo chân rạ mà vươn đọt. Nồi cháo cá lóc mùa này không có gì để nhớ, nếu thiếu những cọng rau đắng đất nhúng vào. Mà không chỉ có rau đắng đất, rau om, rau cóc cũng chen chúc sinh sôi dưới chân rạ. Rau cốc đồng họ cải cúc, có những chiếc bông nụ xanh biếc điểm lấm chấm vàng chẳng khác những chiếc hoa tai cẩm thạch, để con trẻ nhớ đời những đám cưới trò chơi…

Rồi một ngày mây mưa vần vũ, sấm rền báo mùa sôi sục phía chân trời, những gốc rạ lại nhất loạt hoá thân làm một mùa đốt đồng, sẽ còn rừng rực mãi trong ký ức những đứa con nông dân Nam bộ.

Nguyễn Hải Tần ảnh Nguyễn Trọng Tín

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 14/May/2008 lúc 4:12am

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 14/May/2008 lúc 4:14am

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 14/May/2008 lúc 4:26am

người xưa áo tím
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.125 seconds.