Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 136 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Mar/2021 lúc 1:31pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Mar/2021 lúc 8:06am

10 ĐIỀU TỐT ĐẸP TRONG ĐỜI, BẠN ĐÃ ĐÁNH MẤT BAO NHIÊU?

Nhân sinh có rất nhiều loại tư vị, nhưng phải đến một độ tuổi nhất định nào đấy, mới có thể thưởng thức được mùi vị tinh tế của nó.

Trong cuộc sống, bạn gặp gỡ rất nhiều chuyện tốt đẹp, nhưng lúc đó thường không mấy nhận ra giá trị đích thực để mà trân quý. Cho đến một ngày, quay đầu nhìn lại, bạn mới phát hiện ra đó là những điều tuyệt vời nhất mà mình đã trải qua. Nhưng khi ấy, chúng đã sớm rời xa mất rồi!

Tiền có thể từ từ kiếm, nhưng có nhiều thứ, một khi mất đi, thì không thể tìm lại được, chỉ có thể hoài niệm mà hối tiếc. Chung quy lại, con người cơ bản là có 10 thứ tốt đẹp này, hãy xem bạn đã đánh mất bao nhiêu thứ rồi nhé.

1. Sự yên tâm

Trước đây, khi ở trong một căn nhà cũ, đêm ngủ không cần đóng cửa mà vẫn có thể thoải mái ngủ say, càng không cần phải lo lắng bị trộm lấy mất đồ đạc trong nhà. Mặc dù trong nhà không có máy điều hòa, nhưng không khí thật thoáng đãng, tươi mát, yên tĩnh.

Còn bây giờ, bước vào một căn nhà rộng lớn, rất sang trọng, rất đẹp, nhưng từ lầu trên cho đến ngoài cổng đều là cửa khóa then cài chắc chắn. Đem cả nhà đều bao vây chặt chẽ, không một kẽ hở khiến đôi khi, ngay cả bản thân chủ nhà còn không thể vào được nhà.

2. Lòng nhiệt tình

Trước đây, ở quê, mọi người quả thực thân thiết với nhau, xem nhau như người thân. Nhà cùng chung một ngõ, có món gì ngon đều mang biếu hàng xóm láng giềng nếm thử. Nhà ai có việc, mọi người đều xúm lại hỗ trợ.

Còn bây giờ, chúng ta ở cùng trong một tòa nhà, thậm chí là ở cùng một dãy, ngày ngày giáp mặt nhau nhưng không biết đối phương tên họ là gì. 

3. Sức khỏe

Trước đây, trẻ con ở nông thôn thích nhất là lội sông bắt cá, hoặc là chạy khắp ruộng vườn hái dưa, bẻ trái, ăn trực tiếp, thưởng thức vị tươi xanh thuần tự nhiên.

Còn bây giờ, hàng hóa trong siêu thị vừa nhiều vừa hấp dẫn, cá rất lớn, rau dưa hoa trái nhìn rất mướt, nhưng mà dù cho có rửa bao nhiêu lần cũng sẽ không yên tâm, cũng sẽ lo lắng rửa chưa sạch, không dám ăn.

Bây giờ, hàng hóa trong siêu thị sẵn có nhưng chúng ta luôn nơm nớp lo sợ khi mua dùng.

4. Sự an toàn

Trước đây, bọn trẻ nhỏ cứ tụ tập ven đường vui chơi chạy nhảy, chỉ cần dùng mấy nhánh cây, ngọn cỏ bên đường là có thể chơi đến say sưa náo nhiệt.

Còn bây giờ, xã hội phát triển, đường ngày càng rộng, xe ngày càng nhiều, cho nên bọn trẻ cũng không thể vui chơi chạy nhảy ở ven đường, bởi vì chỉ cần sơ ý một chút là có thể gặp nguy hiểm ngay.

5. Ký ức

Trước đây, tiệm chụp ảnh cũng không nhiều, một năm có được mấy lần đi chụp ảnh. Mỗi một tấm ảnh đều được giữ gìn cẩn thận, được tập hợp vào một quyển album, lưu trữ, hoặc lồng vào khung, được đặt ngay ngắn trên bàn, trên tủ… Mỗi lần mở ra xem, cảm xúc và ký ức vẫn còn nguyên vẹn.

Còn bây giờ, không mấy ai đi vào tiệm chụp ảnh, ai cũng có máy ảnh, máy quay phim, di động thông minh… thích chụp ảnh là chụp ngay, từ chụp bản thân, phong cảnh đến cả thức ăn ngon. Những bức ảnh chụp đó được lưu trữ đầy thiết bị, nhiều khi bị quên lãng nằm im lìm trong một góc nào đó của bộ nhớ thiết bị, không có một giá trị lưu niệm khơi gợi ký ức nào.

6. Vui vẻ, náo nhiệt

Trước đây, rất hiếm gia đình có tivi. Đến xế chiều, hàng xóm láng giềng kéo đến xem, có người thậm chí bưng luôn bát cơm đang ăn dở chạy qua xem. Tivi chỉ là tivi đen trắng, hình ảnh đôi khi bị nhòe không rõ nét, người thì nhiều, nhưng không hề cảm thấy chen chúc chật chội, mà ngược lại cảm thấy rất náo nhiệt, vui vẻ.

Còn bây giờ, suốt ngày trên tay không hề rời cái điện thoại di động, cho dù đi đến đâu cũng có thể xem được phim, lướt được mạng. Tuy rằng mấy người tụ tập lại cùng ngồi với nhau, nhưng chẳng nói được mấy câu với nhau, mỗi người chỉ chăm chú vào cái di động trên tay mình.


Giờ mọi người ngồi cùng nhau chỉ chăm chú vào cái di động trên tay mình.

7. Sự thỏa mãn

Trước đây, trẻ nhỏ chỉ có vài ba bộ áo quần đơn giản, màu sắc cũng đơn giản, phần lớn là mặc lại áo quần cũ của anh chị trong nhà đã mặc chật. Tuy nhiên, mỗi một cái quần cái áo được chúng ta xem như là bảo bối vậy, đặc biệt thích, có được đã là thỏa mãn rồi.

Còn bây giờ, áo quần đủ mọi sắc màu, mọi chất liệu, kiểu dáng, trong tủ treo đầy từng dãy áo quần. Tuy vậy, vẫn cảm thấy áo quần của mình không đủ xinh đẹp, vẫn cảm thấy không đủ đồ để mặc.

8. Đơn giản

Trước đây, đồ chơi của trẻ nhỏ cũng không nhiều, chỉ là mấy viên bi, dây cao su, bao cát, giấy báo… Tuy đồ chơi không nhiều, nhưng mỗi một loại đồ chơi, trẻ có thể chơi say sưa suốt cả ngày, chơi rất vui vẻ, thích ý!

Còn bây giờ, trong điện thoại của người nào mà không có dăm ba loại game? Đứa trẻ nào mà không có một đống đồ chơi các loại các kiểu?

Cho dù xã hội ngày càng hiện đại, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển đã mang đến cho con người môi trường giải trí càng phong phú, nhưng chúng ta lại đánh mất đi tình cảm thân mật khăng khít với bạn bè như thuở trước đây.

9. Tự do

Trong ký ức, trước đây chỉ có một rạp chiếu phim, người dân bình thường là không thể đến xem phim, mà người có thể đến xem phim cũng không nhiều. Có hôm trong thôn thông báo có chiếu phim ngoài trời, mấy đứa trẻ trong thôn liền hẹn hò cùng nhau đi xem, đứa thì leo lên cành cây ngồi, đứa thì leo lên mái nhà ngồi, hoặc là leo lên cột điện, vừa xem vừa cắn hạt dưa mang theo từ nhà, vui thích vô cùng!

Còn bây giờ, rạp chiếu phim nhiều vô cùng, thể loại phim cũng nhiều vô kể, nào là phim hiệu ứng 3D, nào là phim bom tấn của Hollywood, tùy thích chọn lựa. Nhưng phải xếp hàng mua vé, đăng ký chỗ ngồi trên mạng, đến rạp còn phải kiểm vé thêm lần nữa, lại không cho mang theo đồ ăn vặt, thức uống. Người ngồi bên cạnh hoàn toàn xa lạ, mỗi người chỉ biết chăm chú xem, xem hết phim mỗi người đi về mỗi hướng.


Tự do của ngày xưa nay còn đâu?

10. Chân tình

Ngày trước, ông nội cưới bà nội chỉ cần dùng nửa đấu gạo, ba cưới mẹ cũng chỉ cần nửa con trâu. Khi kết hôn, cũng chỉ nhận một tấm giấy hôn thú, làm một vài mâm cỗ mời mọi người vậy là đủ. Đồ cưới không có nhiều, thế nhưng rất vui vẻ, sống với nhau thực hạnh phúc.

Còn bây giờ, kết hôn phải có nhà lầu, phải có xe hơi, phải có nhiều tiền, nếu không thì cảm thấy không hạnh phúc.

Khi chúng ta dần dần trưởng thành thì cũng có nhiều thứ dần mất đi theo, sẽ không bao giờ có thể tìm lại được nữa. Nhân sinh có rất nhiều loại tư vị, nhưng phải đến một độ tuổi nhất định nào đấy, mới có thể thưởng thức được mùi vị tinh tế của nó.

Nhưng một khi hiểu được hết thảy giá trị trân quý của nó, thì nó đã mãi mãi rời xa. Cho nên, hãy trân quý cuộc sống hiện tại, bởi chỉ cần một giây sau, thì những gì hiện tại bạn đang trải qua liền biến mất. Đừng để đến cuối cùng mất đi rồi mới hối tiếc sao mình đã không biết trân trọng.

st.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Mar/2021 lúc 10:33am

KIẾP SAU LẤY VỢ HUẾ






Kiếp sau lấy vợ Huế
Ðể tôi được cưng chìu
Ðêm nằm nghe thỏ thẻ:
" Anh nì! Chừ mình yêu..."
Sáng ra lời trong veo
Tiếng người như chim hót :
" Anh ơi! Em ốt dột
-Hun chi lạ...rứa tề! "
Thương ơi! Mái tóc thề
Dài lên tới Bến Ngự
Tóc cột đời lữ thứ
Trăm năm không cho về...
Kiếp sau lấy vợ Huế
Già chát vẫn kêu anh
Gần chôn cũng xưng em
Tình nào hơn như thế ?
Bờ môi ngọt... thương nhớ
Con mắt là sao sa
Dẫu khi đã đàn bà
Cũng lừng hương thiếu nữ!
Dẫu khi tôi mệt lữ
Em vẫn tìm lá xông
Bão giông em không sợ
Ãm ắp nghĩa vợ chồng... (Thơ Trần Dzạ Lữ, SàiGòn, tháng 3 năm 2013)









6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ

1. Con gái Huế sống nề nếp và gia phong:

Con gái Huế luôn sống có phép tắc trong ứng xử với bố mẹ và người lớn trong gia đình. Những nền nếp ấy đã trở thành khuôn phép truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô gái Huế nào khi đi ra ngoài cũng đều xin phép gia đình, có khách thì phải cúi chào, và đặc biệt con gái Huế không được đi chơi đêm quá 21h.

2. Con gái Huế sống thân thiện và đặc biệt thiện tâm

Con gái Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Họ luôn luôn quan tâm, hỏi han và giúp đỡ người khác những lúc gặp khó khăn. Và đặc biệt, người lạ gặp con gái Huế rất dễ dàng bắt chuyện và hòa nhập vào câu chuyện một cách vui vẻ vì họ luôn luôn cởi mở, thân thiện, gần gũi và hiếu khách. Con gái Huế đặc biệt sống rất hiền, thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức.

3. Con gái Huế kín đáo và trầm lặng

Họ là những cô gái rất trầm lặng và ít nói, sống luôn luôn giữ kẽ, hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày với ba mẹ, người lớn tuổi và bạn bè. Họ không bao giờ muốn mọi người biết về những khó khăn mà họ đang gặp vì không muốn để ai bận tâm. Con gái Huế không để xảy ra điều to tiếng, hay gây chuyện buồn cho hàng xóm láng giềng.




PBN 70 | Như Quỳnh - Huế Buồn <<<<<

LK%20Cánh%20Thiệp%20Hồng|Ngang%20Trái%20by%20Hạ%20Vy%20on%20Amazon%20Music%20-%20Amazon.com



4. Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu

Con gái Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản để cân bằng tiền bạc, họ luôn cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc vì họ suy nghĩ đến tương lai lâu dài. Họ không giống nhiều người nhiều nơi khác, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm chừng nào thì tiêu chừng đó.

5. Con gái Huế dịu dàng và e ấp

Người con gái Huế từ lâu đã nổi tiếng là dịu dàng với giọng nói "dạ, thưa" đến say lòng. Con gái Huế đi lại nhẹ nhàng và ăn nói nhỏ nhẹ. Dường như mỗi người con gái Huế đều mang trong mình một nét gì đó rất đỗi kín đáo và e ấp. Có rất nhiều chàng trai xứ khác khi đến Huế đều cảm nhận được đó là điều đầu tiên.

6. Con gái Huế cầu kỳ trong chế biến ẩm thực

Với tất cả mọi người dân xứ Huế, nấu ăn là thể hiện sự khéo léo và nghệ thuật, chính vì thế, họ luôn coi trọng việc trang trí món ăn. Với quan niệm: "ăn" trước hết là "ăn bằng mắt", người con gái Huế rất chú trọng vào việc làm cho món ăn không chỉ ngon mà còn phải bắt mắt và thu hút.



Qua bao hình ảnh cho con gái Huế dịu dàng, thùy mị, thủy chung, thích quá một trời mơ và một cõi e ấp, này bạn còn chần chờ gì nữa kiếp sau nếu may mắn đầu thai làm người không đi tìm vợ Huế đỉ nhi? Tôi bảo bà nhà tôi trong con tim nồng nàn xao xuyến của mình, tôi sẽ hẹn bà ở vùng đất thần kinh trầm mặc cổ kính... Huế kiếp sau với bó hồng trên tay,... chờ bà ở ngã ba Hương Thủy, chờ đến khi trăng tàn trên Bến Ngự, hay rồi khi mùa xuân về đàn lễ tế Nam Giao, ta vẫn chờ em,...
Kiếp sau nếu có làm người,
Con tim xao xuyến sống đời Thần Kinh.


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2021 lúc 10:43am

Tạ Ơn Bệnh Viện Mỹ, Nước Mỹ

 

Tôi đến Mỹ vào một chiều se lạnh…

Mấy chục năm qua, tôi vẫn thầm ước được đi Mỹ, nhưng xa vời quá, giấc mơ không tưởng ấy! Kể từ ngày ba mẹ dẫn các em ra đi theo diện H.O. Tôi và ba đứa em trai đã lập gia đình đành ngậm ngùi ở lại. Thời gian qua mau, mái tóc đen kia giờ đã điểm bạc, vẫn chưa được trùng phùng cùng ba mẹ. Nhưng số phận lại run rủi chị em tôi được đến Mỹ như một giấc mơ. Một giấc mơ không ngờ!

Đặt chân lên đất Mỹ

Vẫn cứ ngỡ đang mơ

Bao nhiêu năm trông chờ

Bây giờ là sự thật.

Một sự thật đau buồn, bởi vì gia đình tôi được đoàn tụ trong đau thương mất mát.

Gặp Em trên giường bệnh

Niềm vui và nước mắt

Như hòa lẫn vào nhau!

Em ngồi đấy, cụt hai tay, hai chân, mắt đeo kính lão khi tuổi mới hăm ba. Nước mắt tôi dâng tràn nhưng vẫn cố đè nén.

Chị muốn khóc vang thấu thiên địa

Khi thấy em mang thân thể xót thương này.


Đứa em út khôn ngoan hiền hòa, không đua đòi lối sống thác loạn, chỉ biết học hành chăm chỉ, đã ngã bệnh từ năm 2004 khi Em về VN thăm quê. Bệnh viện Chợ Rẫy đã xét nghiệm là ung thư máu! Họ khuyên tôi nên chuyển Em về Mỹ gấp. Tôi không dám nói sự thực đau lòng với em, chỉ nói là: "Việt Kiều về VN chơi mà bị bệnh, chị không dám nuôi, em về Mỹ sớm đi!" Em vẫn ngây thơ dỗi hờn tôi: "Hậu không có lỗi với chị, sao chị cứ đuổi Hậu hoài vậy!" nghe Em nói lời trách móc, tôi đau đứt ruột. Phần thì phải giấu Em, phần thì giấu ba mẹ già sợ ba mẹ buồn phiền trở bệnh, mấy chị em tôi sắp xếp cho Em về Mỹ sớm hơn dự định. Hôm tiễn Em ra đi, tôi thèm được ôm Em khóc lời chia ly, vì cứ nghỉ chắc đây là lần cuối được nhìn thấy Em, nhưng không dám bộc lộ ý nghĩ của mình, chỉ gắng gượng vuốt tóc Em nhắn nhủ: "Em qua Mỹ chịu khó uống thuốc cho lành bệnh, rồi lại về thăm quê hương, thăm anh chị."


Bệnh viện Chợ Rẫy khuyên nên đưa Em vào bệnh viện Mỹ nào gần sân bay đáp  nhất. Nhưng Em đã khẩn khoản xin được về tới nhà rồi mới vào bệnh viện U.C Davis ở Sacramento.


Từ đấy Em được điều trị suốt hai năm ròng rã. Bệnh viện Mỹ đã chữa cho Em "free" vì Em đang đi học - không tiền bạc, không tài sản riêng. Tiền thuốc thang có thể lên tới cả triệu đô la nhưng họ vẫn chữa cho Em tận tình, không đuổi về như ở VN khi biết rằng bệnh nhân không đủ tiền chi phí.


Em đã cố gắng chịu đựng biết bao đau đớn để vô hóa chất trị liệu (chemotherapy), và cũng đã can đảm chịu đựng cưa hết hai tay hai chân để được sống còn. Sức sống của Em vô cùng mãnh liệt. Em vẫn còn quá trẻ, lời nói và cử chỉ của Em vẫn lộ ra vẻ ngây thơ chân thật. Em chưa hề biết giả dối cùng ai. Các bác sĩ và nurse chữa trị cho Em đã tỏ vẻ khâm phục sự lạc quan yêu đời của Em, và họ đã cố gắng chữa trị cho Em với niềm bao dung tận tụy.


Sau mấy tháng nằm viện, Em bình phục với một thân thể không lành lặn. Em cam chịu tật nguyền để đổi lấy mạng sống! Người chị kế của Em đã hy sinh tất cả để chăm sóc cho Em và cũng được hưởng lương của chính phủ dù đồng lương có ít hơn làm ngoài. Đây cũng là điều khác biệt với VN. Bệnh nhân khó khăn thì người nhà tự lo, không ăn thua gì tới  nhà nước. Bệnh viện Mỹ còn cử cả bác sĩ tâm lý đến khuyên nhủ Em vui sống và hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.

Em lâm bệnh giữa tuổi xuân phơi phới

Đường tương lai đang rộng mở ngời ngời

Họ đã chữa cho Em tận tụy

Vẫn không qua số phận đoạn trường!

Đất nước Hoa Kỳ tinh tường, nhân đạo

Tạo phép mầu cho chị, cho anh

Được gặp Em lần cuối trước phân ly

Đi xa tít phương trời huyền ảo

Dù được bệnh viện U.C Davis chữa trị tận tình. Các bác sĩ và nurse vô cùng yêu thương Em. Họ gọi Em là "Sweet Heart", "Good Boy". Em đã cố gắng thích ứng với chân tay giả và đi đây đó với cặp chân giả không cần xe lăn. Em đã cam phận với kiếp sống tật nguyền, miễn là được sống!  Hai tay sắt của Em đánh computer nhanh thoăn thoắt. Hai chân nhựa của Em bước lên xuống cầu thang như người bình thường. Em đã cố gắng luyện tập thành thạo những vật dụng hỗ trợ sự tật nguyền. Chi phí cũng rất cao nhưng tất cả đều "free". Bệnh viện cũng thường kiểm tra sức khỏe của Em hàng tuần.


Đúng hai năm sau ngày Em khởi bệnh, Em đã xin bệnh viện cho được về VN. Họ đã hỏi em rằng: "Vì sao you cứ đòi về VN"" Em mới trả lời: "Tôi muốn về VN để gặp anh chị tôi lần cuối trước khi chết!" Họ mới rõ ràng không thể giấu được Em. Bịnh của Em đã tái phát và hết phương cứu chữa!


Bệnh viện Mỹ không đồng ý cho Em về VN và viết một lá thư yêu cầu Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ ở Saigon chấp thuận cho 4 chị em tôi đang ở VN được sang Mỹ để gặp mặt Em lần cuối trước khi chia ly.


Theo chân tôi các em cùng đến

Hội tụ đoàn viên nơi đất Mỹ xa xôi

Tóc Mẹ bạc phơ, tóc con đà chớm bạc

Bạc mái đầu chụm lại khóc Em thơ


Và đây cũng chính là nét nhân đạo sâu sắc nhất của bệnh viện Mỹ. Họ đã cảm thông cho giây phút cuối cùng của bệnh nhân. Họ đã an ủi chiều chuộng hết sức chu toàn cho bệnh nhân trước giờ lâm chung. Họ còn cho phép chúng tôi được thay phiên nhau ngủ lại trong phòng bệnh nhân để canh chừng cho Em. Họ đã biết bệnh Em không qua khỏi nên thân nhân được phép vào thăm thoải mái. Chỉ cần nói tên H.D là họ "ok" cho vô. Mỗi lần vô thăm có thể tới 20 người, họ vẫn không đuổi như ở VN. Họ đã duy trì sự êm ái không để đau đớn trước khi chết đến giây cuối cùng. Khi chúng tôi cho họ biết rằng chúng tôi là dân tộc thiểu số (Chăm) ở VN, người sắp chết phải được đỡ trên tay thân nhân, nếu không thì là chết "Fào". Họ vẫn tôn trọng tục lệ của chúng tôi cho chúng tôi được đỡ lưng Em trên giường bệnh. Sau khi Em trút hơi thở cuối cùng chúng tôi cứ mãi bịn rịn không muốn ra khỏi phòng bệnh, họ yêu cầu chúng tôi ra ngoài để "Clean" Em. Rồi chúng tôi lại xin được đi theo thi thể Em đến tận phòng xác. Họ cũng chấp nhận luôn!


Đêm ấy Em đã nhắm mắt xuôi tay, không chống nổi với số mệnh nữa. Người Chăm ở Sacramento chỉ khoảng chừng 20 gia đình, tất cả đều khóc thương cho Em, người con trai Chăm thông minh hiền hậu, và tất cả -khoảng 60 người- đã lặng lẽ âm thầm theo chiếc xe phủ khăn trắng mang hình hài Em đi qua những hành lang sâu hun hút, lạnh lẽo đến rợn người mà chưa từng ai được phép vô ngoại trừ nhân viên bệnh viện. Vậy mà chúng tôi đã được phép!


Ngày Em mất Chăm Sacto đều khóc

Theo chân Em đến tận chốn kỳ cùng

Phá lệ xưa đưa tiễn xác thân Em

Nơi xa xôi, xa bà con thân thuộc

Vẫn ấm lòng bởi tình nghĩa đồng hương.


Tôi từ VN đến Mỹ ngày 9/5/2006. Mười hai ngày sau, 9/17/2006, Em tôi qua đời. Mười hai ngày ngắn ngủi trong bệnh viện UC Davis đã cho tôi thấy tường tận những máy móc tối tân của bệnh viện Mỹ, những liều thuốc quý giá mà nếu ở VN chúng tôi phải tốn hàng trăm triệu mới được điều trị,  thế mà ở đây họ đã cho không. Hơn thế nữa họ đã khẩn khoản viết thư xin với Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ cho phép 4 chị em tôi đang ở VN được qua Mỹ hết để gặp mặt bệnh nhân của họ lần cuối! Thái độ của nhân viên bệnh viện rất mực ân cần. Từ bác sĩ cho đến nurse hay bảo vệ, lao công, họ đã khiêng thêm chiếc ghế ngủ vào cho chúng tôi. Thân nhân vô thăm nhiều, họ bê thêm ghế. Họ cứ hỏi người thăm muốn uống gì họ mang lên. Có một hôm họ bê cả thùng ice cream lên cho, khi thấy khách lên thăm em quá đông. Tất cả đều trái ngược với VN, nên đã tạo cho tôi nhiều cảm xúc và viết lên những lời này. Bệnh viện UC Davis vô cùng nhân đạo, chúng tôi mang ơn họ thật nhiều.


Tôi may mắn đọc được trang báo "Viết Về  Nước Mỹ Năm Thứ Bẩy" của Việt Báo nên xin gửi gấm những cảm xúc của mình vào đây, như lời tạ ơn chân thành nhất của gia đình chúng tôi với bệnh viện Mỹ và nước Mỹ tử tế, nhân đạo.


Chi Lan


900+%20Roses%20ideas%20|%20beautiful%20roses,%20beautiful%20flowers,%20pretty%20flowers



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Mar/2021 lúc 11:15am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2021 lúc 7:48am


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 31/Mar/2021 lúc 7:53am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2021 lúc 12:58pm

3%20cặp%20đôi%20vợ%20già%20–%20chồng%20trẻ%20kém%20vài%20chục%20tuổi%20từng%20xôn%20xao%20MXH%20giờ%20ra%20sao?




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2021 lúc 1:14pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2021 lúc 2:17pm

Dạy trẻ làm việc nhà là dạy trẻ đức khiêm tốn

 image

Nhiều năm trước, một trong điều đáng ghét nhất đối với em gái tôi là quét sàn nhà bếp. Mặc dù nhà bếp cũng nhỏ thôi, nhưng nhiệm vụ này dường như khiến em tôi mất rất nhiều thời gian. Cô bé thường ngồi đó giữa những chiếc ghế nằm rải rác, chổi ở một nơi, thùng rác ở một nơi, cố gắng quét từng hạt bụi và mảnh vụn nhỏ thành từng đống.

 

Bỗng dưng, cảnh tượng đáng thất vọng này biến mất. Mặc dù còn nhỏ, em gái của tôi sớm biết cách quét nhà và đây trở thành một trong những công việc yêu thích của nó. Điều gì đã xảy ra?

image

Mặc dù còn nhỏ, nhưng quét nhà đã trở thành công việc yêu thích của em gái.

 

Một ngày, cha tôi – có thể là khi em gái tôi ngồi giữa chiếc ống chứa đầy bụi và rác vụn – đã đến bên và hướng dẫn nó làm việc nhà, dạy nó quét từng tấm sàn gỗ một cách có phương pháp.

 

Đây chỉ là những điều giản đơn, cha mẹ dạy cho con cái, cùng kề vai sát cánh với chúng làm việc nhà. Nhưng điều này đã biến một công việc nhàm chán và tuyệt vọng thành một công việc mà em tôi hoàn thành tốt. Chiến thuật này được nhà báo Michaeleen Doucleff khuyến nghị trong một bài viết cho trang NPR. 


image

 

Doucleff là tác giả của cuốn sách mới “Hunt, Gather, Parent”, ông xem xét các nền văn hoá khác và nghiên cứu cách họ nuôi con mình để trở thành những công dân có ích và không phàn nàn trong cuộc sống. Một trong những mẹo cha mẹ có thể học là yêu cầu con làm việc nhà với mình. 

 

Nhiệm vụ này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng thực tế không như vậy. Mất rất nhiều thời gian và sức lực để khiến trẻ em tham gia vào công việc của người lớn. Tuy nhiên, nếu cha mẹ muốn cách dễ dàng là tự làm mọi thứ, thì họ đang khiến con mình mất đi hứng thú với việc nhà và sau này mỗi khi họ yêu cầu con chia sẻ công việc, chúng sẽ phàn nàn. 


image

 

Làm như vậy, cha mẹ không chỉ nuôi dạy con thành một kẻ lười biếng, mà họ còn khiến chúng ít cơ hội thành công hơn trong cuộc sống. Quan điểm này do Julie Lythcott-Haims đưa ra trong cuốn sách “How to Raise an Adult” (Làm thế nào để nuôi con trưởng thành). Trích dẫn các nghiên cứu của chuyên gia giáo dục gia đình Marilynn Rossman, Lythcott-Haims giải thích rằng thành công trong cuộc sống có liên quan trực tiếp đến những công việc nhà thời thơ ấu, “những người thành công nhất thường làm việc nhà từ 3 hoặc 4 tuổi, trong khi đó những đứa trẻ đợi đến những năm thiếu niên mới làm việc nhà thường ít thành công hơn.”


image

Dành thời gian dạy trẻ làm việc nhà đem lại những lợi ích lâu dài

 

Vậy tại sao những đứa trẻ học làm việc nhà từ sớm dễ thành công trong cuộc sống hơn? Tôi nghĩ là do việc nhà không chỉ dạy chúng kỹ năng sống mà còn dạy về đức tính khiêm tốn. 

 

Bác sĩ gia đình và tác giả Leonard Sax khẳng định trong cuốn sách của ông “The Collapse of Parenting” (Sự sụp đổ của vai trò cha mẹ) rằng những đứa trẻ trốn tránh trách nhiệm làm việc nhà sẽ có suy nghĩ rằng “chúng quá quan trọng để làm những nhiệm vụ tầm thường”. Sax giải thích: “Thông điệp ngoài ý muốn này đã khơi dậy lòng tự tôn kiêu ngạo vốn trở thành tính cách của nhiều trẻ em Hoa Kỳ ngày nay”.


image


Tôi bắt đầu nghĩ về quan điểm này của ông ấy. Con chúng ta có thể vô cùng lóng ngóng khi chúng ta không hướng dẫn chúng làm việc nhà, nhưng có khi nào chúng ta không hướng dẫn chúng vì niềm kiêu hãnh và tâm lý tự mãn của chính chúng ta không?

 

Theo bài báo của tờ NPR, chúng ta không dạy trẻ những điều này vì tốn thời gian, và thậm chí sau đó, chúng không làm được theo tiêu chuẩn của chúng ta. Chúng ta muốn ngôi nhà trông thật gọn gàng, đẹp đẽ trong mắt người khác, vì vậy bát đĩa và công việc hút bụi do lũ trẻ làm không khiến ngôi nhà trông như chúng ta mong đợi. 


image


Tương tự, chúng ta nói không có thời gian dạy trẻ làm việc nhà vì chúng ta quá bận bịu làm việc hoặc giúp hội đồng nhà trường, hoặc tổ chức một sự kiện ở nhà thờ hay lên kế hoạch thực hiện một buổi bán hàng cho cộng đồng. Những hoạt động này diễn ra với nhiều người nên khiến chúng ta cảm giác mình hoàn thành được nhiều việc tốt hơn. 

 

Nhưng nếu chúng ta thay đổi góc nhìn, nhận ra rằng con chúng ta là món quà quan trọng nhất trên thế giới này? Nếu chúng ta dừng lại để hiểu rằng con cái là di sản của cha mẹ, thì dù việc dạy chúng có tốn thời gian hay không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tốt – thậm chí còn rất tồi tệ – thì cuối cùng vẫn sẽ là một khoản đầu tư có lời cho bạn vì những đứa trẻ sẽ trở thành một người trưởng thành có trách nhiệm, thành đạt và làm việc chăm chỉ. 


image


Annie Holmquist là biên tập viên của tờ Intellectual Takeout. Bài báo này được đăng tải lần đầu tiên trên Intellectual Takeout. 

 

 

 

Annie Holmquist


image

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Apr/2021 lúc 9:49am


VUI QUÁ, TÔI ĐÃ CHÍCH NGỪA COVID





Về đến nhà thay quần áo xong chị Bông ôm cánh tay rên rỉ:

- Đau quá…ôi giời… chích ngừa Covid đau quá…

Anh Bông đứng gần đó lẩm bẩm:

- Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Tôi cũng chích vaccine Pfizer lần 2 như bà cách đây vài ngày mà có kêu ca gì đâu.

- Anh khác em khác.. Hai đứa mình luôn là hai con đường nghịch chiều, đến nỗi cả hai cùng lúc ghi danh chích ngừa mà cái hẹn ngày giờ vẫn kẻ trước người sau. Anh không một lời hỏi thăm an ủi thì thôi còn nói móc mỉa..

- Tôi nói đúng chứ không móc mỉa. Mấy hôm bão tuyết Texas vừa rồi trời thì lạnh căm căm, tuyết thì đầy sân mà bà xót xa cây hoa sứ vẫn để quên ở patio, bà sai tôi ra lấy vào nhà kẻo hoa sứ chết mất. Còn tôi thì sao? bộ tôi mình đồng da sắt chắc? trong khi bà ngồi trong nhà máy sưởi ấm đầy đủ lại khoác thêm mấy cái áo len áo gió, bà thong thả vén màn nhìn ra cửa sổ than thở trách trời oán đất và tuyên bố giờ này ai mà mời em đi đại tiệc cho tiền thưởng một triệu đô em cũng không thèm…

Chị Bông gạt đi và sụt sùi:

- Thôi, anh rót cho em ly nước microwave cho ấm lên và lấy giùm em cái chăn cái gối mang ra sofa để em nằm nghỉ ngơi xem ti vi luôn thể. Ngày mai có thể…..em không còn sức mà nấu cơm anh ra tiệm order cơm bún phở gì tùy ý nha.

- Bà làm như đang bị trận ốm long trời lở đất vì đại dịch ấy. Tôi biết mà, ngay từ khi chưa đến ngày đi chích lần 2 bà đã …đau trước cả mấy ngày rồi.

- Thì các bạn trên diễn đàn đã chích lần 2 ai cũng than mệt mỏi đau nhức em phải lo chứ..

- Bà đau vì “tâm trạng” chứ thịt da có đau là bao. Tôi còn lạ gì cái tính bi quan phóng đại của bà…nhưng tôi cũng sẽ mang chăn gối ra ngay cho bà đây.

Anh Bông mang chăn gối ra nói tiếp:

- Từ tháng giêng nghe tin thành phố Arlington đang chích ngừa Covid ngay tại Stadium Arlington theo thứ tự ưu tiên trong đó có người cao niên 65 tuổi trở lên bà hào hứng lắm vì địa điểm cách nhà mình chỉ 10 phút, bà … sai tôi ra hỏi cách ghi danh, còn bà nhất định không chịu đi vì…sợ mang tiếng là người “cao niên”.

Chị Bông lại gạt đi như thói quen mỗi khi thấy chồng có lý:

- Thôi, anh đừng nói nữa. Em biết rồi “cao niên” cũng có lợi, nhất là cái vụ chích ngừa Covid này, chích trước yên tâm trước.

Chiều hôm nay 24 tháng hai chị Bông đi chích ngừa Covid lần 2, Texas vừa trải qua cơn bão tuyết kinh hoàng kéo dài cả tuần, có nơi mất điện có nơi mất nước, thời tiết lạnh thấu xương, tuyết đông đá, tuyết trắng cả đất trời. Khí hậu mới vừa ấm lại từ 20 tháng hai. May quá cái hẹn của chị Bông không bị cancel như bao cái hẹn khác rơi ngay vào cao điểm tuyết nhiều lạnh nhiều của ngày 14 và 15 tháng hai khiến mọi điều thường nhật trong cuộc sống dường như cũng “đóng băng” và trì trệ theo.

Chị Bông nhớ lại lúc nãy đi chích ngừa, từ hai cô ngồi bàn tiếp nhận đến nhân viên, y tá ra đón đưa vào phòng ai cũng vui vẻ nhiệt tình cứ làm như sau cú chích Covid này họ sẽ thu được của chị Bông món tiền công béo bở lắm. Chích xong ra khỏi cửa phòng một nhân viên thân mến dán lên ngực áo, lên tay áo chị Bông cái label ghi: “Texas Health Covid-19 Vaccine. I did it to Protect you. Igottheshot.” Cô ta còn giơ ngón tay cái lên chúc mừng chị Bông như là một “người hùng”.

Khi ra về chị Bông chỉ biết “trả công” họ bằng nụ cười mãn nguyện và lời cám ơn “vô giá” từ đáy lòng chị mà thôi.

Giờ đây “người hùng” đang “cô đơn” nằm đau một mình, cuộn mình trong chăn vẫn cảm thấy điểm chích nơi cánh tay trái căng cứng thêm, đau tăng thêm, những khớp xương, những cơ bắp đang rã rời thêm.

- Anh… ơi…anh… đâu… rồi....??

- Bà thều thào gì thế ? muốn gì thì gào to lên như thường ngày đi, tôi đang đọc báo..

- Anh còn ngồi mà đọc báo được trong khi vợ đang đau ốm..hả…hả…

Tiếng anh Bông vẫn từ trong phòng vọng ra:

- Bà cần gì thì cứ bảo..

Chị Bông nỉ non:

- Em đang đau râm ran khắp người đây, choáng váng toàn diện đây. Đêm nay chắc là em sẽ mất ngủ, vậy sáng mai anh đừng khua động gì để yên cho em ngủ nha, anh lo canh chừng kẻ nào vô duyên gọi phone đến nhà này quảng cáo tùm lum thì cúp phone luôn nha, không lịch sự mà lắng nghe hết câu làm gì nha.

- Bà chưa đi ngủ mà đã lo sẽ mất ngủ. đã dặn dò. Tôi đang đọc báo mạng có tin này kể là bà…hết đau liền, bà sẽ ngủ ngon liền.

Chị Bông vẫn bi lụy:

- Chẳng thuốc tiên nào cứu em được đâu.

Anh Bông đến bên chị Bông và kể:

- Tôi vừa đọc báo mạng Việt Nam, ngày hôm nay 24 tháng hai là ngày bà đi chích Covid liều 2 thì bên Việt Nam người ta mới vừa nhận 2 lô thuốc đầu tiên 117,600 liều. và mất khoảng 2 tuần lễ sau khi ngành y tế xem xét phê chuẩn mới mang thuốc ra xử dụng cho những diện ưu tiên tuyến đầu . Có nghĩa là đám dân đen…cỡ như bà nếu ở Việt Nam thì đừng hòng trông chờ gì mình được chích ngừa ngay đợt này.

Chị Bông nghe xong thốt lên:

- Lại kẻ quyền thế, kẻ có tiền bạc sẽ được ưu tiên. Mà dân Việt Nam ăn bánh vẽ quen rồi, như vụ chính phủ nói sẽ hỗ trợ cho dân tiền vụ Covid đấy. Trong khi ở Mỹ mình lãnh check 1,200 rồi mà dân Việt Nam còn đang…nằm mơ gói cứu trợ .

Anh Bông nói thêm:

- Khi Mỹ vừa công bố 2 loại thuốc chích ngừa Pfizer và Moderna lập tức được cả thế giới chú ý. Dân Mỹ là những người được thừa hưởng ngay thành quả ấy, trong khi dân các nước khác trong đó có Việt Nam lại chỉ…thấy trong mơ.

- Ừ nhỉ…khi Nga, Trung quốc công bố tìm ra vaccine Covid của họ em đọc xong và…quên luôn tên thuốc, còn tên các vaccine của Mỹ thì em nhớ hoài Pfizer nè, Moderna nè, Johnson& Johnson nè…

- Ngay lúc này trên thế giới có bao nhiêu người đang chờ mong được chích ngừa Covid, được đau tay, đau mình mẩy như bà còn chưa đến lượt, bà đỏng đảnh vừa vừa thôi. À, bà còn nhớ ông Du không?

Chị Bông nhanh nhẩu:

- Ông bạn già mất nết của anh chứ gì, vợ chết, bán nhà cửa ôm tiền về Việt Nam cộng thêm tiền lương hưu hàng tháng, ông mua nhà đẹp, thuê người giúp việc, sống phong lưu “vui hưởng tuổi già” với cô bồ trẻ tuổi hàng con cháu.

- Hết vui hưởng rồi bà ơi, ông Du đang tìm cách mua vé máy bay về Mỹ để…chích ngừa Covid kìa. Ở Việt Nam liều thuốc Astrazeneca cũng chưa đến lượt ông chứ đừng nói đến thuốc Mỹ như Pfizer hay Moderna dù ông có nhiều tiền sẵn sàng móc ra chi trả. Mỗi ngày tuổi càng thêm già, bệnh hoạn càng đến gần thì có khi chạy về Mỹ cũng không kịp..

Chị Bông tán thành:

- Đừng nói là có tiền ở Việt Nam mua gì cũng được nhé.

- Bà đang là một trong số bao nhiêu người sống trên đất Mỹ được hưởng bao lợi ích từ đất nước này. Nhân thế còn bao nỗi buồn khổ oán hờn, bao chết chóc bệnh hoạn đớn đau thì cái đau vì chích ngừa chỉ là hạt bụi nhỏ xíu xíu mà bà làm cho to chuyện thật là vô duyên. Thay vì nằm trùm mền rên rỉ bà phải sung sướng reo lên: ”Vui quá, tôi đã chích ngừa Covid rồi” .Nhé.

Chồng nói quá đúng, chị Bông không gạt đi nữa mà vụt tung hê chăn gối ngồi nhỏm ngay dậy :

- Ừ, bây giờ em la to lên đây, em reo hò lên đây: “Vui quá, tôi đã được chích ngừa Covid rồi”

- Có thế chứ…bà sẽ cảm thấy cái tay chích đau không là gì cả..

Chị Bông ....e lệ thú nhận:

- Em thừa biết chích xong liều 2 chỉ đau một hai ngày là hết, em cũng thừa biết bao người đang nôn nóng chờ đợi. Nhưng cái tính em cứ hay …sầu bi thế đấy và nếu không được chích chắc em sẽ…sầu bi hơn.

Chị Bông gấp chăn gối lại:

- Em vừa nhớ ra khi chích xong cô y tá đã dặn dò em phải hoạt động cánh tay chích để mau hết đau đó anh. Vậy ngày mai anh khỏi phải order thức ăn nha, anh muốn ăn gì? Nói đi, em nấu…


Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Apr/2021 lúc 3:38pm

Câu chuyện về một người VN tình nguyện đi lính Mỹ

Câu chuyện về một người VN tình nguyện đi lính Mỹ để có cơ hội nhập quốc tịch Mỹ và để bảo lãnh cho gia đình qua Mỹ. Cái giá phải trả cho tự do của cả gia đình anh là mạng sống của chính anh.

Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình

Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam. Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.

Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.

“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người.. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.

Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.

Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.

Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”.. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.

Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq. Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock (Nevada), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona. Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada. Hè, chúng tôi xuống Texas, lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.

Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.

Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.....

Khi tôi đặt chân đến Mosul, pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.

“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói.... “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”

“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.

“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người ***yrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”

“Trời ơi, nhức đầu quá.”

“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.

Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”

“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”

“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”

Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”

“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.

“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo.. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”

“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.

“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”

Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào.

Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”

“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số....”

“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”

“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”

“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.

Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon, vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq. Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.

“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”
Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait, không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.

Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq, trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran. Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran.

Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.

Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam. Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.

Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.

“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.

“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”

Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.
Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.
“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”
“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời. Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.
Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.

Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.

“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.
Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”.. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.

“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.

Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.

Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq, đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.

May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.

Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt.. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.

Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.

Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul. Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu.. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq. Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran, người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria, người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.

Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.

Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ.. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay, ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.

Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.

“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.

“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.

Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi.... Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.

“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”
Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.

Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.

May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”

“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.

“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.

“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.

“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”

Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh..”

“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.

Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.

Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.

Tiếng Michael léo nhéo trong máy.... Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert.. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.

Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.

Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.

“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”*1

Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao.. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.

“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”

Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”

Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này? Của tổ chức nào?

Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.

Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.

Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad. Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại.. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.

Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran, Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq.

Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq. Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.

Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.

Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam. Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.

Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra, 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.

Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq. Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq. Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.

Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra.

Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra. Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.

Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.

Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”

Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại.. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.

Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.

“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”

Cả bọn cười sằng sặc..

Chúng tôi quay lại con sông Tigris, băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad, sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.

Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra. Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon. Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq. Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.

“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)

Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk, lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.

Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra. Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq, nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.

Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào.. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.

Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…

Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.

Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra. Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra.

Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra, bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq. Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq, dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran, tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq. Nhưng Kuwait, một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq. Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait. Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq. Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait. Đầu năm 2003, để tử thủ Basra, Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra.

Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.

Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.

Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng....

Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.

“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.

“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.

“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.

Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.

“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.

“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.

Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”

Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.
Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.

Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.

Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.

Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.

Ôi! Việt Nam. Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.

“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”

Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.

Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.

Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất.... Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.

“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm.... Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.

Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia.. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.

Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.

“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.

“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.

“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”

Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.

“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi
Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ” *4
Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.

NTTA

___
*1 Bài Nâng Chén Hỏi Trăng thơ Lý Bạch
*2 Kính đêm có tia hồng ngoại
*3 Bom phá hầm, hang động
*4 Bài hát Một mai giã từ vũ khí.

Ghi chú của tác giả: Tang lễ Sgt. Nguyễn Khắc Bình được tổ chức trọng thể với sự hiện diện của các đại diện đơn vị, đoàn thể địa phương, các cơ quan truyền thông và thứ trưởng Bộ Quốc Phòng (trên truyền hình ABC, BCS… ) Để tri ân sự hy sinh của Sgt. Nguyễn Khắc Bình, Bộ Quốc Phòng đã hoàn thành tâm nguyện NKB, bảo trợ nguyên cả gia đình anh sang Mỹ. Tôi viết truyện này với sự thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ.

bài đã đăng của Nguyễn Thị Thảo An
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Apr/2021 lúc 7:38am

Where Are You From? 



Bữa đó chúng tôi bàn nhau phải “dọn nhà,” dù đồ đạc chưa sẵn sàng. Vì cuốn lịch tử vi Tam Tông Miếu bảo nên “Nhập Trạch” và “An Môn,” thay đổi chỗ ở rất tốt. Đó là ngôi nhà đầu tiên tôi mua ở nước Mỹ.

 

Tôi sang nhà mới ngủ, mang theo đủ đồ dùng cá nhân, cái ấm đun nước để lúc thức dậy pha bình trà. Sáng sớm, có người bấm chuông. Mở cửa ra, một người đàn ông tươi cười tự giới thiệu: Tôi là John, hàng xóm của ông. Tôi biết ông mới đến đây ở.

 

John rất tốt. Có bữa trong phòng ngủ tự nhiên mất điện, loay hoay mãi không làm gì được, tôi chạy sang kêu cứu, John qua liền. Quan sát một hồi, anh kêu tôi tới gần, chỉ cho tôi một cái nút, bấm vào đó tự nhiên có điện! John bảo “Tôi là thợ điện.”

 

Trong xóm có 10 căn nhà, mọi người đều rất dễ thương. Nghe tôi tự giới thiệu mình là người Việt Nam, bà hàng xóm giới thiệu tôi với người Á châu khác: Đây là ông Ô (Oh) ở bên trái nhà tôi, đây là ông Đô, nhà bên phải, mới đến. Tôi hỏi ông Oh: “Ông từ đâu tới?” Ông người Đại Hàn.

 

Trước đây, tôi hỏi câu đó, “Where are you from?” Không ai thắc mắc gì cả. “Where are you from?” Thời mới qua Montréal tị nạn năm 1975, tôi vẫn thường hỏi rất nhiều người như vậy. Hỏi họ xong mới biết có người cùng ở “trại tị nạn” với mình từ Chile tới. Hai người tị nạn gặp nhau, mình chạy trốn cộng sản, bà kia chạy trốn chế độ độc tài chống cộng của Pinochet. Ông hàng xóm đầu tiên mang cho tôi bao nhiêu món đồ dùng đầu tiên trong nhà, hai cái ghế, một cái đèn, cái tủ có ngăn kéo, vân vân. Ông cũng chạy tị nạn, từ Hungary, năm 1956.

 

Bốn năm trước đây, khi đổi qua địa chỉ mới, gặp một ông hàng xóm vui vẻ, tôi vẫn hỏi, “Where are you from?” Ông gốc người Ecuador. Trong khu này, hàng trăm gia đình, có cả người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Hàn Quốc, nhưng 90 phần trăm da trắng. Ai cũng rất thân thiện, đi qua cửa thấy nhau là vẫy tay chào. Đi bộ ngoài đường, gặp ai cũng cười cười, “Hello!”

 

Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi mới nhớ ra một điều: Hai chục năm qua, không một người nào hỏi chúng tôi từ xứ nào tới đây. Có lẽ họ kiêng, không hỏi. Hình như họ đã học được một điều, rằng câu “Where are you from?” đem hỏi ai là có ý phân biệt. Là ngụ ý rằng người kia là di dân, không phải dân Mỹ “chính gốc” như mình.

 

Có những “người Mỹ” không biết điều đó. Một độc giả báo L.A. Times viết cho tòa báo nói như thế. Ông Kendall W. ở Encino thú nhận bao nhiêu năm nay ông vẫn hỏi những người gốc Á châu “Where are you from?” Vì tò mò. Vì ông đã đi qua các nước Á châu nhiều lần và rất thích nếu được gặp những người từ các xứ đó. Bây giờ ông nghĩ lại: “Câu hỏi của tôi xúc phạm người ta, bây giờ tôi mới “mở mắt ra.” Tôi sẽ cố gắng không xúc phạm họ nữa.”

 

Chính tôi cũng “mở mắt ra!” Té ra mình đã hỏi những câu có thể vô tình xúc phạm người khác! Lạ thật. Ông từ đâu tới? Bà từ đâu tới? Một câu hỏi giản dị như thế mà cũng xúc phạm sao? Tôi muốn nói với ông Kendall: Tôi không bao giờ cảm thấy bị xúc phạm nếu có ai hỏi mình từ đâu tới. Ngược lại, tôi rất vui khi cho người khác biết mình là người Việt Nam.

 

Nhưng tôi thông cảm với những người Á châu thấy mình bị xúc phạm khi bị hỏi câu đó. Bởi vì nhiều người đã phải nghe những hỏi câu sỗ sàng, thù ghét, gây hấn. Có người Việt đã bị hỏi: “Sao “You” không cút về Tàu đi?” Một người bạn tôi có đứa cháu trai 20 tuổi đến một tiệm lấy món ăn đã gọi đặt, một thanh niên da trắng đứng bên hỏi cháu: “You” có hợp pháp hay không? Tôi viết nguyên những chữ “you” vì có thể dịch ra nhiều cách. Nói thân thiện thì dịch là “anh,” không thì dịch là “mày” cũng được. Cậu cháu sinh ra và lớn lên ở Mỹ, ngẩn người ra, cứng họng, không thể phản ứng gì được! Cháu chưa bao giờ tưởng tượng có ngày mình bị hỏi một câu như thế!

 

Nhiều người không hỏi những câu sỗ sàng thô bỉ như vậy. Họ biết cách nói tế nhị hơn: “You” từ xứ nào tới đây?

 

Câu hỏi “Where are you from?” vốn không có ý xúc phạm. Nếu ông Kendall gặp một người Á châu, trò chuyện đôi câu, rồi mỉm cười, nhướng mắt tò mò hỏi “Where are you from?” thì chắc không ai cảm thấy bị xúc phạm. Giống như bà hàng xóm của tôi, đã giới thiệu ông Ô với ông Đô. Bà bật cười sau khi phát âm hai cái tên Á Châu. Tôi không cảm thấy bị xúc phạm, ông Oh nghe cũng cười theo. Nghe hai cái tên ngộ nghĩnh như vậy, ai chẳng bật cười? Cười xong rồi, ba người cảm thấy thân với nhau hơn. Sau đó bà đã nhiều lần mời ông Đô và ông Ô qua dự tiệc Giáng Sinh với những người cùng xóm.

 

Đó là chuyện 20 năm trước. Bây giờ có lẽ bà Donna, hàng xóm cũ của tôi, sẽ không dám cười khi nói hai cái tên xa lạ nữa. Cười lên, bà có thể lo chúng tôi bị xúc phạm. Chúng tôi có thể nghĩ bà này đang chế nhạo cái tên của mình, kỳ quặc, không giống ai. Bây giờ, hàng xóm đối xử với nhau cũng phải cẩn thận, giữ ý tứ.

 

Tội nghiệp thật. Giữ gìn cẩn thận đến nỗi không dám hỏi nhau “Where are you from?”

 

Nước Mỹ đã thay đổi. Mọi người nhìn nhau bằng con mắt khác. Đối xử với nhau cách khác. Không những giữa những người lạ mà cả giữa bạn bè, trong gia đình. Tôi quen một gia đình người Mỹ gốc Âu châu mà tổ tiên đã qua đây từ hai, ba thế kỷ. Hai vợ chồng trước tới giờ vẫn bỏ phiếu cho hai đảng khác nhau. Nhưng họ vẫn sống hòa hợp, vui vẻ. Đến những năm bỏ phiếu, các con chỉ cười nói nhỏ, kín đáo kể nhau nghe cảnh bố mẹ tránh né không nói chuyện bỏ phiếu. Bây giờ, nhiều gia đình người Mỹ đã chia rẽ vì chính trị. Tất cả bị con virus chính trị xâm nhập. Có cô con gái công khai từ bỏ bà mẹ vì chọn ứng cử viên tổng thống khác mình. Căn bệnh này lan tràn không phân biệt màu da hay sắc tộc. Báo The Atlantic kể một phụ nữ họ Nguyễn, 41 tuổi, ở San Jose than rằng ông bố ở cùng nhà đã không thèm nói với con một câu nào trong hai tháng vừa qua.

 

Nạn chia rẽ vì chính trị cũng như nạn tấn công người Á châu cùng do một loài vi khuẩn gây ra. Nó mới bộc phát gần đây thôi. Có thể tin rằng sẽ sớm tới ngày loài vi rút này không còn hoành hành tác hại nữa, giống như loài Coronavirus cũng sẽ rút lui. Có một thứ vaccine, thuốc chủng ngừa chống bệnh chia rẽ, bệnh kỳ thị, mà ai cũng mang sẵn trong mình. Đó là tánh thiện. Có mấy ngàn người gốc Á châu đã bị tấn công, nghĩa là chỉ mới có mấy ngàn thủ phạm. Có thể đoán hàng triệu người Mỹ khác hoan nghênh bọn cực đoan này. Nhưng họ là thiểu số. Họ bị các nhà chính trị bơm vi rút chia rẽ vào đầu. Còn hàng trăm triệu người, người da trắng, trong hơn 300 triệu dân Mỹ, không ai chứa tâm địa nhỏ nhen, ganh tị, thù ghét vô lý đó.

 

Tôi đã nghiệm thấy trong những lần đi dạo trong khu mình ở. Từ khi bệnh dịch Covid bắt phải cấm cung, mỗi ngày tôi vẫn đi dạo mấy lần để giữ sức khỏe. Tôi thường đeo mạng che miệng, còn 90 phần trăm lối xóm thì không. Rất nhiều người, hầu như ai cũng da trắng, cũng đi dạo với nhau hoặc dắt theo con chó. Có hai ông bà gốc Hoa lớn tuổi hồi xưa vẫn thường dẫn ba con chó đi bộ. Gần đây, sau khi nghe nhiều tin tức về người gốc Á châu bị tấn công, tôi thấy hai người này bớt ra khỏi nhà. Tôi vẫn tiếp tục đi bộ nhưng cũng lo giữ mình cẩn thận hơn. Khi ra đường là nhìn trước nhìn sau.

 

Nhưng tôi cũng nhận thấy một hiện tượng lạ. Trong một tháng qua, sau khi ti vi loan tin những vụ đánh người Á châu, nhất là sau vụ 6 phụ nữ Hàn Quốc ở Atlanta bị giết, những người tôi gặp đi dạo trên đường đều mỉm cười trước và đưa tay lên chào. Tất cả đều là người da trắng. Trước đây họ chỉ cười đáp lễ, rồi đi thẳng. Bây giờ họ cười tươi hơn và nhìn lâu hơn trước khi đi! Tôi nghĩ những ông bà hàng xóm này, ai cũng coi tivi, họ có thể cũng đoán tôi đang lo lắng không biết mình sắp bị “đánh” hay không! Cho nên họ cố ý bày tỏ tình thân thiện trước! Để chứng tỏ họ không thuộc loại người kỳ thị chủng tộc.

 

Và, như từ đầu tới giờ, trong xóm không ai hỏi tôi “Where are you from?” Tôi vẫn tiếp tục đi bộ ngày mấy lần. Để giữ sức khỏe, mà cũng để giữ lòng tin vào Tính Thiện của loài người. Nếu mai mốt tôi có bị tấn công, sẽ xin báo cáo. Nhưng lòng tin vào Tính Thiện vẫn không đổi!


Ngô Nhân Dụng

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 136 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.412 seconds.