Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ | |
<< phần trước Trang of 136 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 28/Nov/2018 lúc 8:01am |
Tuesday, November 27, 2018Đám tang cựu chiến binh Việt Nam không người thân
Những người mang chiếc quan tài treo cờ của cựu chiến binh Việt Nam Stanley Stoltz tại Nghĩa trang Quốc gia Omaha hôm thứ Ba.
Một cựu
chiến binh Việt Nam đã qua đời tuần trước mà không cón người thân nào
sống được an nghỉ hôm thứ ba tại một nghĩa trang Nebraska - với 2.000
người đến tham dự - sau khi thông báo tang lễ được lan truyền.
Stanley
Stoltz, tại Bennington, Neb., Qua đời ngày 18 tháng 11 hưởng thọ 73
tuổi. Tờ báo Omaha World-Herald chạy một thông báo ngày 23 mời gọi công
chúng đến đám tang của ông.
"Công chúng được mời đến nghĩa trang để tôn vinh cựu chiến binh Việt Nam không có gia đình".
"Lễ an
táng tại Nghĩa trang Quốc gia Omaha vào Thứ Ba, ngày 27 tháng 11 lúc 2
giờ chiều." Thông báo nhanh chóng lan truyền trên các phương tiện truyền
thông xã hội và được các mạng tin tức chọn lọc.
Stanley Stoltz
Hôm thứ
ba, các quan chức nghĩa trang ước tính rằng từ 1.500 đến 2.000 người đã
đến nơi chôn cất của Stoltz. WOWT-TV đã báo cáo rằng dịch vụ mai táng đã
bắt đầu muộn và không bỏ lỡ bất cứ điều gì.
"Không thể để bác sĩ thú y quân đội chết một mình không người thân", người tham dự Dick Harrington nói tại nghĩa trang.
Thông báo tang lễ của Omaha World-Herald cho Stanley Stoltz.
"Đây là
loại nghi lễ mà các cựu chiến binh Việt Nam của chúng xứng đáng được
nhận," Amy Douglas, một người bình luận khác nói. "Và thực tế là anh ấy
nhận được nghi lễ an nghỉ này là phù hợp. Nó rất phù hợp."
Stoltz
sinh ngày 29 tháng 5 năm 1945, và lớn lên ở Curlew, Iowa. Cựu thị trưởng
Bennington Bill Bohn, người bạn và hàng xóm của Stoltz, nói với
***ociated Press rằng Stoltz đã định cư ở thị trấn khoảng 1.500 dân sau
khi ông phục vụ tại Việt Nam.
Bạn bè
nói rằng người vợ đầu tiên của Stoltz chết vì ung thư, và anh ta và
người vợ thứ hai của anh đã ly hôn. Anh ta không có con và tất cả cha mẹ
và anh chị em đều đã chết.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 29/Nov/2018 lúc 12:27pm |
Câu chuyện đêm giáng sinh cảm động.......!!!
Như thường lệ,mỗi mùa giáng sinh, tôi đều nhận được quà từ anh trai của tôi. Giáng sinh năm ấy tôi cảm thấy vui nhất không phải chỉ vì món quà anh tôi tặng-một chiếc xe hơi mà vì tôi đã học được một bài học rất thú vị vào cái đêm đông lạnh lẽo ấy... Đã 7 giờ tối, mọi người trong công ty đã ra về gần hết, tôi cũng đang đi đến gara để lấy xe và về nhà ăn Giáng sinh. Có một cậu bé, ăn mặc rách rưới, trông như một đứa trẻ lang thang, đang đi vòng quanh chiếc xe tôi, vẻ mặt cậu như rất thích thú chiếc xe. Rồi cậu chợt cất tiếng khi thấy tôi đến gần, "Đây là xe của cô ạ?". Tôi khẽ gật đầu, "Đó là quà Giáng sinh anh cô tặng cho." Cậu bé nhìn tôi tỏ vẻ sửng sốt khi tôi vừa dứt lời. "Ý cô là...anh trai cô tặng chiếc xe này mà cô không phải trả bất cứ cái gì?" "Ôi! Cháu ước gì...". Cậu bé vẫn ngập ngừng. Tất nhiên tôi biết cậu bé muốn nói điều gì tiếp theo. Cậu muốn có được một người anh như vậy. Tôi chăm chú nhìn cậu bé, tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe lời nói của cậu. Thế nhưng cậu vẫn cúi gằm mặt xuống đất, bàn chân di di trên mặt đất một cách vô thức. "Cháu ước...", cậu bé tiếp tục "...cháu có thể trở thành một người anh trai giống như vậy". Tôi nhìn cậu bé, ngạc nhiên với lời nói vừa rồi. Bỗng nhiên tôi đề nghị cậu bé, "Cháu nghĩ saonếu chúng ta đi một vòng quanh thành phố bằng chiếc xe này?". Như sợ tôi đổi ý, cậu bé nhanh nhảu trả lời: "Cháu thích lắm ạ!" Sau chuyến đi, cậu bé hỏi tôi với ánh mắt sáng ngời đầy hy vọng, "Cô có thể lái xe đến trước nhà cháu không?". Tôi cười và gật đầu. Tôi nghĩ mình biết cậu bé muốn gì. Cậu muốn cho những người hàng xóm thấy cậu đã về nhà trên chiếc xe to như thế nào. Thế nhưng tôi đã lầm..."Cô chỉ cần dừng lại ở đây, và có phiền không nếu cháu xin cô đợi cháu một lát thôi ạ..." Nói rồi cậu bé chạy nhanh vào con hẻm sâu hun hút, tối om, tưởng chừng như chẳng có ai có thể sống trong ấy. Ít phút sau tôi nghe thấy cậu bé quay lại qua tiếng bước chân, nhưng hình như lần này cậu không chạy như lúc nãy mà đi rất chậm. Và đi theo cậu là một cô bé nhỏ nhắn, mà tôi nghĩ đó là em cậu, cô bé với đôi bàn chân bị tật. Cậu bé đẩy chiếc xe lăn em cậu đang ngồi, một chiếc xe cũ kĩ, xuống những bậc tam cấp một cách rất cẩn thận, và dừng lại cạnh chiếc xe của tôi. "Cô ấy đây, người mà lúc nãy anh đã nói với em đấy. Anh trai cô ấy đã tặng một chiếc xe hơi cho cô nhân dịp Giáng sinh mà cô chẳng phải tốn lấy một đồng. Và một ngày nào đấy anh cũng sẽ tặng em một món quà giống như vậy. Hãy nghĩ xem, em có thể tận mắt thấy những món quà, những cảnh vật ngoài đường phố trong đêm Giáng sinh, và anh sẽ không phải cố gắng miêu tả nó cho em nghe nữa!". Tôi không thể cầm được nước mắt, và tôi đã bước ra khỏi xe, đặt cô bé đáng thương ấy lên xe. Ánh mắt cô bé nhìn tôi đầy vẻ cảm phục và thân thiện. Ba chúng tôi lại bắt đầu một chuyến đi vòng quanh thành phố, một chuyến đi thật ý nghĩa và tôi zẽ không bao giờ quên, khi những bông tuyết lạnh giá của đêm Giáng sinh bắt đầu rơi. Và cũng trong đêm Giáng sinh ấy, tôi đã hiểu được sâu sắc ý nghĩa một câu nói của chúa Giê-su: "Không gì tốt đẹp hơn việc làm cho người khác hạnh phúc." |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 01/Dec/2018 lúc 7:43am |
LƯƠNG TÂM VÔ GIÁ <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Dec/2018 lúc 8:07am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 01/Dec/2018 lúc 10:49am |
Cậu bé nghèo và cốc sữa bò
Nơi khu
phố nọ, có một cậu bé 12 tuổi nghèo khổ, mồ côi mẹ từ sớm, sống với
người cha là một công nhân lao động. Để có tiền học phí, cậu bé đã ngày
ngày đạp xe đi giao hàng cho một ông chủ ở chợ.
Một hôm,
trời đã tối, cậu rất đói bụng nhưng trong túi chỉ còn một chút tiền lẻ
không đủ để mua bất kỳ một món ăn nào giữa khu phố này. Bụng đói, hàng
vẫn chưa giao hết, nhưng cậu vẫn phải cố gắng hoàn thành công việc.
Đến nhà
khách hàng cuối cùng, cũng là đến giờ ăn cơm tối, cậu định bụng sẽ xin
họ một chút cơm để ăn cho đỡ đói. Nhưng khi nhìn thấy một cô gái con của
chủ nhà cũng trạc tuổi mình ra mở cổng thì cậu lại mất hết dũng khí để
mở lời. Cậu không dám xin cái gì ăn chỉ nói với giọng vừa nhỏ vừa ngại
ngùng: “Bạn có thể cho tôi xin một cốc nước được không?”
Cô bé nhìn bộ dạng đói khát của cậu liền chạy vào nhà và mang ra cho cậu một cốc sữa bò to.
Cậu bé không ngại ngùng gì mà uống một lúc hết cốc sữa bò rồi mới hỏi: “Vậy tính ra là tôi nợ bạn bao nhiêu tiền?”
Cô bé ngạc nhiên rồi nhẹ nhàng nói: “Bạn không nợ tôi đồng nào cả, mẹ tôi dạy rằng đừng vì làm việc thiện mà đòi hỏi báo đáp!”
Cậu bé
trong lòng rất biết ơn và nói với cô bé một cách chân thành trước khi
rời đi: “Như vậy, tôi chỉ có thể cảm ơn bạn từ tận đáy lòng mình!”
Trên
đường đạp xe về nhà, cậu không chỉ cảm thấy khí lực của mình tăng lên
rất nhiều mà niềm tin, niềm hy vọng đối với cuộc sống cũng dâng trào.
Bởi vì, cuộc sống quá khó khăn trong những năm tháng qua thực sự đã
khiến cậu muốn buông xuôi hết thảy. Cử chỉ đơn giản ấy đã giúp cậu bé
khốn khó tin tưởng hơn vào sự tốt bụng của con người. Điều đó tiếp thêm
cho cậu nghị lực và ý chí kiên cường, quyết không đầu hàng số phận,
không từ bỏ ước mơ và vững tin trên đường đời.
Nhiều năm
sau, cô gái tốt bụng mắc phải một chứng bệnh lạ nguy hiểm. Bác sĩ trong
vùng đã cố gắng hết sức nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Không
còn cách nào khác, họ đành chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố.
Trong số
các bác sĩ tham gia buổi hội chuẩn hôm ấy lại có mặt của cậu bé năm xưa,
nay đã trở thành một bác sĩ tài giỏi, bác sĩ Howard Kelly. Khi nghe đến
tên và địa chỉ của bệnh nhân, ánh mắt vị bác sĩ trẻ bừng sáng lên. Anh
đi thẳng đến phòng bệnh và không mấy khó khăn để anh nhận ra cô bé tốt
bụng ngày nào nay đã trưởng thành.
Kể từ hôm
đó, anh quyết tâm nghiên cứu tài liệu, hỏi kinh nghiệm từ những người
thầy và những người đồng nghiệp để tìm cách cứu sống người phụ nữ kia.
Sau 6 tháng tận tình cứu chữa, bệnh tình của cô đã hết nguy kịch và phục
hồi.
Ngày cuối
cùng trước khi người phụ nữ xuất viện, nhân viên bệnh viện đã mang hồ
sơ bệnh và hóa đơn đến cho bác sĩ ký. Bác sĩ nhìn tờ hóa đơn, viết lên
trên đó một dòng chữ rồi chuyển xuống phòng cho người phụ nữ kia.
Người phụ
nữ không dám mở hóa đơn ra xem, bởi cô nghĩ rằng số tiền viện phí chắc
chắn sẽ là một số tiền lớn mà có thể cả đời cô không thể trả được. Nhưng
khi cô mở ra thì một dòng chữ ghi trên tờ hóa đơn như đập vào mắt cô:
“Một ly sữa bò năm xưa đã đủ để thanh toán toàn bộ tiền thuốc men! Bác
sĩ Howard Kelly.“
Trong đôi
mắt cô, hai hàng nước mắt trào ra và trong lòng vô cùng cảm động rồi cô
cầu nguyện: “Thượng đế ơi! Con xin tạ ơn Ngài! Cảm ơn những trái tim
rộng mở và đầy tình người!“
Đúng là
giúp người cũng chính là giúp mình! Hãy biết cho đi và giúp đỡ người
khác, có thể điều bạn cho đi chỉ là một điều rất nhỏ bé nhưng đối với
người khác nó có thể lại là điều giúp họ cải biến cả cuộc đời. Người xưa
dạy con người sống phải tích đức hành thiện quả là rất sâu sắc!
Đây là
một câu chuyện có thật của tiến sĩ Howard Kelly (1858 – 1943), một trong
4 sáng lập viên thành lập Học viện nghiên cứu Y khoa Ung Thư và Đại Học
Johns Hopkins lừng danh của nước Mỹ.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 05/Dec/2018 lúc 7:47am |
Oan Gia Nghiệp Báo
Thời gian gần đây nhiều clip
xuất hiện trên YouTube, mà Youtuber đã đánh động lương tâm của người xem, bằng
cách quay đưa lên mạng những mảnh đời cơ cực, phần đông những người trong clip
đều già nua, bệnh hoạn, hoặc trẻ hơn thì con đau, vợ bịnh, nhiều nguời già mà
còn phải bương chải kiếm sống vì không nhờ được con, làm tôi chạnh lòng, nhớ đến
gia cảnh một gia đình người hàng xóm mà tôi biết từ trước năm 75.
Đó là gia đình bà Tư, người hàng xóm thân thiết của gia đình
chúng tôi.
Vào khoảng cuối năm 1974 gia đình ba má tôi nhờ cái xe nước
mía đậu góc đường Lê văn Duyệt và Hồng Thập Tự mà phất lên mua đuợc nhà, lúc đó
tôi nhớ không lầm là Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu tuyên bố bỏ Ban Mê Thuột, tức
là bỏ Miền Đông cao nguyên nên dân chúng các tỉnh quanh vùng đó ùn ùn đổ về Sài
Gòn, xe nước mía được xay bằng tay, cả nhà từ ba má , anh chi em tôi xay
mệt xỉu luôn và chỉ sau cái Tết nóng đổ lửa năm đó gia đình chúng tôi mua
được căn nhà kế nhà bà Tư và đó là lý do vì sao tôi biết gia đình bà Tư.
Cảnh nhà khang trang của gia đình bà Tư trước 1975 ( hình lấy từ Internet )
Bà có tất cả 12 người con, những năm trước đó ông Tư làm tài xế cho Hãng RMK, bà thì ở nhà nấu cơm chăm con, con gái lớn đi dạy học, làm được nhiêu tiền thì giử lại chút ít, còn bao nhiêu đưa hết cho mẹ, vô phước cho bà là thằng con kế bê tha, trụy lạc, hút sách, lấy cắp đồ nhà đem cầm bán, hở ra gì là lấy cắp món đó, bà cho đi học nhưng khi chở đến truờng bà vừa quay lưng là có người canh nó chở đi liền, đến giờ bà tới đón thì nó xuất hiện cho bà rước về, khi bà biết ra thì quá muộn màng, nó đã lún sâu vào tội lỗi.
Đến tuổi bị bắt lính, nghe lời bạn bè nó đăng lính thứ dữ,
khi nó tập huấn ở quân trường Quang Trung mỗi tuần bà đều lên thăm, vừa mua đồ
ăn, vừa dúi tiền cho nó bỏ túi, bà tâm sự với má tôi là “ hầu như bao nhiêu
tiền con gái lớn đưa mỗi tháng bà xài cho nó hết, vì tiền ông đưa là để
xài trong nhà “........ông tin bà nên cũng đưa hết cho bà, cô con gái lớn giữ
ít tiền thì lại chơi hụi để dành tiền hộ thân.
Thời gian trôi qua, cứ thế, ngày thằng con ra khỏi quân trường
thì bị hốt đổi ra Lai Khê, chiến trận càng lúc càng ác liệt, trong trận đánh ở
Sông Bé nó lạc đường chạy bỏ quân ngủ, mò được về nhà nằm trên gác xép chờ vài
tháng êm êm thì mặc đồ lính mượn xe Honda của chi nó chạy vi vút ra đường, bà
thương nó quá, không biết có nợ nần gì kiếp trước mà trong số 12 đứa con bà
thương nó nhiều nhất, bà mất ăn mất ngủ vì nó.
Chơi ở nhà đâu vài tháng nó lại đăng lính khác, rồi vào quân
trường, ra trận, rồi lại trốn về , và đăng lính khác nữa, bà lo sợ nó chết,
nên mỗi lần về phép bà nuôi nó như nuôi con chim Cưỡng ( nghe người ta ví
thế, chứ tôi không biết nguời nuôi chim nuông chìu , cưng con chim Cuỡng cở nào
).
Bà Tư kể cho má tôi nghe, nên tôi chỉ nhớ đại khái là
vào năm 1973 Hãng RMK rút về nước hay gì gì đó..... ông Tư đổi sang Hãng
Mỹ khác nhiều quyền lợi hơn, và đương nhiên ông làm nhiều tiền hơn, vào khoảng
tháng hai, năm 1975 nơi Hãng ông làm, vài sếp mà ông lái xe cho họ, bảo ông đưa
danh sách cả nhà , họ làm giấy tờ nhận cả gia đình ông được định cư sang Mỹ,
ông đem giấy tờ về nhà bàn với bà Tư sẽ làm thêm vài thủ tục nữa để ra
đi......
Bà Tư nóng lòng chờ thằng con trời đánh đang hành quân ở Lai
Khê, Đồng Nai, chiến trận càng lúc càng ác liệt hơn, mà đi Mỹ là một việc không
thể chần chờ, nhưng bà kiên quyết ra điều kiện với ông là chờ thằng con yêu quý
về đã, ông thì càng ngày càng sốt ruột , vì chính ông là người đã chở vài
chuyên gia Mỹ ra phi trường, chính ông tập họp chở các bà con của nhân viên, có
người ra đi không kịp về nhà còn nhờ ông tới nhà họ chở giúp người thân đem vô
phi trường vì ông có thẻ ra vào phi trường, đấy là vào khoảng tháng giêng,
tháng hai, chưa có nhiều dân chúng ào ào vào phi trường....
Khi ông chở dùm thân nhân của họ vào, ông nhận xét phải có
vàng, đô la hoặc tiền Việt, tóm lại là phải có tiền mới nên đi vì vào đó phải
chờ đến lượt, rồi thì phải ăn phải xài, vì ai mà nuôi báo cô những
12 đứa con của vợ chồng ông, ông sốt ruột quá khi thấy thiên hạ nằm ăn chờ để
đi, ông về hỏi bà còn tiền, vàng , đô la gì không thì nên đi, khi nào thằng con
về thì cho nó căn nhà nầy, nó có bán mà ăn cũng sống được vài năm nữa, nhưng bà
nói một câu mà nghe xong ông bịnh luôn .....ông nằm trùm mền mà thở dài thườn
thượt , bà nói là ..... “ Tui không còn một đồng nào nữa, chơi 10 dây hụi bị giựt
hết rồi ! Chủ hụi trốn đi rồi ! “...... Ông chỉ kịp thốt lên hai tiếng “ Trời
ơi ! “ rồi buông thỏng hai tay....bất lực, tưởng là ông ngũm luôn rồi.
Dân chúng sợ VC vào nên ùn ùn kéo nhau di tản (hình lấy từ Internet)
Sau ngày 30 tháng tư, bà Tư lần lượt bán dần đồ đạc trong
nhà, thằng con quý tử lang thang lếch thếch trở về, cô con gái lớn trước đó
dành dụm hốt được đầu hụi chót chuộc lại miếng đất hương hỏa gần nửa mẫu ở Đức
Hòa , đất của Ông Bà Nội mà vài tháng trước 75 tình hình lộn xộn quá nhắm sẽ
không thể hồi cư, vì cứ năm ba bữa nghe tin VC giựt mìn làm lật xe đò chết thường
dân nhiều lắm, nên các cô em chồng của bà Tư đã bán rẻ miếng đất ấy cho một người
bà con, bà ta chưa kịp sang tên thì miền Nam bị mất vào tay CS, cô con gái lớn
của bà Tư dùng tiền hốt hụi của mình chuộc lại miếng đất, chụp đúng thời cơ,
sau khi mua xong lúc làm giấy tờ cô để cho ba má đứng tên, vì năm đó cô mới 24
tuổi, chưa biết gì về quyền lợi riêng tư của chính mình, cô chưa nghĩ ra của ba
má là của chung trong gia đình.
Hai gia đình chúng tôi thân nhau như ruột thịt, nên chuyện
gì xẩy ra, vui buồn gì cũng nói cho nhau biết, gia đình chúng tôi còn có
xe nước mía, nên sống đắp đổi qua ngày, bên gia đình bà Tư thì thiệt là kiệt quệ.........cô
con gái lớn vẫn tới nhiệm sở trình diện mỗi ngày nhưng trong vòng vài ba tháng
nữa sẽ bị đổi đi xa, vì là độc thân , và họ xét lý lịch có cha làm việc cho Mỹ
Ngụy, có tội ác với nhân dân, nên không thể ở thành phố, thành phố nầy chỉ dành
cho gia đình có công với cách mạng, và phải để dành cho “ nguời anh em
mình “ ở ngoài Bắc vào......tiếp thu.
Trong những tháng ngày còn ở Sài Gòn chờ có quyết định đổi
đi xa, chị theo bà Tư ra chợ Cầu Muối mua khoai lang về đổ ở con đường nhỏ
ngang chợ Ông Tạ để bán cho người mua mớ về luộc bán lẻ, quy luật gì lạ lắm,
khi mua thì bà Tư phải mua cả mấy cần xé ở Cầu Muối rồi mướn xe ba gác chở về,
trước đó khoai sùng khoai tốt gì “ đầu nậu “ mua mão bao cả vườn, họ
muớn nguời nhổ lên thẩy vô cần xé rồi chở xe cam nhông từ tỉnh lên Sài Gòn, khi
mua về bà Tư đổ đóng một nơi nào đó gần chợ , rồi cắm bảng bao nhiêu tiền một
ký, người mua lẻ bao nhiêu ký cũng bán, nhưng lạ một điều mà bà Tư ngày đầu
không biết là người mua khoai họ thủ theo một con dao bén, tới nơi họ xà xuống
móc bao nylon từ trong giỏ của họ, rồi vừa lựa vừa vạt đầu vạt đuôi, vạt
bỏ chỗ thâm chỗ sùng, rồi bỏ vào bao đưa bà Tư cân, bà Tư là tay mơ nên ngày đầu
bị lỗ te tua vì mua thì bị mua điêu ( cân đểu ) mà bán ra thì cân đúng lại bị vạt
đầu vạt đuôi, cứ cân bán xong trả tiền rồi, người mua là những tay sành sỏi xin
thêm bà Tư vài củ, nhưng họ hốt thêm cho một mớ không cần vạt, hai má con nhìn
nhau như thầm hiểu và biết trước là kết quả sẽ vô cùng thê thảm, vì phải bán hết
trong ngày cho rồi chứ không bán hết lại phải muớn xe chở về nhà , mai lại chở
đi sẽ còn khổ nữa. Hai má con cực khổ bán khoai độ tuần lễ không chịu nổi vì lỗ
lã , mệt mỏi vì không quen dầm mưa giãi nắng, và điều nữa là không cân điêu cho
người mua được, nên dẹp luôn cái vụ bán khoai lang.
Thằng con trai của bà thì vẫn là thằng vô tích sự, phá xóm
phá làng, nhậu nhẹt bê tha, chửi cha mắng mẹ, những câu như “ bà đẽ tui ra chi
để tui khổ thế nầy ? ..... bà nuôi tui mà bỏ tui đói quá ! ......” gạo mua tổ
cho 14 người trong nhà mỗi người được 13 ký ( hình như vậy ), với 13 ký
lương thực mỗi nguời thì gồm 6 ký gạo mốc và 7 ký khoai lang , khoai mì, có
tháng thì là bo bo, khi chị và mẹ đi bán nó ở nhà gom gạo đem bán rẻ lấy tiền
đi nhậu, trước đó ông Tư bán hai chiếc Honda gom hết tiền mua xe Lam chạy từ Bảy
Hiền ra Sài Gòn, xe đuợc nhập từ năm 1967 ( nhớ vậy ) Ông Nguyễn Cao Kỳ mua về
nước bán trả góp cho người dân ai muốn chạy chở khách thì mua, đến năm 75
những xe đó cũ quá rồi, ông Tư mua lầm xe cũ xì, họ tân trang, sơn
phết lại bán cho ông, nên ông chạy cứ hư hoài cũng chẳng mang được tiền về
nhà.
Sau vụ bán khoai lang thì Bà Tư và chi lớn ra chợ trời, mua
qua bán lại, đắp đổi sống qua ngày, sau đó chị có Giấy quyết định đi dạy
xa, bà Tư lầm lũi đi buôn một mình, một bữa ở bên nhà tui nghe cái rầm ....có
tiếng loảng xoảng như tiếng thuỷ tinh vỡ bên nhà bà, rồi nghe tiếng thằng con
bà la lối um sùm, sau đó nghe bà kể lại với má tôi, bà đi buôn đồ cũ, gặp gì
mua nấy rồi bán lại, trưa đó bà mua được cái radio xài pin, đem về nhà định
nghe cho vui rồi mai sẽ đem ra chợ trời rao bán lại kiếm lời, đang nằm võng lim
dim nghe vọng cổ, cái radio để trên bàn thấp kế bên, từ ngoài cửa nó xăm xăm bước
vào chụp cái radio quăng mạnh vô cái Tivi , cả hai cái đều bể, đó là hai món
quý giá cuối cùng trong nhà bà Tư, rồi nó la lên :
- Có gì ăn không, dọn cho tui ăn, bà sướng quá, tui đang đói
mà bà nằm nghe “dọng “ cổ... ..........
Bà bịnh luôn không ngồi dậy nổi, ôi thảm cảnh trong
nhà bà Tư, phải trước kia bà đi Mỹ, bỏ thằng mất dạy nầy ở lại thì bà đâu phải
khổ thế nầy........Vì thương nó, chờ nó mà cả nhà 13 người phải lâm vào cảnh khổ
thế nầy !
Từ sau năm 75, mọi người dân ở miền Nam khổ ơi là khổ, gia
đình tôi cũng vậy, bán nước mía đâu còn huy hoàng nữa, má tôi bán nhà về quê ở
Củ Chi, xem như đứt đoạn với gia đình bà Tư........
Bà Tư đi lấy bánh mì về bán (hình mình họa)
Khoảng năm 1978, má tôi đi thăm bà con ở Hốc Môn, buổi tối
má tôi và nguời chị chồng vào chợ ăn hủ tiếu, ăn xong đi dọc vài căn phố gần chợ
để đến tiệm sửa điện hỏi xem cái Tivi cô bỏ sửa họ làm xong chưa để ngày mai
kêu anh họ tôi ra lấy, buổi tối khu chợ nầy rất đông người qua lại, má tôi thấy
ai lom khom phủi phủi cái thềm nhà bên vệ đường, má tui bảo cô dừng lại xa xa
xem ai mà thấy giống bà Tư quá, và cố nhìn cho kỷ thì rõ ràng đúng là bà
Tư, nhưng sao bà lại có vẽ như muốn ngủ lề đường vậy.....
Sau một hồi phân vân, má tôi bảo cô thôi đừng đi qua, mà hãy
đứng từ xa nhìn xem sao, thì lát sau, sau khi dọn chỗ tương đối sạch má tui thấy
bà Tư trùm cái mùng nhỏ và nằm ngủ bên vĩa hè của căn nhà vệ đường, má tôi bật
khóc, suy nghĩ mãi lý do nào mà bà Tư lâm vào cảnh bần cùn thế nầy, sau cùng má
tui nói cô thôi về nhà cô đi đừng đi qua chỗ đó , và thay vì ngày mai về, má
tôi quyết định ở lại thêm ngày nữa để tối mai ra gặp bà Tư, vì thời gian đó phần
đông những người từ kinh tế mới trở về ban ngày họ vật vã xin ăn hay làm thuê
làm mướn kiếm tiền, ban đêm chờ chủ nhà đóng cửa họ mới trải chiếu ngủ nhờ, và
phải thu dọn sạch sẽ trước trời sáng hôm sau , tức là trước khi chủ nhà mở cửa.
Bà Tư ngủ lề đường (hình mình họa)
Tối hôm sau cũng khoảng 9 giờ đêm má tui rình từ xa xa
thấy bà Tư xách cái bao, đoán là trong đựng tấm vải trải ngã lưng và cái mùng
nhỏ dùng để trùm cả đầu mình tay chân mà bà dùng để cuộn tròn ngủ cho đỡ muỗi cắn,
má tui đi nhanh lại ôm bà, bà giật mình khi hội ngộ má tui, cả hai đều khóc. Rồi
bà kể sự tình trong nước mắt :
Khi chi bán nhà đi rồi, con gái lớn của tôi cũng đổi đi dạy
học xa, ông chồng tôi bán xe lam mua lại chỉ được chiếc xe Honda đời cũ, còn dư
chút đỉnh, sau đó ông đuợc nguời em bà con đi tập kết về nhận cho lái xe trong
Hợp tác xã ở Hốc Môn, số tiền còn lại ít ỏi từ vụ bán xe lam tôi về quê cất cái
chòi ở Đức Hoà, là đất bên chồng mà con gái tôi chuộc lại từ người bà con, trước
đó mấy cô em chồng đã bán vì nghĩ sẽ không bao giờ trở về đó nữa vì chiến
tranh, tuy gần thành phố mà vài ba bữa bị VC cho nổ mìn.
Gần nơi đó có một trường Trung Tiểu học, tôi về đó bán
bánh mì buổi sáng cho học sinh , chỗ đó không có lò bánh mì cứ mỗi chiều tôi
theo chuyến xe đò cuối cùng xuống Hốc Môn, đi vòng vòng chợ chơi rồi chờ tối ra
đây ngủ để khuya đi lấy bánh mì ở lò gần đây, vì là lò của Hợp Tác Xã, tụi nó
làm thêm bán chui kiếm thêm thu nhập, lúc trước khuya 3 giờ sáng ông xã tôi chở
đi lấy nhưng chỉ thời gian ngắn sau ông không chịu nổi vì sáng phải đi làm, lái
xe cho HTX mà ngủ gục, thành thử cứ mỗi chiều tôi đón chuyến xe cuối
đi một mình xuống đây, ngủ đây rồi chờ 4 giờ khuya qua lò bánh, vào cửa sau ,
nhân công đếm sẵn bánh rồi, chỉ trả tiền rồi vác ra bến xe gần đây, đi mua bánh
mì mà như đi ăn trộm, vì nhân công làm mẽ đầu bán lén để có thêm thu nhập,
tôi bán mỗi sáng độ chừng trăm ổ, ế thì mấy nhỏ ăn trừ cơm, trên đó có chợ
nhỏ, dặn thịt trước, trưa bán xong qua chợ mua miếng thịt về luộc bỏ màu gạch
vào nhìn cho đuợc mắt rôi đậy lại, làm đồ chua mọi thứ xong xuôi, chiều tối
theo chuyến xe cuối cùng xuống đây ngủ chờ lấy bánh, khuya đem về sớm đẫy xe ra
bán trước trường học.Con gái lớn vẫn còn đi dạy, về nhà mỗi tuần, nhà ở SG chưa
bán đuợc vì họ trả rẻ quá, má tui hỏi :
- Còn thằng con trai lớn của chị đâu sao không đi lấy bánh
cho chị, mà để chị đi khổ sở ngủ hè ngủ đuờng phố thế nầy ?
Bà Tư mếu máo :
- Oan gia nghiệp báo chị ơi, khổ lắm, nó vẫn kiếm chuyện chửi
tôi như xưa, có bữa sáng về lấy thịt ra bán thì không còn miếng nào cả vì tối
qua nó rũ bạn tới ăn nhậu hết rồi, sáng đem bánh về còn dọn chỗ nó ói mữa từ
trên giường xuống đất, bữa đó phải mau mau ra quán mua mấy hộp cá mòi về chế biến,
hôm đó bán bánh mì chan cá nấu với cà chua ....,,ông xã tôi từ lúc không chở
tôi đi lấy bánh nữa thì buổi tối ông về nhà ở thành phố ngủ, vì vẫn còn vài đứa
con ở đó, mà ổng kỵ thằng nầy, nó về đây thì ổng về đó, nó về đó thì ổng
về đây, hai cha con như hai kẻ thù truyền kiếp........ chị biết không, tối ngồi
đây mà che cái nón lá sùm sụp, sợ gặp nguời quen, chờ bớt người, bớt xe cộ qua
lại mới dọn chỗ nằm ngủ, có bữa thấy chú nó là em chồng tôi từ Trung Chánh chở
vợ xuống đây ăn tối, tôi phải che cái nón lá, thụp cái đầu xuống vì sợ nó
thấy mình, dù trước 75 ông nhà tôi giúp đỡ gia đình nó nhiều lắm. Bây giờ nghèo
khổ tôi cũng còn sĩ diện, không cần sự giúp đỡ của ai, chờ bán được nhà gom về
một mối, sẽ đỡ khổ hơn bây giờ, tôi hy vọng vậy, nhưng không biết tôi với ông ấy
còn sống tới ngày đó không ?
Đêm đó về nhà chi chồng mà má tôi trằn trọc mãi không sao ngủ
được, thầm vái van cầu xin ơn trên che chở cho bà thoát khỏi cảnh ngủ đường, ngủ
chợ thế nầy.......
Đoạn cuối,
Nhiều năm sau có dịp lên Đức Hoà, má tôi ghé thăm bà Tư, giờ
khá lắm, nghe kể vài năm sau giá nhà lên vì cán bộ ngoài Bắc vào tranh nhau
mua, bà bán được nhà, ông bà Tư đem tiền về quê cất nhà tuờng trên đất hương hoả,
con gái lớn lấy chồng, theo chồng ra nước ngoài, thằng con kế nhậu nhẹt chết vì
ruột gan phèo phổi tanh banh do uống rượu độc mua từ TQ, nó chết xong bà Tư mới
yên, mọi người mới yên, các người con kế của bà cũng lấy chồng, lấy vợ cùng
trong làng, làng mạc giờ không còn chiến tranh thì cũng giống y như thành phố.
Cũng mừng cho bà, thằng con chết , bà đã trả xong món nợ mà bà vay nó từ tiền kiếp, nó lấy đủ nợ cho hết rồi mới chết, nghe nói nó chết mà bà làm tang ma lớn để.......ăn mừng và không khóc than tiếc nuối, thương cảm như năm xưa ông biểu bà cùng ông lo giấy tờ đi Mỹ , sau đó bà mới được thảnh thơi vào tuổi xế chiều..... Mùa đông 2018.
Phan Ngọc Vinh
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 10/Dec/2018 lúc 7:34am |
Ăn Và SốngTrong Kinh Cựu Ước có ghi rõ ràng, ông tổ loài người là cụ Adam bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng chỉ vì ăn. Xấu hổ. Tội ăn vụng một trái táo. Rõ miếng ăn là miếng nhục. Khi đuổi vợ chồng cụ đi, Đức Chúa Trời đã chỉ vào mặt mà phán một câu xanh rờn: “Từ nay mi phải đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn vào mồm”. Con cháu loài người sau nầy, đời đời chịu lây cái tội tổ tông đó.
Nhiều
đời sau, con cháu cụ, có một gã “cà chớn” bày đặt, giả làm một cuộc
phỏng vấn tưởng tượng, hỏi cụ, xin cho ý kiến về vườn địa đàng. Cụ trả
lời rằng:
-“Đó
là một nơi khủng khiếp, chỉ ăn một trái táo thôi, là đi đong cuộc đời.
Khắc nghiệt đến độ chồng làm, mà vợ cũng chịu tội lây, và con cháu đời
đời cũng oằn lưng ra gánh cái tội đó. Chưa hết đâu, ở đó khổ cực, chẳng
có áo quần, đến nỗi phải lấy lá nho mà che háng cho đỡ xấu hổ”.
Lời
phán trên của Chúa Trời, còn hiệu lực, đến nỗi thế giới ngày nay, còn
có hơn năm trăm triệu người đói ăn thường trực, và nhiều tỉ người khác,
thì lo ăn cho no thôi, cũng đã phải cật lực đêm ngày, vã mồ hôi hột, bở
hơi tai.
Rõ
ràng là miếng ăn gây nên tai họa. Bởi vậy nên người xưa có truyền lại
con cháu: “Mọi tai vạ đến từ lổ miệng” Đúng vậy, chỉ vì ăn mà đem bệnh
hoạn vào người, đau bao tử, đau gan, đau thận, đau tim, nghẽn mạch máu,
ung thư… đủ thứ, tất cả chỉ vì ăn. Ngày xưa, hầu như đa số các “đấng
quân vương” trên khắp thế giới đều chết sớm, do bởi cái ăn. Ăn cho cố.
Ăn toàn cả các thức bổ béo, ngon lành, thịt thà ê hề. Cái gì bổ béo cũng
dâng cho vua ăn, mỗi bữa ăn cả năm bảy chục món, thì nghẽn tim, nghẽn
mạch máu là cái chắc, làm sao thoát. Thế mà đòi sống lâu sao được. Các
ngài chết vì ăn, mà không biết, cứ đổ riết cho mệnh trời, là đã đến số.
Một
số không ít các vị vua xưa, vì muốn sống lâu để ăn, sai đi tìm thuốc
trường sinh, bị lang băm lừa, cho uống toàn các thứ độc địa, làm méo
miệng, trợn mắt, co rút tay chân rồi chết. Sách còn chép, có nhiều ông
vua Tàu chết vì uống thủy ngân, lang băm cho rằng thủy ngân là thuốc
trường sinh.
Ngày
nay, khoa học khám phá ra chất mỡ đọng quanh tim, bao và siết chặt, làm
tim ngừng đập, lăn quay ra chết. Mỡ làm mạch máu nghẽn, máu không lên
thấu não bộ, té một cái là xong đời. Chết mau, chết lẹ, chết tình cờ,
chết không triệu chứng báo trước. Làm gia đình, vợ con, bạn bè ngạc
nhiên: “Ừ, ai ngờ, đang khỏe mạnh đến thế, mà sao mau quá”.
Biết
rõ có sự chết chóc nằm trong cái ăn, nên thiên hạ đua nhau kiêng cử.
Không dám ăn uống đủ thứ. Kiêng mặn, kiêng béo, kiêng ngọt, kiêng thịt
bò, thịt heo, tôm cua, kiêng dầu mỡ, kiêng bơ, kiêng sữa, kiêng cà phê,
kiêng thuốc lá, kiêng rượu chè. Có người hỏi rằng, cái gì ngon lành,
khoái khẩu cũng bị cấm đoán, bị kiêng cử, bị khuyến cáo đừng mó vào, thì
sống làm quái chi cho mệt. Không biết đến bao giờ thì vệ sinh về ăn
uống bắt kiêng thêm cay, đắng, chua nữa đây? Hay là các mùi vị nầy khó
nuốt nên khỏi kiêng chăng?
Nhiều
người ham sống, nên sợ ăn. Kiêng cử đủ thứ, không dám ăn uống, họ bắt
cái miệng chịu đựng kham khổ còn hơn miệng các vị chân tu khổ hạnh, làm
cho thân xác gầy mòn, hư hao, mặt mũi vêu vao như con ma đói. Không biết
có phải vì sợ ăn, cho nên quan niệm về nét đẹp của thời đại là những
khuôn mặt hốc hác, tiều tụy, ốm o, tay chân khẳng khiu như que củi, dài
lòng thòng. Bằng chứng là những tượng người mẫu chưng trong tủ kiếng, và
hình người mẫu màu mè trên quảng cáo hàng ngày, giống hệt một lũ nộm
nang, như dám tù vừa ra khỏi những lò học tập cải tạo của các đồng chí
đỉnh cao trí tuệ bên nhà. Lạ lùng, càng gầy gò tiều tụy, càng ngực lép
mông teo, thì càng vác mặt lên mà kiêu hãnh, ta đây.
Có
nhiều ông bà người Mỹ to lớn, u nần, phì hơn loài heo nước, nặng vài tạ
như các lực sĩ Sumo xứ Nhật Bản. Cái bụng xề ra thụng xuống giống như
cái mông. Mỡ mòng bùng nhùng từng ngấn. Cái mông thì vĩ đại, tay hai
người lớn ôm chưa giáp vòng. Cái chân như gốc cổ thụ. Cắt cái chân họ
ra, cắt từ mông xuống đến đầu gối, thì chắc chắn cân nặng hơn nhiều đấng
nam nhi có tác vóc bình thường. Khi nào họ cũng mệt nhọc, thở phì phò.
Trong
một cuộc phỏng vấn do ông bác sĩ tâm lý trên truyền hình, đa số những
người mập nầy chối phăng về chuyện ăn nhiều. Họ nói rằng họ ăn rất ít.
Ông bác sĩ nhăn nhó hỏi, thế thì thịt thà mỡ mòng nầy từ đâu mà ra?
Không lẽ do không khí, do nước lã? Thế mà họ nhất định không chịu cho là
vì ăn nhiều, mà thành mập phì. Cũng có thể họ nghĩ rằng mỗi ngày ăn chỉ
năm bảy bữa, và mỗi bữa chừng vài ký thức ăn thôi, là ít lắm rồi.
Trong
khi cả thế giới từ Âu sang Á, và nhất là Phi Châu, hầu như nơi nào cũng
thiếu ăn, thức ăn nơi nào cũng quý báu, thì nước Mỹ dư thừa thực phẩm,
dư quá đáng. Hàng năm, chính phủ phải thưởng tiền, bù lỗ cho những nông
gia bỏ ruộng hoang, không sản xuất, để cầm hãm cái mức thặng dư nông
phẩm, cho khỏi mất giá trên thị trường thế giới. Cho nông gia còn có lời
mà sống sót, khỏi bị lỗ vốn, phá sản, sạt nghiệp.
Ở
Mỹ, thì giàu hay nghèo, đều có khả năng ăn uống sung sướng như nhau. Mà
chưa chắc giàu ăn ngon hơn nghèo. Vì ai cũng có đủ khả năng mua các
thức ăn cơ bản như thịt bò, heo, dê, gà, vịt, tôm, cá, cua, nghêu sò,
rau đậu, vân vân. Món ăn ngon là nhờ khéo chế biến kỹ lưỡng, có thì giờ
chăm chút nấu ăn. Người nghèo dư thì giờ để nấu ăn hơn người giàu. Người
giàu bận rộn nhiều thứ khác. Giàu tiền, thì có nhiều khả năng vào các
tiệm sang trọng, đắt giá. Tiệm sang và đắt thì chưa chắc đã ngon. Món ăn
nấu trong tiệm nhằm mục tiêu thương mãi, phải nấu mau, trong một thời
gian hạn định. Không thể bắt khách hàng ngồi chờ cho đắng miệng mới bưng
thức ăn ra, như thế thì có cơ dẹp tiệm sớm, khách đến một lần rồi kịch
mặt, không bao giờ dám trở lại nữa.
Nhiều người mời khách, đôi khi họ cố ý kéo dài thời gian chờ đợi, để khi khách đã đói meo, mới dọn thức ăn ra. Khi đó thì ăn cơm cháy cũng thấy ngon. Chủ nhà có nấu dở cũng sẽ được khen ngon. Tôi sợ nhất là đi ăn cúng giỗ, đám cưới, họp mặt. Bắt chờ đợi đến dài cổ, khi thức ăn dọn ra thì miệng mồm mình đã đắng nghét, thần kinh vị giác đã tê liệt, và khi ăn vào, không có mùi vị gì cả. Rút kinh nghiệm, mỗi khi đi ăn tiệc, tôi phải ăn trước, ăn gần no hoặc thật no rồi mới ra đi.
Khi
bụng đã no rồi, thì tôi chấp thiên hạ, trễ bao nhiêu tôi cũng không
ngán, nói dài dòng đến mấy tôi cũng không bực mình, không lóng ngóng
nhìn xem nhà hàng sắp dọn thức ăn ra chưa. Những khi bụng đói, bụng sôi
rồn rột nầy, thì thực khách không muốn nghe bất cứ cái gì nữa, có nói
thì cũng như nước đổ lá khoai mà thôi. Đang mệt vì đói, đang mong thức
ăn dọn ra, dù cho nói những điều bình thường nhất, cũng không ai muốn
ghi nhận, không ai muốn hiểu. Mệt lắm.
Với
cái bụng no, khi thức ăn dọn ra, thì tôi cũng đủ sức mà giữ được cái
tác phong ăn uống từ tốn, lịch sự, chứ không phải hấp tấp, láo liên như
những người đang đói. Tôi sẽ chỉ thưởng thức những món khoái khẩu mà
thôi. Nếu không có món ngon, thì tôi cũng nhâm nhi vài sợi cho hòa đồng
với thiên hạ. Ăn uống, thì phải thong thả, mới thưởng thức được cái
ngon, cái mùi vị hấp dẫn.
Nhưng
có nhiều tiệc cưới, nhà hàng dọn thức ăn dồn dập, ào ào, người bồi bàn
ném dĩa thức ăn lên bàn rất là thiếu lịch sự. Như muốn hối thực khách ăn
gấp đi, ăn xong mà chuồn gấp để chúng tôi còn lo việc khác nữa. Có lẽ
chủ nhà hàng cũng đủ tinh ranh để biết, mỗi người chỉ có một lần, không
đủ sức, và không có cơ hội để làm thêm cái đám cưới thứ hai, hoặc có làm
được, thì cũng còn lâu lắm, khi đó thì mọi việc cũng đã đi vào lãng
quên, cho nên cứ đối xử tệ cũng chẳng sao.
Đi
ăn đám cưới, bà con hai họ hình như chẵng thiết tha gì đến nhạc trống
ầm ĩ, chẳng nghe ca sĩ gào rát họng, cũng chẳng chú ý nhìn đến dâu rễ và
gia đình, mà họ lại chú ý nhiều hơn vào các món ăn. Món nào ngon, món
nào dở. Chỉ nói chuyện với những người cùng bàn. Ăn xong, ra về, cái cảm
tưởng còn lại sau tiệc cưới có lẽ là cái món ngon đặc biệt mà họ vừa
thưởng thức, hay là bữa tiệc quá tầm thường, dở.
Thật
tình, thì hầu như không ai thích đi ăn đám cưới cả. Thiết tha gì với
một bữa ăn mà mỡ mòng nhiều hơn các thứ khoái khẩu. Nhưng phải đi vì
lịch sự, vì xã giao. Đi thì phải ăn, vừa ăn vừa sợ cao máu, sợ nghẽn
tim, sợ bệnh hoạn.
Nhớ
lại những năm đầu, khi miền Bắc mới chiếm được miền Nam, đám cưới cũng
phải có ăn, không có ăn không được. Dù ăn rất ít, mỗi người khách một
nhúm đậu phọng rang, và một ly nước ngọt con cọp. Có ly nước ngọt là
sang lắm rồi. Và có lẽ vì ăn ít, nên trong những bữa tiệc cưới đó có rất
nhiều người nói. Nói dai, nói dài, nói dở, và nói toàn những lời không
liên quan gì đến hạnh phúc lứa đôi của hai trẻ, mà nói về nghị quyết
đảng, nói về nhiệm vụ, thắng lợi, hoàn thành, và câu nói rất phổ thông
là “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”.
Đừng
ai bảo “miếng ăn là miếng nhục”. Nhục sao tất cả mọi người, sang hèn,
giàu nghèo, vua chúa, ăn mày, ai ai cũng không ngớt nghĩ đến miếng ăn.
Mỗi ngày không thể không nghĩ đến ba lần? Sáng mới bảnh mắt thức giấc,
là đã nghĩ đến miếng ăn, phải có chút cháo, chút cà phê, hoặc chút bánh
mì bơ, sang hơn thì tô phở, tô hủ tiếu. Trưa gần mười hai giờ, đố ai
không nghĩ đến miếng ăn, hôm nay có gì ăn, và ăn ở đâu, ăn gì cho ngon.
Chiều tối cũng nghĩ đến ăn. Phải ăn cho no bụng đêm nay mới ngủ được,
chưa có gì ăn thì phải sục sạo, đi tìm, nấu nướng. Không ai là không
nghĩ đến ăn. Ngay cả đau bệnh nằm liệt giường, miệng mồm đắng nghét,
cũng thèm ăn, nghĩ đến ăn, mong cho mau lành bệnh đễ được ăn một tô phở,
tô hủ tiếu, tô bún bò. Đang đuổi giặc cấp bách, cũng nghĩ đến miếng ăn,
không ăn thì lấy sức đâu mà đuổi? Đang bị giặc đuổi, chạy vắt giò lên
cổ, tính mạng lâm nguy, cũng nghĩ đến miếng ăn, phải ăn mới có sức chạy
trốn. Khi đang họp quốc hội, bàn đến vấn đề sinh tử của đất nước, bàn
đến chiến tranh hay hòa bình, nếu buổi họp kéo dài quá bữa ăn vài giờ,
chắc chắn các đại biểu phó hội đều cảm thấy bực bội, uể oải, đầu óc
không còn chú trọng vào mục tiêu buổi họp nữa, mà nghĩ lãng về cái bụng
đang sôi, cái miệng đang thòm thèm. Mong sao cho chóng kết thúc, để đi
ăn.
Trai
gái yêu nhau, đem nhau đi chơi cảnh đẹp, chốn vui cũng chưa đủ, phải
đem nhau đi ăn cái gì ngon miệng. Đi chơi mà bụng đói meo, thì cũng mệt
mỏi, chán nãn, sinh ra cằn nhằn, giận lẫy, mất vui, và có khi làm tan vỡ
cả cuộc tình thơ mộng. Khi đói thì tình yêu nó cũng bớt nồng nàn, bớt
thơ mộng. Đứng trước danh lam thắng cảnh rực rỡ, mà bụng đói meo, thì
cũng chẳng thưởng thức được gì. Cảnh có đẹp đến mấy, cũng khó rung động
được vùng thần kinh trong não bộ, để thưởng thức, để hoan hỉ. Các đạo sĩ
Pha-Kia xứ Ấn độ, ngậm một hạt mè, nằm trần truồng trên núi tuyết ba
tháng nhịn ăn, chắc chi trong đầu không nghĩ đến chuyện sau ba tháng, ăn
cái gì cho khoái khẩu.
Những
bậc chân tu, mỗi ngày một bữa độ trai, ngày hôm sau quá ngọ, mà chưa có
gì ăn, cũng quýnh quáng lên, cũng cáu bẳn hỏi sao chưa có. Và chắc chi
suốt ngày, các ngài không thòm thèm nghĩ đến oản trái? Dù cho các ngài
có nghĩ đến oản trái, cũng không có gì xấu hổ, không có gì đáng trách
cả, vì đó là cái phản ứng sinh lý tự nhiên của cơ thể.
Đừng
tưởng chỉ những người nghèo khó, đói ăn mới nghĩ nhiều đến miếng ăn.
Những kẽ giàu có tiền rừng bạc biển còn nghĩ đến cái ăn nhiều hơn, miếng
ăn đối với họ càng quan trọng hơn. Họ lục lạo, tìm tòi những cao lương
mỹ vị, những món ngon, lạ, tìm những tiệm đặc biệt, những nơi nấu ngon,
và cứ tiệc tùng, đãi đằng không ngớt. Và đặc biệt, họ không chịu đói
giỏi như người nghèo, nên càng phải nghĩ đến vấn đề ăn uống nhiều hơn.
Nhưng người đủ ăn, dư ăn, thì họ không nhìn vạn vật dưới nhãn quan của
miếng ăn.
Khi
nhìn một con chim phượng hoàng, họ thưởng thức được bộ lông tuyệt đẹp,
cái dáng cao sang mỹ miều của con chim. Nhìn một thú vật lạ, họ thưởng
thức cái khác thường của con thú. Người nghèo, nhất là đông đảo dân châu
Á, châu Phi, khi thấy một con vật lạ, cái ý tưởng đầu tiên đến trong
đầu họ, là có ăn được hay không, và ăn được thì làm sao mà nấu cho ngon,
cho thơm, bỏ thêm gia vị gì cho thêm béo bùi. Chim phượng hoàng làm chả
cách nào ngon. Họ thấy cái ăn trước, cái mỹ thuật sau.
Trong
sinh hoạt gia đình, xã hội, quốc gia, quốc tế, có họp mặt là phải có ăn
kèm theo. Gia đình họp mặt, ngồi dòm mặt nhau thôi, không có gì ăn cả,
thì cũng thành lạt lẽo, mất vui, và chưa chắc quy tụ được đông đảo bà
con, họ hàng. Bởi vậy nên khi có cúng giỗ, làm ra mâm nầy, mâm kia,
không phải dành cho người chết ăn, đã chết rồi, còn ăn uống chi được
nữa, mà mâm cao cỗ đầy là dành cho con cháu, dành cho họ hàng, cho những
người còn sống ăn, có thế mới quy tụ được đông đảo, thân tình và vui
vẻ. Thử mời anh chị sui gia đến chơi, mà không cho ăn uống gì cả, thì
còn hay lui tới thăm nhau không? Thử tổ chức họp bạn, cũng không có gì
ăn cả, xem có bao nhiêu người chịu bỏ công, bỏ thì giờ đến? Ra mắt sách,
ra mắt thơ, nếu có ăn uống linh đình, thì số người tham dự đông đảo
hơn. Không có ăn uống nhiều, thì cũng phải có bánh trái, nước ngọt,
không có gì cả, thì chỉ nên hy vọng một số lượng khách tham dự khiêm tốn
và lèo tèo thôi. Nếu có nhà phê bình nào tham dự, được ăn ngon, thì họ
cũng nới tay, không nỡ nào viết nhũng lời gay gắt. Cả những buổi hội
thảo tu nghiệp chuyên môn, ban tổ chức cũng gắng sao cho có được những
thức uống buổi sáng, cà phê, bánh ngọt càng ngon lành càng tốt, những
buổi ăn trưa sang trọng.
Như
thế, thì hy vọng người tham dự thỏa mãn, vui vẻ, mà thu nhận được nhiều
điều hơn trong cuộc hội thảo, và lần hội thảo sau sẽ đông người tham dự
hơn. Những phiên họp có tính cách quốc gia, thường thường có kèm theo
ăn uống, đãi đằng tưng bừng, để người phó hội được vui, sau khi ra về,
có hứng khởi, có thỏa mãn, vui vẻ. Cả những buổi họp thượng đỉnh quốc
tế, nếu chỉ cho các vị nguyên thủ quốc gia uống nước lọc mà thôi, không
có rượu, không tiệc tùng gì cả, thì kẻ ngu muội nhất, cũng đoán biết kết
quả sẽ tệ hại như thế nào. Dù biết uống nước lọc là hợp với vệ sinh giữ
gìn sức khỏe.
Ngay
cả những người làm chung sở cả nhiều năm, gặp nhau hàng ngày chào nhau,
và cũng có họp bàn công việc chung nhiều lần, mà vẫn không thân thiết
nhau. Nhưng nếu có đi ăn chung vài ba lần, thì nẩy ra tình thân liền.
Sau đó, khi có công việc gì nhờ vả, thì cũng mau mắn hơn, nâng đỡ nhau
nhiều hơn. Có phải cái ăn tạo nên tình thân đó không?
Miếng
ăn mua chuộc được lòng người mau nhất, dễ nhất. Trẻ con yêu ông bà nội,
ông bà ngoại, một phần vì tình thương dịu dàng, ngọt ngào dành cho
chúng, mà phần lớn có lẽ vì hay cho chúng ăn uống. Mấy bà vợ nấu ăn
ngon, thường cầm giữ được chân các ông chồng hơn, mê hoặc được các ông
nhiều hơn. Khi cơm chiều dọn ra, được ăn ngon, dù các ông không nói ra,
nhưng các ông biết ơn vợ nhiều. Cơm vợ ngon như thế nầy, thì cần chi đi
la cà với bạn bè ở quán xá? Bao nhiêu khó khăn, mệt nhọc trong ngày dễ
quên, và dễ tan biến vì miếng ăn ngon của vợ cho. Từ đó, mà quan hệ vợ
chồng, hạnh phúc gia đình được êm đềm, đẹp đẽ hơn. Biết miếng ăn ngon có
thể củng cố hạnh phúc gia đình, nên các cụ xưa dạy cho con gái nghệ
thuật nấu ăn trước khi về nhà chồng.
Các
trường dạy nấu ăn hốt tiền nhiều nhất của các cô gái sắp lên xe hoa. Có
người bảo rằng, vợ chồng trước khi ân ái, mà được ăn ngon, thì cuộc ái
ân sẽ nồng mặn hơn, vui vẻ hơn, và bền bỉ hơn. Sau khi ái ân nồng nàn,
thì các bà vợ thường cho chồng ăn ngon hơn. Khi có ai ghét bỏ mình, ráng
mời họ đi ăn vài lần, cho họ ăn thật ngon, thì cứ hy vọng có sự thay
đổi. Cứ đặt địa vị mình vào đó, không lẽ ăn của người ta ngon lành, mà
còn thù ghét người ta sao. Bọn ăn cướp, khi cướp được một mẽ, cũng ăn
uống, tiệc tùng, nhậu nhẹt, để mua chộc lòng trung thành của nhau. Bọn
cướp núi thì mổ dê, giết trâu cho thuộc hạ ăn, được ăn ngon thì biết ơn,
sống chết có nhau, không phản bội. Vua chúa cũng mua chuộc lòng trung
thành của quần thần bằng yến tiệc linh đình, để tránh việc đảo chính,
soán đoạt ngai vàng. Vua cho các vị tân khoa ăn yến, để ban ân, và mua
chuộc về sau. Trong truyện Tàu xưa, có ông vua bị giết chết vì một miếng
thịt con giải. Vua không cho một vị quan ăn thịt giải, mà ông quan cứ
bốc đại một miếng cho vào mồm. Rồi chết chóc tiếp liền theo sau.
Trong
khi theo đuổi tình yêu, con đường ngắn nhất để trai gái chinh phục nhau
là miếng ăn. Đem các cô đi ăn, cho ăn các món ngon, khoái khẩu, thì
lòng các cô phơi phới, cởi mở, thấy đời đáng yêu, trời đất đáng yêu, và
anh chàng cho cô ăn đó cũng đáng yêu lắm lắm. Nhiều bậc cha mẹ thương
con gái, chiêu rễ bằng cách mời bạn trai của con ăn uống ê hề. Khi nào
cũng đãi đằng, ăn uống ngập cổ. Ăn quá mà không cưới con gái người ta
thì kỳ lắm.
Thời
xưa , nước Trung Hoa bị bát quốc xâu xé, bà Từ Hy Thái Hậu biết miếng
ăn rất quan trọng, có thể mua được lòng người dễ dàng, nên đặt tiệc đãi
các sứ thần linh đình, gồm có mấy trăm món, toàn những thức ăn hiếm hoi,
quý giá, cao lương mỹ vị, lạ lùng. Các sứ thần ăn no, thỏa thuê rồi, mà
chơi ép thì cũng kỳ, đành phải nới tay trong các đòi hỏi, trong các
hiệp ước xâm lấn. Gần đây, những bữa tiệc của chủ tịch Mao Trạch Đông
nước Tàu đãi tổng thống Richard Nixon của Mỹ, cũng mấy trăm món. (Dạo
đó, cả nước Tàu đang chết đói lên đến hàng chục triệu người). Không biết
bụng dạ đâu mà ăn cho nỗi, dù mỗi món chỉ dùng đũa chấm mút thôi, e
cũng đã mỏi cả tay rồi. Ông bà Nixon khen đáo để, báo chí ồn ào mô tả
lại với giọng điệu khâm phục. Không biết trong các bữa tiệc đó, ông Mao
có ăn uống nhồm nhoàm, ngoác miệng ra nhai, vưa nhai vừa nói, chắp miệng
ồn ào, húp xùm xụp hay không. Người ta bảo ông Mao đã thành công, đã
chinh phục được ông Tổng Thống nước Mỹ nhờ miếng ăn. Và sau đó không
lâu, thì nước Đài Loan bị bỏ rơi. Tổng Thống nước Mỹ đâu có đói? Thế mới
biết mãnh lực của miếng ăn.
Miếng
ăn thường là nguồn gốc của tranh chấp quốc tế. Thế chiến thứ nhất, thứ
hai, dù được giải thích bằng xung khắc, bằng tham vọng, nhưng tận cùng
của vấn đề là miếng ăn. Tranh nhau ăn, tranh nhau thị trường, tranh nhau
tài nguyên. Đó là miếng ăn, rõ ràng miếng ăn. Gia đình cũng tranh ăn mà
anh em giận nhau, vợ chồng thù ghét nhau. Giặc giả nổi lên cũng thường
vì miếng ăn, dân đói quá, đi làm giặc để kiếm miếng ăn. Vua chúa bị mất
ngôi cũng vì miếng ăn. Ngày xưa, nhiều vị anh hùng nổi lên, cướp của nhà
giàu cho người nghèo đói ăn, mà làm nên sự nghiệp. Cách mạng nổi dậy
rần rần cũng vì miếng ăn. Người ta bảo cuộc cách mạng năm 1917 bên Nga
Sô xảy ra cũng vì miếng bánh mì. Nga Hoàng đã tạo nên tình thế đói kém.
Trong khi dân chúng đói ăn, thì bọn quý tộc phung phí, tiệc tùng. Mấy
ông cọng sản nắm lấy cơ hội, và cuộc cách mạng thành công, đày dân Nga
vào một chế độ phong kiến hơn, hà khắc hơn, và đói kém hơn, trong bảy
mươi mấy năm điêu đứng.
Miếng
ăn đã làm nên lịch sử. Miếng ăn đã dựng lên chủ thuyết. Một số lớn các
quốc gia đi theo đường cọng sản cũng vì mơ ước miếng ăn. Dân đói được
hứa hẹn ấm no, công bằng, chạy theo, hy sinh cả cuộc đời, cả tính mạng,
để hy vọng được ăn no hơn. Các xứ chậm tiến thì đông đảo người nghèo
đói. Không ngờ khi cọng sản đã nắm được chính quyền rồi, thì nghèo hơn,
đói hơn. Trong cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Hoa có đến ba chục triệu
người chết vì đói. Đáng ra phải viết lại cái khẩu hiệu của cọng sản quốc
tế cho đúng là:
-“Hỡi vô sản trên thế giới, hãy liên kết đứng lên dành cho được nghèo đói hơn nữa.”
Hệ
thống quốc tế cọng sản của Liên Xô lãnh đạo đã sụp đổ cũng vì miếng ăn.
Dân Nga đói quá. Cả vị Tổng Bí Thư đảng cũng đã từng đói, cũng từng hỏi
tại sao đất nước nông nghiệp mà dân lại chết đói.
Miếng
ăn không những gây phiền phức, đau khổ cho con người, mà còn có khi
sinh ra chết chóc nữa. Trong trại tù lao động cải tạo, ngoài nỗi đau vì
mất tự do, bị khổ sai cực nhọc, các chiến sĩ miền Nam chúng ta còn đau
khổ, bị miếng ăn vò xé, vì đói, đói khủng khiếp. Miếng ăn trở thành quan
trọng, miếng ăn ám ảnh tâm trí cả khi thức lẫn khi đang ngủ, cả trong
giấc mơ. Đôi khi đói quá, anh em phải ăn hàm thụ. Ăn hàm thụ là ngồi
nghe “đầu bếp” sửa soạn thức ăn, từ khi rửa rau, cắt thịt, nêm mếm, đổ
vào nồi, có khi còn có cả mùi vị bay lên ngào ngạt, và gắp bỏ vào miệng,
nhai nuốt. Được nghe như vậy cũng đỡ đói phần nào. Những tù nhân “ mồ
côi”, nghĩa là không có gia đình tiếp tế, thì chết sớm. Những ai sống
sót, đều nhờ bạn bè đã chia xẻ.
Những
tù nhân sống sót trở về, ai cũng bảo nhờ gia đình, nhờ vợ con tiếp tế
thực phẩm nên thoát chết. Dù mỗi năm chỉ nhận được một số thực phẩm hạn
chế thôi. Nhưng nhờ đó mà sống còn. Miếng ăn cũng giết chết cả tình yêu.
Có người kể rằng, dưới chế độ cọng sản thời đó, đói quá, nên tình yêu
cũng tắt lịm trong lòng. Tình yêu cũng thành bơ phờ, lạt lẽo. Trai gái
đang lớn ngồi bên nhau, mà miệng đắng vì đói, tay run vì thiếu ăn, thì
tình yêu trở thành mơ hồ, như sương, như khói. Đói vừa vừa thì tình yêu
còn ưu thế, đói quá thì tình yêu cũng rẫy chết. Nghĩ xa hơn nữa, nếu
cuộc tình duyên có thành, thì cũng làm khổ cho nhau, sinh con đẻ cái để
cho chúng khổ thêm, đói thêm, tạo thêm nghiệp. Tình yêu khi đó e chỉ còn
là nỗi cơ cầu, đói khó và buồn đau mà thôi. Nhiều cô chọn lấy chồng
giàu, không chọn tình yêu, cũng chỉ vì miếng ăn, lấy chồng nghèo sợ đói.
Nhất là những cô gái sinh ra trong gia đình nghèo mà đông con. Sợ đói,
sợ thiếu ăn, bị cái ăn ám ảnh. Các cô đó không có gì đáng trách cả. Bởi
cái bao tử lớn hơn trái tim. Lý lẽ của cái bao tử thắng lý lẽ của trái
tim. Trái tim chỉ ngỗ nghịch, chỉ nổi loạn khi bao tử đã no, đã đầy.
Khi
đói, thì văn chương, nghệ thuật cũng trở thành phù phiếm, lãng. Nhiều
người nói trong giai đoạn đói khó, thiếu ăn, sau năm 1975, thời đất nước
“tiến mau, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa”, đọc lại những áng văn
chương mà ngày xưa họ trân trọng, nâng niu, và vô cùng xúc động khi
thưởng thức, thì thấy lạt lẽo, trơ trơ, phù phiếm. Nỗi đau của nàng
Kiều, người con gái tài hoa, nhan sắc, ngây thơ, chịu mười lăm năm lưu
lạc, thì cũng thành như nhảm nhí khi bụng người đọc đang đói, tay đang
run, và miếng ăn đang đè nặng lên tâm não. Phải no mới thưởng thức được
văn chương nghệ thuật. Đói thì phần văn chương nghệ thuật nó cũng cùn
mằn, người sáng tác cũng không còn hứng thú để viết về thiên nhiên, tình
người, và những chuyện dễ thương trong đời sống.
Khi
tôi đang đói run lên, thì miếng cơm cháy đen ngòm đẹp hơn một ngàn lần
thấy cảnh “ Nao nao giòng nước uốn quanh, Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh
bắc ngang” Giòng nước có uốn quanh hay uốn thẳng cũng chẵng có nghĩa lý
gì khi bụng tôi đang đói. Có lẽ văn chương miền Bắc mấy chục năm trong
thời bao cấp, cũng bị cái ăn làm cho chùng xuống nhiều như là chính sách
lãnh đạo văn nghệ.
Lý
thuyết cọng sản quốc tế hiểu rõ tầm quan trọng của miếng ăn, nên cai
trị dân rất hữu hiệu. Nắm chặt miếng ăn, là nắm được cả linh hồn lẫn thể
xác. Khi nào cái bụng cũng lưng lửng, cũng lâm râm sôi, thì đầu óc
không thể nghĩ xa hơn cái bao tử. Đầu óc suốt ngày đêm loanh quanh cái
bao tử, loanh quanh trong miếng ăn. Chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi, đã hết
cả ngày giờ. Tự do, dân chủ hay chống đối là chuyện xa vời. Ăn trước đã.
Nhà nước rỉ giọt cho miếng ăn, khi nào cũng lo đói, thì bảo gì cũng
nghe, nói gì cũng đúng. Chịu khuất phục để còn có cái gì mà cho vào mồm,
dù ít oi, dù không đủ. Nhưng nếu cựa quậy, thì cắt luôn, đói lắm, sợ
lắm, khiếp lắm lắm. Đâu phải đám sĩ phu Bắc Hà di cư chạy hết vào Nam
thời 1954 cả! Họ còn đông đảo lắm, nhưng quá sợ đói, nên co cái sĩ khí
lại thật nhỏ.
Bên
Trung Hoa dưới thời ông Mao và các thời tiếp theo cũng vậy. Trong sử
sách Tàu, ngày xưa có biết bao nhiêu người liệt nghĩa, khí khái, xem cái
chết nhẹ như lông. Biết là chết mà vẫn nói ra điều phải nói, làm những
việc phải làm. Nhưng có lẽ các vị nầy làm được, vì cái bụng còn no. Thế
mà khi sống trong chế độ cọng sản, vì miếng ăn mỏng quá, mong manh quá,
sợ mất luôn chút ăn đó, mà tất cả đều im re. Ông Mao tha hồ nói trăng
nói cuội, sĩ phu cứ vuốt đuôi theo và còn tán tụng, ngợi ca nức nở. Thì
ra, con người còn sợ đói hơn cả sợ chết. Chết là hết, là xong, là thôi.
Chứ sống mà đói, thì khổ lắm, cái đói nó cứ hành hạ mãi. Một cựu chiến
binh miền Bắc, đi vào Nam đánh Mỹ cứu nước, sau nầy đã tâm sự rằng,
trong quân đội, hô xung phong là phải xung phong, ai không xung phong
thì về bị phạt cắt phần ăn. Đây là một hình phạt nặng nề nhất và đáng sợ
nhất. Bỡi vậy nên cứ liều mạng xung phong, chết thì thôi, chứ để mất
phần ăn thì khổ lắm lắm.
Cái đói làm nên chiến công, miếng ăn tạo nên anh hùng. Ngay cả những loài thú dữ dằn như cọp, beo, sư tử cũng phải khuất phục người dạy thú yếu đuối, cũng bỡi miếng ăn. Làm theo đúng mệnh lệnh, thì cho một miếng ăn nhỏ. Con thú ngoan ngoãn, tuân phục.
Cái
ăn làm mất thì giờ của cuộc sống nhất. Loài cầm thú, dường như dùng gần
hết thời gian của cuộc sống để tìm kiếm miếng ăn. Con chim, suốt ngày
tìm tòi, lục lạo dể tìm thức ăn mà cho vào miệng. Con cá bơi lội ngày
đêm, không phải để rong chơi, mà cũng chỉ để tìm mồi. Loài ăn cỏ cũng ăn
gặm suốt ngày, tìm cỏ, tìm lá. Loài thú ăn thịt, thì càng mệt hơn, phải
rình rập, săn bắt. Chỉ cần đau yếu một thời gian ngắn, là không đủ sức
săn mồi, mà chết đói. Con người nào có khác chi. Suốt đời học hành, đầu
tư, làm việc, cũng chỉ vì miếng ăn. Xứ sở càng nghèo đói, thì càng tốn
nhiều thì giờ của cuộc đời hơn cho miếng ăn.
Cái
ăn không những là một nhu cầu tối cần, tất yếu, mà còn là một cái lạc
thú lớn trên đời. Khi đã ăn no, thì tinh thần khoan khoái, tâm địa hiền
lành, rộng rãi, dễ dãi, khoan dung, thấy đời đáng yêu và thương nhân thế
hơn. Khi no rồi, mới thấy được vẽ đẹp của cuộc đời, nét đẹp của người,
nét mỹ miều của thiên nhiên, vạn vật. Ăn là một cái khoái dễ tìm, dễ có,
và ai cũng có thể hưởng được hàng ngày.
Từ
kẻ phàm phu, đến người thanh cao, từ kẻ tục trần, đến người dạo hạnh,
ai ai cũng thích ăn ngon, và không ai cảm thấy xấu hổ khi người khác
biết họ thích ăn ngon. Những kẻ ưa thích nhan sắc, ham tình dục, thì có
thể bị thiên hạ chê cười là ham sắc dục. Nhưng không ai chê người thích
ăn ngon và biết ăn ngon. Thiên hạ khen, chứ không chê. Vì cái ăn là một
thứ đã được nâng lên hàng nghệ thuật. Nghệ thuật nấu nướng, nghệ thuật
ăn uống. Uống là cô em sinh đôi của ăn, uống là ăn chất lỏng.
Người
Á Đông bình dân, đa số biểu lộ sự khoái lạc, sung sướng trong lúc ăn
uống. Trong khi ăn, húp canh húp cháo xùm xụp, nhai ngồm ngoàm, nhai
chắp chắp, làm thành tiếng kêu càng to thì càng chứng tỏ sự ngon lành.
Cái khoan khoái của họ phát ra tự nhiên. Họ tận hưởng cái hạnh phúc của
món ăn ngon, và tiếng ồn ào phát ra từ miệng, làm cho món ăn càng ngon
thêm, làm chủ nhà hài lòng vì món ăn của họ nấu được khách tận tình ăn
uống, ưa thích.
Về
thôn quê, trong bữa ăn, thấy một người bưng tô canh lên húp cái rột,
nghe mà khoái cái tai và ngon cả cái cổ họng của mình. Đừng cho thế là
mất vệ sinh. Còn có vệ sinh hơn cảnh đàn ông, đàn bà ngoạm mồm nhau,
trong các phim chiếu bóng nhiều. Vừa ăn, vừa nói chuyện ồn ào, cười cợt,
tiếu lâm, trêu ghẹo nhau, thì cái ngon tăng thêm nhiều lần. Một anh bạn
cho rằng, ăn mà không cho nói chuyện, phải im lặng nhai, gầm gầm ngồi
dòm nhau, thì cũng khổ như cõng thánh giá đi chân trần lên đồi chịu hành
hình. Cứ nhìn năm bảy anh ngồi nhậu bên cái bàn thấp ở vĩa hè, tranh
nhau nói oang oang, ồn ào, nước bọt phun ra cả thức ăn trên bàn, ngoác
miệng ra mà nhai, ngữa cổ uống ừng ực, có khoái hơn là ngồi trên bàn ăn
trịnh trọng, mang áo quần lễ phục, có khăn bàn, có bồi hầu tiếp, mà im
lặng, nhai kín đáo trong miệng, ngậm miệng mà mum mum như cả lũ đang bị
đau răng, và rón rén nuốt, không dám biểu lộ cái ngon ra trên khuôn mặt,
trong tiếng nhai, trong lối ăn, thì cũng phí của trời cho không biết
mấy mà kể. Món ngon cũng vì thế mà bớt ngon đi. Tội chi mà ăn uống như
là lén lút, âm thầm và thiểu não vậy? Có vụng trộm gì của ai đâu? Nhiều
gia đình bắt chước cái lịch sự của Tây của Mỹ trong khi ăn uống, làm cho
bữa ăn mất cái ngon, mất cái không khí hạnh phúc, tự nhiên vui sướng
của cuộc đời.
Một
ông bạn tôi kể rằng, ngày xưa anh và một kẻ tình địch được gia đình một
cô gái đẹp mời ăn đám giỗ. Hai người nhìn nhau như Sơn Tinh và Thủy
Tinh. Anh thì giữ phép lịch sự, ăn uống kín đáo, nhỏ nhẹ, im lặng, rất
chi tao nhã. Trong lúc tên tình địch ăn ào ào, ăn ngồm ngoàm, ngữa cổ
hắt rượu uống ực hết li và khi ngà ngà say còn vỗ vai cha cô gái mà nói:
-“Dô đi mậy, phải quắc cần câu mới được nghe hông.”
Thế
mà nó thắng anh, gia đình cô gái nói rằng anh chàng kia tự nhiên, thành
thật hơn, có đời sống vui hơn, hạnh phúc hơn. Còn anh, thì vì lịch sự,
bị kết cho là kiểu cách, khó khăn, thiếu thành thật, thiếu tự nhiên.
Một
lần vào quán Nhật ở San Francisco, tôi thấy một khách trung niên, khỏe
mạnh, bước vào tiệm, kêu một tô mì bò kho. Khách bưng tô mì ăn như mưa
sa bão táp, nhai nhai, chắp chắp ồn ào. Miệng há ra, thấy lổn ngổn thức
ăn bên trong, tay cầm đũa lua lia lịa ào ào. Có vẻ như ông ta đang tận
hưởng cái khoái cảm ngon béo thơm tho đậm đà của món ăn. Chỉ trong vài
phút, ông đã chơi hết sạch tô mì to lớn. Mồ hôi đọng giọt lăn tăn trên
trán, vị khách đưa ngang tay áo quẹt mồ hôi, và ngững mặt lên với nụ
cười hả hê. Vài vị nữ thực khách người Mỹ hơi nhíu mày khó chịu.
Phần
tôi, thì thấy “đã” quá. Chỉ thấy ông ăn thôi, là tôi đã cảm được tất cả
cái ngon, cái khoái, cái thỏa mãn, cái hạnh phúc quý báu của một ngày
bình thường. Tôi yêu cầu người bồi bàn, cho tôi một tô, giống như của vị
thực khách kia. Khi tôi ăn, thì thất vọng ê chề. Gắng nuốt được vài
muỗng thôi, là mặt mày nhăn nhó như khỉ ăn ớt. Dở ơi là dở. Nhưng tôi
hài lòng, vì mình đã hưởng được cái ngon, cái sung sướng qua cách ăn
uống vị tục khách kia. Một lần tại khách sạn sang trọng ở cố đô Nhật
Kyoto, tôi thấy một mệnh phụ ăn mặc lễ phục kimono trịnh trọng, hai tay
bưng tô canh, cúi đầu húp xùm xụp, tiếng vang rất lớn. Họ không cho húp
canh kêu rồn rột là thiếu lịch sự.
Trình
bày dĩa thức ăn một cách mỹ thuật, bắt mắt, cũng làm tăng cái ngon, cái
ưa thích. Cá trê chiên vàng rườm, có nước mắm ớt lấm chấm đỏ, có mấy
cọng rau ngò xanh vắt ngang, mới nhìn thôi, là đã thấy ngon lành, chưa
cần hít mùi thơm cá chiên, chưa cần cầm đũa xáy, và nhai dòn tan rào rào
trong miệng. Những món ăn của người Nhật, nhìn rất bắt mắt, mới nhìn
cũng đã thấy thèm. Nhưng đừng vội ăn, ăn vào dễ thất vọng lắm. Vì cái
ngon của con mắt thường không đi đôi với cái ngon của cái miệng. Ngay cả
ông Khổng Tử, cũng viết rằng: “Thịt cắt không vuông, không ăn.” Có phải
cái hình thức của miếng ăn cũng quan trọng không kém cái hương vị của
nó hay không? Có người cho rằng, ông Khổng khó tính, khó đến như vậy,
thì e nếu bà vợ nằm không thẳng, thì không chịu ngủ chung chăng?
Cái
ăn, và tình quê hương cũng gắn bó chặt chẽ với nhau. Xa đất nước, người
Campuchia nhớ mắm bù hóc đến đứt ruột đứt gan, chỉ cần có một chút
hương mắm bù-hóc đâu dó trong không khí, là cả một trời quê hương hiện
ra trong yêu dấu, thích thú, dạt dào. Người Bắc thì nhớ mẻ, nhớ rau
muống, người Trung thì nhớ mắm ruốc, mắm nêm, cà pháo, người Nam thì nhớ
giá sống, nhớ cá lóc trui, cây trái.
Ăn
là một vấn đề quan trọng và sinh tử của thế giới từ xưa đến nay. Ngày
nay, dân số thế giới đã gia tăng quá mức, và sẽ tăng nhiều nữa trong
tương lai. Các nhà bảo vệ môi sinh, đã lớn tiếng cảnh cáo, là rừng núi
bị co lại, bị tiêu hủy, nhiều loài cây cối, thú vật đang bị tuyệt diệt,
và đại dương cạn kiệt vì thủy tộc sinh sản không kịp cho con người săn
bắt. Khi thiên nhiên mất cân bằng, đi vào con đường chết, thì con người
cũng sẽ chết theo.
Con
người sống nhờ trái đất, mà trái đất bị hủy hoại, bị chết dần mòn, thì
có cách gì loài người thoát được sự hủy diệt trong tương lai? Tôi vẫn
thường nghĩ đến một phát minh mà tôi gọi là “Cây Gậy Nhân Sinh”. Nếu vấn
đề ăn đe dọa loài người, thì có một ngày nào đó, các nhà khoa học sẽ
chế tạo được một cây gậy đặc biệt. Cắm một đầu gậy xuống đất, ngậm đầu
kia vào miệng, thì thức ăn bổ dưỡng từ dưới đất cứ ào ào mà bơm lên, tha
hồ mà no. Cây gậy nầy dựa theo nguyên tắc sinh trưởng của loài thảo
mộc. Nhưng sinh trưởng, biến hóa nhanh hơn hàng triệu lần. Y như máy vi
tính có khả năng tính toán mau hơn trí óc cả trăm triệu lần vậy.
Mỗi
công dân của trái đất, được phát cho một cây gậy. Khỏi lo đói. Nếu muốn
thức ăn có mùi vị thịt bò, heo, cừu, tôm cua cá … thì cứ bấm nút đánh
vần tên thứ đó trên cây gậy, tha hồ mà ăn nhậu. Muốn uống bất cứ loại
rượu gì, nước ngọt gì, thì cũng chỉ bấm nút đánh vần, là dưới đất tuôn
lên ào ào vào miệng. Lâu lâu, có ai khám phá ra thức ăn mới, thì cũng
chỉ cần “ cài đặt” cái chương trình cấu tạo mới, như người ta cài đặt
các chương trình mới vào máy vi tính, giản dị thế thôi. Cũng có ngày đến
đó. Tại sao không?
Miếng
ăn gây khó khăn rắc rối cho cuộc sống. Nhưng miếng ăn cũng còn là ý
nghĩa hạnh phúc bình thường cho mỗi con người. Khi không còn dám ăn uống
vì bất cứ lý do gì, cũng là hình phạt nhẹ của trời đất dành cho một số
người. Ăn uống là một bản năng tự nhiên, phúc cho những ai còn ăn uống
được, mà không phải kiêng cữ gì cả.
Tràm Cà Mau |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 11/Dec/2018 lúc 8:47am |
TỔN THƯƠNG QUÁ NHIỀU <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Dec/2018 lúc 8:59am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 11/Dec/2018 lúc 4:09pm |
Hai Cuộc Tình Và Hai Cái Chết Không Giống Nhau
1. CHUYỆN TÌNH TRÊN MẠNG
Cũng như vài gia
đình khác, gia đình anh được đưa đến định cư tại Thụy Điển sau khi được
tàu nước nầy cứu vớt, trong lúc chiếc thuyền con vượt biên đang chết máy
và lênh đênh trên biển cả nhiều ngày.
Những ngày mới đến, vợ
chồng và 2 đứa con sống rất hạnh phúc, nhờ nhận được những giúp đỡ ban
đầu của chính quyền và người dân bản xứ. Dần dà thì cuộc sống cũng tạm
đi vào ổn định.
Thời gian trôi nhanh, hai đứa con cũng đã trưởng
thành và có gia đình riêng tư. Nhưng công việc sinh nhai thì cũng chỉ
tàm tạm chứ không mấy khá giả cho lắm, nên chẳng giúp gì cho anh chị.
Anh có đi làm một thời gian nhưng sức khỏe đã hạn chế công việc, cho nên
lúc sau nầy anh đành phải nằm nhà. Có lẽ sự eo hẹp về tài chánh là
nguyên nhân thầm kín đã dẫn đến sự đổ vỡ của vợ chồng anh, trong độ tuổi
ngũ tuần!?
Tiền bạc không nhiều nhưng lại nằm trong tầm kiểm
soát của người vợ. Nhất cử nhất động anh đều phải báo cáo mọi chi phí
tài chánh. Cuộc sống của anh bị lệ thuộc hoàn toàn vào người vợ của
mình. Anh buồn lắm, cho dù nhiều lần chị đã cố giải thích cho anh hiểu:
-
Cần phải biết tém khéo mới lo được cho đời sống. Vợ giữ tiền là giữ cho
gia đình, chồng mà nắm tiền thì có ngày lại cho người ngoài ăn đấy.
Nghe
vậy, nhưng anh không hiểu là chị muốn nói cái gì? Cho người ngoài là
ai, đôi lúc anh cũng muốn gởi chút quà tết về cho mấy đứa cháu rất
nghèo, còn bỏ lại bên VN mà anh không dám hỏi vợ.
Nói phải tội,
có nhiều khi anh nghi rằng, vợ mình đã lén gởi tiền giúp cho bà con bên
ngoại của các con anh. Nhưng không có bằng chứng gì cho nên anh chỉ biết
ôm lấy một nỗi buồn!
Sự đổ vở kiểu nửa vời. Hai người vẫn sống
chung trong một căn hộ để bớt tiền thuê nhà, cũng như giảm bớt tiền
điện.. những thứ mà họ có thể dùng chung và chia sẻ với nhau. Ngoài mấy
thứ ấy ra, thì cả hai, mạnh ai nấy giữ những gì mà mình đang có, chẳng
chịu chia sẻ hay là cho người kia được dùng, mặc dù thật sự có cần đến.
Thời
gian cũng trở nên thừa thãi với anh. Anh bèn dành hết thì giờ lướt
mạng, để tìm người tán gẫu cho vơi đi thời gian và nỗi buồn. Thế rồi một
hôm anh gặp được người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, một
người phụ nữ đang sống cách anh nửa vòng trái đất. Chị nầy đã ly dị
chồng cách đó không lâu, sau khi biết được chồng mình ôm tiền về VN làm
ăn và “rước cầm mới lên thuyền cũ”.
Hai người nói rõ hoàn cảnh
gia đình cho nhau nghe.. có lẽ tìm được sự cảm thông, cho nên tình cảm
đã dần lớn thêm nhiều hơn, giữa hai người.
Chị hẹn gặp anh tại
quê nhà. Anh thú thật là không đủ tiền mua vé máy bay. Chị mua vé trên
mạng và gởi mã số code cho anh. Căn dặn là đến ngày giờ G.. cứ ra phi
trường Z, tới quầy check- in của hãng hàng không XY, nói số code là mọi
thủ tục lên máy bay sẽ được tiến hành.
Anh sắp xếp hành lý,
nhưng trong túi lại trống trơn khiến anh lo lắng. Anh gọi người chị gái
đang định cư tại Úc mượn đỡ vài ngàn dằn túi. Tình trạng tài chánh bị cô
lập của đứa em đã được báo cáo từ lâu nên người chị cũng cảm thông đứa
em trai của mình.
Chị gởi hai ngàn dollars, chuyển thẳng về người bạn tại Sài Gòn và nhắn anh về đến đó mà lấy.
Mang
cái túi hành lý nhỏ, nói với vợ con là anh cần về thăm nhà vì có việc
gấp.Chị và các con cũng đã quen cái cảnh “có anh cũng như không” trong
cái căn nhà nầy từ lâu cho nên cũng chẳng có ý kiến đồng tình hay ngăn
cản gì cả. Không nghe ai hỏi:
- Bên nhà có chuyện gì gấp, có ai ốm, ai đau hay là có ai hấp hối mà lại phải về gấp như vậy!?
- Có cần một ít tiền đi đường hay không!?
Thái
độ dửng dưng, lạnh nhạt của vợ con đã làm nhẹ đi cảm giác tội lỗi. Vì
anh đã nghĩ rằng, chừng tuổi nầy mà lại bỏ bê gia đình để đi tìm một
người tình trên thế giới ảo, trên mạng. Cảm giác ấy đã ray rức anh rất
nhiều, trước đó không lâu!
Về đến VN, hai người găp nhau. Mối
tình trong thế giới thật đã tiến rất nhanh, nhanh hơn cả cái mối tình
khi còn ở trong cái thế giới ảo suốt mấy tháng vừa qua. Có lẽ, những nỗi
buồn của từng người đã kéo họ lại gần nhau hơn.
Anh theo chị về
Mỹ, phụ chị trong một cái thương vụ nhỏ. Nhờ thế cũng tạm đủ sống và anh
cảm thấy thật vui vì không bị lệ thuộc cũng như không còn bị “phong tỏa
tài chánh” như trước kia nữa.
Nhờ có tiền, hai năm sau anh quyết
định quay về thăm lại người thân, nhìn lại xứ nẫu, nơi mà anh được sinh
ra và lớn lên với nhiều kỷ niệm gắn bó trong khu nhà nghèo, nhưng rất
thân thiện.
Niềm vui nào cũng qua mau. Hết thời hạn thăm quê anh
tính quay về Thụy Điển, hoàn tất giấy tờ ly dị và sẽ bay qua Mỹ để sống
trọn khoảng đời còn lại với người yêu.
Bất hạnh thay, anh bị tai
biến mạch máu não, gục ngã trong phòng tắm. Rất lâu sau đó, mấy đứa con
mới phát giác và đưa anh vào bệnh viện. Nhưng đã trễ!?
Anh chỉ
còn sống thực vật và bác sĩ cần gia đình cho quyết định để rút ống dưỡng
khí. Mặc dù người chị của anh tại Úc cũng như người tình bên Mỹ, đã xin
cho anh được sống thêm một thời gian nhằm hoàn tất thủ tục mang “tro”
của anh về Mỹ, với người tình mới.
Nhưng bà vợ cũ và các con đã
đưa ra quyết định thật sớm, không chần chờ mặc dù đã có lời yêu cầu khẩn
thiết từ người nhà và người tình của anh!
Cuối cùng, thân xác anh đã vĩnh viễn nằm lại cái vùng đất mà anh đã từng chạy trốn.
Chẳng có ai biết, bây giờ linh hồn anh đang ở chốn nào!??
2. SỐNG ĐỂ TRẢ NGHIỆP!?
Gia
đình anh chị định cư tại Úc cũng khá lâu. Nhờ vào tính chuyên cần và
chịu khổ chịu khó cho nên công việc kinh doanh của anh chị cũng khá
thành công. Các cháu thì học hành lại giỏi và tạo được những thành quả
tốt đẹp. Nhờ thế mà hầu hết mọi người biết đến, đều truyền tụng rằng,
gia đình của anh chị quả là một gia đình kiểu mẫu trong số những gia
đình người Việt tỵ nạn, tại đây. Anh chị rất vui vì những lời khen ngợi
không ngớt ấy. Chị mừng, vì có được một người chồng năng nổ, hoạt bát và
biết lo cho con cái, biết yêu thương vợ mình.
Ngoài công việc
ra, anh không bao giờ la cà với bạn bè, không thuốc lá, không rượu
bia... Tiền bạc làm ra thì anh cũng không cần để ý đến, kiếm được bao
nhiêu là đưa cho vợ cất. Anh thường nói đùa với vợ:
- Giữ tiền làm chi cho thêm phiền, tiêu mà quên báo cáo thì lại khổ thân tôi!?
Dưới
cặp mắt của chị, anh quả thật là một người đàn ông đáng tin và rất có
uy tín. Nhiều lần chị đã đề nghị với anh là, cùng về thăm lại quê hương
sau nhiều năm xa cách. Anh thường gạt ngang:
- Em cần thăm nhà
thì cứ đi một mình cũng được. Anh có đi thì cũng chẳng ích gì mà lại còn
bỏ bê công ăn việc làm nữa. Chỉ sợ em buồn khi thiếu anh vậy thôi, nếu
thế thì anh đành xin lỗi, em nhé!
Lần nào cũng vậy, anh luôn từ
chối cái cơ hội mà rất nhiều người trong độ tuổi như anh, mãi ước ao có
được! Chính vì thế mà chị rất yên tâm!? Một vài người bạn đã kể cho chị
nghe những mẫu chuyện đổ vỡ gia đình trong độ tuổi ngũ tuần, xảy ra nhan
nhản lúc gần đây. Nhất là mấy ông cứ nại cớ là về thăm bố mẹ bệnh nặng,
làm mộ cho song thân.., nhưng thật tình là đang bị dính bùa bên ấy!
Những
lúc gần đây, các con đã ra riêng. Công việc làm ăn cũng khá ổn định.
Chị cũng muốn nghỉ ngơi chút ít, bởi sức khỏe của chị không còn được như
xưa. Chứng đau lưng kinh niên cứ hành hạ như tra tấn chị hằng đêm, nhất
là vào những ngày của mùa đông.
Về Việt Nam để tránh cái lạnh ở Úc,
đã giúp giảm nhẹ cái đau của chứng thần kinh tọa. Chứng bịnh mà bác sĩ
đã nói với chị rằng, không có cách nào chữa dứt. Vả lại, cuộc sống tại
Việt Nam đã cho chị chút ít niềm vui. Vui với người thân, với bạn bè xưa
cũ.. Tất cả, đã khiến chị dành nhiều thì giờ bên đó hơn là tại Úc.
Không
có gì để chị phải lo vì chồng chị cũng chẳng than phiền. Chị thầm cám
tạ ơn trên đã cho chị một người chồng tốt, với một gia đình rất hạnh
phúc.
Nhưng chị đâu có ngờ...
Khoảng thời gian chị về thăm
Việt Nam. Một lần anh ghé lại tiệm bán thức ăn nhanh, gặp một cô gái
đang đứng xếp hàng trước mình, chờ đến lượt order. Cái hàng dài chờ đợi
ấy đã giúp cho họ có dịp để trao đổi, chỉ là những lời hỏi thăm có tính
xã giao.
Rồi họ cùng ngồi vào bàn ăn và lắm chuyện được mang ra bàn
tán, về đời sống tại Việt Nam bây giờ và những khó khăn gặp phải tại xứ
người, coi bộ hai người “tâm đầu ý hợp” lắm. Qua mấy câu chuyện ấy, anh
biết được rằng cô là một du học sinh đến từ Việt Nam, không có thân nhân
và đang gặp nhiều khó khăn về tài chánh.
Họ trao cho nhau số
điện thoại và hẹn cơ hội được gặp lại. Thời gian và hoàn cảnh cô đơn đã
giúp cho cả hai xích lại gần nhau thật nhanh chóng, như để làm giảm bớt
cái lạnh trong lòng cũng như xua tan khí lạnh ngoài trời, trong những
ngày của mùa đông xứ Úc.
Không hề nghi ngờ gì về sự thay đổi của
chồng mình, cho đến khi chị phát giác ra được, người chồng mà chị luôn
tin tưởng đã mượn một số tiền khá lớn từ ngân hàng, qua việc thế chấp
một trong những bất động sản mà anh đang đứng tên làm chủ.
Kể từ
đó, chiến tranh đã bùng nổ, ngay trong căn nhà mà trước kia luôn tĩnh
lặng. Anh đòi ly dị, chia tài sản nhưng chị và các con chưa dứt khoát.
Cuộc
sống gia đình đã trải qua một khúc quanh đầy nỗi khổ niềm đau. Chị và
các con đã khóc thật nhiều nhưng anh đã quyết định cho mình một ngã rẽ..
Anh
theo về Việt Nam với người yêu mới. Bỏ một số tiền lớn, xây tổ ấm uyên
ương cho cả hai và anh đã hứa là sẽ hoàn tất thủ tục ly hôn để cùng nhau
vui hưởng hạnh phúc, trong khoảng đời còn lại.
Anh quay về Úc để
hoàn tất ý nguyện đó. Vài hôm sau, nhận được điện thoại của người bạn
cũ, người mà anh vừa gặp lại trong lần về mới đây. Người bạn tri kỷ đã
được anh mời đến dự buổi tiệc khánh thành cái tổ ấm, cũng như ra mắt
người vợ trẻ của mình.
Người bạn gọi anh về lại Việt Nam gấp, vì
có vài chuyện cần bàn. Gặn hỏi mãi thì được cho biết, người vợ mới của
anh vừa đưa một người đàn ông khác về sống ngay trong cái căn nhà của
anh, mới bỏ tiền ra xây.
Bán tín bán nghi, anh mua vé ngay và hôm
sau bay thẳng về Sài Gòn. Anh tính tìm gặp thằng bạn nhưng quá nóng
lòng, nên thôi. Đi thẳng về tổ ấm, mở cửa vào nhà (vì anh cũng giữ chìa
khóa riêng, có lẽ cô người tình đã không nghĩ là anh sẽ trở lại sớm, nên
lơ đãng?).
Nghe tiếng cười khúc khích trong phòng ngủ, anh đẩy
mạnh cánh cửa khép hờ và nhìn thấy một cảnh tượng, khiến máu trong người
anh như sôi sục.
Anh hét toáng lên, đập phá mấy thứ đang ở trong
tầm tay mình. Như chưa hả giận, anh vớ lấy cái bình bông gần đó tiến
nhanh lại người thanh niên xa lạ, đang cố mặc lại quần áo.
Xung
đột bắt đầu, hai người trao nhau những cú đấm. Nhưng chắc chắn là, sức
anh không hơn được cái sức đang trong độ tuổi thanh niên kia. Anh bị dồn
ra khỏi cánh cửa, lối ra hành lang. Rồi bất ngờ, anh hứng trọn cái xô
đẩy rất mạnh của người thanh niên, khiến anh rơi từ tầng một xuống đất.
Nhằm
lúc đó, người bạn của anh đang đi ngang qua (như để theo dõi, giống mọi
lần) phát hiện sự việc. Người bạn kêu xe chở anh vào bệnh viện để chẩn
đoán và điều trị những tổn thương. Anh được cho biết là chỉ gãy một cánh
tay mặt và cần băng bột. Vài vết trầy khác không có gì đáng quan tâm,
anh được cho xuất viện cùng ngày.
Hôm sau, theo lời khuyên của người bạn anh đã trở về lại Úc. Anh tính sẽ nhờ luật sư mang sự vụ ra tòa xét xử.
Vài
ngày sau, bổng dưng cơn nhức đầu bộc phát đột ngột xảy đến với anh. Vợ
anh không có nhà, anh gọi điện thoại nhờ con đưa anh đến gặp bác sĩ vì
tay đang bó bột, cho nên anh không tự lái xe được như mọi khi.
Mấy
đứa con cho biết là đang bận, hẹn chiều sẽ về. Nhắc ba nó lấy đỡ hai
viên panadol mà uống cho vơi bớt cơn đau. Anh đoán có lẽ chúng nó giận
mà không thèm về sớm, chứ chẳng phải bận rộn chuyện chi!?
Anh đi dần vào hôn mê.
Chiều
đến, đứa con gái trở về thấy bố mình nằm yên, sóng sượt trên nền nhà.
Vội vàng gọi xe cứu thương và được chở thẳng vào một bệnh viện gần nhất.
Được chẩn đoán, anh bị chấn thương sọ não, máu tụ nhiều và đã để quá
trễ cho nên phần não chết không thể phục hồi.
Anh đã được cứu sống, nhưng chỉ là “sống thực vật” mà thôi!.
Bác
sĩ xin ý của vợ anh (vì vẫn còn là vợ chính thức) cùng các con, để
quyết định rút ống thở, cho anh được ra đi trong bình yên. Nhưng bà vợ
đã quyết định, hãy cho anh phải sống:
- Sống để trả nghiệp và làm gương cho người đời!?
Mấy đứa con cũng không dám đưa ra quyết định nào khác. Có lẽ chúng nghĩ, mẹ mình có lý!?
Ngày cuối đông
Đinh Tấn Khương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 19/Dec/2018 lúc 9:17am |
Mùa Giáng Sinh
Mary Higgins Clark |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 20/Dec/2018 lúc 9:57am |
Lời nói dối của cô giáo lớp 5Ngày đầu tiên của năm học mới, cô giáo Trương đứng trước tất cả các bạn học sinh lớp 5, nhìn khắp một lượt và nói rằng: Cô sẽ yêu và đối xử bình đẳng với từng bạn trong lớp mình. Nhưng, đó là một lời nói dối. Điều cô vừa nói là không thể. Cô có ấn tượng không tốt với cậu học sinh ngồi ngay dãy bàn đầu tiên, cậu bé tên là Lý Đức Huệ. Cô Trương phát hiện Lý không thể cùng chơi với các bạn khác. Quần áo của cậu bé rách nát, người bẩn thỉu và thật khó để ai đó có thể yêu quý cậu bé cho được. Ngay cả bản thân cũng rất thích dùng bút đỏ gạch một dấu X to đùng trên vở của cậu bé. Cho đến vài hôm sau, nhà trường yêu cầu giáo viên kiểm tra học bạ của các em học sinh, cô Trương đã cố tình để hồ sơ của Lý xuống dưới cùng. Vậy nhưng khi xem đến hồ sơ của cậu bé, cô giáo đã vô cùng ngạc nhiên. Giáo viên năm lớp 1 của Lý viết rằng: “Tiểu Lý là một cậu bé thông minh, nét mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười luôn thường trực trên miệng, viết chữ rất ngay ngắn và sạch sẽ, ngoan ngoãn lễ phép, mang đến niềm vui cho những người xung quanh.” Giáo viên năm lớp 2 thì viết: “Tiểu Lý là một học sinh ưu tú, rất được các bạn quý mến nhưng cậu bé rất buồn, vì bệnh của mẹ em đã ở giai đoạn cuối, cuộc sống gia đình rất khó khăn.” Giáo viên năm lớp 3 viết: “Mẹ qua đời đã gây ra một cú sốc lớn đối với Tiểu Lý, cậu bé đã nỗ lực hết sức nhưng bố em là người sống thiếu trách nhiệm. Nếu không có giải pháp cải thiện, gia đình sẽ gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến Tiểu Lý.” Giáo viên năm lớp 4 viết: “Tiểu Lý tính cách dị biệt, không thích học, không có bạn, nhiều khi còn ngủ trong giờ học.” Lúc này, cô Trương mới ý thức được những vấn đề đang tồn tại với cậu học trò nhỏ. Cô cũng cảm thấy xấu hổ vì hành vi của mình. Nhưng tuyệt nhiên, cậu bé Lý Đức Huệ không biết về việc này. Vì lần nói dối trước cả lớp, cô giáo không ngờ sau đó thỉnh thoảng lại nhận được 1 lá thư Đến ngày lễ của các nhà giáo, khi các em học sinh đem quà tặng cho mình, cô Trương càng cảm thấy day dứt hơn. Các bạn nhỏ tặng quà cho cô đều bọc giấy màu đẹp đẽ, bên trên còn dán dây ruy băng, chỉ có mình Tiểu Lý là ngoại lệ. Cậu bé dùng mảnh giấy màu da bò dày bì bì, có lẽ được xé ra từ một cái túi đựng đồ tạp nham để bọc quà. Món quà là một chiếc vòng tay được xâu chuỗi bởi các hạt thủy tinh, có hạt đã bị mất và một lọ nước hoa chỉ còn ¼. Các học sinh khác cười ồ lên. Cô giáo phải ra hiệu cho các bạn im lặng không được trêu chọc bạn trước khi khen chiếc vòng thật đẹp rồi nhanh chóng đeo nó lên tay. Cô cũng xịt một chút nước hoa lên cổ tay trước mặt các em học sinh. Sau buổi học hôm đó, Lý nói với cô giáo một câu rồi mới về: “Cô Trương, hôm nay trên người cô có mùi rất giống mẹ em trước đây.” Khi các bạn nhỏ đã về hết, cô Trương ngồi lại lớp hồi lâu. Cô đã khóc mất hơn một tiếng. Sự thay đổi tích cực Từ hôm đó, cô không còn nghiên cứu về việc làm sao để dạy bọn trẻ đọc, viết hay làm toán mà nghiên cứu về việc làm thế nào để giáo dục các em học sinh. Cô Trương bắt đầu chú ý đến Tiểu Lý. Khi học cùng cô, cậu bé ngày càng cho thấy mình là một đứa trẻ năng động là linh hoạt. Càng được cổ vũ, phản ứng của cậu bé càng trở nên nhanh nhẹn. Cuối năm đó, Tiểu Lý trở thành đứa trẻ thông minh nhất lớp. Mặc dù cô giáo nói sẽ yêu thương và đối xử bình đẳng với tất cả các bạn trong lớp nhưng Tiểu Lý đã trở thành “con cưng” trong mắt cô. Một năm sau đó, cô Trương phát hiện một mảnh giấy nhỏ trong khe cửa. Là của Tiểu Lý. Cậu bé nói với cô, rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất mà cậu gặp trong đời. 6 năm nữa trôi qua, cô Trương lại nhận được một mảnh giấy khác của cậu học trò nhỏ. Tiểu Lý viết rằng cậu bé đã tốt nghiệp trung học phổ thông, đứng thứ ba trong lớp về thành tích học tập và cô vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất cậu gặp trong đời. Nhiều năm sau nữa, cô Trương tiếp tục nhận được một là thư. Lần này Tiểu Lý viết, khi nhận tấm bằng cử nhân loại xuất sắc, cậu đã quyết định sẽ ở lại trường tiếp tục học lên và cô Trương vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất mình được gặp trong đời. Tuy nhiên lần này, phần ký tên có sự thay đổi và dài hơn một chút: Tiến sỹ y khoa Lý Đức Huệ. Mùa xuân năm đó, Lý lại gửi cho cô Trương một lá thư, nói là mình sắp kết hôn, không biết cô có muốn tham gia hôn lễ của cậu hay không và cô sẽ ngồi vào vị trí của mẹ chú rể. Tất nhiên là cô Trương đã đồng ý. Hôm đó, cô đã đeo chiếc vòng mà cậu bé Lý tặng năm nào, xịt một chút nước hoa mà mẹ cậu bé đã từng dùng trước đây. Gặp lại nhau, hai cô trò ôm nhau thật chặt. Lý Đức Huệ thì thầm vào tai cô: Cảm ơn cô, cô Trương, con vô cùng cảm ơn cô đã cho con biết mình có thể làm được nhiều việc mà trước đây con không nghĩ tới. Còn cô Trương lúc này cũng không ngăn được nước mắt, nghẹn ngào nói: Tiểu Lý, con nhầm rồi, là con đã dạy cho cô nhiều điều. Cho đến khi gặp được con, cô mới biết làm giáo viên là phải như thế nào! Lời bình Hy vọng rằng câu chuyện này có thể lan tỏa đến tất cả những người đang làm giáo viên, những người đang làm công tác giáo dục. Trong câu chuyện này, chúng ta đã nhìn thấy một phương pháp giáo dục hiệu quả mà một phần trong đó đến từ những lời nhận xét chi tiết, đầy quan tâm mà giáo viên ghi lại trong sổ học bạ của học sinh cuối mỗi năm học. Chúng ta cũng đã nhìn thấy trách nhiệm của một giáo viên ưu tú, cô đã suy nghĩ nghiêm túc về công việc của mình trước đây và bắt tay vào thay đổi. Cô đã nghiêm túc hoàn thành công việc trồng người của chính mình và ở một mức độ nào đó, cô đã thành công. Vị giáo viên ấy đã giữ cho mình một trái tim nhân ái, tình nguyện vì học sinh mà thay đổi, dùng hành động thực tế của mình để trao cho học sinh sự cổ vũ mạnh mẽ nhất. Với một đứa trẻ, cô giáo quan trọng biết nhường nào, các em rất cần tình yêu của các thầy cô giáo. st. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Dec/2018 lúc 10:11am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 136 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |