Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ | |
<< phần trước Trang of 136 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 21/Jan/2018 lúc 6:38am |
Tấm Thẻ Xanh Và Cô Dâu Mạng
Chàng là một viên
chức Mỹ. Nàng là người đẹp Trung Hoa. Cuộc hôn nhân là kết quả của mạng chít
chát Thượng Hải-Cali. Chuyện tình gay cấn mà có thật được kể bởi Phương Hoa,
một nhà giáo tại Marysville, California, giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013.
Tôi quen biết nhân vật chính của câu chuyện này cũng ngay vào sáng
mồng Một Tết con Ngựa, năm Nhâm Ngọ 2002, tính đến nay là vừa tròn “một con
giáp.”
Sống trên đất Mỹ, dù Tết đến vẫn phải đi làm, tụi nhỏ vẫn đi học, nhưng chúng
tôi luôn chuẩn bị ăn một cái Tết truyền thống Việt Nam để mấy đứa con nhớ về
nguồn cội. Những cái Tết trước đây, sáng mồng Một nào tụi nhóc cũng dậy sớm, ăn
mặc chỉnh tề đến bàn thờ lạy mừng tuổi ông bà. Tiếp theo là chúc mừng năm mới
ba mẹ và nhận tiền lì xì. Nhưng Tết năm ấy, con cái lớn đi làm, đi học xa, nhà
chỉ còn hai vợ chồng,
Sáng hôm đó vợ chồng tôi dậy sớm, nấu cơm chay cúng ông bà rồi chuẩn bị trái
cây đem đi cúng tiệm, chúng tôi vừa sang lại chưa lâu.
Sau khi bày bánh mứt, các loại trái dừa, đủ, xoài, thêm trái thơm “dư” ra bàn
thờ ông Địa và cắm cành lộc vào bình hoa, tôi chưa kịp thắp hương thì một người
đàn ông Mỹ bỗng đẩy cửa bước vào. Người khách tự giới thiệu anh là người láng
giềng tên Mark ở gần bên, đến để “chúc mừng Tết Mặt Trăng cho hàng xóm mới,”
anh nói. Mark còn mang tặng chúng tôi một chùm tám trái quít chín đỏ ối và nói
anh học được phong tục này từ người Á Châu, trái quít là trái “lucky” và số tám
là số may mắn.
Tôi biết trái quít và con số tám may mắn cho ngày Tết mà anh nói thường là sự
tin tưởng của người Hoa, người Việt mình thì “mặn mà” hơn với con số chín,
nhưng tôi rất cảm động và cám ơn anh rối rít. Dù Mark không phải là khách hàng
đến để đem tiền vào, tôi cũng mừng vui vô cùng vì đầu-năm-có-Lộc.
Mark vào khoảng chưa tới năm mươi, là một công chức cấp cao, làm việc cho một
cơ quan quan trọng tại thành phố lớn đã hai chục năm rồi. Người trông lịch lãm,
ăn nói nhỏ nhẹ, và đặc biệt, Mark có nụ cười rất tươi và hiền giống như nụ cười
của pho tượng ông Lộc. Mark kể anh có một cô con gái vừa vào đại học và cậu con
trai đang học năm thứ hai, tụi nhỏ ở nội trú nên anh sống một mình. Chuyện trò
một lát, trước khi đi anh đưa tôi tấm danh thiếp, dặn nếu có gì cần giúp thì
gọi cho anh bất cứ lúc nào. Nhà tôi nhìn theo anh và nói “Quả là ông hàng xóm
tốt bụng!”
Mark đi làm suốt ngày, xem ra bận rộn, nhưng về nhà anh lại có vẻ rất cô đơn.
Anh là người sống có tình cảm với xóm giềng. Hàng ngày, mỗi khi ra xe đi làm,
anh vẫy tay chào chúng tôi, tối nào chuẩn bị đóng cửa mà gặp anh thì anh chúc
ngủ ngon. Cuối tuần nếu thấy tiệm vắng khách, anh thường tạt vào trò chuyện.
Anh đã giúp đỡ bọn tôi hết lòng. Khi nghe tôi định lắp hệ thống Alam phòng ngừa
trộm cắp, anh cản:
- Đừng bắt Alam cho tốn tiền! Tối nào tôi cũng dạo quanh khu phố một vòng trước
khi đi ngủ, tôi sẽ giúp trông chừng cửa tiệm cho anh chị.
Và quả thật trong gần mười năm chúng tôi kinh doanh ở đó rất yên ổn, không bao
giờ có lộn xộn hay trộm cắp xảy ra. Chắc bọn tội phạm nể mặt Mark, nên không
dám quậy phá ở khu này.
Dù thành công trong nghề nghiệp, Mark chẳng may mắn lắm trong tình trường. Một
lần ly dị, mấy lần mất người yêu. Ở xứ này tiêu chuẩn của cánh phụ nữ là phải
luôn luôn được cung phụng, cưng chiều. Nhưng Mark luôn luôn bận rộn. Anh thường
đi công tác xa nhà nhiều ngày, bỏ người đẹp bơ vơ. Nên chỉ sau một thời gian
yêu nhau là anh mất nàng vào tay kẻ khác.
Mark rất thương con, nhất là cô con gái xinh đẹp tên Jina. Mỗi khi cô bé về nhà
đều được cha đưa qua tiệm tôi làm đẹp. Rồi anh nghe bạn bè kháo nhau, có nhiều
người Mỹ qua Á Châu kiếm bạn đời vì phụ nữ bên ấy xinh đẹp dịu dàng. Chẳng
những họ hiền thục mà còn thủy chung, chăm sóc gia đình, thương chồng con hết
mực. Anh cũng muốn “thử thời vận” nên vòng vòng trên mạng. Sau một thời gian
“chít chát” từ Thái Lan, Việt Nam, đến Trung Hoa, anh dừng lại với một cô tên
Cheng khoảng ngoài 30 tuổi, ở Thượng Hải.
Hình ảnh trao qua, email bay lại, từ Thượng Hải đến Cali. “Chat room” của Yahoo
bận li bì với cặp khách hàng Hoa lục, Mỹ quốc. Nhìn những tấm hình cô Cheng tạo
dáng đủ kiểu đứng ngồi không thua gì “hoa hậu thế giới,” đọc những câu đối
thọai bằng tiếng Anh lưu loát dí dỏm khi “chat” trên yahoo, và những email lời
lẽ ngọt ngào, Mark bị lâm vào “mê hồn trận.” Anh bèn xin nghỉ phép một tháng,
khăn gói đi Trung Quốc cưới vợ.
Nhưng khi đến nơi gặp Cheng, sém chút nữa Mark…té xỉu giữa phi trường. Cô dâu
tương lai của anh không hề biết một chữ tiếng Anh nó tròn hay méo! Tất cả sự
việc diễn tiến trong thời gian qua chỉ là màn kịch dưới sự đạo diễn tài tình
của người thông dịch viên từ một công ty môi giới ở Thượng Hải. Họ chuyên gán
ghép hôn nhân qua mạng. Những lời đàm thọai ngọt ngào trao đổi trên chatroom,
trong email, cách ăn mặc điểm trang, chụp hình kiểu mẫu gửi qua email cho Mark,
đều do người của công ty thực hiện. Việc của Cheng chỉ là để cho người ta trang
điểm thật đẹp, đến đó ngồi nhìn vào màn hình, “nhóp nhép” cái miệng, và mỉm
cười!
Cười không đặng mà khóc cũng chẳng xong, Mark định “cuốn cờ” về Mỹ ngay lập
tức. Nhưng rồi thấy cô Cheng xinh đẹp hiền lành, cộng với sự thuyết phục miệng
lưỡi tài tình của anh chàng nhân viên dịch vụ, Mark cuối cùng đồng ý ở lại tiến
hành đám cưới.
Một lễ cưới truyền thống Trung Hoa được tổ chức với những thủ tục lỉnh kỉnh
nhiêu khê ở một vùng quê xa xôi hẻo lánh. Cheng không phải là người Thượng Hải,
cô lên thành phố để “kiếm chồng ngoại.” Trong đám cưới, đại diện họ nhà trai
chỉ có chú rể và người nhân viên dịch vụ. Nhưng cần gì Mark chỉ việc xì đô la
ra là mọi chuyện đều “ô kê.” Hôm ấy, cô dâu khoát áo thụng đỏ lê thê kiểu
“Hoàng Châu Các Các.” Mark cựa quậy đến tội nghiệp, mồ hôi vã ra trong bộ áo
mão “Đại A Ca.” Anh thất thểu bước thấp bước cao theo sau cô dâu làm nhiều cuộc
lạy ra mắt. Hết xá bên ni rồi lại quì bên tê, Mark lạy theo Cheng đến vẹo cả cổ.
Rồi Mark cũng “sống sót” được sau đám cưới và rước cô dâu mới về khách sạn
hưởng tuần trăng mật. Thời gian một tháng ở Thượng Hải, hàng ngày anh dạy tiếng
Anh cho Cheng. Dù không biết tiếng Anh, người vợ mới cũng tỏ ra hết lòng chìu
chồng. Cô nàng chăm sóc Mark từng li từng tí, ép anh ăn uống, giúp anh thay áo
quần, thậm chí còn làm cả công việc mang giày vớ cho anh nữa. Mark cảm thấy
mình là một quân vương. Anh rất hạnh phúc nghĩ mình đã quyết định đúng khi đi
Trung Quốc. Về lại Hoa Kỳ, anh kể hết mọi việc cho chúng tôi nghe và khoe về cô
vợ mới cưới từ bên kia trái đất. Nhưng anh than thở là khá vất vả để hiểu nhau
vì cô không biết tiếng Anh. Tôi nói đùa:
- Như vậy cũng đâu có sao, vì đỡ phải cãi lộn.
Sau đó Mark bảo lãnh vợ. Thủ tục của Trung Quốc khó khăn nên phải đợi đến hai
năm, anh đi Thượng Hải đến lần thứ ba mới rinh được nàng sang Mỹ.
Khi Cheng đến Hoa Kỳ, Mark đưa vợ đi ra mắt hàng xóm. Cheng quả là một cô gái
đẹp.
Dáng người thanh mảnh, mái tóc đen dài xỏa phủ bờ vai, mắt phượng mày ngài, môi
hồng má phấn. Thảo nào Mark chẳng bị đảo điên. Ai cũng trầm trồ khen cô dâu
xinh đẹp và chúc mừng cho Mark. Khi gặp tôi, Cheng không nói được câu nào ngoài
tiếng “Hi” rồi đứng cười cười. Ngày xưa ở Nha Trang tôi chơi thân với mấy đứa
bạn người Việt gốc Hoa. Tụi nó có dạy tôi những câu tiếng Phổ Thông dùng trong
hàng ngày tôi vẫn còn nhớ lõm bõm nên cầm tay cô hỏi để “lấy le” với Mark:
- “Nị hảo ma?” Bạn có khỏe không?
Tưởng tôi biết tiếng Tàu, Cheng mừng quýnh tuông ngay một tràng dài làm tôi…ngọng
tuốt.
Tuy ít nói vì không biết tiếng Anh, nhưng trước mặt mọi người Cheng đã dạn dĩ
tỏ ra là một người vợ rất thương chồng, như âu yếm sửa lại cổ áo cho Mark, phủi
mấy sợi tóc còn vươn trên vai áo anh khi cùng anh đi cắt tóc về ghé lại chỗ
tôi. “Nụ cười ông Lộc” của Mark bây giờ rộng đến mang tai, anh luôn miệng nói
rất hạnh phúc vì Cheng yêu và chìu chuộng anh mọi điều. Một lần tôi đưa Mark
xem cái tự điển điện tử Anh/Việt của tôi và khuyên anh nên mua cho Cheng một
cái Hoa/Anh tự điển để cô học tiếng Anh. Mark đi mua ngay lập tức. Anh còn hỏi
thăm chỗ mua đồ chay vì Cheng theo đạo của Thiền sư Thanh Hải nên không ăn
thịt. Tôi chỉ cho anh những ngôi chợ Á Châu, các nhà hàng chay ở xa như
Sacramento, San Jose, San Francisco, Mark mừng vui nói với vợ:
- Không cần biết xa đến cỡ nào, ngày mai anh đưa em đến đó ăn đồ chay và mua để
dành.
Những ngày kế tiếp, cặp vợ chồng này thường đi ngang qua shop, tay trong tay
trông rất âu yếm. Khoản một tuần sau đó, buổi tối khi tôi chuẩn bị đóng cửa ra
về, thình lình Mark hớt ha hớt hải chạy vào:
- Chị Linda, không biết sao mà vợ tôi ra cửa đứng khóc suốt từ nãy đến giờ,
chẳng chịu đi ngủ. Tôi đã dỗ dành hết cách, giờ không biết tính sao. Chị hãy
làm ơn khuyên cô ấy dùm. Nói xong anh vội chạy đi, như thể chậm chân thì người
vợ mới của anh sẽ biến mất.
Tôi bước ra thấy Cheng đang đứng tựa cửa, nước mắt lưng tròng. Mark thì đi qua
đi lại, xính va xính vính như “gà mắt đẻ.” Tôi hỏi Cheng tại sao khóc, vừa hỏi
vừa múa máy tay chân đủ kiểu, nhưng cô vẫn cứ lắc đầu. Tự nhiên tôi nhớ lại
được một câu tiếng Tàu:
- “Nị xạng che ma?” Bạn nhớ nhà phải không?
Như nước vỡ bờ, Cheng ôm chầm lấy tôi òa lên khóc nức nở. Mark thấy vậy
cũng mếu máo khóc theo. Anh cứ nói luôn mồm, “Oh my God!” -Trời ơi! Anh
biết làm gì cho
em đây?” Đàn ông mà sao lại “yểu xìu” như vậy hả trời. Tôi nghĩ thầm,
nhưng lại
thấy tội nghiệp cho anh chàng si tình nên không dám lên tiếng. Khi tôi
nói
Cheng vì nhớ nhà mà khóc, Mark mới yên tâm và đỡ bối rối. Tôi và Cheng
đứng ôm
nhau thật lâu, tôi đợi cô ngừng thổn thức rồi giao cho Mark đưa cô vào
nhà.
Từ đó mỗi chiều đi làm về Mark chở vợ đến lớp tiếng Anh cho người lớn và ngồi
học chung với cô đến khuya. Anh đưa cô lại tiệm tôi làm móng tay móng chân mỗi
hai tuần, đích thân chọn màu và những kiểu vẽ trên móng, dắt cô đi mua sắm áo
quần, đi nhà hàng ăn cơm chay, mua thức ăn về rồi cuối tuần cùng cô nấu nướng.
Anh còn mua điện thoại cầm tay cho Cheng, dặn nếu có gì cần không gọi được anh
thì gọi cho tôi. Anh gửi gắm:
- Tôi đi làm, Cheng ở nhà một mình, nếu cô ấy cần gì nhờ chị giúp đỡ.
Tiếp xúc thường xuyên, tôi nhận ra tiếng Anh của Cheng ngày càng lưu loát hơn.
Một hôm Cheng đến khoe với tôi cô đã thi đậu bằng viết. Rồi Mark tập cô lái xe.
Mỗi khi chạy ngang qua tiệm lúc nào cô cũng chậm lại, nhấn còi inh ỏi, cười
toét miệng và vẩy tay khoe với chúng tôi. Cuộc sống của Cheng xem ra rất tốt,
vì chưa bao giờ tôi nghe cô than phiền về Mark điều gì.
Sau khi Cheng đậu bằng lái, Mark giao cho chiếc xe nhỏ để chạy còn anh dùng
chiếc xe truck để đi làm. Biết tôi đang học college, anh đưa vợ lại hỏi thăm
thủ tục nhập học rồi đưa cô đi ghi danh, mua sách vở, và đồ dùng. Từ khi Cheng
bắt đầu học college, tôi thấy cô thường đi chung với một người bạn cũng là
người Hoa, hai người tỏ ra rất thân thiết. Cheng kể với tôi cô quen người bạn
Trung Quốc nói tiếng Phổ Thông (Mandarin) này ở trường college. Mark cũng nói
anh rất mừng vì Cheng có bạn nói cùng ngôn ngữ để cô tâm sự cho đỡ buồn.
Cheng đi học được một thời gian, ngày kia cô gặp tôi và cười hớn hở:
- Em báo cho chị một tin mừng. Ngày hôm qua em đã lấy được thẻ xanh thường trú
mười năm, thay thế cho tấm thẻ xanh hai năm tạm thời trước đây.
- Ồ, tốt quá, chúc mừng em nghe! Mới đây mà em đã ở Mỹ được hai năm rồi, vậy là
ba năm sau em sẽ thi quốc tịch Mỹ. Tôi nói, nghĩ cô ấy giống trường hợp của tôi
ngày xưa.
- Không đâu! Cheng trả lời một cách chắc chắn, vẻ mặt có chút kênh kiệu, điều
mà tôi chưa hề thấy trước đây. - Chỉ một năm nữa thôi, vì chồng em là US
Citizen, Mỹ chính gốc mà chị, em sẽ được thi vào quốc tịch sau ba năm ở Mỹ!
Thì ra cô bây giờ không còn là cô Cheng khờ khạo khóc kể nhớ nhà hai năm về
trước, tôi thầm nghĩ. Cô đã có tất cả, biết lái xe, biết tiếng Anh, đi học
college, có bạn đồng hương, và bây giờ thì có tấm thẻ xanh thường trú với thời
hạn mười năm.
Một tuần sau đó… Đó là một buổi chiều cuối mùa hè.
Làm xong móng tay cho bà khách quen, tôi giúp đem cái bóp và chìa khóa ra nổ
máy xe cho bà, vì nước sơn chưa khô sợ bà đụng lung tung mất công sơn lại. Đến
bãi đậu xe, tôi bỗng thấy vô số xe cảnh sát chớp đèn xanh đỏ, nhấp nháy sáng
lóa cả một vùng, lớp đã dừng, lớp đang tới tấp chạy đến đậu bao quanh căn nhà
của Mark. Tôi vội bước lại xem. Mấy người chủ cơ sở kinh doanh gần đó cũng ra
chỉ trỏ xầm xì. Một cô hỏi thăm người cảnh sát quen thì anh cho biết:
- Cheng gọi 911 kêu cứu vì Mark muốn giết cô!
“Oh my God!” Chúng tôi cùng kêu lên, rồi vụt chạy ra sau nhà Mark. Tôi không
thể tin vào mắt mình! Dưới ánh nắng chiều vàng vọt, giữa rừng hào quang nhấp
nháy muôn màu từ đoàn xe cảnh sát đậu cạnh những cây cam trĩu quả vàng của nhà
hàng xóm, Cheng ngồi chễm chệ trong một chiếc xe tuần cảnh nhìn ra, tay chỉ trỏ
vào nhà, miệng “xì xồ” điều gì đó. Và tại nơi cửa sau của chính nhà mình, Mark
đang bị ba bốn người cảnh sát đè xuống còng tay, trong khi nhiều người khác thì
lăm lăm súng chỉa vào anh, y hệt như họ đang bắt một tội phạm hung dữ.
Tôi há hốc mồm nhìn Mark. Nét mặt anh trông giận dữ nhưng anh không hề chống cự
hay thốt lời nào. Còng tay anh xong họ áp giải ra xe, rồi vào nhà anh lục soát.
Sau đó tất cả chạy đi, mang theo nhiều thứ, kể cả người hàng xóm tốt bụng của
chúng tôi và “cô dâu mạng” của anh, cặp vợ chồng mà trong hai năm qua cả khu
phố đều chứng kiến và ngưỡng mộ vì họ “rất hạnh phúc.”
Một bà đứng cạnh tôi bỗng chép miệng:
- Tội nghiệp Mark! Trong số cảnh sát đó có vài người quen. Tôi thấy thỉnh
thoảng họ đến nhà anh, vậy mà bây giờ khi làm nhiệm vụ, họ bắt anh không một
chút nương tay!
Tôi đứng trông theo cho đến chiếc xe cảnh sát cuối cùng lăn bánh mà lòng ngẩn
ngơ. Tôi gật đầu với người hàng xóm:
- Đúng thế! Dù gì Mark cũng là một người làm việc trong ngành quan trọng, vậy
mà khi hữu sự thì các ngài bắt người cái rẹt một cách không thương tiếc!
- Thương tiếc! “Are you kidding?” - Chị đùa hả? Một người khác lên tiếng. –Luật
pháp là luật pháp, họ phải chấp hành thôi. Làm lớn làm nhỏ gì, quen biết hay
không cũng thế!
Quả là luật pháp Mỹ không chừa một ai, làm gì có chuyện “nhứt thân nhì thế”
chứ. Ngay cả tổng thống, nếu phạm sai lầm dù là chuyện bé xíu cũng lo sốt vó
chứ chẳng phải chơi. Chúng tôi còn túm tụm lại bàn tán một hồi vì mọi người đều
bị “shock” về chuyện đã thấy. Ai cũng nói chẳng đành lòng nhìn Mark, người được
mọi người quí mến phải vướng vào vòng lao lý. Tôi không biết Mark bị tội gì,
nhưng khi tôi kể cho người bạn hàng xóm nghe việc Cheng khoe với tôi cô đã có
thẻ xanh thường trú cách đó mấy ngày, và hiện cô đang đi học college, thì một
người nói:
- Chắc là cô ả lấy được thẻ xanh rồi nên bây giờ trở mặt đấy thôi! Và chị ta
cười lớn: -Gì chứ vợ mà gọi 911 thì chồng bị “hốt cốt” ngay thôi! Ha…ha…
Câu nói của chị ta làm tôi nhớ lại câu nói của một bà bạn thân ngày trước, “Ở
đất nước này một khi vợ gọi 911 thì chồng “không chột cũng què.” Chính con bà
cũng đã bị vợ gọi 911. Cách đó mấy năm, vợ chồng thằng con trai của bà chị này,
tạm gọi là Thế và Ly, có chuyện lục đục. Thế ra ngoài nhậu nhẹt về nhà bị Ly cự
nự, sẵn có hơi men cậu ta nổi dóa thưởng cho cô vợ một bợp tai. Ly bèn gọi 911,
và cảnh sát đến còng tay Thế “bắt bỏ bót” trong tình trạng áo thun quần cộc.
Tại đồn cảnh sát, Thế bị nhốt vào một phòng trống và bị tạt một sô nước lạnh
vào người, ướt như chuột từ đầu đến chân “để cho hạ hỏa,” người ta nói. Suốt
đêm trường lạnh lẽo trong tù, Thế đâm ra hận cô vợ nhẫn tâm. Ngày xưa anh đã
gặp và yêu Ly trong trại tị nạn Palawan Phillipines khi nằm chờ thanh lọc. Cuối
cùng Thế đậu, nhờ ăn theo diện tị nạn chính trị của cha. Ly bị “đá” nên nước
mắt chan hòa tiển người yêu lên đường đi Mỹ.
Ở Hoa kỳ, Thế đi làm kiếm tiền gửi qua cho cô xài. Thấy Ly nằm lại Phi thật lâu
cũng chả có kết quả, Thế kêu cô tình nguyện hồi hương để anh về cưới và bảo
lãnh. Sau một thời gian vất vả với thủ tục giấy tờ, hai lần về nước, cuối cùng
Thế cũng đem được vợ qua đây khi Ly vừa mang thai đứa con thứ nhất. Bấy giờ họ
đã có một trai một gái, cuộc sống ổn định, chồng đi làm cho Dealer xe hơi, vợ
làm thợ uốn tóc. Càng nghĩ thấm, Thế càng “tức khí.” Từ cái cảm giác xấu hổ bị
vợ cho ở tù trong khi mình luôn là một công dân tốt, đến tức giận vì bị nhốt và
tạt nước ướt nhèm nhẹp lạnh lẽo suốt đêm, Thế thề là sẽ trả thù “cái đồ vô ơn
bạc nghĩa.” Mình đã vất vả để đem cô ta qua đây, mà bây giờ “qua cầu rút ván.”
Khi được thả, Thế làm thật những gì anh nghĩ trong khi bị nhốt. Ly dị. Dù cha
mẹ hai bên kể cả bạn bè thân cận của họ như vợ chồng tôi hết lời khuyên giải
cũng đều chẳng đi đến đâu. Cả hai đều cứng đầu nên khó lòng hoài giải. Việc ly
hôn đã làm xẻ nghé tan đàn, hai đứa con một sống bên cha, một ở cạnh mẹ. Sau đó
Thế lại về Việt Nam cưới một cô vợ trẻ, nhưng bảo lãnh qua đây rồi cũng chẳng
hạnh phúc gì, và Ly thì nghe đâu yêu đương rả rít tùm lum, cho đến giờ vẫn chưa
đình đậu.
Nhớ đến đó tôi đâm ra lo cho Mark vô cùng. Cuộc gọi 911 của một “phó thường
dân” mà đã làm tan nát cả một gia đình như thế. Chuyện của Mark có thể còn tệ
hơn, vì dù gì anh cũng làm một cái job quan trọng. Tôi bần thần bước vô lại
tiệm thì nghe được bản tin nóng từ TV địa phương. Họ cho biết, “Cảnh sát vừa
giải thoát một ‘cô dâu mạng’ được cưới đến Hoa Kỳ, bị người chồng vũ phu giam
cầm bỏ đói và hành hạ suốt hai năm qua, bây giờ còn định giết cô ta.”
Đúng là một tin giật gân! Mới đầu, tin này làm náo động khu phố và thành phố
chúng tôi. Nhưng đến chiều thì khu vực xung quanh nhà Mark bỗng nhiên nhốn
nháo. Ký giả báo chí từ các nơi ào ạt đổ về, nhật báo, tuần báo, tạp chí,
truyền thanh truyền hình, địa phương và các nơi xa đều cử người đến. Khu phố
tràn ngập đủ loại xe lớn xe nhỏ, người vác máy quay phim, kẻ lăm lăm máy ảnh,
anh thì ôm tập, chị cầm máy ghi âm… Nhiều chiếc máy quay phim to đùng có chân
cẳng đặt sau nhà Mark, ống kính chỉa thẳng vào nhà để phục kích. Một số người
khác rảo vòng quanh xóm, thấy ai lấp ló thò thụt dòm ra là nhào đến phỏng vấn.
Tôi hụt hẫng, chẳng biết hư thực thế nào, và không tin Mark muốn giết vợ. Làm
sao mà cả hai người lại đóng kịch tài tình như vậy đến những mấy năm kia chứ?
Cheng thân với tôi hơn bất cứ người hàng xóm nào, và cô chưa bao giờ tỏ vẻ
phiền lòng hay kể tôi nghe chuyện gì xấu về Mark. Nhưng “không có lửa làm sao
có khói,” tôi cũng có chút dao động, bán tín bán nghi. Cho nên mỗi lần thấy có
ký giả sắp bước vào tiệm là tôi kéo ông xã chạy vội ra đàng sau, sợ rủi lỡ lời
“phát ngôn bừa bãi” sẽ làm hại một trong hai người họ. Tôi nhờ khách nói với ký
giả là người trong tiệm đã ra ngoài, khách thì ở xa đến nên không biết gì về sự
việc. Nhiều lần chạy trốn như vậy, tôi suy nghĩ, sắp xếp lại mọi điều, và chợt
nhận ra mình không thể lặng im. “Giam giữ và hành hạ người phối ngẫu” là một
tội không nhỏ trên đất nước này. Báo chí nói Mark đang hưởng tiêu chuẩn “vắng
mặt vì công vụ,” trong khi chờ điều tra, nhưng tôi hiểu nếu anh bị kết án ở tù,
việc làm rất tốt gần hai chục năm của anh, hai đứa con đang ăn học, nhà cửa…có
thể anh sẽ mất tất cả. Và tôi quyết định phải làm cái gì đó để may ra có thể
giúp anh phần nào.
Cuối cùng, tôi không chạy trốn nữa mà tiếp ký giả của một tờ báo lớn. Tôi kể họ
nghe “những điều trông thấy” nhưng chẳng có “đau đớn lòng” tí nào cả, vì đôi vợ
chồng này luôn tỏ ra rất mực yêu nhau. Mark đã chiều chuộng Cheng như thế nào,
dạy vợ lái xe ra sao, đưa đi học tiếng Anh, và cho vào college. Trong mắt những
người hàng xóm như chúng tôi thì cặp vợ chồng này thật là hạnh phúc.
Báo chí, radio, TV đồng loạt đưa tin, theo dõi diễn biến vụ “cầm giữ và hành hạ
cô dâu mạng.” Luật sư của Mark, các ban ngành liên quan, và nhiều nhà điều tra
khác lần lượt đến khu phố để tìm hiểu. Khi những người đại diện cấp trên của
Mark đến gặp tôi để tìm hiểu sự việc, tôi cũng kể lại những gì tôi biết và giới
thiệu để họ hỏi thêm vài người hàng xóm gần tôi, những người cũng quen biết
Mark. Đây là “chuyện lớn” trong thành phố nhỏ, nên người ta bàn tán hàng ngày.
Họ cho rằng Cheng vì tấm thẻ xanh mà làm hại Mark. Rồi một tháng sau khi Mark
bị bắt vô tù và Cheng biến đi đâu mất, thành phố chúng tôi lại sôi động, báo
chí một lần nữa hâm nóng tin tức về vụ của Mark. Nhưng lần này là tin vui. Mark
người chồng bị kết tội “bắt cóc giam giữ vợ” đã được thả vì trắng án!
Mark ghé lại chỗ tôi vào một buổi tối. Tôi gần như không nhận ra anh. Người đàn
ông lịch lãm oai phong ngày nào bây giờ trông phờ phạc, mắt thâm quầng, nhiều nếp
hằn vắt dọc ngang qua cái trán bóng. Mái tóc nâu của anh giờ đã thành trắng
phếu. Anh giống như một người trở về từ địa ngục, mang vẻ mặt của một cái “bánh
bao chiều.”
Mark kể chúng tôi nghe về sự đớn đau anh đã chịu đựng khi ở tù và những kinh
nghiệm anh có được qua việc này. Mark cho biết anh tồn tại là nhờ quyển kinh
Thánh anh giữ bên mình hàng ngày để tìm bình an cho tâm hồn. Một chuyện thật
thú vị Mark kể là có lần anh bị khủng hoảng tinh thần nên ôm lấy quyển Kinh
Thánh cầu nguyện rồi mở ra, ngầm “bói một quẻ” xem lành dữ thế nào. Thì ra Mark
cũng có sự tin tưởng như mấy đứa bạn Việt Nam ngày xưa thời còn đi học của tôi,
“bói Kiều.” Ngày ấy chúng tôi thường dùng quyển truyện Kiều của cụ Nguyễn Du để
bói trong tất cả mọi tình huống, “yêu-không yêu, ghét-không ghét, tốt-không
tốt.” Chẳng biết có phải là cụ Tiên Điền linh thiêng hay không, mà thuở ấy bọn
tôi thường bói trúng phóc.
Mark nói anh đã mở đúng chapter “Daniel 6” trong quyển Thánh Kinh, mà nội dung
là câu chuyện của một người tên Daniel bị kết tội oan và bị ném vào hang sư tử,
nhưng Chúa đã cứu ông ấy bằng cách cho thiên thần bịt mồm thú dữ. Chính đó là
niềm tin, là hy vọng cho anh. Cũng theo Mark, bài học rút ra từ sự đau đớn lần
này là anh có nhiều niềm tin hơn vào Thượng Đế, và anh đã nhận ra trong công
việc của mình, anh phải cẩn thận nhiều hơn nữa để tránh những vụ oan ức làm
người khác bị khổ đau.
Trong khi chuyện trò, thỉnh thoảng đôi mắt anh để tận đâu đâu, trông khổ sở như
cố kềm nén những giọt lệ uất ức. Nhìn anh như thế, tôi thấy giận Cheng vô cùng.
Nhớ lại lời những người hàng xóm, tôi hỏi:
- Cheng thật lạ kỳ! Cô ấy làm cho anh sém chút nữa mất hết tất cả. Giờ anh tính
thế nào?
Anh có định khiếu nại lên sở Di Trú để họ trục xuất Cheng về nước không? Tôi
nghe mấy người hàng xóm nói như vậy đó. Mark lắc đầu, giọng anh buồn thật là
buồn:
- “No!” Tôi sẽ không làm vậy đâu! Trong thời gian ở Trung Quốc, tôi đã nghe
thấy rất nhiều điều. Người dân ở đó lúc nào cũng mắt la mày lét, sống không có
tự do, nên ai cũng muốn thoát khỏi cái nơi địa ngục đó. Tôi biết Cheng bằng
lòng lấy tôi cũng là để được sang Mỹ nên tôi sẽ không tìm cách để họ trục xuất
cô ấy đâu. Nhưng trên tất cả, là tôi yêu Cheng và cũng từng có những tháng ngày
hạnh phúc với Cheng. Cô ấy đã lo lắng chăm sóc tôi như một người vợ hiền thật
sự. Giờ tôi chỉ mong cô được sống tốt là tôi vui!
Mark rời khỏi từ lâu mà tôi vẫn còn ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ về câu anh nói. Nhớ
lại những tháng ngày đã từng hạnh phúc bên nhau. Phải rồi. Tại sao người ta lại
không thể nhớ lại những ngày tháng hạnh phúc để tha thứ cho nhau kia chứ. “Nhân
vô thập toàn” mà. Ai cũng có lúc lỗi lầm, tại sao lại cứ phải nhớ mãi những lầm
lỗi để cắn đắng nhau. Tôi chợt nhận ra có lúc tôi cũng tệ lắm. Mỗi lần có vấn
đề với “nửa kia,” tôi thường cố moi móc lôi ra những chuyện không vui từ xửa từ
xưa để mà càm ràm, chì chiết. Phải chi tôi có được cái tâm của Mark, để chỉ nhớ
những điều tốt ông ấy từng làm, điều hay ông ấy từng có, hoặc là nhớ lại “cái
thuở ban đầu lưu luyến” đầy mộng đầy mơ ấy mà bỏ qua mọi việc, thì những trận
cãi nhau đó đã không có dịp hình thành. Và nếu cô Ly dâu của bạn tôi ngày ấy
bình tâm hơn một chút, và cậu Thế cũng đừng mang nặng ý nghĩ trả thù, thì gia
đình họ đã không tan nát.
Mark đi làm trở lại và mọi việc rồi cũng bình thường, tuy anh ít ra ngoài như
trước.
*
Khá lâu sau, một buổi tối khi tôi chuẩn bị đóng cửa thì thấy một chiếc xe màu
trắng tấp vào đàng trước và một phụ nữ rất đẹp mở cửa bước xuống vẻ vội vàng.
- Có khách vào trễ rồi, phải nán lại thôi! Tôi nói với nhà tôi.
Người phụ nữ mặc bộ váy sát nách màu hồng, ngắn-ơi-là-ngắn, để lộ cặp giò trắng
nõn nà và đôi cánh tay trần mướt rượt, bước đi nhún nhẩy trên đôi giày gót cao.
Vừa bước vào tiệm, cô ta chạy vội lại ôm chầm lấy tôi:
- Chị Linda! Em nhớ chị quá trời luôn!
Tôi bị bất ngờ đến sững sờ khi nhận ra đó là Cheng.
- Trời ơi! Là Cheng hả? Dạo này em đẹp quá làm chị nhận không ra! Lâu nay em ở
đâu?
- Chuyện dài lắm! Em sẽ kể chị nghe.
Cheng cho biết cô đã một mình lái chiếc Honda Civic này suốt cả ngày từ Los
Angeles lên đây. Cô cũng kể về những vất vả trên đường lưu lạc, trôi dạt xuống
Nam Cali sau khi bỏ chạy. Làm thuê làm mướn đủ thứ nghề trong một thời gian,
rồi có người bày cô đi học lấy bằng “M***age Therapy,” và hiện cô đang làm việc
cho một trung tâm xoa bóp, chỉnh hình dưới LA. Mark đã tìm ra cô và xuống thăm
thường xuyên từ ngày anh biết nơi cô sống. Cheng tỏ vẻ rất hối hận về những gì
cô đã làm:
- Em cũng không biết tại sao ngày đó em lại làm vậy nữa. Có lẽ vì tinh thần em
bị khủng hoảng, vì quá nhớ nhà, nên chuyện bé đã bị em “xé ra to.” Cô chép
miệng, lắc đầu:
- May mà Mark không bị ở tù lâu. Em rất xúc động vì anh ấy chẳng những không
hận thù em mà trái lại, vì tình yêu chân thật anh đã tha thứ cho em. Rồi cô
cười rất tươi, rất hạnh phúc:
- Chúng em huề rồi!
- Trời đất! Tôi trợn mắt – Cô chơi cái kiểu gì ác quá vậy? Cô có biết là thiếu
chút nữa thì sự nghiệp của Mark tiêu tùng không? Tôi nói mà trong bụng rủa thầm.
- Em biết chứ Cheng cúi mặt, hai chân dí dí đôi giày cao gót vào nhau như muốn
phủi đi bụi bẩn, những bụi bẩn mà cô đã từng đổ ập xuống đầu người chồng tội
nghiệp.
- Nhưng thôi, bây giờ như vậy là vui rồi! Tôi thấy áy náy nên nói đỡ.
Chúng tôi trò chuyện một hồi thì Mark đến. Mặt mày anh tươi hơn hớn, một vẻ mặt
tôi đã không nhìn thấy từ rất lâu, và “nụ cười ông Lộc” đã xuất hiện trở lại
trên môi anh, rộng đến mang tai. Mark nói anh không cho biết trước việc trở về
của Cheng vì muốn dành cho chúng tôi một bất ngờ. Tôi khen Cheng có chiếc xe
mới toanh quá đẹp, Mark cười hì hì hãnh diện:
- Tôi đã mua cho Cheng hồi tháng trước đó chị. Khi tôi xuống dưới LA thăm cô ấy!
Nói xong anh âu yếm choàng vai Cheng:
- Mình về thôi em! Để cho anh chị ấy đóng cửa.
Nhìn theo hai người, tôi cảm thấy lòng vui khôn tả. Cuối cùng thì “gương vỡ lại
lành.”
Đối với Mark, tình yêu thật sự và lòng tha thứ đã đem hạnh phúc trở lại cho
anh, niềm hạnh phúc mà anh tưởng đã “tiêu tùng” sau cái ngày đen tối ấy. Còn
đối với Cheng, “cô dâu mạng” của anh, nhìn cô vui vẻ thế này, tôi biết giờ đây
tấm thẻ xanh đối với cô chẳng còn giá trị nữa. Vì cô đã có một “tấm chồng” biết
tha thứ và yêu cô bằng cả trái tim với cái đầu độ lượng..
Phương Hoa
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 24/Jan/2018 lúc 5:59am |
Tình
yêu không nhất định là phải có được, mà là bạn sẵn sàng làm tất cả để
khiến người mình yêu thương cảm thấy hạnh phúc”. (Ảnh: Afamily)
Tình yêu chân chính không nhất định là phải có được người mình yêu, đôi khi lựa chọn buông tay để cho người mình yêu được sống hạnh phúc chính là biểu hiện của tình cảm chân thành, cao cả.
Thời xưa, có
một vụ án nổi tiếng tạm gọi là “tình yêu của sự buông tay”. Câu chuyện
kể về hai người phụ nữ cùng tranh giành một đứa bé 2 tuổi, cả hai đều
khăng khăng nói rằng đứa bé là do mình sinh ra, vậy nên không ai chịu
nhường ai. Cuối cùng ầm ĩ đến nơi công đường, vị quan gia bởi vậy cũng
phải hao tâm tổn trí, ông đã lệnh cho hai người phụ nữ hãy dùng hết sức
mà giành lấy đứa trẻ, ai thắng thì đứa trẻ sẽ thuộc về người đó.
Hai
người phụ nữ quả nhiên đã dùng hết sức để giành giật đứa bé, người nào
người nấy đều muốn lôi đứa bé về phía mình. Nhưng đứa trẻ bé nhỏ không
chịu nổi sức kéo, đã khóc òa lên nức nở. Lúc này, một người trong đó
nghe thấy tiếng khóc đau như xé lòng, liền đột nhiên buông tay, mặc cho
người phụ nữ kia đắc ý kéo đứa trẻ về mình.
Lúc này, vị
quan xử án đập mạnh thanh kinh đường mộc, ông nói, chỉ có người mẹ yêu
thương con mới không nỡ lòng nhìn thấy con mình chịu khổ, thậm chí vì
vậy mà nguyện ý hy sinh tình yêu của mình. Bởi vậy ông đã đem đứa trẻ
trao cho người phụ nữ này và trừng phạt nghiêm khắc người phụ nữ còn
lại.
Câu
chuyện trên, đến ngày hôm nay đọc lại vẫn khiến người ta thổn thức. Quả
thật, tình yêu đích thực không phải là “giành lấy”, mà là từ bỏ và
buông tay…
Tôi có một anh bạn thân hiện đang học thạc sĩ luật ở thành phố Tây An. Anh ấy từng kể cho tôi nghe mối tình đầu của mình.
Trước
khi học trường luật, anh từng làm việc trong một nhà xưởng. Bởi gia
cảnh khó khăn, anh lại là người thật thà chăm chỉ, cộng thêm tư chất
thông minh, vậy nên anh rất mau chóng được đề bạt làm trưởng phòng. Và
như được ông Trời se duyên, anh và con gái của vị tổng giám đốc dần dần
sinh lòng ái mộ, tình yêu của họ rất tự nhiên như cơn gió đầu mùa.
Nhưng mối tình trong sáng ấy lại gặp phải sự phản đối quyết liệt của gia đình vị tổng giám đốc. Lý do rất đơn giản, chính là bởi anh là chàng trai nghèo không môn đăng hộ đối, trong khi con gái họ lại là thiên kim tiểu thư lá ngọc cành vàng. Họ đã thẳng thắn ngăn cản vì lo lắng con gái mình sau này sẽ phải chịu khổ.
Nhưng
cô bạn gái không nguyện ý rời xa, nên vẫn lén tìm cách gặp anh. Về sau
bố mẹ phát hiện đã nhốt cô ở nhà, mỗi lần cô gọi điện thoại cho anh đều
khóc nức nở, khiến anh càng cảm thấy xót xa trong lòng.
Cuối
cùng, anh bạn tôi đã dứt khoát quyết định rời đi thật xa, để cô bạn gái
mau chóng quên đi mối tình đau khổ này mà bắt đầu một cuộc sống mới.
Trong
những ngày tháng sau này, anh kiên trì vừa làm vừa học, chỉ sau ba năm
anh đã vào được trường luật danh tiếng của thành phố Tây An. Anh nói: “Trong
lòng tôi vẫn rất yêu cô ấy. Chính bởi tình yêu này mà tôi đã quyết định
buông tay, bởi tôi không thể tiếp tục nhìn cô ấy vì mình mà chịu đủ mọi
đau khổ giày vò như vậy”.
Tôi hỏi anh: “Hai người có còn gặp lại nhau không?”.
Bạn tôi lắc lắc đầu: “Cô ấy đã lấy chồng rồi, người đó điều kiện rất tốt, họ cũng có với nhau một đứa con, cuộc sống rất hạnh phúc”.
“Thế anh có hối hận vì đã từ bỏ người mình yêu không?”, tôi lại hỏi anh.
Anh bạn nói: “Hối
hận ư? Tôi yêu cô ấy, mong rằng cô ấy sẽ luôn hạnh phúc. Nếu người đó
cũng yêu thương cô ấy như tôi, thế thì trong lòng tôi đã rất mãn nguyện
rồi. Tình yêu không nhất định là phải có được, mà là bạn sẵn sàng làm
tất cả để khiến người mình yêu thương cảm thấy hạnh phúc”.
Chỉ một câu nói ấy nhưng đã làm tôi cảm động rơi nước mắt, giúp tôi có thêm nhận thức mới về tình yêu.
Trong lịch sử Phật giáo cũng có câu chuyện xúc động lòng người như thế này:
Câu
chuyện kể về hai vị “Hòa Hợp nhị tiên” tên là Hàn Sơn và Thập Đắc.
Tương truyền họ chính là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Trước khi xuất gia, họ từng là đôi bạn thân tình như thủ túc, nhưng
trái ngang thay cả hai lại yêu cùng một cô gái. Cô gái vốn có tình cảm
với Thập Đắc, đã trao gửi tâm hồn thiếu nữ cho chàng, nhưng tiếc thay
người nhà lại hứa gả cô cho Hàn Sơn.
Một
lần, Hàn Sơn vô tình biết được ý trung nhân trong lòng cô gái là người
bạn thân thiết nhất của mình. Anh rất đau khổ và khó xử, bởi anh cũng
yêu cô gái ấy bằng cả trái tim mình. Nhưng mỗi khi nhìn thấy người mình
yêu thương rạng ngời hạnh phúc ở bên cạnh Thập Đắc, anh lại thêm quyết
tâm xuất gia để tác thành cho hai người.
Thập
Đắc hay tin, trong lòng chàng cảm động sâu sắc bởi tấm chân tình sâu
nặng của Hàn Sơn, thế là chàng không quản ngại đi khắp trăm sông nghìn
núi để tìm Hàn Sơn trở về. Cuối cùng, khi đến ngôi chùa bên cạnh cầu
Phong ở Tô Châu, Thập Đắc đã gặp được Hàn Sơn. Nhưng ý nguyện xuất gia
của Hàn Sơn rất kiên định, Thập Đắc khuyên nhủ thế nào cũng không lay
chuyển được.
Sau cùng, Thập Đắc quyết đoạn dứt tình duyên, chấm dứt muôn vàn phiền
não để bước vào cửa Phật, từ đây hai người quý mến giúp đỡ lẫn nhau,
tình cảm đã thân thiết lại càng thêm thân thiết. Đoạn giai thoại này
cũng lưu truyền rộng rãi ở nhân gian, được người đời sau gọi là “Hòa Hợp
nhị tiên”, chứng kiến cho sự tương thân tương ái, tình sâu nghĩa nặng,
cũng là tượng trưng cho sự tường hòa, viên mãn của hai người.
Câu
chuyện trên đã nói rõ một đạo lý: Yêu thương không phải là chiếm hữu,
buông tay không phải là buông bỏ, bởi tình yêu chân chính là để giúp
người mình yêu có được hạnh phúc.
Nhưng
trong xã hội thời nay, rất nhiều người cho rằng tình yêu là ích kỷ, là
chiếm hữu. Trên báo đài cũng từng đưa tin về những trường hợp tự vẫn,
quyên sinh, hoặc những vụ án mạng xuất phát từ tình – đó là hậu quả đau
lòng khi người ta coi nhẹ mạng sống và hận thù vì tình yêu.
Rất nhiều câu chuyện tương tự cũng là kết cục đáng buồn khi con người
tôn thờ thứ tình yêu vị kỷ, thứ tình yêu chiếm hữu. Thiết nghĩ, đời
người dài ngắn cũng chỉ có 100 năm, đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới hiểu
rằng sinh mệnh là quý báu vô ngần. Vậy mà, chỉ vì một phút nông nổi hồ
đồ, hoặc chỉ vì một chút tình cỏn con không thể thoả mãn, mà người ta đã
quên mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống này. Vì tình yêu mà phủ nhận
hoặc hy sinh niềm vui sống, thậm chí từ bỏ cả sinh mệnh, đây chẳng phải
là sai lầm lớn nhất trong đời người hay sao?
Vậy
nên, con người sống trong tình yêu, cũng cần phải có dũng khí và tấm
lòng rộng lượng gánh chịu hoàn cảnh của mình, có thể theo đuổi hạnh phúc
nhưng đừng nên theo đuổi sự hoàn mỹ. Phật gia cho rằng một người tâm
thái vững vàng, luôn có tấm lòng thành, sẽ có thể tiếp nhận mọi sự việc
phát sinh trong cuộc sống. Chính bởi vì tiếp nhận, mới có thể nhìn rõ
bản chất của sự vật, từ đó gắng sức tránh khỏi những đau khổ do con
người tạo nên.
Tình
yêu chính là từ bi bình đẳng, cũng là phó xuất và hiến dâng. Một người
có thể “yêu mà không cầu”, thì cảnh giới của anh ta sẽ có được sự thăng
hoa, tâm linh cũng đã đạt đến trạng thái thiền ngộ, tất nhiên cũng có
thể tìm được con đường hạnh phúc viên mãn của mình. st.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 25/Jan/2018 lúc 11:02am |
Người Nhật Trung Thực Đến Mức Nào?
Có
rất nhiều người Việt khi đến Nhật Bản đều chỉ “mua mua mua” hầu như
không hề lo mua phải hàng giả như khi ở trong nước. Vậy ở Nhật có hàng
giả hay không?
Nếu
bạn ăn phải thứ gì không sạch sẽ trong quán ăn ở Nhật, ví dụ như tóc,
côn trùng v.v… thì chúc mừng bạn, bạn phát tài rồi! Bởi vì bạn sẽ nhận
được một khoản tiền bồi thường vô cùng lớn; còn quán ăn xảy ra vấn đề
này thì đa phần sẽ rất khó có thể tiếp tục kinh doanh được.
Ở
Osaka từng có 4 khách hàng bị tiêu chảy sau khi đi ăn thịt nướng, tin
tức này bị các tờ báo liên tục đưa tin, cuối cùng kết quả rất thê thảm:
cửa hàng thịt nướng đang phát đạt phải đóng cửa, ông chủ bị cấm làm việc
trong ngành ăn uống suốt đời.
Ngoài
ra còn một ví dụ như sau: Ở Nhật, một người mua một cái máy tính hiệu
Sony mới dùng được một tuần thì bị màn hình xanh khởi động lại, anh gọi
điện thoại cho hãng để bảo hành, phía bên hãng hỏi về sự cố xong rồi nói
có thể là “giai đoạn đầu chưa được ổn định” và cho biết sẽ đổi cho anh
một cái máy mới. Sau đó, họ nói với anh rằng chỉ cần lưu tài liệu cá
nhân trong máy rồi gửi lại cho hãng là được.
Theo
quy trình bảo hành ở Việt Nam, thường thì trước tiên bạn phải mang máy
đến hãng, hãng sẽ nhận máy, xác định không có nhầm lẫn thì mới sửa hoặc
đổi máy mới cho bạn. Điều khiến, anh này bất ngờ đó là chưa đến hai ngày
mà hãng Sony đã gửi máy mới đến và còn kèm theo một lá thư xin lỗi.
Bạn thấy đấy, ở Nhật, sự tin tưởng giữa người với người đơn giản thế thôi.
Vì vậy, những người Việt sống lâu ngày ở Nhật sẽ trở nên “ngốc”, ví dụ như:
–
Tuân thủ quy tắc xã hội, nhìn đèn tín hiệu khi qua đường, xếp hàng khi
cần phải xếp hàng, không có điều kiện xếp hàng thì cũng phải xếp.
–
Ý thức đề phòng kém: hoàn toàn không cho rằng việc để ví tiền trên bàn
ăn ở nhà hàng hay quán ăn để đi vệ sinh là có gì đó không ổn, dù là ví
hiệu Louis Vuitton hay Dunhill. Tóm lại, có đặt ví tiền trên bàn ăn rồi
đi đâu đó cũng không lo bị mất.
Hệ thống thành tín này tất nhiên
sẽ tồn tại một loại hiện tượng là: một khi làm trái lại thì hậu quả chắc
chắn sẽ vô cùng nghiêm trọng.
Trong
ngành thương mại ở Nhật đôi lúc cũng có hiện tượng làm hàng giả, ví dụ
như giả mạo phẩm nước ngoài là sản phẩm của Nhật Bản (người Nhật tin
rằng nước mình mới là tốt nhất).
Ví
dụ như vài năm trước từng xuất hiện sự việc giả mạo cá chình của Trung
Quốc thành là hàng của Nhật, việc này dẫn đến kết quả là:
– Thứ nhất, giám đốc công khai xin lỗi.
– Thứ hai, ngân hàng ngừng cho công ty này vay vốn và các đối tác ngừng quan hệ mua bán, công ty đành phải đóng cửa.
– Thứ ba, một số các lãnh đạo công ty lớn tuổi do không thể vực dậy công ty nên đi vào đường cùng như tự sát.
Ở Nhật nếu bị phát hiện gian dối thì hậu quả là rất nghiêm trọng, nghiêm trọng đến mức nào?
Có
một trường hợp điển hình có thể cho thấy rõ mức độ nghiêm trọng của
việc giả tạo. Khi sự việc làm giả luận văn ồn ào trước đây của TS Haruko
Obokata bị khui ra, giáo sư hướng dẫn của cô là ông Yoshiki Sasai,
người được giới y khoa Nhật công nhận là thiên tài khoa học đã treo cổ
tự sát trong Viện nghiên cứu.
Vì thế ở Nhật, giả dối là một việc còn nghiêm trọng hơn cả ngồi tù.
Nếu
bị phát hiện giả dối thì về cơ bản có nghĩa là không còn đường phát
triển nữa, bởi vì công ty làm giả sẽ bị đóng cửa, lãnh đạo tự sát, thậm
chí còn không được ai thương cảm, mọi người chỉ cho rằng bạn dùng việc
tự sát để tẩy sạch lỗi lầm của mình mà thôi.
Việc
không cần lo lắng mua phải hàng giả ở Nhật còn một nguyên nhân là quan
hệ giữa người Nhật với nhau đạt đến mức trung thực khó tin.
Ví
dụ như xung quanh bãi đỗ xe tại rất nhiều thị trấn nhỏ ở Nhật, bạn
thường có thể thấy nhiều “sạp” nhỏ có mái che không hề có người trông
coi để từng túi từng túi rau tươi hoặc trứng gà, bên cạnh là một mảnh gỗ
viết 100 yên một túi, không có ai coi giữ cả, hoàn toàn là khách hàng
mua đồ xong rồi tự giác bỏ tiền vào chiếc hộp trông giống như heo đất.
Tại các
cửa hàng, siêu thị hoặc máy bán hàng tự động ở Nhật đều không hề lắp đặt
hệ thống nhận dạng tiền, bởi vì sẽ không có ai dùng tiền giả.
Ở Nhật, nếu đánh mất thứ gì đó thì không hề lo lắng, bởi vì người nhặt được đều sẽ gửi đến sở cảnh sát gần nhất.
Một
người đi công tác ở Nhật bỏ quên áo khoác khi đi tàu điện ngầm, anh ấy
nghĩ rằng lần này thì phiền phức to rồi đây, vì bên trong có tài liệu
quan trọng, ví tiền và hộ chiếu.
Ngay khi anh ấy lo lắng thì có người cho biết những thứ bị mất thường sẽ có người giao lại cho trạm xe.
Anh
ấy đến phòng bảo vệ ở trạm xe thì nhìn thấy áo khoác của mình được xếp
gọn gàng không thiếu thứ gì và gói bằng túi nhựa, anh ấy vô cùng cảm
kích và xúc động.
Nhật Bản không chỉ là một quốc gia giàu có phát triển mà là một quốc gia khiến người ta yên tâm.
Tinh
thần tập thể và ý thức hợp tác của người Nhật rất mạnh. Người Nhật tôn
trọng mọi người, bất cứ việc gì cũng nghĩ cho người khác trước, không
gây phiền phức gì cho mọi người.
Chủ nghĩa hoàn hảo của họ điển hình nhất là yêu cầu về mức độ sạch sẽ trong nhà vệ sinh.
Dù
là trong phòng khách sạn hay nhà vệ sinh công cộng cũng vậy, tất cả đều
nhất định phải vô cùng sạch sẽ, tốt hơn nữa đó là đều có lắp đặt bồn
cầu tự động xả nước “cao cấp”, điều này không cần phải giải thích rõ
ràng, chỉ cần ai từng dùng là sẽ biết.
Yêu
cầu của Nhật Bản đối với môi trường đạt đến mức độ cực cao, vì vậy chỉ
cần từng đi Nhật bạn sẽ biết, đi bộ trên đường phố cả tháng giày cũng sẽ
không có bụi.
Ở
Nhật, dù vứt rác như chai lọ làm bằng nhựa PET hay hộp sữa uống… cũng
phải rửa sạch, sau khi khử trùng thì mới tái chế, vì vậy Nhật Bản trở
thành một quốc gia rất ít virus, vi khuẩn và cực kỳ vệ sinh.
Bởi vì mức độ vệ sinh cực kỳ cao, lại
thêm dinh dưỡng cân bằng phong phú, tâm lý khỏe mạnh tích cực, môi
trường xã hội hoàn hảo, bảo đảm phúc lợi xã hội hoàn thiện, y tế phát
triển, xã hội thành tín an tâm, tôn trọng lẫn nhau, hệ thống giáo dục
tiên tiến, xã hội nhân tính bao dung đã khiến cho nước Nhật 42 năm liền
được bình chọn là một trong những quốc gia đáng sống nhất trên thế giới.
Người Nhật là những người theo chủ nghĩa hoàn hảo, họ bị ám ảnh bởi trật tự.
Người
Nhật tuân thủ trật tự là điều mà mọi người trên thế giới đều rất quen
thuộc, ở những nơi du lịch lớn, hướng dẫn viên du lịch cầm cờ nhỏ dẫn
đường, một nhóm người lặng lẽ xếp hàng đi theo chắc chắn là người Nhật.
Người Nhật theo chủ nghĩa hoàn hảo, họ bị ám ảnh bởi sáng tạo kỹ thuật.
Không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, Nhật Bản đi tiên phong về mảng tàu
điện trên cao, qua hơn 20 năm nghiên cứu, không ngừng thử nghiệm, sửa
chữa thì mới có thể vận hành được bình thường, điều này hoàn toàn khác
với Việt Nam.
Chính vì điều này nên người Nhật đã tạo nên một thị trường nói không với hàng giả.
Vì
vậy, khi bạn mua sắm ở những cửa hàng dược-mỹ phẩm như Matsumoto
Kiyoshi, bạn có thể yên tâm rằng chỉ cần cửa hàng dám xếp hàng lên kệ
thì chất lượng được đảm bảo 100%.
st.
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 27/Jan/2018 lúc 9:29am |
NỊ ĂN CƠM CHƯA !!! Việt Nan Ngày Xưa Có Hai Châm Ngôn chúng Ta Không Thể Quên Được:
-NGƯỜI VIỆT SỢ CHẾT.
-NGƯỜI TÀU SỢ ĐÓI.
Chú thích :
-LÌL là Liên.
-NGÓA là tôi, tao.
-LỨ là mầy, anh.
***
ĂN CƠM CHƯA ? (食飯未?)
Bình Nguyên Lộc
Tôi là người gốc Triều Châu nhưng từ nhỏ đến lớn chỉ học tiếng Việt và
chỉ giao du với bạn VN và ngay cả cái nhà tôi ở cũng ngay trung tâm
thành phố (ngay trước Hội Đồng Xã Tân An - Cần Thơ) và xung quanh là nhà
của các công chức VN. Vốn liếng tiếng Tiều của tôi lúc đó rất ít nhưng
lớn lên, cho đến giờ tôi vẫn có một suy nghĩ: tại sao người ta gặp nhau
hay hỏi "Anh khỏe không?", "How are you?" "你好嗎?" nhưng duy nhất thời đó
người Triều Châu ở VN găp nhau lại hòi "食飯未?" (chẹ bừng quề) có nghĩa là
"Ăn cơm chưa?"
Nghe bà nội tôi kể: hồi đó bên Tàu nghèo lắm, nhất là ở quê hương của
bà, không đủ cơm ăn, một nắm gạo nấu nước, người lớn uống nước cháo, gạn
xác cháo cho con ăn đỡ dạ. Có lẽ đó là lý do tại sao rất nhiều người
Triều Châu bỏ nước ra đi làm cu-li hay bất cứ công việc vất vả nặng nhọc
vì chỉ mong tìm chút tiền để gởi về giúp đỡ gia đình và cho đến bây giờ
trên thế giới, doanh gia người Hoa thành công lớn và giàu có trong
thương nghiệp, đa số đều gốc gác Triều Châu.
Sau tháng 4 năm 1975, thời gian đầu, không đủ gạo, gia đình tôi phải ăn
cơm độn. Với anh em tôi thì không thấy gì, không để ý mà còn thấy lạ,
còn thích nữa là đằng khác (có lẽ vì chưa đói qua) nhưng tôi thấy bà nội
tôi khóc. Bà nói không muốn trở lại thời kỳ đói khổ bên Tàu, nhưng cũng
chỉ tạm có mấy tháng rồi thôi, không bao giờ có màn cơm độn lần nữa.
Tôi cho tới giờ vẫn còn bâng khuâng đó nên vẫn muốn tìm hiểu tại sao
người Tiều ở VN gặp nhau hay hỏi "Ăn cơm chưa?" mà không bao giờ hỏi
"Khỏe không?", vẫn không thấy gì giải thích đặc biệt trên mạng nhưng lại
tìm được một truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc. Đọc hết câu chuyện trong
bài viết, tôi cảm thấy nghẹn ngào, rưng rưng có lẽ nó bây giờ đã giải
đáp dù cho chưa thỏa mãn nhưng cũng đáp ứng phần nào cho chút suy tư của
tôi. Mời các bạn:
***
ĂN CƠM CHƯA ?(食飯未?)
của Bình Nguyên Lộc
Bà sơ rút nhiệt kế ra khỏi nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ
ngạc nhiên như không tin ở điều mà bà đọc thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc
lại một lần nữa.
Tôi đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm cho tôi hốt hoảng đến cực điểm.
Tôi mắc chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng
kiến sự bối rối của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ, tôi
chết đến nơi.
Nhưng gương mặt tươi của bác sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi
an lòng lại ngay. Giờ ấy còn sớm quá, bác sĩ, chắc mới đến nhà thương,
chưa kịp mặc áo choàng, còn vận thường phục.
Bà sơ theo sau nói:
- Hắn không còn nhiệt độ nữa, chắc hắn phải lạnh lắm, vì sự thay đổi đột ngột nầy, tôi cho hắn uống Potion de Todd, bác sĩ nhé!
- Phải đấy.
Đoạn bác sĩ hỏi tôi:
- Ông nghe thế nào?
- Như vừa tái sanh, thưa bác sĩ.
- Tốt! Mới nghe, tôi hoảng lắm, vì nhiệt độ xuống thình lình, có thể là triệu chứng của sự chảy máu ruột… nếu ông lén ăn gì.
Tôi cười, một cái cười héo hon của con người sốt liên miên hăm tám
ngày, mà không ăn uống gì cả trong thời gian đó. Bác sĩ dặn thêm, trước
khi rời buồng tôi:
- Vài hôm nữa là thèm ăn, nhưng phải nhịn, ăn là lủng ruột ngay. Ngoan lên nhé!
Quên nói rõ, là tôi mắc bịnh nầy trước chiến tranh, vào thuở mà loài
người chưa tìm ra thuốc trị thương hàn. Nhà thương cứ để vậy, tiêm thuốc
nâng đỡ cho trái tim khỏi lụy, rồi ai kháng chết được, thì sống, ai yếu
lắm, là đi.
Như vừa được tái sanh! Tôi nói không quá lố lắm đâu. Vi trùng thương
hàn phá rối sinh lý con người một cách kỳ lạ lắm. Tôi nghe yêu đời ghê
hồn và dòm ra sân nhà thương tỉnh Bình Dương (bấy giờ là Thủ Dầu Một),
tôi thấy khóm bông gừa, thứ bông hèn ấy, sao mà hôm nay lại đẹp lạ lùng.
Trưa hôm đó, bác sĩ Chaput khoe với tôi rằng, ở trại bố thí III, một
con đồng bịnh với tôi cũng vừa khỏi. Ông ta sung sướng về chuyện ấy
lắm,vì con bịnh các trại bố thí chết nhiều quá, khiến dân chúng hiểu
lầm, nhà thương bỏ bê người nghèo khó. Sự thật, thì sở dĩ, số tử ở đó
lên cao theo tỷ lệ, vì các con bịnh nghèo, thường để thật nguy kịch mới
vào nhà thương và khi vào điều trị, không có người nhà theo để săn sóc,
nhà thương chỉ vừa đủ người lo thuốc men thôi. Còn những sự săn sóc (rất
cần) phải được người nhà lo lấy mới mong lành bịnh.
Tôi yêu đời, và cố nhiên, yêu kẻ đồng bịnh vừa khỏi cùng một lượt với
tôi. Ba hôm sau, được nuôi dưỡng bằng nước xúp và bột Ý, tôi đã chống
gậy đi được, và mục tiêu phiếm du đầu tiên của tôi là trại III.
Kẻ đồng bịnh với tôi là một cô gái Trung Hoa, hai mươi tuổi, con gái
đang thì, cái ngực tất phải to, thế mà tôi trông cô ta xẹp lép như con
khô hố. Cái mền cô ta đắp, như dán sát vào chiếu nhà thương.
Người bạn đồng bịnh với tôi, đi không được như tôi. Trong cơn nóng sốt
không ăn, người nhà tôi có mua Sérum Glucosé cho bác sĩ bơm vào tôi, nhờ
thế mà tôi không suy lắm. Con bịnh nghèo nầy, thì khỏi hưởng món xa xí
phẩm ấy, mà nhà thương không sắm được, vì kém tài chánh.
Tuy nhiên, nhìn sơ cô gái, tôi cũng thấy là cô ta đẹp lắm. Hoa tàn kia
mà còn mang dấu vết thời tươi thắm thay, huống chi đây chỉ là một đóa
hoa thiếu nước lọ trong chốc lát thôi… Cứ theo người cùng trại với Á
Lìl, thì cô ta là một đứa bé “mua”. Chú Xừng Hinh, chủ tiệm chạp phô
ngoài chợ, năm xưa về thăm quê quán bên Tàu, gặp mùa lụt lội, đói kém,
đã mua đứa bé ấy ba mươi đồng bạc. Bạc Trung Hoa với bạc Đông Dương thuở
ấy tương đương giá với nhau, thì các bạn biết, con bé ấy rẻ là dường
nào.
Chú Xứng Hinh cũng khá, xem Á Lìl như con chú, chớ nhiều thằng khác, nó
nuôi những con bé “nước lụt” ấy cho đến thời trổ mã, bắt làm lụng cho
bù với số tiền mua, rồi lại hưởng luôn chúng là khác.
Như chủ nó, Á Lìl là người Triều Châu. Phụ nữ Triều Châu để rìa tóc phủ
lên trán, xem rất ngây thơ và có duyên. Họ lại đẹp người hơn tất cả các
thứ người Trung Hoa khác. Á Lìl lại là gái dung nhan có hạng trong thứ
người đẹp nầy, nên tình thương kẻ đồng bịnh của tôi, bỗng nhiên, tăng
lên gấp bội, vì tôi mới có hăm ba tuổi.
Nếu như ở ngoài, chắc không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện yêu một ả nô
tỳ, cho dẫu là nó đang đẹp lộng lẫy. Nhưng ở đây, nó là con bịnh, đồng
hạng với tất cả con bịnh khác.
Một ngày, tôi chống gậy xuống trại III đến hai lần, lần nào tới nơi,
tôi cũng đứng lại nơi cửa trại, để thở dốc một hơi, rồi mới vào được.
Á Lìl đoán biết tình cảm của tôi đối với nó, nên lần nào, mắt nó cũng
sáng lên, khi nghe tiếng gậy của tôi nện cồm cộp trên gạch.
Từ năm lên chín, mãi đến bây giờ, nghĩa là từ năm bị bán và đưa sang
nước “An Nam”, con nô tỳ nầy chưa được ai nói ngọt với nó lời nào cả.
Bây giờ, bỗng nhiên có một dân mặc bi-da-ma riêng, lân la thăm hỏi nó,
thì làm sao nó không rưng rưng lệ sung sướng được.
Mặc dầu chỉ được uống nước cháo với đường hạ, con ở Á Lìl cứ càng ngày
càng hồng hào ra. Con gái, dường như, có dự trữ trong người những sức
mạnh gì như cứ chực vùng lên, không cần ăn gì cho bổ lắm, họ cũng cứ béo
tốt ra.
Má Á Lìl cạn dần lên, trông ngon như hai trái đào ở bảy phủ Triều Châu mà Á Lìl thường ca tụng với tôi.
Trông Á Lìl, tôi nghĩ ngay đến những phi tần bên Tàu ngày xưa, cũng
tuyển lựa trong đám dân “nước lụt” như vầy. Thì ra, con gái Trung Hoa,
ngàn đời, vẫn đẹp và vẫn để mà tiếp tế cho các cung tần. Á Lìl sẽ làm bé
chú chệt già đại phú nào đây, một ngày kia.
Hôm ấy, Á Lìl ngồi dậy được, nhưng còn phải ăn cháo hoa với hàm-yũu.
Cháo với vị mặn giúp Á Lìl tươi tỉnh hẳn ra. Nó tiếp tôi bằng một bài
hát gì đó, tôi không hiểu, nhưng rất thích nghe. Cái giọng mũi của người
Triều Châu, khi hát lên, nghe líu lo rất dễ yêu, nhứt là dễ thương,
nghe như là họ khóc cảnh sống lầm than của họ.
Á Lìl cắt nghĩa cho tôi biết rằng, bài hát ấy nói đến cái mặt trăng nho
nhỏ và tròn tròn. Nó mới giải thích tới đó, thì người nhà chú Xừng Hinh
mang cho nó một gàu-mên cơm. Mắt con Lìl sáng hơn là khi tôi mới vào
thăm nó nữa. Tôi hỏi:
- Nhà đem cơm từ bao lâu rồi?
- Ngóa thèm quá, chỉ mới nhắn đem vô lần đầu thôi.
- Lìl không nên ăn cơm vội. Bác sĩ không có dặn gì sao?
- Bác sĩ nói tiếng Tây, ngóa đâu có hiểu. Bà Sơ biết chút ít tiếng Annam, dặn đừng cho ăn đồ cứng, ăn thì lủng ruột chết liền.
Á Lìl nói xong cười ngặt nghẹo, một hơi, rồi tiếp:
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.
- Lìl không hiểu, chớ ruột Lìl đã bị vi trùng làm cho mỏng lắm rồi đó.
Á Lìl lại cười một giây nữa, mà rằng:
-
Bị thuốc của thằng Tây làm cho mỏng thì có. Thầy biết sao không? Hổm
nay ông Tây chích cho ngóa chết mà ngóa không chết, nên ổng bỏ đói cho
ngóa chết đó.
Á Lìl nói rồi vừa kéo gàu-mên cơm lại, vừa nói:
- Ăn cơn với ngừng (gừng) nấu dấm thì tốt lắm, như người Annam ăn với muối tiêu vậy mà, chết sao được.
Tôi bối rối quá. Hôm ấy có Má Mẹ, người cai quản các bà Sơ, từ Sàigòn
lên Bình Dương thanh tra, nên bà Louise bận tiếp đón bà Mẹ Bề Trên ấy,
không còn ai cho tôi cầu cứu để thuyết lý Á Lìl. Các thầy khán hộ thì đã
dặn con bịnh cữ kiêng xong là nghe tròn bổn phận, không theo dõi họ để
ngăn cản gì nữa. Còn tôi, tôi ngại một điều, mà cũng chẳng khỏi.
Khi tôi giựt lấy gàu-mêm cơm, thì Á Lìl giận dỗi trách:
- Cố lứ nói thương ngóa, sao không cho ngóa ăn cơm?
- Vì thương mới không cho ăn.
Thật thế. Nếu Á Lìl chỉ là một cô gái xấu xí, tôi cũng không nỡ để cho
nó tự tử một cách gián tiếp như vậy. Huống chi trong mấy ngày vui mừng
tái sanh ấy, tôi lại điên dại mà yêu đứa nô tỳ nầy.
Lìl cười gằn hỏi:
- Thương gì lại bỏ đói?
- Vì ăn thì chết ngay.
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.
Á Lìl lập lại câu hồi nãy, rồi khóc mùi mẫn.
Thật là em nhỏ, mất miếng ăn một cái là khóc bù lu, bù loa. Nhưng không
sao, tôi sẽ dỗ em nhỏ, thì em nhỏ nín chớ gì. Tôi định bụng như thế,
nhưng tôi lầm.
Lần đầu tiên, tôi rờ đến Á Lìl. Tôi vuốt tóc trán nó và nói rằng:
-
Lìl nín đi, rán nhịn, rồi vài bữa khỏi hẳn, tôi sẽ đưa Lìl đi ăn tửu
lâu Triều Châu Đại La Thiên ở Chợ Lớn, có nhiều món ngon bằng một vạn
thứ cơm gừng dấm nầy. Ở Đại La Thiên có chè thịt heo nè, có cù lao nè.
Nhưng Á Lìl cứ khóc, khóc như mẹ chết không bằng, lâu lắm nó mới nói được trong tấm tức, tấm tưởi:
-
Ngóa nhớ tía má của ngóa quá. Tía má ngóa vì không có cơm ăn nên chết.
Tía ngóa chết đi được một tháng, thì má ngóa bán ngóa cho Xừng Hinh lấy
tiền mua gạo cho mấy em của ngóa ăn. Nhưng cả nhà ăn giỏi lắm được mười
ngày, chắc rồi cũng chết hết. Cơm sao lại giết người? Không cơm mới nguy
chớ!
Nghe Á Lìl nhắc tới nguồn gốc nó, tôi đau xót vô cùng. Cơm là giấc ác
mộng của người Trung Hoa từ mấy ngàn thế hệ nay, cho đến đỗi họ gặp
nhau, chào nhau bằng câu: “Ăn cơm chưa?”
Nhưng làm thế nào cho con bé dại dột nầy hiểu rằng, không cơm thì chết đã đành, mà có cơm, lắm khi cũng chết.
Vả, Á Lìl không cả quyết ăn vì thèm nữa, mà ăn để trả thù sự chết đói
của cả nhà nó, thì làm sao mà thuyết phục nó được. Có lẽ nó đang nhìn
cơm, mà nói thầm: “Ừ, ngày xưa, cha mẹ tao không có mầy nên chết, bây
giờ gặp mầy đây, tao có dung tha đâu! Tao ăn cho sống dai, mặc kệ lũ nó
bày điều, đặt chuyện”.
Biết nói làm sao cũng không xong, tôi xách gàu-mên mà đi; sau lưng tôi,
Á Lìl chửi rủa om sòm bằng tiếng Tàu. Nếu nó mà rượt theo được, chắc nó
một mất, một còn với tôi, để cướp cơm lại.
Chiều hôm ấy, tôi trốn luôn, đến sáng ngày hôm sau mới dám chống gậy qua trại III.
Á Lìl vắng mặt trên giường. Thấy tôi ngơ ngác tìm quanh, một bà lão vừa ho sù sụ, vừa nói:
- Nó chết đêm rồi thầy à, hồi năm giờ sáng, người ta đã khiêng nó xuống nhà xác.
- Trời ơi! Sao lại chết? Tôi giậm chân mà hỏi câu ngớ ngẩn ấy.
Người khán hộ ở đâu sau lưng tôi đáp hộ bà lão:
- Chảy máu ruột!
- Sao lại chảy máu ruột?
- Vì ăn!
- Trời ơi!
Bà lão ho, rồi lại nói:
-
Thầy giựt cơm của nó mà trốn đi, thì chiều lại, người nhà nó đem cơm vô
nữa. Nó ăn xong, tối lại kêu đau bụng, vằn vật tới khuya mới chết.
- Sao bà không mời bác sĩ dùm nó?
- Có, tôi có cho bà Sơ hay, bả có kêu thầy đây.
Bà chỉ vào thầy khán hộ, thầy ta lắc đầu thở ra và giải thích:
- Tôi có tiêm thuốc cho nó, nhưng không gọi bác sĩ...
- Sao vậy?
- Vô ích. Chỉ có sang máu mới có một chút xíu hy vọng cứu nó. Nhưng ai sẽ cho máu nó? Còn thuê người để lấy máu thì tiền đâu?
Là con trai, tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục
phơi dưới gió to. Đứng tần ngần giây lâu, tôi hỏi bà lão:
- Nó có nói gì hay không bà, lúc nó hấp hối?
- Có. Nó có kêu thầy...
- Kêu tôi? Có nhắn gì hay không ?
Nó kêu khóc rằng: “Thầy hai ơi, té ra, quả thật không cơm cũng chết, mà
ăn cơm cũng chết. Ngóa nghèo dốt, biết đâu. Trước kia tía má của ngóa
nghèo nên không ăn cơm, ngày nay ngóa nghèo nên không biết, hai lần đều
chết. Thầy hai ơi, ở lại mạnh giỏi nhá!”
Tôi không còn là con trai nữa, nhưng tôi không khóc tiếc thương một cô
gái đẹp. Tôi chỉ khóc vì một gia đình sống không tên, không tuổi bị thảm
kịch cơm làm tuyệt nòi, chỉ còn một mống thôi. Mống ấy trôi dạt đi xa
ngàn dặm, qua cái xứ có cơm nhiều nầy, mà lại cũng không thoát khỏi thảm
kịch cơm.
Ngày nay, mỗi khi nghe một người Trung Hoa chào ai: “Ăn cơm chưa?”, tôi
bâng khuâng nhớ lại mối tình yêu đầu và nao nao buồn mối tình thương
đầu của tôi.
BÌNH NGUYÊN LỘC
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 30/Jan/2018 lúc 8:17am |
Cho Đi Đừng Hối Hận, Mất Rồi Đừng Tiếc Nuối
Ai cũng muốn sống thật hạnh phúc và
trọn vẹn nhưng cuộc sống thường 8, 9 phần không như ý muốn. Vậy chúng ta
phải sống như thế nào để khi từ giã cõi đời vẫn cảm thấy hài lòng với
chặng đường đã đi qua?
Sự
lung linh của pháo hoa, sự điêu tàn của lá rụng, sự quay trở về với cát
bụi khi kết thúc tiến trình của sinh mệnh là những hiện thực mà chúng
ta bất lực không thể nào cải biến. Cũng như ngọn núi kia, cho dù có cao
và hiểm trở tới đâu, vẫn không thể làm khó bước chân của những người
muốn chinh phục khám phá.
Ai
trong đời rồi cũng một lần cảm thấy bế tắc và tuyệt vọng, lòng không
thôi cảm thấy chới với giữa dòng đời xô bồ, bản thể nhỏ bé đến cùng cực,
có những lúc sống trong khoảnh khắc nhen nhóm ý nghĩ buông xuôi, tâm
hồn gần như gục ngã, mất niềm tin, mất hy vọng, trước mặt chỉ còn là một
khoảng không đen đặc, đầy đau đớn.
Có một câu chuyện đáng để chúng ta suy ngẫm:
“Có
một tỷ phú sống trong căn biệt thư xa hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh
hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài
và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.
Trong
lúc cảm thấy bế tắc và tuyệt vọng vì biết rằng không thể sống lâu nữa,
ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y
nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào
có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm,
hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo”.
Vị
tỷ phú về nhà, trong lòng phấp phỏng hy vọng. Ông lấy đơn thuốc đầu
tiên ra và đọc: “Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên
tục như vậy 21 ngày”. Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra
bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất
chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn thân thể
ông. Vì trước đây công việc bận rộn nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi.
Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng
sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi
bầy… Trái tim ông bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác
thoải mái như bây giờ.
Ngày
thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm 5 con cá hoặc
tôm rồi thả chúng xuống biển, liên tục như vậy trong 21 ngày”. Trong
lòng ông đầy rẫy những băn khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi nhặt tôm cá rồi
thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển
khơi, trong lòng ông không nén nổi xúc động.
Ngày
thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba: “Tìm một cành cây và viết những điều
khiến ông cảm thấy không hài lòng lên bãi cát”. Nhưng khi ông vừa viết
xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn
đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi lại viết, và lại cuốn đi… Ông bật khóc
nức nở vì chợt hiểu ra tất cả. Khi về nhà, ông cảm thấy toàn thân nhẹ
nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại đến thế, thậm chí ông
cũng không còn sợ cái chết nữa”.
Trên
thế giới không có sự lựa chọn nào là mười phân vẹn mười, tất cả những
lựa chọn đều cần phải trả giá. Bạn không thể đồng thời có được sự lộng
lẫy của mùa xuân và tràn ngập lá vàng của mùa thu. Bạn muốn chỉ có quyền
thế có lẽ cần hy sinh tự do, bạn muốn chỉ có tiền bạc có lẽ cần phải hy
sinh gia đình, bạn chỉ muốn theo đuổi công danh sự nghiệp, có lẽ cần hy
sinh sức khỏe và gia đình.Con người sống trên cõi đời này là khổ, bởi vậy Phật dạy:“Cho đi đừng hối hận; mất rồi cũng đừng tiếc nuối”.
Cuộc
đời không phải mỗi lần cho đi đều có thể nhận được kết quả như ý muốn.
Những thứ được coi là vốn có thường chỉ có thể đáp ứng một ham muốn nhất
thời, chúng ta có thể đòi hỏi một cách tùy ý, toàn tâm để cho đi, tùy ý
để hiển thị, cố ý để theo đuổi nhưng đừng chiếm hữu suốt cả cuộc đời.
Còn có một câu chuyện khác kể rằng:
“Có
một người lữ hành, lúc đi dọc bờ của một con sông lớn đã nhìn thấy một
bà lão đang vì muốn vượt qua sông mà buồn rầu. Trong lúc sức cùng lực
kiệt, anh ta vẫn dùng hết sức lực của mình giúp bà lão qua sông; kết quả
là sau khi qua sông, bà lão một câu cũng không nói đã vội vàng rời đi.
Người lữ hành rất hối hận. Anh ta cảm thấy có vẻ như nỗ lực giúp đỡ bà
lão là một hành động không đáng giá bởi vì đến một câu “cảm ơn” anh ta
cũng không nhận được.
Nào
ngờ đâu, chỉ vài tiếng sau, lúc anh ta đã mệt tới mức không thể di
chuyển, có một người thanh niên bắt kịp được anh ta. Người thanh niên
này nói: “Cảm ơn anh đã giúp đỡ bà nội của tôi, bà tôi dặn tôi mang
những thứ này tới cho anh dùng”. Nói xong, người thanh niên liền lấy ra
lương khô, tiếp đó cả con ngựa bên mình cũng đem tặng cho anh ta. Người
lữ hành lúc này vừa kinh ngạc vừa vô cùng cảm kích sự giúp đỡ của người
thanh niên. Trong lòng anh ta bất giác hối hận vì đã vội có ý trách bà
lão”.
Thông qua câu chuyện này, bạn hiểu được điều gì?
Đừng
vội vàng yêu cầu cuộc sống phải cho bạn tất cả đáp án, đôi khi bạn cần
phải kiên nhẫn mà chờ đợi. Cho dù bạn đứng trước thung lũng mà hét lớn
thì cũng cần phải chờ đợi một lúc mới lại nghe được hồi âm kéo dài đó.
Cũng có nghĩa là, cuộc sống luôn luôn cho bạn câu trả lời, nhưng không lập tức đem tất cả nói cho bạn biết. Trong cuộc sống, bạn vốn nên cho đi đừng mong nhận lại; cho đi để cảm thấy tâm mình bao dung rộng lượng; không mong nhận lại để cảm thấy tâm nhẹ nhàng không gánh nặng, không tức giận nếu không được như ý muốn. Sự cho đi không mong nhận lại luôn làm tâm bạn thoải mái nhất, nhẹ nhàng nhất và hạnh phúc nhất.
Tuy
vậy quy luật của cuộc sống vẫn là cho đi luôn có hồi báo. Hồi báo không
xuất hiện ngay sau khi bạn cho đi, nhưng trong khoảnh khắc bạn không
ngờ đến, một khoảnh khắc thích hợp nhất, một khoảnh khắc mà bạn cần nhất
thì hồi báo sẽ xuất hiện, đó chính là vẻ đẹp của cuộc sống mà có lẽ bạn
chưa để ý tới.
Có
những thời điểm, bạn cảm giác như mọi thứ đều chống lại mình, tưởng
rằng mình không chịu đựng hơn được nữa, những lúc ấy hãy nhớ điều này.
Khi
đối đãi với bản thân, chúng ta nhất định phải trân quý và đối xử thật
tốt, bởi vì đời người không dài và thân người là khó được nhất.
Khi
đối đãi với người khác, chúng ta càng cần phải trân quý và đối xử tốt
hơn nữa, bởi vì nhân duyên kiếp này, kiếp sau khó gặp lại.
Trong
lúc lơ đãng tình cờ gặp nhau có thể để lại cho ta nhiều điều, chỉ một
lần tình cờ gặp gỡ đơn giản rồi bỏ qua cũng có thể để lại những ký ức
không phai nhạt mãi trong lòng.
Hai người
yêu thương nhau nhưng không thể ở gần nhau thì sẽ không thể đi cùng
nhau. Đời người tưởng dài nhưng kỳ thực lại quá ngắn ngủi! Hãy quý trọng
mỗi lần gặp mặt.
Tình yêu thương có thể khiến con người quên đi thời gian nhưng thời gian cũng có thể khiến con người quên mất tình yêu thương. st. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 03/Feb/2018 lúc 10:05am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 05/Feb/2018 lúc 8:55am |
Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ Thuận
Đã
lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không
nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không,
tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống
ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào
vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng
giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như
một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị
phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể
đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại.
Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như
bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.
Những
năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu
chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè
cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn
Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh
khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên
con trai mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những
chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ
nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn
nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình
ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm
trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy
con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của
người em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn
đưa tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có
nhuốm bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách
va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ
cồn cào cả người. Có lạ không.
Vẫn
có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống
khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay
những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc
cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng
trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y
như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây.
Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng
châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại
hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh
mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là
ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi
bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ
xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi
cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi
cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi
thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành
sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính hiệu,
tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ
cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người
tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ
hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái,
một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì
thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại
bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra
đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái
tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi
xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là
cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?
Tôi
nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ
cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa
tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê
mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy
lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường
nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi
nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi
hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm
sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu
mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
Như
cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười
tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao
nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con
trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót
đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như
một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những
con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những
chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó
vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ
lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.
Những
năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ.
Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận.
Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc
sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị
trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4
từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách
nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam
đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc
còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là
phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có
công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì
phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách
thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội
vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc
lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không
có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm
như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong
cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có
khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân
thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ
thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước
trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín
mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm.
Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng
lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy
miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề
đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai
mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có
lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không
thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em
nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm
cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng
mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây
còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ
Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi
tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca có
bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ
Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không,
tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ
đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu
gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái
tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận
đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh
lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp,
ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong
cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng
có gì là đặc sắc.
Chỉ
có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp
sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối
ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu
lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi
ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái
không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua
kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau
đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ
một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống
không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ,
những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe,
tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt
diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước
sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
Hình
dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ
dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ
sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi
kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ
trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp
xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng
xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một
chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa
bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng.
Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ
không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy
còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy
đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ,
chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái
hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người
ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm
suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ
nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng
ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như
vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường
hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn
đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao
bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn
rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ
buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe
chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng
bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn
như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở
mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy
như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh,
luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi
gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi
trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu
thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang
trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một
xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”,
miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng.
Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ
quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ
chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông”thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là
một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh
xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe
đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà
thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi
mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”.
Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy
người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử
thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm,
miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống
tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra
dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng
nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai
bánh xe hết đường nhúc nhích.
Rồi
đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người
đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng
ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên
chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe
là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh
dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất,
trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn
rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng
sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên
mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng
dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi
nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay
là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy
cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu
không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.
Gặp
mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi,
phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên
bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật
ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn
mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách
nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng
tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong
gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng
lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất
trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước
lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu
của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm
cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ.
Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như
vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần
thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi
chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà
và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng
cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp
ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên
đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có
kết cuộc.
Có
phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi
cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi
đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp
cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp
xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi
xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi
chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay
không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm
học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam.
Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó
tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe
tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến
chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô
tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là
giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ
thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà
Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại.
Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt,
chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự
tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ
cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên.
Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân
ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi
huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn
riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy
nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái
thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa
nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà
đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe
được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới
bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó
nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề
non hẹn biển.
Còn
cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh
nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà
nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy
lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch
thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng.
Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần
gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là
nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền
Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà
Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn
mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi.
Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở
lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt
người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó
là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành
thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu,
nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó
loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần
thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi
có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở
ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi.
Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời
náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà
cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67
gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha
mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm
tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua
sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi
khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trời
ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa
người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa
người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con
tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối
thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh
của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được
cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc
trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà
ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời
kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền
của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự
lúc nào tôi không biết.
Chỉ
biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì
ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không
có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm
bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt
quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm
của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy.
Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng
nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích.
Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu
rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như
gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì
tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết
điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi
khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy
túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý
tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương
mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc
cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không
hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương
xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái
vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì
chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng
vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong
không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van
nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại,
oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người
ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang
truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo
nhau về lướt thướt.
Một
lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc
bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội
đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy
đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân.
Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao
tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa
thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng
đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người
hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt
buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc
thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào
đâu.
Thuở
đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng
là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại
dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán,
hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái
đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người
mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô
thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng
chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu
khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa
thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê
hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi
tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã
chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy
cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng
người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời
bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn” đến
người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi
một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”.
Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ
tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong
nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu
mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông
hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì
Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến
già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi
yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão
luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu
món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở
đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh
chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút
tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú
Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu
vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi
chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo
mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc
là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó
ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy
đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái
bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái
tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu
ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã
bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông
lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng
quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi
nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho
cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày
đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch
bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa
cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp
đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn
nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất
nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng
không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức
thời.
Cũng
như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng
nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình
ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên
phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn
chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch.
Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì
cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế
dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ
nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận
số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng
liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy
ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là
chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù,
lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc
đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa,
cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải
tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại
đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì
cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
Gần
đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ
Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn
ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một
chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột
tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp
bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời
dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở
xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe
xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong
bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa
không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng
lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người
chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình
xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận
tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào
cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có
thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể
trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống
nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi
lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh
thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông
nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ
đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt
hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên
từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy
buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến
thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có
mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời
đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.
Và
nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong
lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn
những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 07/Feb/2018 lúc 2:41pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 08/Feb/2018 lúc 9:21am |
Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân? <<<<<
Khổng
Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này
đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.
Người khách này ngăn vị học trò kia lại hỏi:“Nghe
nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài
chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời
đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái
lạy ta.”
Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”
Người khách kia cãi lại:“Sai! Có ba mùa!”
Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói:“Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”
Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi:“Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”
Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”
Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.
Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”
Khổng Tử trả lời: “Con
không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành.
Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết
mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết
thúc sao?”
Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện”
(Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không
phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở
việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện?
Kẻ
tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân
lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo
của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới
của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn
của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh”.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.
Phú
Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc
Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã
ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật.
Phú
Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện
với kẻ tiểu nhân. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào
những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.”
(Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh
nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại
thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy).
Rõ
ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít
làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy
khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược
lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn
như rồng cuốn, nói như rồng leo…’
Một
lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn
đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói
nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết
trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng
toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi
đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu…
Kẻ
tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác
làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống
bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.
Hàm
ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng
lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởithứ
quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều
bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ
thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại,
đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là
một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi
với kẻ tiểu nhân?
st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 09/Feb/2018 lúc 3:04pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 136 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |