Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 135 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Aug/2022 lúc 11:48am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Sep/2022 lúc 9:06am

KHI BÌNH AN LÀ ĐIỀU QUÝ GIÁ NHẤT TRONG ĐỜI   <<<<<

Colorful%20Leaves%20by%20AS_100%20|%20VideoHive


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Sep/2022 lúc 9:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Sep/2022 lúc 2:46pm
Tôi Cúi Đầu Xin Lỗi - Trần Mộng Tú   <<<<<

Kiểu%20cúi%20đầu%20xin%20lỗi%20ở%20Formosa%20có%20giống%20người%20Nhật?%20-%20Tin%20thế%20giới


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Sep/2022 lúc 2:48pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Sep/2022 lúc 12:57pm

Nổ Cho Dữ... Ai Dè!!... 

Vừa đẩy cửa bước vào phòng mạch của ông Chiropractor, tôi nghe một giọng nói chát chúa oang oang như cái loa bể đập vào màng nhĩ làm tôi muốn dội ngược trở ra. Một bà bệnh nhân to con dềnh dàng đang rống cổ nói vói vào trong với ông bác sĩ đang chữa cho một bệnh nhân ở phòng trong :
         - Cô ghét mấy thằng sợ vợ lắm, mấy thằng sợ vợ là mấy thằng ngu, tại sao phải sợ nó, cái gì cũng phải có sự công bằng, “phíp ti phíp ti”(fifty) vừa vừa phải phải thôi chớ. Mấy thằng con cô mà sợ vợ là cô chưởi nó te tua. Cô nói “nó là “xì bê xa lít" (specialist), mày cũng “xì bê xa lít” như ai vậy, sao mày phải sợ nó”. Còn con gái cô, cô dạy nó hổng được ăn hiếp chồng, ăn hiếp chồng là thứ mất dạy. Phải chi không có ăn học thì không nói gì, người có ăn có học mà chưởi bới ăn hiếp chồng thì coi như vô giáo dục, phải hông? 

Nghe bà ta nói vậy tôi nghĩ thầm trong bụng chà bà này cũng “chính nhân quân tử” biết phải biết quấy quá chớ, hiếm có ai mà dạy con cái được như vậy, ông chồng bả có phước thật. Tôi ngồi xuống  cạnh bà ta mở tờ báo mang theo ra đọc vừa nghe bà ta nói tiếp.
 - Như cô nè, ông xã cô “ne vờ” sợ cô, cô nói trước với ổng là ông không được sợ tui làm người ngòai tưởng là tui ăn hiếp ông dữ lắm đó. Tui nói đâu ông nghe đó, làm theo ý tui thì tui lấy gì chướng tai gai mắt để mà la ông. Nè kể cậu nghe nha, một tuần ổng đi làm sáu ngày, còn một ngày nghỉ, cô kéo ổng ra ngoài, khi thì nhà bạn bè, khi thì đi shop. Nếu không đi muốn ở nhà thì cô kêu ổng hút bụi lau nhà hay làm vườn, cắt cỏ, vậy là hết ngày, còn thì giờ đâu để lớn tiếng gây gổ chưởi bới nhau, cậu thấy hông?

À thì ra tôi lầm. Bà ta chơi cái màn “tiên hạ thủ vi cường” chận họng chận cổ ông chồng bả trước hèn gì. Nội nhìn cái tướng bà ta mà ông chồng không tự động phát rét thì cũng lạ, còn dám hó hé lạng quạng gì nữa mà không thờ bà. Tôi cố chăm chú vào tờ báo nhưng đọc tới đọc lui mãi một câu cũng không vô đầu, phần vì bả nói quá lớn, phần vì cái máy CD đang chơi nhạc Mỹ hiện đại, hát không ra hát mà nói không ra nói. Thường mọi khi, những bệnh nhân tới trước, trong lúc chờ tới phiên thì mạnh ai nấy đọc báo hoặc chơi iphone, nếu có trò chuyện thì cũng khe khẻ vừa đủ nghe chớ có đâu lại ong óng như rao hàng ở chợ trời.

Cậu bác sĩ tuy đang xoa nắn chỉnh xương cho một bệnh nhân ở phòng trong nhưng lát lát cũng biểu đồng tình ừ ừ dạ dạ với bà ta. Cậu bác sĩ này rất bình dân vui tính, lại thích gossip, tay làm việc mà miệng chẳng lành da non. Bệnh nhân nào tới viếng cậu lần thứ ba là cậu ta thuộc lòng, nhớ vanh vách chuyện ba đời nhà người ta để có thể up date khi gặp lại. Do vậy bệnh nhân nào cũng thích cũng mến cậu ta, coi cậu ta như con cháu trong nhà tha hồ mà kể lể cập nhựt chuyện gia đình mỗi lần tới chữa bệnh.  Nhưng theo phép lịch sự, muốn nói thì bà ta phải chờ khi tới phiên mình vào trong rồi hãy nói, đàng này bà ta cứ thản nhiên mở hết volume tươm tướp.
         - Cô mới “ken xồ” (cancel) đi Nhựt hồi sáng nè. Đáng lẽ vài bữa nữa đi Nhựt nhưng ông xã cô bị viêm lỗ tai phải mổ thình lình nên phải “ken xồ”.
Bên trong cậu bác sĩ hỏi vọng ra:
           -Vậy là cô phải chịu lỗ mất tiền vé hả?   
         - Đâu có, mất sao được, mình có lý do chính đáng mà, nó trả “phun” (full) lại và cô đã "búc"(book) đi Âu châu chơi, đi ba tuần, năm sáu nước luôn. Phải đi du lịch cho biết đó biết đây với người ta chớ hông thôi thua sút bạn bè sao. 
         - Vui há, cô chịu chơi quá ta! Nhưng cô có tiền thì nói vậy chớ người ta hổng có tiền lấy gì đi? À hình như tuần rồi cô nói mới bán bớt một căn nhà phải hông? Cô còn mấy căn, bán rẻ cho con một căn đi.
Bà ta cười hô hố: 
 - Cậu Trần nói chơi hòai. Cậu đang sống ở cái vùng thượng lưu trí thức, tòan là dân Úc, bộ tui không biết sao. Dễ gì cậu chịu dọn về cái chỗ tạp nhạp Li Băng bắn lộn nhau hà rầm này. À mà cậu có sợ vợ không vậy? Chắc không đâu hả. Cái tướng của cậu oai phong quá mà sợ vợ nỗi gì.
         - Cô biết coi tướng hả, bữa nào coi giùm con coi chừng nào con khá lên đây.
          - Chời ơi coi tướng là nghề của cô mà. Con dâu con rể của cô là do cô coi tướng cưới về đó. Đứa nào cũng là “xì bê xa lít” hết á. Bởi vậy bây giờ cô khỏe re, một năm đi du lịch ba bốn chuyến. Đi gần giáp vòng thế giới rồi.
         - Số cô sướng quá hả? Con cũng thích du lịch nhưng mà đi riết hết tiền. Làm bao nhiêu cũng hết. Bây giờ phải bắt đầu stop bớt để dành cho mấy đứa nhỏ đi học. Bà xã con kẹt  ba đứa con xấp xỉ nhau, đâu có đi làm được phụ với con. Có một đầu lương mà phải trả nợ nhà,  trả bills và tiêu xài cho cả gia đình, lấy gì dư.

Nói tới đây thì cậu bác sĩ đã chữa xong cho ông bệnh nhân bên trong. Ông bệnh nhân này bước ra mặt mày quạu đeo, có lẽ từ nãy giờ bị “trúng miểng” cái đài phát thanh nổ. Tôi đóan có lẽ ông này là bệnh nhân mới nên chưa đủ quen để bắt chuyện với cậu bác sĩ vui tính chớ nếu không thì bà này đâu có cơ hội “phát sóng” từ ngòai phát vô. 

Bây giờ thì thì tới phiên bà ta đường đường chính chính tha hồ phát biểu. Chờ bả vào trong, tôi bắt đầu lại câu truyện trong tờ báo mà nãy giờ đọc tới đọc lui hai ba bận vẫn không biết nói gì.   
Đang cắm cúi đọc, bỗng tôi nghe tiếng la thất thanh từ trong vọng ra: 
        - Á, á.. chế…t, chế…t, chết, đau, đau quá cậu ơi!
Tiếng cậu bác sĩ vỗ về:
        - Cô rán chút đi, cái khớp xương này ấn vô là phải đau thôi. Cô hít vô thở ra đều đặn thì sẽ đỡ, tại vì lâu ngày nó bị stiff quá rồi. That’s why.   
Coi bộ bớt đau được một chút, không nghe bà ta than thì lại nghe bà ta nói:
        - Cô đi nhiều ông “cai rô” (Chiro) rồi mà khi tới đây gặp cậu, thấy cách thức cậu chữa bệnh, cô vừa ý quá nên bây giờ tới luôn.   
Ngưng nói thì bà ta lại kêu đau:      
 - Á  á, chết, chết, nhẹ tay chút.
Tôi nghĩ thầm trong bụng tôi cũng thường đi bác sĩ chỉnh xương mà hồi nào tới giờ đâu có nghe ai rên la ầm ĩ như gà bị cắt tiết như bà này đâu. Ngay cả con nít đá banh bị lọi chân trẹo giò đem lại sửa cũng không la khóc nữa, còn bả, cái thân như bồ tượng mà nhịn đau một chút không được sao. Kiểu này chắc hồi đau bụng đẻ, bả chưởi ông chồng bả nát nước tưng bừng nổ phòng sanh luôn.

Cứ như vậy suốt 15 phút, lát nói, lát thì than đau cho tới khi cậu bác sĩ "đả thông kinh mạch" xong cho bà ta ra ngòai. Trong lúc chờ bà ta mở xách tay lấy giấy tờ ra tính sổ thì cậu bác sĩ hướng về phía tôi nói:
 - Dạ tới bác, mời bác vô phòng thứ hai cho con đi bác.
Tôi buông tờ báo xuống đi vào trong. Vừa vô tới phòng trong thì nghe bên ngòai bà ta kêu lên:
- Chết cha, cô bỏ quên thẻ bảo hiểm sức khỏe ở nhà rồi, thôi cho cô thiếu, chút chiều cô đem ra tính sau nha.
Cậu bác sĩ lịch sự nói:
        - Không sao đâu, ngày mai cũng được cô à.

Và cậu ta chạy vội vào trong, vừa chạy vừa hát nghêu ngao “dodo… dodo”…, đã nói là cậu bác sĩ này rất vui tính mà.
Vừa vào trong cậu ta “mở máy” ngay:
 - Trời ơi! con sợ cái bà này thì thôi! Nổ sao mà nổ quá trời hổng chừa chỗ cho ai hết.  Lần này là lần thứ ba bả tới đây đó. Bả nói con cái, dâu rể gì của bả cũng làm specialist hết á.     
 - Mà chuyên khoa về bệnh gì vậy cậu?
        - Con cũng không biết nữa, bả nói bả có tới mấy căn nhà, ăn ở không đi du lịch tùm lum. Hồi nãy bả khoe mới cancel đi Nhựt vì ông xã bả phải đi mổ lỗ tai thình lình. Trể chuyến đi Nhựt, bả quay qua book đi Âu châu, công nhận bà này sướng thiệt.
        - Nghe rồi, bả oang oác như cái loa ngoài đường, ngồi kế bên bả mà cái đầu nhức tưng tưng. Mỗi người một số cậu ơi! Trời cho ai nấy hưởng, tới hồi bị lấy lại thì cũng hết đường đỡ. Cũng tội nghiệp!

Sau khi nhận tiền mạch của tôi, cậu bác sĩ nhắc tôi lấy tờ báo đem về. Tôi nói:
  - Cậu không nhắc chắc tôi quên, cũng hổng sao, quên thì để đây cho người khác đọc.
Và tôi bước lại chiếc bàn con để sách báo định lấy lại tờ báo của mình đem theo lúc nãy thì không thấy tờ báo đâu cả. Tôi nói:
 - Đâu mất rồi cậu ơi!
       - Hổng có hả bác, vậy là bà “nổ” bả chôm rồi chớ gì. Nãy giờ đâu có ai vô đây ngòai bả và bác. Kỳ vậy nè, ý trời ơi! tờ Việt Luận của con mới mua hồi sáng này trước khi tới mở cửa phòng mạch cũng bị bả “dzớt” luôn rồi. Hết nói nổi! có 2 đồng bạc một tờ báo mà cũng lấy của người ta. Muốn coi sao không tự mua đi.

Tới đây thì cậu bác sĩ vui tính này không cười nổi nữa. Cậu lắc đầu ngao ngán nói:
 - Người Việt mình thiệt tình đi tới đâu cũng để tiếng xấu tới đó. Bởi vậy con phải mua nhà ở thiệt xa, nơi chỉ có dân Úc rặt mà thôi dù mỗi ngày phải lái xe mất hai tiếng đồng hồ để tới chỗ làm. Dân tình gì mà chán thiệt. Khoe nhà, khoe con, khoe du lịch, nổ cho dữ ai dè!...   

   Người Phương Nam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Sep/2022 lúc 3:33pm

TẬN CÙNG CỦA NỖI ĐAU

Im%20lặng%20là%20tận%20cùng%20của%20nỗi%20đau%20|%20The%20One%20Radio%20-%20YouTube

Liên ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế đẩu nơi bàn ăn đặt trong nhà bếp, câu nói của Hường em mình như vừa báo tin vừa trách móc chị mình làm cho Liên xốn xang trong lòng vô cùng:
  -Chị Liên nè ông Ngọ hết chối cãi rồi nghe, chính mắt em thấy ổng chở con nhỏ nào sáng nay nè, xui cho ổng em chạy sau lưng nên ổng đâu có biết, chị dễ dãi quá nên ổng càng ngày càng làm tới, không khéo nay mai mấy con “quỷ cái” đó hốt ổng đi mất xác luôn nghe chị.
  Càng nhớ lại Liên càng thấy như trăm ngàn mũi kim chích vào con tim bé nhỏ của mình, bất giác hai dòng lệ tuôn chảy trên mặt mình hồi nào Liên chẳng hay, Liên hồi tưởng lại những ngày thơ mộng ngày xưa ….
                                 ***
  Ngọ cùng đám bạn học rẽ vào tiệm nước ở thị xã, quán nước trang trí rất đẹp và ấm cúm, nhưng Ngọ và đám bạn đóng đô ở cái quán này không phải chỉ vì yếu tố kể trên, mà vì “một bóng hồng” rất xinh tươi đang ngự trị nơi đây, vì thế quán lúc nào cũng nườm nượp khách hàng ra vào ăn uống, thưởng thức các món ăn thức uống của quán chỉ là phụ, còn việc chính là đám thanh niên cố trêu chọc cô gái nọ để mong hình bóng mình lọt vào đôi mắt xanh của nàng.
  Hồng Liên tên cô con gái của quán nói trên, Liên có nhan sắc thật  mặn mà, so với các cô nàng cùng trang lứa Liên được mọi người đánh giá là đẹp người đẹp nết hơn các cô khác, ngoài giờ học ở trường, Liên về phụ tía má chăm coi quán này.
  Câu ví : ” Đẹp trai không bằng chai mặt” quả tình không sai, Do thường xuyên theo đuổi Liên như hình với bóng, lúc đầu Liên chẳng để tâm gì đến cái “Rờ mọt” bất đắc dĩ kia, nhưng Ngọ áp dụng câu ví trên một cách cần mẫn nên rốt cuộc Ngọ cũng có được câu hát ” Hồn lỡ sa vào đôi mắt em” khiến cho lủ bạn phải thốt lên:
  -Công nhận thằng Quỷ Ngọ này chì thiệt nghe tụi bây, tao thấy thằng Quân nó đeo con Liên sát nút, tưởng đâu hai đứa đi chung một đường rồi chứ, ai dè thằng Ngọ nó phỏng tay trên, cái thằng này ông bà mình nói trúng phóc : ” Lù khù có ông cù độ mạng” quả không sai chút nào.
  Quân nghe đám bạn khen thằng Ngọ nức nở, với tâm lý người thua cuộc, để gỡ gạc lại cho đỡ “mất mặt bầu cua”  nên Quân cố vớt một câu:
  -Gì mà ông Cù độ mạng, thằng quỷ Ngọ này phải chơi cho nó câu này mới xứng nè :”Lù khù vác cái lu mà chạy”….
                                 ***
  Không biết có phải vì số đào hoa, hay Ngọ bị ông thầy bói già ngồi sủ quẻ ở góc chợ trong thị xã cho “uống nước đường” :
  -Cậu Hai nè, theo mấy lá bài cậu bắt ra đây, lão đây ngạc nhiên vô cùng vì sao cậu Hai biết không? Nhưng thôi việc này lão không dám nói cụ thể đâu, nhiều khi không tốt cho cậu về sau.
  Nghe ông thầy bói được mọi người ca tụng là người đoán việc như thần cứ úp mở không chịu nói ra vận mạng của mình, Ngọ nóng ruột móc tờ mười đồng đặt thêm lên dĩa tiền tổ chàng nói:
  – Dạ thưa ông, con biết “Thiên cơ bất khả lậu”, nhưng mong ông thương cho con biết chút ít về hậu vận con cảm ơn ông.
 Ông thầy bói già nhìn tờ mười đồng mới tinh của Ngọ vừa đặt vào dĩa tiền tổ, qua đôi mục kính ông ta làm bộ khẽ thở dài rồi phán :
  -Lão tiết lộ cho cậu Hai vụ này thì Lão sẽ bị “giảm thọ”, nhưng thôi lão cũng liều một phen giúp cậu, có điều cậu phải cẩn thận nhe, không khéo làm gia đạo xào xáo có khi tan nát gia đình không chừng.
 Nghe Thầy phán câu xanh rờn khiến Ngọ giảng sợ nổi gai ốc đầy người, nhưng tính hiếu kỳ và sự tò mò thôi thúc khiếp Ngọ tạm quên nỗi sợ hãi kia, chàng quả quyết:
  -Dạ con nghe lời ông con sẽ cẩn trọng hơn ạ.!
  Lấy tay vuốt chòm râu bạc dưới càm, ông thầy bói già đằng hắng một tiếng rồi nói :
  -Cậu là người có số đào hoa,  cậu làm ra rất nhiều tiền bạc, vợ con cậu sau này không được hưởng gì số tiền cậu làm ra, ngược lại bị sẽ tốn kém tiền bạc, tình cảm với cậu nữa, chung quanh cậu rất nhiều người nữ muốn kết thân, có người biết cậu có vợ con nhưng họ vẫn muốn làm con thiêu thân, có người chỉ lợi dụng tiền bạc của cậu thôi, số cậu từ nay đến lúc xế chiều cậu sẽ vướng vòng lao lý ít nhất năm ba lần, về già vậy sẽ rất cô đơn
Và sống trong nghèo khó đến cuối đời.
 Tuy nghe hậu vận của mình không được tốt, nhưng bù lại Ngọ lấy làm vui sướng khi nghe thầy cho biết mình mang số đào hoa, và tiền bạc rủng rỉnh….
                               ***
  Một năm sau ngày cưới, tưởng đâu hạnh phút sẽ mĩm cười với mình cho đến trọn đời, Liên nào ngờ trong thời gian mình bụng mang dạ chửa thì Ngọ đã âm thầm sống với một cô gái khác, ngày trước Liên thì ngây thơ tin chồng mình chung thủy vô cùng, vì trong ngày cưới khi má của Liên cầm tay con mình trai cho thằng rể với câu nói:
  -Con Liên nó khờ lắm, có gì con chăm sóc cho vợ con giùm má nhe.
  Với đôi mắt rươm rướm lệ, chàng Ngọ nhà ta hứa với nhạc mẫu như đinh đóng cột:
  -Tía má khỏi bận tâm, con thương Liên lắm, con sẽ chăm sóc em Liên đến ngày răng long đầu bạc mà.
Nghe con rể nói lời hay lẽ phải, má của Liên bùi ngùi đáp lời:
 – Ba má cảm ơn con .
  Vậy mà, khi Liên chuẩn bị khai hoa nở nhụy, Ngọ không có mặt bên vợ để chia sẻ nỗi đau phải ” Banh da xẻ thịt” sinh đứa con đầu lòng, tức mình thằng con trai vô cảm của mình, má Ngọ chửi đổng lên :
  -Cái thằng Ngọ quỷ này, vợ con vậy đó không lo, giờ này nó đi ta bà chốn nào mà chẳng vô nhìn mặt con.
  Nghe má mình chửi anh Hai quá mạng, con Hiền em của Ngọ phân bua thế cho anh mình:
  -Má ơi, ảnh đang đứng coi xây cất cái bệnh viện ở quận nên bỏ đi đâu được má, có bề gì như xập tường, giàn giáo lật đỗ, thì nguy hiểm cho người thợ lắm, nếu xui có người bị chết hoặc thương tích thì đền bù chết luôn nhiều khi còn bị ở tù nữa, kệ ảnh đi má.
  Bà Tám má của Hiền nghe con gái bênh thằng anh mình, trong bụng bà cũng mừng thầm vì nó đã gỡ một tình huống khó xử cho bà, tuy vậy để củng cố niềm tin cho Liên là bà lúc nào cũng quý mến bảo vệ dâu con trong nhà với tinh thần “quân pháp bất vị thân”  bà Tám nói:
  -Con Ba mầy nữa, cái gì mày cũng bênh cho thằng Hai hết ráo vậy, tao nghe râm ran thiên hạ đồn đãi thằng quỷ này nó đang léng phéng với con Sương con của bà Ba bán  bánh canh ở dưới chợ cầu Ngang đó bây, tao mà biết đích xác tao từ nó luôn, cái thứ gì….
  Bà bỏ ngang câu nói, không dám rủa xả thằng Ngọ thêm nữa, dù gì nó cũng là núm ruột của mình, nếu nó có bề gì thì bà sống không nổi do bà thương yêu quý tử của bà từ tấm bé đến tận bây giờ .
  Bà Tám cứ ngỡ rằng Liên chưa biết thoái trăng hoa của chồng mình, nghe câu nói của bà với con Hiền khiến Liên chạnh lòng với cặp mắt long lanh nước mắt..
 Chợt thấy Dâu mình khóc, bà Tám áy náy trong lòng nên bà buộc miệng  hỏi :
 -Vụ gì mà khóc vậy con, có má với em con đây con đừng buồn, để thằng Ngọ về mà làm cho nó một trận cho con vui lòng.
 Liên chống chế :
  -Con đâu có khóc, tại bụi bay vô mắt con thôi má à.
  Sau khi biết tỏng tòng tong, dâu mình buồn lòng, bà Tám cũng mũi lòng bà quỳ xuống ôm Liên vào lòng như muốn chở che đùm bọc, rồi bà nhủ thầm trong bụng:
 -Đúng cha nào con nấy, nó giống y thằng cha nó ngày xưa hà, cái thứ gì đâu đó.
 Sở dĩ bà Tám thốt ra câu này, vì thằng Ngọ nó lập lại một kịch bản y chang tía của chàng ta thực hiện mấy mươi năm về trước với bà .
                               ***
  Từ hôm được ông “Chồng hờ” sắm cho chiếc xe SH 150i màu mận chín, Sương vô cùng hành diện, hầu như suốt ngày cô nàng cứ chăm chút cho chiếc xe, riêng với Ngọ cô nàng cũng ra sức xem chừng yêu thương chàng nhiều hơn nữa, Ngọ đâu biết rằng “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, cô Sương sống hai mặt hàng ngày mà Ngọ nào hay biết, khi có mặt Ngọ thì cô ta cố ra chiều mặn nồng tình nghĩa, khi Ngọ vừa khuất bóng thì có gã nhân tình trẻ măng thế vào, cả Ngọ và Sương đều trở thành “Trâu già mà gặm cỏ non”, những lúc cần Ngọ cung Phụng tiền bạc, Sương õng ẹo nói :
 -Anh à, má Vợ bệnh quá kìa, cho tiền má đi trị bệnh đi anh.
  Sau câu nói nàng ghì chặt Ngọ vào và hôn tới tấp, Ngọ như lạc vào mê hồn trận móc túi đếm xỉa cho Sương mệt nghỉ…
                              ***
  Đứa con gái đầu lòng vừa đầy tháng thì Ngọ kiếm chuyện để ra đi, Ngọ dự tính dọn về ở hẳn với cô nhân tình bé nhỏ kia, ngày nọ nhân buổi cơm chiều, Ngọ tỉ tê với Liên:
  -Em à, anh phải vắng nhà một thời gian khá lâu, vì đang có một hợp đồng xây cất lớn lắm, công việc rất nhiều anh phải ở luôn tại công trường, lâu lâu anh sẽ về thăm và đem tiền về cho em chi dụng.
  Liên bất ngờ sau lời thông báo này, nàng đang mơ hồ có đám “mây đen” thật sự che khuất tình cảm của hai vợ chồng, nghĩ tới con vừa đầy tháng, nghĩ đến phận mình đang tá túc phía nhà chồng, không còn cách lựa chọn nào khác Liên đành gật đầu để cho Ngọ đi làm ăn xa.
  Hôm sau Ngọ gom quần áo vào valy rồi  lái xe trực chỉ về xóm cầu Ngang, do không hẹn trước với Sương vì Ngọ muốn dành cho cô vợ nhỏ niềm vui bất ngờ từ nay không phải cất công đi đi về về nữa, Ngọ nghĩ rằng chắc Sương sẽ thích thú điều này..
 Xe dừng trước cổng, Ngọ thấy nhà Sương không đóng cửa, bà vú già của Sương đang cầm chổi quét lá ngoài sân, khiêng valy vào nhà Ngọ vui vẻ chào nà vú:
 -Chào Vú con mới về, vợ con đâu vú.
 Thấy Ngọ vô nhà và nghe câu hỏi của chàng khiến bà vú già biến sắc, bà ú ớ:
 -Cậu Hai mới dìa hả, cậu…cậu để tui đem đồ dô nhà cho, mợ ..mơ.. Còn ngủ ở trỏng á, mợ nói mất ngủ dữ lắm nên không muốn ai quấy rầy, hay cậu Hai ra chợ uống cà phê chút đi, chờ chút xíu mợ thức dậy rồi dìa, dậy nha cậu .
 Lấy làm lạ thái độ bất thường của bà Vú, trong đầu Ngọ thoáng nghi ngờ, bỏ mặc bà vú Ngọ đi thẳng vào phòng ngủ của Sương, trước mắt ngọ Sương và gã trai trẻ quấn nhau ngủ vùi chẳng hay biết ông chồng hờ bắt đầu nỗi cơn thịnh nộ:
 -Sương, sương dậy mau, thằng kia nữa dậy tao biểu.
 Đôi tình nhật giật bắn người thức giấc khi nghe tiếng thúc giục của Ngọ, theo quán tính họ chụp vội cái mền che chắn hai thân thể đang lõa lồ trước mắt Ngọ, dường như thấy đất trời sụp đỗ dưới chân mình, Ngọ không ngờ cô vợ bé của mình lại quá quắt như vậy, Ngọ cung phụng cho nàng ta không thiếu thứ gì vậy mà nàng cam tâm cắm hai cái sừng to tướng lên đầu mình lúc nào chàng chẳng hay, bao ghen tuông bực dọc trỗi dậy, giận quá mất khôn, Ngọ lao vô đấm đá túi bụi vào tay thanh niên lái “máy bay đầm già” này một cách điên cuồng khiến gã co rúm người lại chịu trận, nhưng cái đau hơn nữa là Sương thay vì năn nỉ van xin tha thứ , nàng ta lại xông vài che chở cho tình quân bé bỏng của mình, điên tiết Ngọ vung chân đạo mạnh khiến Sương té nhào vào vách tường rồi gục xuống nền nhà bất tỉnh, bà vú già thấy vậy la làng :
 – Giết người, bớ làng xóm giết người, cứu… Cứu .
Bà con chòm xóm bu quanh, vài ba thanh niên lực lưỡng nhào vô vật Ngọ xuống đất rồi trói thúc ké Ngọ lại.
  Bị giải về bót và ra tòa lảnh án hai năm tù về tội hành hung người gây thương tích, Ngọ được đưa về thụ án ở trại giam nơi cùng trời cuối đất, thời may cho Ngọ có người biết Ngọ là chồng của Liên, nên khi mãn hạn tù anh ta ghé lại nhà cho Liên hay, nghe tin dữ về chồng mình, Và nghe cớ sự khiến Ngọ vướng vòng lao lý, chẳng những Liên Không ghét bỏ mà nàng còn bồng đứa con thơ chưa biết mặt cha lặn lội đường xa thăm chồng, thấy vậy lối xóm mới nhận xét:
 -Cha nội Ngọ này gặp bà Liên là vợ thì sướng thấy mồ tổ mà không biết điều còn quậy banh chành luôn, cái thứ gì đâu đó, gặp tui cho rục xương trong tù luôn còn lâu mới thăm nuôi.
 Sáng nọ đám tù xúm lại nghe kêu tên thăm nuôi:
 -Trần văn Ngọ, đội sản xuất số 2 ra thăm nuôi.
Cũng khá lâu, từ lúc vướng vòng lao lý như dự đoán của ông thầy bói già nói ngày nào nay đã linh ứng, Ngọ nghĩ chắc chẳng ai biết mình đang tù rạt nơi này, vậy mà hôm nay có người thăm nuôi, chẳng đoán được ai nhưng trực giác báo cho Ngọ biết ngoài Liên ra chắc chẳng còn ai thăm mình, gặp mặt Liên, Ngọ sượng sùng vô cùng, chàng toan quay đầu vào trại vì mắc cỡ với lương tâm, nhưng Liên đã đoán biết nàng vội kêu lên:
  – Mình ơi ! Có con gái ghé thăm anh nữa nè.
 Nghe Liên gọi hai tiếng mình ơi trong hoàn cảnh trớ trêu như thế khiến tự dưng hai hàng nước mắt của Ngọ lăn dài trên gương mặt già nua, Ngọ quay lại đến bên Liên ôm choàng hai mẹ con nàng và khóc tức tưởi, Ngọ thì thầm:
 -Anh biết lỗi rồi, anh hứa sau này quay về làm lại từ đầu, sẽ yêu thương em và con cho đến trọn đời.
 Liên cũng lệ chảy đầm đìa, đứa bé vẫn lặng thinh vì cháu chưa biết được chuyện gì đang xảy ra trong một khúc quanh cuộc đời của song thân mình.
                                ***
  Ông bà mình thường nói : “Ngựa quen đường cũ, hoặc chứng nào tật ấy” nhằm ám chỉ cho những người tay trót nhúng chàm lầm lỗi chuyện gì đó, đã không hối lỗi thì thôi, đàng này họ lại tiếp tục dấn thân vào vũng lầy tội lỗi.
   Ra tù về với gia đình Ngọ rất hân hoan, chàng mang cảm giác như chim sổ lồng sau những tháng ngày bên trong song cửa sắt, thiên hạ ví von “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” ai cũng hiểu câu này, nhưng những ham muốn tầm thường , những lòng tham , những tính khí ác đức đã đưa họ đọa đày vào chốn địa ngục trân gian này, Ngọ có giữ lời hứa với Liên hay không, một câu hỏi mà Liên cứ suy nghĩ mãi.
  Được vài tháng hít thở không khí tự do, trở lại làm ăn Ngọ kiếm được nhiều tiền, rồi dường như cái máu mê gái, cái thói trăng hoa trong máu đã ngấm vào từng tế bào nên căn bịnh ngoại tình lại có dịp bùng nổ theo đà ăn nên làm ra của Ngọ, chàng ta lao vào những mối tình không có tương lai, tình thật cũng có, tình ảo trên mạng cũng có…
  Sau khi bị vướng vòng lao lý lần thứ ba vì cái tội không đâu đúng theo quẻ bài của ông thầy bói già dạo nọ, Ngọ móc nối với các chủ tàu nên cả gia đình Ngọ sang định cư một nước giữa trùng khơi vây bủa, trớ trêu là lần nào chàng ta vướng tù tội thì chính cô vợ chính thức thăm nuôi, còn những cô bồ, cô vợ hờ chẳng thấy cô nào nhớ đến Ngọ mà thăm nom, vậy mà đến ngày lên tàu vượt biển, chàng Ngọ cũng cố kéo theo một bóng hồng cho riêng mình với danh nghĩa đứa cháu thân thương , cả nhà bên chồng của Liên biết vậy giận lắm, có người buộc miệng nói khi ghe còn lênh đênh giữa trùng khơi vây bủa:
 -Ta nói cái thằng Ngọ hết thuốc chữa rồi, tới nước này mà nó còn đèo bồng, con Liên này tiền kiếp chắc nợ thằng Ngọ này dữ lắm nên mới khổ tâm vầy nè.
  Ngọ chẳng vừa, trả treo lại câu nói của ông anh mình liền:
 -Tui vậy đó, ai thích thì ở, không thích thì chia tay , vậy thôi.
 Ngồi trên ghe đang lênh đênh không biế đâu là bến bờ, Liên muốn lao mình xuống biển sâu kia để tránh xa người từng đầu ấp tay gối mà thốt ra những lời quá tệ hại khiến cho những người thân đau lòng, nhưng nghĩ đến con của mình sẽ bơ vơ giữa chợ đời nàng không cam tâm vì tục ngữ có câu :
  “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu đường ”  hoặc là ” Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm”.
  Định cư xong Liên cùng các con bươn chải cuộc sống nên chẳng mấy chốc đời sống tương đối dễ thở hơn khi mới đến, Ngọ cũng ở chung trong căn nhà với mấy mẹ con Liên, anh ta như người ở trọ  chính trong căn nhà của mình, tiền bạc làm ra, anh cung phụng cho đứa ” Cháu” kết nghĩa kia, đã vậy anh còn mở thêm nhiều đại lý tình yêu trên không gian mạng.
 Nhiều cô gái nhẹ dạ, đã hẹn hò cùng anh , nhiều bà mẹ trẻ di nửa đường gãy gánh cũng vướng vào mảnh lưới tình anh giăng sẳn, khi họ phát hiện anh có vợ con thì một số rút lui và một số cố “theo đóm ăn tàn”, các con anh nay đã lớn khôn thấy tía mình không còn là người cha mẫu mực hất hủi vợ con nên các cháu xem như ông đã chết mặc dù ông sẽ còn hiện diện trên cõi đời này rất lâu.
  Câu chuyện còn dài, tôi không thể viết hết do thời gian hạn hẹp, tôi không tin vào bói toán, nhưng lời ông thầy bói già nọ đã là câu kết cho cuộc đời của Ngọ nhà ta sau này rồi đúng không các bạn.

Hai Hùng SG –

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Sep/2022 lúc 8:28am

Bốn Mươi Năm, Nỗi Niềm Ba Thế Hệ 

Nữ tài tử Tippi Hedren và lớp học Nail đầu tiên dành cho người Việt do bà tổ chức tại trại Hope Village, Sacramento 1975.

"Hai mươi năm, 

bầy trẻ thơ nay đã lớn  

và chàng trai nay đã già"  

Tháng Tư 1995, tôi lặng người khi nghe câu hát đó. Rồi bùi ngùi nhận ra mình là một trong bầy trẻ đã lớn. Lớn, nhưng chưa làm được gì nhiều, chỉ đau đáu trong lòng những ước mơ cho một quê hương xa vời vợi.

Thoáng một cái, đã 2020. Trong email với những người bạn thân từ thưở học trò, tôi sửa lời của nhạc sĩ Phan Văn Hưng để đùa chơi

"Bốn mươi năm,
bầy trẻ thơ nay đã xế
và chàng trai nay quá già"
Các anh chị, cô chú mà nghe "chàng trai nay quá già" chắc sẽ không vui.

Tôi cũng biết lẽ ra không nên diễu (dở) với sự thật... phũ phàng. Nhưng, thay vì thở dài hoặc chống trả thứ không thể chống trả, có lẽ cách hay nhất là làm theo câu thơ tiền chiến: Tôi nói lòng ra để tự cười.2

*

Khi Bố tôi tự nhận là "tuyến đầu" -  tiếng của Bố đặt cho những người đứng mũi, chịu sào cho cả ba thế hệ gồm có cha mẹ, chính mình, và con cái -  thì tôi chỉ có vừa đủ trí khôn để gom góp vài ký ức về ông bà.

Ký ức đó gồm có nét thanh lịch của các bà vấn khăn nhung, mặc áo dài lụa, cổ đeo chuỗi cẩm thạch xanh rờn nước lý trong ngày Tết. Có sự ấm áp của hình dáng bà ngoại tôi ra vào, vun vén, trông nom. Có hình ảnh trang nghiêm của các ông, áo the khăn xếp, cầm bó hương cháy nghi ngút đứng khấn thật lâu trước bàn thờ trong những ngày giỗ kỵ. Có những "nụ cười đen nhánh sau tay áo" (3), có các bà luôn luôn mặc áo dài khi ra khỏi nhà và gọi con là "các anh, các chị". Và có cả sự kính cẩn trong cách tôi gọi nhiều người, không bằng tên mà bằng chức vị ở miền Bắc trước khi họ di cư vào Nam: bà Thông, bà Hộ, ông Chánh...

Ngày đó, đối với tôi, tuổi già là những ông bà hay nhắc tới những địa danh, những kỷ niệm ở miền Bắc xa xôi. Họ có cách ăn nói và hỏi chuyện con cháu giống nhau, rất gần gũi, quen thuộc trong gia đình nhưng khác với những ông bà cụ người Nam ở chung quanh. Chỉ như thế. Những điều khác như sự đau yếu, qua đời chỉ lờ mờ đằng sau sự hiện diện vững chãi của Bố Mẹ tôi. Chúng tôi nhởn nhơ trong bóng mát bình yên khi những gay gắt của cuộc đời đã được thế hệ cha mẹ lọc đi.

Bà ngoại tôi mất năm 1974, đem theo niềm mơ ước gặp lại hai người con trai đi kháng chiến chống Pháp từ thập niên 40 và ở lại ngoài Bắc. Tuy vậy, nhiều người vẫn nói là bà có phước vì không phải chứng kiến cảnh lạc đàn tan nghé, con tù cháu tội, nheo nhóc đói khổ sau cuộc đổi đời năm 1975. Các ông bà khác thì một số kẹt lại Việt Nam, một số ôm nỗi nhớ thương miền Bắc còn chưa ráo theo con cháu đi tứ tán. Sau đó, vì chia cắt, tôi không được gặp lại các ông bà. Tôi chỉ nghe nói thời gian đầu ở nước ngoài họ coi nhà, trông cháu cho các con lao ra ngoài kiếm sống. Những gia đình may mắn có ông bà thì các cháu bé không phải lang thang ở những nhà giữ trẻ, nơi mà mọi thứ đều xa lạ.

Ông bà giữ ngọn đèn trong nhà bật sáng, dọn mâm cơm để các cháu ngồi cùng ăn khi cha mẹ đi học lớp tối hay làm thêm giờ về trễ. Họ ru cháu ngủ khi cha mẹ làm ca đêm. Họ là bếp sưởi ấm áp, là hình ảnh đậm đà của quê hương vừa lìa xa...

Khoảng mười lăm năm sau, khi cộng đồng người Việt tạm cứng cáp thì hầu hết các cụ đã yên lặng ra đi. Thời đó bận rộn, xa xôi quá nên tin về các ông bà chỉ được biết qua những lá thư hay những cuộc điện đàm hiếm hoi. Tôi đã không nghĩ nhiều đến các cụ, không thắc mắc họ đã sống tuổi tám mươi, chín mươi như thế nào ở những thành phố của Mỹ, Canada, Pháp, Úc và ra đi trong hoàn cảnh ra sao. Một phần vì tôi còn "trẻ người, non dạ", nhưng lý do chính là vì Bố Mẹ tôi vẫn còn khỏe nên chúng tôi được núp bóng, vô tư trước quy luật đến và đi của đời người.

*
Sau khung kính vuông trên trần là một khoảng trời xanh dịu, hoe chút nắng nhẹ nhàng.

Đó là một buổi sáng mùa Đông ở Bắc California, ba ngày sau khi tôi đến Mỹ. Hôm đó là ngày thứ Hai, mọi người đều đi học, đi làm. Ở nhà chỉ có hai chị em tôi mới từ trại tị nạn sang, vừa được Dì đón về nhà.

Căn nhà vắng vẻ dường như rộng hơn bình thường. Tôi đi ra phòng khách, ngồi trên ghế sofa, nhìn lên tấm skylight trên trần trời, ghi vào óc hình ảnh đang thấy, và thầm nói "Tôi đã đến! Bầu trời nước Mỹ là như thế này đây."

Mới đó, mà hơn ba mươi năm!

Dì là em gái của Mẹ tôi, nhưng trong gia đình gốc Bắc tôi gọi bằng "Cô" và chồng của Dì thì  gọi là "Chú". Bây giờ, tôi gọi là "Dì" (để nói rằng đó là người thân lắm, giống như trong câu tục ngữ "Sẩy Cha còn Chú, mất Mẹ bú Dì".)

Trong gia đình, Dì qua Mỹ trước tiên, vào tháng Tư năm 1975. Dì kể, ra khỏi trại Pendleton gia đình Chú và Dì được một nhà thờ ở Hayward, Bắc California bảo trợ. Đó là một điều buồn vui lẫn lộn. Vui vì California là nơi khí hậu dịu dàng, không lạnh cóng như những vùng khác, nhưng lại buồn vì bạn bè trong quân đội của Chú phần lớn sang miền Đông Hoa Kỳ qua sự đỡ đầu của những người bạn cố vấn Mỹ ngày trước. Nhưng Dì nghĩ thân tị nạn trên đất nước xa lạ, biết đâu mà lựa chọn, cứ theo duyên phận, rồi "nước chảy tới đâu, bắc cầu tới đó".

Chú cất bộ quân phục có gắn bông mai vàng vào ký ức, ngày ngày mang bộ đồng phục của thợ lắp ráp trong hãng xe hơi. Ở thắt lưng chú đeo nguyên một bộ kềm vặn ốc lớn nhỏ đủ cỡ, sắp xếp theo đúng thứ tự đã thuộc lòng. Khi chiếc xe trên đường dây chuyền trờ tới, chú nhảy phóc lên, rút kềm, gồng tay vặn những con ốc ở những vị trí cũng nhớ nằm lòng. Xe đi khoảng bốn mét là hết khâu, chú phải nhảy xuống, chạy ngược lại đón chiếc xe mới tới. Cứ chạy nhảy liên tục như vậy. Một ngày tám tiếng.

Dì cũng thay áo luật sư bằng áo khoác trắng và lưới trùm tóc của hãng trái cây đóng hộp. Cũng ngày ngày đứng trước một bộ máy dây chuyền gồm những thùng sắt khổng lồ đi chầm chậm. Trái anh đào hay trái dâu từ trên đổ xuống ào ào, hai tay Dì phải lựa thật nhanh những trái xấu, bỏ ra ngoài. Lúc mới làm chưa nhanh tay, nhanh mắt, có đôi khi trái xấu sót lại, bà đốc công lượm ra đem dí vào mặt la xối xả. Dì không dám phân trần nửa lời, chỉ im lặng làm tiếp. Hai tay bốc lia, bốc lịa nên không thể gạt nước mắt chảy ròng ròng.

May mắn cho Chú, Dì và cả cộng đồng người Việt tị nạn ở Bắc California, kỹ nghệ điện tử được phôi thai từ những năm 1965, 1968 đến giữa thập niên bảy mươi bắt đầu cứng cáp. Các hãng bắt đầu cần rất nhiều chuyên viên điện tử và, nhờ ơn trời (như Dì nói), nghề này hợp với rất nhiều người Việt. Kiến thức khoa học: có đủ, vì hầu hết là sĩ quan, công chức ở Việt Nam; sự cẩn thận, chịu khó: có thừa; khả năng học hỏi và lòng cầu tiến: tràn trề. Bắt đầu là những người có sẵn bằng cấp từ Việt Nam lấy một vài lớp học về điện tử rất dễ so với khả năng của họ, rồi được tuyển vào các hãng làm chuyên viên kỹ thuật (technician). Từ đó họ chỉ đường cho gia đình và bạn bè.

Dì và Chú sau giờ đi làm đã ghi danh học lớp tối ở San Jose City College, lấy nhanh tấm bằng hai năm rồi đầu quân vào đội ngũ chuyên viên kỹ thuật đang tăng vọt. Từ các tiểu bang khác, sinh viên Việt Nam đi du học trước năm 1975 mới tốt nghiệp cũng đổ về San Jose tìm việc. Đã có nhiều cuộc gặp gỡ ngỡ ngàng khi những kỹ sư trẻ măng biết ra rằng những technician tóc loáng thoáng sợi bạc, im lặng, chăm chỉ làm cùng phòng thí nghiệm chính là những nhân vật mà họ từng nghe tên tuổi lẫy lừng trong những trận đánh của Tết Mậu Thân 1968, của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.

Gia đình Chú Dì cũng như nhiều người Việt khác dần dà khá giả hơn. Nhiều gia đình chồng đi học có bằng làm technician, vợ chưa tốt nghiệp cũng hăng hái đi làm nhân viên khâu lắp ráp (***embler hay ***embly line worker).

"Ở đây chồng Tách (technician), vợ Ly (***embly)
Cùng làm một buổi, còn gì sướng hơn"

Hạnh phúc của người tị nạn thời đó đơn giản là vậy. Đầu óc, công sức và sự khéo léo của họ đã chăm chút, hoàn thiện biết bao sản phẩm của các hãng điện tử. Thành công đem lại thành công, các hãng mọc lên ngày càng nhiều, và người Việt tị nạn đã góp công rất lớn vào sự phát triển của Thung Lũng Điện Tử, nơi ra đời của những sản phẩm thay đổi đời sống con người trên toàn thế giới.

Trong guồng máy của thung lũng này, Dì và Chú vừa xây dựng lại cuộc đời trên đất mới, vừa dành dụm gởi về giúp đỡ hàng chục anh chị em trong họ hàng hai bên.

Rồi đại gia đình dần dần đoàn tụ, lúc đầu là những người trẻ đi bằng đường vượt biển, sau đó là người lớn tuổi đi theo diện bảo lãnh. Là con gái út nhưng vì quen gánh vác họ hàng từ sau cuộc đổi đời, Dì đã trở thành người đầu đàn của họ ngoại tôi trên đất Mỹ.

Có một lần tôi mỉm cười và nghĩ rằng Dì không giống với hình ảnh quen thuộc của những người đàn bà Việt Nam trong văn chương: đơn giản, đảm đang, hy sinh, và chịu đựng.

Dì không chỉ vậy, mà hơn vậy.

Dì hy sinh, chịu khó, nhân từ, và can đảm. Dì đẹp và cao. Dì ăn mặc lịch lãm. Hồi tôi mới sang, thỉnh thoảng cuối tuần Dì chở đám cháu đi mua sắm ở những tiệm quần áo clearance. Mấy Dì cháu hí hửng tìm kiếm trong đống quần áo giảm giá tới bảy mươi, tám mươi phần trăm. Phần lớn là mua gởi về Việt Nam, nhưng Dì cũng giữ lại vài thứ để mặc. Những chiếc áo có nơ ở cổ, có kiểu dáng điệu đà, thanh nhã rất hợp với Dì. Và điều đặc biệt nữa là hai bàn tay của Dì. Trải qua bao năm tháng nhặt trái cây, làm việc nhà, vật lộn với những máy móc điện tử, bàn tay Dì vẫn thon đẹp với những ngón búp măng dài muốt.

Ba mươi chín năm qua nhà Dì là nơi nhóm họ. Hàng trăm lần giỗ Tết đến, rồi đi, rồi trở lại. Họp mặt ở nhà Dì đã trở thành một điều tưởng như không bao giờ thay đổi...

Gần đây, có một lần tôi ghé thăm Dì. Khi bước xuống xe, ánh nắng vàng trên con đường, hai dãy nhà màu nâu nhạt dọc hai bên, những bụi hoa và bãi cỏ, chúng quen thuộc đến mức làm tôi ngỡ ngàng! Cánh cổng sắt vẫn sơn màu xám, đưa vào căn nhà nơi Chú và Dì đón hai chị em tôi về sau chuyến bay từ trại tị nạn Galang tới San Francisco. Thời đó bãi cỏ tươi hơn và giàn hoa giấy đỏ mới chập chững leo trên cái giàn tạm nhỏ xíu. Nhưng, nhìn chung căn nhà vẫn rất giống như xưa.

Vậy mà rất nhiều điều đã vô cùng khác.

Kể từ năm nay, ngày 29 Tết Dì không còn gọi điện thoại cho từng đứa cháu, nói "Giao thừa đến nhà Cô cúng ông bà, nghe!" Căn nhà này sẽ không còn là nơi mà mấy chục người trong ba thế hệ bên ngoại gặp gỡ nhau. Vì Chú đã qua đời, còn Dì thì liệt nửa người sau cơn tai biến mạch máu não.

Lần đó tôi vào bệnh viện thăm lúc Dì mới hồi tỉnh. Khi ra về, tôi nắm tay Dì và nói to "Cháu đi về nha. Cô bye cháu đi." Dì bập bẹ "Bye" rồi vẫy vẫy tay. Và, tôi bùi ngùi thấy rằng bệnh tật đã làm Dì thay đổi, nhưng vẫn không cướp được hai bàn tay đẹp của Dì. Chúng vẫn đẹp, như xưa. Nhưng vẻ đẹp ấy như đang dùng sự tương phản để đánh thức tôi, nhắc tôi là đời người ngắn ngủi, là đã đến lúc tôi phải đối diện với lẽ tử sinh.

*

Ở trung tâm thành phố (downtown) San Jose có một cửa tiệm nằm trong một căn phố nhỏ. Từ xa lộ 280 ra hầu như lần nào tôi cũng phải ngừng lại ở đèn đỏ góc đường Mười Một trước khi quẹo trái vào Santa Clara, con đường chính của downtown. Ở chỗ ngừng xe, nhìn xéo qua tay phải là tấm bảng có những ba dòng chữ đỏ bằng tiếng Anh, Hoa, và Việt. Dòng tiếng Việt đề "Vịt Quay Tôn Thọ Tường" nên tôi đoán chủ tiệm là người Việt gốc Hoa. Vẻ hơi tồi tàn, xập xệ của tiệm với cái tên Tôn Thọ Tường gợi nhớ những hàng quán ở Sài Gòn, Chợ Lớn ngày xưa. Tiệm này đã ở đó trên dưới ba mươi năm.

Trong thời gian cộng đồng Việt ngày càng ăn nên làm ra. Khu thương mại Lion được mở ra trên đường Tully. Tiếp theo là khu Grand Century sang đẹp cùng khu Vietnam Town lộng lẫy trên đường Story. Nhiều tiệm Việt Nam đã dời về phía Đông San Jose, và khu downtown không còn là nơi tụ họp chính của các dịch vụ cho người Việt. Trong suốt thời gian đó, tiệm vịt quay vẫn nằm ở góc đường. Cũ kỹ, cô đơn, nhưng kiên trì, tiệm đứng đó như một "chứng nhân" cho thời mở đầu của cộng đồng Việt tại San Jose.

Cho nên, cuối năm 2013, khi ngừng xe ở đường Mười Một, tôi hơi sững sờ khi thấy tiệm treo bảng đóng cửa. Tôi thấy nhớ cửa tiệm như tiếc một thời đã qua.

Nhưng rồi tôi lại "tự cười" và tự nhắc rằng nền tảng của sức mạnh Mỹ quốc là sự hiệu quả. Chủ tiệm vịt quay có lẽ cũng đã đến tuổi về hưu, và một tiệm mới đang trên đà đi lên sẽ làm ăn hữu hiệu hơn ở góc đường này. Bây giờ là 2015. Trong thời đại khi iPhone 6 vừa ra đời đã có người mơ mộng tới iPhone 7, khi mỗi phút có ba triệu người lướt mạng thì lòng hoài cổ của tôi không thể chen chân ở ngay Thung Lũng Điện Tử, cái nôi của máy vi tính và điện thoại di động, đất nhà của Google, Yahoo, Facebook, và mấy ngàn hãng xưởng lớn nhỏ khác.

"Sóng sau dồn sóng trước", không nơi đâu mà câu thành ngữ đó đúng hơn là ở vùng này. Mọi thứ đều tuân theo quy luật sóng, kể cả con người.

*

Tôi quen cô Hòa trong một lần ghé văn phòng Bác Sĩ. Hôm đó chúng tôi phải chờ khá lâu. Cô mệt mỏi dựa lưng vào tường, nhắm mắt lại, hai tay chắp trên bụng. Những móng tay của Cô sơn màu hồng cánh sen có ánh tím trang nhã. Khi Cô mở mắt nhìn tôi mỉm cười, tôi bắt chuyện và khen màu sơn móng tay của Cô. Cô trở nên linh hoạt hẳn lên "Màu sơn này do người   đệ tử   làm nail ở Hollywood gởi tặng cho cô đó. Mua ở tiệm thường không có đâu nghe! Cô làm Nail mấy chục năm mà,   đệ tử   của Cô bây giờ ở khắp nơi..."

Từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi lại nói chuyện điện thoại và tôi được nghe cô Hoà kể nhiều chuyện về buổi đầu tị nạn.

"Cô qua Mỹ với Ba Má chồng và đứa con, thằng Tâm, mới hơn một tuổi. Năm 1975, Cô mới lấy chồng được chưa đầy ba năm, ở chung với ông bà nội thằng Tâm. Bữa đó, đang ở nhà thì chồng Cô về, kêu gom góp đồ đạc vô vali rồi chở lên phi trường Tân Sơn Nhất. Ổng biểu cả nhà ngồi chờ để ổng đi đón thêm vài anh em rồi trở lại liền. Cô chờ mỏi chờ mòn, hơn hai ngày ổng không trở lại. Ngày thứ ba, phi trường bị pháo kích, người ở chung quanh nói chuyến bay bữa đó là chuyến cuối cùng. 

Cô thì "bên dắt Mẹ già, bên nách con thơ", muốn ra cũng không được, ở lại thì sợ bom đạn, nên đành lên máy bay mà nước mắt chứa chan. Em tưởng tượng được không, Cô mới hai mươi hai tuổi đầu, tiếng Anh tiếng U không biết. Từ trong trại tị nạn ở California, Cô nhờ người ta kiếm ổng ở tất cả bốn trại tị nạn trên nước Mỹ. Văn phòng trại đọc loa kêu tên ổng mỗi ngày mà ổng vẫn bặt tăm. Cô khóc sưng mắt nhưng rồi nghĩ mình phải cố gắng lên vì bây giờ mình là người đứng lo cho gia đình. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng cũng không biết phải làm sao. Cô không biết đường lối gì hết, không quen biết ai nên ở trại tị nạn lâu nhất. Mà Cô cũng muốn ở lâu, trong đầu cứ nghĩ là một ngày kia chồng mình sẽ xuất hiện trong trại, với lại cứ sợ là đi định cư rồi thì ổng biết đường đâu mà kiếm."


Thấy tôi chăm chú nghe và hỏi thăm chuyện tị nạn, Cô Hoà hào hứng kể chuyện cũ.

"Từ trại ở đảo Guam, gia đình Cô qua Camp Pendleton ở San Diego, rồi lên trại Hope Village ở Sacramento.  Mùa hè năm 1975, trại này có tổ chức buổi lễ chào đón năm trăm gia đình Việt Nam đầu tiên đến định cư tại California.  Buổi lễ đặc biệt này bắt đầu bằng một lễ chào cờ. Đây là lần đầu tiên Cô thấy lại lá cờ vàng của mình trên đất Mỹ. Khi lá cờ được kéo lên, nhiều ông mặc đồ dân sự mà đứng nghiêm dơ tay chào theo kiểu nhà binh. Sau đó Cô mới biết họ đều là tướng, tá của Việt Nam Cộng Hoà, có cả ông tướng Nguyễn Cao Kỳ nữa. Nhìn họ chào cờ Cô khóc như mưa vì nhớ ông chồng sĩ quan. Nhưng đâu phải mình Cô. Cả ngàn người tị nạn, nhiều người có đầy đủ gia đình bên nhau, vậy mà ai cũng khóc!"

Thình lình cô Hoà hỏi "Em biết cô tài tử Kiều Chinh không?"

Rồi không chờ tôi trả lời, Cô kể tiếp "Sau lễ chào cờ, ngoài mấy người Mỹ, cô Kiều Chinh được mời đọc diễn văn. Nhờ cổ nói thêm bằng tiếng Việt mà Cô hiểu là trại này có một bà tài tử lớn của Hollywood tên là Tippi Hedren làm trong ban quản trị. Trời, bà ta đẹp như thiên thần, tóc vàng óng, dáng người thon thả, sang trọng. Mọi người ai cũng thích bả, có nhiều chị cứ trầm trồ ngưỡng mộ hai bàn tay với móng dài, sơn màu san hô tuyệt đẹp của bả. Có lẽ nhờ bả mà nhiều nam, nữ tài tử từ Hollywood cũng tới thăm, giúp đỡ trại. Riêng cô Kiều Chinh, bạn thân của bà Tippi, thì sau khi đọc diễn văn còn tình nguyện ở lại trại cả tuần lễ để phụ giúp đồng bào. 
Hàng ngày cô Kiều Chinh cùng bà Tippi đi thăm mọi người. Hồi đó người mình chưa nói tiếng Anh giỏi, nhờ có cô Kiều Chinh mà đôi bên mới hiểu nhau. Theo cô Kiều Chinh nói, Bà Tippi để ý cách các cô, các chị làm tóc, chăm sóc con cái, và bả kết luận là đàn bà Việt rất khéo tay. Từ đó, bả nảy ra ý định dạy cho người Việt Nam làm nail vì bả tin rằng nghề này rất thích hợp mà lại kiếm khá. Vậy là bả đem bà Dusty, người làm nail cho bả, vào trại dạy những điều căn bản cho hai mươi người Việt. Sau đó, họ đi xe của trại tới trường để học những kỹ thuật mới nhất như làm móng tay giả bằng lụa. Cô có tới lớp coi họ  làm. Mèn ơi, nhìn đố ai biết là móng giả! Nhưng mà hồi đó Cô còn lo đi kiếm ông chồng nên không có tâm trí ghi tên học..."

Cô Hòa còn kể cho tôi nhiều chuyện về những đội ngũ "hạt giống" thợ nail Việt Nam xuất phát từ Hope Village đã được sự giúp đỡ của bà Tippi để đi thi lấy bằng ở Sacramento. Hai mươi người đầu tiên đã chỉ đường cho bạn bè khác và Cô đã vào nghề khoảng giữa năm 1976. Nghề nail đã giúp Cô trang trải cho gia đình và còn đem lại cho Cô sự tự tin "Em biết không, giá làm móng tay thời 1976 là sáu chục đồng một bộ. Mà lúc đó lương tối thiểu là hai đồng rưỡi một giờ! Em nghĩ coi, không có nhiều người Việt vô nghề, làm cách nào mà giá xuống thành vừa phải để cho những người bình thường cũng có thể làm nail? Bởi vậy, thợ Việt đúng là giúp làm đẹp cho đời đó em à!" Cô vừa nói vừa cười.

Rồi Cô kể về thời gian Cô đi làm nail từ sáng tới tối, ông bố chồng đi phụ bếp, cậu con trai ở nhà với bà nội. Rồi chuyện nghe tin chồng Cô bị kẹt lại, đi tù trong trại tập trung ở Việt Nam "Nghe tin ổng bị tù mà vừa khóc vừa mừng. Ít gì ổng cũng còn sống, còn hy vọng có ngày gặp lai." Gia đình Cô đoàn tụ giữa thập niên 80 khi chồng Cô ra khỏi tù và vượt biển thành công.

Bây giờ thì cậu bé Tâm một tuổi ngày mới tới đã là một kỹ sư điện toán, thêm người em sinh tại Mỹ sau này hiện làm cô giáo dạy Anh Văn ở trường trung học. Cả hai đã có gia đình riêng. Bố mẹ chồng và cả ông chồng đã qua đời. Còn một mình, cô Hòa sống trong nhà riêng khang trang nhưng không được khỏe. Cô bảo là mấy chục năm ngồi khom lưng và dùng tay quá nhiều đã làm cho Cô bị đau lưng và đau khớp thường xuyên. Các khớp ngón tay của Cô sưng lên, nhưng Cô vẫn giữ thói quen sơn móng, chỉ khác là bây giờ Cô phải ra tiệm.

Cô Hòa làm tôi nhớ đến Chú, Dì tôi. Ở trong hãng kỹ thuật phức tạp hay ngành nail tưởng như đơn giản nhưng không kém phần vất vả, họ đều là những hạt giống đầu tiên trong hai nghề chính đã chống đỡ và nuôi lớn cộng đồng Việt Nam tại Mỹ.

Người thợ nail hai mươi hai tuổi ngày xưa giờ đã sáu mươi hai. Đôi tay cô không còn đủ sức tự chăm sóc, phải trông cậy vào thế hệ tiếp nối. Nhưng cô vẫn có vẻ mãn nguyện vì đôi tay đó đã kiếm sống cho cả ba thế hệ, đã làm đẹp cho đời, đã cống hiến hết khả năng.

*
Có lần sau khi đọc một bài viết về Hội Chứng Rối Loạn Sau Ác Biến (Post-traumatic Stress Disorder) của những quân nhân sau khi tham chiến, tôi tự nhủ là mình nên cám ơn trời. Những cực khổ tôi trải qua ở Việt Nam chắc vẫn còn rất nhẹ so với nhiều người khác, không phải là traumatic experience.  Ký ức ấy, sau chuyến vượt biển may mắn, có lẽ đã được xoa dịu bằng sự đùm bọc của bao người thân thiết. Nhờ vậy, tôi cảm thấy là tinh thần tôi khỏe mạnh, không có triệu chứng khác thường nào cả.

Mãi tới gần đây, tôi mới nhận thấy là có lẽ sự kiện trốn khỏi Việt Nam rồi sang định cư ở Hoa Kỳ đã làm ý niệm về thời gian của tôi hơi bị lệch lạc. Ba mươi năm sống ở Mỹ mà tôi cứ cảm thấy là rất ngắn. Nhiều kỷ niệm và hình ảnh cứ đứng nguyên như lúc tôi mới bắt đầu thu góp những ý niệm về cuộc đời, về người lớn ở chung quanh. Những nhà thơ, nhà văn. Những nhạc sĩ, ca sĩ. Những thầy, cô giáo. Những danh tướng một thời. Và những người thân. Trong đầu tôi, thời gian qua chưa bao lâu, những người ấy vẫn mạnh khỏe, vẫn là một phần của cuộc sống hàng ngày, là hình ảnh của xã hội chung quanh, như trong những thập niên bảy mươi, tám mươi.

Cho tới vài năm gần đây, tôi phải đối diện với sự ra đi và đau yếu của họ. Mỗi khi nghe tin, tôi cảm thấy bâng khuâng, trống trải. Như thể tấm khăn ấm áp, thân thiết bao năm che chở quanh vai tôi đang bị rút bớt, từng sợi, không ngừng. Rồi tôi nhận ra rằng ba mươi năm không ngắn như một giấc mơ. Đã tới lúc tôi nhìn lại và thấy đó là quãng thời gian dài, dài lắm.

*

Tôi đến Mỹ năm 1984. Khi mới đến chưa biết đường lối, lỡ dịp ghi tên khóa mùa Xuân ở trường đại học, nên phải học tiếng Anh gần chín tháng tại trường dạy người lớn (Adult Education Center). Thời đó, số người vượt biển đã giảm bớt so với những năm đỉnh 80, 81 nhưng vẫn còn rất nhiều. Hầu như tuần nào cũng có chuyến bay chở người từ các trại tị nạn Bataan và Galang đến định cư ở Mỹ. Cho nên, vào trường tôi gặp lại rất nhiều người quen ở đảo. Mới tới Mỹ gần một tháng mà ai cũng trắng trẻo và tươm tất hơn nhiều so với thời ở trại. Gặp nhau tít tít hỏi han, trao đổi tin tức về chỗ nào thuê nhà tốt, chỗ nào đang mướn người, cách xin trợ cấp xã hội, ngày giờ ghi danh ở trường đại học... 
Giờ ăn trưa giở hộp cơm, miếng bánh mì ra mời nhau, ăn xong ra vòi uống nước, chỉ có vài cậu thanh niên trẻ xài sang mới bỏ mười lăm xu vô mua lon nước ngọt trong máy của trường. Mừng rỡ, chia sẻ vậy nhưng người tị nạn mới sang thuộc đủ mọi lứa tuổi, mọi cảnh đời. Người phải đi làm nuôi gia đình, người thích kiếm tiền sớm, người chuyển đi vùng khác, người tiếp tục học lên... Vì thế, chẳng bao lâu là mỗi người mỗi ngả.

Mùa Thu năm đó, hai chị em tôi vào học ở trường College ở thành phố Fremont gần nhà. Ngôi trường nằm trên đồi, biệt lập, và thơ mộng dịu dàng. Lớp học nằm trong những tòa nhà trắng viền gỗ nâu đậm nhìn xuống những bãi cỏ thoai thoải và nhiều hàng cây cao vút. Thời đó người Việt tụ tập nhiều ở phía Đông thành phố, gần downtown San Jose. Vì thế, hai trường Evergreen College và San Jose City College ở vùng đó thu hút đông học sinh Việt nhất. Ngoài hai nơi này, những trường khác ở hạt Santa Clara cũng được nhiều người Việt chọn học. Hạt Santa Clara giàu có nhờ thu được nhiều thuế từ các hãng điện tử, do đó họ có thêm chương trình giúp đỡ sinh viên nghèo, và quỹ cho sinh viên vừa làm vừa học (Work Study) cũng rộng rãi. 
Ngôi trường tôi học thuộc quận Alameda, không được trù phú bằng Santa Clara nên chỉ có các phúc lợi của liên bang và tiểu bang. Đó là sau khi đã vào trường nghe các bạn học nói vậy chứ thật ra tôi không để ý. Đối với tôi ngày đó, được đi học đã là một hạnh phúc to lớn, được hưởng tiền trong khi xây đắp cho chính tương lai của mình thì là một điều kỳ diệu. Thời đó học sinh tị nạn gồm đủ mọi lứa tuổi và đặc biệt là có rất nhiều anh chị em cùng sang một lúc và cùng đi học với nhau. Năm đó, ngoài "cặp bài trùng" là chị em tôi còn có mấy nhóm ba, bốn anh chị em cùng học một lớp.

Lúc mới sang, tôi nghe nói thời đó sinh viên gốc Việt trong trường đại học chia làm hai nhóm: nhóm di tản năm 1975, đã học trung học ở Mỹ và nhóm mới sang. Nghe thì có vẻ "chia rẽ" nhưng khi vào trường tôi thấy đó chỉ là điều tự nhiên. Những sinh viên lên từ các trường trung học thường rất giỏi tiếng Anh, thường ăn mặc rất thời thượng, theo phong cách của thần tượng âm nhạc thời 80 là Madonna và Michael Jackson. Những chiếc mũ đội lệch, những lớp áo thun và váy ren xòe kết hợp khéo léo, quần jean mặc xệ, chuỗi hột đeo cổ, thánh giá lủng lẳng trên tai, giày cao cổ sành điệu, găng tay đen hở ngón... Cách ăn mặc rất-Mỹ của họ là một điều khác biệt rất dễ thấy và thú vị đối với tôi. Trong lớp họ thoải mái đặt câu hỏi và có khi còn đùa giỡn với thầy. Giờ nghỉ họ đi với nhau, nói tiếng Anh ríu rít rồi cười vang. Họ vui nhộn, rộn ràng. Rất khác với đám sinh viên tị nạn như chị em tôi.

Đám sinh viên thứ hai này ăn mặc đơn giản, thường ngồi im trong lớp. Ngoài giờ học, họ nói chuyện với nhau khẽ khàng, bằng tiếng Việt. Sự khiêm tốn gần như rụt rè đó lẽ ra sẽ làm họ chìm lỉm, nhưng sự thật thì không phải vậy. Người học sinh nổi tiếng, suốt hai năm đứng nhất trên "bảng vàng" với số điểm trung bình cao nhất trường là một trong ba anh em mới sang, đi học chung với nhau. Trong lớp, các sinh viên tị nạn hay đạt điểm tuyệt đối trong các bài thi. Tại Math Lab (Phòng Kèm Toán), những sinh viên tị nạn gốc Việt trong chương trình Work Study thường nổi tiếng là giảng bài dễ hiểu và "giải Toán như làm ảo thuật". Trong số đó, một vài người đã có trình độ cao từ Việt Nam, nhưng hầu hết thành tích của họ đến từ sự chăm chỉ và lòng quyết tâm.

Thời đó, ngoài giờ học, có một nơi tôi đến thường xuyên là tiệm Vinatrade, chuyên gởi đồ về Việt Nam. Lúc ấy việc chuyển tiền từ Mỹ về Việt Nam bị cấm tuyệt đối và những thùng quà này là để người thân đem ra chợ trời bán lấy tiền sinh sống. Mỗi cuối tuần tiệm này đông lắm. Những khách hàng ăn mặc sơ sài, nhiều người da còn chưa nhả hết sắc đen của nắng đảo tị nạn, hăng hái mua vải, dép nhựa, dầu gió xanh, viết Bic... rồi đóng thùng. Mọi người vừa mua sắm vừa chỉ vẽ cho nhau những mặt hàng đang có giá ở Việt Nam. Ở nơi đây tôi đã gặp nhiều bạn học, nhưng tất cả đều là người mới sang Mỹ. Và tôi đã khám phá ra sự khác nhau căn bản nhưng rất khó thấy giữa những sinh viên di tản và sinh viên vượt biên. Không phải là bề ngoài hay cách ăn nói, mà là sự vô tư của những người đến đã lâu bên cạnh sự đau đáu của người mới tới.

Người sang năm 1975 thường có gia đình đầy đủ, họ chỉ cần lo cho tương lai, việc giúp đỡ người thân còn ở lại là chuyện của cha mẹ, của người lớn trong nhà. Ngược lại, đa số sinh viên vượt biên là những thanh niên đến Mỹ một mình. Trách nhiệm, nỗi nhớ thương và lòng biết ơn gia đình đã làm cho họ chỉ chuyên chú vào hai việc: học giỏi để tiến thân và giúp gia đình còn ở lại. Họ im lặng học, cắm cúi học. Sau giờ học thì cần cù làm, chắt chiu gom góp gởi về Việt Nam.

Dù sao thì tuổi trẻ cũng hội nhập nhanh chóng và rất dễ gần nhau. Sau khi tôi từ giã ngôi trường College êm đềm, lên học ở Berkeley rồi ra đi làm, tôi không còn cảm thấy sự khác biệt giữa những người đến Mỹ vào những thời điểm khác nhau nữa. Lý do chính là khi đi làm, tiền bạc không còn là mối ưu tư, và, hơn nữa, gia đình cũng dần dần đoàn tụ.

*

Đã bốn mươi năm.
Thế hệ thứ ba của chúng tôi bây giờ đang vun xới cho thế hệ thứ tư. Cách đây không lâu, tôi dắt các con đi thăm đại học Berkeley.

Tới lúc đó tôi mới được nghe hướng dẫn viên kể về lịch sử của nhiều tòa nhà, và mới thấy rõ rằng ngày xưa tôi chỉ quanh quẩn ở một góc nhỏ trong trường. Ngày đó, Berkeley của tôi, cô sinh viên mới từ đảo tị nạn qua được hai năm, chỉ là những tòa nhà dạy các lớp kỹ thuật, thư viện, computer lab, và phòng thí nghiệm. Nhưng tôi vẫn không cảm thấy mất mát gì. Những tòa nhà cũ vẫn còn đây cho tôi thăm, dù đã hơn hai mươi năm. Và còn mọc lên những tòa nhà mới tinh, hừng hực kỹ thuật tân kỳ... Tất cả đều chào đón tôi trở lại và mở rộng cho bước chân những thế hệ sau khám phá và học hỏi.
Tuổi trẻ bao giờ cũng đẹp. Ước mơ tương lai lúc nào cũng cao. Bởi vì chúng vươn lên từ trên vai của thế hệ cha ông.

Bốn mươi năm qua, hai thế hệ đầu tiên của người Việt tị nạn đã hoàn thành nhiệm vụ đặt những viên gạch làm nền cho gia đình và cộng đồng. Và tôi lại phải tự nhắc - bốn mươi năm là thời gian dài lắm. Như những cây lúa đã dâng hết gạo cho đời, thế hệ trước tôi đã tới lúc đi vào giai đoạn cuối của hành trình.

Chúng tôi đã trở thành "tuyến đầu". Ở trong vị trí này, tôi mới thấm thía hành trình của những người đầu tiên chèo chống con thuyền Việt Nam tị nạn. Họ đã bên dắt cha mẹ, bên nách con thơ đến quê hương mới. Họ đã khai đường mở lối cho hôm nay, cho ngày mai. Họ đã cống hiến tất cả tuổi trẻ và sức lực bằng đầu óc, chân tay.

Sự ra đi của họ, đối với tôi, là kết thúc của cả một thời đại. Thời đại của mấy mươi năm chiến tranh đằng đẵng, của hai lần lìa bỏ quê hương, hai lần làm lại từ đầu. Thời đại của những người đóng và gởi những thùng đồ cứu đói đầu tiên về Việt Nam, những người đã đắp đập be bờ giữ  gìn nguồn cội Việt Nam cho tương lai gốc Việt ở khắp nơi trên thế giới.

"Bầy trẻ thơ" chúng tôi đã lớn trong sự cưu mang và hy sinh của họ. Tôi, và con cháu tôi, mang ơn họ.

Đời sống ở quê hương mới êm đềm và đầy đủ. Nhưng trong tôi vẫn thường xuyên dậy lên nỗi "ruột đau chín chiều"(4) khi nghĩ về quê cũ. Nhất là khi người thân yêu đã già. Nhìn họ và nghĩ đến lúc phải chia tay, tôi bâng khuâng như mất đi thêm một phần của quê hương

"Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi
có chút gì nghe rất thốn đau" (5)

Khôi An


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Sep/2022 lúc 8:56am

Chuyện bức tranh


…Và sau đây là chuyện về một bức tranh mang ý nghĩa nhân sinh thật đẹp.

Chuyện như sau: Có một người đàn ông say mê mỹ thuật. Ông ta say mê đến mức gần như sống vì niềm say mê của mình. Sưu tập tranh là mục tiêu cả đời của ông. Ông chăm chỉ làm việc, để dành tiền mua các tác phẩm hội họa của các họa sĩ nổi tiếng cho bộ sưu tập của mình.

Người đàn ông này đã góa vợ, chỉ có một người con trai duy nhất. Ông đã truyền lại cho con niềm say mê sưu tầm hội họa của mình. Người con trai đi theo con đường của ông làm ông rất mãn nguyện.

Một thời gian sau, đất nước bỗng có chiến tranh. Người con trai cùng với mọi thanh niên khác lên đường nhập ngũ. Và rồi…

Một hôm, người cha nhận được từ chiến trường một lá thư thông báo tin con ông mất tích khi làm nhiệm vụ. Ông đau khổ vô cùng. Ðiều gì đã xảy ra cho con ông, hiện giờ nó ra sao, nghĩ đến những chuyện không may khiến ông hoảng hốt, lo âu.

Vài tuần sau, ông nhận thêm một lá thư nữa. Lá thư này báo cho ông biết con ông đã hy sinh ngoài mặt trận. Ông buông rơi lá thư, chết lặng nửa người. Khó khăn lắm ông mới đọc tiếp được. Thư nói rằng con ông đã rút lui đến nơi an toàn. Nhưng anh ta đã quay trở lại chiến trường để cứu những đồng đội bị thương. Cho đến khi đưa được người cuối cùng về hậu cứ thì con ông trúng đạn và hy sinh.

Kể từ đó, người cha im lặng khép kín. Lễ Giáng Sinh tưng bừng khắp mọi nơi, ông vẫn ngồi yên trong nhà buồn bã. Ông không thể nào hình dung được một Giáng Sinh mà thiếu mất người con trai của ông. Ông đang ở trong nhà thì có tiếng chuông gọi cửa. Ðứng trước cửa nhà là một chàng trai tay xách một túi hành trang lớn.

Chàng trai nói “Thưa bác, bác không biết cháu, nhưng cháu là người cuối cùng con bác đã cứu trước khi anh ấy hy sinh. Cháu không có của cải tài sản, nên không biết lấy gì để đền đáp điều mà con bác đã làm cho cháu. Cháu được anh ấy cho biết rằng bác thích sưu tầm tranh, và dù cho không phải là họa sĩ, cháu cũng đem hết tâm hồn vẽ một bức chân dung con trai bác để tặng bác. Cháu mong bác vui lòng nhận.”

Người cha đem bức tranh vào nhà, mở ra. Tháo bức tranh giá trị nhất vẫn treo trên lò sưởi xuống, ông thay vào đó bằng bức chân dung người con. Mắt đầy lệ, ông nói với chàng trai “Ðây là bức tranh giá trị nhất. Nó quý hơn tất cả những bức tranh mà ta có trong căn nhà này.»

Chàng%20trai%209x%20vẽ%20chân%20dung%20bằng%20bút%20bi%20như%20người%20thật

Chàng trai ở lại với người cha qua lễ Giáng Sinh rồi hai người chia tay. Sau vài năm, người cha lâm bệnh nặng. Tin ông qua đời lan truyền đi rất xa. Mọi người đều háo hức muốn tham gia cuộc bán đấu giá những tác phẩm nghệ thuật mà người cha đã sưu tầm được qua suốt một đời. Cuối cùng thì buổi bán đấu giá cũng được công bố vào ngày Noel năm đó. Các nhà sưu tầm và đại diện các viện bảo tàng đều có mặt trong tòa nhà. Mở đầu buổi bán đấu giá, người điều khiển đứng lên nói “Tôi xin cám ơn mọi người đã đến đông đủ ngày hôm nay. Bức tranh đầu tiên sẽ là bức chân dung này…”

Có người la lên, “Ðó chỉ là chân dung người con trai của ông già! Sao chúng ta không bắt đầu bằng những bức danh họa khác?”

Người điều khiển nói “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng bức này trước!”

Ðoạn, người điều khiển bắt đầu «Ai bằng lòng mua với giá $100?»

Không ai trả lời nên ông ta lại tiếp “Ai mua với giá $50?”

Cũng không có ai trả lời nên ông ta lại hỏi “Có ai mua với giá $40?”

Vẫn không ai lên tiếng. Người điều khiển lại hỏi “Không ai muốn trả giá cho bức tranh này sao?” Một người đàn ông già đứng lên: “Anh có thể bán cho tôi với giá $10 không? Anh thấy đấy, $10 là tất cả những gì tôi có. Tôi là hàng xóm của ông cụ và tôi biết thằng bé đó. Tôi đã thấy thằng bé lớn lên và tôi thật sự yêu quý nó. Tôi rất muốn có bức chân dung của nó. Vậy anh bằng lòng bán cho tôi nhé?”

Người điều khiển hô to: «$10 lần thứ nhất, lần thứ hai, bán!»

Tiếng ồn ào vui mừng nổi lên và mọi người nói với nhau, “Chúng ta có thể bắt đầu thật sự được rồi!” Người điều khiển tuyên bố: “Xin cảm ơn mọi người đã đến. Thật là vinh hạnh khi có mặt những vị khách quý ở đây. Bữa nay chúng ta dừng tại đây!”

Ðám đông ồn ào nổi giận «Anh nói là hết đấu giá à? Anh vẫn chưa đấu giá toàn bộ các tác phẩm nổi tiếng kia mà?» Người điều khiển nói: «Tôi xin lỗi nhưng buổi bán đấu giá đã chấm dứt. Xin mọi người hãy nghe chúc thư của ông cụ để lại: “Người nào lấy bức chân dung con tôi sẽ được tất cả những bức tranh còn lại! Và đó là lời nói cuối cùng của chủ nhân những bức tranh này!”»

                                                                                                                         Như Sao

                                                                                                                         (theo A Taste of Chicken Soup for the Soul)



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Sep/2022 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Sep/2022 lúc 8:28am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Sep/2022 lúc 5:55am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Sep/2022 lúc 8:24am

HÃY YÊU THƯƠNG SẺ CHIA KHI CÒN CÓ THỂ   <<<<<


The%20Best%20Fall%20Foliage%20in%20the%20USA



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Sep/2022 lúc 8:27am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 135 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.414 seconds.