Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: VÔ NGÃ Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Chủ đề: VÔ NGÃ
    Gởi ngày: 11/Nov/2007 lúc 1:22pm
Xin giới thiệu bài viết của một cựu học sinh Trung Học Gò Công khóa 23- Gốc người Tân Phước

 

BIỂN CỦA MUÔN ĐỜI

 

1

 

            Biển không bao giờ già.

            Nó vẫn xanh một màu vời vợi như thuở nào. Nó ngắm nhìn bờ cát trắng, nhìn những doi đất, nhìn những núi non, đồng lúa, vườn cây. Chỉ vì nó vấn vương chốn ấy xưa là đáy biển, xưa là của nó. Nó vẫn thường vuốt ve những miền thân thương cũ. Đôi khi nó trở nên trái tính trái nết, hằn học với bờ. Đó là những ngày bão. Sau đấy, nó ân hận, rầm rì những lời xin lỗi. Nó dịu dàng, lăn tăn tiến vào bờ cát trắng ngập nắng. Tiếng rì rầm của nó lan sâu vào đất liền, đọng lại trên những vách đá, những cánh rừng, những ngọn đồi nhấp nhô như bát úp, đọng lại cả trên những cánh võng ru con, gieo vào lòng lũ trẻ nhiều nỗi nhớ nhung mãi đến khi thành người lớn.

 

2

 

            Mỗi khi chàng nhớ biển, chàng lại nhớ nàng, nhớ về ngôi chùa lẻ loi bên một lối mòn. Chùa trông ra biển. Biển bát ngát đổi màu theo từng ngày. Còn lối mòn kia đã biết bao lần kéo chân chàng và nàng chạy ùa về phía biển. Cái chùa ấy, với khoảng sân nhỏ lát gạch tàu, có những gốc sứ cùi cổ thụ. Dưới bóng râm mát ấy, một hôm, nàng nâng cuốn truyện Kiều ngang trán, lâm râm khấn và bóc được hai câu mà khi đọc xong, mắt nàng rân rấn nước.

“Ma đưa lối, quỷ đưa đường

Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”

            Nghĩa là chia lìa ư? Nghĩa là xa cách ư? Em bắt lại câu khác xem. Chàng không tin. Nàng lại khấn rồi giở sách. Lần này cũng chẳng khá gì hơn, chẳng qua nói rõ thêm đoạn kết của cuộc chia ly.

“Tấc gang động khóa nguồn phong

Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra”

            Trời ơi! Người xưa quay về động tiên tìm vợ thì động tiên bí lối. Người và tiên từ đấy cách xa nhau mãi mãi, mà cái cách xa ấy chỉ trong gang tấc mơ hồ!

            Sao thế? Chàng bực bội. Nàng buồn rười rượi. Anh không tin. Anh không tin. Mắt nàng long lanh ngấn lệ. Em cũng cố để không tin.

            Tiếng chuông chùa gõ vào không gian một nhát mạnh. Không gian như một cái chuông pha lê mỏng manh, vỡ ra hàng tỷ mảnh âm thanh bay lả tả khắp nơi. Từng mảnh nhỏ bám vào mái ngói chùa âm dương cổ kính. Một đám âm thanh khác rung dài trên mặt sóng biển biếc xanh. Vài mảnh ghim vào lòng hai người đau nhói.

            “Tiếng chuông rơi vào hư không âm thanh thế nào?” Nàng hỏi.

            “Giọt nước mắt rơi vào hư không hình hài ra sao?” Nàng lại hỏi.

            Chàng và nàng lặng im, theo lối mòn, ra biển. Hai cái bóng trầm ngâm trườn trên bãi cát. Chàng nhìn rõ bóng nàng. Vai nàng mỏng mảnh, gầy yếu làm sao! Chàng nhìn ra biển, nhìn thấy rõ đường cong cong ở chân trời, hướng đông.

            Nàng thì thầm:“Nếu chúng ta ra biển, và đi mãi về đông, ta sẽ đến đâu?”

            “Đi mãi ư? Đi mãi, đi mãi, anh sẽ đi cả chu vi quả Đất. Đi mãi, anh lại về đây, về bên em đây.” Chàng đáp.

            “Thật không?”

            “Thật.” Chàng khẳng định.

 

3

 

            Đường đời nhiều ngã. Vậy mà có một ngã vô tình chen vào giữa chàng và nàng. “Ma đưa lối, quỷ đưa đường…” Và chàng đã lạc ở trời Tây. Chàng cũng không hiểu vì sao mình lại làm theo câu Kiều thứ nhất một cách ngoan ngoãn thế.

            Những ước vọng phía trước lôi chàng cắm đầu chạy theo. Một cuộc sống bận rộn ngổn ngang vật chất. Chàng sống mà không kịp thở nữa. Ăn sáng trong khi lái xe. Uống cà phê trên xe. Điện thoại cho bạn bè mà tay kia vẫn ôm vô-lăng, lại còn tranh thủ nghe nhạc, học tiếng Anh trên xe. Sở làm - xe - trường Đại học - xe - nhà - xe - sở làm… Chàng lăn tròn mãi trong vòng tròn khép kín đó. Cái vòng tròn ấy gói chàng lại như một vỏ ốc. Vỏ ốc đó ngày càng dày, ngày càng cứng và khô sạn như đá. Rồi chàng trở thành bác sĩ phẫu thuật, thành đạt ở xứ người và … đã quên mất nàng. Vỏ ốc của chàng ngày càng vững chãi. Chàng quên nàng đúng mười bốn năm! Cho đến một ngày, vỏ ốc đó vỡ tan nát thành ngàn mảnh vụn.

            Cái tên chàng gắn với một tai nạn ô tô khủng khiếp. Xe chàng lăn xuống vực sâu. Không hiểu năng lực huyền bí nào đã kéo nổi chàng ra khỏi cõi chết. Gãy tám xương sườn, vỡ vụn xương hàm dưới, mặt mày bị cày nát, khuôn mặt chàng bị biến dạng hoàn toàn. Chàng không có khuôn mặt người nữa! “Còn lòng ta, có còn là người nữa không?”

            Chàng quay về ngôi nhà nghỉ hoang vắng trên biển của mình, vùng Florida. Chàng chẳng làm gì, chỉ dạo quanh nhà, vườn cây, rồi ra biển. Có khi chàng ở trên bãi cát gần hết đêm. Sau mười bốn năm xa quê, chàng bỗng nhớ nhiều về nàng. Chàng hiểu ra những “chốn đoạn trường” trong câu Kiều xưa rõ ràng hơn, sâu lắng hơn.

            Rồi chàng phải trải qua hàng chục cuộc phẫu thuật lớn nhỏ. Đó là cái giá để đổi lấy một khuôn mặt người. Một khuôn mặt lạ hoắc! Mặt của kẻ khác!

            Sau biến cố đó, chàng theo học phẫu thuật thẩm mỹ. Bốn năm sau chàng trở thành chuyên gia về hàm - mặt. Để trả ơn cho khuôn mặt mình, chàng đã sửa sang hàng ngàn khuôn mặt khác.

            Một hôm, chàng theo bạn bè rủ đến một trung tâm thiền ở Boston. Ở đó, chàng không học thêm gì cho cái tâm vô minh của mình. Duy chỉ có tiếng chuông, tiếng chuông của thuở nào đã vang lên trong lòng chàng. Tiếng chuông đẩy chàng về Việt Nam, theo đoàn phẫu thuật vá hàm ếch từ thiện cho trẻ em.

 

4

 

            Nàng cùng biển xanh, cát trắng và nắng gió ở lại nơi xưa. Ngày ngày, nàng đến ngôi trường nhỏ dạy các em bi bô tiếng Mẹ, dạy các em yêu thương biển, yêu thương cát, yêu thương nắng gió. Nàng cười với những cụ bà, cụ ông mặt răn reo như những bức tượng tạc vào thời gian. Nàng vui với lưới, với ghe thuyền, với cá. Nàng thở mùi lúa chín, trông theo những cánh chim biển chới với trong giông bão. Nàng đỏ hoe mắt cùng với những người dân quê nghèo trông ngóng những con thuyền chưa về bến trong những ngày biển cả hằn học với đất liền. Ngày rằm, mồng một, nàng lên chùa, ngôi chùa nhỏ ngày xưa nơi nàng đã rơi rớt hai câu Kiều định mệnh. Nàng tan biến người trong tiếng chuông rồi bay vào hư không. Nàng bay trên những câu Kiều xưa. Và chỉ trong hư không tĩnh lặng ấy, nàng mới được gặp chàng. Rồi nàng khóc, những giọt nước mắt rơi vào hư không. Bấy giờ nàng mới biết những giọt nước mắt rơi vào hư không hình hài ra sao. Nó như một dung dịch hòa tan cả thể xác lẫn tâm hồn nàng, biến tất cả thành hư không.

            Năm này tiếp năm kia, chúng lũ lượt chạy qua trước mắt nàng. Có lúc chúng tạm dừng lại, ngoái nhìn nàng, dò hỏi. Thời gian đứng về phía mẹ, dò hỏi nàng. Rồi chồng nàng, một anh giáo dạy chung, hiện ra như một câu trả lời. Chỉ chờ có vậy, mẹ nàng an lòng tạm biệt về lại hư vô.

            Những tưởng đời nàng mỏng đi một chút ưu phiền, nào ngờ thời gian và anh chồng kia tô thêm lên đó một lớp dày cơ cực và hàng đống gánh nặng. Nàng thui thủi nuôi hai đứa con gái nhỏ. Nàng đơn độc trong cuộc mưu sinh. Nàng lẻ loi trong mơ ước. Anh chồng kia đã hóa thành con người khác. Anh bận bịu lang thang bên những bàn rượu. Anh bỏ mình vào chai rượu, đóng nút chặt, cấm nàng xâm phạm, rồi lắc mạnh để tạo nên giông tố trong đó. Mỗi lần anh thoát khỏi nút chai ấy, anh lại lôi nàng và các con ra khỏi êm đềm, ném họ vào chán chường, vào uất ức, vào đắng cay.

            Có nhiều đêm, mấy mẹ con chạy ào ra biển. Biển đêm lấp lánh ánh đèn câu mực ngoài khơi. Biển ôm cả ba mẹ con vào lòng, vỗ về, an ủi họ. Những giọt nước mắt lớn nhỏ không đều rơi xuống đại dương, lóng lánh trong ánh trăng non. Những đêm mưa lớn, dầm mình trong nước biển, nàng muốn lặn luôn xuống cõi vĩnh hằng. Biển từ chối. Biển xô nàng vào bờ. Rồi cả biển, cả mưa hét vào tai nàng tên hai đứa nhỏ. Chúng còn nhỏ lắm, biết không? Biển mơn man tóc nàng, má nàng, xóa sạch những dòng nước mắt. Mưa vội tạnh để họ còn dò dẫm đường về nhà. Tiếng rì rầm của biển dẫn dắt họ đi, dìu họ lên tấm phản nhỏ xíu, và theo cả vào trong giấc ngủ, ngăn họ cách xa những cơn ác mộng.

            Có một đêm, con bé lớn đau bụng, vùng bên phải. Nàng sợ con bị viêm ruột thừa. Hai mẹ con đèo luôn cả con bé nhỏ, dù nó không bệnh, trên chiếc xe Honda cà tàng vượt qua nhiều đồi, nhiều dốc đến trạm xá xã. Cô y sĩ bảo theo dõi thêm vì các dấu hiệu chưa rõ ràng lắm. Giữa đêm, con bé hết đau, nàng xin họ về nhà vì sáng hôm sau còn phải đi gác thi. Ba người đàn bà và một chiếc xe cà tàng, lầm lũi đi trong đêm, về nhà. Ghé phố chợ đìu hiu trong đêm khuya, nàng gọi cho các con hai tô cháo lòng nhỏ, còn mình thì không. Nàng không thấy đói, chỉ thấy buồn. Giờ này có lẽ chồng nàng đang nằm chò co ở nhà, say mèm như chết. Chắc anh đang mơ về những miền xa xôi, nơi đó không có buồn phiền, không có thất bại, không có đố kỵ hay ghen tuông. Một chiếc xe cải tiến thường dùng để chở củi rừng ghé vào. Cả một đoàn vua, quan, quân lính với áo mão cân đai ùa vào quán. Họ mặc đồ của ngàn xưa! À, thì ra họ là một gánh hát nhỏ vừa đi diễn về. Vua ngồi đối diện nàng. Anh ta chưa yên chỗ thì đã giật mình vì anh lính đứng kế bên sai bảo: “Ê mày, với tay lấy đưa tao cái ghế!” Vua lẹ lẹ đưa cho tên lính cái ghế, như sợ hắn phật ý. Nhìn cảnh đó, nàng bật cười. Trên sân khấu, vua có quyền uy tối thượng, nắm quyền sinh sát trong tay nhưng bước khỏi sân khấu, vua cũng chỉ là một đứa em nhỏ, bị thằng anh sai vặt. Các khổ đau nàng đang nếm trải rồi sẽ có một ngày bước khỏi sân khấu. Một tiếng chuông ngân vang trong lòng nàng. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm. Hư không và tĩnh lặng về lại bên nàng, ngay nơi này đây chứ không cần tìm kiếm xa xôi. Nàng cảm nhận rằng mình là một chi tiết, một phần nhỏ của cộng đồng này, của vùng đất này. Yêu thương chợt ùa về như con sóng lớn. Các con nàng đang nháy mắt trêu chọc gã vua kia, khi chúng nhìn thấy lớp phấn son trôi theo những hạt mồ hôi trào lên vì tô cháo nóng hổi. Nàng thấy mình yêu thương tất cả. Nàng thấy mình mạnh thêm lên.

 

5

 

            Nàng gặp lại chàng tại Sài Gòn.

            Trong lớp nàng dạy có một cháu bé sứt môi, cha mẹ rất nghèo, không ai biết Sài Gòn là gì, không thể tự dẫn con đi để tham gia vào cuộc phẫu thuật nhân đạo, miễn phí đang tổ chức ở bệnh viện X tại thành phố, nên nàng phải đèo nó đi. Gửi hai đứa con gái ở nhà bà ngoại, gần chợ Phan Thiết, hai cô trò lên chiếc xe cà tàng của nàng chạy vào Sài Gòn. Giữa mùa mưa, những cơn mưa bất chợt chụp lên đầu hai người. Từ khuya, họ đã đi. Hai trăm cây số đường trường với người phụ nữ khá là khó khăn, nhưng với nàng thì không. Nàng đã chịu khổ nhão nhề rồi. Họ đến Sài Gòn rất sớm.

            Đó là ngày giải quyết các cas cuối cùng đã đăng ký.

            Ba ngày trước, chàng cùng các đồng nghiệp người Mỹ đã giải quyết hơn hai trăm cas sứt môi, hở hàm ếch. Công việc nhiều, mệt, nhưng chàng vui. Chàng cũng đang trông ngóng cho xong công việc, chiều đó sẽ vù về Phan Thiết, thăm lại nhà, thăm lại má giờ đã gầy yếu lắm rồi. Trong danh sách các trẻ em được phẫu thuật, chàng cứ cắm cúi tìm các địa chỉ Phan Thiết quê chàng. Đã hai ngày qua chàng không thấy. Mãi đến ngày cuối, chàng phát hiện được một. Bỗng nhiên, trái tim chàng đập rộn ràng kỳ lạ. Chàng nghĩ đến nàng. Chỉ nghĩ thôi.         

            Tên đứa bé học trò nàng được xướng lên.

            Từ hàng ghế ngồi đợi ở hàng lang, nàng nhìn thấy chàng, nhưng không nhận ra, vì khuôn mặt khác hẳn. Còn dáng dấp kia, mái tóc kia, cả cách đi đứng, nàng thấy quen lắm, quen kỳ lạ. Nàng bần thần hồi lâu. Có một tiếng chuông rạn vỡ, ngân nga trong lòng nàng. Phải chàng không? Phải chàng đấy không? Tim nàng đập mạnh. Đã lâu lắm rồi, tim nàng mới lại đập hoảng loạn như thế. Nó bồi hồi, nó hồi hộp, nó tái tê. Không, không, cả cái giọng này cũng khác nữa mà. Giọng chàng trầm ấm hơn, lôi cuốn hơn, chứ không dứt khoát, đanh gọn như người đàn ông này.

            Tên đứa bé được xướng lên lần thứ hai.

            Hai cô cháu sực tỉnh “Có”, rồi đứng dậy, tách khỏi đám đông. Chàng nhìn nàng, mắt dại đi, bàn tay buông rơi tờ giấy danh sách. Có ai đó cúi xuống lượm nó, dúi vào tay chàng. Chàng cầm hững hờ, vô hồn tờ giấy trong tay.

            Nàng đó! Nàng đứng trước chàng bằng xương bằng thịt, trong tay dắt một đứa bé sứt môi.

            “Con của em… à không, con của cô à?”

        “Không, đây là học trò tôi…”.

            Chàng nói một câu tiếng Anh với đồng sự. Anh chàng người Mỹ kia gật đầu, tiếp nhận thằng bé, bắt đầu khám.

            Chàng hổn hển nói với nàng.

      “Em… à cô có thể ra kia nói chuyện với tôi một chút không?”

      “Dạ được.”

            Họ đi ra sân bệnh viện, bước trên con đường lát hắc ín màu đen đọng vài vũng nước mưa. Con đường rắc đầy hoa phượng đỏ.

      “Em không nhận ra anh sao?”

      “Anh… là ai nhỉ?”

      “Nếu chúng ta đi ra biển và đi mãi về đông, ta sẽ đến đâu? - Rồi chàng lặng lẽ nói tiếp - Đi mãi, đi mãi anh sẽ đi cả chu vi quả Đất. Đi mãi, anh lại về đây, đứng cạnh em đây”.

            Cả hai cùng đứng lại. Nàng nhìn chàng trân trối. Nước mắt nàng trào ra tự lúc nào không biết. Khỏi phải tả, họ hấp tấp, bối rối, giành giật nhau để nói, để cười, để khóc. Hai mươi năm rồi họ mới gặp nhau. Hai mươi năm, ai trong họ cũng răm rắp làm theo câu Kiều bắt được hồi xưa, trong sân chùa. Hai mươi năm, tiếng chuông rạn vỡ không gian ấy vẫn ngân trong lòng họ tươi như mới. Nàng nghe hết về đời chàng. Chàng nghe hết về đời nàng. Hai người quên cả xung quanh. Họ quên mất là họ đã đứng nói chuyện suốt ba giờ đồng hồ bên cạnh cái ghế đá dưới chân gốc phượng vĩ. Ba giờ thật ngắn ngủi. Nó ngắn như một đời người.

 

6

 

            Chiều hôm đó, chàng tạm chia tay với đồng nghiệp. Chàng thuê một chiếc taxi và một mình về Phan Thiết.

            Chiều hôm đó, đi sau chàng chừng vài tiếng đồng hồ, nàng cũng về Phan Thiết, trên chiếc xe Honda cà tàng của mình, cùng đứa học trò nhỏ đã phẫu thuật xong.

            Núi đồi hiện ra chào đón chàng. Những rừng cao su dài, đứng ngay hàng thẳng lối như muốn bước ra đường chào chàng. Những dốc nâng chàng lên cao rồi lại hạ chàng xuống chân dốc. Quê hương nhích gần lại phía chàng. Chàng đã chuẩn bị về quê hương cả tháng rồi, vậy mà nay vẫn thấy nôn nao lạ lùng. Và kia, biển cả hiện ra với những đợt sóng trắng xóa. Chàng có thể già đi. Nàng có thể già đi. Nhưng biển cả thì vẫn thế, không bao giờ già.

“Tấc gang động khóa nguồn phong”

            Cả câu Kiều này vẫn đang đúng đấy thôi. Một bức tường vô hình nhưng chắc chắn đã hiện ra giữa chàng và nàng. Họ cách nhau gang tấc mà xa nhau nghìn trùng.

            Trời nắng nóng kinh khủng. Chàng bảo xe dừng, rồi bước ra ngoài. Nàng nói đúng: “Anh nhớ uống nhiều nước, nhớ mang theo nhiều nước suối. Mới về, sợ anh không quen.” Chàng uống nước ừng ực và thấy mắt mình cay. Nắng kia có tha cho nàng và thằng bé học trò đâu. Họ có được uống nước nhiều như chàng không?

            Xe lại đi. Biển thoắt ẩn, thoắt hiện sau những đỉnh núi. Mây đen ở đâu chợt ùn ùn kéo đến. Và mưa. Mưa đổ xuống cũng hung hãn không kém gì nắng. Mưa tuôn xối xả trên cửa kính. Cái gạt nước cuống quít xoa vội trên kính chỉ đủ thấy con đường mờ mờ trước mặt.          

            “Chỉ cần em hiện diện một chút nào đó trong hồn anh, em đã thấy hạnh phúc lắm rồi. Đời em khó riết, em quen rồi. Anh sung sướng, em sung sướng lây. Anh vui nghe, anh khỏe nghe, vì em!…”

            Chàng mong mưa vơi dần đi. Chàng mong mưa đừng làm ướt vai nàng nữa. Cái đỉnh núi đội mây trắng như quàng khăn nhẹ nhõm thanh thoát. Mưa nguôi dần, nguôi dần, như thể chiều theo ý chàng. Chàng thở nhẹ, ngoái nhìn kính sau xe. Con đường hiện ra rõ dần, rõ dần. Chàng lờ mờ hình dung nàng và thằng bé trên chiếc xe cà tàng vượt qua nắng gió, vượt qua mưa dông nhẹ nhõm.

            Có một tiếng chuông ngân từ nơi nào vẳng lại. Chàng ngã người ra sau ghế, lắng nghe tiếng chuông đang len vào người, hòa tan chàng ra từng mảnh nhỏ. “Bình an em nhé!” Chàng nhủ thầm rồi thiếp đi.

 

                        Tháng 06/2007

                          NGÃ

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
trankimbau
Moderator Group
Moderator Group


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 424
Quote trankimbau Replybullet Gởi ngày: 13/Nov/2007 lúc 10:33am
 
 
      Hay và buồn.
 
      Truyện rất đời, rất người.
kb
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 01/Dec/2007 lúc 3:48pm

MƠ VỀ NƠI XA

                    Tặng HT

            Ngô đồng nhất diệp lạc

            Thiên hạ cộng tri thu

                      (Cổ thi)

1

 

            Hai chúng tôi như hai con cá bơi mỏi mệt trong đại dương của mình, không ai trong chúng tôi còn thấy được cái thú vị cùng nước biển mặn, cái trong trẻo du dương của làn nước trong, cái lãng mạn của những rạn san hô...

            ...Và rồi bão tố đến.

            Sự hung hãn của cơn bão đã ném chúng tôi lên bãi cát, trộn chúng tôi với mớ rác rưởi của nền văn minh. Chúng tôi giẫy đành đạch trên đó. Chúng tôi tình cờ gặp nhau lúc đang ngơi ngớp những hơi thở sau cùng, khi chúng tôi sắp qua hẳn thế giới khác, sắp từ giã những khổ đau thường ngày của mình, chúng tôi mới được biết nhau, mới được biết đại dương chán phèo của chúng tôi mới tuyệt làm sao! Một con sóng lớn lại tràn vào bờ và lôi chúng tôi trở về với biển.

            Hai con cá đó vẫn tiếp tục sống! Nhưng giữa biển sâu ấy, chúng tôi đã lạc nhau mỗi người một nẻo, chắc là vĩnh viễn, chắc là thiên thu...

 

2

 

            Đó là một buổi chiều đầu thu. Sân bay Tân Sơn Nhất đón một gã tóc tai rũ rượi. Hành lý đơn sơ gồm một samsonite đen và một bọc thuốc tây Phenobarbital hai mươi hộp. Lượng thuốc hắn cầm trên tay đủ giết chết mười chín người cộng thêm hắn. Một điện thoại đeo lòng thòng trên cổ, trĩu nặng những tin nhắn hăm dọa đuổi việc, lời xin tiền của đứa em còn đang dở dang đại học. Hắn lừ đừ tiến vào sảnh chờ, gồm những hàng ghế xanh xanh, đỏ đỏ đang kín người. Hắn tìm thấy hai cái ghế trống. Hắn ngồi phịch xuống một cái và hành lý kèm theo cũng ngồi một ghế. Hắn ngã người ra sau, nhắm nghiền mắt.

            Gã đó là tôi.

            Tôi, ba mươi ba tuổi. Tôi đã có đủ tất cả những gì mà những kẻ ba mươi tuổi phải mơ ước. Bác sĩ, trưởng phòng kinh doanh một công ty dược đa quốc gia. Một bản lương đỉnh. Một căn hộ riêng ở Nam Sài Gòn. Một giấy ly hôn trong túi. Một đe dọa bị đuổi việc chắc chắn sẽ hiện ra dưới ánh mặt trời.

            Chiều thu đó, tôi phải đi Hà Nội giải quyết chuyện tồn đọng tại chi nhánh phía Bắc của công ty. Chiều đó có thể là chuyến đi cuối cùng đến Hà Nội. Chiều đó có thể người ta gặp một gã hành khách một đi không trở lại.

            Điện thoại reo. Tôi cóc cần. Tôi cứ cố nhắm mắt. Một cảm giác kỳ lạ xộc vào óc tôi. Có ai đó đang cần mình, chứ không phải cái gã trưởng văn phòng đại diện đáng ghét của tôi, một người chỉ biết có con số và doanh thu. Có ai đó đang cần mình...

            Tôi mở mắt ra. Đúng thật, bạn tôi.

            - Gì thế ông?

            - Tôi buồn quá ông ơi. Chắc tôi chết quá! Mình ghé Lion uống vài cốc bia Đức đi ông.

            - Ôi trời ơi, tôi kẹt đi Hà Nội. Đang ở phi trường. Sắp bay rồi.

            - Ông là lời từ chối thứ chín tôi nhận được buổi chiều nay. Rồi tôi sẽ chết thiệt cho ông xem...

            - Giỡn chơi hoài cha nội. Tôi còn buồn hơn anh nữa. Giá mà tôi không bay, tôi sẽ uống với anh tới sáng. Tôi cũng đang muốn chết đây...

            Đầu dây bên kia là tín hiệu tắt máy. Nó đều đều như một tiếng thở dài.

Tôi cũng thở dài, nhìn xung quanh vô cảm. Tôi thấy những bóng mờ người khác di chuyển quanh tôi. Tôi thấy sân bay đang nhộn nhịp những máy bay về cảng. “Rồi tôi chết thiệt cho ông xem...” Câu nói của bạn tôi đọng lại trong đầu như một vũng nước có formol, làm tê buốt hồn tôi.

            Anh ta là một sĩ quan công an cấp tá, Phó phòng hình sự, khoảng ngoài bốn mươi, kèm theo là một bản thành tích dài dằng dặc những chiến công phòng chống tội phạm, từ bọn cướp của giết người đến phường buôn ma túy tầm cỡ quốc gia. Anh ta cũng tham gia làm kinh tế, hùn hạp nuôi cá da trơn gì đó, hiện tại cũng gặp khó khăn về tiền nong. Nhưng chẳng lẽ anh ta cũng bế tắc như tôi sao mà đòi chết? Tôi cười.

            Con người phong trần, anh hùng và lịch lãm đó làm sao mà chết được? Cái thằng đáng chết là tôi. Và tôi đang mang một thứ hung khí dễ chịu là hai mươi hộp thuốc Phenobarbital kia, chỉ cần một hộp... 

            Tôi mở cặp lấy ra tờ tạp chí. Tiếng loa phóng thanh oang oang giọng nữ báo hiệu chuyến bay sắp tới. Một thứ tiếng Anh khá chuẩn. Tôi lẩm bẩm và cúi nhìn vào cô gái mặc cái áo đầm đỏ có đôi chân trắng mịn trong tạp chí. Nàng đẹp quá, nhưng sao đôi mắt lại buồn rười rượi thế kia? Đã lên trang bìa, đã được xử lý kỹ nhưng tôi vẫn còn thấy dấu vết liêu xiêu của thời gian ở rìa ngoài đuôi mắt, vẫn còn thấy bóng dáng nỗi buồn ở gần xương chính mũi. Sao cô buồn vậy, cô gái?

            - Xin lỗi anh...

            Tôi nghe một giọng nữ Hà Nội ngay bên tai mình. Tôi ngẩng mặt lên và rùng mình. Nàng đứng đó, cô gái mặc áo đầm đỏ trong tạp chí. Cô gái có đôi chân dài trắng mịn. Cô gái có đôi mắt buồn buồn. Trời ơi, cứ như thể nàng từ tạp chí bước ra đứng trước mặt tôi!

            - Cô... tôi... Tôi ấp úng.

            - Em có thể ngồi ghế này được không ạ?

            - Xin mời..., xin mời... Cô cứ tự nhiên.

            Tôi luống cuống xách bọc thuốc và cái cặp lên, nhường chỗ cho cô gái. Rồi bọc thuốc rơi xuống đất, các hộp thuốc rơi vãi ra. Tôi quì xuống lượm vội mấy hộp. Một ý nghĩ thoáng qua làm tôi choáng. Trời ơi, mới gặp nàng mà tôi đã quì sụp xuống rồi. Tôi nhớ tới Dotoievski (1) và tự hài lòng “Ta không quì trước em đâu, ta đang quì trước nỗi đau của nhân loại”. Nàng cũng quì xuống lượm giúp thuốc cho vào bọc.

            - Thuốc hở anh?

            - Ờ, phải. Thuốc ngủ...

            Tôi thấy mình hớ, vội đứng lên, ngượng nghịu. Tôi ngồi vào ghế, cả cô cũng vậy. Tôi cố nhắm mắt lại, định thần. Khi mở bừng mắt ra, tôi nhìn thẳng vào nàng. Nàng chỉ giống thôi chứ không phải cô gái trong tạp chí ấy đâu.

            - Anh có bán thuốc sao? Nàng hỏi.

            - Không. Đây là hàng mẫu Echantillion cho chi nhánh phía Bắc.

            Chỉ thế thôi rồi chúng tôi im lặng. Chúng tôi bắt đầu trò chơi mới: nghe trộm điện thoại của nhau. Đầu tiên là nàng:

            ... “Đơn từ ly hôn tôi đã ký xong hết cả. Tài sản đó anh cứ dùng, đừng nghĩ đến chia chác làm gì. Tôi về Hà Nội đây. Anh cứ bảo tòa xử ly hôn vắng mặt tôi. Xin anh đừng mò ra Hà Nội nữa. Bố mẹ tôi sẽ không nghe anh đâu...” Và nàng ôm mặt khóc. Cái điện thoại vứt lên bọc thuốc ngủ của tôi.

            Tôi bối rối móc đưa nàng cái khăn giấy. Đôi mắt đẫm lệ của nàng nói lời cảm ơn. Không, đôi mắt ấy thì không sai đôi mắt cô gái trong tạp chí chút nào. Đẹp và buồn thăm thẳm!

            Đến lượt điện thoại tôi reo. Lại cái gã Trưởng phòng đại diện. Tôi nói nhiều và ngày càng to tiếng...

            ... “Anh không phải nhắc. Đi Hà Nội về tôi cũng nghỉ. Trời ơi, số lượng tiêu thụ như thế thì tôi chỉ còn nước ép kẻ khác mua, uống tự tử hàng loạt... Được rồi... được rồi... Người đầu tiên sử dụng lô hàng này để chết là tôi, là tôi đây! Anh hài lòng chưa?...”

            Tín hiệu điện thoại tắt ngấm. Lần này, nó không giống tiếng thở dài mà giống như những tiếng súng nổ từng phát một.

            Đột nhiên chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng. Nàng bối rối cúi xuống, với tay lấy lại cái điện thoại trên bọc thuốc. Bàn tay trắng muốt kia như chạm nhẹ vào hộp thuốc, ve vuốt. “Anh có bán thuốc sao?” Lúc nãy nàng hỏi thế. Vậy là nàng cũng... Nàng ngước nhìn lên, hỏi tôi:

            - Anh cũng bay chuyến Hà Nội 16h30 phải không?  

            Tôi vẫn nhìn bàn tay nàng mân mê hộp thuốc, trả lời trong vô thức:

            - Ừ, tôi cũng bay chuyến ấy. Và không, thuốc này không dành cho em.

            Có tiếng loa mời chúng tôi lên máy bay. Nàng đứng dậy trước, xiêm y bừng đỏ. Đoạn, nàng nắm lấy tay tôi.

            - Mình đi đi anh!

 

3

 

            Như một số phận, chúng tôi được xếp cùng hàng trên máy bay; mỗi người trấn giữ một cửa sổ. Chen giữa chúng tôi là những bốn hành khách khác, mỏi mệt ngả người ra sau thiêm thiếp ngủ sau khi đã cài seatbelt. Tôi lại có cảm giác trên máy bay mọi người đều đã ngủ, mọi người bỏ mặc chúng tôi. Tôi nhìn qua nàng, băn khoăn tự hỏi nàng đang Đi hay Về. Nàng trông sang tôi, ánh mắt dò hỏi. Những cái cười mỉm gởi cho nhau đính kèm theo những tiếng thở dài, tôi đoán thế. Rồi nàng khóc, khóc nữa. Tôi nhìn nàng, khẽ lắc đầu biểu lộ không đồng tình. Nàng như hiểu, nín khóc, quay nhìn ra cửa sổ.

            Cửa sổ chỗ tôi ngồi đón nắng hướng Tây. Trời chiều, nắng chói lóa vào mắt tôi. Hình như ở tầng cao này nắng non hơn, trong hơn, sáng hơn. Những đám mây trắng tẩm nắng sáng bừng lên. Chúng không hình thù, không trọng lượng, thảnh thơi mà hiện hữu. Chúng hờ hững với hoàng hôn sắp đến. Ờ nhỉ, ở tầng cao này thì làm gì có hoàng hôn...

            Tôi nghĩ về anh bạn thiếu tá của tôi, không biết anh ấy có làm sao không. “Rồi tôi chết thiệt cho ông xem”. Bạn ơi xin đừng chết. Đừng nghe bạn! Bạn vẫn còn tôi đây mà. Tôi đưa mắt nhìn sang nàng. Tôi biết nàng cũng đang cần những hộp thuốc ngủ của tôi. Nhưng em ơi, phía trước là bầu trời, cuộc đời dài lắm. Em ngủ đi, Hà Nội sẽ đón em bình yên như chưa từng có bão tố xảy ra. Ngủ đi em, mộng bình thường...

 

4

 

            Sân bay Nội Bài cũng bận rộn không kém gì Tân Sơn Nhất. Nàng đi gần tôi, song song. Nàng đòi xách hộ bọc thuốc. Tôi cương quyết lắc đầu.

            - Có ai đón em về Hà Nội không? Nàng lắc đầu nhìn về hư vô. Nàng chực khóc.

            - Bố mẹ em chẳng biết em về Hà Nội đâu... Vả lại, vả lại... em chả còn đồng nào gọi taxi. Anh cho em đi nhờ với.

            Taxi đến, chúng tôi ngồi cạnh nhau trên ghế sau.

            - Anh và chị về đâu? Tài xế hỏi. Tôi đưa mắt nhìn nàng.

            - Hà Nội. Nàng chỉ trả lời có thế.

            Con đường từ Nội Bài về Hà Nội theo tôi là con đường tuyệt đẹp. Xe cộ chạy vun vút. Tôi bảo anh lái xe bấm cửa kính xuống để gió lộng ùa vào. Tóc nàng ôm lấy mặt tôi, một mùi hương nồng nàn. Trời tối hẳn, chúng tôi im lặng nhìn vào những ánh đèn loang loáng. Sau này tôi tiếc là sao mình lại im lặng lâu thế, đến tên nàng tôi cũng không biết, chỗ ở bố mẹ nàng cũng không. Lúc ấy, tôi như tên lính chỉ biết tuân theo lệnh “Về Hà Nội”, thế thôi. Sắp đến Hà Nội, sông Hồng kia rồi, xe đi lên cầu. Tôi bảo tài xế dừng lại. Như có cái gì thôi thúc, tôi ra khỏi xe, đứng trên cầu lồng lộng gió. Tôi ném bọc thuốc xuống dòng sông đen thẫm. Một vệt trắng đầy độc chất biến hẳn trong màn đêm. Xe lại lăn bánh. Hà Nội chào chúng tôi bằng vẻ thanh bình của nó. Phố xá sáng trưng, những dòng người hối hả. Người ta sung sướng đi với nhau. Người ta âu yếm hôn nhau trong công viên. Những quả bóng bóng màu...

            - Anh ở khách sạn nào?

            - Lakeside.

            - Tối nay, khoảng 8 giờ, anh rảnh không? (Sao nàng biết chữ rảnh nhỉ?) 

            - Rảnh. Chỉ định uống với anh bạn bên bệnh viện.

            - Tám giờ em đợi anh ở sảnh khách sạn nhé. Cho em đi với!

            - Ừ.

            - Thôi em xuống xe ở đây.

            Xe dừng lại. Cái áo đỏ thanh mảnh bước xuống. Nàng đưa tay bắt tay tôi.

            - Tám giờ em đến.

            Xe lại đi. Tôi bần thần mở lại máy điện thoại, gọi cho anh bạn khổ đau của tôi. “... xin quý khách vui lòng gọi lại sau”. Bạn tôi chán đời lắm rồi ư? Sao anh tắt máy?

 

5

 

            Tất cả mọi việc đã đổi hướng hết trong lịch làm việc của tôi tối hôm đó. Lakeside là một khách sạn đẹp trông xuống hồ, một cái hồ rất rộng. Hà Nội rực rỡ đèn hoa, lấp lánh bên ngoài cửa sổ.

            Nàng đến đột ngột và tôi đã đổi thay. Sẽ không còn văn phòng đại diện phía Bắc nào hết. Sẽ không còn doanh thu doanh số. Sẽ không còn Phenobarbital (Thứ hung khí! Thứ mà tôi đã ném xuống sông Hồng lúc nãy). Tôi sẽ nghỉ việc ở công ty. Tôi sẽ quay về một bệnh viện công nào đó để làm việc. Tôi sẽ bỏ lời hò hét của gã sếp tôi sau lưng.

            Tôi gọi điện cho Lâm. Lâm mừng quá. Lâm OK liên tục, ừ tám giờ, ừ tám giờ, ở sảnh Lakeside...

            Lâm làm ngoại khoa. Anh mổ xẻ nhiều, lâm sàng rất giỏi. Phải cái tội ngông. Lâm ngông dễ thương, ăn nói hiền hòa. Một người mơ mộng xem tiền như rác. Với anh ta chỉ có “đêm thấy ta là thác đổ”. Và cái “quán cóc liêu xiêu một câu thơ” là nơi anh thích lui tới. Rượu uống mềm môi. Coi mọi quan hệ xã hội là tạm bợ, là mong manh. Có lẽ vì thế mà cô vợ anh không chịu nổi, cứ dọa ly dị suốt. Gần đây cô ấy đi Tây học tiến sĩ gì đó. Nạn nhân của cặp trai gái trí thức đó là một bé gái mới lên ba. Tôi từng nghe Lâm kể trong nước mắt. Bé gái con Lâm đứng trong góc nhà tròn mắt nhìn ba mẹ cãi nhau. Họ chỉ kịp dừng lại khi nó vừa khóc, vừa hát: “Ba thương con vì con giống mẹ. Mẹ thương con vì con giống ba”. Giờ đây, vợ đi rồi, theo chí hướng. Con bé thì gởi bà ngoại. Lâm trở nên độc thân, chỉ chờ bạn rủ là bù khú. Chưa lần nào ra Hà Nội mà tôi tránh được Lâm. Lâm hay bảo: “Nếu người ta bắn vào bạn mũi tên của THẤY chắc thương tích sẽ không thâm sâu bằng mũi tên của CẢM”.

            Đứng trong tia nước ấm áp từ vòi sen, tôi vuốt mắt nhớ lại lời Lâm. Ừ, thế chiều nay mình đã bị mũi tên nào bắn trúng, mũi tên của CẢM hay của THẤY?

            Tôi nhớ đến nàng và chậc lưỡi. Tám giờ... em sẽ không đến đâu! Chuyện hồi chiều chắc là một màn kịch đóng khéo. Tôi chưa mất tiền trên xe taxi là may mắn lắm! Ngờ vực bám vào ta như con đỉa hút máu!

 

6

 

            Tám giờ tôi bước xuống sảnh đợi của khách sạn. Tôi muốn ngã quỵ xuống khi trông thấy nàng xinh tươi trong chiếc áo pull trắng, quần jean xanh bó sát những đường cong kỳ diệu của mình. Trời ơi, đây là lần thứ hai tôi lại quỳ nữa, trước nàng! Kế bên là anh chàng ốm nhách, Lâm bạn tôi. Cả hai đều cười, cùng đứng dậy, tiến về phía tôi. Và Lâm là người sững lại trước. Anh cứ ngỡ chỉ mình anh, tại khách sạn này, là đợi tôi.

            Tôi bắt tay nàng, rồi bắt tay Lâm. Tôi định giới thiệu nàng.

            - Đây là ...

            Nhưng tôi có biết tên nàng đâu! 

            Lâm gạt phắt:

            - Thôi, mất thì giờ. Xe tôi đậu ngay cửa. Các vị lên ngay cho. Đến quán “liêu xiêu” rồi giới thiệu cũng chả muộn.

            Cả hai chúng tôi cùng cười, cùng gật đầu đồng ý. Cái đồng ý ngu xuẩn! Vì lúc đó tôi đâu biết rằng chẳng còn cơ hội nào để biết về nhau.

 

7

 

            Lâm bước xuống xe, đi vòng ra trước, lượm một chiếc lá vàng trên kính ôtô. Anh cho chiếc lá vàng vào túi nhẹ nhàng, cẩn trọng như sợ nó rệu rã trong tay. Anh bước vào quán với dáng vẻ nghệ sĩ, tóc lòa xòa phủ mặt, hơn là một bác sĩ phẫu thuật.  

            Cái quán “liêu xiêu” của Lâm! Đó là ngôi biệt thự cổ kính đứng giữa những bức tường phủ  rêu xanh, một thứ nước sơn vĩnh cửu. Cái biển hiệu be bé làm bằng gỗ đứng lẻ loi trên đồi cỏ trước quán: “Ba cây thông”. Gió mạnh, lá đổ như mưa từ những cây hoàng lan trong sân. Lâm ơi, lá rơi nhiều quá, tha hồ mà lượm. “Ba cây thông” trên đồi cô độc. Ba cây thông là ba chúng ta phải không Lâm?

            ... Chỉ trong phút chốc, cái khoảng sân lót gạch tàu đỏ rực trước quán rắc đầy lá vàng.

            - Sao ông không nhặt lá nữa?

            - Không, cái lá tôi nhặt là chiếc lá thu đầu tiên rụng xuống đời đấy. Lâm khẳng định chắc nịch bằng cái giọng dễ thương của anh.

            Hà Nội ồn ào và bận bịu tạm đứng ngoài cửa kính. Chúng tôi chọn một cái bàn gần góc nhà. Ánh sáng dìu dịu. Tiếng dương cầm đong đưa. Các bức tranh của Phái hiện ra như thật, như mơ trên tường.

            Hay đấy Lâm, chỗ này hay lắm! Chỉ một vách kính thôi đã chia đời thành hai thế giới: ngoài kia là thật, còn mơ thì trốn trong này.

            - Tay chủ quán này đi Đông Âu về, khá lắm. Lâm nói. Hắn mở quán này được ba năm, vợ hắn tôi mổ viêm ruột thừa, nên quen...

            Bia được bày ra, chúng tôi nâng cốc. Tôi ngạc nhiên nhìn nàng. Nàng uống ừng ực một hơi hết sạch ly, ngon như chưa bao giờ được uống.       

            - Ông đọc “Chiếc lá cuối cùng” của O’Henry (2) chưa? Lâm hỏi. Hay tuyệt đúng không?

             Rồi anh chậm rãi móc từ trong túi ra chiếc lá vàng lượm ngoài sân quán.

            - Còn đây, tôi đã bảo ông là chiếc lá đầu tiên, chiếc lá đầu tiên báo mùa thu tới.

            “Ngô đồng nhất diệp lạc

            Thiên hạ cộng tri thu”

            Thơ cổ đấy. Một chiếc lá rơi như một tin báo cho thiên hạ biết là đã thu rồi. Hay chưa ông? Ấy là tôi dịch theo ý tôi!

            Lâm cười ha hả, vô tư. Cái ngông của anh bừng lên trên khuôn mặt.

            Nàng ngước nhìn Lâm rồi nhìn tôi sững sờ. Có lẽ nàng chưa từng gặp ai điên như chúng tôi.

            - Anh Lâm nói hay quá!

            Rồi nàng lại nâng cốc bia lên. Ngắm nàng, tôi tự hỏi có phải nàng đang nốc bia không, hay thứ nước màu vàng kia đang nuốt chửng lấy nàng. Chỉ biết là em ngày càng rực rỡ hơn. Tôi không còn nhận ra cô gái trong tạp chí ban chiều nữa.

            Đột nhiên em ghé vào tai tôi, không rõ nói hay hôn tôi nữa. Một vùng năng lượng ấm áp đang dựa vào tôi và phát ra âm thanh.

            - Em thích quá...

            Nhìn chúng tôi, Lâm cười độ lượng. Lâm tất nhiên không hiểu việc gì đã xảy ra với chúng tôi.

            - Tôi sẽ bỏ cái công ty dược đa quốc gia chết tiệt của tôi - Tôi nói. Chắc tôi sẽ quay về bệnh viện như ông thôi Lâm à.

            - Tôi đoán là ông sẽ đi tới bước đó. Trời ơi, thuốc độc mà bắt ông tăng doanh số thì tăng bằng cách nào? Xúi người ta tự tử à?

            Hai chúng tôi cùng giật bắn người như bị ai bắn tên. Tôi nhìn nàng, nàng cười, nói nhỏ:

            - Lúc chiều, em cũng định...

            - Anh hiểu, tôi thở dài. Và vì vậy mà bọc thuốc mới bay xuống sông Hồng.

            Lúc này, không phải chỉ Hà Nội mới đứng ngoài kia chờ chúng tôi mà cả thế gian này cũng vậy. Chúng tôi quên hết sự đời, quên hết bao đớn đau, phiền muộn. Sự đơn độc của chúng tôi bị xé tan thành trăm mảnh.

            Chúng tôi chìm vào trong bia, chìm vào trong tiếng dương cầm đê mê mà người nghệ sĩ là “giảng viên trường quốc gia âm nhạc chính gốc” đang chơi.

            - Tôi thích nhân vật Bụt trong truyện cổ tích ta. Cái nhân vật chỉ biết nói một câu độc nhất vô nhị. Đó là cái câu mà chúng ta rất ít nói ở đời này. Khi ai đó đau khổ, chúng ta thường không “hiện lên” và hỏi “Vì sao bạn khóc?” Chỉ có Bụt thôi. Chỉ có ai biết yêu thương và chia sẻ mới nói được câu ấy. Tôi đã từng bảo ông THẤY không thâm sâu bằng CẢM, đúng không? Từ CẢM đến yêu và chia sẻ còn xa lắm. Vậy mà chỉ THẤY thôi, chúng ta đã không làm...

            Bụt hiện lên ư? Có đấy Lâm. Anh là Bụt của chúng tôi đấy. Chỉ mới chiều nay thôi, tôi cứ ngỡ thuốc độc là Bụt của tôi, là Bụt của nàng.

            Nàng nhìn ly bia sóng sánh bọt, mắt thẫn thờ. Nước mắt nàng trào ra nhưng nàng tươi tắn hơn trước nhiều, lôi cuốn hơn, sống động hơn. Trên tường, tranh của Phái hình như sáng hơn, rõ hơn. Và tiếng dương cầm hình như trong hơn, thánh thót hơn, trong như tiếng nàng thầm thì bên tai.

            - Anh chính là Bụt của em!       

            - Không đâu. Em và Lâm đều là Bụt của anh. Thank for life! (3)

            Lâm lại cười hiền hậu, giọng anh trầm xuống độc thoại.

            - Ông Bụt ấy có quyền lực và có yêu thương. Ta không là Bụt nên ta không có hai thứ đó. Ta càng có nhiều quyền lực hình như ta càng ít yêu thương. Vợ muốn chứng tỏ quyền lực với chồng. Cha mẹ muốn đè quyền lực lên con cái. Thầy thuốc với bệnh nhân... Ít ai chịu chứng tỏ rằng mình còn biết yêu thương.

            Lâm đột nhiên buồn xo như muốn khóc. Anh đang nhớ cô vợ đi tây học tiến sĩ? Hay Lâm đang nhớ về bé gái đứng ở góc tường, vừa khóc, vừa hát khi bố mẹ cãi nhau: “Ba thương con vì con giống mẹ. Mẹ thương con vì...”

            Tôi cũng muốn khóc. Phải rồi Lâm ơi. Ai trong chúng ta cũng phải tìm Bụt giữa đời này. TÌM có nghĩa là THẤY, phải không Lâm?

            Nàng đứng dậy, chồm qua bàn, nói với Lâm:

            - Cho em xin chiếc lá vàng kia.

            Đoạn, nàng nâng nó lên, gói trong một khăn giấy mềm màu trắng. Rồi nàng cho nó vào bóp trịnh trọng, nhẹ nhàng, cẩn thận.

 

8

 

            Đêm đó, ba chúng tôi uống rất nhiều. Tôi cũng chả nhớ Lâm đưa tôi và nàng về khách sạn lúc mấy giờ, chắc là khuya lắm. Mỗi khi nhớ về khung cảnh ấy, trước mắt tôi luôn là làn khói sương mơ hồ. Trong đó, nàng hiện ra trắng ngần, nồng ấm, thiết tha. Chúng tôi chết lịm trong nhau...

            Rồi nàng bay đi, như làn khói trắng nhập vào trong tạp chí. Nàng lặng lẽ ra đi không động phạm đến giấc mơ của tôi. Khi tôi choàng tỉnh, lúc ấy khoảng 6 giờ sáng. Tôi huơ tay khắp giường. Nàng đi thật rồi, chỉ có mùi hương nàng để lại trên gối. Hình như có cả những giọt nước mắt. Trên bàn là một phong thư trắng in logo của khách sạn. Tôi mở phong thư. Trong đó, chiếc lá vàng của Lâm vẫn nép mình trong mảnh khăn giấy trắng. Tờ giấy nhỏ chỉ ghi vội mấy chữ “Thank for life”.

            Tôi nhìn sang tờ tạp chí. Nàng vẫn ở đó hư hư, thực thực. 

            Điện thoại báo tin nhắn. Đèn màn hình bật sáng. “Anh Hai đi rồi! Tự sát K54”. Anh bạn thiếu tá của tôi đã tự sát? Trời ơi, tin nhắn này là mơ hay thật? Tôi cuống quýt điện về cơ quan anh. Thông tin được xác nhận một cách bình tĩnh và lạnh lùng. “Anh thu xếp về tiễn anh ấy, ngày mai động quan...”.

            “Rồi tôi chết thiệt cho ông xem...”

            “Rồi tôi chết thiệt cho ông xem...”

            Hình như có một âm thanh rất lớn nổ tung trong đầu tôi. Tôi không đứng nổi nữa mà quỵ xuống.

            Tôi quỳ và khóc cho bạn tôi. Bụt đã không đến bên anh.

 

9

 

            Máy bay cất cánh. Tôi lại ngồi bên cửa sổ, nhìn Hà Nội nhỏ dần trong khói mây. Đầu tôi nhẹ tênh tênh. Tôi thầm mong đây chỉ là một giấc mơ. Rồi tôi sẽ tỉnh giấc mà phát hiện ra rằng tôi chưa đi Hà Nội chiều thu ấy, tôi chưa gặp nàng và gặp Lâm, tôi chưa nhận được cái tin chết chóc ấy.

            Nhưng hỡi ôi! Tôi đang ép mình mơ một giấc mơ mới đấy thôi!

 

                        Tháng 05/2007

                        NGÃ

 

 

 

(1)  Dotoievski: Tác giả “Tội ác và hình phạt” (Tiểu thuyết)

(2)  O’ Henry: Tác giả “Chiếc lá cuối cùng” (Truyện ngắn)

(3)  Thank for life!: Cảm ơn cuộc sống!

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2008 lúc 7:02pm
ĐI VỀ NHỮNG RẠNG ĐÔNG

I

           - Sao ba hay la rầy anh em mình vậy anh hai?
    - Tại anh em mình hay la cà, đi chơi nhiều quá. Cả cái chợ này hầu như ai cũng biết mặt anh em mình.
    - Và biết mặt chiếc xe đạp của mình nữa, anh hai hén!
    - Ừ. Anh hai kể tiếp chuyện con sâu xanh nghen! Nó to bằng ngón út này nè. Thằng bé đưa ngón út lên cho em nó xem. Hai con mắt sâu lộ ra làm như ngộ lắm khi nó lần đầu gặp anh.
    - Nó ở đâu anh hai?
    - Nó ở trong bó cải trên xe đẩy của mẹ í. Em biết mà. Hồi trước chân mẹ chưa đau, mẹ hay đẩy xe rau cải đi bán khắp xóm làng này. Anh còn nhỏ. Mẹ chất anh ngồi chung với rau cải luôn. Anh có vài món đồ chơi cũ, mẹ lượm được. Chơi riết cũng chán. Anh thích ngó mấy con sâu trong rau cải hơn.    
    - Lúc đó em ở đâu, sao em không biết anh hai?
    - Em hả? Em còn ở trong bụng mẹ í. Mẹ chưa sanh em ra mà.
    - Em cũng không nhớù… Nhiều khi em cũng không tin mình lại ở vừa vặn trong bụng mẹ nữa.
    - Mà sao mẹ lại đau chân vậy anh hai? Con em hỏi.
    - Mẹ bị tai nạn, xe đụng đó. Lúc đó anh đang ngủ trên xe. Mẹ đậy cái nón lá lên che nắng cho anh. Anh giựt mình nghe tiếng đụng xe. Chiếc xe loạng choạng lủi xuống bờ ao bên đường. Còn mẹ thì văng qua một bên, không đứng dậy được nữa. Bà con chạy túa ra, bồng anh lên. Vậy mà anh không khóc đâu nghen! Mẹ bị gãy chân em à! Bà con đưa mẹ đi nhà thương. Họ chửi thằng cha đụng xe rồi bỏ chạy đó quá trời…
    - Mẹ có bầu em, rồi mẹ gãy chân. Vậy mà cũng sanh em ra được hả anh hai?  
    - Ừ, sanh được… Nhưng mà mẹ nằm một chỗ luôn. Chỉ còn mình ba đi làm thợ hồ. Ba phải nuôi cả nhà mình nên ba mệt, ba buồn, ba hay uống rượu và chửi mấy mẹ con mình.
     - Sao lại buồn hả anh hai? Nhà mình có ai làm gì cho ba buồn đâu?
    - Ờ … Thằng bé đưa tay gãi gãi mái tóc khét nắng của nó rồi tìm cách giải thích. Thì …ờ người lớn không được đi chơi như anh em mình nên dễ buồn lắm. Còn tụi mình… đi ra cầu sắt tắm sông nè. Tạt nước nhau rồi dòm thấy cầu vồng dưới ánh nắng… Mình thả con diều bay lên tới trời, rồi mình muốn bay theo nó luôn. Mình đổ nước vô hang chuột cho nó ngộp, nó bịt mũi chạy ra. Mình bay theo bầy đom đóm dưới những bụi cây. Chúng lấp lánh như những ngôi sao biết bay trong đêm. Mình đếm sao, đặt tên sao nè. Những ngôi sao có tên em, tên anh, tên ba, tên mẹ nè…
           - Hèn chi, con em chép miệng, ba buồn là phải. Nhưng em không thích ba la ó. Em thích mẹ hơn. Mẹ hay khóc và hay ôm tụi mình. Còn ba thì không.
    - Ba là đàn ông, làm vậy coi sao được! Em đừng có hỗn với ba như vậy nghen!
    - Vậy chớ anh hai có phải đàn ông hông? Phải chớ gì! Con chó bà Sáu bán cháo gầm gừ, ăn hiếp em, anh cũng nhào vô ôm em vậy?
    - Ờ… thì… ờ. Thì anh phải che chở cho em chớ. Để con chó làm dữ với anh bi nhiêu cũng được. Còn với em … là không được với anh đâu.
        Hai anh em nó lọc cọc đạp xe như thế, líu lo những câu chuyện như thế. Cả làng, cả chợ ở vùng biên giới heo hút này, mọi người đã quen mắt với cảnh ấy. Chúng đeo nhau như sam, đi đâu cũng không rời nhau. Dù chưa đi học chúng cũng ăn nói lễ phép đĩnh đạc. Thằng anh lên sáu, con em lên bốn. Bà con thương chúng, một thứ tình thương đơn sơ, như cây cối trong vườn nhà nhìn quen mắt, thiếu đi là không xong.
        Chúng đi về hướng quán cháo lòng của bà Sáu, nơi có con chó hay sủa nhặng lên khi gặp con em. Bọn chó thường vậy, ăn hiếp kẻ yếu hơn mình. Quán đang vắng. Vài bác xe đầu ngồi vắt vẻo trên xe chờ khách, tán chuyện tầm phào dưới gốc me.
         Bà Sáu đon đả với chúng.
    - Bà nhốt con chó ra sân sau rồi. Hai đứa ăn hai tô hả con?
    - Dạ một tô thôi, thằng anh nói, giọng dứt khoát. Cho em con. Con không đói.
    - Anh hai ăn luôn đi. Con em nói. Anh để dành một ngàn đó làm gì?
    - Để lát nữa cho em đi đu quay. Thằng anh nói mạnh nhưng mắt đưa đi chỗ khác, không dám dòm vô tô cháo bốc khói mê hoặc của con em. Nó sợ chảy nước miếng vì thèm. Thật lòng, nó đang đói. Nhưng thôi, nó lớn rồi, không cần lắm.
    Một thằng bé lấc cấc bước vào quán, ngồi phệt xuống, hất hàm với bà Sáu.
    - Bà Sáu! Cho tô cháo: nhiều cháo, nhiều lòng, nhiều giá sống!
          Bà vốn không ưa nó vì cái thói ăn cắp vặt và hỗn hào. Bà ném ra cho nó cái liếc xéo.
    - Rồi nhiều ớt không mậy?
    - Thôi khỏi, ít ớt nghen. Giỡn chút bà cũng giận.
    - Chà bữa nay có tiền sớm hén. Bà sáu cạnh khóe khi bưng tô cháo ra cho nó.
    - Tui có tiền, bà cứ bán. Nó cộc lốc. Bà móc họng tui hoài vậy?
    Bà Sáu gắt:
    - Mày nói chuyện kiểu đó tao vả rớt răng nghe mậy. Bộ có tiền rồi xấc láo với tao được hả?
    Thằng anh mỉm cười, nhìn mông lung qua sân chợ, nơi có đặt cái đu quay cũ mèm, chạy bằng máy dầu. Nó giục con em.
    - Em ăn lẹ đi, còn về mua rượu cho ba. Rề rà ba chửi cho coi. Với lại còn đi đu quay nữa đó em.
    - Anh hai ăn một muỗng cháo với em đi, cho em vui.
    - Thôi mà, anh không đói… Nó quay đi, nhìn cái gì cũng được, miễn không phải tô cháo. Nó thèm lắm.
    - Đi mà anh hai!
    - Một muỗng thôi nghe em. Chừng đó, nó mới dám nhìn vô tô cháo, nhìn con em đưa muỗng cháo vô tận miệng anh. Nó nuốt, nuốt thật mạnh những yêu thương của em nó. Trời ơi! Có cháo nào ngon như cháo ấy!
    Chúng lại đèo nhau trên xe.Trời chiều vàng nắng xiên xiên. Hai cái bóng bé xíu tòng teng trên xe đạp. Một chai rượu trắng lỏng thỏng treo phía trước. Nắng tóm lấy hết cả, ném bóng chúng lăn dài trên cánh đồng mượt xanh, loằng ngoằng những dấu chân của những cơn gió lớn. Con đường mấp mô đá hộc, đá tảng cố tình lắc lư những cái đầu bé nhỏ hòng làm vơi đi những mộng mơ trong đó. Kệ hết thảy, hai anh em vẫn hí hửng đi về phía cái mái ấm xác xơ trong mắt người đời.
    Vừa về tới nhà, chúng đã nghe ba chúng quát tháo. Anh Bảy thợ hồ, dân ở đây gọi ba chúng như vậy, đang đá văng một cái nồi nhôm lăn lông lốc trong sân.
    - Cả ba mẹ con tụi bây là một lũ báo cô. Tao không ngóc đầu lên được là vì tụi bây, vì tụi bây, biết chưa? Một lũ ăn hại. Trời ơi! Có ai biết làm ra tiền đâu! Chỉ một mình thằng bảy thợ hồ này…
    Mẹ chúng, người đàn bà bị liệt ở chân, ngồi co mình quẹt những giọt tủi nhục cứ trào ra trong mắt. Người họa sĩ sẽ không mất nhiều mực để ký họa hình hài ngôi nhà của chúng. Nó to hơn cái chòi giữ vịt ngoài đồng một chút. Nó rệu rạo đứng bên bờ mương, rón rén tựa lên những cây cột tràm xiêu vẹo.
    Hai anh em líu ríu đem nộp chai rượu cho ba nó rồi nín thở rút lui. Chúng lại tót lên xe đạp, chạy hướng ra khu chợ. Chẳng đứa nào muốn nhìn những giọt nước mắt vỡ ra trên mặt mẹ. Chẳng đứa nào muốn nghe những lời thóa mạ khoan xoáy vào đầu óc của ba chúng. Chúng lầm lũi chạy về cái đu quay đang bắt đầu rộn rã tiếng máy. Khi ấy màn đêm đang từ từ tiến tới, từ từ nuốt chửng lấy hoàng hôn.
    Thằng anh chép miệng.
    - Phải chi anh làm ra tiền phụ ba hén em! Anh làm ra tiền, ba mẹ đỡ cãi nhau. Anh làm ra tiền, em đi đu quay đã đời luôn, chớ không chỉ một vòng hết một ngàn này rồi thôi. Lần nào em đi xong đu quay, anh cũng thấy em bước xuống lựng sựng. Anh biết em còn thèm.
    - Vậy thôi, em không đi đu quay nữa, cho đỡ tốn tiền, cho anh hai được ăn tô cháo của bà Sáu…
    - Em nói bậy. Anh lớn rồi, phải có trách nhiệm chớ em. Em cứ đi đu quay. Anh thấy em cười em vui là anh dễ chịu liền hà. Buồn mấy cũng qua hết.
    Rồi nó nói thêm, như mơ.
    - Anh mà có tiền, anh cũng đi đu quay như em. Anh sẽ lựa con ngựa để cỡi chứ không lựa con nai như em đâu. Khi mình bay bổng trên đó, em có thấy kỳ kỳ trong mình không? Giống như… như mình biết bay lên trời vậy. Bay cao miết, cao miết tới những ông sao lóe sáng trên kia luôn. Giống như… như mình quên được buồn phiền vậy.
    - Khi cỡi con nai, em nhắm mắt lại, em tưởng em là ông già Nô-en, chở quà qua đồng tuyết thiệt lạnh, đem niềm vui đến cho các bạn khác cũng đang khổ như mình vậy.
    - Mình đâu có khổ em. Mình chỉ buồn chút vậy thôi, lát sau hết liền hà. Ừ, anh nghĩ ra cách kiếm tiền rồi. Bắt đầu từ mai, anh em mình đi lượm bịch nylon. Có một chỗ nhiều bọc lắm, em nhớ không?
    - Ở đâu vậy anh? Con em náo nức.
    - Chỗ bờ mương nhà máy xay lúa, gần cầu sắt đó, nhớ hôn? Mai mình đạp xe ra đó. Chỗ mình vẫn hay nhảy ùm xuống tắm sông đó! Chiều mai mình kiếm được chừng năm ngàn là ngon lành rồi.
    Thằng anh cười. Con em cười theo. Cả hai ngước mắt nhìn lên vòm trời đen thẫm, lấp lánh những vì sao mới mọc, như những đôi mắt cười tươi roi rói.

II

    Anh lái xe, băng băng lướt gió về hướng Tây. Hướng Tây! Ở đó có biên giới Việt Nam - Campuchia. Ở đó, bao tiền nặng chình chịch gồm hai trăm triệu kia sẽ được đổi thành vàng thẻ. Anh sẽ ôm đi tất, sẽ bỏ xe lại, sẽ lặng lẽ chuồn qua biên giới. Qua tới bờ bên kia, sẽ không còn ai biết anh là gã tài xế quèn, cướp tiền của công ty mà bỏ trốn nữa. Anh sẽ để cái kiếp mạt vận của mình lại bên này cùng với sự hững hờ của bao kẻ khác.
    Chân ga cứ đuổi theo ý nghĩ khiến xe lao đi với tốc độ kinh hồn. Máy lạnh chạy hết sức, phà ra hơi lạnh buốt. Anh chợt nghĩ đến một tai nạn. Ừ thì sẽ rắc rối với cảnh sát. Thì vở lỡ cái bao tiền hai trăm triệu trong cốp xe kia. Thì tan hoang cái kế hoạnh thơm mùi vàng kia. Thì anh lại đứng bên này biên giới và được cộng thêm tội, thành hai: cướp tiền rồi gây tai nạn, sướng chưa?
    Anh lái xe chậm lại, rồi thật chậm. Con đường nhựa trôi về hướng mặt trời lặn bỗng dài ườn ra, uể oải. Những ánh mắt xa lạ cứ chòng chọc nhìn vào xe anh. Những người Khơ-me đang lắc lư trên những chiếc xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống, những chiếc xe hai bánh ven đường, những chiếc xe ngựa lững thững chạy… Ai trên đó cũng ngoái nhìn vô xe anh. Sao họ biết chuyện gì đã xảy ra? Bao tiền sau cốp xe, biển số đã thay bằng biển số giả, mình đang lái xe rất cẩn thận… Có gì đâu! Nhưng họ cứ lom lom  nhìn.
    Anh thấy mồ hôi tươm ra. Nó lạnh hết vùng da đầu, nơi có cái mũ lưỡi trai kéo sụp xuống che bớt khuôn mặt vốn đã bị án ngữ bởi cặp kính đen nhưng nhức. Công ty đã biết chuyện và có người đang theo dõi mình! Đáng lý chạy về hướng đông thì mình lại chạy về hướng tây! Vô lý! Chở tiền về trễ là chuyện bình thường. Anh đã làm hàng chục lần rồi. Xe hư về trễ chẳng hạn, chỉ cần báo sếp một tiếng là xong. Kìa, anh đang vượt qua một khu chợ xã ven chân núi, lại thêm một rừng ánh mắt dõi theo xe!
    Mấy chiếc xe đổ ngược chiều với anh. Trên xe lốc nhốc khách du lịch đi mua sắm ở chợ biên giới về. Anh hiểu ra. Anh tự nhiên trở nên ngộ nghĩnh khi chạy về hướng đó mà xe lại trống trơn! Khả nghi chưa?
    Anh từ từ ghé xe vào một quán cóc ven đường, khúc đường vắng lưng chừng núi. Anh muốn uống một ly thốt nốt lạnh cho đỡ căng thẳng. Nếu được, anh sẽ chở thêm ai đó cho xe anh bớt lạ lùng trong mắt kẻ khác. Với lại ngồi nghỉ một chút cho nắng ngơi đi. Càng về tối, những tia nhìn như những họng súng kia sẽ càng hạ xuống. Khi trời tối hẳn, việc lẻn qua bên kia biên giới không còn mấy khó khăn.
    Một bà cụ, chừng bảy mươi, tóc lốm đốm bạc đang chăm chút cho mấy thúng xoài xanh bày bán trước cửa quán. Những trái xoài mới hái trong vườn nhà còn vương nhựa chia ly trên cuống. Không đẹp đẽ, không bắt mắt như quả trong siêu thị, vậy mà trái nào cũng được bà cụ nâng niu cẩn thận. Nhìn đôi bàn tay gầy, gân xanh nổi, vuốt ve từng trái một, anh có cảm giác bà đang nâng niu những đứa con, đứa cháu của mình. Không khen chê đứa nào cả. Chỉ có yêu thương!
    - Chú ăn thử coi, xoài ngọt lắm. “Thằng” bự này bày mâm cúng kiến được nè. “Thằng” nhỏ này… coi vậy chứ con nít rất mê.
    Anh bước vào quán, cười với bà cụ rồi kiếm một cái võng để ngã lưng. Quán vắng, võng văng ngổn ngang. Cả thảy chỉ có anh, bà cụ chủ quán và một bà già cùng cô cháu gái nhỏ ngồi đàng kia, hình như đang khóc. Anh đảo mắt ra cánh đồng thoai thoải phía sau quán. Vùng này nắng rát mặt. Đồng lúa đã gặt bày ra những chân gốc rạ cho nắng nung giòn. Những bờ thửa nhỏ xíu. Vài con bò lơ thơ trên đồng, vắt vẻo trên lưng chúng là lũ trẻ con người Khơ-me. Những hàng cây thốt nốt lá xòe ra hình rẽ quạt mọc thành từng cụm, nối tiếp nhau kéo dài về chân núi xa xa. Anh muốn nhắm mắt lại một chút, nhưng không xong. Cái bao tiền sau cốp xe kia lại lôi anh ngồi thẳng dậy để trả lời câu hỏi “đã khóa cửa xe kỹ chưa?” Anh đành phải dán mắt mình ra phía sau xe.
    - Cho con ly thốt nốt lạnh.
    Bà già đằng kia vẫn khóc. Cô cháu gái một tay ôm bị đồ, chắc là quần áo, một tay nắm một chùm mấy đòn bánh tét căng bóng da. Tự nhiên anh thấy dễ chịu vì không tìm ra mối đe dọa nào ở đây cả.
    Bà cụ bưng nước ra cho anh. Bà hỏi, làm anh chột dạ.
    - Xe chú về tới đâu lận? Còn chở ai nữa không?
    - Không, con đi một mình. Về chợ biên giới đón sếp con.
    - Chú chở thêm bà sui tui với nhỏ cháu đó được không? Bả khóc từ nãy giờ đó chú. Về đây ăn đám giỗ… giờ đón xe về khó quá.
    Anh nhìn họ. Không có gì đe dọa! Mặt họ hiền khô. Được đây. Anh nuốt ý nghĩ mình trộn với ngụm nước thốt nốt mát lạnh và thanh. Anh gật đầu.
    - Dạ được mà. Con lái xe một mình cũng buồn.
    Bà cụ chủ quán mừng ra mặt. Tia sáng hấp háy trong đôi mắt già nua. Bà quay lại với bà sui đang tấm tức rớt nước mắt đằng kia.
    - Thôi nín được rồi đó, bà sui ơi. Có chú em này cho bà cháu bà quá giang về nè. Chú cứ chở họ tới đâu tiện cho chú thì cứ thả họ xuống, lội bộ về cũng được. Có chú giúp là quý lắm rồi.
    Bà sui quẹt nước mắt, nấc lên thành tiếng. Bà ấm ức:
    - Tui đâu có sợ không có xe về. Tui với nhỏ cháu này đi bộ hai chục cây số, tới khuya về nhà cũng được. Tui khóc là vì tức vụ thằng Hải, thằng con nuôi của tui hồi thời chống Mỹ kìa… Bà nghe nó nói coi có ứa gan không? “Xe con chở tiền Nhà nước, không chở người lạ được”. Người lạ là tui nè bà, là má nó nè. Hồi trước sớm khuya gì nó bò vô nhà, tui đều nấu cơm cho nó ăn, che chở cho nó sống. Giờ nó coi má nó là người lạ. Tức chết vậy đó bà ơi…
    Bà chủ quán quay sang anh.
    - Chú hổng biết đâu, hồi nãy có xe của con nuôi bả ghé đây, cũng xe hơi như chú vậy. Nó giờ làm giám đốc giám xúi gì gì đó của nhà nước. Tui tưởng nó gặp bà này nó mừng, nó sẽ chở bả về luôn. Ai dè bây giờ người ta làm lớn, người ta quên phứt mấy bà già này hết trơn. Bả tức, ngồi khóc nãy giờ. Mà nghĩ cũng lạ, má má con con gì mà vô duyên quá!
    Lòng anh dịu hẳn, không e dè, không căng thẳng nữa. Anh lên tiếng.
    - Thì bác với cháu lên xe con. Cao hứng, anh nói thêm. Con chở bác về tận nhà luôn. Đây về biên giới đâu có xa gì mấy.
    Ừ, mà hứng gì? Mai đây anh sẽ bỏ xứ này đi luôn rồi. Làm một hai việc nghĩa với mấy bà già đôn hậu này cũng là phải thôi. Một thoáng, anh thấy bà sui hơi giống má mình.
    - Bác tính tiền cho cháu ly nước. Còn xoài của bác, chừng nào quay về, chạy ngang đây, con sẽ mua.
    Chừng nào mình mới quay về, mới chạy ngang đây hả trời? Anh hơi sựng, khi cái miệng vô tình phát ra những lời ấy, như đang gạt gẫm bà già.
    - Thôi khỏi tính tiền ly nước. Coi như tui đền ơn chú đưa bà sui tui về giùm vậy mà.
    Lòng anh nặng chình chịch, đứng lên khó khăn. Anh biết nó nặng vì anh đã mang bao tiền kia trong đầu, vào hẳn trong quán. Giá không có nó trong đầu, hay trong cốp xe, anh khỏe biết bao! Anh bâng khuâng nghĩ đến má anh, cũng giống như họ, suốt một đời nghèo khổ, đi đâu cũng lụy đò, lụy xe, ăn không dám vì tiền không kham nổi, uống cũng thôi vì sợ lỡ mắc tiểu dọc đường…
    Bà chủ quán lót tót xách bọc xoài chạy ra theo xe.
    - Biếu chú ăn lấy thảo. Khi quay về chú khỏi ghé mua mất công. Đem về cho mấy đứa nhỏ nó mừng.
    Anh từ chối. Họ dùng dằng qua lại cửa kính xe cái bọc xoài. Anh đã lớn phỗng lên trong vai ân nhân dưới con mắt những bà già chất phác này. Anh cảm thấy quê quê làm sao! Má anh lại hiện ra chập chờn, bên bọc xoài quê rẻ tiền kia.
    - Thôi chú mở cốp xe ra đi. Tui bỏ bọc xoài ra phía sau luôn cho.
    Anh lại một phen giật nẩy người. Anh chụp vội bọc xoài, đưa vào xe, chỗ băng ghế trước. Hai bà cháu có giang xe còn đang lóng ngóng không mở được cửa lên xe. Cả đời, có được đi cái xe đời mới như vầy hồi nào đâu mà biết. Anh với tay ra ghế sau mở cửa cho họ.
    - Con đi nghe bác. Cám ơn bác thật nhiều! Anh nói, cảm thấy lòng mình chùng xuống lạ thường.
    Ở hướng Tây, mặt trời xuống thấp dần. Nó to đùng ra, đứng choán hết con đường, sừng sững, sáng chói lóa. Anh đeo lại kính. Anh kéo sụp mũ xuống. Qua kính chiếu hậu, anh nhìn thấy hai khuôn mặt hiền hậu sáng ngời lên vì vui của hai bà cháu. Con bé vẫn ôm khư khư giỏ quần áo và mấy đòn bánh tét căng phồng. Nó lên tiếng.
    - Xe của chú có cái máy gì mát dữ vậy chú?
    Anh cười. Lần đầu tiên anh cười từ khi anh chở bao tiền nọ và chạy về phía hoàng hôn.

III

    Xe anh rẽ vào con đường mấp mô đầy đá tảng đá cục. Bà già và cô cháu gái nằng nặc đòi xuống, lội bộ thôi, vì xe chạy vô khó khăn lắm. Anh làm thinh, đưa họ về tận nhà, lòng đã quyết tâm làm việc nghĩa trước khi bỏ xứ này đi luôn. Con đường là một bờ đê cao, nổi hẳn trên cánh đồng lúa xanh rì. Một bên là con mương do xáng đào thẳng tắp. Chòm nhà dân lưa thưa phía xa xa như vài vệt màu nâu nâu chấm vội vàng trên nền bức tranh xanh vì lúa, xanh lơ vì nền trời phía trên. Đã thấy bóng khu chợ, một vệt màu xam xám dáng vẻ đậm đậm. Đã thấy cây cầu sắt nối con đường gồ ghề qua nhà máy xay lúa cũ kỹ vì khói bụi, mạng nhện, vỏ trấu.
    Một bé gái chừng bốn tuổi ngồi bệt trên lề cỏ khóc. Một chiếc xe đạp cũ kỹ nằm chỏng chơ kề bên. Nó có vẻ đang nhìn xuống dòng kênh mà la hét gì đó. Chừng nó nhận ra chiếc xe hơi đang chạy tới, nó vụt đứng lên, vẩy vẩy tay như cầu cứu. Những bàn tay nhỏ xíu phác lên trời những nét vẽ vô vọng.
    Bà già và đứa cháu gái trên xe chồm hẳn qua băng ghế trước. Bà nói:
    - Ai như con em, con nhà thằng Bảy thợ hồ. Ủa, sao lại đứng đây khóc vậy cà? Còn thằng anh nó đâu? Một mình nó làm sao chạy xe đạp ra tới đây được? Chú ngừng xe đi. Cho tui xuống đây được rồi.
    Anh dừng xe. Cả ba người cùng xuống xe. Họ đứng trên bờ đê lộng gió. Con em chạy ào tới, khóc thét lên, ôm lấy bà già.
    - Anh hai con… anh hai bị làm sao… chỗ cái máy bơm nước mà con kêu hoài không lên bà ơi.
    Anh nhìn xuống dòng kênh đang cạn nước. Bùn phơi ra vàng ánh đất phèn. Thằng anh đang té sấp, úp mặt xuống bùn. Cái kẹp sắt trên tay nó còn dính vào dây điện của máy bơm nước, dẫn nước vào nhà máy xay lúa. Tay kia còn nắm chặt cái túi nylon lổn nhổn bao bịch, hộp lon, chai lọ lượm được.
    - Trời ơi. Nó bị điện giật chết rồi!
    Anh kêu lên thảng thốt. Tiếng kêu bị gió cuốn đi ném ra giữa đồng. Bà già như không nghe thấy xăm xăm xắn quần lội xuống bùn. Anh gào lên trong gió lộng ầm ào.
    - Bác đừng xuống, đừng xuống! Trong dây còn điện đó!
    Cả ba bà cháu òa lên khóc. Gió như nổi lên mạnh hơn, cuồng loạn. Từng đợt, từng đợt gió tràn qua bờ đê, giẫm đạp lên cánh đồng xanh, đuổi nhau chạy về phía đông. Những mái tóc xanh và bạc bồng lên trong gió. Thằng anh vẫn nằm úp dưới bùn. Gió rào rào lùa qua mái tóc hoe hoe vì nắng của nó, những dấu chân trên bùn của nó, đọng nước, như những hốc mắt chứa đầy nước mắt.
    Anh sực tỉnh, chạy bộ về phía nhà máy xay lúa. Anh hô hoán lên và gọi họ cắt điện. Chỉ một thoáng, những bóng người rầm rập chạy túa ra, phủ kín bờ đê, tràn lên cầu sắt. Từ xa trông lại, chiếc xe hơi như con thuyền màu trắng đang nổi bồng bềnh trong đám đông, giữa bờ đê lởm chởm đá, giữa cánh đồng mênh mang.


*                 *
*

    Phải bốn tiếng đồng hồ sau, anh mới thoát ra khỏi những ngơ ngác và đau buồn của cuộc đời. Anh nhớ ra suốt cả ngày hôm nay, anh vẫn chưa ăn một tí gì. Anh thấy đói cồn cào và người cứ lửng lửng lơ lơ làm sao ấy! Đã chín giờ tối. Phố chợ thưa người, quạnh quẽ. Chỉ còn vài ánh đèn le lói đằng quán cháo của bà Sáu. Anh lái xe về hướng đó.
    Bà Sáu đón anh ngay cửa.
    - Để tui múc cháo cho chú ăn nghe! Chắc chú mệt dữ rồi.
    Anh thả người xuống ghế. Quán vắng, chỉ mình anh và bà Sáu.
    Đầu anh còn ong ong những khung cảnh, những âm thanh lộn xộn của buổi chiều. Anh ngán ngẩm nhớ lại lúc mình còn ngồi tại công an xã, với vai trò người làm chứng cho vụ tai nạn của thằng bé. Anh như còn nghe tiếng nói của Bảy thợ hồ, tiếng nói của người chủ nhà máy xay lúa.
    - Cái gì? Năm triệu hả? Nuôi thằng con tới đó… Dây điện nhà ông làm nó chết, ông trả tui năm triệu là xong hả? Ông có chút trách nhiệm nào không? Phải mười triệu, mười triệu mới được. Không thêm không bớt! Anh như còn ngửi được mùi rượu Bảy thợ hồ phả ra khi nói.
    Gã chủ nhà máy xay lúa sửng cồ:
    - Anh nói trách nhiệm hả? Anh là cha nó, anh đủ sức nuôi nó chưa? Nó phải bươn chải một mình. Nó phải đi kiếm tiền cho nó, cho em nó. Cả làng này đều biết vậy, còn anh thì không. Điện giựt là tai nạn, tui có muốn đâu? Trách nhiệm tui là năm triệu. Còn anh, là cha nó, trách nhiệm anh ở chỗ nào? Con anh, anh không giữ, để…
    Anh thấy mềm người ra khi nghe họ cãi. Rồi anh giật nảy mình khi nghe anh công an xã đập bàn, quát lớn:
    - Các ông im đi! Các ông đang trả giá trên xác đứa nhỏ đó hả? Các ông hèn lắm, không đáng mặt đàn ông! Thằng nhỏ mới là đàn ông!
    Người đàn ông bé nhỏ ấy, mình mẩy bê bết bùn đất, nằm trên băng ghế sau xe, được anh chở về nhà. Người đàn ông ấy đã im lặng trước tiếng khóc, tiếng kêu gào của bà mẹ bị tật ở chân. Người đàn ông ấy đã không chịu tỉnh lại khi con em lay gọi não nuột anh hai. Người đàn ông ấy đã nằm gọn trong cái hòm nhỏ xíu, dài hơn một thước tây chút ít. Người đàn ông ấy đã ra đi trong giấc mơ được bay trên cái đu quay cùng đứa em gái bé bỏng của nó…
    - Cháo nè chú. Bà Sáu nói. Chú ăn đi cho tỉnh tuồng.
    Một thằng bé lấc cấc bước vào quán cháo, ngồi ịch xuống, cất giọng:
    - Bà Sáu! Cho một tô nhiều cháo, nhiều thịt, nhiều giá sống… và ít ớt thôi nghen!
    Bà Sáu quay phắt sang nó, trừng mắt.
    - Bữa nay tao buồn nghe mậy. Giỡn hớt kiểu đó, tao vả rớt răng ráng chịu nghen!
    - Thôi mà bà Sáu, con có làm gì đâu… nó xui, nó chết. Với lại, thằng nhỏ đó có gì hay ho đâu mà ca tụng dữ vậy? Vừa nói nó vừa hất cái mặt kênh kênh của nó lên.
    Anh giật mình vì tiếng bà Sáu quát. Anh tưởng chừng bà Sáu đang chửi luôn anh.
    - Nó là thằng sống có trách nhiệm! Nó không hơn lũ ăn cắp tụi bây sao? Ăn cắp và hèn nhát. Có chuyện là bỏ giò chạy trốn. Tui bây có dám đứng lại mà chịu đựng như nó không?
    Thằng kia buồn thiu dứng dậy, bước ra khỏi quán lẩu bẩu cái miệng
    - Bà không bán cháo thì thôi. Mắc gì chửi tui!
    Anh nhìn ra cái đu quay bên sân chợ. Một bé gái lủi thủi đi chơi một mình. Tiếng bà Sáu văng vẳng trong đầu anh như những tiếng vọng dội ngược ra từ vách núi. “Có chuyện là chạy trốn. Tụi bây có dám đứng lại mà chịu đựng như nó không?” Anh nhìn sang chiếc xe đậu trước quán. Nó đang quay đầu về hướng Đông. Anh đứng dậy, bước ra, mở cốp xe. Bao tiền vẫn nằm đó, nhìn anh trong câm lặng. Anh mở ra, lấy một xấp chừng mười triệu rồi bước trở vô đưa cho bà Sáu.
    - Nhờ bác gởi chỗ này cho gia đình Bảy thợ hồ, nói con biếu.
    - Sao nhiều dữ vậy chú? Bà kêu lên.
    - Bác cứ cầm lấy, không sao đâu. Chỉ là cái tình của con người thôi mà… Bác tính tiền tô cháo.
    - Trời ơi, làm sao tính tiền của chú được? Chú chở xác thằng nhỏ về. Chú bị kẹt lu bu với công an không lo công chuyện của chú được. Chú còn cho tiền nhà nó. Bà con ở đây thương nó nhưng chưa ai giúp được nó như chú đâu. Tới tui đây còn nín thinh dòm nó kêu một tô cháo đặng để dành tiền cho em nó chơi đu quay. Giờ nhớ lại tui còn hối hận nè chú! Sao tui lại nín thinh mà không múc đại một tô tình nghĩa cho nó hả trời!
    Bà khóc, không thành tiếng. Trong ánh đèn yếu ớt, những giọt nước mắt lóe sáng như những ánh sao trên trời kia. Anh đứng dậy, bóp vai bà, chào từ biệt. Anh chúc bà ở lại mạnh giỏi rồi bước ra xe.
    Anh bỏ kính, bỏ mũ lưỡi trai xuống băng ghế trước phía bên kia, cạnh bọc xoài xanh và mấy đòn bánh tét của bà già có giang xe. “Thôi chú cho tui gởi tạm mấy đòn bánh này, bởi không có gì là phần của tui dành cho chú thì kỳ cục lắm!” Anh liếc nhìn cái mũ và cái kính đen. Trông chúng hèn hạ hơn những món quà quê ấy làm sao!
    Anh lái xe, chạy về hướng Đông. Giờ thì không còn trốn tránh ai hết. Anh sẽ quay lại công ty cùng với bao tiền mới mất có mười triệu kia thôi. Bấm kính cửa xuống, anh nghe làn gió mát rượi sực mùi cây cỏ tràn vào. Anh mở máy nghe nhạc. Một khúc nhạc Trịnh. Anh khe khẽ hát theo.
    … “Xin chờ những rạng đông
               Đời sao im vắng
                Như đồng lúa gặt xong”…
    Anh nhìn theo đèn xe đang phóng dài qua những hẻm núi. Anh mỉm cười với chính anh. Anh đang lái xe đi về những rạng đông.
                                Tháng 01.2008
                                    VÔ NGÃ

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 18/Mar/2008 lúc 6:14pm

KHÚC SÔNG BÊN LỞ BÊN BỒI

 

1

            - Văn chương… viết khó không cậu?

            - Không khó đâu con.

            - Nhưng lâu quá sao không thấy truyện của cậu được đăng báo?

            Con bé nghẹo cổ sang bên, lè lưỡi, hỏi tôi câu hỏi ác liệt ấy. Nó đã mười bốn tuổi, học lớp tám, bắt đầu trổ mã, ra dáng con gái. Nó là độc giả đầu tiên của những điều tôi viết ra. Nó thích đọc, thích bình phẩm và rất thích trêu chọc tôi.

            - Thôi con à. Cậu có biết đâu. Chắc báo người ta không ưa cái cách cậu kể chuyện, vậy thôi. Cho cậu thêm bình trà đi con.

            Tôi đang ngồi trong căn chòi lá đơn sơ của chị tôi. Người dân ở đây gọi là quán nước, trông xuống bến đò ngang dọc qua sông Hậu. Sáng nào tôi cũng ngồi đó đón khách đi xe ôm. Chị tôi và con bé nhờ cái quán con con ấy mà sống qua ngày.

            Hôm nay mấy cha chạy xe đồng nghiệp đã có khách chạy đi hết cả. Chỉ còn tôi và con bé ngồi lơ ngơ trông quán. Ly cà phê đen đã cạn. Ba điếu thuốc trong cái đĩa nhựa cũng đã hút xong. Tôi vẫn chưa đón được người khách nào đi xe.

            Một chuyến đò mới sang. Những chiếc xe gắn máy chạy vù lên. Người ta lỉnh kỉnh những thúng, những sọt kéo lên bờ. Những chiếc xe lôi nhỏ chở nặng phải mấy người đàn ông tiếp sức đẩy lên bờ. Một bà lão lóng ngóng đi lên sau cùng, chậm chạp, run rẩy. Bà Tư. Bà tìm tôi.

            - Chú chở tôi xuống tỉnh thăm con Hai.

            - Bác ngồi nghỉ cho khỏe chút đi rồi con chở.

            Bà ngồi xuống, vẻ khó nhọc, in như đầu gối bị đau. Bà lột khăn rằn đội đầu xuống. Một mái tóc bạc trắng hiện ra. Mặt bà nhăn nheo như co rút lại trước thời gian. Bà dùng cái khăn phe phẩy, làm quạt cho mát.

            - Chú ba à, bữa nay… chắc tui thiếu chịu tiền xe nữa quá!

            Tháng trước đi thăm con Hai bà đã thiếu. Tháng này bà lại ngượng nghịu xin thiếu. Vậy là cái xề chuối nướng của bà bên kia sông đã không đảm đương nổi bốn miệng ăn: bà và ba đứa cháu ngoại, con của “con Hai”. LaÏi còn chi phí hàng tháng “xuống tỉnh” là xuống trại giam thăm “con Hai”. Con Hai hàng hụi lu bu, thiếu nợ chồng đống, vậy nên phải đi tù. Nhưng tôi đoán Hai có ra tù, bà Tư cũng chẳng khá hơn gì. Chưa bao giờ Hai nuôi bà Tư được ngày nào. Ngày Hai còn “làm ăn” được thì đua đòi, se sua. Ngày Hai vào tù thì các cháu đổ các cháu vào đôi tay già nua của bà ngoại.

            - Dạ, không sao đâu bác. Chừng nào có tiền bác trả cũng được mà. Tôi đáp. À, mà bữa nay bác có đồ gì đem cho con Hai?

            - Kẹt tiền lắm chú ơi. Tui chỉ có hũ dưa mắm đem cho nó thôi. Mấy ngày nay đầu gối tui lại ghiền thuốc.Nó nhức về đêm không ngủ được.

            Dưa mắm bà Tư bỏ trong lọ thủy tinh, vàng ươm loáng thoáng ớt xắt nhuyễn. Món này bày ra dĩa, ăn với thịt heo luộc, rau sống… Trời ơi! Ngon hết chỗ nói!

            - Bà Tư ơi, bà uống ly trà đá nè, cho khỏe, rồi đi. Con bé bưng ra ly nước. Má con nói không tính tiền bà đâu.

            Bà Tư nhìn con bé, vẻ biết ơn.

            - Bây lớn bộn rồi. Ít bữa đi lấy chồng, má bây hết nhờ cậy gì luôn.

            Con bé mắc cỡ, đi vô, buông lời trở ra.

            - Chồng con gì bà ơi!

            Tôi nhìn theo cái lưng mảnh mai của nó. Ừ, chồng con gì. Cái đời mẹ nó không đủ khổ sao? Chị tôi cũng chồng, cũng con đấy. Nhưng anh nhảy xuống ghe, đi biền biệt cả chục năm nay, không biết ở chân trời nào. Hai mẹ con chị tôi phải dựa vào nhau, dựa vào cái chòi lá nhỏ bé này, dựa vào bà con xóm giềng mà lây lất sống cho tới nay.

            Anh Sáu, đồng nghiệp chạy xe ôm của tôi, chạy về tới. Anh dừng xe, giở nón, bước vô quán, mặt buồn hiu. Anh không nói, không rằng, ngồi phịch xuống ghế, thở dài não nuột.

            - Làm gì mà rầu dữ vậy cha? Tôi hỏi.

            Anh nhìn tôi, hai bên ria xịu xuống thiểu não.

            - Tao… tao chở con Hường đi… bị em vợ tao bắt được… Tổn nhơn chưa!

            À ra vậy! Tôi phì cười. Cha nội này chở bồ bịch đi bị em vợ thấy. Lăng nhăng cho dữ vô, giờ thì bể dĩa rồi! Anh Sáu phải tội đẹp trai, ca vọng cổ mùi nhất làng nên quý bà quý cô ưu ái lắm. Trận này anh mệt tới nơi rồi.

            - Nhưng sao anh biết em vợ anh bắt gặp?

            - Tao… tao đụng mặt ở phà Cồn Tiên. Tao giả đò dòm chỗ khác. Nó đứng cách xe tao chừng bốn thước, cứ réo anh Sáu, anh Sáu… Tổn nhơn chưa cha nội!

            Bà Tư cũng cười theo tôi. Ít khi tôi thấy bà Tư được vui như vậy.

            - Đi đêm có ngày gặp ma mà chú Sáu. Chiều nay thím Sáu đi bán về tới chắc mần thịt chú luôn đó…

            Hàm răng của bà Tư chỉ còn hai cái điển hình. Một nụ cười móm mém mà đẹp lạ thường. Tôi bảo bà Tư:

            - Thôi mình đi đi bác. Giờ cũng trưa trờ trưa trật rồi.

            Tôi nổ máy xe, đưa bà già bảy mươi sáu tuổi, tuổi gần đất xa trời, xuống trại giam thăm đứa con gái bốn mươi tuổi hư hỏng của bà.

 

2

           

            Đêm qua tôi không ngủ được.

            Chừng thiêm thiếp, tôi nghe tiếng sông vỗ vào bờ oàm oạp. Tôi nghe tiếng chim thảng thốt ngang trời. Tôi nghe những nhân vật nữ của tôi cằn nhằn tôi. Tôi đã bắt họ chia ly quá nhiều. Tôi đã làm duyên tình họ trắc trở. Họ dọa, tự họ sẽ sắp đặt câu chuyện lại, tự họ sẽ tìm đến nhau mà không cần tới ngòi bút của tôi nữa. Chữ nghĩa vô tình, lạnh nhạt kia đã làm khổ họ.

            Họ hiện ra trong mơ, bên dòng sông Hậu hiền hòa chảy về đông. Con sông chở bao nhớ nhung hò hẹn. Con sông chở bao vui sướng và khổ đau. Họ hiện ra ở đó: khi thì những đứa bé thơ nhảy ùm xuống sông nước tung trắng xóa; khi là những thiếu nữ trắng ngần bẽn lẽn lắm trong trời chiều; khi thì già nua, ốm yếu hom hem run run bước xuống bãi sông giữa trưa nắng vì sợ lạnh…

            Họ hiện ra ở đó, trên những chuyến đò chở nhiều thăng trầm của cuộc đời, trên những chiếc ghe chở đám cưới nhộn nhịp, trên những chiếc ghe chở đám tang loáng thoáng vành khăn tang trắng và nhạt nhòa nước mắt. Đôi khi họ ngồi trên những chiếc xuồng cột nối đuôi nhau, có chiếc ghe máy kéo phía trước. Cả đoàn rồng rắn như một dấu ngã trên sông nước. Xuồng của họ chở chuối, chở xoài, chở dừa, chở rau… Họ chở luôn những ước mơ và hy vọng, những nhọc nhằn lo toan của người dân quê. Những người đàn bà trên sông ấy chở ước mơ ra đi từ rất sớm, chở niềm vui và ngán ngẩm về rất muộn.

            Và sông nữa, trong mơ, sông rộng lớn hơn trong đời thật. Sông oà vỡ ra trước mắt, mênh mang, đẫm ướt hồn người. Ánh trăng vỡ vụn trên mặt nước bị làn gió thanh thản, mát rượi dìu đi tha thướt. Nếu ánh trăng trên đồng lúa chín có màu vàng chanh thì ánh trăng trên sông lại lấp lánh, xanh xanh. Chắc nó bị những rặng cây trầm mặc hai bên bờ loang ra một tí xanh…

            Sông lững lờ trôi. Dòng nước không bao giờ cũ. Một hôm nó tanh nồng mùi cá. Một hôm nó thơm nức mùi lúa chín. Hôm khác nó lại ngào ngạt mùi phù sa. Các mùi vị xếp tầng, xếp lớp trên mặt sông, cùng đổ về một lúc trong mơ thành một nỗi bâng khuâng man mác…

            Sông lững lờ trôi. Nó chảy về đông. Trong mơ sông cũng là nhân vật, cũng có cá tính. Về đông, về biển, sông không còn là nó mà là cái gì to tát mênh mông. Nó biết nó sẽ không còn là nó mà vẫn cứ về, cứ về. “Sông ơi, sao mi bình thản thế?” Tôi hét lên trong mơ. Tôi đứng ra cản dòng chảy của nó. Sông chườm lên tôi như một tấm chăn mát lạnh. Tiếng đò máy văng vẳng rộn ràng trên sông cho hay trời sắp sáng.

            Tôi sực tỉnh, lồm cồm bò dậy, ngồi bó gối nhìn ra sông. Một dải lụa trắng bay là là trên mặt sông. Tôi biết trong dải sương sớm đó có chứa đựng hương vị của cá, của lúa, của phù sa.

            Những cảm xúc trong mơ khó ghi lại chính xác. Tôi mặc kệ, cố ghi ra. Tôi hình dung nụ cười trêu ghẹo của con bé cháu tôi, khi nó đọc văn tôi. Mặc kệ!

 

3

           

            Khoảng giữa trưa, tôi và bà Tư mới đến trại giam.

            Những tia nắng từ trên cao buông mình lao xuống đất bị những tầng lá dầy xanh um của những cây còng đại thụ chặn lại. Len qua lá, nắng cuộn mình thành những hạt tròn như đồng xu rải đều trên mặt sân cát trước cửa trại giam. Vì vậy, giữa trưa hè nhưng khoảng sân cát vẫn mát rượi. Những cái bàn nhựa được kê tạm ngoài sân. Những người đàn bà nhà gần trại giam vào dịp cuối tuần đã bày ra đó đủ thứ nước nôi, trà lá để bán.

            Trong sân đông nghịt người. Những cái áo sọc tù nhân trắng xám chen lẫn những màu áo khác. Người ta chuyện trò. Người ta khóc. Người ta cười. Người ta nựng nịu những đứa trẻ được dẫn đi theo. Bà Tư đi thẳng vào khu sân trong, nơi thăm của phạm nhân nữ. Bà chân đau, đi chậm, mắt cứ dáo dác tìm kiếm con Hai. À, con Hai kia rồi, trong góc sân xa xa, dưới một tán xoài. Nó đưa tay vẫy bà Tư. Tôi thấy bà te te chạy tới. Không hiểu sao bà chạy nổi, tôi tự hỏi.

            Tôi ngồi gần một bé gái khoảng năm tuổi. Gương mặt nó tròn trĩnh, sáng bừng. Cặp mắt nó lóng lánh như hai giọt nước.

            Bé nhìn cha nó trong chiếc áo tù sọc trắng xám.

            - Ba ơi, chừng nào ba về?

            - Ít bữa, ba học xong ở đây, ba sẽ về…

            - Sao ba học lâu quá vậy ba?

            Rồi nó phụng phịu.

            - Con nói ba đi học mà mấy đứa trong xóm mình đâu có tin. Tụi nó nói ba mày ở tù. Con cãi. Rõ ràng ba nói ba đi học. Má cũng nói ba đi học. Tụi nó nói bậy phải không ba?

            Người cha sững lại ôm lấy con gái. Hai mắt anh lấp xấp nước. Tôi đoán, khi phạm tội anh đã không nhớ tới ánh mắt trong veo của con gái anh.

            - Con ở nhà với mẹ ngoan nghe! Vì ba chưa tốt, ba phải đi học để thành người tốt. Học xong, ba về liền hà…

            Con bé giãy ra, nhìn vào mặt cha nó.

            - Nhưng con thấy ba tốt mà. Ba có gì xấu đâu. Má cũng thấy vậy nữa… Phải không má?

            Chị vợ ngồi kề bên nín lặng. Nước mắt chị lăn dài trên má. Những giọt nước mắt rơi trên cát. Chúng tuôn như hạt ngọc.

            Con bé ngước mặt lên trời, nhìn vòm lá xanh.

            - Ở đây sân mát quá! Chơi nhảy dây là sướng nhứt.

            Đôi khi tôi ước ao mình có được đôi mắt đó để nhìn ra tất cả những điều tốt đẹp ở đời này.

            Rồi nó tuột khỏi tay cha nó. Nó chạy lon ton, nhún nhảy trên sân cát. Được vài bước, nó nhảy một chân, cò cò. Đôi dép nhựa bé xíu của nó lẫn trong những đôi dép to của người lớn. Nó đã quên béng chuyện vừa rồi. Phiền muộn lùi lại trông theo lưng nó, chỉ biết thở dài…

            Anh chồng nói với vợ:

            - Vào đây được hơn năm, anh mới nhớ được cái sàn nước sau nhà của mình thủng hai miếng ván. Hồi trước đời nào anh nhớ! Em và con ra đó rửa ráy nhớ để ý, kẻo sẩy chân thì khổ… Anh tốt lên một chút rồi đó em. Anh còn biết nghĩ đến cảnh nhà!

            Đám đông trong sân đang ồn chợt nín bặt. Một chiếc xe lôi chở cái quan tài vào cổng trại giam. Tôi quay sang hỏi anh:

            - Bộ bữa nay có phạm nhân chết hả anh?

            Anh gật đầu, mặt xìu xuống, còn buồn hơn lúc nãy.

            - Ừ, thằng đó ở chung phòng với tôi. Nó nhiễm HIV chuyển qua AIDS rồi. Mấy ngày nay anh em tôi thay nhau lên trạm xá trại giam lo cho nó. Nó mới đi hồi khuya này. Tội lắm anh ơi!

            Anh kể giọng trầm buồn.

            Đó là cuộc đời ngắn ngủi của một cánh chim bay lạc đàn, Mười tám tuổi, nó bỏ nhà đi hoang. Vào tù lần đầu về tội buôn bán và tiêm chích ma túy. Vài năm sau, ra tù. Chưa đầy ba tháng nó lại trở vào trại giam: lại tội lỗi cũ. Bà mẹ trẻ đang có một gia đình khác để chăm lo. Bà bỏ hẳn nó, không thăm, không nuôi gì hết. Nó chết kể cũng sướng cho cái thân nó. Trong những ngày thăm nuôi giống bữa nay, người khác thì vui vẻ vì gặp được người thân. Còn nó, nó lại nằm bơ vơ cuốn chiếu trùm kín đầu trong góc tường. Anh em rầy nó: “Cuốn chiếu quấn mình thấy ghê vậy mậy? Giống xác chết quá hà!”. Nó khóc: “Thì em cũng đang chết đây chứ còn gì nữa?”

            Quà thăm nuôi các anh em ở chung đều chia cho nó. Nó nhận nhưng mắt buồn, ngó xa xăm ra ngoài trời. “Em đâu cần quà cáp gì. Em chỉ cần má em đi thăm em, là em vui rồi. Cuối đời, em mới thấy em cần gặp má, cần má tha thứ. Má đã không tha thứ cho em thì đời này còn ai tha thứ cho em?”. “Còn sao không mậy! Còn tụi tao nè. Tụi tao tha thứ cho mày. Ngồi dậy ăn đi nhỏ!”.

            Rồi trại đưa đi xét nghiệm. Nó nhiễm HIV. Hèn gì nó hay nói “Cuối đời, em mới thấy em cần gặp má…” Anh em thắc mắc “Sao mày biết trước chuyện này?” Nó trả lời bình thản “Mấy thằng bạn hút chích với em lúc trước ở Cần Thơ đều đã chết hết. Em làm sao mà thoát nổi”.

            Những ngày cuối, nó ho ra máu, đi tiêu cũng ra máu. Không ăn uống gì được, mình mẩy nó lép xẹp, ép sát xuống chiếu. Nó nhỏ lại, trông như thằng bé mười hai, mười ba tuổi. Máu cứ ra mãi, hoặc miệng, hoặc hậu môn. Trạm xá đưa nó ra bệnh viện tỉnh. Vài ngày sau họ trả nó về trạm xá trại giam, nằm chờ chết. Anh em cùng phòng thay nhau lên chăm sóc nó. Hỏi nó lúc này mày thèm món gì nhất để tụi tao kiếm cho mà ăn, nó cười thều thào: “Thèm hai thứ… Gặp má em là một… Được… được tắm sông là hai…” Nó nói xong anh em mới thẫn thờ. Thiệt ra thằng nào ở đây không nhớ má và nhớ sông. Kể cũng lạ, coi vậy mà con sông ở trong lòng mình lồng lộng như má mình vậy. “Ừ, tụi tao giống mày. Nhớ nhà, và nhớ sông quá!”

            Sáng hôm qua, máu lại ra dữ dội hơn trước. Mùi hôi thối khủng khiếp bốc lên. Nó nằm trên giường không như thằng bé nữa mà như cái nùi giẻ. Thân người nó trước cái chết sao mà thê thảm quá! Toàn bộ xương sườn lòi hẳn ra ngoài da thịt. Phổi nó đặc lại hay sao mà nó hít, hơi không vô! Anh em xót xa biểu nó “Mày đi đi! Mày đi nhanh đi! Để thân mày bớt khổ”. Môi nó lắp bắp nói gần ba phút mới được mấy chữ “Em… còn… chờ… má… em!”

            Hồi tối này, nó yếu quá không nói được nữa. Con mắt lờ đờ muốn lọt ra ngoài hộp sọ. Gật đầu hay lắc đầu cũng không làm được. Chỉ có con mắt, con mắt khép lại hay mở ra là nó làm nổi.

- “Mày chờ má mày lên thăm lần chót phải không?” Nó nhắm mắt lại “Phải”.

            - “Ngày mai, thứ bảy chắc má mày lên đó. Tới ngày thăm nuôi mà”. Nó nhắm mắt “Ừ”. “Nhưng mày yếu quá, có chờ được tới sáng mai không?”. Nó mở mắt trân trân “Không”.

            - “Vậy tụi tao điện thoại cho má mày nghe?” Nó khép mắt “Ừ.”

            - “Nhưng làm sao mày đọc nổi mấy số điện thoại của má mày cho tụi tao?”. Nó đờ dại con mắt.

            Rồi những người bạn tù đã tìm ra cách. Họ đọc từ 0 đến 9. Nếu đúng một số nó sẽ khép mắt lại một lần. Vậy là họ ghi được số điện thoại của má nó vào lòng bàn tay. Họ nhờ quản giáo trại giam gọi giùm. Anh em xúm xít quanh cái điện thoại đang mở loa ngoài. Thằng nào cũng muốn té xỉu khi nghe má nó trả lời “Cứ để cho nó chết rồi lên trại lãnh xác luôn một thể!”

            Anh em chửi bới, văng tục. Họ chạy qua trạm xá, lại vây quanh giường nó, lòng tức anh ách mà phải lặng thinh.

            “Sao rồi?” Nó đưa mắt nhìn.

            “Má mày đang trên đường đến trại giam!”

            Nước mắt nó trào ra, không chảy xuống chiếu mà chảy thành cái khoen trong hốc mắt. Anh em chảy nước mắt theo nó.

            Rồi nó đi, đi ngay tức khắc, thanh thản, mãn nguyện. Hồn nó bay đi về với sông nước, về với má nó. Hình ảnh của má nó đang trên đường đến trại giam làm nó nghĩ là nó được tha thứ. Nó cười đó anh, nhưng miệng méo méo làm sao ấy…

            - Vô đây rồi mới thấy thương quê, thương con sông, thương gia đình mình anh à…

            Kể xong câu chuyện, giọng anh khản đi. Anh lại muốn khóc.

            Tôi cũng mong anh khóc. Khóc để nhớ quê, nhớ sông. Khóc để chia sẻ phận người. Khóc để lớn lên, để hoàn lương…

            Bà Tư từ góc sân trong đi trở ra. Tôi thấy lưng bà còn còng hơn trước. Bà vừa đi vừa đưa tay quẹt nước mắt. Bà khóc. Và lạ chưa, hũ dưa mắm bà cũng quên giao cho con Hai.

            - Bà Tư… bà Tư… Tôi gọi to. Sao bà không cho con Hai hũ dưa mắm?

            Bà nấc lên, tức tưởi.

            - Tui đâu có quên chú. Tui cho nó, nó không lấy. Nó nói với tui, cả tháng trời mới xuống thăm nó một lần, mà không lo nổi đồ ăn đồ uống cho đàng hoàng. Nó nói tui làm mất mặt nó với chị em trong phòng. Nó biểu… nó biểu tui… đừng…đừng… đừng xuống thăm nó nữa chú ơi!

            Bà òa lên. Những giọt nước mắt lớn trào ra nhểu lên cát những hình thù rách rưới như tờ giấy bị đạn xuyên thủng. Tôi muốn hét lớn lên “Hai ơi, sao mày vô tình vậy? Hai ơi, má mày sắp gần đất xa trời rồi. Đời mày không có quê, không có sông, không có má nữa rồi!”

            Anh bạn kể chuyện khi nãy nghe vậy vội đứng lên.

            - Vậy má cho tụi con hũ mắm này. Tụi con cần lắm, thèm lắm, nghe má!

            Bà Tư nhìn anh, vẻ biết ơn.

            - Ừ, con lấy ăn đi, chia cho anh em ăn với. Má cám ơn con!

            - Má nói vậy con tội chết! Con xin cảm ơn má. Nhà má ở đâu, ra trại, thế nào con cũng ghé thăm má.

            Bà nói. Anh gật đầu. “Dạ, con biết rồi. Con biết rồi”.

            - Thôi má về mạnh giỏi. Má đừng buồn nghe má. Anh gọi con gái nhỏ. Khoanh tay thưa bà nội đi con.

            Con bé vừa chạy tung tăng về tới. Nó ngoan ngoãn khoanh tay thưa bà. Mãi tới lúc ấy tôi mới thấy bà Tư cười. Nụ cười xua tan bớt vẻ già nua. Hai cái răng cửa “để dành cạp bắp” của bà trông duyên lạ. Trái tim mòn mỏi đã lâu năm này còn phải đau đớn bao nhiêu lần nữa đây?

 

4

 

            Con bé, con chị tôi, ngước nhìn đàn cò hàng trăm ngàn con đang chấp chới bay trong trời chiều. Bóng đàn cò in trên dòng sông những điểm trắng mơ màng. Chúng bay về vùng Bảy Núi, về rừng Trà Sư (1).

            - Cậu ơi, có khi con mơ mình nhỏ tí lại, đeo theo những chân cò ấy. Con sẽ nhìn xuống cánh đồng mênh mông của đồng bằng này. Con sẽ nhìn thấy những ngọn núi bơ vơ giữa đồng ra sao. Con sẽ biết mặt trời lặn bên kia biên giới có đẹp hơn xứ mình không. Và nhứt là sông, con sẽ nhìn nó từ trên cao, xem nó lượn lờ hoa mỹ như thế nào, trước khi nó xuôi về biển…

            - Một ý nghĩ hay đó con. Nhưng sao… bữa nay con mơ mộng vậy? Chắc bị mẹ mắng chửi gì, phải không?

            Nó thừ ra. Con bé đã khá lớn, mặt mày xinh xẻo, y hệt chị tôi. Nó nhìn tôi bằng con mắt tròn.

            - Hồi sáng này, ba con về đó cậu!

            - Vậy hả? Về luôn chưa?

            Nước mắt nó trào ra.

            - Ba với mẹ con nói chuyện trong buồng lâu lắm. Con bị đuổi đi chơi. Nhưng con lén nghe, rồi nghe hết… Ba có vợ khác trên Nam Vang (2) rồi, cậu ơi! Con có em nữa. Đứa nhỏ đó giờ cũng chừng năm tuổi rồi. Ba nói ba sẽ đi luôn, ở luôn trên đó. Nhà ba bán phở trên Nam Vang.

            - Rồi mẹ con nói sao?

            - Mẹ con nín thinh hà. Con thương mẹ quá! Tự nhiên con biết mẹ đang khổ dữ lắm.

            Chị tôi đã khổ thế mười mấy năm rồi. Xinh đẹp vậy, khổ sở vậy, chị tôi một mình ôm con nuôi nó lớn. Gia đình tôi nương nhờ hàng xóm láng giềng nhiều hơn những gì chúng tôi tự làm được. Chòi lá dù là xiêu vẹo ấy cũng là mái nhà. Mái nhà ấy cũng của bà con quanh đây. Tôi biết có nhiều anh đứng đắn, tìm đến chị, ngỏ lời. Chị từ chối, từ chối như một bản năng. Anh Sáu kế bên nhà thường nhận xét: “Chị mày bả đẹp, mà chua ăn lắm à nghen!”

            - Rồi con muốn đeo theo chân cò mà bay đi đâu?

            - Con cũng không biết nữa… Đi đâu cũng được, miễn là được đi. Con thấy tù túng… kỳ cục lắm!

            Con bé đã bắt đầu lớn. Trong lòng cô bé mười bốn tuổi đó bắt đầu hiện ra đủ thứ ngổn ngang.

            - Nhưng con đi vậy rồi con bỏ mẹ cho ai?

            Nó lại rươm rướm nước mắt.

            - Con không biết nữa cậu ơi… Con khổ lắm! Chắc con cũng khổ như mẹ con hả cậu? Người ta có thể sống tốt với nhau mà. Ba con đi vậy… là làm khổ mẹ con mà sao ba vẫn làm? Ba kể lể đủ thứ, con nghe con không chịu. Con uất ức lắm. Mình có thể sống dễ dàng hơn sao mình không làm, hả cậu?

            Hai cậu cháu tôi nhìn dòng nước sông cuồn cuộn chảy trước nhà. Tôi miên man đuổi theo những câu hỏi không trả lời được của cháu tôi.

            Tình bạn của chúng tôi như thế. Con bé sẽ nói chuyện với tôi, khi nào nó thật buồn.

            - Đoạn viết về sông bữa hổm, cậu viết thêm chưa?

            Nó đột nhiên cất tiếng.

            - Chưa… à mà có. Tôi nói tiếp, để lảng xa câu chuyện buồn của con bé. Cậu định viết về mùa lũ trên sông. Cái mùa con sông tràn bờ, tràn ra đồng đó cháu. Cậu sẽ mô tả biển nước mênh mông xứ mình, kéo dài lênh láng, xóa sạch mọi bờ cõi cách chia. Sông tràn ra đồng, bao quanh những ngọn núi ở vùng Bảy Núi. Đó như một cuộc hẹn hò vĩ đại, cháu thấy không? Một năm có mấy tháng chúngï mới được gặp nhau, bằng cách đó…

            - Vậy nghe hay đó cậu. Cậu viết đi, chắc con không chọc quê cậu nữa đâu. Con bé có vẻ phấn khích.

            - Còn một cuộc hẹn hò khác nữa. Đó là cá linh non theo dòng nước lũ từ Biển Hồ trên Miên tràn xuống. Con biết nó hẹn với ai không? Với bông điên điển vàng, với bông súng tím. Cá nhiều lắm, con nhớ không? Người dân sẽ vớt cá, sẽ buôn bán cho đời đỡ cực. Bông điên điển… Cái bông có cuống màu xanh nhỏ xíu, thòng xuống dưới một cánh hoa vàng phình ra. Dẹp dẹp, duyên duyên, như bông tai con đeo vậy. Nó trông giống như giọt nước sắp nhểu ra khỏi cành lá xanh… Còn bông súng thì có tím, có ánh hồng nữa, phải không con? Nó bùng lên tươi tắn khỏi mặt nước. Lá bông súng tròn như cái mâm nâu viền ren, nổi dập dềnh trên mặt nước…

            - Vậy chúng nó hẹn thế nào, hẹn ở đâu?

            Tới lượt tôi mê mẩn cuốn theo ý nghĩ của mình.

            - Chúng sống với nhau trên đồng ngập nước. Con thấy chúng hạnh phúc không? Và khi chết chúng cũng chết cùng nhau. Trong món cá linh kho lạt, bông súng và bông điên điển cũng đi cùng. Trong cái lẩu mắm sôi sùng sục bốc mùi nức nở, bộ ba đó vẫn đi bên nhau. Trong món canh chua cá linh, bộ ba đó ôm chầm, quấn quít bên nhau…

            - Chúng sống vậy… cũng lãng mạn lắm, hén cậu? Con bé trầm ngâm.

            Chợt, ở dưới bến sông khúc nhà anh Sáu vẳng lên tiếng đờn. Anh Sáu chắc đang buồn tình đời, xuống chiếc ghe thương hồ kỷ niệm để ca vọng cổ đây. Đó là chiếc ghe cà-dom, mui tròn, chở được chừng vài tấn. Ngày trước, khi hai vợ chồng anh Sáu còn son trẻ, tổ ấm của họ là ở đó. Họ lang bạt kỳ hồ, rong ruổi khắp vùng sông nước để mua bán sống qua ngày. Giờ lớn tuổi rồi, kiếm được cục đất cất nhà, anh chị Sáu lên bờ. Anh chạy xe ôm giống tôi. Chị ôm chiếc xuồng nhỏ ngày nào cũng chở dừa, chở mía đi bán, mãi tối mới về. Chiếc ghe đó là ghe “kỷ niệm”, theo lời anh Sáu. Nó hư hỏng anh cũng phải tu sửa, lâu lâu lại kéo lên bờ trét chai mấy chỗ rỉ nước. Ai hỏi mua ghe anh cũng không bán. “Để làm chỗ nhậu chơi và ca vọng cổ”. Anh Sáu ca mùi lắm, lại có mã bề ngoài nên anh là nghệ sĩ của làng tôi.

            Tiếng anh Sáu bay trên sông:

            “Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra… chào!”…

            Tiếng ca anh lạn dài trên mặt nước như khói như sương. Chợt anh ngưng bặt, gọi với sang:

            - Chú ba ơi, chú có nhà không xuống ghe nhậu chơi! Có cá linh non nấu canh chua đây nè…

            Con bé nhìn tôi cười cười. Tôi hỏi nó:

            - Con qua bển chơi với cậu không? Nghe ca vọng cổ chơi.

            - Thôi cậu đi đi. Con coi chừng quán. Nó đảo mắt nhìn quanh xem có mẹ nó ở đó không rồi thì thào - Với lại… với lại… con có hẹn… 

            - Với trai hả con?

            Tôi cười ầm lên. Còn nó mắc cỡ nhìn chỗ khác.

            Tôi và anh Sáu ngồi đối diện. Chen giữa là cái cà-ràng (3) nấu củi, mới bắc lên nồi canh chua cá linh non. Quả nhiên có tô bông súng ngắt cọng và tô bông điên điển đi kèm…

            Tôi hỏi anh Sáu về chuyện bị bắt quả tang trên phà Cồn Tiên hôm nọ.

            - Sao? Bữa chở con Hường đi chơi bị em vợ bắt tại trận, về chị Sáu nói sao anh?

            Anh Sáu cười khơ khớ. Cái cười có duyên của cha này hèn gì đàn bà không mê sao được.

            - Bả đòi giết tao chớ sao! Tổn nhơn lắm mày ơi. Tao nói tao không có. Bả nằng nặc bắt tao thề độc. Mầy biết bả bắt thề ở đâu không? Vô Dinh Đức Cố Láng Linh (4) mà thề. Mà dinh ông Cố thì mầy biết rồi. Linh dữ lắm. Thề ở đó chết thiệt, hộc máu thiệt chớ có phải hộc máu cải lương đâu!

            - Rồi anh làm sao?

            Anh Sáu rót rượu ra ly. Anh nâng ly tưng tiu như vuốt ve người tình. Hớp một ngụm, anh khà một tiếng, rồi đưa nửa ly cho tôi.

            - Bả đâu có thấy tận mắt, nên tao chối, chối riết. Sau cùng, bả ép quá, tao đành nói: Ông bắt tui thề, tui mà có chết, ông đừng khóc nghe!

            Tôi với anh cười rần. Nói vậy khác nào thú thiệt. Rồi anh trầm ngâm.

            - Nói vậy chớ, tao thương bả lắm. Hai vợ chồng tao đâu có con cái gì. Hồi còn khổ, đeo chiếc ghe này lang thang, hai vợ chồng với cái cà ràng hủ hỉ có nhau. Giờ đỡ đỡ, lên bờ rồi, phụ rẫy người ta coi sao được mậy!

            Anh lại uống. Anh gắp cá linh cho tôi, cho anh. Bông điên điển nổi vàng trong nồi nước. Bông súng nhúng vào quấn quyện cùng nhau. Sống thác như vậy mới thiệt nghĩa nặng tình sâu với nhau…

            - Tao đào hoa chút thôi chứ không bỏ đi luôn như anh rể mày đâu. Mày thấy vợ tao không? Nó lặn lội trên sông bán từng trái dưa, bó mía. Đành lòng nào tao bỏ nó được… Bỏ đi vậy… Tổn nhơn lắm!

            - Giờ chị Sáu đi bán gần về tới chưa anh?

            - Chưa… chắc nay lại ế nữa rồi. Bơi xuồng năn nỉ, lạy lục người ta…

            Anh Sáu dạo đờn. Tiếng anh cất lên bay vọt nóc ghe, lảnh lót như tiếng tên bay xé gió.

“Người ta đã có đôi rồi

Chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung”

            … “Đêm khuya nay ngồi chờ con nước lớn. Nỗi buồn đau cứ canh cánh bên lòng…”

            Tôi chìm trong âm thanh trong vắt ấy. Tôi nhìn những chùm sáng lung linh bên kia sông. Tôi có cảm giác mình cũng bay bổng lên cao theo lời hát, theo tiếng đờn. Trong đêm, sông vẫn chảy rạt rào, vẫn xuôi về đông, mạnh mẽ mà thầm lặng. Anh Sáu ngừng hát. Tôi rơi phịch xuống ngồi đối diện anh. Anh vỗ đùi.

            - Bữa nay bả về trễ, tao quên mất. Mày biết chuyện gì hôn? Bả đi cúng thất đầu cho bà Tư.

            Tôi à ra một tiếng chợt nhớ.

            Bà Tư đã từ giã cuộc sống gian nan của bà được một tuần. Bà ra đi nhẹ nhàng như dòng nước trôi. Bà xuống sông buổi trưa, tắm rồi biến mất tăm. Chắc bà bị vọp bẻ. Bọn tôi hay chuyện táo tác đi mò. Cuối cùng cả làng vớt được bà tấp vô chòm điên điển bên cồn cát mới nổi. Coi vậy mà đám tang bà cũng khá lớn. Cả làng đi tiễn, đi đưa. Con Hai không về kịp, nó chưa ra tù. Không có con Hai, mấy đứa cháu ngoại của bà phải sống nhờ bên hàng xóm. Anh Sáu đứng ra lo tất mọi việc. Anh hứa góp tiền hàng xóm lo nuôi mấy đứa nhỏ. Hôm nay cúng thất đầu của bà Tư, chắc chị Sáu qua bên kia sông lo cúng kiến rồi.

            - Mày còn nhớ thằng tám Tàng, con nuôi bà Tư không mậy?

            - Sao hả anh? Nó đâu có về đi đám ma…

            - Chuyện này tao quên kể với mày. Hôm vớt xác bà Tư lên, nó từ bên Miên, có điện về cho tao. Nó nói sao mày biết hôn? Ngắn ngủn hà. “Bộ má tui chết rồi hả anh Sáu? Cái hòm giờ giá bao nhiêu? Anh lo trước nghe, khi nào tui rảnh tui về gởi lại anh. Kẹt quá! Tui công chuyện nhiều không về đưa má tui đi được.” Tao nóng máu đốp lại. “Mày khỏi gởi tiền. Người dưng ở đây cũng lo được. Thôi khỏi về luôn đi!” Nó là thằng bé bị người ta bỏ rơi trên chợ Châu Đốc. Bà Tư tội nghiệp ôm về nuôi nó từ bé. Giờ có lông, có cánh, nó bay luôn rồi…

            Một chiếc ghe chèo chầm chậm trôi ngang. Trên ghe chỉ có ánh đèn dầu bé tí tẹo ở đầu mui. Tôi và anh Sáu lặng thinh khi nghe câu hát ru từ đó đưa sang.

 

“Sông sâu sào ngắn khó dò

Muốn qua thăm bạn sợ đò không đưa…”

            Anh Sáu đã ngà ngà say. Anh ngước mắt dòm lên nóc mui ghe của mình. Ở đó có một lỗ thủng nhỏ của lá lợp bị rách. Vài ánh sao trời lấp ló. Đột nhiên, anh nói mà cứ nhìn miết vào đó, không nhìn tôi.

            - Mày viết được thì cứ viết đi, nghe ba. Những chuyện như ở trại giam, chuyện của bà Tư, chuyện của con Hai, của chị mày… Nó như con cá mình bắt được trên sông. Mình nấu nướng xong rồi mời bạn bè. Dù hay dù dở cũng có cái lòng của mình trong đó. Mà nhứt định là mình phải nấu, nhứt định mình phải mời bạn bè…

            Tôi cảm ơn anh. Chưa bao giờ tôi được nhìn văn chương theo kiểu đó.

            Anh Sáu lại ôm đờn, lại hát.

… “Sông sâu bên lở bên bồi

Tình anh bán chiếu trọn đời không phai”

            Tiếng hát, tiếng đờn của anh không bay thẳng. Nó lượn lờ trên sông như làn khói trắng. Nó trải ra mỏng tang, sắc như lưỡi thép. Nó xuyên vào máu vào thịt tôi ngoằn ngoèo như sợi tơ bị rối. Cái gì đi vào lòng người có lẽ cũng giống như thế. Nó không bay thẳng đâu…

                       

                        Tháng 9/2007 

           

 

(1)        Rừng Trà Sư: Một địa danh thuộc huyện Tịnh Biên, An Giang.

(2)        Nam Vang: Tên cũ của Phnompenh (Campuchia)

(3)        Cà-ràng: Một loại bếp nặn bằng đất rất tiện đặt tên ghe xuồng để nấu nướng.

(4)        Dinh Đức Cố Láng Linh: Địa danh lịch sử ở Châu Phú, An Giang, gần vùng Bảy Núi

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 14/Oct/2008 lúc 8:55pm

NGHIÊNG  TAY  TRÚT  NẮNG

*

 

Có khi lá chẳng xanh đâu

 

1

 

 

     Con người ta ít khi hài lòng về hiện tại. Dễ hiểu thôi! Vì mỗi cái ở đời đều mong manh. Mong manh như bọt nước bay xuống từ đỉnh thác cao vời. Mong manh tựa hoàng hôn tím ngát hồn người rồi tan biến mãi mãi không gặp lại lần nữa! Hiện tại là mong manh. Vậy cái gì là vĩnh cữu? Cái vĩnh cữu mà người ta vẫn ngỡ, đó chính là thời gian. Không có gì vượt nổi thời gian! Ta cũng chẳng biết điều này có thực như thế không, chỉ biết khó tìm kẻ thay thế được nó, thời gian! Thời gian đứng nhìn ta với cái nhìn cao ngạo của kẻ đã biết hết kết cục của mọi câu chuyện. Nó là kẻ chinh phục hết thảy mọi sự, trước sau gì nó cũng thắng nên chưa bao giờ nó mất kiên nhẫn. Nó là kẻ sung sướng !

     Hy sinh là một mỹ từ chỉ dành riêng cho loài người. Vậy mà cõi nhân gian nhỏ nhen luôn hào phóng gởi tặng từ này cho kẻ khác. Người ta thích theo dõi ai đó hy sinh, rồi ngưỡng mộ họ, rồi nằng nặc đòi sẻ chia, chứ quyết không tự mình làm. Hy sinh, lạy trời nó là việc của thiên hạ chứ đừng là của tôi !

    

                                                            2

 

Đấy là mùa nước ngập. Ngôi chùa thoi loi nổi trên mặt nước. Chùa cổ. Một sợi thừng từ gốc cây bồ đề cắm sâu xuống lòng đất chẳng ai biết sâu đến tận đâu. Gò đất chùa nổi lên như con tàu lênh đênh trên mặt nước, đang bỏ neo, không trôi đi đâu. Các cụ già vẫn kể chùa hồi nào tới giờ không bị ngập nước cho dù mùa nước ngập có cao đến mấy. Rất lạ! Ngày xưa nơi này là vịnh biển. Khi ấy chưa có đồng bằng này. Vịnh biển chỉ có các thương thuyền thăm viếng và bầu bạn với con sông Mekong đến từ cao nguyên Tây Tạng xa xôi. Có lẽ ngôi chùa ngày nay là một trong những thương thuyền còn sót lại ấy chăng? Cô đơn đã biến nó thành gò đá mất rồi. Và chùa mọc lên trên đá ấy! Chùa núi nổi!

        Bọn trẻ chăn trâu giục đàn trâu lội đua với nhau. Chúng phấn khích quất roi vun vút. Tiếng hò hét xé vụn không gian đang mơ màng ngủ buổi trưa hè. Những lưng trâu bóng nhẫy mỡ dưới ánh nắng chói lóa phác nên những vệt đen trên nền nước lấp loáng ánh bạc.

Chúng đố nhau: lá cây bồ đề có màu gì?

Màu xanh? màu vàng? Trật lất! Màu trắng!!! Lũ trẻ lao xao phản đối. Một thằng lặn xuống bùn dưới gốc cây bồ đề độ sâu dễ chừng ba thước nước lôi lên một túm lá mục. Những chiếc lá chỉ còn bộ gân trắng. Những chùm tia ánh sáng xuyên qua lá trông như mạng nhện đang lóng lánh những hạt sương buổi sớm. Quả cái lá chỉ bàng bạc mà thôi, quyết không xanh chút nào.

Có khi lá chẳng xanh đâu…

 

***

 

        Một bà già lụm cụm bán bầy chim sẻ trên đường dẫn vào chùa. Người ta mua giùm bà rồi phóng sanh. Và người ta cũng biết bà già sẽ gom đủ chúng lại vì bầy chim đã bị cắt cánh hết cả rồi. Ai cũng biết và ai cũng mua. Thôi kệ. Cũng vậy thôi. Bầy chim sống là cháu bà có cơm ăn và được đi học... Coi như phóng sanh cho ai đó...

Cái cách bà nuôi cháu chỉ có vậy, cũng đã nhiều năm rồi. Đêm đêm, mấy bà cháu lặn lội mò ra đồng, ra vườn chùa bắt chim, ngày bán. Đúng cũng được, mà sai cũng được. Nghĩ một chút cuộc sống sẽ có màu khác ngay! Những con chim loạng choạng vỗ cánh bay rồi té nhũi xuống những gốc mít trĩu quả trong vườn chùa. Đàn chim ngán ngẫm màn kịch này lắm. Tự do một chút rồi trở vào tù ngục ngay. Nhưng thôi đành, vì còn trả nợ miếng ăn, vì phải mang ơn người đã không giết thịt.

 

***

 

Một thiếu phụ vào chùa đốt nhang lạy Phật, những mong có phép màu nào có thể kéo người chồng phụ bạc quay về. Chồng cô, tay không, buông bỏ cả một gia sản, chạy theo khối tình riêng hai mươi bốn tuổi. Khối tình có nước da mịn như sữa, có tiếng cười hơi hước lên đàng cuối giọng, có một người chồng chỉ biết giữ tay lái ghe bầu chở lúa, chưa hề biết túm tóc vợ lôi ra khỏi sự lẳng lơ. Cả hai kẻ phá rào ấy đã nắm tay nhau về cõi riêng của họ mà địa chỉ cố nhiên không ai biết. Theo truyền thống, đôi nhân tình kia chỉ để lại tiếng đời nhơ nhớp, nghĩa là rẻ khinh trộn lẫn ghen tỵ. Rẻ khinh là nghĩ theo ý của đám đông, còn ghen tỵ là nghĩ theo ý mình ! Người thực sự phải nghiền ngẫm nỗi đau là anh chồng bị vợ cắm sừng kia. Rồi đến cô, rồi hai đứa con nhỏ một trai một gái, và bà nội chúng, một bà già đã gần đất xa trời, lẩn thẩn vì than khóc, nhục nhã vì nỗi không dạy được con trai. Bà đã quì sụp xuống mà lạy con dâu. Bà xin nhường hết cơ ngơi bà đang có là cái nhà máy xay lúa bề thế nhứt vùng cho cô, xin được đưa hai đứa cháu nội về Vĩnh Long quê bà lây lất sống. Bà muốn con dâu đi bước nữa, thây kệ cái bên chồng phản trắc này đi. Trong ánh đèn thờ sâm sẫm đỏ của tổ tiên, giữa hai cột nhà sừng sững hai tấm liễn đối, bóng bà già quì lồng lộng in lên vách. Một cái bóng khác trẻ hơn, phồng to đầu tóc búi, cúi xuống đỡ bà lên, rồi cũng quì thụp xuống. Hai cái bóng đàn bà khóc đan lại với nhau thành một khối to như gốc cổ thụ. Họ không hay bên ngoài mưa to gió lớn. Những bụi tre già vặn mình đau đớn trong giông bão, những ánh chớp vẽ hình rễ cây lên vòm trời đêm, những tiếng sấm hăm he mặt đất. Và họ cũng đâu hay hai đứa trẻ giật mình thảng thốt vì tiếng gầm ghè của trời dành cho đất, đã thập thò sau hàng cột, khó hiểu nhìn bà và mẹ chúng ôm nhau khóc…

 

3

 

… Bóng ai đang lom khom đi trong vườn cây mờ sương, trong ánh trăng xanh xanh ươn ướt vậy? Suỵt, khẽ khẽ thôi. Không phải bóng người đâu! Nhưng rõ ràng hai bóng đen kia cao bằng người lớn...  đang loạt xoạt đi trong vườn. Chim thần về đấy! Mãi rất lâu sau này họ mới biết đó là hồng hạc. Một giống chim người ta chỉ nghe trong truyền thuyết, chỉ biết mường tượng theo mấy con hạc đứng trên mai rùa khắc bằng gỗ thường đặt ở đền chùa. Thảng hoặc lắm người ta mới trông thấy nó mà phải kèm câu phụ chú “hồi ông bác tôi còn sống” chẳng hạn. Và người đã may mắn nhìn ra đôi chim thần ấy là bà già lụm cụm bắt chim sẻ để bán cho khách viếng chùa phóng sanh. Bà gặp chúng bên bờ nước sâm sấp trong vườn mít của chùa. Chúng cao to quá, ít ra cũng  phải một thước sáu thước bảy gì đó. Khi được nghe kể lại kẻ khác còn bán tín bán nghi. Nhưng bà già này chưa hề biết thêm thắt câu chuyện bao giờ. Kể cả việc bà sẽ gom đủ bầy chim sẻ sau khi khách đã mua phóng sanh, bà cũng chưa giấu giếm ai. Dân làng lao xao được ít ngày. Người ta tò mò lén ra vườn chùa những đêm sau rất đông. Ngôi vị độc nhất của bà lão không ai đoạt nổi vì không ai được nhìn thây chúng lần nữa. Cặp thần điểu lặng lẽ ra đi, để lại phía sau hằng đống những suy đoán. Điềm lành, phải không? Lành không thì chưa biết. Người làng chưa nguôi được cái háo hức được bàn chuyện giải sầu về những con chim thần nọ thì nổ ra cái chuyện gã chủ nhà máy xay lúa bỏ nhà theo khối tình hai mươi bốn tuổi có tiếng cười hơi hước đàng cuối giọng...

 

 

4

 

            Tia nắng len qua viên ngói nứt trên mái chùa, như một lưỡi gươm lóe sáng xiên xuống mái tóc đen thẫm của người thiếu phụ quì trước chánh điện. Sư trụ trì đi vắng. Cô vẫn quì đó để chờ sư. Có lẽ đã khá lâu rồi. Cô xé nát hồn mình trong tiếng cười hơi hước. Cô nghĩ đến nhũng dòng máu đỏ sẽ trào ra như suối trên bộ ngực căng tròn, no nưởng và mịn như sữa kia. Cô như thấy được bàn tay mình nhơn nhớt vì máu đến nỗi phải buông rớt con dao có cán gỗ đỏ mang nhãn hiệu Thụy sĩ. Con dao ấy đang nóng hừng hực trong túi áo cô đây… Sư vẫn chưa về.

 

5

                     

Ký ức của ông về người đàn bà đã khiến ông chối bỏ tất cả để điên cuồng chạy theo là hai lần tắm của nàng.

Lần tắm đầu ông trông thấy lúc đang háo hức theo dân làng kéo nhau lên chùa xem hồng hạc cho tỏ thực hư. Đêm ấy trăng sáng lắm. Nàng tắm trên sông, chỗ ghe bầu chở lúa của vợ chồng nàng. Anh chồng khờ ịch của nàng lúc đó chắc đang hồi hộp chờ bầy chim thần trở lại lần nữa trong vườn mít nhà chùa. Trong ánh trăng vằng vặc như tráng bạc trên sông, cái ngà ngọc của người đàn bà ấy đã làm nghiêng ngã một đất trời. Gã đàn ông tội nghiệp kia đang tỉnh táo mà vẫn mộng du. Gã bị lạc đường lên chùa ngay tức khắc. Và cơ thể trần truồng của người đàn bà thì gã uống say sưa đến no mắt như đang ngắm hồng hạc lần đầu tiên trong đời vậy. Gã cởi phăng quần áo rồi ào ào lội về phía cục nam châm trắng phau phau kia. Cục nam châm ấy hơi khẽ giật mình rồi cũng nhận ra gã chủ nhà máy xay lúa. Nàng chỉ kịp kêu lên “đừng anh!” rồi hai cánh tay trần nõn nà như đôi cánh thiên nga của nàng đã quấn chặt lấy cổ gã ...

Lần cuối, ông gặp nàng tắm, buổi trưa, trong nhà, với một người đàn ông khác! Họ kì cọ cho nhau... Ông cầm con dao tầm bức, con dao nặng và lạnh. Mắt ông nổ đom đóm khi nhìn lại tấm lưng trần, cặp mông tròn căng trắng như sữa mịn. Tai ông lùng bùng, chân tay rã rượi lúc nghe tiếng cười hơi hước đàng đuôi. Ông đi như lết từ từ ra phía trước nhà, chỗ hàng cột gỗ, nơi có thằng bé ba tuổi con ông đang say ngủ trên cái võng. Ông dồn hết bao uất hận lên con dao thép rồi chém phập vào cột nhà. Một tiếng rền vang động của lớp thiếc trên mái. Một đầu ngón tay trỏ rơi phịch xuống, làm chứng cho vụ ngoại tình. Một tiếng khóc thét vì giật mình của đứa trẻ. Người cha với một bàn tay máu phún ra lấm tấm như mưa phùn bế thốc đứa trẻ lên rồi đi thẳng ra cửa...

 

***

 

Một vết xăm “Đường về xa lắm” đeo đẳng trên cánh tay ông mãi đến chết.

Thằng bé được giao cho một ngôi chùa ở Long Thành. Mười năm sau ông quay lại tìm con, thằng bé đã đi Mỹ học triết học…

 

***

 

Tổ ấm của đôi uyên ương kia là một mái thiếc lụp xụp mọc lên vội vàng dọc theo căn cứ quân sự Mỹ ở Long Bình. Hai người sống nhờ mua bán lặt vặt các thứ nhu yếu phẩm tuồn ra từ lính Mỹ. Gã chồng chạy xe lam, vừa chở bia rượu đi giao hàng, vừa chở khách. Cô vợ giao du với đám vợ sĩ quan để mua bán hàng họ. Rồi dần dần cô gắn bó quá mức thân thiết với đám sĩ quan, đến nỗi chẳng có bà sĩ quan nào khoái mua bán gì với cô nữa. Vậy mà cô vẫn khá giả lên thấy rõ. Anh chồng thì sáng đi chiều tối mới về, cứ đinh ninh cô vợ mình là tay sành mua sỏi bán. Hai năm sau họ sinh được một bé trai kháu khỉnh, và điều rất phiền là cô nàng đẹp lên hơn xưa xa lắc xa lơ, làm nao lòng mấy tay đàn ông khi nhắc đến chữ gái một con. Mắt họ đã mòn mỏi biết bao nhiêu khi phải nhiều lần thẫn thờ liếc vào nhan sắc bén như gươm giáo ấy.

            Cái ngày xảy ra bi kịch thằng bé mới được ba tuổi. Cha nó đã phải bán chiếc xe lam đi, lấy một món tiền rồi gởi con và tiền ấy vào chùa. Như lần bỏ nhà ra đi trước đó, ông cũng quầy quả ra đi tay không. Cả gia sản lần trước bỏ lại cho vợ và hai con ở quê nhà, còn món tiền còm cõi lần này thì giao tất cho đứa bé khốn khổ. Sư ở chùa cẩn thận chép lại tên cha và quê cha đất tổ của đứa bé.

            Lên chín tuổi, chú bé con mặt mũi sáng láng kia đã lọt vào một đôi mắt màu xanh người Mỹ, một giáo sư triết học một hôm đến viếng chùa. Ông bèn xin với sư đưa thằng bé về Mỹ làm con nuôi. Chiến tranh Việt Nam lúc đó rất ác liệt nên sư vội vàng đồng ý.

 

 

***

 

            Hai mươi năm sau thằng bé ấy đã thành một tiến sĩ triết học tại Mỹ. Khi anh biết được cái quá khứ bi thương của cha mẹ mình, anh thầm cám ơn tất cả. Nếu không có cái ngày cha anh chặt đứt một cuộc tình như chặt đứt một ngón tay, nếu anh không bị đẩy vào chùa, nếu anh không gặp cha nuôi người Mỹ của mình, có lẽ anh cũng chẳng là cái quái gì ở đời này, vào hôm nay đây. Người chép câu chuyện này còn muốn thêm một ý nữa. Nếu không có cái đêm cha anh lạc đường lên chùa xem hồng hạc, thì lúc này đây anh vẫn là hạt bụi  rong ruổi trong vũ trụ chứ làm gì có vinh hạnh được mang kiếp người đầy khổ đau môt cách sang trọng này. Đời người là một dòng sông dài chảy mãi không thôi. Chỉ vì một phút giây xung đột nào đó mà cứ ám ảnh con người miên man thì quả là vô lý biết chừng nào. Thôi kệ! Nó cứ trôi. Rồi thì thời gian cũng sẽ nhảy sộc vào nhân gian và chiến thắng tất cả. Khi anh về được quê cha thì ông đã mất. Anh liên lạc được với những người anh em cùng cha khác mẹ của mình. Rồi có một ngày họ cùng ngồi bàn với nhau sẽ viết gì lên bia mộ của cha mình. R.I.P… Nơi đây yên nghỉ một con người… Dại khờ?... Hư hỏng?... Hay đàng hoàng?... Ông đã tự ái mà không về quê cũ. Mãi sau này, khi đã lẩn thẩn mất rồi, bà vợ cũ mới lần ra dấu ông và rước ông về. Ông về cùng với câm lặng và điếc lác. Cái dấu xâm “đường về xa lắm “đã làm đổ hàng đống nước mắt cho vợ và hai đứa con ông trong ngày ông từ tạ cõi đời. Có thể lắm chứ, nếu không có biến cố bỏ nhà ra đi của ông, các đứa con bị buộc phải sống với mẹ kia chắc gì đã thành đạt như hôm nay. Động lực của những đứa con là người mẹ. Gương xấu để chúng soi và nên người là người cha. Chúng đã quyết sống mạnh mẽ như mẹ. Chúng quyết không hư hỏng như cha. Vậy thì giờ đây ba người con  sẽ phải viết gì lên bia mộ của cha mình? Kết quả chỉ lơ thơ vài chữ “R.I.P. NƠI ĐÂY YÊN NGHỈ MỘT CON NGƯỜI” (1) mà không kèm theo một tính từ nào cả. Họ hiểu ra chỉ một chữ “con người” đã chứa trong mình chán vạn những tính từ kèm theo.         

                                                       

 

Vĩ thanh

 

Một bà già tóc bạc khá nhiều đang ngồi nhổ những ngọn cỏ mọc quanh ngôi mộ bằng đá đen của chồng bà trong nghĩa trang, một ngày cuối năm. Bà khóc. Người ta nhìn thấy một hòn đá đen tuyền chừng bằng nắm tay, một con dao xếp cũ kỹ rỉ sét đã mất cán gỗ từ lâu, bày ra trước mộ cùng với một bó huệ trắng tinh tươm. Tấm bia cũng lạ, chỉ vỏn vẹn mấy chữ “R.I.P. NƠI ĐÂY YÊN NGHỈ MỘT CON NGƯỜI”. Tuyệt nhiên không có tên người quá cố.

Con người nằm phía trước mặt bà đã từng bỏ vợ con, bỏ cả sản nghiệp cũng khá đồ sộ mà theo vợ bé những ba mươi năm trời. Một mình bà ở lại phải cáng đáng nuôi hai con thành tài, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo. Mãi đến khi da mồi tóc bạc, bà mới rước được ông về, trong những ngày cuối đời tàn tạ, vất vưởng sống nhờ của làm phước trong chùa miệt Long Thành.

Đời bà có hai người đàn bà mạnh mẽ hơn bà. Một, người đàn bà đã cướp chồng bà. Nước da trắng mịn như sữa và tiếng cưởi hơi hước đàng cuối giọng của cô ta luôn vặn xoắn gan ruột bà mỗi khi nhớ tới. Hai, mẹ chồng bà, người đã không đi đứng nổi nữa vì đau yếu. Sau khi ông bỏ nhà ra đi, mẹ chồng bảo: “Để má dẫn hai đứa cháu nội về quê nhà ở Vĩnh Long lây lất sống. Con giữ cơ ngơi này làm vốn, coi như má bù cho con cái tội mất dạy của thằng con má. Con đi bước nữa đi. Con còn trẻ lắm…”Bà đã quì sụp xuống lạy má đừng đi. Sống chết gì con cũng là con của má .

Bà lên chùa, nuôi ý định tìm kiếm bùa phép gì có thể lôi chồng mình về. Sư lượm đưa bà một hòn đá chừng bằng nắm tay nằm lăn lóc ngoài gốc bồ đề. Sư bảo mang về, làm sao giữ quanh mình cho nó hút được hơi bà vào hòn đá càng nhiều càng tốt, trong khoảng hai tuần lễ, sau đó mang hòn đá trở lại chùa sư làm phép cho. Sư nhắc đừng bỏ rời hòn đá ra xa, quá lắm là để nó dưới gối khi ngủ, sợ phép sẽ không linh.

Bà đã kè kè hòn đá đó bên mình y như lời sư dặn. Hòn đá quả có phép thần thông. Nó ngày càng nặng, ngày càng vướng víu. Nó không chỉ ở trong túi xách, trong áo quần, trong nắm tay, mà nó đã vào hẳn trong ý nghĩ, trong giấc ngủ luôn rồi. Tâm trí bà đã nặng dần nặng dần. Bà không sao rũ bỏ nó ra được nữa. Hình như, ông chồng bội bạc và ả nhân tình kia đã bị hòn đá lấn lướt từ từ. Chăm sóc mẹ chồng đau yếu, lo cho hai đứa con nhỏ học hành, cai quản cái nhà máy xay lúa bề thế nhất vùng lúc nào cũng xuồng ghe tấp nập, khi nào hơi rảnh ra một chút là phải để mắt tới hòn đá, không muốn cũng bị ám ảnh, cũng bị vương vấn.

Hai tuần sau y hẹn, bà trở lại chùa. Sư thất hứa với bà. Ông đã đi tu tập ngoài Huế độ hai năm sư mới về. Trời, vậy mà sư hẹn với bà chắc lọi! Bà buồn bã ra về. Hòn đá bà bỏ rời ra, nhưng không dám bỏ quá xa, cũng lẩn quẩn ở bàn giấy, bàn thờ… Nhưng quả có sự thay đổi. Thân thể bà rồi lòng dạ bà vơi nhẹ đi rất nhiều. Bà một mình chống chọi, một mình đưa cả giang sơn nhà chồng về bến bờ an bình.

Con dao xếp cũ kỹ rỉ sét kia ngày xưa nó là con dao sáng lóa nhãn hiệu Thụy Sĩ. Cái mỉa mai là trên thân dao in rành rạnh mấy chữ “thép không gỉ”! Con dao đó bắt đầu bị gỉ sét khi mẹ chồng bà nắm tay bà từ giã trước khi mất. Bà mẹ chỉ đòi con dâu hứa không thù hận... Trước đó lúc nào cầm tới con dao bà cũng nghĩ tới máu, máu của người đàn bà da trắng có giọng cưòi hơi hước đàng đuôi. Má chồng trăn trối vậy bà đành phải hứa. Chôn má chồng xong, bà chôn luôn con dao xếp ấy sau vườn nhà. Con dao ấy chỉ được moi lên sau hai mươi năm, khi ông ấy đã được đưa về nhà sống lay lắt vài năm rồi chết. Nó cặp kè với hòn đá lên bàn thờ hầu hạ ông.

Ông sư đi hẳn khỏi chùa đúng hai năm mới về. Gặp lại bà, sư cười hỏi hiểu ý của sư chưa. Bà thưa rằng hiểu. Bà cám ơn sư rất nhiều.

Hai đứa con bà một trai một gái lần lượt lớn lên, lần lượt thành đạt. Anh con trai lớn thành tiến sĩ kinh tế làm việc tại Mỹ. Cô con gái làm giám đốc một doanh nghiệp lớn. Đặc điểm chung của hai người con này là đều ly dị, đều có cuộc hôn nhân không suôn sẻ. Người đời cho rằng chính bà mới là người thành đạt bởi bà đã tạo ra đàn con thành đạt. Nhìn con bà có thêm những ray rứt mới, có thêm những hòn đá mới để đeo, có thêm những con dao mới để con bà phải chôn giống bà ngày trước, bà hiểu rằng kiếp người dằng dặc nối tiếp nhau, thay thế nhau lao đầu vào bi kịch của chính mình. Bà chỉ thấy hạnh phúc một điều là đã đi tới mãi, tới mãi, tới ngày hôm nay. Khi đang đối diện với cuộc đời không ai dám ném hòn đá ra xa rồi bước tới phía trước ngay tức khắc như bà. Nhưng cũng chính bà thường cười giễu bà rằng nếu không có cách cư xử lạ lùng của sư nhà chùa, nếu không có bà má chồng đau yếu mà mạnh mẽ, nếu không có hai đứa con thơ dại không có chút sức mạnh nào, nếu bà chiều theo ý muốn cá nhân hoang dã của mình, ngày hôm nay hẳn đã không có, ngày hôm nay hẳn là bi kịch. Có mấy ai dám quên hiện tại để hướng tới một nơi xa hơn hiện tại một tí. Và chỉ cần một tí ấy thôi cũng đủ thay đổi thế giới này nhiều lắm rồi .

           

***

 

            Câu chuyện của gia đình bà nghĩ cũng đơn giản. Đơn giản như một nỗi đau. Đối với chúng ta nó đơn giản vì đó là nỗi đau của kẻ khác, vậy thôi !

 

                                                                          NGÃ

                                                                                      Tháng 09.2008

 

  

 

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.160 seconds.