Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu) | |
Trang of 3 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Chủ đề: Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu) Gởi ngày: 21/Dec/2010 lúc 2:30am |
Hoàng Hạc lâu
(thơ Thôi Hiệu)
Hoàng Hạc lâu (黄鹤楼) là một ngôi tháp lịch sử, thường được xây đi xây lại đứng ở trên Xà Sơn thuộc thành phố Vũ Hán của Trung Quốc. Hoàng Hạc lâu được xem là một trong bốn tứ đại danh tháp của Trung Quốc (Hoàng Hạc lâu, Đằng Vương các, Nhạc Dương lâu và Bồng Lai các). Tháp này đứng bên bờ sông Dương Tử. Tháp hiện nay là một công trình được xây lại bằng vật liệu hiện đại và có một cầu thang máy. Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu (崔顥), một nhà thơ thời nhà Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Các bản dịch tiếng Việt Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều người dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam.
Ngoài ra, có thể kể đến những bản dịch của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương...
1- Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. 2- Bản dịch của Trần Trọng Kim Người đi cưỡi hạc từ xưa Đất nầy Hoàng Hạc còn lưu một lầu Hạc vàng đi mất đã lâu Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông Hán Dương cây bóng lòng sông Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì Chiều hôm lai láng lòng quê Khói bay sóng vỗ ũ ê nổi sầu.
Đặc biệt , một Thụ Nhân khóa 10 VĐH DaLat, bút danh "Khách Sạn Ngàn Sao" cảm hứng dịch ra tiếng Việt (2010) :
12- Bản dịch của KhachSanNganSao
('KSNS' là nick của một Thụ Nhân khóa 10, rành Hán tự, kiến thức rộng , anh chàng này thích ngao du sơn thủy. May mắn được thỏa ước nguyện , KSNS đi hết 5 châu ( dĩ nhiên gồm cả Châu Phi ) . Bản chất phóng khoáng , thân thiện, cởi mở , nhân hậu, thích kết bạn và thích ... "màn trời chiếu đất" (cả nghĩa đen, khi có chút ... men rượu) nên lấy nick "Khách Sạn Ngàn Sao" . Hiện nay định cư tại Anh Quốc .) Hoàng Hạc
Lầu Hoàng Hạc thế kỷ 19 ________
Chú thích :
( Nguồn tài liệu: internet )
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 21/Dec/2010 lúc 5:12pm |
|
mk
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 21/Dec/2010 lúc 3:27am |
Nếu nói đùa vui , có thể xem bài viết dưới đây là một...."giai thoại văn chương... phá đám" của anh Nguyễn Thanh Nhàn, cựu sinh viên (Thụ Nhân) khóa 1- CTKD , VĐH DaLat .
mykieu gửi lên DĐ GoCong , chỉ mang tính chất lưu hành nội bộ , mục đích để cả nhà cùng đọc cho vui , trong những ngày chuẩn bị đón Giáng Sinh 2010 , chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, và chuẩn bị đón mừng năm mới 2011.
Trong 12 bài dịch (mk đã gửi bên trên), bài thứ 12 của Khách Sạn Ngàn Sao mới làm năm 2010 , không có trong nội dung bài "Bình văn kiều phá đám" của anh NTN , vì bài này tác giả viết vào tháng 3 năm 2008.
Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ, xin gửi tặng cả nhà.... vài chục nụ cười !
Quý vị nào muốn tham gia..."Bình Phá Đám" cho vui nhà vui cửa , xin mời !
mk
Hoàng Hạc lâu
(thơ Thôi Hiệu)
Bình văn kiểu phá đám
(Tác giả : Nguyễn Thanh Nhàn)
Phá đám là làm cho người ta mất hứng
Làm cho người ta mất hứng, vì nếu mình có hứng thì cũng không làm được như người ta. Mấy ông này toàn là đại sư phụ. Nói đàng hoàng mình nói không lại Nói tầm bậy tầm bạ thì mấy ổng nói không lại mình. Bởi vậy mình chơi kiểu tầm bậy tầm bạ. Một người nói ngang ba làng nói không lại. Bắt đầu như thế này: Có tất cả 11 thầy cô. Hoàng Hạc Lâu là thể thất ngôn bát cú Tám câu mỗi câu bảy chứ. Điều thứ nhất: Thể văn Nguyên tác bảy chữ phải dịch ra bảy chữ. Bài nào dịch ra kiểu thượng lục hạ bát: Loại. Món cá thác lác là phải quết. Bằm là trật Kết quả vòng đầu: - Tản Đà - Trần Trọng Kim - Nguyễn Đức Hiển Rớt. Còn lại tám người Điều thứ hai: Gieo Vần Vần gieo ở cuối câu thứ nhất phải hiệp vận với chữ cuối của các câu chẳn 1-2-4-6-8 Như vậy: Trần Trọng San: Rơt 1,2,4,6,8 không vần. Chữ cuối câu một vần trắc, những chữ cuối sau không theo luật bằng trắc Trần Văn Ân: Rớt Vần điệu bằng trắc lung tung beng Lê Phương Nguyên : Rớt Câu một vần trắc âm út. Cuối hai đáng lẽ phải trắc thì lại bằng Âm ênh, tới câu sáu lại ình. Út, ênh , ình: Tầm bậy tầm bạ TH Nguyên: Rớt Vần ề: 1, 2, 4 OK, tới 6 thành on tới 8 thành ương Tầm bậy tầm bạ câu một vần ê, câu tám vần ương . Trật Còn lại bốn người vô bán kết Về vần cuối câu: - Phạm khắc Trí : thơ, vơ, lơ, tơ, thờ : p*** - Nguyên Nhung : xa, thờ, qua, hoa, nhoà : chữ thờ fail - Vũ Hoàng Chương: người, rơi, đời,chơi,ơi : OK - Ngô Tất Tố: mây, nầy, bay, dầy , tây: OK Như vậy còn ba người vô chung kết 1-Phạm Khắc Trí : Lồ lộ HánDương, cây rờn nắng Ngạt ngào Anh Vũ, cỏ khoe tơ. Bài thơ này đâu có nói chổ nào trời nắng Nhật mộ là ngày tàn, mặt trời thoi thóp Tình xuyên, con sông sau khi trời mưa Trong chữ tình 晴có chữ nhật 日 Nhưng không phải vì vậy mà trời nắng Anh Vũ là chim két,bãi anh vũ buổi chiều két về từng bầy Ngạt ngào Anh Vủ phải dịch là om xòm AnhVũ Ông này tự biên tự diện kiểu xí mứng. Không đuọc. 1-Vũ Hoàng Chương Cây bên Hán Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi Đã bảo là không có nắng, mà ông nào cũng nhất định trời nắng. Còn nắng thì làm sao có sương ( yên ba, giangthượng, trời lạnh sương mò mờ trên mặt sông giống như khói. Rồi cái vụ Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi. Giống như xóm bia ôm trong ngày hành quân y tế. Phương thảo thê thê anh vũ châu Đâu có chữ nào nói chơi hay không chơi. Phịa! 3-TH Nguyên Có phải một đi không trở lại Mây trắng nghìn năm phủ sơn khê. Con hạc này giống Kinh Kha sang Tần quá. Chắc nó sắp vô nồi Bạch vân thiên tải không du du Không là ở trên trời, tự nhiên ông này cho mây bay vô núi vô khe. Trong bài này chỉ có cây, cỏ, sông, két Mấy ông này chuyên môn chế tạo lung tung Nói chung ba ông đồng hạng giãi nhì Phải như vậy, lần sau mấy ổng thấy mình là lật đật cho tiền, rồi biểu đi chổ khác chơi
Cái này là phá đám chơi cho vui Chứ mình đâu có bằng cái móng chân của mấy ổng. Đừng cười nhe. NguyễnThanhNhàn (nguồn : trang web MoCayQueToi)
|
|
mk
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 22/Dec/2010 lúc 1:04pm |
Trích môt phần bài của mykieu:
______________________________________________________
Một lần nữa, mời các bạn thưởng thức văn thơ của Măc Thủy với lời của tác giả sau đây:
"Xin gửi 2 câu thơ đến Mỹ Kiều để tỏ lòng tri ân người đã sưu tầm nhiều tài liệu văn học giá trị cho Diễn Đàn GòCông .
“ Chong đèn đọc cổ thi buồn, Mưa rơi xuống chữ nát lòng khách thơ !...”
Mặc Thủy
Và , MT tôi cũng xin “võ vẽ vài chiêu” dịch bài thơ bất hủ Hỏang Hạc Lâu kẻo thiên hạ chê người Gòcông mình không biết gì vể Đường thi. Xin bà con đồng hương mình “ủng hộ” đi…, nhưng mà trong văn chương thì…quân pháp bất vị thân… ( Mặc Thủy)."
Lầu Hòang Hạc Hạc đã mang người vút bóng mây, Còn đây Hòang Hạc trơ vơ đài… Hạc vàng một thuở đi không lại, Mây trắng nghìn năm bay vẫn bay ! Hán Dương sông biếc cây soi rợp, Anh Vũ bãi xanh cỏ mọc đầy… Quê hương đâu hỡi, chiều hôm xuống, Khói sóng đầy sông khiến thở dài !!... Mặc Thủy dịch Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 22/Dec/2010 lúc 1:10pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 22/Dec/2010 lúc 9:18pm |
Cám ơn anh LoCong 15 đã gửi bài thơ của anh Mặc Thủy cho cả nhà thưởng thức .
Cám ơn anh Mặc Thủy về lời khen của anh dành cho mk
Và xin cám ơn "Người-Gò-Công-thích-Đường-Thi" với bài dịch Lấu Hoàng Hạc
Trân trọng,
|
|
mk
|
|
IP Logged | |
trankimbau
Moderator Group Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 424 |
Gởi ngày: 24/Dec/2010 lúc 10:40am |
Anh Nguyễn Thanh Nhàn phá đám mà phá không tới nơi, tới chốn, hay là kỵ cơ với bài thơ thứ 12. Rõ ràng có 12 người họa thơ được ghi số đàng hoàng, nhưng anh chỉ thấy có 11. Tại mần sao vậy?
Bài thơ thứ 12 , tác giả là KHÁCH SẠN NGÀN SAO:
12- Bản dịch của KhachSanNganSao
('KSNS' là nick của một Thụ Nhân khóa 10, rành Hán tự, kiến thức rộng , anh chàng này thích ngao du sơn thủy. May mắn được thỏa ước nguyện , KSNS đi hết 5 châu ( dĩ nhiên gồm cả Châu Phi ) . Bản chất phóng khoáng , thân thiện, cởi mở , nhân hậu, thích kết bạn và thích ... "màn trời chiếu đất" (cả nghĩa đen, khi có chút ... men rượu) nên lấy nick "Khách Sạn Ngàn Sao" . Hiện nay định cư tại Anh Quốc .) Thất NIÊM, hỏng VẬN, trật LUẬT mần sao đây anh Nhàn? Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 24/Dec/2010 lúc 10:42am |
|
kb
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Jan/2011 lúc 1:45am |
có tất cả 24 tác giả dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu.
Tác giả thứ 24 là nhà thơ Mặc Thủy , Đồng Hương Gò Công !
Thật nhanh, anh Mặc Thủy mới dịch xong ngày 23-12-2010 , gửi lên DĐ Gò Công , tham gia mục "Hoàng Hạc Lâu " của mk sưu tầm . Hôm nay đã thấy bài này trên trang www.duongthi.com. =>
Mk copy và gửi cho bà con Xứ Gò cùng đọc cho vui ngày đầu năm mới 2011 ! .
Trân trọng,
mk
Hoàng Hạc Lâu Nguyên tác: Thôi Hiệu 七言律詩 崔顥 黃鶴樓 昔人已乘黃鶴去, 此地空餘黃鶴樓。 黃鶴一去不復返, 白雲千載空悠悠。 晴川歷歷漢陽樹, 芳草萋萋鸚鵡洲。 日暮鄉關何處是? 煙波江上使人愁。 Hoàng Hạc Lâu Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sâu 1--Bản dịch của Tản Đà-- Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. 2--Bản dịch của Vũ Hoàng Chương-- Xưa cánh hạc bay vút bóng người Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi Trắng một mầu mây, vạn vạn đời Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi Gần xa chiều xuống, đâu quê quán? Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi! 3--Bản dịch của Ngô Tất Tố-- Người xưa cưỡi hạc đã cao bay, Lầu hạc còn suông với chốn nàỵ Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn, Nghìn năm mây bạc vẩn vơ baỵ Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng, Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dầỵ Trời tối quê hương đâu tá nhỉ? Đầy sông khói sóng gợi niềm tây 4--Bản dịch của Nguyễn Quảng Tuân-- Người xưa cưỡi hạc đã xa bay Hoàng Hạc lầu không vẫn chốn này Mây trắng ngàn năm lơ lững mãi, Hạc vàng một tếch khuất trùng ngay, Hán Dương sông tạnh cây phô sắc, Anh Vũ cồn xa cỏ mọc dạy Chiều muộn quê nhà đâu khuất bóng? Trên sông khói sóng gợi buồn thay! 5--Bản dịch của Khương Hữu Dụng-- Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút, Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi! Hạc vàng một đi đã đi biệt, Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi. Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng, Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời. Hoàng hôn về đó, quê đâu tá? Khói sóng trên sông não dạ người. 6--Bản dịch của Nguyễn Khuê-- Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu, Còn đấy Hoàng Hạc chỉ trơ lầu. Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy, Mây trắng lững lờ đứng mãi sau. Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng, Bãi thơm Anh Vũ cỏ tươi màu. Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ, Khói sóng trên sông giục khách sầu. 7--Bản dịch của Trần Trọng Kim-- Người đi cưỡi hạc từ xưa, Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu. Hạc vàng đi mất đã lâu, Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông. Hán Dương cây bóng lòng sông, Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì. Chiều hôm lai láng lòng quê, Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu. 8--Bản dịch của Trần Trọng San-- Người xưa cưỡi hạc bay đi mất, Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây. Hạc đã một đi không trở lại, Man mác muôn đời mây trắng bay. Hán-Dương sông tạnh, cây in thắm, Anh-Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày. Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy; Trên sông khói sóng gợi buồn ai. 9--Võ Thị Xuân Đào phỏng dịch-- Bên lầu Hoàng Hạc Người xưa cởi hạc về đâu Còn đây Hoàng Hạc dãi dầu nắng mưa Hạc vàng đã khuất từ xưa Nghìn năm mây trắng hững hờ bay bay Hán Dương cây nước u hoài Cỏ non Anh Vũ xanh dài nhớ thương Quê hương khuất nẻo chiều buôn Đầu sông khói tỏa buồn vương vương buồn 10--Bản dịch của Trần Nhất Lang-- Người xưa cỡi hạc đã đi rồi Lầu Hạc còn trơ đất cũ thôi Một thoáng hạc vàng xa thẳm lánh Ngàn năm mây trắng lững lờ trôi. Hán Dương sông tạnh hàng cây thắm Anh Vũ bờ xanh lớp cỏ tươi (2) Lai láng lòng quê chiều lữ thứ Trên sông khói sóng dạ bồi hồi. 11--Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu-- Thư thả người xưa vui cưỡi hạc Bỏ đây lầu hạc trống buồn tanh Hạc vàng một vút đà bay mất Mây trắng ngàn năm vẫn dạo quanh. Nắng rán la đà cây bến Hán Thảm xanh phơn phớt cỏ châu Anh. Chiều buông mờ nẻo đường quê quán Khói sóng buồn dâng dạ lữ hành. 12--Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn Từ hạc vàng bay quên cánh mỏi Để lầu vàng một cõi bơ vơ Xa rồi bóng hạc khuất mờ Chỉ còn mây trắng lửng lơ lưng trời Nhìn Hán Dương cây soi bóng ngả Cỏ bãi Anh xanh cả môt vùng Tình quê chợt dậy trong lòng Lênh đênh khói sóng, não nùng tâm tư 13--Bản dịch của Phụng Hà--- Người xưa đi mất với hạc vàng, Đây lầu Hoàng Hạc đứng trơ gan. Một thuở hạc vàng đi biền biệt, Nghìn năm mây trắng bay miên man. Sông tạnh Hán Dương cây rạng rỡ, Cỏ thơm Anh Vũ bãi ngút ngàn. Quê nhà mờ khuất chiều lặng tắt, Sông sầu khói sóng, dạ nát tan. 14--Bản dịch của SongNguyễn HànTú-- Người xưa cỡi hạc xa rồi Lầu vàng vẫn đứng trông vời xa xăm Hạc bay biền biệt mù tăm Lưng trời mây trắng ngàn năm lững lờ Hán Dương cây đứng ơ thờ Bãi Anh Vũ trải một bờ cỏ xanh Chiều buông hẳn nhớ quê mình? Nhìn theo khói sóng mông mênh nỗi sầu 14-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn-- Hạc đã xa bay Người tiên không trở lại Lầu cũ còn đây Năm tháng đứng trông ai Vỗ cánh biệt tăm hạc vàng không về nữa Ngàn năm bàng bạc chỉ mây trắng lưng trời Cây chốn Hán Dương lạnh lùng soi bóng nước Bãi xa Anh Vũ Cỏ ngày tháng xanh tươi Quê hương giờ đâu… bóng chiều dần phủ xuống Sương khói mờ sông tâm trĩu nặng… tơi bơi 16--Bản dịch của SongNguyễn HànTú-- Xa rồi hoàng hạc hút chân mây Lầu vắng chơ vơ đứng chốn này Từ thuở hạc vàng xa xôi khuất Còn đây mây trắng lững lờ bay Hán Dương cao vút cây vươn đứng Anh Vũ xanh mơn cỏ mọc dầy Chiều xuống lòng vương sầu viễn xứ Nhìn theo khói sóng chạnh niềm tây 17--Bản dịch của Nguyễn Minh-- Người xưa cưỡi hạc vàng bay đi mất Để tòa nhà nay gọi Hoàng Hạc Lâu Hạc bay đi mãi mãi chẳng quay đầu Mây trắng vẫn ngàn năm bay lờ lững Bờ sông mát Hán Dương cây còn đứng Cỏ thơm xanh bãi Anh Vũ khoe màu Trời chiều rồi quê cũ vọng về đâu? Trên sông nước khói sóng mờ buồn quá . 18--Bản dịch của Nguyễn Thành Ân-- Người xưa cưỡi hạc đi rồi Chỉ còn lầu Hạc lẻ loi chốn này Hạc vàng chẳng trở về đây Ngàn năm mây trắng còn bay giữa trời Cỏ thơm Anh Vũ bời bời Hán Dương cây tốt rạng ngời sông sâu Hoàng hôn quê ở nơi đâu Lặng nhìn khói sóng gợn sầu trên sông. 19--Bản dịch của Trần Văn Thường-- Lầu Hạc vàng (Bản dịch 1) Người xưa cưỡi hạc lên trời Để trên mặt đất nằm phơi lầu này Hạc vàng về chốn xa xăm Ngẩn ngơ mây trắng ngàn năm lạc bày Hán dương tạnh rõ từng cây Bãi Anh vũ cỏ thơm dày mướt xanh Lầu cao, chiều ngóng quê mình Sông dày khói sóng, thi nhân nổi sầu (Bản dịch 2) Hạc vàng đưa người xưa đi đâu Trơ giữa chiều vàng hoàng Hạc lâu Cõi trời thăm thẳm, xanh ngơ ngác Ngàn năm cô quạnh, mây bạc đầu Cổ thụ Hán Dương xanh vời vợi Cỏ mềm Anh Vũ mượt mà thơm Khói sóng sông chiều sầu khôn nói Cố hương xa ngóng ngẩn ngơ buồn. 20--Bản dịch của Hạ Huyền-- Người xưa cỡi hạc đi rồi Để cho lầu hạc nơi này trống không. Hạc vàng đi mãi không hoàn Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay bay. Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xanh Anh Vũ rậm dày cỏ thơm. Quê nhà đâu nhĩ hòang hôn? Trên sông khói sóng khiến buồn người ta! 21--Bản dịch của Anh-Nguyên-- Hạc vàng, người cỡi di rồi, Nơi đây, lầu Hạc bên trời bơ vơ. Hạc đi, trở lại bao giờ, Nghìn năm, mây trắng hững hờ còn bay. Hán-Dương, sông bóng hàng cây, Bãi Anh-Vũ vẫn xanh đầy cỏ thơm. Quê hương đâu lúc hoàng hôn, Trên sông khói sóng khiến buồn người ta!... 22--Bản dịch của Hoàng Thiên Kim-- Thể Bát Cú Hạc vàng người cưỡi đã đi đâu Chốn ấy còn trơ dáng Hạc lầu Một vắng phượng hoàng biền biệt mãi Nghìn năm mây trắng vẩn vơ trầu Hán Dương bến nước cây in bóng Anh Vũ bờ thơm cỏ xanh màu Lữ thứ chiều nhìn quê khuất bóng Trên sông khói sóng gợi u sầu Thể Song Thất Lục Bát Người xưa cưỡi hạc bay đi mất Để Hoàng Hạc đứng thật bơ vơ Hạc vàng một thuở khuất mờ Nghìn năm mây bạc lững lờ bay bay Hán Dương sông tạnh cây soi bóng Bến châu Anh cỏ óng xanh màu Chiều nhìn chẳng thấy quê đâu Mênh mông khói sóng gợi sầu lòng ai? 23--Bản dịch của Hoàng Hà Vũ Quang Hân-- Cỡi hạc người xưa vút tận trời Đất này lầu Hạc quá chơi vơi Một đi cánh hạc không về nữa Mây trắng ngàn năm man mác trôi Cây bến Hán Dương dòng nước lặng Cỏ bờ Anh Vũ vẫn thơm tươi Bâng khuâng chiều xuống đâu quê cũ Khói sóng khơi buồn sông nước ơi 24--Bản dịch của Mặc Thủy-- Hạc đã mang người vút bóng mây Còn đây Hoàng Hạc trơ vơ đài Hạc vàng một thuở đi không lại Mây trắng ngàn năm bay vẫn bay Hán Dương sông biếc cây soi rợp Anh Vũ bãi xanh cỏ mọc đầy Quê hương đâu hỡi ! chiều hôm xuống Khói sóng đầy sông khiến thở dài Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Jan/2011 lúc 6:40pm |
|
mk
|
|
IP Logged | |
Phương Vy
Senior Member Tham gia ngày: 07/May/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 134 |
Gởi ngày: 03/Jan/2011 lúc 7:43pm |
Chị Mỹ Kiều ơi, những bài thơ Đường, thơ dịch hay quá! Cám ơn chị MK đã sưu tầm và gửi lên cho mọi người cùng thưởng thức nhé!
PV mến chúc chị Mỹ Kiều cùng Quý Thân Hữu Gò Công năm mới an vui, mạnh khoẻ, nhiều may mắn và gửi đến cho diễn đàn nhiều bài viết, bài sưu tầm hay, lạ, đầy ý nghĩa...
PV
|
|
Có một lời ta chưa nói thành chữ... như đã nghe nhiều lắm ở trong tim
"anh cất rồi, em giữ kỹ làm tin... nên chưa nói mà như mình đã nói!" |
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Jan/2011 lúc 6:35pm |
Cám ơn Phương Vy
mk thân ái chúc Phương Vy và DĐ năm 2011 tràn đầy sức khỏe ... tràn ngập hạnh phúc ... và Phuong Vy nguồn thi hứng bất tận nhé
mykieu
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Jan/2011 lúc 6:36pm |
|
mk
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Mar/2011 lúc 10:39am |
Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài
Nguyên tác: Lý Bạch 李白 登金陵鳳凰台 鳳凰台上鳳凰游, 鳳去台空江自流。 吳宮花草埋幽徑, 晉代衣冠成古邱。 三台半落青山外, 二水中分白鷺洲。 總為浮雲能蔽日, 長安不見使人愁。 Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài Phượng Hoàng đài thượng phượng hoàng du, Phượng khứ, đài không, giang tự lưu. Ngô cung hoa thảo mai u kính, Tấn đại y quan thành cổ khâu. Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại, Nhị thuỷ trung phân Bạch Lộ châu, Tổng vị phù vân năng tế nhật, Trường An bất kiến sử nhân sầu. Bản dịch
theo cụ Trần Văn Ân và GS Trần Trọng San
Đài Phượng, Phượng Hoàng đã ghé chơi
Phượng đi, đài vắng, nước còn trôi Cung Ngô đường nẻo cỏ hoa lấp Triều Tấn mũ xiêm gò đất vùi Nửa rụng ngoài trời ba núi đứng Chia đều giữa bãi mấy dòng xuôi Chỉ vì mây nổi che vừng nắng Chẳng thấy Trường An luống ngậm ngùi. -- Bản dịch của Khương Hữu Dụng -- Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng * Đài Phượng Hoàng cao, phượng đến chơi, Phượng đi, đài vắng, dải sông trôi ! Cung Ngô hoa cỏ che đường lối, Đời Tấn cân đai hoá núi đồi. Ba ngọn thanh sơn, trời khuất nửa, Một vùng Bạch Lộ nước chia đôi. Chỉ vì mây nổi che vầng nhật, Chẳng thấy Trường An não dạ người. * Nay là thành phố Nam Kinh --Bản dịch của Trần Nhất Lang-- -Bài I Đài Phượng ngày xưa phượng đến chơi Phượng bay, Đài trống, bến sông trôi Cung Ngô thành quách cây che dấu Triều Tấn y quan cỏ lấp đồi. Ba dẫy Tam Sơn trời khuất nửa Một dòng Bạch Lộ nước phân đôi Buồn thay vầng nhật chìm mây bạc Vắng bóng Trường An nhớ khó nguôi. -Bài II Phượng hoàng tới, phượng bay rồi Phượng đi, Đài trống, sông trôi lạnh lùng. Cỏ hoa vùi lấp Ngô cung Y quan đời Tấn một vùng hoang sơ. Tam Sơn khuất nửa trời mờ Bãi xa Bạch Lộ nước đưa hai dòng. Mây che lấp bóng vầng hồng Trường An không thấy, cõi lòng buồn thêm. -- Bản dịch của Phụng Hà --- Phượng đài, xưa phượng đến chơi luôn , Phượng đi, đài vắng, nước sông tuôn . Đường lối cung Ngô vùi hoa cỏ , Cân đai triều Tấn khuất gò truông . Trời xanh che lấp non ba ngọn , Châu Bạch phân chia nước hai luồng . Mặt trời lẫn khuất trong mây nổi , Trường An không thấy, tấc dạ buồn . Bản dịch của SongNguyễn HànTú Phụng Hoàng Đài Xưa đài Phụng Phượng nhởn nhơ Giờ đây chốn cũ Bóng chim khuất mờ Cỏ hoa che lối cung Ngô Áo vua quan Tấn chôn hờ gò xưa Núi biêng biếc Trời xanh lơ Cồn hoang Bạch Lộ chia bờ nhánh sông Mặt trời khuất Mây bềnh bồng Trường An nhạt bóng bâng khuâng lòng người -- Bản dịch của Nguyễn Minh -- Phụng hoàng xưa lui tới Đài Phụng Hoàng Nay phụng mất, đài hoang, bên sông vắng Kìa cung Ngô cỏ âm u thiếu nắng Nọ đống gò chôn mũ áo Tấn triều Ánh mặt trời soi nửa núi cô liêu Sông hai ngả nơi bãi bồi Bạch Lộ Ngặt vì mây che nắng chiều đang đổ Nẻo Trường An không thấy tái tê buồn . --Bản dịch của Anh Nguyên-- Lên đài Phượng-Hoàng ở Kim-Lăng Phượng-Hoàng đài, phượng đến chơi, Phượng đi, đài trống, sông trôi chảy đều. Cung Ngô, hoa cỏ tiêu điều, Gò xưa, mũ áo Tấn triều vùi sâu. Tam-Sơn nửa lọt trời sầu, Dòng sông Nhị-Thủy, Lộ-Châu đôi bờ. Mặt trời đã khuất mây mờ, Trường-An chẳng thấy, thẫn thờ lòng ai... http://www.hoasontrang.us/tangpoems/duongthi.php?loi=27 |
|
mk
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Mar/2011 lúc 11:31am |
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
Dịch (theo cụ Trần Văn Ân và GS Trần Trọng San) Đài Phượng, Phượng Hoàng đã ghé chơi
Phượng đi, đài vắng, nước còn trôi Cung Ngô đường nẻo cỏ hoa lấp Triều Tấn mũ xiêm gò đất vùi Nửa rụng ngoài trời ba núi đứng Chia đều giữa bãi mấy dòng xuôi Chỉ vì mây nổi che vừng nắng Chẳng thấy Trường An luống ngậm ngùi.
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu (Có cảnh trước mắt, mà nói ra không được Vì Thôi Hiệu đã nói hết cả rồi trong bài thơ đề ở trên đầu)
Tuy vậy, sau đó Lý Bạch vẫn làm ra ít là hai bài phỏng theo ý chính của “Hoàng Hạc Lâu”. Đó là các bài Phượng Hoàng Đài, và Anh Vũ Châu.
Bài Hoàng Hạc Lâu gợi lên ý tưởng rằng người xưa đã cưỡi hạc bay đi mất rồi, và đã trở thành cát bụi, như bao đấng Thánh Nhân tự cổ thời. Ngôi lầu Hoàng Hạc còn lại đây chỉ là cái thừa thãi, chẳng có giá trị gì bao nhiêu. Tuy nhiên, nếu chịu khó nâng tâm hồn lên, ngửa mặt nhìn trời, thì sẽ thấy đám mây trắng trước kia đã từng nâng đỡ cánh hạc của người xưa, nay vẫn còn đó, biểu tượng cho cái chân lý thường hằng tiềm ẩn trong Đạo Lý của các Ngài. Biết được như vậy, thì nên quý trọng cái thường hằng ấy, mà rẻ khinh những cái bề ngoài, những kinh điển từ chương, những chuyện phù phiếm hư huyễn, như ngôi lầu Hoàng Hạc. Rồi tác giả nói sang vẻ rực rỡ xanh tươi của cảnh vật chung quanh lầu Hoàng Hạc, để cho rằng những cảnh đẹp ấy cũng chẳng làm rung động được tâm hồn ông, vì lòng ông luôn mãi hướng về quê cũ. Trong lúc màn chiều buông phủ, khói sóng dâng lên làm mờ cảnh vật tươi đẹp chính là biểu tượng của nỗi buồn nhớ quê hương của tác giả, sóa nhòa những thắng cảnh trước mặt ông, khiến ông chẳng muốn đoái hoài gì đến chúng, như đã từng rẻ khinh lầu Hoàng Hạc ở đoạn trên. THỪA MỘT CÂU ? Trong bài Hoàng Hạc Lâu, lầu Hoàng Hạc chỉ được nhắc đến có một lần ở câu hai. Tương tự như vậy, trong bài Phượng Hoàng Đài này, Lý Bạch chỉ nói đến đài Phượng Hoàng ở hai câu đầu, mà câu thứ nhất lại thường bị coi là thừa thãi. Thật vậy, nói: “Đài Phượng, Phượng Hoàng đã ghé chơi” có một vẻ gì không cần thiết, như nói đến một sự đương nhiên. Kim Thánh Thán chê câu này thậm tệ. Tuy vậy, riêng tôi lại rất khoái câu ấy. Cái “duyên” của nó là chẳng nói gì cả, có vẻ như giỡn chơi, nhưng lại nhẹ nhàng đưa xuống câu dưới một cách thực là thấm thía. Bạn thử tưởng tượng khách đa tình nọ ghé chơi nhà người yêu, được khách coi như “của mình” :“Đài Phượng, phượng hoàng đã ghé chơi” đấy ! Rồi khách ra đi : “Phượng khứ, đài không”, đài kia bỏ trống, đơn lẻ quạnh hiu, trong lúc “nước sông vẫn chảy”, thời gian vẫn trôi, thách thức sự đợi chờ mòn mỏi...Não nùng đấy chứ ? Lý Bạch có nghĩ giống vậy không ? Biết đâu chừng ! Chàng thi sĩ lãng mạn này đã từng thâm cảm tình huống
“Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng (Người yêu kề bên, hoa nở đầy nhà, Người yêu vắng bóng, giường chiếu trống không) (Ký viễn)
thì cái cảnh “Phượng đi, đài vắng” này nào có khác gì bao nhiêu ? Dù sao, cái khéo của tiên sinh ở chỗ đang nói những chuyện đương nhiên, nào “đài Phượng, Phượng Hoàng đã ghé chơi”, nào “Phượng đi, đài vắng”, rồi bất chợt chặt đứt sự trôi chảy nhẹ nhàng ấy bằng ba chữ “giang tự lưu": nước sông vẫn chảy. Đang nói chuyện Phượng và Đài Phượng, có ăn nhằm gì đến “sông vẫn chảy” ? Quả thực chẳng ăn nhằm gì, nếu “sông vẫn chảy” không biểu tượng cho thời gian trôi. Ôi ! “Tương tư hoàng diệp tận, bạch lộ thấp thanh đài": nhớ người đến lá vàng rụng sạch, chỉ còn sương trắng ướt rêu xanh, như mái tóc đã bạc màu, trong khi tấm lòng ngày càng lạnh lẽo...Người chờ đợi, nhưng thời gian nào có đợi chờ ai ?
SÔNG VẪN CHẢY, MÂY TRẮNG VẪN TRÔI : Nếu lấy ý của bài Hoàng Hạc Lâu, thì “sông vẫn chảy” ứng với câu “mây trắng ngàn năm vẫn mãi trôi” (Bạch vân thiên tái không du du), tức là biểu tượng cho cái thường hằng bất biến ở trong sự vật vô thường luôn biến đổi. Nhưng họ Lý khác với Thôi Hiệu. Bài của Lý Bạch cũng nói theo ý ấy, nhưng không mấy gì có vẻ “Đạo Lý”, mà lại làm cho ta liên tưởng đến một chuyện tình...
Cũng như Thôi Hiệu, Lý Bạch dùng hai chữ “khứ” và “không” để vào đề. Thôi Hiệu đặt các chữ ấy ở hai câu : Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Lý Bạch thì dồn cả “khứ” và “không” vào một câu (Phượng khứ đài không giang tự lưu). Thánh Thán cho đó là để dấu hình tích, tránh bị chê là bắt chước. Tôi không đồng ý với quan điểm này. Còn nhiều sự tương đồng khác giữa hai bài thơ, Lý Bạch cần gì phải “dấu hình tích” bằng một tiểu xảo như vậy ?
TRỞ VỀ CÁT BỤI : Hai câu ba và bốn nối tiếp ý tưởng giòng thời gian luôn mãi lạnh lùng trôi, và soi mòn, tàn phá tất cả. Của cải, uy quyền trên cõi thế, với thời gian đều trở về với cát bụi. Lý Bạch dõi mắt nhìn Cung Ngô, chỉ thấy đền đài bỏ hoang, cỏ hoa che lối. Rồi biết Tấn là triều đại đã đanh dẹp Ngô, mà nhìn về Tấn, cũng chỉ thấy áo mão xiêm y đã biến thành gò đất lạnh tự bao giờ rồi ! Còn tham lam đeo đuổi làm gì những của cải uy quyền thế gian ? Phải chăng là ứng với ý tưởng nên nâng tâm hồn lên, ngửa mặt nhìn trời, tìm một cái gì cao quý hơn những điều hư huyễn ở đời, như đã được diễn bày trong bài Hoàng Hạc Lâu ?
NGỬA MẶT NHÌN TRỜI : Và Lý Bạch đã nhìn, nhìn mãi, để thấy : Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
(Ba ngọn núi nửa như rơi ra ngoài trời xanh) Làm sao núi lại rơi được ra ngoài trời xanh ? Thưa rằng : vì cố sức nhìn mãi, như muốn xuyên thủng trời xanh, nhưng lại luôn bị ba ngọn núi kia cản trở (Tam Sơn ở Tây Nam thành Kim Lăng), cho nên dần dần thi sĩ có ảo giác sức nhìn của mình đẩy lùi được núi ra ngoài trời xanh ! Một ảo giác khá ngộ ! Cũng có thể nghĩ cảm giác này do nhìn mãi mỏi mắt mà sanh ra. Dù sao, điều cần tự hỏi là Lý Bạch nhìn gì mà dữ vậy ? Tìm một mối tình, một kỷ niệm, hay một chân lý thường hằng của Trời Đất, một sự giải thoát khỏi nỗi phù du của kiếp người ? Tìm gì, để rồi chỉ thấy một ảo giác ? Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
tóm thâu tất cả cái tuyệt vọng của kiếp người bé bỏng, mong manh, trước năng lực của định mệnh. “Tổng vị phù vân” là :“tất cả chỉ vì một đám mây nổi”. Đám mây bồng bềnh, như làn khói, có cũng như không, nhìn thì thấy, mà muốn nắm bắt lại chẳng được, khi chỗ này, lúc nơi khác, nổi trôi vô định, ngược hẳn lại với cái thực thể vô cùng “quan trọng” là mặt trời, đầy sức mạnh, đem lại năng lực cho muôn loài, và luôn theo một đường đi cố định, không bao giờ sai chuyển. Thế mà một đám mây nhỏ bồng bềnh, lại có khả năng che khuất mặt trời, làm cảnh vật mờ tối ! Cuộc sống con người có khác chi ? Những gì ta đã đem bao nghị lực và tài trí ra xây dựng : địa vị, sự nghiệp, tiền của, hạnh phúc gia đình v.v...tưởng rằng kiên cố lắm, nhưng chỉ cần một biến cố nhỏ, như đám “phù vân” kia, là có thể sụp đổ như lâu đài trên cát. Cung Ngô, Triều Tấn, cũng vậy. Phải chăng Vua nào lên cũng được tuyên dương “vạn tuế”, triều đại nào cũng được tán tụng “muôn năm”, nhưng rốt cuộc rồi cũng đều quay về cát bụi, nhiều khi chỉ vì một nguyên do vặt vãnh ? Ngô thắng Tào nghe đâu chỉ vì một ngọn gió ? Tấn diệt Thục, rồi diệt Ngô, phải chăng chỉ tại cơn đau bụng của Khương Duy ?
Trong đời sống tâm linh cũng thế. Nhiều người tưởng mình đã đạt đến một sự ổn định nội tâm cao độ, một nền tảng đạo đức không gì lay chuyển được, nhưng có biết đâu chỉ cần một thử thách nhỏ, nhưng trúng vào nhược điểm của họ, là họ có thể rơi vào những điều sai quấy, tội lỗi, ác độc ? Nếu một đám mây hư huyễn mà che được cả mặt trời thì bất cứ nguyên do nhỏ nhặt nào cũng có thể đưa đến bất cứ chuyện gì. Câu chuyện đám mây che mặt trời, sau những suy tưởng đã được diễn bày trong các đoạn trước, khiến ta càng cảm nhận rõ ràng hơn sự bé bỏng khiêm nhường của kiếp sống con người. TRƯỜNG AN BẤT KIẾN : Cung như Thôi Hiệu, Lý Bạch kết thúc bài thơ bằng ba chữ “sử nhân sầu” (khiến người buồn). Ở đây, người buồn vì không thấy được Trường An, do đám mây nổi che khuất mặt trời. Thật ra, từ Kim Lăng làm sao nhìn được đến tận Trường An ? Đó chỉ là một biểu tượng. “Trường An bất kiến” đại diện cho tất cả những nỗi niềm ưu sầu của tác giả, đã được nói đến trong bài, từ chuyện đài Phượng với phượng hoàng, cho tới các suy nghĩ về “Ngô cung”, “Tấn đại”, thời gian trôi, ảo giác và thực tại, và nhất là ý tưởng “đám mây nổi che được mặt trời”. Cần chú ý câu : Tổng vị phù vân năng tế nhật phải được dịch là “Tất cả chỉ vì đám mây nổi che được mặt trời”.
Tức là tất cả những sự mong manh của số kiếp con người mà Lý tiên sinh đã ghi nhận trong sáu câu trên, đều chỉ tùy thuộc những nguyên nhân vụn vặt, như đám mây nổi kia, chứ không phải chỉ riêng sự kiện “Trường An bất kiến” mà thôi đâu !
Nỗi buồn “Trường An bất kiến” rất “hiện sinh”. Đó chính là lo buồn cơ bản của cuộc sống (angoisse existentielle). Nó cho thấy một sự thiếu vắng ý nghĩa của đời người, một khoảng trống, mà Lý Bạch đã cố lấp đầy, không những bằng thơ văn, mà bằng cả rượu chè, trăng gió, mỹ nhân, bằng miệt mài truy hoan trong những cuộc chơi tuyệt vọng, những mong tiêu được “vạn cổ sầu” (dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu). Nhưng, sầu vẫn cứ sầu, như lời tiên sinh :
Trừu đao đoạn thủy thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu (Hạ gươm chặt nước, nước vẫn chảy, Nâng chén giải sầu, sầu vẫn sầu).
Tương truyền ngày kia tiên sinh nhìn ánh trăng trong đáy nước, mà muốn ôm chầm lấy, để rồi lặng lẽ lìa đời trong giòng nước lạnh...
TÓM LẠI : Người ta nói Lý Bạch làm bài này là thua Hoàng Hạc Lâu một bực. Tôi không nghĩ thế. Bài của Thôi Hiệu cho ta cảm giác khinh rẻ lầu Hoàng Hạc, và coi nhẹ cảnh vật chung quanh lầu này. Lý tiên sinh, ngược lại, cho ta cảm giác tội nghiệp Đài Phượng cô liêu, mỏi mòn đợi chờ Phượng Hoàng ghé đến, và thương cho bao sinh linh đã vùi chôn tánh mạng cho cung Ngô, triều Tấn, cũng như bao người khác đã lãng phí cuộc đời mình cho danh vọng, tiền tài, sự nghiệp v.v...Nếu ta thông cảm với nỗi buồn tưởng nhớ quê hương của Thôi Hiệu, thì ta càng thông cảm hơn với nỗi buồn “hiện sinh” của Lý Bạch trước năm tháng hững hờ trôi, trước số phận mong manh của kiếp người. Khoảng trống trong cuộc sống mà Lý Bạch gợi lên, quả thực là một cảm giác rất “người”, mà ta khó mà không chia sẻ. Mặt khác, ý thức được khoảng trống ấy, chính là bước đầu để tìm cách lấp đầy nó. Thật vậy, kiếp người lẽ nào lại như những cung điện đền đài kia, chỉ hiện hữu để chờ thời gian soi mòn, tiêu hủy ? Đâu là giá trị, là ý nghĩa của cái kiếp sống mong manh, phù du ấy ? Pascal từng nói đại ý rằng : con người chỉ là một cây sậy, một cây sậy biết suy tư, yếu đuối nhất trong thiên nhiên, chỉ cần một giọt nước, một ngọn gió, cũng có thể tiêu hủy được (Tổng vị phù vân năng tế nhật đấy !). Tuy nhiên, ngay cả khi toàn thể Vũ Trụ liên kết lại để hủy diệt con người, thì con người sẽ vẫn mạnh hơn tất cả những gì có thể giết nó, vì con người biết mình chết, trong khi chính sự ưu thắng của Vũ Trụ trên con người, Vũ Trụ cũng chẳng hề biết đến, chẳng thể ý thức được. Thật vậy, chính nhờ ý thức mà con người có thể vươn lên. Chính nhờ ý thức mà con người hướng được đến Ý Thức Nguyên Thủy, nguồn của mọi sự, tiềm tàng trong tất cả, quy định tất cả. Thêm vào đó, nếu tin được rằng Ý Thức ấy là Tình Yêu, và sống thực trong Tình Yêu này, thì những lo buồn của kiếp người có nhiều hy vọng sẽ hóa giải được vậy. Phúc cho những ai có một Niềm Tin, và sống thực Niềm Tin ấy... NGUYỄN HOÀI VÂN
23 tháng 9 1994 |
|
mk
|
|
IP Logged | |
Trang of 3 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |