Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 08/Jan/2019 lúc 12:47pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 10/Jan/2019 lúc 10:17am

TẾT XƯA


Related%20image
Hai ba tháng chạp tới rồi.
Nội tôi đi chợ ở nơi gần nhà
Khi còn ở tận đàng xa.
Mái tranh cổng chợ hiện ra rành rành.
                      ***


Image%20result%20for%20mua%20Vịt

Người dân ra chợ loanh quanh.
Có bà mua Vịt để dành ba mươi.
Trong chợ kẻ nói người cười.
Cô hàng gạo tấm thật tươi mời chào.

Image%20result%20for%20Ông%20sạp%20thịt,%20cầm%20con%20dao

Ông sạp thịt, cầm con dao
Thái một miếng thịt, cho vào cái cân.
Người mua, ra vẻ tần ngần.
Trả tiền lấy thịt, dần dà bước đi.


Image%20result%20for%20green%20banana%20leaf

Một mớ lá chuối xanh rì.
Ai mà gói bánh, lắm khi rất cần.
Nội tôi, dạo bước đến gần.


Image%20result%20for%20Gian%20hàng%20bánh%20mứt

Gian hàng bánh mứt, nhìn ngon thấu trời.
Thèo lèo cứt chuột người ơi!
Mua cúng ông Táo, cho đời thêm may.
Một năm, tháng ngắn ngày dài.

Image%20result%20for%20Táo%20ông%20ghi%20sổ%20về%20ngay%20Ngọc%20Hoàng

Táo ông ghi sổ về ngay Ngọc Hoàng.
Nhà nào hiền, được bình an.
Ai mà ở ác, xốn xang cõi lòng.
Ông thầy bói, đứng long nhong


Image%20result%20for%20Ông%20thầy%20bói

Bộ bài cầm lấy, trên tay mu Rùa.
Khi tiền trong tộ nó khua.
Ba hoa ông nọ đón bừa cho xong.
Năm nay số mợ rất hồng.
Không làm đụng đến, ở không có tiền.
Rồi thầy giải thích huyên thuyên
Chỉ tay, tướng mạo, thần tiên mách rồi.

Image%20result%20for%20tet%20lien%20Vẽ%20lên%20cánh%20cửa

Mợ về lấy chiếc bình vôi
Vẽ lên cánh cửa, ắc thời bình an.
Mợ nọ cười rổn cười rang.
Một đồng bạc cắc, đưa sang cho thầy.


Image%20result%20for%20chú%20bán%20thịt%20quay

Một cô má đỏ hây hây
Dù che bóng nắng bước ngay vô nhà.
Nơi mà chú bán thịt quay.
Vài con heo sữa chú bày biện ra.
Kế đó là mấy con gà.
Chú quay đỏ ửng, thịt da chín giòn.
Ông già cầm chiếc “Ba ton”
Tay chân bủn rủn, đưa con mắt nhìn.
Cô nọ chẳng nói mần thinh.
Chỉ con heo nọ chình ình cạnh cô.
Chú “Cắt chú” liền vập vồ
Bỏ lên cân đó, để cô trả tiền.
Hai bên cười nói huyên thuyên.
Tiền thâu, heo lấy, muộn phiền không ai.
Cô ta tặng nụ cười duyên.
Khiến chú “Cắt chú” muốn điên cái đầu.

Image%20result%20for%20Tmua%20Lân

Bổng đâu bên phía đầu cầu.
Trống Lân dồn dập người đâu bu đầy.
Tưng bừng hoa lá cỏ cây.
Muốn cùng hòa nhịp với bầy lân kia.
Có một ông, như chầu rìa.
Chê Lân múa dở, tía lia một hồi.
Kết cuộc diễn ra thật tồi.
Ông bị đánh mấy “Cù lôi” vô mình.
Coi miễn phí phải làm thinh.
Bô lô cái miệng thiệt mình thế thôi.



Image%20result%20for%20Xe%20dưa%20hấu

Xe dưa hấu đỗ xuống rồi.
Nội tôi mua lấy một đôi đem về.
Để rồi mùng một mang ra
Chưng ba ngày tết, hương hoa quê nhà.

Image%20result%20for%20Bầu%20cua%20cá%20cọp

Thoạt trông thấy phía đàng xa.
Bầu cua cá cọp, thả ga đặt tiền.
Có người đặt trúng liên miên.
Có người sạch túi muộn phiền xảy ra.
Anh ta đặt cửa con gà.
Con cua, tôm, cá, nó ra tức thì.
Giận lòng anh định bỏ đi.
Nghĩ lại anh quyết nhất thì ăn thua.
Giống như chơi bài cào “dùa”
Ba Tây anh nắm làm vua nhất thời.
Ngờ đâu như lá vàng rơi
Mùa Thu rụng lá hết tiền anh luôn.
Giá mà cuộc sống thật suôn.
Thằng Bần kia nó chẳng điên chẳng khùng.
Ông Địa cất bước lùng nhùng
Chân đá phong pháo hất tung lên rời.
Xác pháo nổ đỏ tơi bời.
Xung quanh quán chợ, ở nơi cạnh chùa.
                        ***


Related%20image

Một cụ ghé lại để mua
Chú rùa con nhỏ, phóng sinh với đời.
Bà bán kỳ kèo một hơi.
“Thôi bán ông đó, để tôi còn về”
Cả hai đều thấy hả hê
Thuận mua vừa bán, đôi bề  hân hoan.

Image%20result%20for%20cho%20hoa%20tet

Trời chiều chợ cũng sắp tàn.
Bông hoa tiu nghỉu, còn đây nhiều hàng.
Mai vàng, Vạn thọ, Cúc sang
Chờ người mua bán dọc ngang qua đường.
Rốt cuộc trời hãy còn thương.
Hoa kia bán sạch chẳng còn một cây.
Người nông dân sẽ đủ đầy.
Họ không phải khóc ở ngay sân nhà.
Đời người một kiếp trồng hoa.
Giúp đời làm đẹp nhà nhà vui tươi….
                      ***

Image%20result%20for%20phao%20no

Ba mươi tết thật nhiệm mầu.
Giao thừa đã đến ở đâu đất trời
Người dân Việt ở muôn nơi.
Thắp lên hương khói, nối đời tiền nhân.
Nội tôi vui vẻ ân cần.
Lì xì con cháu ở trong sân nhà.
Thế là tiếng pháo vọng qua.
Tiếng chuông mừng tết chùa gần chùa xa.
Hạnh phúc tràn đến mọi nhà.
Con dân trăm họ hoan ca thái bình.
                        ***
Đất nước cứ mãi chiến chinh
Lầm than khổ sở tội tình muôn dân.
Những khi chiến sự thật gần.
Tết dần phai nhạt, ai ta cũng buồn.
Nội tôi già yếu bệnh luôn.
Từ biệt trần thế, con buồn nội ơi
Ngồi đây lần mở sổ đời .
Mấy mươi năm đến, Tết qua hững hờ.
Mỗi lần Tết, thấy bơ vơ.
Hình bóng của nội, ngồi chờ chúng con.
Mộng ước ngày đó vẫn còn.
Tết xưa kia ấy, con đây ghi lòng
Ghi chú : Viết câu chuyện này nhớ lại những ngày Tết thập niên 60 thật thanh bình và ấm cúm, ngày đó xa lắm rồi ….




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 10/Jan/2019 lúc 11:28am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 11/Jan/2019 lúc 8:18am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Jan/2019 lúc 12:23pm

Bài Toán Cuối Năm

Related%20image

Thằng Cu Tí ra check hộp thư và chạy vào nhà mừng ríu rít:
- Có thư Việt Nam bố ơi!
Anh Bông giật mình, nghi ngờ:
- Con có nhìn lộn không hả?
Thằng Cu Tí hớn hở khoe tài:
- Cái thư màu xanh xanh, có ghi chữ Việt Nam. Con 13 tuổi rồi, con biết đây là chữ Việt Nam mà. Chắc thư của bà ngoại hả bố?
Thôi chết rồi, con anh nói đúng. Anh gắt:
- Có thế mà con cũng mừng reo lên như trúng số. Đưa thư đây.
Anh uể oải mở lá thư ra đọc, vì kinh nghiệm bấy lâu cho anh biết rằng đọc lá thư từ Việt Nam gởi sang sẽ nặng đầu và nặng lòng lắm, hơn cả người ta vác bao gạo một tạ trên lưng.
Thằng cu Tí vẫn đứng bên cạnh ngong ngóng chờ hóng chuyện, vì nó cũng kinh nghiệm, mỗi lần có thư Việt Nam là có một biến cố gì đó đã xảy ra cho người thân của mẹ nó.
Thấy bố đọc xong không nói gì, nó sốt ruột hỏi:
- Có phải bà ngoại lại bệnh hay bác Ba phải vào bệnh viện mổ ruột dư nữa không bố?
- Không phải đâu con ơi… Anh đáp như rên rỉ.
- Vậy sao mặt bố vẫn buồn thế? Đáng lẽ bố phải mừng vì bà ngoại và bác Ba không bệnh nữa chứ.
- Nhưng… dì Út của con mới bị giựt hụi, phải cầm cố nhà cửa để trả nợ kia kìa...
- Nghĩa là hết tiền, là nhà nghèo hở bố?
- Đúng thế. Tóm lại dì Út đang cần nhà mình giúp đỡ.
Cu Tí ngạc nhiên:
- Sao bên ngoại xui quá vậy bố? Thư nào gởi sang cũng có tin buồn, hết bà ngoại mắc bệnh, tới chú, bác, cô dì…
Anh Bông được dịp tuôn trào:
- Chưa hết đâu con, bên phía họ hàng gần xa cũng “xui” luôn. Bà con của mẹ con ở dưới quê thỉnh thoảng viết thư sang hỏi thăm sức khỏe nhà mình rất nhiệt tình, nhưng phần tái bút mới là quan trọng, không bao giờ họ quên báo cáo tình hình mùa màng, ruộng lúa thì mất mùa, vườn rau trái bị sâu rầy. Dưới ao thì cá không lớn nổi vì thiếu tiền mua thực phẩm, trên bờ gà vịt bị toi, bị dịch…
Thằng cu Tí lại kêu lên sửng sốt:
- Sao toàn bộ gia đình, họ hàng bên Việt Nam của mẹ đều xui hết vậy ? Sao họ bất hạnh quá vậy? Nhưng nhà mình đâu phải hội từ thiện mà họ xin tiền hoài vậy?
Anh Bông lại bực mình gắt:
- Sao con hỏi nhiều qúa vậy?
Thấy thằng bé tiu nghỉu, anh chuyển đề tài:
- Trong thư bà ngoại cũng kêu nhà mình về Việt Nam ăn Tết như năm ngoái đấy.
Cu Tí sáng mắt lên như vừa khám phá ra một kho tàng:
- Lạ lắm bố ạ, năm ngoái về Việt Nam, con thấy bà ngoại và bác Ba vẫn béo mập, khỏe mạnh, không có ốm đau, nghèo khổ như trong thư họ viết. Nhà nào cũng ăn Tết tưng bừng nhiều món, họ cười nói sung sướng lắm mà bố?
Anh đáp cho xong chuyện:
- Thì coi như họ mới khỏi bệnh, nên họ ăn Tết và ăn mừng luôn.
Chị Bông vừa đi đâu về, anh đưa lá thư Việt Nam cho vợ. Đọc xong chị chép miệng:
- Tội nghiệp dì Út qúa, chắc mẹ kêu mình về Việt Nam trước là ăn Tết, sau là an ủi, giúp đỡ dì Út cho đỡ tủi? Anh tính sao?
- Em trả lời mẹ đi “Xuân này con không về”.
- Sao nghe quen quen, giống như tên một bản nhạc nào đó vậy anh?
- Là bản nhạc Duy Khánh thường hát mỗi khi Xuân về, có câu: “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm?”. Thà rằng để mẹ buồn, chứ tiền đâu mà về? năm ngoái về rồi, năm nay về nữa thì qua Mỹ bán nhà luôn, trắng tay có ngày.
Chị Bông than thở:
- Kinh tế khó khăn, làm ảnh hưởng đến mình, vật giá leo thang, đi chợ cứ như bị ai móc túi anh ạ. Tiền xăng, tiền điện nước cũng lên giá.
- Cả gia đình về Việt Nam hao tốn tiền máy bay, xe cộ đã nhiều, mà tiền biếu tặng, tiêu xài bên Việt Nam càng nhiều hơn. Đi một chuyến như một người vừa trải qua cơn bệnh thập tử nhất sinh, đâu dễ phục hồi ngay được. Em hiểu chưa?
- Em hiểu rồi, nhưng mẹ em… chưa hiểu. Cũng sắp tới ngày mình gởi qùa Tết cho thân nhân ở Việt Nam rồi, em sẽ giải thích cho mẹ hiểu “Xuân này con không về” đúng như ý anh. À, mà anh ơi, mình có nên tái bút hẹn Xuân sau con sẽ về không? Cho mẹ mừng.
- Ấy chết, em chớ dại dột hứa ra một điều mà chính mình cũng còn nghi ngờ. Chắc gì năm sau mình sẽ có tiền về Việt Nam ăn Tết hở em?
Chị thở dài:
- Ước gì mình giàu có như nhà Bill Gates, nhà Hilton, thì tha hồ đi chơi và tiêu xài anh nhỉ?
- Nhưng con nhỏ Paris Hilton sắp sửa “nghèo” rồi đấy, ông nội cô ta đã tuyên bố sẽ để 97% gia tài cho hội từ thiện mang tên ông cố nội nó, em vừa lòng chưa? Vì mỗi khi nhà mình đi chơi xa, em nhất định không chịu vô khách sạn Hilton dù tiện đường tiện lối, em ghét con nhỏ thừa kế ăn chơi đỏng đảnh Paris Hilton, không muốn góp phần làm giàu thêm cho gia tài nhà nó.
Chị thán phục:
- Nhiều người Mỹ rộng lượng không ngờ, họ miệt mài làm giàu và cống hiến tài sản cho xã hội, cho người nghèo. Em mà giàu như thế thì chia hết cho con cái, cha mẹ, anh em và dòng họ nội ngoại gần xa không xót một ai, chứ ngu gì cho người dưng.

***************

Trong số những bản nhạc thời xưa anh Bông chỉ thích hai bản: “ Sầu Đông” và “Xuân này con không về” vì thích hợp với tâm trạng của anh.
Chỉ nghe câu mở đầu của bản nhạc “Sầu Đông” là: “ Chiều nay gió Đông về…” anh đã… ớn lạnh tới xương sống.
“Gió Đông về…” có nghĩa là những ngày lễ Tết cuối năm cũng đang ùn ùn kéo về, bao nhiêu là món nợ phải trả, bao nhiêu là quà cáp phải biếu tặng gởi đi.
Cảnh shopping đã là cơn ác mộng, hai vợ chồng anh đã phải chen chân trong mall đông người, vào các hàng đồ chơi, quần áo, giày dép ngắm nghía, lựa chọn, cân nhắc giá cả. Rồi túi lớn túi nhỏ, hộp to hộp bé, tay xách nách mang ra tới bãi đậu xe là tối sầm cả mày mặt, phải ngồi nghỉ vài phút anh mới tỉnh người để lái xe về nhà an toàn.
“Gió Đông về…” có nghĩa là tiền thuế nhà, bảo hiểm nhà, và bảo hiểm xe cộ cũng về theo. Xong phần “giao lưu” với xã hội bên ngoài, tới phần họ hàng, con cháu trong nhà, viết thiệp và gởi quà Giáng Sinh rụng rời cả tay và xót cả ruột gan.
Ông bưu điện năm nào cũng lỗ vài tỉ, lên giá tem hoài mà chẳng cứu vãn được tình thế, bởi quanh năm ế ẩm vì cell phone và email là những phương tiện liên lạc nhanh nhất, thuận tiện nhất, nhân dịp cuối năm mới được tận dụng nghề nghiệp, bận rộn nối nhịp cầu cho thiên hạ.
Phe gia đình anh Bông đều ở Mỹ, mỗi người ở một phương trời nên quà gởi qua gởi lại như trò chơi rượt đuổi nhau, nhộn nhịp đến chóng cả mặt.
Ngay cả khi anh Bông nhận được gói quà mà chính anh đã đóng gói và gởi cho đứa cháu nào đó, vòng vo tam quốc thế nào nó lại lù lù quay về nhà anh, dĩ nhiên với tên của một người gởi khác, mà anh cũng không hề hay biết, nếu không có thằng cu Tí đã phát hiện ra và mừng rỡ kêu lên.
Bao nhiêu đứa cháu là bấy nhiêu gói quà, và con anh cũng nhận lại bấy nhiêu lần. Chỉ tổ làm giàu cho các hãng sản xuất và những chủ tiệm.
Còn phải kể đến phần quà biếu cho bạn bè thân, những người ân nghĩa. Tiền trong bank thì có hạn mà tình nghĩa thì không kể xiết và không thể lãng quên ai.
Sau “cú trời giáng” lễ Giáng Sinh và Tết Tây, anh Bông chưa kịp hoàn hồn thì tới Tết ta Việt Nam . Lần này là phe bên vợ, nhẹ nhàng êm ái mà thiệt hại sâu xa.
Những lá thư lẻ tẻ trong năm vẫn đều đều từ Việt Nam gởi sang, hết mẹ vợ, anh chị em vợ, tới họ hàng gần xa bên vợ. Họ truyền nhau địa chỉ nhà anh như truyền một bửu bối, một kho tàng, chỉ cần gõ cửa như trong chuyện cổ tích thần thoại với câu thần chú: “Vừng ơi mở cửa” là cánh cửa sẽ mở ra, không ít thì nhiều họ cũng có quà.
Mấy người bạn của anh Bông cũng tương tự như anh, họ than thở:
- Nhà mình cứ như là trung tâm tiếp nhận những đau thương mất mát bên Việt Nam, chưa khi nào mình nhận thư mà họ hí hởn khoe nhà tôi đang ăn nên làm ra, giàu tiền lắm bạc, ...tôi chỉ viết thư này thăm hỏi sức khỏe anh chị, miễn gởi quà, gởi tiền cho tôi nhé. Được vậy tôi sẽ ăn mừng.
- Ai bảo mấy ông bà Việt kiều về Việt Nam nổ tung trời như car bomb nổ ở Iraq, họ xài tiền thả giàn, khoe tài sản và công ăn việc làm ở Mỹ, những điều mà không ai kiểm chứng nổi.
- Lại có Việt Kiều xưa ở Việt Nam chẳng mấy tử tế với ai, bây giờ trở về bỗng nhiên thay đổi tính nết, nói toàn chuyện phước thiện, thương người, thì ai chả náo nức xúm vào Việt Kiều để xin chút tình nhân ái đó, họ đâu biết rằng nhiều Việt kiều cũng đang hưởng lòng nhân ái của nước chủ nhà, trợ cấp nhà cửa, thuốc men, tiền bạc…
Chỉ còn một tháng nữa là Tết Việt Nam, vợ chồng anh Bông cùng ngồi tổng kết danh sách thân nhân từ gần tới xa để gởi quà. Chủ yếu chị Bông gởi quà cho mẹ và các anh chị em ruột, bà con họ hàng thì mỗi hộ một món tiền nhỏ gọi là chung vui ba ngày tết, đôi khi có vài gia đình họ hàng xa lơ xa lắc, qúa tầm tay với, nhưng nghe hoàn cảnh quá nghèo khổ, chị cho họ ít tiền cứu... đói. Thế là từ đó, mỗi năm khi “Chiều nay gió Đông về…” anh chị lại nhận được thư họ gởi sang thăm hỏi, như để nhắc nhở anh chị rằng: “Tôi vẫn còn hiện diện trên cõi đời này, Tết đến xin đừng quên tôi nghe”.
Chẳng lẽ họ nghèo đến thế, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đã “hi sinh” tốn mấy chục ngàn đồng tem thư để thăm hỏi mình, mà anh chị không có gì cho họ coi sao được?
Và cứ thế, món nợ ân tình vẫn tiếp tục, không biết bao giờ mới dứt điểm?
Anh chị Bông làm đủ kiểu toán, hết cộng trừ, tới nhân chia, thêm đầu này, bớt đầu kia, sao cho tương xứng với hoàn cảnh từng người và hợp lý với túi tiền của anh chị. Dì Út mới bị giựt hụi nên đứng đầu danh sách ưu tiên. Nhìn một dãy dài danh sách tên họ thân nhân bên nhà vợ, anh Bông muốn nổ con ngươi, nhưng anh đâu dám cằn nhằn, vì danh sách phe nhà anh ở Mỹ trong dịp Giáng Sinh và New Year vừa qua cũng đâu có ít ỏi gì.
Cơn “Sầu Đông” đã qua, những ngày tết Việt Nam đang đến, vợ chồng anh quay cuồng vì lễ Tết, rồi khi trở lại với nhịp sống bình thường hàng ngày hai vợ chồng lại ky cóp tiền vô bank để cuốn sổ đời lại mở ra tính toán mỗi dịp cuối năm và Tết đến.

Nguyễn Thị Thanh Dương

 

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jan/2019 lúc 8:12am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Jan/2019 lúc 7:41am

Con Cọp Yêu Quý Của Tôi



 
Image%20result%20for%20the%20man%20and%20tiger

Tôi nhất đinh đòi thày bu tôi phải cưới Hương cho tôi. Tôi thích nàng, tôi yêu nàng và tôi phải lấy nàng cho bằng được. Nếu thày bu tôi không hỏi cưới nàng cho tôi thì tôi sẽ bỏ nhà ra đi, đi giang hồ hay đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra. Chẳng thà thế chứ sống mà thiếu Hương tôi sống không được. Tôi cũng đã ngỏ ý ấy với nàng và nàng bảo hễ cứ có mai mối bên nhà tôi tới là bên nhà nàng bằng lòng ngay.

Tình yêu của tôi đối với Hương nó vĩ đại và mãnh liệt như thế có lẽ cả làng ai cũng biết. Biết nhưng có ai giúp gì được cho tôi đâu, có khi họ còn nói ra nói vô khiến bu tôi càng quyết liệt không cho tôi lấy Hương, và khi nghe tôi dọa đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra, bu tôi còn bảo:

- Chẳng thà Tây nó bắn mày chứ bu giết mày không được con ạ – Bu tôi rơm rớm nước mắt – Ðẻ mày ra, nuôi mày tới bây lớn sao tự dưng mày lại không muốn sống nữa hở con? Gái làng này thiếu gì sao mày không lấy mà mày lại đòi lấy cái con tuổi cọp ấy? Mày tuổi lợn mà bu lại cưới vợ tuổi cọp cho mày thì có khác nào bu giết mày không?!

Thày bu tôi hiếm muộn chỉ sanh được có 8 người con, 5 trai 3 gái. Các chú các bác tôi người nào cũng từ 10 đến 12 con cơ. Chỉ cái việc có 5 thằng con trai thôi mà đã gây ra một sự xì xèo rồi. Người ta bảo sanh 5 đứa con gái là sanh được “Ngũ Long Công Chúa” quý lắm, cha mẹ thế nào cũng được nhờ, tha hồ ngồi rung đùi mà hưởng. Chả thế mà ca dao Việt Nam ta đã có những câu:

Mẹ sinh con trai làm chi

Ðầu gà má lợn đem đi cho người!

Mẹ sinh con gái như tôi

Ðầu gà má lợn mẹ ngồi mẹ sơi!

 

Lúc đầu bu tôi làm liền tù tì một lèo 3 đứa con gái, thày tôi khoái chí bảo: “Bu mày ráng thêm 2 con tèo nữa cho đủ Ngũ Long Công Chúa, sau đó làm thêm vài thằng cu tí nữa là tha hồ mà sướng!” Nhưng bu tôi chỉ sanh có 3 đứa con gái, kế đó lại làm một lèo 5 thằng con trai rồi thôi luôn.

Chơi tam cúc có 4 con tốt cùng loại đỏ hay đen thì gọi là tứ tử, có 5 tốt là ngũ tử. Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, khéo chơi một chút là ăn trùm làng. Còn đẻ mà 5 thằng con trai thì người ta lại bảo là ngũ quỷ, thế nào trong 5 thằng cũng có một, hai thằng chẳng ra gì. Trong 5 anh em trai thì tôi là thằng thứ ba, nếu tính cả ba người con gái thì tôi là thằng thứ sáu. Hai ông anh trước tôi đã lập gia đình rồi, các ông ấy củ mỉ cù mì, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lấy vợ xong là chí thú làm ăn, chỉ mong sao nói được nghiệp nhà, cầy ruộng cấy lúa. Nói một cách giản dị là làm một anh nông dân chứ không có cao vọng gì cả. Hai đứa em trai thì còn đi học, chúng chưa biết gì, có muốn vợ cũng phải chờ vài năm nữa.

“Nữ thập tam, nam thập lục” các cụ ta đã bảo như thế nên dù tôi mới 16 tuổi đã đòi vợ cũng không ai nói gì được. Cái điều ồn ào nhất là tôi tuổi heo mà lại đòi lấy vợ tuổi cọp. Hương kém tôi 3 tuổi, mới 13 thôi mà trông cứ mơn mởn ra, mỗi lần gặp nàng là tôi chỉ muốn cắn cho một cái. Trai làng tôi nhiều thằng nhìn nàng đôi mắt cứ hau háu, thèm nhỏ dãi, nhưng chúng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn thôi chứ không dám xáp lại gần. Lấy vợ tuổi cọp để về chầu ông bà ông vải sớm à?! Con gái tuổi Dần khó lấy chồng lắm, chả biết đã có bao nhiêu bà bị ở giá xuốt đời vì sanh nhằm năm Dần và đã có bao nhiêu ông sớm ngỏm củ tỏi vì lấy phải vợ tuổi cọp, thế nhưng người ta vẫn cứ kiêng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà lị!

Thày tôi ngày trước có đi lính Pháp, dù gì thì cũng đã có tiếp xúc với Tây học một tý nên không đến nỗi nào. Thấy tôi tuyên bố nhất định phải lấy Hương, dù hôm trước cưới, hôm sau có đi ngủ với giun ngay cũng cứ lấy, thày tôi bảo:

- Nó đã nhất định như thế thì mình cứ đi nói con đó cho nó. Biết đâu thằng này chẳng đặc biệt hơn người ta, tôi nghe kể heo rừng mà thuộc loại “lăn chai” thì cọp cụng chả làm gì được!

Nghe thày tôi nói, tôi đã mừng mừng nhưng bu tôi lại gắt lên:

- Ông có đẻ đâu mà ông đau, đã không cản nó thì chớ lại còn nối láo cho giặc, không nghe cụ Lý Ngọ bảo “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” đấy à? Ai lại đi cưới con gái tuổi Dần về cho con mình, có mà điên!

Thày tôi cười khà khà:

- Gớm, cái lão Lý Ngọ ấy nói đã chắc gì đúng. Lão để mồ, để mả, coi hướng nhà hướng cửa, bói toán cho người khác thì được thế mà chính lão lại nghèo rớt mồng tơi!

Cụ Lý Ngọ người làng bên, làm thày địa lý và coi bói, cũng phét lác khiếp lắm. Nhờ cụ coi thế đất hoặc sửa hướng cửa, hướng nhà cho thì chỉ một bữa rượu với vài đồng bạc. Cụ khoe là đã để mồ để mả cho nhiều người, có người nhờ cụ mà ăn nên làm ra hoặc con cái học hành đỗ đạt làm đến tri phủ, tri huyện, còn những hạng như lý trưởng, chánh tổng thì khối. Có điều cụ làm cho người ta được, còn làm cho chính mình lại không được, hoặc giả là cụ quên chưa làm cho mình nên lúc nào cụ cũng chỉ có một cái quần cháo lòng với cái áo the thâm rách và cái khăn xếp dán nhấm tứ tung. Một hôm đi qua trước cửa nhà tôi, cụ đứng ngắm nghía một lát rồi lững thững bước vào. Nghe chó sủa, thày tôi chạy ra, may mà đúng lúc, nếu không thì cụ đã bị mấy con chó cắn cho te tua rồi, “chó cắn áo rách” mà lị!

Sau một tuần trà nước, cụ bảo:

- Tại căn nhà này quay về hướng Nam , chứ nếu mà hướng Bắc thì ông đã có 5 đứa con gái thay vì 5 thằng con trai rồi!

Chắc ý cụ muốn nói thay vì “Ngũ Quỷ” là “Ngũ Long” chứ gì. Thấy tôi ngồi học ở bàn, cụ gọi đến cho cụ coi, ngắm nghía một lát, cụ phán:

- Thằng này tướng mạo coi cũng tạm được, nhưng mặt này là mặt bán trời không mời Thiên Lôi đây!

Khi cụ đi rồi, tôi nghe thày tôi lẩm bẩm:

- Làm cửa về hướng Bắc để mùa Ðông gió Bấc thổi vào cho mà chết rét, còn nhà có nhiều con gái chỉ tổ lo ngay ngáy chứ nước mẹ gì, dốt thế mà cũng bàn!

Riêng tôi, chỉ nhìn hình dáng cụ là đã chán rồi, tôi hỏi thày tôi:

- Chắc nhà ông thày Ðịa Lý này ngon lành lắm hở thày?

- Không bằng cái bếp nhà mình!

Có tin vào thày bói cũng chỉ nên tin một phần nào cho nó vui thôi chứ chẳng nên tin nhiều làm gì. Những vị có chân tài, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm chả nói làm gì, còn phần đông là những tay ấm ớ, nghèo rớt mồng tơi lại chỉ cách cho người khác làm giầu mới tiếu lâm chứ?! Cứ tin vào những điều các vị ấy tán hiêu tán vượn thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn! Làm cái gì cũng phải coi ngày, coi giờ, hạp với không hạp, kiêng cái này cữ cái kia... Cứ như việc lấy vợ của hai ông anh tôi thì rõ. Tước khi cưới dâu, bu tôi đã nhờ thày so tuổi, coi ngày đủ thứ, thế nên hai ông anh tôi mới dinh về được hai bà vợ, một bà thì như cái hột mít, còn một bà lại gầy đét như con cá hố! Hai người con dâu này đều do bu tôi chọn cả. Tôi ấy à, nếu không lấy được người tôi yêu chẳng thà tôi ở giá cho đến già hoặc đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra chứ nhất định không chịu bắt chước mấy ông anh tôi.

Thày tôi xem chừng đã ngả hẳn về phía tôi, chỉ riêng bu tôi là còn găng lắm, có lúc bà nổi cơn tam bành chửi tôi thậm tệ, bà nhiếc: “Cho mày đi học ngậm bút sắt hay ngậm cái gì mà mày ngu thế? Tử tế không muốn lại muốn rước cái của nợ vào mình”. Có lần bu tôi lại dùng tình cảm để lung lạc tôi, bà mếu máo:

- Mày có chọc phá đền miếu nào không hở con, để đến nỗi những người khuất mày khuất mặt nổi giận mà phạt mày trở nên dở dở ương ương thế? Có thì bảo cho bu biết để bu sửa lễ tạ lỗi cho, kẻo càng ngày nó càng lậm vào thì khổ đấy con ạ, chứ cưới vợ đẹp về rồi lăn đùng ra chết thì cưới làm gì?! Mày nghe lời bu đi, chọn con khác, hễ bu nhờ thày coi tuổi mà thấy hạp là bu cưới ngay cho!

Mặc bu tôi nói gì thì nói, tôi vẫn khăng khăng chỉ lấy Hương của tôi thôi. Nói mãi mỏi mồm, bu tôi bèn đổi chiến thuật là không thèm nói gì đến tôi nữa. Trong làng tôi lại có tiếng xì xèo: “Ðã bảo là đẻ 5 thằng con trai, Ngũ Quỷ thì thế nào chả có một, hai thằng chẳng ra gì mà”! Ngoài ra họ còn đồn tôi là thằng dở hơi hoặc điên điên khùng khùng... Một lần Dì Năm, em gái của bu tôi tới chơi, lấy tay sờ trán tôi như mấy bà mẹ thường khám xem con mình có ấm đầu không rồi Dì hỏi:

- Mày có bị làm sao không thế hở con?

Tôi hỏi lại:

- Làm sao là làm sao hả Dì?

- Nghĩa là mày có ốm đau, bệnh tật gì không mà mày lại kỳ cục thế?

- Con có làm gì đâu mà Dì bảo là kỳ cục?

- Không kỳ cục làm sao mày tuổi Hợi lại đòi cưới con vợ tuổi Dần?

- Thế tuổi nào mới lấy vợ tuổi Dần được?

- Không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được!

Tôi ngập ngừng:

-Thế nếu Dì cũng tuổi Dần thì Dì có bảo là không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được không?

Bu tôi đứng bên cạnh, cho là tôi hỗn với Dì, sẵn tay cầm cái chổi, bà đập lên đầu tôi cái cốp làm tôi giật mình bỏ chạy.

Thế mới biết ở đời làm chuyện gì cũng phải có quyết tâm mới được. Việc càng khó thì quyết tâm càng phải cao, chứ nếu cứ xìu xìu ển ển, đến đâu hay đến đó thì còn lâu mới thành công được. Thày tôi tuy đã ngả hẳn về phía tôi nhưng là theo kiểu thụ động thôi, chứ thày tôi cũng không thể bênh vực tôi một cách tích cực được, dù gì thì cụ ông cũng phải nể cụ bà chứ! Riêng tôi, đã “chót đành phải chét”, làm một phát tháu cáy. Nếu bu tôi theo ván bài này tới cùng có lẽ tôi phải đổi chiến thuật khác. Thú thật, bỏ Hương để lấy người khác thì tôi không bỏ được, còn bỏ nhà đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra tôi cũng teo lắm, thế nhưng tôi vẫn phải tố một cú chót xem sao.

Một hôm tôi giả vờ sắp xếp quần áo bỏ vào một cái rương nhỏ, như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Tôi cố làm dềnh dang cho bu tôi thấy. Quả nhiên, tưởng tôi sắp bỏ nhà đi xa thật, bu tôi khóc bù lu bù loa:

- Ối giời ơi, con ơi! mày tính bỏ thày bỏ bu mày đi thật đấy à? Mày muốn lấy vợ thì bu lấy cho mày chứ bu có cấm cản gì mày đâu? Chẳng qua là bu chỉ không bằng lòng cho mày lấy cái con tuổi Dần ấy thôi. Ðẻ mày ra, nuôi mày từ lúc một bàn tay không hết, hai bàn tay không đầy cho tới bây lớn để mày giả nghĩa thày, nghĩa bu như thế đấy hở con?!

Dù chỉ mới dàn giáo thế thôi chứ tôi đã định đi ngay đâu, nhưng thấy bu tôi khóc thảm thiết quá, tôi cũng mủi lòng nước mắt, nước mũi chẩy lã chã, nói không nên lời:

- Bu không thương con thì bu cứ để con đi chết trận chết mạc, chết đông chết tây cho rồi!...

Quả thật là tiến thoái lưỡng nan. Làm cho bu tôi tưởng là tôi sắp đi, bây giờ không đi cũng kỳ, còn đi thật thì biết đi đâu? Ðang lúng túng không biết phải làm sao, thì may quá, cậu Út tôi tới. Bên Ngoại tôi chỉ có cậu Út là người danh giá và có uy tín với chúng tôi hơn cả. Chẳng những cậu có uy tín với đám trẻ mà còn uy tín cả với người lớn nữa. Cậu có bằng Ðíp lôm lại đang làm Nhật trình ở trên Hà Nội. Ngày đó ở quê tôi, các vị làm văn, làm báo được coi là danh giá lắm. Cậu Út làm Nhật trình tức là làm báo. Thỉnh thoảng cậu mới về thăm nhà một lần, đầu cậu chải bi-dăng-tin bóng loáng, tóc để cánh gà úp sát vào tai, chân đi giầy đơ-cu-lơ, quần tây trắng, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, túi áo cài chiếc bút máy hiệu Kaolo, thứ bút mà mỗi khi viết phải mở nắp rồi xoay xoay cho cái ngòi bút trồi lên, viết xong lại vặn cho cái ngòi bút tụt xuống rồi đậy nắp lại. Ngày ấy bọn trẻ chúng tôi thì thào chỉ mấy ông làm Nhật trình mới có loại bút đó. Mỗi lần cậu Út về, cậu kể chuyện Hà Nội tưng bừng, cậu nói gì người lớn cũng như đám trẻ chúng tôi đều tin hết.

Bước vào nhà, thấy bu tôi đang bù lu bù loa, còn tôi thì mếu máo, cậu mới hỏi đầu đuôi sự việc. Bu tôi kể câu chuyện tôi đòi lấy vợ tuổi Dần cho cậu nghe. Ðợi bu tôi nói xong, tôi cũng bầy tỏ nỗi lòng để cậu hiểu. Nghe xong, cậu cười cười hỏi tôi:

- Cháu định lấy cái con Hương, con ông Chánh Ðoàn ở xóm Giữa chứ gì? Vừa rồi đi đường cậu cũng có gặp nó, con này được, đã thắt đáy lưng ong lại mảnh mày hay hạt...

Quay về phía bu tôi, cậu tiếp:

- Chị mà được đứa con dâu như thế là quý lắm rồi còn đòi chi nữa. Còn cái vụ tuổi tác, hạp với không hạp, nó xưa quá rồi chị ơi. Cứ tin vào mấy ông thày bói thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn rồi hoa hồng không trưng đi trưng hoa cứt lợn!...

Thật cậu là người ăn học có khác, cậu nói câu nào cứ chắc nình nịch câu ấy. Chiều hôm đó, cậu ở lại dùng cơm với gia đình tôi và cũng nhờ sự dẫn giải của cậu mà bu tôi nghe ra. Cuối năm đó, tôi rước được con cọp yêu quý của tôi về nhà. Cậu Út tôi lại còn bảo:

- Cưới vợ rồi, nếu mày không muốn ở nhà quê thì lên Hà Nội làm Nhật trình với cậu. Cũng phải ra ngoài để mở mắt ra với người ta, chứ cứ lúi húi thế này mãi đến bao giờ mới khôn được?!

Người xưa có câu “Không vào hang hùm sao bắt được cọp con” thật đúng quá sức. Tôi không chỉ vào “hang hùm” một lần, mà đã mò mẫm vào nhiều lần, có thể nói là rất nhiều lần.. Cứ thế rỉ rả tôi đã khều ra được gần một tá cọp con, con nào con nấy đều rất dễ thương, còn con cọp mẹ thì càng ngày càng hiền khô à. Nghe đến đây có lẽ quý vị thày bói cảm thấy ngứa tai, “nghịch nhĩ” lắm đấy: Ừ, ba hoa cho lắm vào, đến khi lăn đùng ra chết nhăn răng mới không kịp hối! Quý vị rủa tôi như thế cũng chẳng sao. Tôi sinh năm 1935, tuổi Ất Hợi, còn con cọp cưng của tôi sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần. Con Heo 64, con Cọp 61.. Hai con ôm nhau ngủ đã gần 50 năm nay mà chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giả như bây giờ tôi có nhắm mằt xuôi tay mà về chầu ông bà đi chăng nữa thì cái câu “Tứ Hành Xung” của quý vị thày bói cũng là sai rồi!...


Hưng yên

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jan/2019 lúc 9:29am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Jan/2019 lúc 10:47am

MTQH 2014 TẾT QUÊ   <<<<<


Image%20result%20for%20Ký%20ức%20miền%20quê%20|%20Mứt%20tết%20quê%20nhà


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Jan/2019 lúc 11:08am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Jan/2019 lúc 11:08am

Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ Thuận


Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.



Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không.
Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?
Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
phamythuanxua
Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.
Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc.
Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông”thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích.
PhaMyThuan
Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.
Gặp mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.
Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển.
Còn cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67 gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết.
Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt.
Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu.
Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
caupha
Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời.
Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
cauMT
Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.
Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.

Cao Vị Khanh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jan/2019 lúc 9:15am

Mùa Đông Nhung Nhớ



muadongvaemĐã mười năm rồi tôi không còn nhớ mùa Đông. Không hiểu vì sao năm nay mùa Đông khủng khiếp ở những tiểu bang Miền Đông Bắc lại khơi lại trong tâm khảm tôi những kỷ niệm êm đềm của những năm xa xưa, những năm tôi bất chấp cái lạnh đi thăm Hạnh hai ba tháng một lần. Tôi vốn dĩ sợ những mùa đông cắt da cắt thịt, chẳng vì thế mà tôi đã rời bỏ New York để đi lập nghiệp tại Cali? New York, thành phố của những kẻ có nhiều tham vọng, thành phố của những kẻ ngông cuồng muốn đi tìm danh vọng, tôi bùi ngùi bỏ ra đi chỉ vì những mùa đông quá lạnh tôi hết chịu nổi. Ấy thế mà khi Hạnh, vì hoàn cảnh phải chịu đi Philadelphia sống để tiếp tục có công ăn việc làm, tôi đã không ngại ngùng tới với nàng vào những ngày lạnh rét nhất, chỉ vì tôi thương nàng, tôi muốn sưởi ấm lòng nàng trong những giây phút lạnh lẽo cô quạnh của cuộc đời.

Hạnh đã lo sợ bị sa thải trong nhiều tháng trước đó, mặc dù nàng đã được giữ lại cho đến gần cuối cùng vì là một trong những nhân viên xuất sắc, những đợt sa thải liên tiếp đã không ảnh hưởng gì đến nàng. Tuy nhiên nàng đã sống suốt gần một năm trời trong hoang mang lo lắng, nàng sợ một ngày nào đó tên nàng sẽ xuất hiện trên cái danh sách nghiệt ngã, để rồi nàng sẽ không còn kịp thời xoay sở. Nhiều đồng nghiệp của nàng đã ở nhà  sáu tháng trời, thời gian được hãng trả lương bù cho việc bị mất việc, mà không kiếm được nơi nào khác thay thế để đi làm. Tình hình khi đó ngày càng gay go, khó khăn trong sự tìm việc càng lớn vì số người bị hãng thải ra quá nhiều và dù cho có chấp nhận đi tiểu bang khác cũng không kiếm ra được chỗ để xin vào làm. Nhiều đứa bạn của Hạnh đã méo miệng đầu hàng số phận, đành chập nhận ở nhà ăn tiền thất nghiệp trong khi chờ đợi thời thế tốt đẹp hơn. Mà biết bao giờ tốt đẹp hơn khi tuổi đã cao xin việc đâu cũng khó hơn khi còn trẻ?

Đúng ra Hạnh không phải lo, dù cho nàng có mất việc thì cũng không sao, hay nói cho đúng hơn cũng không đến nỗi nào là nguy kịch, nàng ở trong một tình thế khá hơn các bạn của nàng. Thứ nhất nàng đã có thâm niên, nếu có bị hãng cho về đuổi gà, thì nàng cũng sẽ được hưởng một số tiền đền bù khá lớn cùng với số lương sa thải 6 tháng kia. Thứ hai nàng giỏi về chuyên môn lại có nhiều kinh nghiệm và nhiều giấy khen thưởng, nếu đi xin việc hãng khác có thể nàng sẽ dễ được hơn – tuy nhiên vấn đề vẫn là phải kiếm ra nơi có chỗ trống và cần người. Thứ ba, tình trạng tài chính gia đình của Hạnh tốt đẹp, chồng nàng  là một nhà kinh doanh giỏi và kinh nghiệm, đang hái ra tiền, ông có lợi tức cao gấp năm bẩy lần nàng nên ông nói rằng nàng không có gì phải suy nghĩ, việc nàng đi làm đối với ông không phải là một sự cần thiết, nếu chẳng may mất việc thì nàng cứ nghỉ ở nhà cho khỏe:

  • Em đi làm đã hai chục năm thế là đủ rồi. Đã đến lúc em cần nghỉ ngơi và enjoy life. Một mình anh đi làm cũng dư sống trong cả hiện tại cũng như tương lai… Hai con cũng đã lớn, năm tới Bi sẽ lên đại học và hai năm nữa thì Tí cũng xong Trung Học… Em cứ ở nhà chăm lo cho chúng nó. Vả lại Tí nó cần sự lưu tâm của cha mẹ mà anh thì quá bận việc không có thì giờ giúp em một tay. Nó đang ở cái tuổi mới lớn, dễ đua đòi với chúng bạn, cần có sự săn sóc kiểm soát của em nhiều hơn kẻo lỡ có chuyện thì quá muộn. Từ lâu ròi anh vẫn muốn em ở nhà để lo cho gia đình mà em không chịu…

Nhưng Hạnh lại nghĩ khác. Nàng vốn là một người khẳng khái, nàng có cái tự trọng của nàng, nàng không bao giờ lại ỷ lại ở người khác dù cho người đó là chồng nàng. Bao nhiêu khó khăn trong quá khứ kể từ ngày nàng mới đến đất Mỹ tị nạn, nàng đều đã vượt qua nhờ ý chí và nghị lực. Từ một người con gái hiền lành, một học sinh xuất sắc khi còn ở Việt Nam, chỉ biết đi học rồi về nhà lại chúi đầu vào sách vở, được cha mẹ thương yêu nuông chiều, nàng đã phải trải qua bao hiểm nguy trong cuộc vượt biển cùng với đứa em trai, rồi thêm những ngày sống bơ vơ trong một trại tị nạn đông người lạ, không quen biết ai. Những ngày đó dạy cho nàng tự tranh đấu, sống tự lập, dạy cho nàng những bài học đầu đời… là phải sống còn bằng mọi giá, phải vươn lên để ngửng mặt nhìn đời. Chính vì ý nghĩ đó mà nàng đã thành công ngay từ ngày mới đến Mỹ, nàng đã nhanh chóng học xong hai năm ở Long Beach City College và sau đó tiếp tục học hai năm kỹ sư điện tại UC Irvine. Vừa tốt nghiệp ra là nàng đẵ được một hãng làm máy bay ở Texas nhận vào làm và nàng đã ở đó suốt cho tới bấy giờ. Gần 20 năm nàng yên ổn làm việc tại hãng máy bay đó và nàng muốn cố gắng giữ chân tại đó để khi về hưu thì nàng được hưởng tiền hưu trí đầy đủ, bấy giờ mà đi hãng khác thì nàng sẽ mất đi quyền lợi hưu trí rất tốt mà nàng mong đợi sẽ tới khi nàng rút lui, về hưởng sự nhàn hạ.

Chính vì cái quyền lợi tối thượng này mà Hạnh đã nhất định không chịu để bị sa thải. Nàng không chịu ngồi đó chịu cái lưỡi kiếm của Damoclès bổ xuống đầu nàng, nàng quyết định tự hành động, bất kể phải hy sinh cuộc sống yên ôn sung sướng bên chồng con. Nàng tâm sự với tôi:

  • Em nhất quyết tìm một open position của hãng tại một tiểu bang khác để nạp đơn xin thuyên chuyển. Có như thế em mới giữ được cái thâm niên hai mươi năm của em và tiếp tục được hưởng cái quyền lợi hưu trí của hãng.

Nàng đã miệt mài theo dõi những thông báo nội bộ về những chỗ làm mới tại khắp trong nước của hãng và quả nhiên hai ba tháng sau nàng kiếm được hai chỗ, một ở Philadelphia và một ở Seattle. Nàng chọn Philadelphia để tiện đi về thăm các con vào những ngày lễ, khi chúng được nghỉ ở nhà hầu có thể được ở bên các con suốt ngày. Tất nhiên đơn xin thuyên chuyển của nàng cũng dễ dàng được chấp thuận vì hãng dành ưu tiên cho những ai đang ở một nơi đang có kế hoạch giảm bớt nhân viên, và hơn nữa là vì nàng có thâm niên đồng thời lại là một nhân viên xuất sắc, làm việc đàng hoàng siêng năng có tiếng.

Được tin Hạnh có việc làm mới ở Philadelphia, tôi vừa vui vừa buồn. Tôi vui vì như vậy nàng không còn phải lo lắng bị laid off nữa, việc làm mới tuy không biết chắc là sẽ bền lâu vĩnh viễn nhưng ít nhất không như tại Texas là nơi hãng dồn dập đóng cửa và thải người đi, chỉ còn giữ một số rất nhỏ ở lại. Thà đi trước còn hơn ở lì lại mà cứ nơm nớp lo sợ. Nhưng tôi cũng buồn vì tôi đã mong nàng xin thuyên chuyển đến Seattle thì tôi được ở gần nàng, cuối tuần tôi có thể tới thăm nàng, hai đứa sẽ dễ gặp nhau hơn. Tuy nhiên tôi cũng hiểu lòng người mẹ xa con, luôn muốn về chung vui với chúng khi có dịp thuận tiện. Biết tôi không được toại nguyện, Hạnh nói:

  • Em biết anh muốn hai đứa ở gần nhau chứ! Nhưng bây giờ chưa được. Hai đứa con em vẫn cần em. Chúng đã không muốn em bỏ chúng đi xa sống một mình. Nhưng vì em quyết định nên chúng phải chịu. Em cố giải thích cho chúng hiểu nhưng chúng vẫn không chấp nhận. Chúng nói rằng em chưa bị sa thải mà đã lo đi xa bỏ chúng ở nhà không có em bên cạnh. Vì thế em phải cố gắng thu xếp sao để có thể về thăm chúng hai ba tháng một lần. Nếu chọn Seattle thì không thuận tiện về nhà bằng  Philadelphia, thời gian đi lại sẽ lâu hơn gấp hai ba lần. Mà thời gian của em rất quí báu, ở nhà với các thêm được giờ nào hay giờ nấy…

Tôi rất thông cảm với nàng nhưng trong lòng tôi vẫn thấy buồn. Tôi biết tuy Hạnh thương tôi nhưng các con nàng vẫn là ưu tiên, chỉ khi nào không có trở ngại, vướng víu thì tôi mới được nàng. Nhiều khi tôi nghĩ đến thân phận tôi và muốn buông bỏ nhưng không hiểu vì lẽ gì tôi không rứt ra được cái mối nhợ do định mệnh này. Có lẽ vì những lúc ở bên nàng quá thần tiên, hai đứa xoắn xít bên nhau, quên hết cả mọi cản trở để chỉ còn biết những giây phút tuyệt vời? Bên Hạnh, tôi quên hết mọi bực dọc, chẳng còn nghĩ gì tới bất cứ điều gì, chỉ còn ý thức hưởng thụ đời; tình yêu quả đúng là mù quáng. Những hứa hẹn của người yêu làm cho tôi như quên hết cả hiện tại:

  • Anh phải hiểu cho em. Chỉ cần vài năm nữa, khi các con em đã lên đại học thì em sẽ yên tâm hơn. Một khi chúng xong đại học thì em hết trách nhiệm khi đó chuyện chúng mình sẽ dễ dàng, em sẽ chiều theo ý muốn của anh được…

Thế là Hạnh chuẩn bị đi Philadelphia sinh sống. Lúc đó là khoảng tháng Chín, mùa Thu xứ lạnh đẹp ngợp trời một mầu đỏ ối. Nàng vốn yêu văn thơ. Làm sao tâm hồn nàng không bị lôi cuốn bởi sự huy hoàng của thiên nhiên? Mặc dù cuộc sống sẽ đổi mới, khác lạ, và tràn đầy những khó khăn, nhưng lòng nàng không nao núng. Hay dù có nao núng đi chăng nữa nàng cũng không để lộ ra ngoài mặt, Hạnh vốn dĩ là một con người thích những sự thách đố. Nhưng với tôi nàng có thể tâm sự, có thể bộc lộ ít nhiều những nỗi lo âu giấu kín trong lòng vì nàng tin tưởng nơi sự cảm thông của tôi, nàng sẵn sàng đón nhận những lời xoa dịu, những an ủi, những chia xẻ đầy thông cảm của người nàng tin yêu. Đối với các con và người chồng, nàng luôn phải tỏ ra nàng cứng rắn, vui vẻ chấp nhận số phận.

Mùa Thu đã qua nhanh, mùa Đông sớm đổ tới, không khí đã bắt đầu lạnh hơn nhưng cả vấn đề công việc làm tại chỗ mới lẫn chuyện nhà cửa bấy giờ đều đã ổn định, Hạnh đã thu xếp mọi chuyện đâu vào đó, giờ đây nàng đã sẵn sàng tiếp đón người yêu. Sống cô đơn mấy tháng trời nhưng vì quá bận rộn với công việc nên Hạnh đã quên đi những súc cảm và giờ đây thì những thôi thúc của cả tâm hồn lẫn thể xác mới bắt đầu trổi dạy trong nàng. Ngồi bên cửa sổ nhìn tuyết rơi nhè nhẹ lòng nàng thấy trống rỗng và nàng thấy thèm thuồng được có người tình bên mình. Nàng nhớ những ôm ấp, những lời ngọt ngào thì thầm bên tai, nàng thèm nụ cười của chàng, thèm được vui bên người nàng yêu thương quí trọng.

Vậy là tôi thu xếp đi sang thăm Hạnh. Chuyến bay tới Philadephia phải xuống đổi máy bay ở nửa đường cho nên kéo dài sáu bẩy tiếng. Trước khi đi ra phi trường và trong khi ngồi chờ lên máy bay, hai đứa nói chuyện với nhau liên tục trên điện thoại cho nên tôi bớt thấy thời gian dài hun hút. Trong khi chờ đổi máy bay cũng vậy. Hạnh đeo giây nghe nơi tai nên vẫn có thể vừa làm việc vừa nói chuyện, nàng có cái tài là có thể làm hai ba chuyện cùng một lúc. Như thế Hạnh biết rõ từng bước tôi đang ở đâu, làm những chuyện gì. Máy bay mới vừa đáp xuống, tôi liền thông báo cho nàng biết để nàng đưa xe tới tận cổng phi trường chờ tôi ngay nơi lề đường. Tôi bước chân ra đến nơi là đã có nàng ở đó, tươi cười tiếp tôi, tôi leo lên xe, hai đứa âu yếm ôm hôn nhau rồi xe mới chuyển bánh. Tôi thấy không có gì sung sướng hơn là từ bên ngoài lạnh cóng được vào xe ấm áp mà lại được ôm tấm thân nóng bỏng của người mình yêu.

  • Anh có mệt lắm không? chuyến bay có vất vả lắm không?
  • Cũng không lấy gì làm vất vả. Chỉ hơi bực mình là chuyến bay bị delayed hai tiếng ở Chicago vì cơn bão tuyết…
  • Gặp lại em anh có thích không?
  • Thích lắm! Nhưng sẽ thích hơn nhiều khi về đến nhà. Em có thèm anh không vậy?
  • Còn phải hỏi! Đã mấy tháng không được gặp lại anh.
  • Bốn năm tháng chứ ít gì? Anh nhớ em ơi là nhớ!
  • Em cũng nhớ anh nhiều, nhất là mấy tuần vừa rồi. Suốt ngày nghĩ tới anh. Khi lên giường em cố nhắm mắt để ngủ mà sao không ngủ được, nhớ và thèm có anh quá đi thôi…

Hạnh quay sang mỉm cười nhìn tôi đắm đuối. Tôi thấy hạnh phúc tràn ngập. Tôi chỉ còn muốn mau mau về đến nhà.

Từ phi trường về đến nhà ở Chester, một khu vực gần sở làm của Hạnh, cũng mất gần nửa tiếng. Hai bên đường một lớp tuyết mỏng phủ trắng vạn vật. Mùa Đông mới đến, mai kia mọi vật xung quanh sẽ trắng xóa, chỉ thấy tuyết là tuyết, tuyết dày cả nửa thước, khắp mọi nơi… Tôi cảm thấy sốt ruột, vì mãi không về đến nơi, mà đường thì cứ kẹt xe vì đúng giờ tan sở. Nhưng cuối cùng thì cũng về tới. Chiếc xe chạy vào một khu nhà ở, hai bên đường có trồng những cây thông um tùm làm cho tôi có cảm tưởng như đang đi vào một khu nghỉ mát (resort area) tại một vùng cao nguyên. Xe quẹo vào một sân rộng phía trước một chung cư khá lớn ba từng. Xe hơi đậu dài thành hai dẫy, cả mấy chục chiếc, Hạnh đã quen, nàng cho xe chạy một vòng, mắt liếc cố tìm một chỗ trống cho xe đậu:

  • Về trễ, có đứa lấy mất chỗ mọi khi em vẫn đậu… Ở đây mỗi người dành riêng một chỗ cho xe mình, nhưng tên nào đó cướp chỗ của em. Trời lạnh người ta làm ẩu…

Tôi càng thấy sốt ruột, chỉ muốn mau mau lên đến appartment của nàng ở lầu hai.

  • Hy vọng kiếm được một chỗ còn trống chứ không làm sao…
  • Anh yên tâm, em sẽ kiếm ra chỗ mà.

Quả nhiên, xe chạy một vòng sân ra đến phía ngang hông chung cư thì có chỗ trống. Hai đứa chui ra khỏi xe, một tay tôi lôi chiếc va li, tay kia ôm vòng eo ếch Hạnh.

  • Sao anh nóng ruột thế? Để yên em còn phải lấy đồ của em trong xe chứ!

Nàng hay dùng tiếng “chứ”: “có chứ!”, “để cho em cởi đồ đã chứ!”, “em yêu anh nhiều chứ!”, “em nhớ anh chứ!”, nghe riết tôi cũng thinh thích lối nói trẻ con của nàng. Nó là một kỷ vật tôi giữ lại trong tâm trí, cứ nghĩ đến nàng tự nhiên tôi nhớ tiếng chứ và giọng nói ấy, và sao tôi thèm được nghe lại nó đến thế! Nó là một đặc điểm gắn liền với nàng, cũng như nụ cười mỉm chi là đặc điểm của con người tôi. Ngày đó Hạnh nói nàng thích nụ cười quyến rũ của tôi và hay nhìn tôi cười. Bây giờ xa tôi đã lâu, tôi không biết nàng còn nhớ hay có nhớ nó không?

Hạnh lấy những túi thực phẩm và túi sách tay của nàng từ phiá sau xe, đóng cửa và khoá xe, quay sang tôi nói:

  • Em có filet mignon, salade Dalat, cà chua chín, French baguette và chai BV Napa cabernet cho anh. Em ra sở sớm ghé mua cho anh đó, anh có thích không? Tối nay mình ăn vậy thôi, Mai kia tha hồ cho anh nấu bếp. Em mua sẵn hết để trong tủ lạnh.

Tôi chỉ cười nói vắn tắt “anh biết em giỏi mà!” và hôn nhanh lên má nàng. Trời lạnh lắm, hởi thở chúng tôi biến thành những làn khói bay bay theo gió… Chúng tôi bước nhanh tới cánh cửa vào bên trong toà chung cư. Hạnh rút chiếc chìa khóa từ trong túi, trả lỗ ổ khóa vặn rồi đẩy cánh cửa bằng chân. Nàng bước vào trước, lấy chân chặn cánh cửa cho tôi kéo chiếc vali vào theo. Chúng tôi vào ascenceur để lên lầu hai rồi đi theo hành làng tới appartment của nàng. Tôi có cảm giác như tôi đang ở trong một khách sạn không gì sang lắm tuy hành lang cũng có đèn điện sáng sủa và sạch sẽ. Hạnh đặt túi thực phẩm xuống ngưỡng của để lấy chià khoá ra mở cửa. Khi tôi bước chân vào bên trong tôi thấy chỗ ở của nàng cũng tươm tất, nơi tiếp khách có sofa, có coffee table, truyền hình, có một kệ để để sách báo, có một bàn ăn khá lớn với bốn chiếc ghế nệm. Phòng khách kiêm phòng ăn nên khá rộng, dư chỗ trống để đi qua đi lại. Phòng có cửa kính rộng suốt bề ngang cao tới gần nửa trần nhà, ngồi ở bên trong nhìn ra ngoài thấy toàn cảnh vùng này, trắng xóa vì tuyết phủ vạn vật: mái nhà, cây cối, đường xá…

Phòng Ngủ tuy khá lớn nhưng chỉ có một chiếc giường nệm lớn và một chiếc bàn làm việc (bureau) nơi Hạnh để chiếc laptop và tất cả những hồ sơ, thư từ, sách huấn luyện, và những thứ lặt vặt khác. Mặc dù đã làm việc mấy tháng và đã trải qua thời kỳ huấn luyện lại (re-training) vì hế thống computer cũng như những phương thức làm việc tại nơi đây không giống như lại sở làm cũ của nàng bên Texas. Trong thời gian huấn luyện, nàng phải tự đọc sách, nghiên cứu những cách làm việc mới với hệ thống software khác tân tiến hơn, nàng làm thử và xem kết quả đúng hay sai, nếu sai lại phải nghiên cứu lại và thực nghiệm trở lại. Kẹt lắm Hạnh mới chịu hỏi những đồng nghiệp và nhờ chỉ dẫn. Về kỷ thuật chuyên môn thì nàng đã quá vững, chỉ có phương cách thực hiện công tác là mới lạ mà thôi. Chưa đầy một tháng sau là nàng đã bắt tay vào chính thức làm việc, tuy nhiên tối tối về đôi khi nàng vẫn phải tự nghiên cứu thêm bằng cách đọc những manuals và những sơ đồ… Vì là một con người có bản lãnh và kinh nghiệm Hạnh ít khi nào muốn làm phiền đến những người đồng nghiệp mà nàng chưa quen biết nhiều.

Ở chơi với Hạnh mấy ngày, tôi thấy nàng thật can đảm vì cuộc sống của nàng tại nơi đấy thiếu đủ mọi tiện nghi so với cuộc sống của nàng tại Texas. Sáng ra đi làm nàng phải ngồi ở mép giường nhìn vào tấm gương lớn nơi cánh cửa của chiếc tủ quần áo lớn xây bên một bờ tường (closet) mà xấy, chải tóc, và trang điểm rồi tự ngắm mình trong đó sau khi mặc quần áo. Thấy nàng chấp nhận cuộc sống giản dị, không đòi hỏi những kiểu cách và không đài các, tôi phục nàng hơn. Mùa Đông giá lạnh, không như ở Texas, vậy mà Hạnh không co ro hay than phiền, sáng ra nàng hăng hái ra xe cạo lớp tuyệt đóng đầy trên kính phiá trước và hai bên trước khi lên đường. Từ nhà đến sở cũng gần nên chỉ chừng năm mười phút là tới, nàng đã lựa nơi ở gần nhà để khỏi phải dạy thật sớm và về muộn.

Những ngày cuối tuần, Hạnh thường đi làm overtime một ngày, nhưng có tôi đến thì nàng không đi làm thêm, nàng dành hai ngày cuối tuần để đưa tôi đi chơi xa, đi tới những mall lớn quanh Philadelphia, cách nhà hai ba chục miles, đôi khi còn xa hơn nữa, để xem các cửa hàng và kiếm đồ mua. Một trong những thú chính của nàng là đi shopping, còn tôi thì chỉ đi theo cho biết và để nàng có người yêu bên cạnh, bản chất tôi là thích ở nhà không thích đi lang thang ngắm hàng hóa và khách bộ hành. Nếu đi ngắm cảnh thiên nhiên thì tôi khoái hơn, nhưng Hạnh lại không thích. Hạnh có thể đi Shopping hàng năm sáu giờ mà không biết mệt. Mùa Đông tuyết rơi thì mặc tuyết rơi, nàng và các bạn vẫn rủ nhau đi các malls hay đi thăm những outlets để kiếm những món hàng giảm giá vừa ý thích của nàng. Tôi tự hỏi giờ này nàng còn thích shopping nữa thôi? Có lẽ đó là cái thú do bản tính của con người khó bỏ được. Tôi uớc gì gặp lại được nàng một ngày nào đó khi đi sắm đồ cho hai đứa cháu gái tôi… Ước chơi hão huyền vậy thôi chứ hết duyên thì chúng tôi sẽ chẳng bao giờ con gặp lại nhau nữa.

Hạnh cũng đưa tôi đi chơi vùng downtown thành phố Philadelphia, đi ăn một hai tiệm ăn Việt Nam và cả một tiệm Căm bốt, (một lần chúng tôi đội tuyết đi tới tiệm nổi tiếng bán cái món khoái khẩu tôi thích là Philly Cheese Steak Sandwich, một đặc sản địa phương, tôi tưởng ăn ở tại Philadelphia thì sẽ phải ngon hơn nhưng thấy cũng không hơn gì) còn bình thường thì chúng tôi chỉ ở nhà, thứ nhất là vì mùa đông ra ngoài phố trời lạnh buốt xương, chỉ đi ra ngoài khi cần đi mua một thứ gì, có đi thì cũng đi mau mau rồi về nhà cho ấm; thứ hai chúng dành tối đa thì giờ để được ở bên nhau cho bù những lúc phải xa nhau, nhớ nhung tràn ngập trong lòng. Tôi thích cùng Hạnh làm cơm, tôi nấu sẵn nhưng thức ăn để nàng để tủ lạnh ăn dần trong một hai tuần hầu tránh cho nàng phải vào bếp sào nấu phức tạp khi đi làm về, mỗi ngày nàng chỉ phải luộc tí rau hay nấu bát canh mà thôi. Thực ra nàng cũng không cần đến chuyện tôi làm này vì không có tôi thì nàng cũng dành ngày chủ nhật để chuẩn bị sẵn thức ăn trong tuần, nhưng tôi muốn làm bếp cho vui đồng thời cho nàng thấy rằng tôi thích chăm sóc nàng. Tuy không nói ra, nhưng tôi nghĩ nàng cũng khoái được chiều chuộng như thế.

Hạnh có thói quen đi làm về là thay quần áo rồi leo lên giường nằm nghỉ ngơi một lúc, rồi đi xuống bếp lục thức ăn, hâm nóng để chuẩn bị ăn tối. Việc ăn uống của nàng rất giản dị: lấy cơm và thức ăn bỏ vào một tô lớn rồi đem vào phòng ngủ cùng với một ly lớn nước cam hay sữa đậu nành, leo lên giường xúc ăn bằng muỗng, vừa ăn vừa xem laptop hay Ipad hoặc nói chuyện điện thoại. Chỉ có những ngày có tôi đến thăm thì chúng tôi mới dọn cơm lên bàn, ngồi ăn một cách trịnh trọng bên nhau. Những lúc đó nàng thường kể lại những chuyện xấy ra trong sở vào ngày hôm ấy, những gì vui buồn hay những sự việc rắc rối gặp phải… Sau khi ăn xong, nàng nhanh nhanh rửa chén bát nồi niêu rồi sau đó khoảng bẩy giờ tối là lúc nàng kêu điên thoại nói chuyện với các con và với chồng. Công việc liên lạc với gia đình này là một thủ tục nàng làm mỗi ngày, Hạnh coi đó là một trách nhiệm nàng phải làm ngay cả khi có tôi ở đó. Tất nhiên đó là một chuyện riêng tư, nàng thường vào phòng đóng kín cửa lại để tôi khỏi nghe được cuộc điện đàm. Đôi ba khi Hạnh cũng kể lại cho tôi những câu chuyện gia đình nàng, nhất là những gì liên quan đến sự học hành và tình cảm của hai đứa con gái.

……………….

 

Trên đây là những ký ức về Hạnh và về mùa đông tại Philadelphia mà tôi còn giữ trong đầu. Mười năm đã trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi đến thành phố ấy, một thành phố tôi đã chẳng mò mẫm tới làm gì nếu không vì tôi có người yêu ở đó... Ba bốn năm dài tôi đã thực hiện những chuyến viễn du đi thăm người tình, không chỉ vào mùa Đông mà thôi, bao nhiêu kỷ niệm chồng chất nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ còn giữ lại trong tâm khảm một ấn tượng mạnh về lần đi thăm đầu tiên vào mùa Đông năm ấy thôi. Chúng tôi đã quen biết nhau từ khá lâu trước đó, nàng cũng đã từng đến thăm tôi một hai lần, chúng tôi đã tưởng tình yêu của chúng tôi sẽ vĩnh cửu. Hạnh đã từng nói với tôi nhiều lần rằng nàng sẽ thương tôi mãi mãi, không có gì có thể ngăn cách chúng tôi được. Giờ đây tôi vẫn còn ghi nhớ những giòng dưới đây, nàng đã viết cho chính nàng và đã gửi cho tôi xem để chứng minh lòng nàng khi ấy:

Anh nằm trên người tôi, nhẹ nhàng hôn lên khắp mặt tôi và hỏi ngoài anh ra tôi có yêu ai không, và còn bắt tôi thề nữa. Tôi còn yêu ai được nữa, ngoài anh? Tôi đã chẳng nói với anh nhiều lần rằng tôi yêu anh vì anh người mà tôi kính phục là gì. Tôi chỉ có thể yêu được một người nếu tôi phục được người ấy, kính trọng người ấy, người ấy phải là người hơn tôi đủ mọi phương diện, về tuổi tác, về chiều cao (thật đó!), về học vấn và kiến thức, về kinh nghiệm trên đường đời, có nghị lực và ý chí, và nhất là phải có một tâm hồn, một lý tưởng.  Chỉ có anh hội đủ những điều đó, chỉ có anh làm cho tôi ngưỡng mộ, chỉ có anh làm con tim tôi rung động.  Anh không màu mè, không cầu kỳ, thẳng tính nói ra những điều anh nghĩ, khai hết quá khứ với những tật xấu, có khi hỏi thẳng thừng làm cho tôi phải ngượng ngùng. Có lẽ tôi yêu anh hơn cũng vì điểm anh quá thành thật ấy. Tôi thề với anh và với chính mình, chỉ 1 mình anh thôi, anh yêu dấu, chỉ một mình anh đánh thức được con tim đang ngủ yên của tôi, chỉ 1 mình anh mang lại cho tôi tình yêu, niềm hy vọng và sự sống.
Gần bên anh, tôi quên hết thế giới bên ngoài, quên hết những hệ lụy của đời sống. Tôi chỉ biết tôi có anh bây giờ, trong ngày này, tôi yêu anh và anh đang yêu tôi, tôi còn mong gì hơn? Tôi đang sống đúng nghĩa của sự sống. Chính anh khơi mầm sống dậy trong tôi. Chính anh dạy cho tôi biết thế nào là hạnh phúc .... … … Tôi yêu anh vô cùng, và tôi biết tôi chẳng thể nào rời xa anh được nữa.
Nằm trong vòng tay anh, tôi chỉ mong thời gian ngừng lại.  Ngày mai, cho dù tôi nhắm mắt, tôi cũng hài lòng mãn nguyện, tôi sẽ nhớ vô cùng những giây phút được gần anh.  Dù sao trên đời này, tôi cũng còn tìm thấy một tình yêu, cho dù có muộn màng. Tôi là người giàu có nhất, hạnh phúc nhất trên thế gian này vì tôi đã yêu, và được yêu.  Chính anh là niềm hạnh phúc chợt đến.  Em yêu anh vô vàn.  Anh có biết không, hả anh yêu dấu? 

Nhiều lúc tôi tự hỏi “hết duyên là hết tình hay sao? Hay tình vẫn còn mà tôi không được hay biết?” Dù sao tôi cũng phải chấp nhận; vì mọi chuyện trên đời này đều do số phận mà ra cả.

Mùa Đông
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.484 seconds.