Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Jul/2016 lúc 11:01pm

Cùng Một Nỗi Đau


-Bố ơi! mẹ đâu rồi?
-Ơ!… mẹ đi thăm bà.
-Chừng nào mẹ về?
-Ơ!.. vài ngày nữa.
Có tiếng khóc thút thít:
-Con nhớ mẹ!
-Ừ! bố biết… con ngủ ngoan, bố thương.
Tiếng khóc nghe chừng như áo não hơn.
-Không có mẹ gãi lưng, con không ngủ được
-Xích lại đây. Nằm sấp xuống, bố gãi lưng cho.
-…
-Không phải chỗ đó. Chỗ này nè!
-Đúng chưa?
-Không phải. Xích qua bên đây. Đúng rồi, nhưng tay bố nhám quá. Bố làm con đau.
-Ừ! bố sẽ gãi nhẹ một chút. Được chưa?
-Um… nhưng tay của mẹ mềm và êm hơn tay bố. Mẹ ơi! con nhớ mẹ.
Rầm!
Bàn tay chai cứng của người đàn ông đập mạnh vào thành giường. Như không thể kềm hãm được cơn tức giận, ông hét to:
-Không được nhắc mẹ nữa nghe chưa? Nghe chưa???
-Dạ nghe!
Thằng bé co rúm người lại, kéo chiếc gối che kín khuôn mặt. Hai môi bậm chặt để tiếng khóc không thoát ra ngoài.
Đêm chùng xuống. Đêm âm u. Đêm dài bất tận. Ngoài khung cửa sổ, cây cối ngã nghiêng theo cơn gió cuồng nộ. Người đàn ông ôm mặt, giấu những giọt nước mắt trong tiếng thở dài. Cùng với tiếng thở dài là đằng đẵng nỗi đau. Niềm ân hận chợt ùa về giữa tiếng nấc nghèn nghẹn của đứa con đang nhớ mẹ.

***

-Bố ơi! ngày mai con đi xa rồi, bố nhớ giữ gìn sức khỏe nha.
-Con an tâm, bố còn khỏe lắm mà!
-Nếu bố còn tiếp tục uống rượu thì sức khỏe của bố sẽ xuống nhanh lắm.
-Bố biết.
-Bố biết, nhưng sao bố vẫn uống. Có phải…bố còn… nhớ mẹ?
Đôi mắt người đàn ông quắc lên đỏ ngầu:
-Đã bảo… không được nhắc đến… con có nghe lời bố nói không?
Lần đầu tiên đứa con trai trừng mắt, nhìn thẳng vào mặt bố:
-Lâu lắm rồi, cũng gần hai mươi năm, con nghe lời bố không nhắc đến mẹ. Bây giờ, con không còn là đứa bé lên sáu, tối tối nằm ôm gối mong mẹ trở về gãi lưng cho con ngủ nữa. Con cần biết sự thật về sự vắng mặt của mẹ trong cuộc đời của con. Nhiều người nói cho con biết nguyên nhân sự ra đi của mẹ, nhưng con không tin. Con không tin bố là người đàn ông độc đoán, hà khắc với vợ như bà ngoại nói. Con không tin mẹ là người đàn bà hư hỏng, xấu xa như bà nội nói. Con muốn được nghe từ bố. Một cách trung thật và công bằng. Bố nói đi. Mấy mươi năm con sống trong nỗi hoang mang vì không hiểu tại sao gia đình mình lại thiếu mất một người rất quan trọng đối với con. Con cần biết một cách tường tận để không oán hận mẹ đã bỏ rơi con. Bố đừng dùng quyền làm bố để che đậy sự thật.
Khuôn mặt người đàn ông chìm xuống trong nỗi đau bất tận vừa được xoáy tung lên. Trái cấm nơi cổ họng của ông giật liên hồi và tiếng nói rít qua hàm răng cắn chặt:
-Một sự thật thối tha… con cần gì phải biết để thêm tủi hổ.
-Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Bố không thể dấu kín mãi. Con muốn được nghe chính bố nói, chứ không phải là bà nội, là các cô. Có phải… có phải… mẹ đã ngoại tình?
Người đàn ông ngửa mặt uống cạn ly rượu vừa rót đầy. Nước mắt chảy dài theo cái nhăn mặt đau đớn. Không biết vì hơi rượu cay hay vì nỗi đau đeo đẳng từng năm, từng tháng vừa cứa thêm một vết sâu vào trái tim rướm máu. Giọng đứa con nhỏ lại như van xin:
-Bố ơi! bố không thể vì con mà tha thứ cho mẹ hay sao?
-Bố yêu con. Bố yêu con nhất trên đời. Nhưng bố thành thật xin lỗi. Bởi vì…
Người đàn ông gào lên trong cơn giận dữ:
-Bố không bao giờ tha thứ cho người đàn bà đó. Bố hận bà ta và cầu mong cho bà suốt đời phải sống trong nỗi bất hạnh, đau khổ. Bà ấy đáng bị nhận lãnh tất cả những gì xấu xa nhất trên cuộc đời này mới đủ đền bù tội lỗi đã gây ra.
Đứa con trai lùi lại khi nhìn thấy ánh mắt long lanh, sồng sộc của người đàn ông.
-Bà ngoại nói đúng. Bố hẹp hòi và tàn nhẫn. Nếu như bố có được chút lòng khoan dung thì con đã không mất mẹ.
Xoảng!
Ly rượu rớt xuống, vỡ toang từng mảnh nhỏ. Màu rượu đỏ chảy loang trên sàn gỗ tựa như màu máu bầm trong trái tim vỡ nát. Người đàn ông chỉ tay ra cửa, hét lên trong cơn hoảng loạn:
-Đi! Hãy đi tìm người mẹ mất nết của mày. Đừng bao giờ trở lại. Đi ngay.
-Con sẽ đi. Con không muốn gặp bố nữa. Con ghét bố!

***

Thưa bố,
Năm năm rồi kể từ ngày con rời xa căn nhà cũ và không một lần trở lại. Con thành thật xin lỗi bố. Không biết từng ấy thời gian, bố đã sống thế nào và có còn mạnh khỏe như xưa? Còn con... biết nói thế nào đây?
Con đã lập gia đình cách đây ba năm. Con cứ tưởng mình sẽ được trăm năm hạnh phúc như những lời chúc mừng trong ngày thành hôn. Nhưng không ngờ, bất hạnh đã đến với con như nó đã từng đến với bố ngày con lên sáu. Ngày xưa, con trách bố hẹp hòi thiếu lòng lòng khoan dung để con phải mất mẹ. Đến bây giờ con mới hiểu. Hiểu tận cùng nỗi đau của bố. Nhưng con không như bố, âm thầm nuốt nỗi đau vào tim mà bằng sự căm hận con đã nhả phát đạn trừng phạt vào tấm lưng thon của người đàn bà phản bội. Cô ta không chết, nhưng suốt quãng đời còn lại sẽ gắn chặt với chiếc xe lăn. Con không hề hối hận về việc con đã làm, mà chỉ hối hận vì ngày đó đã nông nổi bỏ bố ra đi với lòng oán trách.
Hiện con đang ở trong tù để chờ ngày ra tòa xét xử. Một người bạn của con cho biết, cô ta sẽ bãi nại và có thể con sẽ được tha. Nếu chuyện đó xảy ra thì con may mắn hơn bố, vì việc làm của cô ta ít nhiều đã biểu lộ sư ân hận và làm dịu bớt phần nào nỗi đau của con. Còn mẹ con, bà đã biệt tăm từ ngày ấy. Không biết, có phút giây nào bà chạnh lòng nhớ lại mà hối tiếc về những gì đã gây ra hay đang thỏa thê với niềm hạnh phúc mới.....

......

Có tiếng động phía sau lưng. Người đàn bà xếp nhanh lá thư cho vào túi, không kịp lau nước mắt. Người đàn ông đến gần, kê sát mặt bà, chấm ngón tay lên đôi gò má nhô cao rồi đưa vào lưỡi. Với nụ cười ngu ngơ, ông hỏi:
-Khóc hả?
Bà nhìn ông với giòng lệ tuôn dài trên má. Hai năm rồi, kể từ ngày ông hoàn toàn mất trí nhớ, bà trở về đây chăm sóc cho ông như một cách để chuộc lại lỗi lầm trong nỗi ngậm ngùi hối tiếc, vì đã cuồng điên ham mê vật chất mà phá vỡ hạnh phúc gia đình. Trước mặt ông, lúc nào bà cũng tươi cười để ông vui theo cái vui của bà. Nhưng những lúc ông chìm vào giấc ngủ là lúc bà đấm ngực, tự trách mình khi đọc từng trang nhật ký của ông, mà mỗi trang giấy chỉ có duy nhất một hàng chữ dường như chưa ráo lệ “Thảm kịch bắt đầu từ một sự phản bội”.

Ngân Bình




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Jul/2016 lúc 11:08pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 13/Jul/2016 lúc 9:03am
BẾN MƠ


Tin giờ chót được cô Tâm chuyển từ phòng giám học xuống: “Thầy Toàn bị bệnh bất ngờ, nên các em được nghỉ hai giờ chiều nay. Vậy các em có thể ra về nhưng cố gắng giữ trật tự và im lặng để khỏi làm phiền đến các lớp bên cạnh!” Những đôi mắt mở lớn reo vui, những vành môi mím chặt vào nhau để khỏi bật ra tiếng hét mừng rỡ, những cái miệng há hốc chực reo to, những thân người nhỏm dậy muốn nhảy tung ra khỏi lớp. Nhưng tất cả đều cố gắng giữ nguyên trạng thái, chờ cho bóng cô giáo Tâm khuất hẳn sau cánh cửa gỗ mới vỡ òa. Thôi thì tiếng nói, tiếng cười, tiếng gọi bạn, tiếng đế guốc, đế giày của gần năm mươi cô gái thật khó mà “khỏi làm phiền đến lớp bên cạnh!” như lời cô giáo Tâm căn dặn.

         Tuy ngồi ở dãy bàn cuối lớp, nhưng Trang lại nhanh chân thoát ra ngoài thật lẹ: “Thầy cứ bịnh hoài đi, Trang chẳng than phiền chút nào đâu, Trang ghét nhất môn Vật lý của thầy đó, vừa khô khan lại vừa hóc búa. Đã chọn ban A, những tưởng sẽ thoát nợ, không ngờ phải đeo mang một tuần 4 giờ dài đằng đẵng phát chán. Mà đâu riêng gì Trang, mấy đứa bạn trong lớp cũng thường than thở: cố nuốt hoài sao vẫn mắc nghẹn. Hình như chỉ có Nguyên đui và nhóm Bình móm là thích học mà thôi, chắc tại tính tình tụi nó khô khan nên hợp không chừng!” Chân bước lẹ mà đầu óc lại nghĩ lan man, bỗng Trang nghe tiếng gọi giật ngược:

    -Trang! Đi với tụi này không?

    -Đi đâu? Trang hỏi trong lúc quay đầu lại chờ các bạn đến gần.

    -Đi coi “Đỉnh Gió Hú” ở Nha Trang xi-nê! Tụi nó nói phim đó hay lắm. Hoài lên tiếng đề nghị.               

    Châu dãy nãy phản đối:

          -Ý hổng được đâu, đến hơn 7 giờ chiều mới tan, về nhà má tao la chết!

    -Hay tụi mình đi ăn Kem Màu Hồng ở Trần Qúy Cáp được hông? Yến lỏn lẻn nhỏ nhẹ hỏi.

    -Nhỏ “ốc tiêu” này! Sao lúc nào mi cũng nghĩ đến kem và cà-rem hết vậy?

    Thấy Yến bị nhỏ Hoài chọc quê, Trang cười hì hì rồi thong thả buông từng tiếng:

          -Tụi mày hổng thích xi-nê, hổng hảo ngọt thì theo ta ra biển, vừa ngồi ngắm phong cảnh hữu tình, lại được ăn cốc ngâm cam thảo, chấm với muối ớt. Chịu hông?

    Nghe đề nghị của Trang có vẻ hấp dẫn, lại tưởng tượng đến những trái cốc vàng hườm, xẻ thành múi, xỏ ngang qua một que tre, được ngâm vào trong thẩu nước cam thảo trong vắt, lấy ra bôi vào tí muối ớt, bỏ vào miệng cắn một miếng, chất chua từ cốc, chất mặn từ muối, cay từ ớt hòa vào nhau, mấy cô đã thấy tuyến nước bọt tiết ra hơi nhiều, nên vội vàng hưởng ứng ngay.                   

Bốn chiếc xe đạp mini đưa bốn cô nữ sinh áo trắng rời khỏi cổng trường thong dong rẽ về hướng đường Hàn Thuyên và thẳng lối ra biển. Những vệt nắng xế trưa đổ dài xuống lòng đường lung linh nhảy múa như reo vui, như giục giã những bàn chân xoay đều trên những chiếc pê-đan xe đạp.

Tiếng nói cười vang vang trong gió làm giật mình lũ chim sẻ đang trốn nắng trên những cành cây của hàng cổ thụ rợp bóng, chúng vội vàng xoải cánh chuyền sang cành khác, khiến nhiều cành lá rung rinh và những chiếc lá vàng rụng xuống, là đà bay theo cơn gió nhẹ, rồi nhập bọn cùng đồng loại đang nằm từng đống ủ rủ bên đường.

Phút chốc bãi biển Duy Tân đã trải dài trước mặt. Những cây dừa sai trái, ngả nghiêng xỏa mình trong nắng, những tàu lá vươn dài thành những chiếc dù thiên nhiên che nắng cho du khách vào những lúc xế trưa. Tìm thấy một gốc dừa chưa có người ngồi, bốn cô học trò vội vã tháo guốc, dắt xe chạy ù trên cát về hướng đó. Sau một hồi vất vả khóa xe, tìm chỗ để cặp-táp, lo lắng cho đôi chân, các cô soải mình nằm ngay trên cát, hưởng trọn những cơn gió nhẹ từ ngoài khơi thổi vào, mơn trớn trên làn da, lau khô những giọt mồ hôi vừa đọng trên trên viền mi, chân tóc.

Trang mơ màng nhìn ra biển. Đúng là “sóng yên bể lặng”. Nước biển xanh ngắt một màu, trải dài đến vô tận, xa xa là những chấm nhỏ li ti di động, Trang biết đó là những chiếc thuyền đánh cá mà mỗi chiều về bên Cầu Bóng hoặc dưới Cồn vẫn tấp nập cặp bến. Và những con cá, con mực tươi xanh, đủ loại, đủ cỡ kia sẽ được đem lên chợ Đầm, chợ Xóm Mới, chợ Phường Củi, để người dân Nha Trang tha hồ làm... gỏi cá (tuy có khi không chuyên nghiệp bằng tiệm gỏi cá cầu Hà Ra hoặc Thanh Hải). Trang lại đưa mắt nhìn về hướng Cầu Đá, trên ngọn đồi cao có dinh thự của vị vua cuối cùng nhà Nguyễn: "Dinh Bảo Đại".

Đã mấy lần Trang theo chân người anh lên thăm nơi đó. Đường đi 1ên đồi quanh co, lòng vòng đến mỏi cả chân mới gặp được “Nhà Rồng”. Không biết con rồng thiệt ra sao, chứ ở đây, rõ ràng người ta đã tận dụng nghệ thuật điêu khắc thật tinh xảo để tạo ra những con rồng uốn lượn trên những lối đi vào dinh. Tuy gọi là dinh nhưng chỉ là khu nhà nghỉ mát nho nhỏ. Trang thích nhất lối đi phía sau, con đường xuống biển, ôi nó đẹp làm sao! Từng bậc, từng bậc đá từ trên đồi cao xếp dài xuống  bãi cát nhỏ, len lỏi luồn lách qua những tàn cây xanh ôm dọc lối đi, những ghềnh đá nhấp nhô bởi những con sóng bạc đầu lăn tăn vỗ nhẹ. Đúng là chỗ nghỉ mát của nhà vua. Đẹp và thơ mộng vô ngần.

    Mặc cho Trang mơ mộng, bộ máy nói bắt đầu làm việc:

    -Bồ có nghĩ là thầy Toàn bị bệnh thật không? Hoài trở lại câu chuyện với Châu.

    -Tới thăm thầy mới biết, hồi sáng thầy còn dạy ở lớp A2 mà, Châu tiếp 1ời.

    -Hay là hồi trưa thầy ăn nhiều quá nên bị... trúng thực?

    -Thầy có bị trúng thực, trúng độc, trúng gió gì thì tụi mình sẽ đến thăm sau. Bữa nay được nghỉ 2 giờ là trúng... số rồi!    

    -Nghỉ học hoài, cuối năm đi thi không trúng cử thì có nước trúng đòn!

    Quay lại thấy Yến cứ giở từng trang tập vở,Hoài tò mò:    

    -Nhỏ “ốc tiêu”! Mày đang tìm cái gì vậy?

    -Tìm tiền đi mua cốc, Yến nhớ bỏ tiền trong vở mà hổng biết cuốn nào, nãy giờ tìm mãi không thấy.

    -Chớ hổng phải ăn hàng hết rồi sao? Còn làm bộ... kiếm! Châu xía miệng vào.

    -Hổng có tiền thì lục cặp nhỏ Trang mà lấy. Hoài đề nghị.

    Nói xong, cô nàng nhanh nhẩu lôi cặp-táp của Trang về phía mình và mở vội ngăn kéo, có hơn 10 đồng nằm chễm chệ nơi đó, ba cô che miệng khúc khích cười, nhưng hình như Trang không hề hay biết gì cả.

    Đạp mạnh vào chân Trang, Châu nói như hét vào tai bạn:

    -Trang, mày đang làm gì vậy?

    Thót mình một cái, quay lại bạn Trang đáp cộc lốc:

    -Làm thơ!

    Hoài và Yến vừa dợm bước đi, vội dừng lại, sà vào chỗ cũ, hỏi tới tấp:

    -Bộ mày cũng biết làm thơ hả? Nói thật hay chơi vậy? Yến tò mò hỏi bạn.

    -Bồ làm được thơ gì, đọc cho tụi tao nghe thử đi! Hoài đề nghị.

    Trang lên giọng:

    -Tên nào chịu khó lấy giấy bút ra ghi chép để còn... lưu lại cho hậu thế. Kẻo không thơ của tao nó tan loãng vào không khí thì phí quá!

    Châu lẹ làng mở cặp táp, rút cây bút chì và tập giấy nháp rồi giục bạn:

    -Rồi, đọc lẹ lên đi nàng thơ!

    Trang ngồi ngay dậy, hai tay bó lấy đầu gối, tằng hắng lên giọng, trước khi cất tiếng:

                  “Chiều nay được nghỉ hai giờ

        Tại thầy... đau bụng bất ngờ đó thôi!

                     Bốn nàng con gái lẻ loi

        Kéo nhau ra biển mà ngồi ngó quanh

                     Nước trời cùng một màu xanh

        Trừ mây màu trắng, áo anh  màuvàng!”

          Thấy Trang dừng hơi lâu, Hoài nhắc bạn:

    -Đọc tiếp đi!

    -Hết rồi, lấy gì đọc nữa!

    Trang đáp tỉnh bơ, khiến ba cô gái cùng phá ra cười ha hả, những tiếng cười thật giòn. Yến cố nói trong tiếng cười:

    -Thơ mày chắc được xếp vào loại... ễnh ương!

    -Thơ ta có niêm luật đàng hoàng, gieo vần thì ăn đứt thể thơ lục bát đó à nha!

    -Ừ! Thì coi như cú pháp gì gì đó có đi, nhưng ý thơ  ta nghe không ổn tí nào. Sao có cái vụ bốn nàng con gái lẻ loi ở trỏng? Rồi đang tả trời-mây-nước, lại chen cái vụ áo anh màu vàng vô chi vậy?

    -Tụi mày thông minh mà chậm hiểu thấy mồ đi! Bộ bốn đứa mình không lẻ loi đây sao? Còn cái vụ kia hả? bí quá thì phải đi tìm chữ điền vào khoảng trống cho đúng vận chứ, mà coi kìa, bộ hai tên đó không phải áo vàng sao?

    Trang đưa tay chỉ về hướng hai chàng sinh viên sĩ quan Không Quân đang ngồi bên bàn nước trong quán.

    -Sao bữa nay mới chiều thứ Sáu mà hai tên đó xuất trại được tụi mày nhỉ? Yến tò mò hỏi.

    -Ai mà biết được, có thắc mắc thì lại đàng đó mà hỏi, luôn tiện xin chữ ký đi!

    -Ở thành phố mình có tới mấy quân trường lận, ta mà đi xin chữ ký, chắc phải cất nhà kho để chứa, ai mà thèm.

    Châu buột miệng:

    -Ồ nghĩ cũng vui, hổng biết ai là người đầu tiên sáng lập ra mấy cái quân trường Hải quân, Không quân, Đồng Đế, chắc hồi đó mấy ổng... mê Nha Trang dữ lắm há? báo hại ngày hôm nay hễ mỗi lần ta ra cửa là thấy lính.

    -Cả nhỏ Yến lẫn nhỏ Châu đều vô duyên hết, người ta vào lính là để đi chống giặc, chứ đâu có phải để cho chúng mày làm thơ, rồi bàn tán nọ kia. Nhỏ Yến có đi mua trái cốc với ta không nào?

    Yến bị Hoài sửa lưng nên chỉ biết cười trừ, rồi kéo tay bạn chạy băng trên cát. Trang lại trở về vị thế ngã người lúc ban đầu và chăm chú theo dõi cô bé con đang rượt đuổi bắt mấy con còng làm hang dưới cát, trong khi Châu lôi từ trong cặp-táp ra quyển tạp chí “Tiểu Thuyết Thứ Năm” và chúi đầu vào đọc.

    Bỗng Châu bật cười hích hích, đập tay vào vai Trang.

    -Trang! Trang! Đọc mục này coi, tức cười quá chịu không nổi.

    -Mục gì vậy? Trang lơ đểnh hỏi.

    -Tìm bạn bốn phương!

    -Hả?

    Trang bật ngồi dậy như cái 1ò xo, ngó chăm chăm vào Châu hỏi dồn:

    -Nhà ngươi "nghiên cứu" mục đó từ hồi nào vậy?

    -Mới 30 giây thôi, nhịn cười không được nên mới gọi bồ đó!

    -Đâu đâu? Đưa đây đọc coi!

    Hai cô chụm đầu vào nhau mà đọc, rồi lại rúc rích cười, đến nỗi Hoài và Yến trở lại mà vẫn không hay.

    -Ê! Tụi mày coi cái gì mà vui dữ vậy? Yến tò mò.

    -Muốn nghe không? Châu hỏi.

    -Đọc lẹ lên đi còn bày đặt hỏi lại. Hoài thúc bạn trong khi Châu tằng hắng lên giọng:

    -Mở màng nhĩ mà nghe đây: “Thanh niên được miễn dịch vĩnh viễn, có thừa mọi điều kiện, hiện là đối tượng của nhiều cô gái ở đây (Trai thiếu gái thừa mà) nhưng lại thích kết bạn với các cô ở miền Thùy Dương Cát Trắng còn trong lứa tuổi học trò. Cô nào cảm thấy mình thật hoàn toàn về tất cả mọi phương diện, hãy biên thư về: Trần Đại - Số 999999… Công Lý, Sài Gòn. Nếu hợp sẽ tiến xa hơn, thư bắt buộc phải kèm ảnh, không hội đủ điều kiện xin miễn và cũng không trả lời thư đến muộn.”

    -Ha ha ha! Tên này phải là con cháu hay họ hàng gì của... Tổng thống đây. Chỉ có con Vua cháu Chúa hồi xưa hoặc “COCC” cỡ bự bây giờ mới có cái giọng phách lối  như vậy? Yến trề môi.                      

    -Theo Trang thì tên này nếu không lé, lác thì cũng mù hay chột một mắt, nên hắn nhìn đời có một con mắt mà thôi.

    -Còn bày đặt lấy tên Trần Đại, giống Đại Ca Thay trong tiểu thuyết D.A chắc? Hổng chừng hắn cao cỡ anh hề T. L. là ít. Hoài chêm vô.                    -Nhưng chắc một điều là hắn phải thuộc loại...bất bình thường rồi đó, nên mới được cấp giấy miễn dịch vĩnh viễn chứ! Trang vẫn còn khúc khích cười.

    -Sao nhà ngươi biết? Yên tò mò hỏi bạn.

    -Chứ hổng phải sao? Trong lúc chính phủ ra lệnh tổng động viên, nếu là con một thì có giấy hoãn dịch vì gia cảnh, nếu bận học thì cũng giấy hoãn dịch vì học vấn. Chỉ trừ đui, què, sứt, mẻ hay thiếu hoặc dư một.... bộ phận nào đó trong người mới được miễn dịch vĩnh viễn mà thôi!

    -Ừ! Chắc là vậy.Yến gật đầu ra chiều am hiểu vấn đề. Chợt Trang hỏi giật ngược:

    -Tụi mày có chịu góp cho tao mỗi đứa hai đồng không?

    -Chi vậy? Ba cái miệng há to phát âm cùng một lúc.

    -Mua tem, bì thư viết…làm quen với hắn.

    -Bộ nhà ngươi muốn kết bạn với hắn thiệt sao? Ừ! Mà nhỏ Trang coi bộ đủ điều kiện à nha, Trang định gửi hình cho hắn thiệt hả? nhớ đi lại Liên Nga mà chụp hình nghe. Yến nói một hơi.

    -Ngu sao mà gửi hình tao cho hắn!       

    -Vậy hổng lẽ gửi hình tụi này?

    -Cũng không luôn. Trang sẽ cắt hình anh Bảy Chà Và trong ống kem Hynos mà gửi cho hắn.

        Hích hích hích! Ha ha ha! Các cô tha hồ cười trong khi Trang tỉnh bơ ra lệnh:

    -Tên nào lấy giấy ra ghi “bản thảo nội dung lá thư”!

    Châu nhanh nhẩu cầm lấy tập nháp, lên tiếng:

    -Rồi! Đọc đi!

           Trang đổi thế ngồi, lên giọng:

    -Nha Trang một chiều Thu ảm đạm!

    -Dừng lại! Dừng lại! Châu la lớn.

    -Trời nóng thấy mồ, sao lại đề là  ảm đạm. Xạo vừa thôi!

    -Bạn khờ quá, mình viết vậy mới... tình, ai mà viết chiều Thu nóng nực bao giờ? Này, có nhớ bữa trước tụi mình đi ngang qua Quán Số 1 không? Có cái ông văn sĩ gì đó, ổng nói với mình rằng thì là mặc dù ổng hay ra đó ăn bò bảy món, uống la-de như điên, nhưng khi hứng chí muốn viết thư cho... bạn thư, ổng vào đề: “Anh ngồi trên gác trọ, bên tách cà phê đen”. Có vậy bạn mới cảm động chứ! Thôi tiếp tục:  

     Kính gửi ông Trần Đại... Number One.

        Chưa biết có hội đủ điều kiện để lọt vào mắt... chiếc của ông hay không? Dù tôi là con gái của miền Thùy Dương Cát Trắng đây, nhưng tôi vẫn có nhã ý gửi tặng ông tấm ảnh và mấy vần thơ cổ sau đây để làm kỷ niệm:

                      Ba đồng một mớ đàn ông

            Ta bỏ vào lồng ta xách ta chơi.

                    Ai ngờ dây đứt lồng rơi

          Chúng bò lổn ngổn mỗi nơi mỗi... thằng!

                                                                Xin hết.

    Các cô lại được dịp cười lăn, cười ngặt nghẽo, cười bò trên cát. Yến “ốc tiêu” vừa ôm bụng vừa nêu thắc mắc:

    -Rồi Trang định lấy tên đứa nào để nhận thư?

    -Hắn đọc thư, hắn nổi khùng, hắn chửi cho một trận nên thân, chứ ở đó mà chờ nhận thư!

    -Hắn có chửi thì tự mình hắn nghe, làm sao tới tai mình được. Châu hít hít hai cánh mũi.

    -Biết đâu hắn lại cảm động. “Dĩ độc trị độc” mà, cứ lấy tên bốn đứa đi! Hoài đề nghị.

        Trang lẩm bẩm: Trang-Châu-Hoài-Yến, Châu-Hoài-Yến-Trang, Châu-Yến-Hoài-Trang..., Ôi chu choa, sao mà rặc mùi cải lương Hồ Quảng quá, hổng được đâu! Trang la lên.

    -Hay là lấy tên và địa chỉ nhà Trang luôn đi cho rồi. Cả bọn góp lời.

    -Tên tao? Nguyễn Thị Đoan Trang! Trang trợn mắt, lắc đầu nói tiếp :   

    -Hổng được đâu! Lời thư với cái tên chửi nhau, coi sao được.

    -Thì nhỏ bày đặt ra, phải rán chịu nghe chửi một phen xem sao. Nhớ khi nào có thư hồi âm phải đưa cho tụi này đọc với nghe, giờ Châu phải đi về, cười mệt quá rồi, tới giờ cơm ăn không vô, bị bà cụ la là cái chắc.

 

                                 ********************

 

Người phát thư đã đi khá xa, nhưng Trang vẫn đứng yên ngoài ngõ, tay cầm phong thư mà miệng cứ lẩm nhẩm: "Nguyễn Đức Thiệt K.B.C...". Rồi Trang thầm nghĩ: cái tên lạ hoắc. Ai đây? Bà con, bạn bè, người quen? Trang đâu có quen ai là lính, mặc dầu thành phố này đầy dẫy, vô số lính. Hay là bà con của Ba Má? Nếu vậy sao lại gửi tên Trang? Có khi nào bị lộn địa chỉ? Nhưng rõ ràng tên họ và số nhà nàng mà! Bao câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu Trang. Nàng bước chậm vô nhà, bỗng một ý nghĩ chợt lóe lên, lời thư bên trong làm Trang chưng hửng:

              Cao nguyên một tối Đông rét mướt.

               Kinh gửi cô Đoan Trang.

            Thân tình lắm mới được người bạn cho xem lá thư của cô trong kỳ nghỉ phép vừa rồi. Lời thư quá đặc biệt và chữ viết thật dễ thương nên đã khiến tôi “cầm lòng không đậu”, phải mượn tạm lá thư (dĩ nhiên là người bạn không biết). Rất mong được nhìn thấy lại nét chữ và lời văn dí dỏm, dù lúc đó tôi có bị... bò lổn ngổn.

                                      Ký tên: Nguyễn Đức Thiệt

         

     Trang bật cười: à, thì ra thế! Những tưởng lá thư chọc quê anh chàng phách lối nào đó đã bị quăng vào sọt rác, còn nếu hắn có thì giờ, hắn đã viết... chửi cho một trận. Nhưng không ngờ. Phải đem thư này cho tụi bạn đọc ngay chiều nay. Trang lại nghĩ đến đám bạn, thế nào tụi nó cũng sẽ “mổ xẻ” lá thư ra thành từng mảnh vụn cho mà xem. Anh chàng Thiệt nào đây, chắc sẽ bị nhảy mũi liên hồi rồi sinh bịnh cũng không chừng.

          

     Cả bọn nôn nao đợi giờ ra chơi, nên vừa dứt hồi chuông báo hiệu là mấy cô nhanh chân phóng ra khỏi lớp. Chọn được một góc sân vắng, khuất sau dãy hành lang phòng học, bốn cô nữ sinh áo trắng, chụm đầu vào nhau để đọc thư của người lính lạ.

    -Yến coi bộ anh chàng tên Thiệt này chắc hổng có... thiệt đâu !

    -Không lẽ cái khu bưu chính này cũng giả luôn sao? Châu nêu thắc mắc.

    -Hoài nghĩ là thiệt đó, nhưng có điều chắc anh lính này cũng hổng giống ai hết, vì là bạn của anh chàng Trần To nào đó mà, bởi vậy hắn mới buồn tình mà năn nỉ xin kết bạn mí nhỏ Trang.

    -Yến nhứt định là mấy tên nào đó muốn viết thư phá nhỏ Trang rồi cười chơi. Cũng giống như bọn mình đã làm vậy, ai biểu nhỏ Trang kêu tụi hắn bò lổn ngổn chi cho chúng tức!

    -Nhỏ “ốc tiêu” này sao đa nghi quá! Người ta có tên họ đàng hoàng, lại viết từ KBC rõ ràng mà sao lại giả được.

    -Bộ hễ tên Thiệt là… thiệt sao? Còn khuya à! Yến thấy tên chữ thường phản lại tính người à nha. Hễ tên Thiệt thì thường hổng... thiệt, coi như cô Hiền đó, tên Hiền mà dữ như bà chằng lửa, tên Đại mà ốm nhom, ốm nhách, còn tên Tuyết nữa, tuyết mà có trắng chút nào đâu, với lại nhìn con Trang kìa, tên Đoan Trang gì mà phá như giặc ấy!

    -Nè, nè! Mi nói hết chưa? Nói quá làm sao lớn cho nổi hả? Ừ, mà Châu cũng không hiểu tại sao ba má nhỏ Trang lại đặt cho nó cái tên ngược đời như vậy nhỉ?

    -Tên nào không biết thì nghe ta nói đây: Ba Trang nói lại là hồi mẹ Trang mới sinh Trang ra, hễ đặt đâu là Trang nằm yên đó, không hề phá phách ai hết, ngoan ngoãn tề chỉnh ghê lắm, chỉ lâu lâu khóc... luôn luôn thôi. Ông cụ thấy đúng là đứa con gái ngoan nên mới đặt tên Đoan Trang đó chứ!

    -Xạo vừa thôi nha! Lúc mới sinh ra, nhà ngươi có tí xíu, làm sao phá phách được, khéo vẽ chuyện. Xí! Yến trề môi thật dài sau tiếng xí.

    Hoài nhìn bạn cười, tiếp lời :

    -Bởi vậy ông thầy Hân mới cố tìm chữ để sửa lại tên cho hắn đó.

    -Nè, Thầy Hân tức con Trang cành hông mà không cách chi phạt nó được. Phá vậy mới đáng mặt... anh hùng, Yến phục nhỏ Trang sát đất.

    -Hì, hì, quên kể chuyện chủ nhật qua...

    Trang bỏ lửng câu nói, khiến mấy cô lại tò mò thêm.

    -Chuyện gì vậy kể mau lên, cả bọn nhao nhao.

    -Thầy Hân! Trang đáp cộc lốc.

    -Nữa, phá nữa! Chắc lại một màn hấp dẫn lắm, kể mau đi.

    -Sáng qua, Trang đi ăn phở Chụt với chị Mai. Trong lúc ngồi chờ người ta mang phở tới thì thấy thầy Hân với cô Hiền đi vào, Trang không có chào họ vội, chờ cho đến lúc họ đưa gắp phở vào miệng, Trang đi nhanh lại và lớn tiếng: Chào Thầy Cô ạ! Trang thấy hai người cùng ngẩng mặt lên một lúc, lẹ như rô-bô. Lúc đó cô Hiền cố nuốt cho trôi mấy cọng bánh phở, còn thầy Hân thì mắt mở lớn, miệng há ra, tí nữa thì bánh phở, thịt gà, kéo nhau xuống đường hết.

    Hích-hích-hích, ha-ha-ha, hi-hi-hi, mạnh ai nấy cười. Chờ cho các bạn bớt cười, Trang trở lại vấn đề:

    -Trang định hồi âm lá thư này, mấy bồ nghĩ có nên không?

    -Bộ nhà ngươi định làm “em gái hậu phương của anh trai tiền tuyến” hả?

    Hoài cười trong khi Yến tiếp:

    -Lỡ anh chàng thuộc loại lính trơn thì sao?

    -Lính trơn thì lính trơn chứ sao! Đã bằng lòng viết thư cho người ta thì sao còn phân biệt trơn với nhám. Lính nào không là... lính? Châu hơi bực mình vì thắc mắc của  Yến.

    -Cái mục “Em chỉ yêu có anh binh nhì” thì không có Yến trong đó rồi nhé! Lỡ có đụng chạm thì xin lỗi trước, Chẳng lẽ học hành cho cố vào, lại đi quen mí mấy người chữ nghĩa không bằng mình, làm sao nói chuyện được, lại nữa Cha Mẹ mình cũng đâu có bằng lòng như vậy, Yến cũng có nghe nhiều người trách cứ sao những nữ sĩ khi viết văn, làm thơ, nhân vật chính thường là sĩ quan mà không là lính binh nhì hay binh nhất, vì mấy bà viết văn đều là người có chút chữ nghĩa mà, nồi nào phải úp vung đó chứ, nếu có nói khác đi, là…xạo! À mà Trang này, nhà ngươi thay đổi “quan điểm, lập trường” từ hồi nào vậy? bộ không coi quý vị liền ông là ba đồng một mớ nữa sao?

    -Khác xa à, chàng Đại được miễn dịch vĩnh viễn thì đúng là “ba đồng một mớ”, chứ còn mấy người lính thì khác à nha. Họ đáng giá ba chục ngàn đồng trở lên đó!

    -Tiền gì mà nhiều quá vậy? Yến trợn mắt hỏi bạn.

    -Tiền... tử tuất! Trang đáp tỉnh.

          Tiếng chuông gọi vào lớp đã cắt đứt câu chuyện vui của họ, nhưng những tiếng cười vẫn còn vương theo những bước chân chim.

Trang đang ngồi vắt vẻo trên cành cây ổi sau nhà, đưa mắt dõi tìm trong kẽ những lá ổi xanh um kia, xem có còn sót trái ổi nào không. Những trái ổi no tròn, trắng mọng mà mỗi khi đưa vào miệng cắn một cái, nó sẽ vừa dòn, vừa ngọt ngọt, chua chua, nếu có thêm tí muối ớt chấm vào thì tuyệt. Trang hái đã gần đầy cái rổ nhỏ nhưng vẫn còn ham, vì nàng nghĩ đến các cô bạn, lát nữa họ sẽ lại đây, các cô thích nhất vẫn là những trái ổi trong vườn nhà nàng. Nhưng đã lâu lắm rồi họ không còn có dịp ngồi đong đưa trên cành ổi nữa, kể từ ngày Châu và Hoài rời thành phố về học ở Sài Gòn, bỏ lại Yến và Trang, ngày hai bận đạp xe leo lên dốc Cầu Đá mệt phờ người mới tới được “Hải Học Viện Nha Trang”...

    -Chị Trang xuống đi, có người tìm chị kìa! Tân từ dưới đất gọi với lên.

    -Ai vậy? Trang lơ đểnh hỏi vọng xuống.

    -Một ông lính Biệt Động Quân tênThiệt!

    -Hả?

           Suýt chút nữa Trang đã tuột chân rơi tỏm xuống đất. Trang quýnh quáng cố đưa chân tìm chỗ leo xuống, nhưng quái lạ thật, những cành ổi chắc nịch đã từng đỡ bàn chân Trang lên xuống bao nhiêu lần, hôm nay bỗng biến đâu mất hết. Cố gắng mãi đến gần vài phút sau, Trang mới an toàn đứng được dưới gốc ổi mà trống ngực thì đập liên hồi. Nàng quay lại tìm thằng em nhưng nó không còn ở đó nữa.

           Sửa lại bộ quần áo cho ngay ngắn, vừa luồn tay gỡ những sợi tóc rối, Trang đi vội vào nhà với một chuỗi ý nghĩ lộn xộn chạy loanh quanh trong đầu: tại sao đến thăm Trang mà không báo trước? Đã mấy tháng nay sao không liên lạc với Trang, dù Trang đã viết đến mấy lá thư liền? Giờ gặp mặt đột ngột như thế này, biết nói chuyện gì đây? Tuy thành phố này là thành phố của lính, nhưng có bao giờ Trang nói chuyện trực tiếp với người lính nào đâu. Hồi ấy Trang viết thư cho anh, chẳng qua vì muốn làm le với lũ bạn thôi mà. Một chút làm dáng của mấy đứa con gái sống an nhàn nơi thành phố. Nhưng Trang đâu có “thôi viết thư cho anh được”, vì với anh: “Trang đã là nguồn vui, là niềm an ủi, những lá thư của Trang là liều thuốc an thần cho anh sau mỗi bận hành quân gian khổ...” như lời anh vẫn viết trong thư cho Trang đó, mặc cho mấy nhỏ bạn vẫn cứ…nồ Trang: mấy ông lính Biệt Động Quân dữ dằn lắm đó!

    Có lần Châu còn kể chuyện tai nghe mắt thấy nữa kìa : “Trang biết hông, Châu đang ngồi với nhỏ bạn và anh của hắn trong quán ‘Mây’. Phía bên kia bàn, Châu thấy một ông lính Biệt Động Quân ngồi lầm lì uống bia, trong khi bàn đối diện là một đám thanh niên, họ cười nói, la hét om sòm. Bỗng ông lính rút cây súng ngắn, dộng trên bàn cái rầm. Ai cũng thất kinh hồn vía hết, hổng biết chuyện gì sẽ xảy ra, rồi ông ấy đứng dậy, chầm chậm đi lại bàn của mấy tên thanh niên kia, ra lệnh cho họ phải... bò ra khỏi quán!” Châu kết luận: ông lính hung hăng quá!

    Nhưng theo Trang thì chắc không phải bản tính của ông ta đâu. Có lẽ ông ấy vừa được phép trở về thành phố sau một trận đánh kinh hồn. Lính chết. Bạn bè ông ta chết. Buồn bực, bứt rứt mà gặp cảnh chướng tai gai mắt thì làm sao ông ta dằn nổi? Trang thông cảm cho người lính đó. Chả là có nhiều lần anh đã viết thư cho Trang, kể về những nỗi cực nhọc, những hy sinh gian khổ mà người lính tác chiến phải chịu đựng đó sao? Dĩ nhiên làm sao Trang có thể hình dung được hết những khổ cực, gian lao mà các anh phải sống ngày qua ngày. Trang chỉ biết một điều là đơn vị đồn trú ở miền rừng núi, ở những chốn đèo heo hút gió, không thể nào vui sướng được hết. Còn chuyện đụng giặc mới là quan trọng, dù các anh có thắng trận, chắc cũng phải có người gục ngã? Các anh đã được đền bù như thế nào cho xứng đáng với những giọt mồ hôi, máu và những phần thân thể đã mất mát?

-Nè nè đẹp rồi, có lẹ lên không? Chờ lâu quá rồi, người ta... vọt mất bây giờ!

           Chộp được thằng em trong lúc còn đang đứng chải tóc trước gương, Trang không bỏ lỡ cơ hội:

-Tân, anh Thiệt trông thế nào? Còn trẻ hay già?

    -Cao ráo, sạch sẽ, oai phong lẫm liệt ra phết, nói chuyện hấp dẫn nữa!

    -Bộ nãy giờ em nói chuyện với ảnh hả?

    -Ừ, Ảnh “phỏng vấn tốc hành” tui về chị đó!

    -Chết! Mày đã nói bậy bạ gì rồi?

    -Ra ngoài đó mà hỏi. Có điều tui nói với ảnh là chị không thích làm quen với lính... Rừng đâu!

         Tiếng nói của Tân vọng lại từnhững bước chân sáo nhảy vội ra cửa sau, bỏ lại Trang với từng hồi trống ngực đập thình thịch. Trang cảm thấy hơi run theo mỗi bước chân ra phòng khách

    -Xin lỗi...!

    -Trang phải không? Anh là Thiệt đây!

    -Dạ chào anh! Tại anh đến mà không báo trước nên Trang...

    -Trang không muốn tiếp anh phải không?

    -Dạ đâu phải vậy, tại...

    -Hay là Trang sợ phải nói chuyện với lính?

    -Cả thành phố Nha Trang này là của lính mà! Làm sao Trang phải sợ.

    -Đọc thư Trang, anh đã hình dung ra một cô bé thật lém lỉnh, lí lắc nhưng cũng dễ thương không ai bằng.

    -Nhưng khi anh gặp Trang rồi thì... hỡi ơi phải không?

    -Phải nói là anh rất hân hạnh được Trang nhận làm anh. Có được cô em gái như Trang, chắc kiếp trước anh khéo tu dữ lắm. À, anh đến đây mà không báo cho Trang biết vì anh muốn dành cho Trang sự ngạc nhiên thích thú. Nếu Trang cho phép, từ nay anh sẽ có dịp đến thăm Trang luôn.

          Trang tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên:

    -Bộ anh được nghỉ phép hoài sao?

    -Làm gì có. Mỗi năm một người lính chỉ được 15 ngày phép mà thôi, trừ những lần nghỉ phép đặc biệt, như kỳ rồi anh đã có hơn 3 tháng khỏi phải cầm súng đó.

    -Bộ anh được “ưu tiên” dữ vậy hả? Chắc anh đã lập nhiều chiến công to lớn phải không? Ồ, mà sao anh không viết thư cho Trang? Trang viết mấy thư liền, nhưng không thấy anh trả lời, nên Trang...

    -Anh xin lỗi! Vì người ta treo cái tay của anh lên rồi, làm sao anh viết thư được. Đùa với Trang chứ anh vừa xuất viện và được thuyên chuyển về “Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân” ở Dục Mỹ. Anh sẽ về thăm Trang đều đều, Trang có thích không?

         “Trang có thích không?"Trang muốn trả lời anh “Trang thích lắm chứ!” Càng nhìn Thiệt nói chuyện tự nhiên bao nhiêu, Trang lại càng cảm thấy lúng túng. Phải chi anh xí trai một tí, phải chi anh già hơn chút nữa, phải chi anh nói chuyện cù lần, phải chi và phải chi... ,Trang lại liên tưởng đến lời nhỏ Yến: “Ông anh mày nếu không mặt rỗ hoa mè, thì thuộc loại vừa mập, vừa lùn, nếu kha khá một tí thì đã có người command sẵn rồi, đâu có lẻ loi cô độc mà đi viết thư tâm tình, tâm sự mí nhà ngươi. Cứ tin lời Yến đi! Hắn đâu dám gửi hình cho mi, có đúng không? Hắn cũng không dám xin hình của mi nữa, nếu không sợ “anh trai Trương Chi tương tư em gái Mỵ Nương thì là gì?”

    Trang lại nhớ tới những lời trong thư của nhỏ Hoài gửi về cách đây không lâu, khi hắn biết anh Thiệt là người Gò Công: “Mấy nhỏ bạn trong này nói, ở xứ Gò Công ít có giếng nước Trang ơi! Người ta dùng toàn là nước mưa với nước sông không hà, mà nước sông phải mua à nha. Cái xứ ít nước như vậy, hổng biết cái vụ tắm rửa ra sao Trang nhỉ? Hí hí,  hôm nào nhà ngươi viết thư hỏi ông anh quý xem sao?" Không thể nhịn được nữa, Trang bật lên tiếng cười, ngó chăm bẳm vào mặt Thiệt.

    -Mấy tụi bạn của Trang mà biết anh Thiệt như vầy, chắc tui nó... xỉu hết.

    -Sao vậy? Đến lượt Thiệt ngạc nhiên.

    -Mấy tụi nó cứ vẽ hình anh hoài hà, nhưng không có tấm hình nào giống anh hết. Tụi nó còn hát “Trang có người anh, vừa mập vừa lùn, vì chinhchiến ngược xuôi, ít về để chuyện trò...” nữa kìa.

            Đến lượt Thiệt không nhịn nổi tiếng cười:

    -Anh không ngờ mấy cô cũng phá dữ quá! Đúng là... nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.

    -Chắc tụi em không tệ đến nỗi đứng hàng thứ ba đâu. À, anh có thể ngồi nán lại một chút được không? Trang muốn giới thiệu anh cho tụi bạn biết.

    Thiệt làm bộ rụt đầu, le lưỡi:

    - Eo ơi! Nghe Trang tả sơ về họ, anh đã sợ rồi, giờ mà gặp các cô ấy nữa, chắc là anh...            

    -Bộ anh sợ bạn của Trang thiệt sao? Họ đâu có dữ như cọp, hung hăng tàn ác như Việt Cộng mà anh Thiệt còn hổng ngán. Nhưng thôi, nếu anh không muốn gặp, thì Trang hổng dám ép đâu. Nhìn Trang và nghe giọng hờn dỗi, Thiệt bỗng bật cười khan, rồi nói nhỏ:

    -Chu choa, chưa chi mà anh đã bị bắt bí rồi. Cái điệu này thì anh trai sẽ còn phải chìu cô em dài dài rồi đó. Nhưng có lẽ đó là niềm vui lớn của anh đó Trang.

                                                Mặc dầu tiếng nhạc từ chiếc máy AKAI trong phòng khách phát ra vang rân, đến nỗi người qua đường phải đứng lại chỉ trỏ vào nhà Trang, lôi cuốn bọn con nít trong xóm kéo nhau tụ đến thật đông, cười đùa huyên náo, chỉ trỏ người này người nọ, trầm trồ cái nọ cái kia. Nhưng sự ồn ào đó không chút ảnh hưởng nào đến các cô gái đang có mặt trong phòng cô dâu. Hình như mẫu chuyện họ trao đổi nhau còn ồn ào hơn cả tiếng nhạc.

    -Thương không hiểu tại sao Đoan Trang lại chọn đi xe Jeep nhà binh mà từ chối chiếc xe Huê Kỳ của ông Thiên. Ông ấy đeo nhỏ Trang như đỉa đeo, đứa nào mà không biết.

    -Thật đó, kỳ này nhỏ Trang làm “đám cưới nhà binh” có khối chàng “xuống tóc” đó!

    -Để Mai kể chuyện này mấy bồ nghe: chiều qua, Mai đến nhà Thu Hương lấy quyển sách, gặp lúc ông Cẩn cứ đi ra đi vào thở dài thườn thượt, rồi nổi hứng còn xuống câu vọng cổ nữa đó. Ba bốn cô đồng lượt nhao nhao:

    -Ông Cẩn hát vọng cổ làm sao, Mai có nhớ không?

    -Ổng hát rằng: “Ngày mai đám cưới Đoan Trang, mà sao tui lại nát tan cõi ơ.. ơ… ơ... lòng!”

          Mai cố giả giọng đàn ông, bắt chước xuống câu vọng cổ giống như trong tuồng “người vợ không bao giờ cưới” làm mấy cô gái cười ngặt nghẽo. Đã vậy, Mai còn chêm thêm:

    -Mai mốt nhỏ Trang theo anh Thiệt đi Dục Mỹ, chắc ông Cẩn đi vào Biên Hoà đó!

    -Thanh nghĩ ông Cẩn phải đi vào Sài Gòn học lại chứ, đi Biên Hoà làm gì?

    -Vào nhà… thương điên để chữa bệnh thất tình chứ làm gì.

        Lại một trận cười ngả nghiêng, cười đủ kiểu, cười thật thoải mái như chưa bao giờ được cười.

    -Giờ tui cũng bắt chước nhỏ Trang chịu mang... bốt-đồ-sô đây. Hổng biết có chàng phụ rể nào còn “phòng không gối chiếc” để tui xin chữ ký cho rồi!

    -Còn chàng sinh viên đại học ba năm, Thuận bỏ cho ai?

    -Chán quá rồi! Người ta học thì năm thứ mấy, còn chàng của tui thì ngược lại, có tiền chạy được cái giấy hoãn dịch, không lo học hành cứ đi biểu tình, đả đảo suốt ngày, tối lại đi... nhảy đầm, mới chết chứ!

    -Có khó gì đâu! Cứ theo nhỏ Trang hát thuộc bài “Thương anh tam tứ núi em cũng trèo, thất bát sông em cũng lội, cửu thập đèo em cũng qua” là xong ngay.

    -Ê, nhỏ Oanh nói sai rồi, Từ Nha Trang đi Dục Mỹ làm gì có cửu thập đèo, Yến nhớ có đèo Rù Rì, Rọ Tượng gì đó thôi mà!

    -Rõ là “Yến ốc tiêu”! Cái gì cũng thắc mắc hết, hèn chi lớn không nổi. Không lẽ lại hát : nhị, tam đèo em cũng qua, sao? Ồ, mà sao hồi xưa ông ba mình lại đặt tên đèo là Rù Rì, kỳ quá há?

    -Chắc tại hồi đó ông bà đi bộ, lại leo lên dốc... mệt quá, nói không ra tiếng, chỉ còn lại tiếng... rù rì, rù rì...

    -Nàng Cẩm đừng có xạo! May mà chỉ có đèo Rù Rì, Rọ Tượng, nếu còn nữa chắc ông bà mình đã đặt tên đèo Rầu Rĩ hay Rung Rinh cũng không chừng.

    -Châu thấy mấy bạn đều vô duyên ráo, chỉ nhỏ Trang có duyên nên mới vượt đèo đi tìm anh Thiệt, đúng là thuyền gặp bến.

    -Bến gì đây?

    -Dĩ nhiên là hắn phải chọn bến trong, chứ ngu sao đi tìm bến đục! Châu lên giọng hiểu biết.

    -Ừ, mà Tâm nghĩ mãi cũng không ra, tại sao ông bà mình ngày xưa bảo rằng “Con gái mười haibến nước” rồi tự nhiên kết luận ngang xương “Trong nhờ đục chịu”. Còn mười bến nữa phiêu diêu ở chốn nào?

    -Theo Hoài nghĩ, có lẽ ngày xưa ông bà mình nói lề:con gái, người có hai bến nước, trong nhờ đục chịu”, người ta nói đi nói lại, nói tới nói lui đâm trật lấc thành mười hai bến nước hồi nào không hay.

    -Theo Hồng thì tại hồi xưa ông bà mình đi nghiên cứu toàn... cuốc bộ. Lúc đi thì gặp mùa nắng, nước trong, đi hai ba tháng sau tới được bến khác, gặp phải mùa mưa, nước đục. Cứ đi hoài, gặp hoài vậy, thì kết luận vậy.

    -Nhỏ Hồng xạo vừa thôi! Thủy Tiên nghĩ, mười bến còn lại mà ông bà mình chưa kịp kể đó là: Bến cạn, bến sâu, bến rộng, bến hẹp, bến cao, bến thấp, bến a... a... bến...

    -Bến Mơ! Trang buột miệng lên tiếng kể từ lúc Hoài bắt ngồi yên để nàng chải lại mái tóc cho Trang.

    -Trang không biết cái gì là đục hay trong, Trang tiếp: Có một điều Trang biết chắc đó là từ lúc Trang gặp được anh Thiệt, từ chỗ kính trọng đưa đến yêu thương, Trang cứ hằng mơ ước có một ngày nào đó, Trang được lên xe hoa về làm vợ anh. Được làm vợ một người lính như anh là một điều hãnh diện cho Trang. Và niềm mơ ước đó hôm nay đã thành sự thật. Vậy Trang không gặp được bến Mơ là gì đây?

    -Ái chà chà! Anh Thiệt mà nghe được những lời thổ lộ tâm tình của nhỏ Trang vừa rồi chắc lỗ mũi anh nở to hơn quả cà chua!

    -Các cô lại nói xấu gì anh đó? Thiệt đã đứng ở cửa từ lúc nào mà mãi vui các cô không để ý. Anh tiếp lời:

    -Trang! xong chưa em? Anh đưa em và các bạn xuống dự tiệc, mọi người đang chờ bên dưới.

            Nhìn Thiệt dìu Trang đi trong niềm hạnh phúc, các cô  đưa mắt nhìn nhau và chắc hẳn trong tận cùng mơ ước của họ, đều thầm nghĩ: Làm sao tìm gặp được Bến Mơ???.

Lê Thị Hoài Niệm 

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Jul/2016 lúc 7:48am

Người Đàn Bà Xấu Xí

Nếu có ai hỏi tôi thích bộ phim nào nhất thì tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời, đó là bộ phim "Cô Gái Xấu Xí". Tôi đã thương nhân vật Huyền Diệu như thương chính bản thân mình, bởi cô gái đó đã nói dùm tôi nhiều điều mà tôi chưa bao giờ nói được, dù nó đã ẩn kín trong tâm hồn tôi suốt mấy mươi năm. "Cô Gái Xấu Xí" có một kết cuộc có hậu, nhân vật nữ đã trở nên xinh đẹp và tìm được một tình yêu chân thật.
Nhưng tôi thì sao...
Nước mắt của tôi chắc cũng đã thành suối, thành sông kể từ ngày tôi nhìn vào gương để nhận biết mình xấu hơn tất cả những bạn bè trong lớp học, trong con hẽm nhỏ có căn nhà tôi trên đó, để mặc cảm nhan sắc mãi theo tôi từ tuổi ấu thơ. Năm tôi lên sáu tuổi, con bé Tiểu Ly, bạn thân nhất của tôi trong lớp một, đã hất món đồ chơi mà tôi mang tặng cho nó "tao không chơi với mày nữa, mẹ tao nói mày xấu lắm, xấu đau xấu đớn". Mới sáu tuổi, con nhỏ bạn tôi đã phun ra những lời nói ác độc từ đôi môi hồng xinh xắn. Mới sáu tuổi, tôi đã ôm lấy nỗi đau, chạy vào trong phòng tắm khóc một mình. Rồi từ đó, câu phê bình tàn nhẫn nhưng có lẽ cũng chính xác nhất đã bám lấy tôi từng ngày, từng tháng, trong từng giấc ngủ, để tôi cứ nằm mơ thấy mình gặp được bà tiên cho tôi một điều ước duy nhất và tôi ước mình trở thành cô gái xinh đẹp. Nhưng rồi... khi tỉnh giấc, hình ảnh cô gái xấu xí trong chiếc gương trước mặt tôi vẫn không thay đổi.
Từ sau câu nói của cô bạn bé bỏng, tôi không có thêm một người bạn gái nào nữa. Người bạn duy nhất mà tôi có được là Lạc, con trai của bác Năm hàng xóm. Với Lạc, tôi cảm thấy rất thoải mái. Chẳng bao giờ nó để ý mặt mũi tóc tai, quần áo tôi ra sao? Không có bạn, dĩ nhiên tôi rất cô độc, nên thường đi theo Lạc nhập bọn với đám con trai cùng trang lứa. Tôi không tham gia những trò chơi mạnh bạo, nhưng tôi có thể thả nỗi buồn của tôi trôi theo những tiếng hò hét, cười đùa và đôi khi chửi bới nhau một cách rất hung hăng của bọn họ.
Năm mười ba tuổi, mẹ không cho tôi theo chơi với "lũ con trai vô tích sự" ấy nữa (chữ mẹ tôi thường dùng) mà phải ở nhà theo mẹ "trau dồi" công ngôn dung hạnh (chắc là để bù đắp khuyết điểm quá to lớn của tôi, vì mẹ thường nói "cái nết đánh chết cái đẹp" (nhưng mẹ không biết rằng, phải đến gần thì người ta mới biết được cái nết, mà muốn được người ta đến gần thì điều kiện đầu tiên là phải đẹp). Từ đó, thỉnh thoảng Lạc ghé qua nhà tặng tôi trái ổi vừa hái trộm hay ly nước mía là món tôi ưa. Mẹ tôi rất thích Lạc. Có thể trong ý nghĩ mẹ cũng thầm ao ước sẽ có một tình cảm nẩy nở giữa đứa con gái xấu xí của mẹ và đứa con trai của bà hàng xóm -cái bà hàng xóm mà mẹ không có chút cảm tình vì cái tội lắm mồm của bà- để con gái của mẹ sẽ quên đi cái mặc cảm xấu xí làm đau lòng ba, xót xa lòng mẹ, những người đã từng nghĩ rằng mình có góp phần làm nên sự bất hạnh cho đứa con gái thương yêu.
Tôi và Lạc thường có những buổi tối ngồi cạnh nhau dưới gốc cây trứng cá phía trước nhà tôi. Vài người hàng xóm đi ngang qua nhìn chúng tôi bằng cặp mắt tò mò. Vài đứa con gái nhìn tôi cười mỉm -nụ cười mang ý nghĩa mỉa mai "xấu như ma cũng bày đặt có bồ". Nhưng nếu ai có đủ can đảm để nấp phía sau lưng chúng tôi thì sẽ biết đôi trai gái này đang tâm sự hoặc tình tứ ra sao?
-Trái ổi Lạc cho tui hồi chiều chát ngắt hà!
-Con nhỏ cà chớn, mày có biết vì trái ổi đó mà hồi chiều tao bị chó rượt, chạy muốn sút quần không?
-Ai biểu? Tui có khiến ông đi ăn cắp đâu mà nói!
-Hừ! tại tao muốn... chứ cỡ mày mà khiến được tao hả? Cứ tưởng mình là người đẹp trong tranh à?
Lạc không nói tôi xấu mà cứ như chê tạt vào mặt tôi. Nhưng tôi không giận, vì biết Lạc không có ý châm biếm. Bởi vì, Lạc nói thì không sao, nhưng nếu ai chê tôi xấu xí mà Lạc nghe được là sẽ phải ăn đòn.
Cứ thế tình bạn của chúng tôi ngày càng thêm thân thiết. Đến năm tôi mười bảy tuổi, gia đình chúng tôi may mắn được cơ hội đi Mỹ theo diện HO của ba. Khoảng hai tháng trước ngày đi, một buổi chiều, tôi đang đọc quyển truyện Lạc vừa cho mượn ngày hôm qua thì Phi Tâm -em gái tôi - từ ngoài sân hồng hộc chạy vào nhà, kéo tay tôi, khuôn mặt đỏ rần vì tức giận:
-Hai! Hai có nghe má anh Lạc nói gì với hàng xóm không?
-Nói gì?
-Bả nói bả hỏi cưới Hai cho anh Lạc là tại vì muốn đưa anh Lạc qua Mỹ, chứ xấu xí như Hai đâu có xứng với con trai của bả.
Quyển sách trên tay tôi rơi xuống. Hai tai tôi lùng bùng những âm thanh kỳ quái. Tôi chạy xuống bếp tìm mẹ, vừa khóc vừa hỏi:
-Tại sao lại có chuyện này hở mẹ?
Mẹ luống cuống suýt đổ cả tô canh đang cầm trên tay. Ba tôi ở trên gác, nghe thấy tiếng lao xao dưới nhà chạy xuống ngơ ngác hỏi:
-Chuyện gì? tại sao Phi Linh khóc?
Phi Tâm một lần nữa nhắc lại câu nói tàn nhẫn đó. Tôi xô cửa chạy ra sau vườn. Có tiếng ba la hét trong nhà. Tôi gục đầu xuống giữa hai đầu gối, nước mắt nhòe nhẹt trong nỗi đau xé lòng. Một nỗi đau đã dồn nén bao nhiêu năm chợt bùng lên làm tê buốt mọi cảm giác trong người tôi. Niềm an ủi duy nhất mang tên Lạc của tôi đã đánh ngã tôi một cách độc ác. Tôi oán ba mẹ đã tạo ra tôi với một hình hài xấu xí. Tất cả những gì đẹp đẽ của ba mẹ, chiếc mũi cao, đôi mắt to tròn đen láy, nước da trắng nõn, dáng dấp cao ráo, thon thả đã được Phi Khanh và Phi Tâm chia nhau mà hưởng, còn lại tôi là màu da đen xạm, chiếc mũi gãy, đôi mắt ti hí và cái vóc dáng tròn trĩnh như hạt mít. Sao ông trời lại bất công với tôi như thế. Cả ba mẹ nữa, khi sinh con ra, thấy con xấu xí sao ba mẹ không vất vào sọt rác để con khỏi phải cả đời mang lấy sự bất hạnh, buồn tủi. Tôi khóc nức nở. Khóc đến khan cả cổ họng, sưng cả mắt.
Từ hôm đó tôi thu mình trên căn gác hẹp nóng như thiêu đốt, mặc những lời nài nỉ của ba, lời xin lỗi của mẹ "vì mẹ nghĩ là con và thằng Lạc thương nhau nên khi má thằng Lạc đề nghị là mẹ đồng ý... và hứa là sẽ bàn lại với con. Nhưng đâu ngờ má của nó miệng mồm ác độc". Tôi tránh mặt Lạc cho đến ngày cùng gia đình lên đường sang Mỹ. Lúc vào phi trường, Phi Tâm đưa cho tôi mảnh giấy có những dòng chữ của Lạc.

Phi Linh,

Tao muốn nói với mày "thằng Lạc này là thằng phá làng phá xóm nhưng chưa nói bậy bao giờ". Tao với mày là bạn từ hồi năm tuổi. Bây giờ, mười hai năm sau cũng vậy. Tao rất quý tình bạn giữa tao và mày. Tao không bao giờ muốn mất đi. Bị mày hiểu lầm tao đau lắm.
Tao nói rõ ràng, tao thương mày chứ không yêu mày và tao biết mày cũng không bao giờ yêu tao. Chỉ tại hai bà già không hiểu chuyện nên tự nhiên tao trở thành "kẻ thù" của mày. Rất tiếc, người chê mày xấu là má tao, chứ nếu là người khác... chắc mày biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Cuối cùng, dù ai chê mày xấu cỡ nào, trong mắt tao mày vẫn là đứa bạn đẹp nhất và dễ thương nhất của tao...

Tôi tin Lạc, vì hơn mười năm làm bạn với nhau chưa bao giờ Lạc nói dối với tôi. Lòng tôi chợt nhẹ hẫng trong nỗi vui bất chợt. Tôi xếp giấy lại mỉm cười vu vơ. Phi Tâm nhìn tôi rất lâu. Chắc trong lòng nó đang thắc mắc, có thật là giữa tôi và Lạc không có gì? Nhưng nếu đọc được lá thư này -lá thư của người con trai mười tám tuổi, gửi cho cô bạn gái mười bảy tuổi trong giờ phút ly biệt với danh xưng mày, tao thì nó sẽ nghĩ gì? Điều đó tôi thật tình không biết. Nhưng có điều tôi biết rõ, nếu tôi là một cô bé xinh đẹp thì hàng chữ mở đầu trong lá thư sẽ là "Phi Linh yêu dấu của anh"....

***

Sang đến Mỹ....
Tôi và Tiền quen nhau khi hai đứa cùng tham gia công tác thiện nguyện trong nhóm thanh niên phật tử. Tiền dành cho tôi nhiều cảm tình và đối với tôi rất tốt. Tôi cũng mến Tiền qua tính tình vui vẻ, cởi mở và lòng nhiệt thành trong mọi công việc. Chúng tôi cùng nhóm nên thường đi chung trong những chuyến công tác.Tôi đối xử với Tiền tự nhiên, thoải mái như những bạn bè khác, nhưng rất nhiều lần tôi bắt gặp cái nhìn lạ lẫm của Tiền. Cái nhìn đã đôi lúc làm xao động giấc ngủ bình an của tôi. Nhưng sau vết thương từ câu chuyện của Lạc, tôi luôn tự nhắc mình phải đóng khung tình cảm trong lằn ranh đã vạch sẵn. Tôi không thể để mình bị tổn thương một lần nữa. Ngày trước, may mắn là tôi không yêu Lạc, nên nỗi buồn chóng rơi vào quên lãng. Mai này, biết tôi có còn cái may mắn đó nữa không?
Khi Tiền nói lời tỏ tình, tôi bị choáng váng bất ngờ. Tôi bỏ ra về ngay khi vừa đến địa điểm công tác. Tiền gọi điện thoại nhắn lời xin lỗi. Anh bảo tôi hãy xem như anh chưa từng nói gì và mong mỏi tôi hãy trở lại. Nhưng làm sao có thể "xem như anh chưa từng nói gì" khi trái tim tôi cũng rộn ràng rung động. Hình như tôi đã quên bẵng điều mà bấy lâu tôi đã tự cảnh giác "mình là một cô gái xấu xí, sẽ không có ai yêu thương mình thật lòng".
...Cuối cùng thì sự kiên nhẫn và tấm lòng tha thiết chân thành của Tiền đã đánh ngã cái thành trì kiên cố mà tôi đã dựng lên chung quanh mình. Tôi hỏi Tiền:
-Tại sao anh có thể yêu thương một người con gái xấu xí như Linh?
Tiền trả lời bằng ánh mắt nồng nàn:
-Anh yêu Linh... không cần cái vóc dáng bên ngoài. Bởi hơn ai hết anh là người thấu suốt tâm hồn của Linh qua những năm dài anh và Linh làm việc sát cánh bên nhau. Tấm lòng nhân hậu, khoan dung của Linh đã lấn át mọi thứ khác nơi con người của Linh.
Tôi che miệng cười ngặt nghẽo để che dấu nỗi xúc động:
-Tiền nói chuyện giống mấy anh kép cải lương sắp xuống vọng cổ quá!
Tiền nghiêm mặt:
-Linh đừng chế nhạo anh. Tình yêu anh dành cho Linh là thật.
-... Nhưng... gia đình anh sẽ chống đối, bởi có người mẹ nào lại không muốn có một cô dâu xinh đẹp? -Mẹ anh thường nói "cái nết đánh chết cái đẹp". Anh tin rằng... mẹ anh có thể không đẹp mắt nhưng sẽ rất đẹp lòng. Em hãy tin anh và nhận lấy tình yêu của anh. Đây là những lời cầu hôn chân thật nhất của anh.
Có nằm mơ tôi cũng không tin rằng sẽ có một ngày mình được mặc áo cô dâu đi bên cạnh chú rể cao lớn và tuấn tú như Tiền.

***

Rồi chúng tôi cưới nhau và cùng nhau sống một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Nhưng chẳng được bao lâu thì tình hình kinh tế khó khăn, chúng tôi cũng không thoát khỏi vòng xoáy ấy.Tiền bị thất nghiệp, lặn lội tìm việc nhưng mãi vẫn không có nên theo lời rủ rê của bạn bè, anh đi về miền biển theo tàu đánh cá. Tiền bạc anh kiếm được khá nhiều nhưng hạnh phúc gia đình lại bắt đầu rạn nứt theo những lời dèm xỉm của bạn bè -những người bạn không hề biết đến hai chữ tế nhị trong lời nói. Anh bắt đầu uống rượu và hay nổi nóng với tôi vì những chuyện không đâu.
Một lần anh về nhà kéo theo vài người bạn. Tôi nhanh nhẫu chạy ra mở cửa, vồn vã chào đón mọi người. Nhưng vừa bước vào bếp tôi đã nghe có tiếng xì xào:
-Ê! Tiền, bà xã mày họ Chung hả?
Tiền thật thà:
-Bả họ Trương chứ họ Chung hồi nào!
-Vậy mà tao tưởng bả có họ hàng với bà Chung Vô Diệm.
Cả đám cười ha hả. Chiếc ly đang cầm trên tay tôi rơi xuống đất. Tiền im lặng. Những tiếng cười tắt ngang. Khi bạn bè ra về, tôi nghĩ Tiền sẽ nói vài lời an ủi tôi, vì anh thừa thông minh để hiểu rằng người bạn nào đó đã chạm vào nỗi đau của tôi. Nhưng không, anh trở giọng gắt gỏng:
-Mai mốt có bạn tôi đến... làm ơn vào phòng… ở trong đó dùm tôi.
Tôi nhìn Tiền như muốn nổ tung tròng mắt. Chồng tôi đây sao? anh đã trở thành một con người vô tâm từ bao giờ vậy? Tôi cố đè nén mà nước mắt vẫn rơi ướt cả ngực áo.
Một lần khác Tiền bảo tôi sắp xếp để cuối tuần đi dự đám cưới của bạn anh. Tôi biết Tiền dạo này bắt đầu để ý đến sắc vóc của tôi, nên đã bỏ thì giờ đi mua sắm quần áo và tập tành thoa son, đánh phấn. Khi tôi bước ra xe, Tiền nhìn tôi có vẻ hài lòng. Hai vợ chồng trò chuyện rất vui vẻ trên đường đi. Nhưng khi trở về thì mặt anh hầm hầm:
-Từ rày sắp tới đừng bày đặt son phấn làm trò hề cho thiên hạ cười.
Tôi sững sờ nói không ra lời:
-Ơ... ơ…!!!
-Ơ... ơ cái gì... xài son phấn mà cứ như quét nước vôi lên tường, thật xấu hổ.
Làm sao Tiền biết những chuyện vặt vãnh này nếu như những lời phê phán đầy ác ý của ai đó không lọt vào tai anh. Tiền không cố ý nhưng anh lại dễ bị chao đảo vì những lời bình phẩm của người khác. Và khi cảm thấy bị bẻ mặt thì anh quay lại, buông ra những câu nói như xát muối vào lòng tôi. Ngày xưa Tiền đã nói "anh cần đẹp lòng chứ không cần đẹp mắt" nhưng bây giờ, tôi đối với anh... hình như... mắt chẳng đẹp mà lòng cũng chẳng ưng.
Tôi đã từng nghĩ đến chuyện sửa sắc đẹp. Nhưng với tôi, mổ xẻ là chuyện kinh khủng nhất. Từ bé đến lớn, cứ mỗi lần đến phòng răng, nha sĩ chưa chạm đến chiếc răng đau là tôi đã khóc thét lên vì sợ hãi. Đã vậy, hình ảnh chị Nhã, người bạn đồng nghiệp của tôi với chiếc mũi độn cao hơi lệch về một phía làm cho khuôn mặt chị như bị méo đi khiến tôi càng nhất quyết gạt bỏ ý định này. Cuối cùng, điều tôi nghĩ đến là câu nói của chị Hải -vợ người bạn thân của Tiền- tuy gặp nhau chỉ có hai lần nhưng chị đã dành cho tôi một cảm tình rất đặc biệt:
-Em nên thu xếp lại chứ vợ chồng mà sống xa nhau hoài không tốt đâu. Với lại, cũng nên có một đứa con để giữ hạnh phúc gia đình. Coi vậy chứ đứa bé giữ chân cha nó chắc ăn hơn mình nữa đó em.
Tôi đề nghị Tiền nên trở về tìm việc làm ở đây để vợ chồng hôm sớm có nhau, nhưng Tiền không đồng ý. Anh nói, về đây, dù có việc làm đi nữa đồng lương cũng chẳng bao nhiêu so với số tiền anh kiếm được với công việc hiện tại. Biết khó lay chuyển quyết định của Tiền nên tôi ngỏ ý muốn dọn theo anh, nhưng Tiền cũng quyết liệt từ chối với lý do tôi không thích hợp nơi đó. Tôi ngạc nhiên hỏi Tiền:
-Bộ anh tưởng em là tiểu thư đài các hay sao?
Tiền im lặng cúi đầu. Cái cúi đầu mất tự nhiên của Tiền khiến tôi chột dạ. Nửa đùa, nửa thật, tôi vừa cười, vừa hỏi Tiền:
-Hay anh sợ người khác biết anh đã có vợ?
-Đừng vớ vẩn nữa, mệt quá đi!
Tiền nói nhưng tránh ánh mắt của tôi bằng cách đứng lên đi vào phòng. Tôi không phải là người có tính đa nghi nhưng nếu nói tôi không nghĩ ngợi gì về thái độ của Tiền là tôi đã không nói thật lòng mình.
Đến mùa hè, thời gian hãng cho tôi nghỉ phép cũng là thời gian Tiền bận rộn túi bụi với công việc. Tôi đã âm thầm xuống thăm Tiền không báo tin trước. Nơi Tiền ở là một dãy phòng nhỏ nằm trong khu đất rộng thênh thang có căn nhà to lớn, tuy cổ kính nhưng khá khang trang của người chủ tàu. Khi tôi đến, Tiền đi biển chưa về. Chị Hải mừng rỡ chạy ra đón tôi rồi đưa sang nhà chị và cho biết phải chờ đến chiều mai tàu mới về. Đêm đó, hai chị em ngồi trò chuyện đến khuya. Trong câu chuyện, tôi cảm nhận hình như chị muốn nói một điều gì đó rồi lại thôi và nhiều lần như thế. Nhưng tôi vốn rất dè dặt và cẩn tính nên không tò mò, han hỏi dù trong lòng có chút thắc mắc.
Buổi sáng, khi tôi thức giấc, chị Hải vẫn còn ngủ say vì đứa con nhỏ đêm qua khóc quấy đến gần sáng. Tôi rón rén bước ra ngoài, đi dọc theo hàng rào, ngắm những chậu rau thơm xanh rờn và cả một rừng hoa tươi thắm, rực rỡ trong những chầu sành đủ màu đẹp mắt. Có tiếng người từ phía sau tôi:
-Chị là vợ anh Tiền?
Tôi quay lại nhìn cô gái đang đứng trước mặt tôi trong bộ quần áo thể dục bó sát người. Cô không đẹp lắm nhưng màu da nâu, đôi mắt long lanh và hai đồng tiền nhỏ xíu làm tăng nét duyên dáng trên khuôn mặt. Câu hỏi của cô và ánh mắt soi mói làm tôi hơi khó chịu, nên chỉ gật đầu chứ không trả lời.
-Nghe mấy anh làm ở đây "bàn tán" về chị hoài, bữa nay... mới biết!!!
Có thể xem đây là một lời khiêu khích chăng khi tôi và cô ta chưa từng biết nhau? Tôi định hỏi "cô biết gì?" thì chị Hải đã ra đến, vui vẻ chào hỏi:
-Chào “cô chủ nhỏ”. Hai người nói chuyện gì đó?
Cô ta liếc nhẹ chị Hải rồi bỏ đi. Tôi nhìn theo. Có cái gì không ổn trong đôi mắt của cô ta, nụ cười gượng gạo của chị Hải và nỗi hồi hộp bất chợt trong lòng tôi.
Khi Tiền trở về, câu hỏi đầu tiên của anh như muốn đuổi tôi quay trở lại nhà:
-Xuống đây chi vậy?
Nụ cười mừng vui chưa nở tròn trên môi tôi đã chợt tắt. Chị Hải lên tiếng như để phá tan bầu không khí ngột ngạt:
-Ông Tiền này... bộ mệt quá rồi sảng hay sao mà hỏi câu lảng nhách vậy?
Tiền không đáp, cúi đầu đi thẳng ra phía sau.
Buổi chiều, khi ông chủ tàu mời tất cả mọi người ăn bữa cơm chiều, tôi gặp lại cô gái. Trước mặt tôi, cô săn sóc đặc biệt cho Tiền như một sự cố tình để trêu chọc tôi. Tiền vẫn giữ thái độ im lặng. Còn tôi, tôi đã đóng trọn vẹn vai trò người vợ khéo léo, vui vẻ với mọi người để trả lời từng câu hỏi của ông chủ và những bạn đồng nghiệp của Tiền mà tôi chưa từng gặp mặt một cách nhỏ nhẹ, dịu dàng. Tôi không biết những người chung quanh nghĩ gì, nhưng trong đôi mắt trìu mến của chị Hải, tôi đọc được sự thương hại và an ủi rất thầm. Bây giờ thì tôi hiểu những câu nói úp mở, quanh co của chị Hải vào buổi sáng và thái độ của "cô chủ nhỏ". Tôi biết, mình sẽ phải đối đầu với một tình địch bản lãnh và ngang ngược qua cái nhìn kiêu hãnh và đầy thách thức của “cô chủ nhỏ” -con gái ông chủ tàu.
Những ngày sau đóTiền đối với tôi bằng thái độ im ỉm có phần lạnh nhạt. Bây giờ tôi biết mình đã sai khi không nghe lời khuyên nhủ của mẹ "Vợ chồng mà cứ sống mỗi đứa một nơi thì cũng có ngày sinh chuyện". Buổi tối cuối cùng bên nhau để sáng hôm sau tôi trở về nhà bắt đầu đi làm trở lại, tôi nói với Tiền:
-Em nghĩ, tốt nhất anh nên trở về với em tìm việc làm khác. Em thấy công việc này quá vất vả với anh. Vã lại, mình cưới nhau cũng lâu rồi, đã đến lúc phải nghĩ đến chuyện con cái.
Tiền xoay lưng về phía tôi, gạt ngang:
-Thôi ngủ đi... chuyện gì tính sau.
Tôi nằm cạnh bên Tiền mà như xa nhau nghìn trùng. Cái khoảng cách giữa hai đứa chỉ vừa một gang tay mà tôi với không tới để vuốt nhẹ chiếc lưng trần của Tiền như tôi đã từng làm như thế.
Khi về nhà, tôi gọi điện thoại cho chị Hải để xin chị cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra giữa Tiền và “cô chủ nhỏ”. Không giấu giếm nữa, chị Hải đã kể tất cả cho tôi nghe. Qua câu chuyện tôi được biết, “cô chủ nhỏ” đã từng bỏ nhà đi với bạn trai từ năm mười tám tuổi. Cô cũng đã từng hút xách, từng phá thai. Khi chán nếp sống bụi đời vì không có tiền ăn xài, cô trở về sống với cha mẹ. Lần đầu tiên gặp Tiền, cô đã tỏ vẻ yêu thích anh ngay nên không ngần ngại tấn công Tiền một cách lộ liểu. Người đã nhiều lần chê bai tôi và nói với Tiền "vợ ông không xứng với ông chút nào" là anh trai của cô ta. Thấy Tiền đẹp trai lại thật thà, anh muốn gán ghép cô em đã hư hỏng của mình cho "chú nai tơ", bất chấp việc Tiền đã có gia đình. Còn Tiền, tuy hiền lành tốt bụng nhưng lại sốc nổi, tự ái, thường bị ảnh hưởng của bạn bè và sẵn sàng làm theo lời thách thức của họ bất chấp hậu quả.
Trước khi chấm dứt câu chuyện, một lần nữa chị Hải khuyên tôi nên có con để Tiền có trách nhiệm với gia đình hơn. Lời khuyên rất hợp lý của chị Hải đã bị Tiền phản bác bằng câu nói phũ phàng:
-Có con làm gì, một người xấu xí chưa đủ sao? Nếu em chắc rằng đứa con em sinh ra sẽ xinh đẹp như con người ta thì anh bằng lòng?
Ngàn mũi tên bắn trúng trái tim tôi chắc cũng không đau đớn bằng lời nói cay nghiệt của người chồng tôi hết dạ thương yêu.
-Sao anh có thể nói như vậy? Trước khi lấy nhau anh đã nhìn thấy em và biết rõ ràng em không phải là cô gái xinh đẹp. Nếu anh không thể chấp nhận hay xấu hổ vì có một người vợ xấu xí thì anh cưới em làm gì?
Tiền hét lên:
-Im đi... đủ rồi, đừng lải nhải nữa.
Tôi biết mình có tiếp tục hòa nhã, ngọt ngào bao nhiêu nữa cũng không thể làm cho Tiền nhận ra sự nhẫn nhịn chịu đựng của tôi, nên sẵng giọng:
-Anh đừng tưởng em không biết chuyện gì đã xảy ra nơi đó. Sao anh không nói thẳng với em rằng, anh thấy em xấu vì anh đã có người đàn bà khác xinh đẹp hơn em.
-Cô đừng vu oan cho tôi.
-Anh hãy chứng tỏ mình là một người đàn ông đi. Hãy can đảm nói thẳng nói em rằng...
Tôi nghẹn lời và bật khóc. Bên kia đầu dây có tiếng xì xào như thúc hối, như giành giựt. Vài giây sau, giọng nói chanh chua của “cô chủ nhỏ” vang lên:
-Tôi là Lam... tôi xin thay mặt anh Tiền để nói cho chị biết là những gì chị đã nghe chị Hải thóc mách là đúng. Tôi và anh Tiền yêu nhau. Anh Tiền muốn ly dị chị để cưới tôi. Nếu tôi là chị, tôi sẽ biết thân phận mình mà rút lui cho êm đẹp. Chị nghĩ lại xem, một người đẹp trai như anh Tiền mà đi bên cạnh người vợ xấu xí như chị thì tội nghiệp anh ấy biết chừng nào. Anh Tiền nhờ tôi nói với chị... làm ơn tha cho ảnh đi...
Tôi buông máy xuống, cả vũ trụ như sụp đổ trước mắt.
Những ngày tiếp theo đó, hằng đêm tôi đã khóc cạn nước mắt trên chiếc giường trống trải, mòn mỏi chờ đợi Tiền trở về hoặc gọi điện thoại để nói với tôi rằng, đó chỉ là những lời bịa đặt của cô gái quá quắc ấy. Nhưng không... bóng Tiền vẫn biền biệt trong sự chờ đợi vô vọng của tôi. Chị Hải khuyên tôi nên gọi Tiền và mở choTiền một con đường để anh trở về, vì Tiền không phải là người vô lương tâm mà chỉ mê muội nhất thời.
Nhưng...
Tôi là một người đàn bà thiếu nhan sắc nhưng có thừa lòng tự trọng. Tôi nhất quyết không gọi Tiền để nài nỉ, van xin, vì tôi không phạm một lỗi lầm nào khi làm vợ của Tiền. Nếu có chăng thì chỉ là cái lỗi quá xấu xí để chồng phải mất mặt với mọi người. Và đau đớn thay, đó là một lỗi lần mà cho đến hết cuộc đời tôi không thể nào sửa chữa được.
Tôi cam lòng ôm lấy nỗi đau một mình cho đến khi được tin ba đột ngột qua đời. Tôi tưởng mình có thể chết đi được trong những cơn sóng đời dồn dập không chút nương tay. Nhưng khi nghe tiếng khóc than thê thiết của mẹ, tôi như sực tỉnh và chợt nghĩ , mình có thể về với mẹ và ở bên cạnh mẹ hết quãng đời còn lại mà không bị vướng bận vì một người nào. Đó chẳng phải là một cơ hội để tôi có thể đền đáp tấm lòng yêu thương mà ba mẹ đã dành cho tôi mấy mươi năm nay sao? Có thể đó là lời tự an ủi gượng gạo, nhưng ít ra, tôi biết sự có mặt của tôi -người đàn bà xấu xí- sẽ mang đến cho mẹ những ngày tháng ấm cúng và có ý nghĩa trong tuổi xế chiều.
Dù tôi đã dặn dò mình phải quên hết những đau buồn ngày cũ để có thể sống một cuộc sống vui vẻ, nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, tôi vẫn ngậm ngùi cay đắng khi nghĩ rằng...
Với tình bạn, Lạc đã bảo vệ tôi cho đến cùng nếu có ai chạm vào nỗi đau của tôi.
Với tình vợ chồng, Tiền đã khoét sâu hơn vào vết thương mà người khác đã để lại cho tôi.
Tôi bỗng ao ước được gặp lại Lạc. Lạc ơi! bây giờ Lạc đang ở đâu?

Ngân Bình




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 14/Jul/2016 lúc 8:04am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Jul/2016 lúc 10:02am

Mùa Hè Giận Dữ


Tôi đi chợ về, chồng tôi ra xe mang đồ vào trong nhà. Tôi dặn dò:
- Anh nhẹ tay với mấy bịch trái cây nhé!
- Hôm nay em mua nhiều trái cây thế? Blueberry này, dâu tây, dưa hấu, mận này. Tòan là những sản phẩm của mùa hè.
- Chưa hết đâu, em mua Ice Cream này, rau câu để nấu sương sa hạt lựu và hột é này, hai cái món mà thời nhỏ em rất thích, cho vài giọt tinh chất dầu chuối vào, mùi vị vô cùng quyến rũ.
- Nhìn những thứ em mua, như một kẻ đang sống ở sa mạc, đang sắp chết khát đến nơi rồi.
- Khi đi chợ tâm lý ảnh hưởng con người lắm, bụng đói sẽ mua nhiều đồ ăn nhanh, trời nóng bức thì mua đồ ăn mát. Hôm nay cao điểm 101 độ mà anh, bước ra khỏi nhà, khỏi xe, mặt em cứ phừng phừng lện vì nóng, thế mà em gặp mấy bà Trung Đông trùm khăn trùm áo truyền thống dân tộc, làm em muốn ngộp thở giùm. Người Việt Nam mình tinh thần dân tộc cũng cao đâu thua gì ai, nhưng chỉ mặc quốc phục những dịp lễ tết, hội hè, chứ có ai mặc áo dài đi chợ đâu. Đời sống nên giản tiện cho thoải mái.
- Mỗi người một ý, chỉ có hai vợ chồng mình mà lắm khi cũng xung khắc đấy. Thí dụ như chiều nay anh muốn ăn bún bò Huế, còn em?
- Dĩ nhiên là không có món bánh xèo, chả giò, hay nướng BBQ rồi. Khiếp, trời nóng mà ngửi mùi dầu mỡ sôi, hay đứng bên bếp than đỏ lửa để nướng thịt thì giết em đi còn hơn. Nhưng em cũng bác bỏ món bún bò Huế của anh. Em sẽ nấu bún riêu cua chính hiệu đàng hoàng.
- Em không sợ cà chua bị nhiễm vi khuẩn Salmonella à?
- Cà chua nấu chín là an toàn, lo gì! Hôm nay cua rẻ nên em sẽ đãi anh một bữa bún riêu cua đặc sản Bắc kỳ quê hương em.
Xếp đồ vào tủ lạnh xong tôi vật lộn với mấy con cua sống, chúng bò lổm ngổm trong sink và giơ càng ra sẵn sàng chiến đấu khi tôi định tóm nó. Tôi phải gọi chồng ra tiếp sức, hai vợ chồng tôi dùng võ lực để không chế những con cua tội nghiệp, người đè chặt con cua, người vặt càng, vất vả mãi mới thanh toán được chúng. Con người thật tàn nhẫn, vì muốn ăn ngon mà ra tay sát sinh, vừa mệt vừa hối hận tôi thề lần sau không mua cua sống nữa, kẻo mang nghiệp ác vào thân.
Tới màn giã cua cũng không kém vất vả, cái giây phút đứng ở chợ, cầm bó rau thơm kinh giới lên hít hà để nghĩ tới món bún riêu cua tôi hào hứng bao nhiêu thì bây giờ tôi chán nản bấy nhiêu.
Nhưng có công thì có hưởng, tôi đã nấu xong nồi bún riêu cua ngon lành, mùi cua thơm phức, màu gạch cua vàng nổi lênh đênh trên sắc đỏ cà chua và sắc xanh những cọng hành lá xắt nhỏ.
Chồng tấm tắc khen vợ:
- Em tâm lý thật, trời hè nóng nực mà ăn bát bún riêu cua thì không gì bằng. Ngửi mùi đã thấy ngon rồi.
Tôi… chảnh chọe:
- Cả sự nghiệp làm bếp của em chỉ biết nấu có mỗi món này thì không ngon sao được? Em biết rồi, anh khỏi cần khen.
Hai người đã ngồi vào bàn ăn, hai tô bún riêu đã múc ra, bên cạnh đĩa rau muống chẻ trộn giá sống và rau kinh giới, cùng với đĩa chanh ớt.
Trong bữa ăn ngon, người ta cảm thấy gần gũi và thương nhau hơn. Hai vợ chồng vui vẻ chuyện trò, tôi ăn mấy thìa bún riêu cay mùi ớt, chua mùi chanh, rồi đỏng đảnh:
- Em ghét mùa hè, da em khô, tóc em cháy như bụi cây lâu ngày không tưới nước vậy đó.
Anh ta cũng tận hưởng hết nửa tô bún riêu mới trả lời tôi:
- Thì em chịu khó che dù và đeo kính râm vào.
- Phiền phức quá, con nhỏ bạn em sống ở New York thế mà sướng, hôm nay vùng nó có 70 độ.
- Em lại ghen tị rồi, em từng chê mùa Đông lạnh và tuyết rơi trên đường phố New York kia mà? Mỗi tiểu bang, mỗi mùa có những ưu khuyết điểm của nó. Khí hậu ấm áp quanh năm là những tiểu bang có biển như California, Florida...
Tôi đề nghị:
- Nghe nói năm nay khí hậu thất thường, mùa hè tiểu bang Texas sẽ dài hơn và nóng hơn. Hay mình đi chơi xa một chuyến đi anh? Em vẫn mơ được đi trên những highway xa lạ, vừa thay đổi không khí, vừa nhìn ngắm cảnh vật bên đường.
Chồng tôi gạt đi:
- Đi chơi xa trong mùa hè bằng xe không tốt đâu, trời nóng, máy lạnh trong xe mở không ngừng nghỉ, bánh xe cọ xát trên mặt đường nóng bỏng có thể nổ tung bất cứ lúc nào, hất chúng ta xuống hố ai biết đâu mà cứu? Đi bằng máy bay cho an toàn em ạ.
- Đi máy bay thì còn gì là hứng thú, bốn bề chỉ là trời mây. Anh chỉ nói những điều kinh khủng để hù doạ em. Em biết thừa là anh chẳng thích đi xa bao giờ, thiệt thòi cho em biết bao nhiêu!
Tôi hù dọa lại:
- Kiếp sau em sẽ lấy chồng là tài xế xe truck chạy đường dài, em sẽ theo anh ấy đi ngao du khắp các nẻo đường, khắp nơi trên nước Mỹ cho thỏa thích.
- Người chồng xe truck kiếp sau của em lái xe kiếm tiền, em đi theo để ám anh ta à? Không để yên cho anh ta làm ăn à?
- Vậy thì em sẽ lấy một người cùng sở thích. Như vợ chồng ông Mỹ già, hàng xóm nhà mình đó. Cả hai vợ chồng đồng tâm hiệp lực, hí hửng lên kế hoạch bán nhà mua một cái xe RV hơn hai trăm ngàn đồng để lái xe đi khắp nơi nào họ muốn. Hãy thử tưởng tượng mùa Xuân họ ở Washington D.C ngắm hoa Anh Đào nở, mùa Thu đi trên những con đường chìm đắm trong màu lá đỏ, lá vàng của New York, mùa Đông đến Utah nhìn tuyết đầu mùa rơi trên phố núi...
Anh ta ngắt lời tôi:
- Thế mùa hè họ có trở về Texas không?
- Để tắm nắng với nhiệt độ trên dưới 100 à? họ sẽ đến California tắm biển.
Anh ta giảng giải một tràng dài, như người trong cuộc:
- Em tưởng tượng ra như chuyện thần tiên, đằng sau là bao nhiêu vất vả em có biết không? Cái xe RV chiều ngang tối đa 8 feet, chiều dài 40 feet, như vậy diện tích khoảng 320 sqf. cho cả phòng ngủ, phòng tắm và phòng bếp. Em có thích sống trong một căn nhà diện tích nhỏ bé như thế không? Rồi em sẽ phải thường xuyên thay nước sạch, đổ chất thải, nước dơ. Đến mỗi thành phố phải xem luật nơi ấy cho xe RV kích thước nào mới được phép vào, và phải tìm chỗ đậu của nó. Em không thể lái cái xe to tổ bố nghênh ngang trên đường phố và thích thì tạt vào lề đường đâu nhé.
Thấy tôi chưa chịu tin, anh ta bồi thêm:
- Còn bao nhiêu thứ bất tiện khác trong đời sống hàng ngày, ông bà Mỹ đó phải dùng điạ chỉ cố định của người em để giữ liên lạc thư tín với mọi người, vì không có ông bưu điện nào ba chân bốn cẳng đuổi kịp mà giao thư cho họ được. Anh dám chắc vợ chồng ông Mỹ ngao du vài năm sẽ chán, và bán tống bán táng cái xe RV của nợ ấy để sung sướng trở về nếp sống bình thường như cũ. Ở tuổi nào người ta cũng có thể nông nỗi, dại khờ, chóng thích rồi chóng chán.
Tôi thở dài:
- Nhưng ít ra họ cũng đã hưởng những gì họ yêu thích. Ơ kìa anh, em cảm thấy trong nhà mình nóng quá... Chồng tôi cũng ngạc nhiên:
- Ừ nhỉ, lúc nãy anh nghe một tiếng “kịch” mà không quan tâm vì đang mải nói chuyện. Có lẽ cái máy lạnh ngưng chạy từ lúc đó?
Tôi vội chạy đến bên chiếc nhiệt kế treo trên tường thấy nhiệt độ trong nhà lên 85 độ, cái máy lạnh chết tiệt lại giở chứng vào đúng thời điểm gay go nhất. Tôi bực mình lẩm bẩm:
- Tại sao cứ vào mùa hè là máy lạnh bị hư?
- Thì mùa Đông hay các mùa khác em có xài đâu mà biết. Mùa hè máy chạy cả ngày cũng mệt mỏi như con người, nên có lúc máy phải ốm đau, ăn vạ chứ.
Tôi đi tìm cuốn sổ tay để lấy số phone gọi anh thợ điện lạnh mà tôi tín nhiệm, anh ta như người tình đúng hẹn lại lên, chẳng mùa hè nào mà anh chẳng đến đây sửa chữa máy lạnh. Ở nhà cũ thật là khổ!
- Chào anh Phước, anh làm ơn làm phước đến nhà tôi sửa cái máy lạnh nhé?
- Xin chị thông cảm, tôi đang bận sửa cho người khác, sớm lắm cũng hai tiếng sau mới đến được.
Tôi gác máy điện thoại, hậm hực than thở với chồng:
- Mấy ông thợ điện lạnh vào mùa hè bỗng dưng cao giá, làm chảnh. Người ta nóng gần chết mà ông ấy bắt đợi hai tiếng nữa! Léng phéng là mất mối bây giờ, lần sau em sẽ gọi người khác cho anh ta biết tay em.
- Người ta bận thật đấy em ạ, công việc kiếm tiền ai mà chê? nghề của họ chỉ bận rộn vào mùa hè. Thiếu gì thợ điện lạnh khác, nhưng em chê thợ Mỹ chém đắt, em thích thợ Việt Nam không phải vì tình đồng hương, mà vì để được trả giá, kỳ kèo thêm bớt. Nhưng đừng vội mừng em nhé, các tay thợ Việt Nam, có người làm ăn trung thực, có người láu cá, vẽ vời thêm để hò hét giá cao, cho em trả giá, họ vẫn lời chán.
Tôi bỗng cáu kỉnh:
- Thế tại sao anh không đi học nghề sửa điện lạnh cho em nhờ?
- Anh có phải thần thánh đâu mà lắm nghề, lắm tài như ý em được? Hôm nọ xe hơi bị hư mang ra tiệm sửa, em cũng ao ước nếu như anh là thợ sửa xe! Kiếm đâu ra một người chồng lý tưởng cho em, vừa lái xe truck chạy đường dài cho em đi chơi xa vừa biết sửa chữa mọi thứ, từ điện lạnh tới xe hơi cho em đỡ tốn tiền? Tôi gắt gỏng:
- Anh đừng có mà nói cái giọng mỉa mai, khiêu khích như thế nhé...
Anh ta trêu chọc:
- Em có biết vào mùa hè nắng nóng hay có bệnh chó dại không?
Mắt tôi long lanh lên vì tức giận:
- Anh ví em như con chó dại chứ gì?
- Thì em cáu kỉnh, ăn nói như “cắn” người ta đấy thôi.
Tôi gào lên:
- Anh thật là quá đáng. Đừng có hòng sau bát bún riêu này tôi sẽ làm cho anh một ly hạt é ngọt ngào mát lạnh.
Anh ta gạt phăng:
- Cái món nước hạt é của đàn bà, trẻ con, anh có thích bao giờ đâu, nên rất cám ơn em đã không cho anh ăn.
Tôi đùng đùng đi vào phòng và đóng cửa thật mạnh để biểu dương nỗi bực tức, mặc anh ta bên ngoài với mâm bát ngổn ngang. Tôi biết lát nữa anh ta sẽ tự động dọn dẹp, theo đúng “nề nếp” nhà này kể từ khi anh cưới tôi về.
Cuộc chiến giữa hai vợ chồng tôi tạm hoãn lại vì anh thợ điện lạnh đến. Anh thợ tươi cười kể công:
- Vừa xong việc bên kia là tôi phóng xe 80 mile một giờ, đến đây sớm hơn đã hứa đấy.
Tôi mỉm cười xã giao và ngọt ngào:
- Không sao đâu, chúng tôi chờ được mà. Lần sau anh cứ thong thả nhé.
Nói xong, tôi bắt gặp ánh mắt châm biếm của chồng tôi, như muốn nói rằng: “Thôi, đừng có đóng kịch nữa, lúc nãy vừa chê trách người ta hết lời”. Làm cho tôi cụt hứng không dám hó hé thêm.
Anh thợ điện lạnh cảm động:
- Vâng, được ai cũng thông cảm như chị thì đỡ cho tôi quá, có người chờ đợi một tí mà không hài lòng, làm như có tiền trả công thợ là có quyền đòi hỏi tôi phải đến ngay lập tức, không cần biết tôi đang bận rộn thế nào. Ngay cả khi người ta ốm đau, cần bác sĩ, cũng phải lấy hẹn, phải đợi chờ, có đúng không chị?
Anh thợ điện lạnh nói, cứ làm như đi guốc trong bụng tôi, làm tôi giật cả mình.
Chồng tôi thì nhìn tôi nhếch môi cười, vẫn vẻ châm biếm và thêm phần khoái chí vì anh thợ điện lạnh đã vô tình cho tôi một bài học sống ở đời, cái điều mà chồng tôi không bao giờ làm được, vì thế nào tôi cũng cãi cho bằng được, dù là cãi ngang như cua.
Anh thợ mở thùng đồ nghề, xem xét máy lạnh và sửa chữa, chỉ nửa tiếng sau máy lại chạy vù vù ngon lành, chẳng mấy chốc đã mát rượi cả nhà.
Vừa được anh thợ khen là người tử tế biết thông cảm, nên tôi... không dám trả giá, anh nói bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu. Những lần trước thì không bao giờ anh có thể rời khỏi nhà tôi khi chưa giảm giá, bớt tiền công sửa chữa chút ít.
Buổi tối, tắm rửa xong tôi mặc chiếc aó ngủ mà chồng tôi ưa thích. Căn nhà êm vắng mát mẻ làm lòng tôi dịu dàng và thanh thản. Lúc này tôi đã nhận ra cái lỗi của mình, đã cáu kỉnh vô lý với chồng. Trời có mưa có nắng, tính khí con người cũng thế. Các cô người mẫu, các cô hoa hậu xinh đẹp, dịu hiền trên sân khấu, nhưng biết đâu ở nhà cũng có lúc nổi cơn thịnh nộ, cáu kỉnh, nhăn nhó? Nói chi tôi!
Chồng tôi vào giường nằm lặng lẽ, ra điều ta đây còn giận. Tôi vờ lấy chân đạp trúng chân anh ta, nhưng vẫn lì lợm bất động. Chẳng để phí phạm thì giờ, tôi lăn xả vào người anh ta cho được việc:
- Anh ơi, cho em xin lỗi nhé?
Tóc tôi thơm tho, áo tôi thơm tho và cánh tay tôi cũng thơm tho quàng qua vai anh, làm anh “chóang váng”, cơn giận xụp đổ tan tành một cách mau chóng. Anh ta âu yếm dí tay vào trán tôi, trách móc:
- Phụ nữ ăn nói cáu kỉnh là xấu lắm đấy. Tại sao chuyện chẳng có gì mà em lại giận dữ với anh như thế chứ?
Tôi nũng nịu… đổ lỗi:
- Không phải em giận dữ, mà mùa hè giận dữ đấy. Ngoài trời nắng nóng, trong nhà máy lạnh lại bị hư, nó tác động vào tâm hồn em, chứ em có muốn thế đâu.
Anh chẳng thèm nghe tôi phân bua, lý giải, mà vội xoay người ra ôm tôi và đặt một nụ hôn lên môi tôi, nụ hôn nồng nàn, nóng bỏng, nóng như 101 độ F ngoài trời ngày hôm nay.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Jul/2016 lúc 10:27am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 20/Jul/2016 lúc 9:31am

Xu Ơi ...

Chiều nay không phải nơi chốn quê nhà,

Không khói bếp, không có mùi rơm ướt,

Sao mắt ai cay, sao lòng thổn thức?

Như phút lìa quê, xa mái tranh nghèo.


Chị Ngâu ăn xong món bún thịt nướng chán chê thỏa thuê còn lại một ít thì không ăn nổi nữa. Chị đẩy những đĩa đồ ăn thừa sang một bên.

Nhà hàng này nổi tiếng với món bún chả Hà Nội của miền Bắc dù nhà hàng ở thành phố Sài Gòn miền Nam.

  Chồng chị, anh Cheng vừa đứng lên đi về phía cuối nhà hàng tìm nhà vệ sinh, chỉ còn hai mẹ con chị trước mặt bàn với bát đĩa, và đồ ăn thừa ngổn ngang. Thằng Vàng của chị mới lên 4 tuổi chỉ nhâm nhi ăn mấy miếng thịt nướng với bún rồi quay ra uống nước ngọt, nhất định không ăn thêm miếng thịt nào nữa…

  Chị cũng nâng ly nước ngọt và bâng quơ nhìn quanh, ánh mắt chị dừng lại nơi hình ảnh 2 người ăn xin ngay bàn khách bên cạnh bàn chị. Một thằng bé và một bà gìa đang túm áo nó như sợ bị bỏ rơi hay đi lạc mất nhau.




  Thằng bé chìa tay xin tiền, thực khách bàn ấy có người móc túi dúi cho nó ít đồng, nhưng thằng bé chưa vội đi, nó nhanh chóng thu gom những đồ ăn thừa trên bàn và đổ vào trong một cái túi ni lông mang sẵn, rồi mới rời khỏi bàn…

  Khi nó quay mặt ra, tim chị bỗng giật thót lên một cảm giác lạ lùng, hình như thằng bé có cái gì rất gần gũi, quen thuộc với chị? Và khi chị cố tìm cách nghiêng người nhìn bà già thì chị thất thần, chị như chợt lên cơn nhức đầu đến quay cuồng chóng mặt.

  Họ đang đi về phía bàn của chị, chị Ngâu hồi hộp, bối rối chỉ sợ anh Cheng về tới, chị vội quay mặt đi hướng khác để 2 người ăn xin này đừng bén mảng đến bàn chị. Nhưng thằng bé đã đứng cạnh chị rồi, tiếng của nó cất lên, van vỉ cầu cạnh:

- Bác ơi, làm ơn làm phước cho cháu xin tiền nuôi bà cháu…

  Không thể không quay mặt lại, chị rùng mình thảng thốt vì gương mặt thân quen của thằng bé, và bà gìa thì đang nhìn thẳng vào mặt chị bằng cái nhìn ngay đơ vô hồn. Chị vừa nhẹ lòng vì thoát nỗi lo ngại vừa thêm thảng thốt vì biết bà đã bị mù.

Chị nhanh chóng mở ví tiền rút ra một nắm không cần đếm bao nhiêu dúi ngay vào bàn tay bé nhỏ của thằng bé và run giọng hỏi :

- Cháu lên mấy?

  Nhận được món tiền hậu hĩ, thằng bé vui mừng hấp tấp xếp lại những tờ giấy bạc và nhét vào túi quần, cẩn thận cài kim băng mà quên chưa trả lời câu hỏi của người khách sộp.

Bà gìa nãy giờ nghiêng tai lắng nghe và trả lời thay cho cháu:

- Cháu nó 8 tuổi..

Chị run run hỏi tiếp:

- Khổ ! mới có 8 tuổi đầu mà phải đi xin ăn, thế …cha mẹ nó đâu ?

Bà gìa lại nghiêng tai lắng nghe và có vẻ không hiểu gì, chị Ngâu tin chắc bà bị lãng tai hơn nữa nhà hàng lại ồn ào tiếng nói cười lẫn tiếng âm nhạc. Chị lập lại câu hỏi chậm rãi hơn, thì bà mới nghe ra:

- Mẹ cháu chết từ lúc nó lên 3 bác ạ, còn bố nó mới chết vì sốt rét rừng nên bà cháu tha nhau về đây…

- Nhà làm gì trên rừng hở bà?

- Đi kinh tế mới ở Lào Cai, được vài năm thì bố nó ngã bệnh sốt rét chết. Hai bà cháu một gìa một trẻ ranh chẳng làm lụng việc ruộng vườn được thì ở đấy làm gì, nhỡ vướng sốt rét lại khổ thôi…

Hình như có người hỏi để được dịp trút nỗi lòng, bà gìa kể lể tiếp:

- Về quê thì ruộng nương nhà cửa không còn, mà chỉ thêm buồn vì cảnh cũ người xưa, nên bà cháu quyết không bao giờ bén mảng về quê, mới vào Nam tha phương cầu thực như thế này..

Chị ái ngại hỏi:

- Hình như mắt bà kém lắm?

- Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa, mắt mờ, tai nghễnh ngãng từ lâu rồi, không có tiền đi bác sĩ khám mắt và thuốc thang, lại khóc nhiều vì thương con thương cháu nên tăm tối mù lòa luôn. Cũng đành cái số…

  Trong lúc bà nó nói chuyện, thằng bé không bỏ phí thì giờ, nó vơ vét những thức ăn thừa đổ vào túi ni lông và gói ghém lại cẩn thận, sợ những thức ăn thơm ngon này sẽ rơi mất. Chỉ chớp mắt, những đĩa bát đã sạch trơn.

Xong nó kéo tay bà nó:

- Đi bà ơi, bàn bên kia có nhiều người lắm…

  Chị Ngâu chưa biết nói sao, muốn níu chân thằng bé lại dù chị không biết phải làm gì hơn trong lúc này thì anh Cheng về đến, nhìn thấy nét mặt chị còn nỗi ngơ ngác anh hỏi:

- Gì thế em?

Chị gượng cười nhìn chồng:

- Có gì đâu anh, hai bà cháu thằng bé ăn xin vừa xin tiền và lấy hết những thức ăn thừa này. Em cảm thấy thương xót cho họ thôi.

Anh dăn dò:

- Lần sau đừng để họ đến gần, đám xin ăn bao giờ cũng bám vào chúng ta để cầu cạnh.

 

   Trưa về nằm nghỉ trong khách sạn sang trọng, giường nệm êm ái, máy lạnh mát mẻ với thằng bé Vàng đang ngủ ngon bên cạnh, chị Ngâu vẫn không chợp mắt cho giấc ngủ trưa được. Anh Cheng đang bận đi họp với đối tác làm ăn.

  Anh Cheng là giám đốc một công ty ở Singapore, làm ăn với vài công ty bên Việt Nam từ nhiều năm nay, nên chuyện về Việt Nam với anh rất thường xuyên. Do nhu cầu công việc và đi lại Việt Nam nhiều lần, ở lại nhiều ngày nên anh Cheng có thể nói tiếng Việt Nam, nhất là từ khi kết hôn với chị Ngâu thì khả năng nói và hiểu tiếng Việt của anh đã hoàn chỉnh hơn.

  Chị Ngâu quay cuồng với những hình ảnh qúa khứ của mấy năm về trước. Ngày ấy chị còn là cô thôn nữ làng Chuông, nhà nghèo nhất nhì trong làng, nhưng chị cũng xinh đẹp nhất nhì trong làng, có nhiều anh con trai để ý chị, nhưng ở tuổi mới lớn, tâm hồn ngây thơ, chị Ngâu chưa biết kén chọn so đo, chị yêu anh Cư người cùng làng và nhà cũng nghèo như nhà chị. Bố anh mất sớm, mẹ anh ở vậy từ thời son trẻ để nuôi con, nên chỉ có anh Cư là thằng con duy nhất, đủ để nối dõi, thờ cúng tổ tiên ông bà.

  Hai mẹ con có hai sào ruộng, ngày làng xã phân chia ruộng đất theo đầu người, mẹ anh góa bụa, nghèo nàn, thân cô thế cô không họ hàng để nương tựa, nhờ vả và không tiền bạc đút lót cho quan làng quan xã, nên mảnh ruộng xấu nhất làng không ai thèm nhận họ đã phân phối cho hai mẹ con.

  Anh Cư có chiếc thuyền con, ngày ngày anh lưới cá bên sông Nhuệ, mẹ anh đem mớ cá ra chợ bán, mua lấy bó rau, bìa đậu hai mẹ con cũng sống qua ngày.

  Thỉnh thoảng chị Ngâu ra gặp anh bên bờ sông ấy để chuyện trò và khi về thể nào anh Cư cũng cho chị mấy con cá sông, có hôm được vài con cá Mè, cá Trắm, hay con cá Chép to, hôm nào ít cũng có mớ cá Mường bé bé bằng ngón tay nhưng tươi rói, chỉ kho được một nồi nhỏ cũng đủ làm chị bồi hồi cảm động. Chị càng yêu anh vì thế.

Chẳng bao lâu họ lấy nhau, đám cưới nhà nghèo chỉ có miếng cau trầu, vài đĩa kẹo uống nước trà cũng gọi là tiệc cưới.

  Chị có thai và đẻ ra một thằng con trai, nhà nghèo qúa, chị âu yếm đặt tên con là thằng Xu cho hợp với gia cảnh nhà chị chỉ có tiền xu, chẳng có tiền bạc của nả gì khác, nhưng thằng Xu của vợ chồng chị thì vô gía, vì chị yêu nó lắm.

Nhà thêm đứa con thêm chi tiêu, và tình yêu ngây thơ năm trước đã thành tình vợ chồng mấy năm đủ va chạm với thực tế.

  Chị Ngâu đã biết lo xa tính tóan, chị thấy dân trong làng đua nhau vào Nam tìm việc làm để đổi đời, cho dù đi ở đợ cũng sướng hơn ở quê làm ruộng, được ăn trắng mặc trơn tại nhà chủ, ra dáng thị thành hẳn ra.

  Chị bàn soạn với anh Cư, muốn hai vợ chồng vào Nam trước, để thằng bé Xu cho bà nội trông, khi nào tạm ổn định thì về quê bán hết nhà cửa ruộng nương để di cư vào miền Nam.

  Nhưng anh Cư không cùng chí hướng với vợ, anh vẫn muốn ở làng quê, an phận đời sống nghèo với một mảnh ruộng, một mái nhà lá đơn sơ và một chiếc thuyền cũ ọp ẹp cũng đủ nuôi cả nhà không chết đói, mà ấm tình làng quê..

  Chị Ngâu nghe tin những người làng ở trong Nam kể về mà sốt cả ruột, vợ chồng cái Thà chỉ một mẹt lòng lợn mỗi buổi chợ mà kiếm khá tiền, anh Bân đi làm phụ xế cho xe tải, chị Pháo làm công cho một cửa hàng bán vật liệu xây dựng..v..v..nghề nào cũng kiếm ra tiền cả…

Chỉ có nhà chị quanh quẩn với ruộng, mà ruộng không mất mùa cũng chẳng đủ ăn, ruộng xấu nên tốn nhiều tiền phân bón, lại tiền thuế má…

Với chiếc thuyền lưới lên vài con cá bé tí và môi sinh càng ngày càng cạn kiệt thì có ngày thuyền cũng phải lìa sông thôi.

  Chị Ngâu càng đốc thúc chồng thì anh Cư càng phản đối, từ bé đến lớn anh chỉ quanh quẩn trong làng nên e ngại không dám bước ra cuộc đời ngoài luỹ tre làng.

  Hai vợ chồng trở nên xung khắc mỗi ngày mỗi nhiều, anh đâm ra uống rượu, rượu vào thì lời ra rồi cãi nhau, hễ chị Ngâu to tiếng thì anh Cư cũng to tiếng hơn và anh đánh vợ. Họ chửi nhau, đánh nhau, có lần, bà mẹ anh Cư can không nổi đã phải chạy ra ủy ban xã nhờ can thiệp kẻo chúng nó giết nhau mất.

Chị Ngâu đã chán cảnh đói nghèo, chị oán hận chồng ngu dốt không biết mở mắt ra theo thời cuộc.

  Một buổi trưa, khi anh Cư còn đang lênh đênh chiếc thuyền trên sông Nhuệ để lưới cá, thì chị Ngâu xuống bếp gặp bà mẹ chồng đang lúi húi đun nấu gì đó, căn bếp đầy khói và mùi rơm ẩm chưa khô làm chị cay cả mắt.

Chị nói:

- Mẹ trông thằng Xu, con về bên mẹ con tí việc….

Bà ngước nhìn con dâu, hiền hòa:

- Ừ, con đi đi, mẹ đang om lại nồi cá kho dưa hôm qua, cũng đủ cho bữa cơm chiều nay.

Rồi bà chép miệng than:

- Rơm còn ướt khói mù mịt cả ra…

Chị tần ngần chưa chịu đi:

- Cháu nó đang ngủ, chốc nữa mẹ nhớ mặc quần cho thằng Xu nhé, nhỡ quên thì chiều xuống lạnh đít nó…

Bà cười âu yếm khi nghĩ đến thằng cháu nội 3 tuổi:

- Mẹ biết rồi, cái thằng hễ ngủ trưa là đái dầm nên cứ phải ngủ truồng thế. Mà từ nhà mình về nhà mẹ con là đầu làng đến cuối làng việc gì con phải dặn dò như đi đâu xa không bằng?

Chị cắp nón và đi ra sân:

- Ấy là con quen mồm dặn thôi…

  Nhưng ngay lúc ấy thì thằng bé Xu hiện ra ở ngưỡng cửa sau gần bếp, nó mới ngủ dậy, mặt còn ngái ngủ, khóc lè nhè. Thằng bé đứng khóc, cái bụng ỏng ưỡn ra nên hai mông nó như teo tóp lại. Thằng bé thấy mẹ cắp nón sắp đi, nó giơ hai tay ra đòi bế và khóc gọi thành tiếng:

- Mẹ…mẹ..

  Tiếng gọi đứt quãng trong tiếng khóc hờn, chị bỗng thấy quặn lòng, định quay lại ôm con, mặc quần cho con rồi ra sao thì ra. Nhưng bà mẹ chồng đã từ trong khói bếp, từ trong mái bếp thấp lè tè chui ra. Bà nựng nịu cháu:

- Xu của bà ngoan nào, ra bà mặc quần rồi bà cho Xu ăn củ khoai lang luộc nhé.

  Nghe bà nói củ khoai, thằng Xu nín khóc, nó quên mẹ, hai mắt nó sáng lên theo bà nó vào bếp. Thế là chị Ngâu nhanh chân bước đi, nếu không chị chẳng còn cơ hội nào mà dứt ra được khỏi thằng Xu nữa.

Chị không về ngôi nhà mẹ chị ở cuối làng, mà chị đi xa hơn. Cuối cùng chị đã lên chuyến xe lửa Bắc Nam, để vào thành phố Sài Gòn.

  Chuyến tàu chiều ấy có người đàn bà rất trẻ ngồi thu lu trong lòng ghế, lòng buồn rười rượi, như người vô hồn chị quay mặt ra khung cửa toa tàu để nhìn cảnh vật đang lùi dần, lùi dần phía sau, có nghĩa là chị càng lúc càng lìa xa quê quán, xa mái gia đình.

  Rồi hình ảnh thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa khóc giơ tay đòi bế hiện ra, chị đau đớn như dao cắt vào thịt da. Nước mắt chị tuôn rơi nhạt nhòa, chị nghẹn ngào kêu lên liên hồi hai tiếng “Xu ơi…”

  Chị chẳng thiết gì đến ăn uống hay nhìn mọi người đồng hành xung quanh, chị cứ khóc cho đến khi mệt mỏi, người chị như lả đi, chị thiếp vào giấc ngủ vẫn thấy thằng Xu của chị đang đứng cởi truồng khóc, giơ tay đòi bế và tiếng gọi “Mẹ..mẹ…” vang lên âm ỉ trong đầu óc chị. Trong giấc mơ chị lại tha thiết gào lên: “Xu ơi…”

  Chị Ngâu vào Nam, lang thang cả ngày ngoài đường phố để tìm việc làm, chị tránh không muốn gặp những người cùng làng vì sự ra đi kiếm cơm của chị như trốn chạy, như một sự lừa dối chồng con và cả bà mẹ chồng nhân hậu.

  Đói khát bơ phờ mất mấy ngày thì chị xin được chân rửa bát trong một nhà hàng, chị đã sung sướng mơ đến ngày dành dụm được khá tiền sẽ về quê thăm thằng Xu, chị sẽ xin lỗi anh Cư và năn nỉ rủ rê chồng chịu vào miền Nam sinh sống lập nghiệp, cả nhà chị lại đâu vào đấy cho lương tâm chị bớt áy náy, bớt cắn rứt vì rời xa đứa con bé bỏng của mình.

  Chị chăm chỉ rửa bát chưa được bao lâu thì bà chủ “thăng chức” cho chị, vì thấy chị vừa trẻ vừa xinh, chị được bà chủ cho mặc quần áo đẹp để làm nhân viên phục vụ nhà hàng, bưng bê đồ ăn thức uống cho khách. Nhờ có những cô phục vụ trẻ đẹp như chị mà nhà hàng giữ chân được nhiều loại khách, dù khách thường hay khách sang .

  Nơi đây chị gặp anh Cheng thường đến ăn uống với bạn bè, mỗi lần Cheng đến là chị Ngâu được bà chủ điều động ra tiếp khách, vì anh Cheng có vẻ mến chị. Dần dần anh Cheng và chị Ngâu biết nhau hơn, thân nhau hơn…

  Một hôm anh mời chị Ngâu tham dự sinh nhật của anh, chỉ có một mình chị Ngâu là khách mời, vì anh không muốn chia sẻ không gian thân tình ấy cho một người khác nữa, ngoài chị. Chị Ngâu đành nhận lời, chị muốn làm vừa lòng bà chủ nhà hàng vì anh Cheng là khách sộp thường xuyên của bà hơn là vì anh.

  Buổi sinh nhật được tổ chức tại phòng khách sạn nơi anh tạm trú, anh hân hoan bên chị và cao hứng uống rượu khá nhiều. Trong cơn say rượu anh Cheng say tình luôn, anh đã thố lộ tình yêu với chị….

  Cảm động và vị nể, chị đã yếu lòng sa ngã, chỉ một lần trao thân đêm ấy mà chị Ngâu mang thai, anh Cheng đã ân cần cầu hôn chị, vì dưới mắt anh cũng như bà chủ nhà hàng chị Ngâu vẫn là một cô gái quê trinh nguyên. Hơn nữa, anh Cheng ngủ với chị trong cơn say thì anh nào phân biệt được gái có chồng hay chưa. Chị trẻ đẹp và thật thà như thế…

  Cha mẹ chị không thể gả con gái lần nữa, họ không thể làm điều bất nghĩa ấy, nhưng thương con gái họ đành vào Sài Gòn gặp con và anh Cheng, đưa ra lý do không muốn gả con xa cho người nước ngoài, nhưng chị Ngâu đã trưởng thành, chị cứ quyết định theo ý của mình.

  Chị Ngâu theo anh Cheng về quê anh, mới biết anh con nhà trung lưu ở Singapore, là giám đốc một công ty và thường xuyên ở Việt Nam vì công việc. Chị sinh ra thằng con trai, nét mặt giống Cheng như hai giọt nước, khỏi cần đi thử máu Cheng cũng thừa biết nó là máu mủ của anh. Cheng đặt tên cho con theo giòng họ anh, nhưng tên ở ngoài chị gọi nó bằng tên Việt Nam, là thằng Vàng giàu sang, ngược lại với thằng Xu một thời nghèo khổ của chị.

Người Hoa qúy con trai, nên thằng Vàng được ông bà nội, cha và cả bên nội cưng qúy như vàng, vì đây là đứa cháu nội đầu tiên của họ. Cheng đem vợ con về sống ở Singapore cho gần bên nội, chỉ thỉnh thoảng Cheng mới đưa vợ con theo chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam .

  Anh Cheng rất yêu vợ, thương con, chị Ngâu như chiếc lá trôi theo giòng đời, một giòng đời êm ái và hoa gấm. Hạnh phúc trong tình yêu của chồng mới, chị đã nguôi ngoai và quên đi hình ảnh anh Cư người chồng cũ, chị đã quên đi bà mẹ chồng nhân hậu, nhưng chị không thể dễ dàng quên đi thằng con nơi chốn quê nghèo tội nghiệp.

  Từ ngày chị bỏ chồng con vào Nam, bố mẹ chị cũng xấu hổ với làng xóm. Bán xới nhà cửa ruộng vườn để về quê mẹ của chị rất xa lập nghiệp, để gĩa từ qúa khứ. Ở làng quê, người ta sống bằng danh dự cần thiết như cơm áo, cha mẹ chị không thể muối mặt ở làng quê mình để nghe tiếng chê bai, bàn ra tán vào và nhất là nhìn cảnh bên thông gia neo đơn trống vắng từ khi chị ra đi không hẹn ngày về.

  Với lý do cha mẹ không hài lòng và lạnh nhạt, chị liên lạc rất ít với cha mẹ, vì muốn giấu diếm tung tích trước kia của chị để bảo vệ hạnh phúc gia đình hiện nay. Lần cuối cùng chị nghe tin từ cha mẹ là anh Cư đã theo vài hộ dân làng đưa mẹ gìa con mọn lên Lào Cai khai hoang kinh tế mới khi ở làng quê cuộc sống anh đã thực sự kiệt quệ. Dòng sông Nhuệ vẫn còn đó, nhưng chiếc thuyền của anh Cư đã quá mục nát, anh không có tiền để sửa chữa, vá víu thêm nữa…

  Từ đó cha mẹ chị không dõi theo tin tức nhà anh Cư nữa, chị và anh Cư đã đường ai nấy đi, thằng Xu là con là cháu họ thì họ phải lo. Cha mẹ chị muốn quên đi cũng như chị đã muốn quên đi.

  Gía mà chị nghe tin anh Cư lấy vợ có lẽ chị sẽ vui hơn, yên tâm hơn. Ít ra trong nhà cũng có một người đàn bà trẻ, gánh vác việc nhà, chăm lo cho anh Cư, còn thằng Xu đã có bà nội yêu thương chăm sóc rồi.

********

  Trưa hôm sau, bằng giờ hôm qua lúc gia đình chị ăn món bún chả thịt nướng, chị dắt thằng Vàng ra nhà hàng ấy trong lúc anh Cheng bận đi công việc.

Chị vào trong gọi vài món ăn cho có lệ rồi chờ đợi, chị luôn nhìn khắp nhà hàng tìm kiếm bóng dáng hai bà cháu thằng ăn xin hôm qua…

  Nhưng chị đợi mãi và cuối cùng thất vọng đi ra ngoài, gặp hai đứa bé ăn xin khác vừa từ trong nhà hàng đi ra, hai đứa khỏang mười hai, mười ba tuổi, chị liền vẫy lại hỏi:

- Này cháu…

Hai thằng bé chạy lại mừng rỡ:

- Dạ, cô Hai cho con xin ít tiền cô Hai…

- Cho con luôn cô Hai, từ sáng tới giờ con đói bụng qúa…

Chị Ngâu ân cần móc tiền ra :

- Cho hai cháu với điều kiện cho cô hỏi thăm một chút được không?

Hai đứa trẻ bụi đời cùng nhanh nhẩu:

- Được chớ, cô hỏi bao lâu cũng được mà…

- Cô cứ hỏi con biết là nói liền cho cô nghe…

- Hôm qua cô ăn trong nhà hàng này, có gặp thằng bé ăn xin đi với bà nó. Các cháu có biết hai bà cháu này không?

Một thằng đáp ngay:

- Cháu biết nè, bà gìa đó bị mù, là bà nội của thằng nhỏ đó.

Chị Ngâu mừng rỡ:

- Đúng rồi, sao hôm nay hai bà cháu không ra đây xin ăn?

Thằng bé còn lại bây giờ mới lên tiếng:

- Tưởng ai, chớ thằng bé với bà gìa đó con cũng biết luôn. Nó bị thanh tóan rồi !!

Chị Ngâu hốt hoảng và ngạc nhiên:

- Thanh toán ? Ai đã làm gì nó?

- Băng đảng nhí đó cô, là cỡ tuổi tụi con. Thằng Bắc Kỳ đó mới vô Nam không có ai giới thiệu mà dám bén mảng tới khu này ăn xin là phạm luật rừng, mấy đứa bụi đời ăn xin trong băng đảng nhí ở đây đã đánh cảnh cáo nó sưng mặt và đuổi nó đi khỏi khu vực nhà hàng này rồi…

Chị tưởng như toàn thân mình sắp qụy xuống, giọng chị nghẹn ngào:

- Giời ơi ! chết thằng bé mất thôi…

Chị cố hỏi thêm:

- Các cháu có biết hai bà cháu hiện giờ ở đâu không?

- Giang hồ mà cô, nó đi đâu ai biết…

- Đương nhiên là đi khỏi vùng này nếu không muốn ăn đòn lần nữa, tơi bời hoa lá cành hơn nữa…Sài Gòn này thiếu gì nơi cho bà cháu nó đến ăn xin, cô hơi đâu mà lo…

Chị lại cố nài nỉ:

- Không thể được, không thể được…các cháu kiếm tìm hai bà cháu nó cho cô đi, mỗi ngày cô sẽ đến đây trả tiền công cho hai cháu để biết tin tức…trong vòng 3 ngày nữa thôi, chỉ 3 ngày nữa thôi…

Nghe đến tiền công, và nhìn vẻ thất vọng khổ đau của người phụ nữ trẻ đẹp sang trọng, hai thằng bé cũng bùi ngùi:

- Dạ…con sẽ kiếm..

- Con sẽ dò la hỏi han mấy đứa bụi khác xem sao…

Hai thằng bé bỏ đi, để mặc chị Ngâu còn đứng ngẩn ngơ với thằng Vàng. Nó ngây thơ ngước mắt lên hỏi mẹ:

- Sao mẹ khóc ??

Chị ngồi thụp xuống ôm con vào lòng và lại khóc nấc lên:

- Xu ơi…

Thằng Vàng vùng vằng nũng nịu:

- Con không tên Xu, con là thằng Vàng mà…

- Ừ, Vàng của mẹ ơi…

  Chị đứng lên cố nhịn khóc để gọi xe taxi về khách sạn, ngày mai bằng giờ này chị lại ra đây, chỉ còn 3 ngày nữa chị sẽ theo chồng về Singapore không biết chị có gặp lại bà cháu thằng Xu không?

  Nếu gặp họ, chị sẽ ôm con thật chặt vào lòng và gọi lên hai tiếng “Xu ơi” như chị đã từng mơ ước và từng gọi thầm trong mấy năm qua. Chị cũng sẽ nói cho bà mẹ chồng biết là chị vẫn còn đây, dù bà đã oán hận chị, xem chị đã chết kể từ ngày chị bỏ chồng con ra đi.

  Chị sẽ qùy xuống chân bà xin tạ tội, xin bà hãy mang thằng Xu về quê mẹ của chị, để thằng bé được thêm sự chăm sóc của tình ruột thịt bên ngoại. Chị sẽ tìm cách gởi tiền về nuôi hai bà cháu….

Chị khao khát ước mơ này như ngày xưa chị đã khao khát ước mơ bỏ làng quê, bỏ họ để ra đi.

  Chị bế thằng Vàng, nó 4 tuổi, hơn tuổi thằng Xu một chút ngày chị rời xa nó. Nhưng hôm nay thằng Vàng trắng trẻo trong bộ quần áo đẹp đắt tiền, chân đi đôi giày xinh, khác với thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa, đi chân đất, cởi truồng lè nhè khóc và giơ tay đòi mẹ bế cùng với tiếng gọi “Mẹ …mẹ..” của nó cách đây 5 năm .

Hôm nay lòng chị cũng dùng dằng, cũng đau đớn như hôm ấy.

Hôm nay không có khói bếp và mùi rơm ẩm ướt như hôm ấy.

Nhưng hai mắt chị vẫn cay xè rồi mờ lệ, trong lòng chị lại nức nở gào lên : “Xu ơi.!”

 

Nguyễn Thị Thanh Dương



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Jul/2016 lúc 9:44am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jul/2016 lúc 1:00pm

Mẹ Ơi ! Con Đã Về


 

Cuối cùng tôi cũng trở về Dallas, nơi tôi đã một lần ra đi -và nghĩ rằng sẽ là mãi mãi- bỏ lại mẹ và người tình tuổi học trò một thời yêu thương cuồng nhiệt.

Ngày ấy, mẹ tôi trở thành góa phụ ở tuổi ba mươi bốn và tôi vừa lên mười. Ba tôi qua đời trong một tai nạn giao thông và số tiền bảo hiểm năm trăm ngàn đô đã cho mẹ và tôi một cuộc sống vật chất khá đầy đủ, thoải mái. Thương tôi mồ côi cha khi còn bé bỏng, mẹ bỏ nghề nail đang hái ra tiền, ở nhà, lãnh hàng về may với số lượng vừa phải để có đủ thời gian chăm sóc và đưa đón tôi đi học. Tôi trở nên đứa con cưng được chìu chuộng hết mức, muốn gì được nấy. Dì Út thường nói với mẹ:

- Chị có biết chị đang tập cho thằng Du hư không? cái kiểu buông thả của chị, mai mốt lớn lên làm sao bảo được nó.

Mẹ tôi chống chế:

- Chị biết, nhưng chị muốn bù đắp những thiệt thòi mà nó phải hứng chịu vì thiếu tình thương của cha.

Dì Út thở dài:

- Rồi chị sẽ khổ vì nó!

Năm tốt nghiệp trung học tôi quen với Tiểu Mi, một cô gái lai Tàu, không xinh đẹp nhưng khá duyên dáng với đôi mắt một mí to tròn, đen láy. Mẹ không hài lòng cho lắm vì Tiểu Mi không phải là một cô gái hiền lành, ngoan ngoãn mà tính tình có chút ngổ ngáo, nhất là giọng cười nắc nẻ như xé màng nhĩ của người khác, đã vậy còn lớn hơn tôi hai tuổi. Nhưng ý mẹ đâu phải là ý của tôi, nên tình đầu khai phá tôi nhất quyết dành cho người con gái có cái tên rất ư là “phim bộ HồngKông”. Tiểu Mi mất mẹ từ nhỏ, bố là một nhà doanh nghiệp nên ông luôn bận rộn và xa nhà. Ngoài việc cho Tiểu Mi thật nhiều tiền, ông không có chút thời gian nào dành cho đứa con gái độc nhất.

Từ khi hai đứa chính thức yêu nhau, Tiểu Mi thường xuyên lui tới nhà tôi. Mẹ không thích Tiểu Mi, nhưng không muốn tôi buồn lòng nên vẫn đối xử tử tế. Những lúc nhìn thấy điều thiếu sót của Tiểu Mi thì mẹ nhắc nhở bằng giọng nhỏ nhẹ, ngọt ngào. Rồi như một phép lạ, chẳng bao lâu tính tình Tiểu Mi thay đổi một cách không ngờ. Dịu dàng hơn. Đằm thắm hơn. Duy có giọng cười “bất hủ” thì… đôi khi Tiểu Mi quên lững không kềm chế được. Những lúc đó Tiểu Mi đưa hai bàn tay lên bịt miệng, rồi tát khẽ ” hư quá, xấu quá”. Mẹ bật cười dễ dãi chứ không còn cái nhìn khó chịu như trước nữa.

Ngày tháng trôi theo từng năm học của tôi. Khi tôi học năm thứ ba thì mẹ và Tiểu Mi đã trở nên thân thiết như hai mẹ con. Có lần Tiểu Mi bị sốt nặng trong lúc ông bố đang ở xa, nên tôi phải đưa Tiểu Mi về nhà. Mẹ tận tình chăm sóc cho Tiểu Mi như con gái ruột của mình. Lần đầu tiên tôi thấy những giọt nước mắt rơi xuống từ một cô gái nổi tiếng là cứng đầu, ngang ngược nhất trong nhóm bạn của chúng tôi. Tiểu Mi nói, từ bé đến lớn, chưa bao giờ cô được chăm sóc tận tình như mẹ đã làm. Cái hình ảnh khiến tôi cảm động là lúc mẹ cho Tiểu Mi uống thuốc xong, bà đặt bàn tay lên trán Tiểu Mi để đo chừng nhiệt độ. Tiểu Mi đã nắm lấy bàn tay mẹ, áp lên má, đôi mắt nhắm lại, rồi từng giọt lóng lánh len ra từ khoé mắt, giọng nói nghẹn ngào đầy xúc động:

- Ước gì bác là mẹ cuả con, để mỗi lần bị bệnh, con được mẹ lo lắng cho con. Đó là chuyện rất bình thường đối với mọi người, nhưng với con, đây là lần đầu tiên con mới cảm nhận được thế nào là bàn tay ấm áp của mẹ hiền. Con cám ơn nhiều lắm.

- Thì em cứ gọi mẹ anh là mẹ đi. Anh không có phân bì đâu. Mẹ chịu không?

Mẹ tôi gật đầu, mắt hoe hoe đỏ. Bàn tay thon mềm vuốt nhẹ lên đôi má đỏ au vì cơn sốt của Tiểu Mi.

Năm cuối đại học, một tối mùa hè tôi đi dự sinh nhật của thằng bạn thân cho đến khuya. Trên đường trở về, chiếc motorcycle bị mất thăng bằng lật ngang khi tôi quẹo cua gắt với tốc độ thật nhanh đã vất tôi xuống mặt đường, quay mấy vòng rồi bất tỉnh. Một chiếc xe truck chạy phía sau đã nhìn thấy tất cả diễn biến của tai nạn khủng khiếp. Người tài xế quay ngang chiếc xe và mở đèn cứu cấp để ngăn chận những chiếc xe khác lao tới, rồi chạy đến bên tôi, gọi 911. Mẹ nói, nếu không có bác Nguyễn thì có thể con sẽ bị những chiếc xe khác tông chết, vì trời tối, đèn đường mờ mờ không ai có thể nhìn thấy xa và khi đến gần thì chẳng còn kịp nữa.

Những ngày tôi mê man trên giường bệnh, bác Nguyễn ngày ngày đến thăm viếng và giúp đỡ mẹ, vì khi ấy Tiểu Mi sang Hồng Kông thăm bà nội. Bác Nguyễn sang Mỹ từ năm 1984, vợ con bác đều tử nạn trên đường vượt biên. Những hình ảnh tang thương ấy không ngừng ám ảnh trong từng giấc ngủ khiến bác như điên như dại. Khi qua Mỹ, bác được đưa đến bệnh viện tâm thần và ở đó mất bốn năm để chữa trị. Xuất viện, bác được cơ quan từ thiện giúp đỡ tìm việc làm. Từ đó, bác sống lặng lẽ với vết thương quá khứ sâu hoắm. Bác nói, lúc thấy tôi bị tai nạn, bác như quên hết những sự nguy hiểm có thể xảy đến cho mình, lao ra cứu tôi, vì bác nghĩ đến những người thân của bác đã mất đi, để lại cho bác một sự đau đớn tột cùng và bác không muốn người khác phải rơi vào hoàn cảnh giống mình. Mẹ không ngớt lời cám ơn bác đã cứu mạng của tôi.

Khi tôi rời khỏi bệnh viện trở về nhà thì những ngày cuối tuần, ngoài người khách thường xuyên là Tiểu Mi còn có thêm bác Nguyễn. Căn nhà vắng vẻ ngày nào của hai mẹ con tôi bỗng chốc trở nên vui vẻ, tràn đầy sinh khí với những câu chuyện không dứt của bác Nguyễn và mẹ, tiếng cười đùa hồn nhiên của tôi và Tiểu Mi. Điều khiến tôi ngạc nhiên không ít là sự hiện diện của dì Út. Tuy không đều đặn nhưng thường xuyên hơn ngày chưa có bác Nguyễn, không kể dì còn bỏ công nấu những món ngon, khiến cho những ngày thứ bảy của chúng tôi trở nên một ngày đặc biệt. Có lẽ, dì Út đã “phải lòng” bác Nguyễn. Tôi thầm nghĩ. So ra thì tuổi tác của hai người có phần cách biệt, vì bác Nguyễn hơn dì Út một con giáp, nhưng cũng chẳng sao, bác Nguyễn trông vẫn còn rất phong độ.

Từ nhỏ tôi thường bị dì Út rày la khi thấy tôi vòi vĩnh mẹ đủ điều hoặc đôi lúc vì giận dữ tôi xô đẩy, quăng ném bất cứ thứ gì vào người mẹ. Chính vì thế mà tôi chỉ sợ dì chứ không thương. Bây giờ lại nhìn thấy dì thân mật, vui vẻ với bác Nguyễn tôi càng không thích. Nhất là những hành động như che đậy, như tránh né khi dì luôn xếp mẹ ngồi cạnh bác Nguyễn, còn dì thì ngồi đối diện và thỉnh thoảng lại len lén nhìn bác Nguyễn như dò xét. Có lần tôi kể lại chuyện này, Tiểu Mi che miệng, cười phá lên, anh chỉ giàu tưởng tượng, và nhìn tôi như đang có điều gì vừa bí ẩn, vừa thú vị.

Tôi vẫn vô tư với suy nghĩ đó nếu không có một lần tình cờ nghe được…

- Đã đến lúc chị nên nói cho thằng Du biết.

- Chị sợ… nó không bằng lòng.

- Nó phải bằng lòng. Mười bốn năm qua chị đã sống vì con, cho con thì bây giờ chị có quyền sống cho chị. Một năm nữa nó sẽ tốt nghiệp đại học, có việc làm và có thể sẽ đi xa. Lúc đó chị thui thủi một mình vào ra hiu quạnh, nên cần có một người bên cạnh để an ủi, nương tựa lúc tuổi xế chiều. Và theo sự nhận xét của em thì anh Nguyễn là người rất đáng tin cậy.

- Chị không đoán được phản ứng của Du. Nếu không chấp nhận thì nó sẽ giận dữ và hậu quả rất khó lường. Em cũng biết tính của nó mà.

- Bởi vậy hồi nó còn bé em vẫn thường nhắc nhở chị. Nó được cưng chìu quá mức nên lúc nào cũng nghĩ đến bản thân mình, không cần biết đến ai khác. Nhưng em thấy nó rất mến anh Nguyễn. Có lẽ nó không phản đối chị bước thêm bước nữa đâu. Con Tiểu Mi cũng ủng hộ chuyện của chị và anh Nguyễn, nó hứa sẽ thuyết phục thằng Du.

Thì ra, mọi người đã toa rập nhau để dấu diếm tôi một việc rất trọng đại. Tôi thật sự nổi giận. Tôi thích bác Nguyễn nhưng không có nghĩa là đồng ý cho bác thay thế vị trí của ba tôi trong lòng mẹ. Có thể, đối với mọi người tôi là một đứa bé Việt Nam đã bị Mỹ hóa từ cách suy nghĩ cho đến cách sống. Nhưng thật ra, len lỏi trong ngỏ ngách tâm tư, tôi vẫn còn một điểm rất “lạc hậu”, đó là tôi muốn mẹ phải là một người đàn bà tiết hạnh, suốt đời thờ chồng nuôi con và sống với con cho đến hết cuộc đời như hàng chục bộ phim Tàu tôi đã xem cùng mẹ từ thuở nhỏ.

Tôi bước vào nhà, cúi đầu đi một mạch vào phòng, không chào hỏi ai một câu. Dì Út rất nhạy cảm, chỉ nhìn thoáng qua nét mặt của tôi dì đoán được tôi đã nghe tất cả cuộc đối thoại giữa mẹ và dì. Vốn có tính dứt khoát, nên rất nhanh dì gọi tôi đứng lại:

- Du, con đã nghe mẹ và Út nói chuyện rồi phải không?

Mẹ níu tay dì Út giật nhẹ, nhưng dì vẫn thản nhiên hỏi tiếp:

- Con nghĩ sao nếu mẹ con và bác Nguyễn kết hôn?

Dù tôi đã lớn nhưng “cái uy vô hình” của dì Út vẫn làm tôi nể sợ. Mặc khác, tôi cũng không muốn nghe dì giảng thuyết tràng giang đại hải về sự hy sinh vĩ đại của mẹ, về bổn phận làm con, nên nén sự bực tức, nhìn mẹ lạnh nhạt:

- Nếu mẹ cảm thấy điều đó cho mẹ niềm vui và hạnh phúc thì mẹ cứ làm.

Tôi tin rằng ánh mắt của tôi khi nói “mẹ cứ làm” sẽ làm cho mẹ “không dám làm” điều mẹ muốn. Nhưng tôi đã lầm, tình yêu của mẹ dành cho bác Nguyễn lớn hơn tôi nghĩ, nên mẹ đã nghe lời dì Út “không chìu nó nữa, ngày tháng còn lại của chị không còn dài chị phải sống cho chị”. Thế là buổi lễ ra mắt của bác Nguyễn và mẹ được quyết định cử hành sau đó khoảng một tháng. Dì Út nói, mẹ biết tôi không được vui nên không muốn tổ chức hôn lễ như bác Nguyễn đề nghị. Tiểu Mi một mặt vuốt ve tôi, một mặt ủng hộ mẹ tận tình trong những việc giúp mẹ tổ chức buổi tiệc. Nhìn nét mặt hớn hở của Tiểu Mi tôi giận căm gan. Hình như mọi người cố tình lờ đi trước phản ứng chống đối ngấm ngầm của tôi bằng khuôn mặt lầm lì, không nói, không cười. Tôi nhất định phải có thái độ kịp thời. Tôi nhất định phải giữ mẹ lại cho tôi, vì tôi không thể mất đi tình thương của mẹ, hoặc nếu còn thì cũng chỉ là một nửa.

Cơ hội đến khi bác Nguyễn tới nhà bàn tính với mẹ việc gửi thiệp mời bạn bè tham dự bữa tiệc. Hôm ấy không có mặt dì Út để la rày, cũng không có mặt Tiểu Mi để ngăn cản cơn thịnh nộ của tôi. Tôi gay gắt hỏi bác Nguyễn:

- Bây giờ người ta ào ào về Việt Nam cưới vợ trẻ mà bác nhất quyết cưới mẹ con. Có phải bác nhắm vào số tiền bảo hiểm của ba con để lại?

Câu hỏi như gáo nước sôi tạt vào mặt hai người đang hoan hỉ với niềm vui lớn lao. Mặt bác Nguyễn đỏ au vì tức giận, trong khi mẹ tròn mắt ngỡ ngàng.

- Chưa bao giờ bác nghĩ đến điều này. Bác thừa khả năng để lo cho mẹ con mà không đụng một xu nào trong số tiền đó. Bác sẽ rút tên mẹ con ra khỏi trương mục ngân hàng, chỉ để mình con đứng tên và toàn quyền trên số tiền đang có trong đó.

Tôi cười mỉa mai:

- Biết đâu… số tiền đó không còn nguyên mà đã được chuyển đi trước khi những điều bác vừa nói được thực hiện. Bác chỉ là một kẻ gian xảo, đem cái mã đẹp trai dụ dỗ đàn bà nhẹ dạ.

Bốp!!!!

Tôi bàng hoàng đưa tay vuốt má. Một điều tôi không bao giờ ngờ đã xảy ra. Mẹ tôi, người mẹ đã từng cưng tôi như trứng mỏng, chưa bao giờ mắng nhiếc một tiếng dù tôi lầm lỗi vì sợ tôi tủi thân, chưa bao giờ đánh tôi một cái dù nhẹ hều như phủi bụi. Nhưng ngày hôm nay, lần thứ nhất trong đời, bàn tay mềm mại từng cho tôi những cái vuốt ve trìu mến đã trở thành mảnh gỗ thanh mảnh mà cứng rắn tát vào mặt tôi một cái tát đau điếng. Tình yêu đã làm mẹ mù quáng. Bác Nguyễn và tôi đã được mẹ đặt lên bàn cân và đầu cân phía tôi nhẹ hẫng.

- Tại sao con có thể nói những lời hỗn hào với người đã từng cứu mạng con. Hãy mau xin lỗi bác.

Tôi bẽ bàng nhìn mẹ bằng cái nhìn đầy oán hận.

- Mẹ đừng dựa vào chuyện ân nghĩa để buộc con phải chấp nhận điều con không muốn. Con hoàn toàn phản đối mẹ kết hôn với người đàn ông này. Mẹ hãy chọn lựa đi…. giữa con và ông ta. Nếu mẹ nói rằng tình yêu này là sinh mạng, là cuộc sống của mẹ thì con sẽ bước ra khỏi nhà.

Tiểu Mi đã vào nhà tự lúc nào. Từ phía sau, Tiểu Mi lên tiếng trách móc:

- Du! đáng lẽ anh phải mừng vì mẹ đã tìm thấy hạnh phúc chứ sao lại làm khó mẹ. Bác Nguyễn sẽ là người thay thế anh để chăm sóc mẹ, nếu mai này vì công việc anh phải dời đi nơi khác. Em nghĩ, đáng lẽ anh phải cám ơn bác mới đúng. Nếu là em, em mừng còn không hết….

Tôi hét vào mặt Tiểu Mi:

- Tôi không cần ai lo cho mẹ, tự bản thân tôi sẽ làm được chuyện ấy.

- Anh có chắc là suốt cuộc đời, lúc nào anh cũng kề cận, lo lắng cho mẹ được không? còn công ăn việc làm, còn vợ con. Thú thật là em sẽ không đảm nhận nổi chuyện đó.

Tôi tức giận đến gần nổi điên:

- Ai khiến cô đảm nhận chuyện đó. Tôi có nói là sẽ cưới cô đâu. Tôi còn chưa hỏi tội cô đã toa rập với mọi người để qua mặt tôi. Cô có giỏi thì ở lại đây… tôi sẽ đi khỏi nhà này ngay tức khắc.

- Du! nghe mẹ nói.

Tôi ra cửa bằng những bước chân hậm hực, lên xe rú ga phóng đi.

Cái tự ái cao vời vợi, cái cảm giác bị bỏ rơi của đứa con trai chưa bao giờ bị mẹ làm trái ý khiến tôi trở nên hung hăng, ích kỷ. Tôi giận mẹ, giận Tiểu Mi -hai người thân yêu nhất của tôi- nên quyết định không trở lại nhà và cắt đứt mọi liên lạc. Sau đó, tôi theo thằng bạn thân đến tiểu bang Michigan, hoàn tất chương trình đại học và ba năm sau lập gia đình cùng cô bạn học người bản xứ với đôi mắt xanh lơ và mái tóc vàng óng mà lòng vẫn chưa nguôi sự giận hờn.

***

Tôi không ngừng đưa tay lau nước mắt nhưng trên khuôn mặt vẫn đầm đìa những giọt lệ tương phùng. Một cuộc tương phùng thật oái ăm, đau đớn.

Người đàn bà ngồi trên sofa vẫn xinh đẹp với nụ cười hiền lành, phúc hậu như ngày nào, nhưng những lời nói ra thật ngây ngô như xé nát trái tim đứa con hoang đàng.

- Anh biết thằng Du ở đâu không? đi kiếm nó đi, biểu nó về cho em gặp một chút.

Tôi mếu máo, nói trong tiếng khóc

- Mẹ ơi! con là Du đây.

- Nói láo. Em không có ngu đâu, đừng xí gạt em.

Tôi cầm bàn tay trắng muốt, nổi đầy gân xanh của mẹ, rồi nhìn Tiểu Mi. Tội nghiệp, người con gái tôi yêu ngày xưa vẫn kiên trì ở bên cạnh mẹ từ lúc tôi bỏ đi và bà bị rơi vào căn bệnh mất trí nhớ. Tiểu Mi đã nhờ bạn bè và tìm đủ cách để liên lạc với tôi, nhưng vô ích. Tôi đã quyết tâm quay lưng với quá khứ, mắt nhìn thẳng về phía trước để bước đến tương lai mà không cần biết đến sự đau khổ tuyệt vọng của mẹ, của người tình mà tôi đã từng nghĩ rằng suốt đời chúng tôi sẽ mãi mãi bên nhau. Tại sao tôi có thể lạnh lùng đến vô tâm như vậy? Nếu không có giấc mơ kinh hoàng đêm hôm trước tôi sẽ không bao giờ có ý định trở về. Trong giấc mơ, tôi thấy thân thể mẹ đầm đìa máu, dáo dác, hoảng loạn, ngã xuống hố, tuột xuống đồi, chới với giữa biển khơi với những ngọn sóng cao đen ngòm, miệng hớt hãi gọi tên tôi “Du ơi! con đâu rồi. Chúa ơi! xin giúp con tìm được con của con”. Tôi tỉnh dậy, cả người ướt đẫm mồ hôi. Ý nghĩ “trở về” bỗng thôi thúc một cách kỳ lạ.

Tôi khẽ khàng hỏi Tiểu Mi:

- Mẹ bị bệnh từ lúc nào?

- Hai năm sau khi anh đi… Anh đi rồi mẹ nhờ người thay ổ khóa, khóa chặt cánh cửa, không cho ai lui tới, cĩng không bắt điện thoại. Cái mặc cảm “không xứng đáng làm mẹ” đã không ngừng ám ảnh mẹ. Cho đến một ngày mẹ gọi em và từ đó em thường xuyên đến với mẹ. Nhưng chỉ một mình em thôi. Bác Nguyễn và dì Út đều bị mẹ từ chối, không gặp mặt. Rồi dần dần em nhận ra mẹ bắt đầu nói năng lộn xộn, ngớ ngẩn, chuyện này quàng qua chuyện nọ. Một năm sau, khi bố qua đời, em dọn về đây ở hẳn với mẹ. Nhờ hãng cho em làm việc tại nhà nên em có thể vừa làm, vừa chăm sóc mẹ… Gần đây mẹ hoàn toàn không nhận ra em, nhưng luôn miệng nhắc đến anh. Được cái mẹ vẫn ăn được, ngủ được nên sức khỏe khá tốt.

Tôi cúi đầu lí nhí trong cổ họng:

- Anh mang ơn em suốt đời và cũng ân hận suốt đời vì những nông nổi sai lầm của mình.

- Thôi bỏ đi anh, chuyện đã qua rồi. Anh trở về đây là điều đáng mừng… em mừng lắm. Anh sẽ ở lại đây luôn phải không?

- Anh còn công việc, còn quá nhiều chuyện…

Tôi không dám nói với Tiểu Mi rằng tôi đã có vợ và đứa con trai một tuổi.

Ngày tôi bỏ Tiểu Mi để ra đi khi cuộc tình đang lúc mặn nồng đã là một sự tàn nhẫn. Bây giờ, nếu Tiểu Mi biết rằng trong lúc nàng vất vả, cực nhọc để thay tôi săn sóc người mẹ bệnh hoạn thì tôi hân hoan cặp tay một người con gái khác bước vào tiệc cưới lộng lẫy và vô tư hưởng niềm hạnh phúc mới, thì đó là một sự nhẫn tâm không bao giờ có thể tha thứ được.

Tôi vòng tay ôm cổ mẹ, dúi đầu vào ngực mẹ như thuở bé thơ. Nhớ lại câu nói của dì Út ngày nào “Rồi chị sẽ khổ vì nó!” mà lòng tôi dâng đầy niềm ân hận. Mẹ ơi! tôi thút thít khóc, mẹ vỗ đầu tôi, nói “nín đi con, mẹ thương con, mẹ thương con nhất trên đời”. Câu nói thật dịu dàng, thật ngọt ngào, nhưng đôi mắt mẹ hoàn toàn vô cảm. Trái tim tôi như có ngàn mũi kim châm. Tôi biết rằng, dù có nói ngàn câu xin lỗi mẹ cũng sẽ không bao giờ hiểu được nỗi xót xa, ân hận đang nặng trĩu trong lòng tôi!!!!

Ngân Bình

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jul/2016 lúc 9:14am

Chim Sa Xuống Đất


                                            

     Năm tôi vào lớp đệ tam, cũng là lúc anh hai vừa thụ huấn xong khóa học bay ở Mỹ về. Bạn mới còn bỡ ngỡ chưa quen, bạn cũ tản mác các phân ban khác, chỉ có tôi và nhỏ Liên  “văn hay chữ tốt”  theo ban C, ôm ấp mộng làm … zăn sĩ. Nhỏ này  “chế”  thơ tình rất hay, dù nó chưa có mảnh tình nào… vắt vai.

     Khi biết tôi có ông anh là  Pilot,  “cọng giá”  của tôi vươn cao hẳn. Mấy đứa bạn vừa quen bỗng trở nên thân thiết lạ lùng. Chiều nào tan trường về  tôi cũng được rủ đi ăn hàng vặt ở mấy xe gỏi khô bò, chúng nó thay phiên nhau đãi đằng, chưa kể lúc ngồi trong lớp ăn vụng me dốt me ngào, cóc ổi nhai mỏi miệng. Tôi biết tỏng ý đồ của chúng, trong mắt … tai mũi họng của tụi nó bây giờ chỉ có  “ngài”  Pilot nhà tôi là sáng giá. Mấy anh chàng Võ Trường Toản quần xanh áo trắng làm sao cân sức được với chiếc áo bay của Pilot, nên đành ngậm ngùi hát: “ anh có theo hàng trăm cây số, em vẫn không thèm quen anh đó….”

     Ăn “chùa” mãi cũng kỳ. Vả lại tôi phân vân không biết chọn đứa nào trong cái đám  quỷ cô nương nhí nhố này để… gá nghĩa cho anh hai, nên đành tiếc rẻ từ chối bớt những “cuộc vui”. Chỉ giữ lại một nhỏ Liên làm “thân chủ”,  dù sao nó cũng là bạn lâu năm từ hồi đệ nhất cấp, lại hiền lành nhu mì,  sau này có  “tiến thân” làm… chị dâu của tôi cũng được, đỡ lo anh hai vớ phải một bà chằng đem về áp đảo con em, vì thế  tôi lên kế hoạch “gài” nó cho chàng  anh.

     Anh tôi lọt vô được Không Quân vì chiều cao thuyết phục và sức khoẻ tràn trề chứ diện mạo chàng hơi… xí, nói tế nhị hơn là không đẹp trai mấy, khác xa  lời đồn thổi về huyền thoại KQ : ”không đẹp trai, không phải Pilot”.

     Chàng hiền lành và còn hơi “cù lần lửa”, dù đã được mấy bậc niên trưởng tận tình chỉ vẽ cho nhiều chiêu bay bướm, nhưng xem ra không cải thiện được phong cách chàng là mấy. Vậy mà bạn tôi, nhỏ Liên xinh xắn, thùy mị, mảnh mai và… thấp thấp đúng model  “người em bé nhỏ”, say tình chàng quá Trời! …Từ sau ngày gặp gỡ anh, mồm nó lúc nào cũng lẩm bẩm bài  “Tuyết Trắng” như thầy pháp niệm chú. Mặt mày ngơ ngẩn như người mất  tiền, cố…. rặn mấy vần thơ. Nó còn siêng năng chăm chỉ học nữ công, (lúc trước nó thường rủ tôi coupe giờ này) tập thêu thùa. Nó thêu đôi chim liền cánh, đôi trái tim lồng vào nhau, đôi bông hồng đỏ thắm, chờ cơ hội tặng chàng anh hai. Tôi thương cảm quá, hỏi một câu… lãng xẹt:

- Ảnh… có gì đâu mà bà khoái dữ dzậy?

Nó cười lỏn lẻn.

- Tui thích cái… tướng mặc đồ bay của ảnh và giọng… Bắc kỳ ngọt lịm.

Trời mẹ ơi!!!…Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Tôi cũng là  “cô em Bắc kỳ nho nhỏ” đây, sao không thấy ai khen tôi có giọng “ngọt lịm”???

Chờ anh  ‘dù” về nhà, tôi phỏng vấn chàng.

- Anh hai thấy bạn em thế nào?

Chàng ngơ ngác.

- Thấy gì… bạn nào?

Tôi thất vọng.

- Chời ơi!… nhỏ Liên hôm bữa anh gặp đó, anh thấy nó thế nào?

Chàng ngớ ngẩn.

- Anh… có thấy gì đâu, bạn em bị gì à?

Tới phiên tôi ngớ ngẩn.

- Anh không thấy gì thật sao!? Anh không thích nó à!? Anh không muốn có người yêu à!?

Tôi hỏi một hơi “anh… không à” làm chàng càng… không hiểu.

- Sao em hỏi nhiều thế, bạn em thì mắc gì tới anh?

     Nhỏ Liên không lọt được vô mắt anh tôi. Chàng anh “cù lần lửa” vậy mà quá lạnh lùng, tim cứng như cục sắt!

     Chờ đợi khá lâu, không thấy tôi đem lại tin tức tốt lành hay một cuộc hẹn hò nào. Nó chán nản quay sang làm “em gái hậu phương”, viết thư cho các anh ”thiên thần” mũ đỏ, “cọp biển” mũ xanh, mũ nâu ngoài tiền tuyến, không thèm mơ tưởng đến chàng Pilot nhà tôi nữa.

     Ngày  “giải phóng” anh đang ôm chiếc trực thăng, có thể vù một mạch đến Thái Lan, nhưng không nỡ bỏ mẹ và tôi, nên đành ở lại. Mẹ bắt anh trốn ở vùng biển Phước Tỉnh, nơi có người quen làm dân chài, để mặc cho mẹ đối phó với “bộ đội giải phóng” dai dẳng hạch hỏi: thằng giặc lái trốn đâu rồi?

     Nhờ diện mạo hơi xấu, đen nên anh sống lẫn với dân ngư phủ an toàn và có cơ may vượt biên bình an tới đảo Bi đông. Tại đây anh bất ngờ gặp lại Liên, nó mừng rỡ nhận ra anh, anh cũng vui mừng không kém, vì bơ vơ nơi xứ lạ đất  người, tâm trạng hoang mang chao đảo. Liên trở thành người thân, vì là bạn của em gái mình.

     Gần gũi hằng ngày khiến hai người yêu nhau thắm thiết và làm đám cưới ngay trên đảo. Mẹ và tôi vui mừng khôn xiết, từ nay nơi xứ lạ, anh tôi có người thương yêu sớm hôm cận kề chăm sóc. Quả là trời già nên mắt kém. Rõ ràng hai ngườì có tên trong sổ nhân duyên, lần trước chắc “cụ” quên đeo kiếng nên không thấy, suýt chút nữa làm lỡ làng mối duyên tốt lành này.

Sau gần chục năm định cư ở Mỹ, anh lãnh mẹ tôi sang. Tôi ở lại vì kẹt chồng con. Những cuộc điện đàm viễn liên với mẹ, thỉnh thoảng nghe tiếng mẹ thở  dài. Tôi băn khoăn hỏi:

- Mẹ ở bển có vui không?

Mẹ ngập ngừng.

- Vui… vui mà cũng… buồn, anh con… nể vợ quá.

- Nể là sao mẹ?

Mẹ nói nhanh.

- Nể là… nể, thôi con đừng hỏi nhiều.

Tôi hời hợt mau quên nên không nhớ đến chuyện này nữa!

      Thời gian lại trôi qua mấy chục năm. Vợ chồng anh không một lần về thăm VN. Tôi có đứa con gái lớn lấy chồng Việt kiều, may mắn ở cùng tiểu bang với anh, khi vừa có điều kiện, nó vội bảo lãnh tôi ngay. Tôi muốn ở gần nhà  anh để  “chạy qua chạy lại” cho vui và gần mẹ. Ngày đầu tiên gặp lại con bạn cũ mà cũng là chị dâu, sau ba mươi mấy năm cách biệt, tôi bị choáng….

     Ôi thời gian!!! ... Thời gian là liều thuốc nhiệm mầu chữa lành những vết thương lòng đau đớn, nhưng cũng là liều cực độc hủy diệt tàn bạo dung nhan, vóc dáng con người. Bạn tôi ngày xưa xinh xắn, nhỏ bé, yêu kiều là vậy. Nay trở thành một bà béo bệu bạo! Ngồi thừ trên sofa với nét mặt lạnh tanh, nhìn nó tôi ngán ăn… mỡ  suốt đời.

     Thời gian và hoàn cảnh làm thay đổi mọi thứ. Ngày xưa tôi với nó thân thiết như chị em ruột, chia nhau từng viên xí muội, miếng ổi chát, miếng cóc chua, kể lể với nhau những mẩu tâm sự vụn vặt ngây ngô thời mới lớn, vậy mà bây giờ nó nhìn tôi như người xa lạ. Cám ơn trời! nếu không bị kẹt lại ở nước VN nghèo đói khốn khổ mấy chục năm, chắc giờ này tôi cũng  to “bành trướng đế quốc Mỹ” và  tâm hồn lạnh lẽo như nó.

     Vì ở gần, hay chạy qua nhà anh, tôi mới hiểu được tiếng thở dài và câu nói ngập ngừng của mẹ ngày trước. Không biết từ lúc nào, bạn tôi đã tân dụng cái ưu thế  “lady first”  của nước Mỹ văn minh, yêu chuộng phụ nữ. Từ một người con gái dịu dàng thùy mị, nó thay đổi thành một  ‘’lady”  lắm mồm, riết rng. Mọi việc trong ngoài, một mình nó quyết định, anh tôi chỉ là người thừa hành, kiêm nội trợ, chờ lệnh sai phái. Anh đã trở thành một người hoàn toàn khác.

      Ngày xưa anh tuy hơi  “cù lần” nhưng cũng có phong độ nam nhi. Oai hùng liệng cánh trên những trận địa, làm quân thù khiếp hãi. Bạn bè đồng đội thương mến vì tính hiền và nụ cười luôn nở trên môi. Bây giờ nụ cười trở nên hiếm hoi trên khuôn mặt đăm chiêu nhẫn nhục. Anh chiụ đựng sự càm ràm ca cẩm của vợ riết thành quen. Nó xéo xắt anh vì cái tội nó… mập, rồi ghen tuông vu vơ với những người không mập như nó. Có lần tôi ái ngại hỏi:

- Chị cứ than mập hoài mà sao không chịu khó tập thể dục? (không biết từ lúc nào tôi lễ phép gọi nó bằng chị)

Liền bị nó lườm cho một cái dài ngoằng.

- Dào ơi!… cô khéo vẽ chuyện, tôi làm gì có thì giờ mà tập với chả… họp.

- Chị cứ để thân hình… tròn trịa thế này, rồi cuối tuần lại đi chơi với bạn, mặc kệ anh ở nhà một mình, không sợ ảnh có… người khác sao?

Nó nhìn tôi như nhìn sinh vật lạ, cười rung mấy thớ thịt dưới cằm.

- Xời… cô cứ đùa?  Cho kẹo lão cũng không dám.

- Sao chị tự tin thế?

Nó cao giọng ngạo nghễ.

- Chị… mày có tình báo khắp nơi, lão hó hé là chết ngay.

     Tôi phục nó sát đất, phục luôn cả nước Mỹ nữa. Nước Mỹ giỏi thật, đào luyện được những người phụ nữ  VN  ngày xưa hiền lành dịu dàng, giờ trở nên  “thần thông quảng đại, hô phong hoán vũ” như ngày nay.

     Những lúc cuối tuần rảnh rỗi, anh tha thẩn ra vườn chăm sóc, cắt tỉa mấy khóm hoa, nhổ mấy cây cỏ dại, ngắm vài con chim bay lên cành xào xạc, lượm nhặt những chiếc ly nhựa, ống hút, giấy kẹo mà vợ con, bà cháu xả ra bừa bãi. Cặm cụi cần mẫn. Hình như những lúc đó tôi mới thấy anh vui, nét mặt tươi, thỉnh thoảng cười mỉm một mình, nụ cười không bao giờ thấy ở trong nhà, bên cạnh nó. Tôi thắc mắc quá, tra gạn.

- Anh có gì vui mà cười một mình vậy?

Anh chối phắt.

- Đâu có gì.

- Mình chỉ có hai anh em với nhau mà anh không tin em sao, nói cho em nghe với.

- À… à, anh coi sách báo, đọc truyện ngắn  truyện dài, có những chuyện vui vui, nhớ lại buồn cười thôi mà.

Tôi không tin, nhưng không tra gạn nữa, hỏi một điều để mãi trong lòng, lâu nay chưa có dịp:

- Em thấy nó  quát nạt, ăn hiếp anh quá trời mà sao anh không nói gì?

- Anh nhịn cho rồi, khỏi ầm nhà, có nói cũng không lại bả!

Tôi xót xa.

- Anh sống vậy không thấy buồn sao?

Giọng anh chùng xuống, buông xuôi.

- Buồn hay vui cũng vậy thôi, rồi cũng qua ngày.

Tôi đau nhói trong lòng, tiếp tục khai thác tâm tư ông anh thân yêu.

- Có bao giờ anh nghĩ đến chuyện… ly dị không?

Anh khẽ lắc đầu.

- Không em ạ… âu cũng là số phận! Với lại anh quen rồi, cũng chẳng có gì ghê gớm lắm.

     Một lần nữa tôi lăn ra đất phục ông anh, như đã từng phục chị dâu. Lại cũng câu nói: Ôi!!! nuớc Mỹ giỏi quá, tôi luyện được những chàng trai kiêu hùng, một thời tung mây lướt gió, oai phong oai dũng ngày xưa, trở nên những ông chồng nhẫn nhục, cam chịu ngày nay.

 Không Quân có khẩu hiệu: không bỏ bạn bè…

 Bây giờ có thêm vế sau: không care vợ … dữ.

 

Hoàng T Thanh Nga 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Jul/2016 lúc 9:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2016 lúc 11:52am

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Jul/2016 lúc 11:31am

Tình Láng Giềng


 

Thím Hai Phấn kêu lớn:
- Mót ơi… Mót! Bầy dê của mầy phá tiêu bụi chuối già hương cùa bà Năm Trầu rồi kìa, ở đó mà ngủ kình với con heo nái đi nha.
Bà Năm Trầu đang tưới mấy giồng lang, thấy bầy dê của con Mót bu quanh bụi chuối già, bà quăng thùng vòi sen vào bầy dê, làm mấy con dê chạy tứ tung, bà chửi đỏng:
- Bớ ông Thần Hoàng, sao không vật mấy con dê này chết hết cho rồi, đồ âm binh, dê gì mà phá còn hơn quỉ sa tăng, chuối mới trồng chưa bén rể đã nhổ lên hết rồi. Mót ơi! mầy mà không trồng lại mấy bụi chuối này cho tao thì……..
Mót bước ra khỏi cửa nhìn dáo dác:


- Chuyện gì mà rùm beng vậy bà Năm.
Thấy Mót, bà Năm tức giận chỉ vào mấy bụi chuối:
- Khôn hồn thì mau mau trồng chuối lại cho tao, mầy mà không giữ mấy con dê cô hồn này thì có ngày tao thuốc bầy dê mầy không còn một con để làm giống.
- Chỉ vì mấy bụi chuối mà bà đòi thuốc bầy dê tui chết, bà ác quá, bởi vậy sách có câu: “Cây độc không trái, gái độc không con”.
Bà Năm sấn tới, chỉ vào mặt con Mót:
- Cái thứ dốt mà bày đặt nói chuyện sách vở, tao không con, nhưng tao còn có một tấm chồng để hủ hỉ, còn chị em mầy, đứa thì bị chồng bỏ, đứa thì ế chồng, chẳng có ma nào ngó tới, còn chưa biết rầu nữa, ở đó mà … mà huênh hoang.
Mót cười khẩy:
- Nè, bà có thấy cái mả nào không chồng mà chết hôn, bà chỉ tui coi, không chồng thì có sao đâu, không chồng tui vẫn sống nhăn răng. Vậy có chồng như bà tối ngày rượu chè be bét, say sỉn ăn nói nghêu ngao giống như đồ khùng, có chồng như vậy chẳng thà ở giá coi bộ sướng hơn.
Bà Năm Trầu trợn mắt:
- Ê, dám ăn nói hổn hào hả ? Mầy coi chừng tao à.
- Bà già rồi, đâu phải còn nhỏ nhoi gì nữa mà biểu tui coi chừng bà.
- Đồ súc vật. Bà Năm ngoe nguẩy bỏ đi.
Mót trả đủa:
- Người ta mà nói chuyện với súc vật thì cũng đâu phải là người ta.
Nói xong, Mót cười khoái chí rồi đi ra lu múc nước rửa mặt, đưa tay áo lên lau mặt nó lẩm bẩm:
- Thôi, mình mang cuốc ra trồng lại cho bả mấy bụi chuối, mình cũng có lỗi là ngủ quên không dòm ngó bầy dê để nó đi quậy phá lung tung. 

 


Mót chạy vào nhà vác cuốc ra trồng lại mấy bụi chuối cho bà Năm Trầu, nắng gay gắt, mồ hôi ướt đẩm lưng áo của Mót, nó hì hục đào từng cụm đất, xong rồi đi gom lại mấy cây chuối con mà bầy dê quăng tứ tung, đặt lại cây chuối xuống đất, rồi cuốc đất lấp vòng vòng chân chuối, cũng phải mất hết nửa tiếng đồng hồ mới trồng xong. Mót mang cuốc ra bờ kinh mà rửa. Buổi trưa con nước đứng, đoạn kinh này nhiều phèn nên mặt nước trong veo. Mót nhìn xuống thấy bóng mình lung linh trong nước, nó cảm thấy già đi rất nhiều, tuy cái nhan sắc không được mặn mà gì cho lắm, nhưng nhờ ăn nói có duyên, nó cũng có một mối tình, nhưng người yêu của nó đã ra đi biền biệt, sau cuộc chia tay đầy nước mắt ở bến phà Rạch Miễu. Hơn mười năm rồi, Mót không có tin tức gì về người yêu của nó, không biết mối tình thầm lặng đó bao giờ mới biến khỏi cuộc đời của Mót. Hình ảnh người thanh niên đứng trên bến phà có đôi mắt buồn dịu vợi, đã ám ảnh Mót trong suốt thời gian qua, dáng dấp lẫn nụ cười của người tình thuở ấy đến bây giờ vẫn chưa phai mờ trong tâm trí Mót.



Đưa tay kéo nhánh bình bát nằm dọc mé kinh, hái một trái còn xanh tươi quăng cái đùng xuống mặt nước phẳng lặng, Mót nhủ thầm: phải gợn sóng đi chứ, sao cuộc đời cứ bình lặng như vầy hoài chán chết, sáng giữ dê, chiều chăn vịt, tối đong đưa trên võng hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ. Giọng ca khàn khàn như con ngổng đực, nhưng vẫn phải ca cho đở buồn, nhất là những đêm ba mươi tối trời, mưa rỉ rả, ếch nhái, ảnh ương kêu nghe rầu đứt ruột, ngày này qua ngày nọ, năm này qua năm nọ, sáng chiều ở ngoài đồng dãi nắng dầm mưa riết rồi nhìn bộ dạng mình y hệt bà già háp. Mót nghe buồn buồn tủi tủi, thời gian đi qua, đi qua mau đến lúc này nhìn xuống dòng nước trong suốt, Mót thấy mình không còn xuân sắc nữa, vài giọt nước mắt lóng lánh chảy dài xuống đôi gò má giữa trưa hè, gió vi vu thổi nhẹ như mơn trớn, như an ủi cho số phận của cô thôn n
lỡ thì. Mót đứng dậy bước về nhà với tiếng thở dài não nuột cùng lúc với tiếng gà gọi trưa bên sông.
Sáng sớm, mặt trời vừa lố dạng ở đằng đông, thím Hai Phấn qua nhà Mót mượn cây sào về hái bông so đủa.


- Mót ơi! cho Thím mượn cây sào một chút.
Mót đang nấu nước pha trà, nói vọng ra cửa:
- Dạ, cây sào con gát ở gốc cây chùm ruột đó Thím Hai, hôm nay Thím nấu canh chua bông so đủa hả.
Thím Hai Phấn vừa vói lấy cây sào vừa trả lời con Mót:
- Hồi hôm chú Hai mầy giăng lưới bén được mấy con cá rô, ổng nói thèm canh chua bông so đủa, cho nên Thím đi hái bông về nấu cho ổng ăn đây.


Mót nhanh nhẩu:
- Thím cho con ké một tô canh nha, mà Thím nhớ cho me nhiều nhiều ăn chua mới ngon, hôm đó Thím nấu canh hổng có chua, ăn chán thấy mồ tổ.
- Ừ, bây thì khỏi nói rồi, ăn chua có tiếng ở xóm này mà.



Mót cười rồi mở cửa đi ra chòi vịt ngó Thím Hai hỏi:
- Thím thấy bầy vịt của con lớn hôn?
- Lớn thấy r
õ luôn. Thím Hai vừa ngó vịt vừa nói.
- Chiều qua, ruộng của chú Sáu Lục mần lúa, con thấy lúa đổ tháo quá trời, con lùa bầy vịt này qua đó cho nó ăn.
- Bây nhớ đừng để vịt chạy qua ruộng của bà Năm Trầu, bả chửi nữa đó.
- Bộ Thím sợ bà phù thủy đó lắm sao?
- Bây đáng con cháu bả, nhịn một chút không được sao.
Nói rồi, Thím Hai vác sào ra thẳng bờ kinh có hàng so đủa mà chú Hai trồng mấy năm trước. Mót mở cửa chuồng cho vịt ra ngoài, rồi lùa dần đến ruộng của chú Sáu đã làm xong lúa hồi chiều qua, rơm rạ còn nằm ngổn ngang, bầy vịt thấy lúa là lao tới ăn lấy ăn để, con Mót đứng ở mé ruộng của bà Năm để chận bầy vịt không cho chạy qua, đám nếp của bà Năm trúng quá cở, bông nặng oằn. Nhìn ruộng nếp, Mót nhớ tới Hai Lượm, chị của nó, gia đình có hai chị em mà mỗi người một nơi. Chị Lượm giờ này chắc đi làm rồi, ở đây buổi sáng, bên Mỹ là tối, chỉ nói làm ca hai, ở hãng kiếng nào đó, ai biết đâu. Tết năm nay hổng biết có về không, chỉ thích ăn bánh tét nhưn chuối lắm, chỉ mà thấy đám nếp này là mê tít luôn. Đang nghĩ ngợi thì bầy vịt tàu dợm chạy qua ruộng bà Năm, Mót đưa cây sào chận lại, có một con vịt phóng được qua mé ruộng, bà Năm vừa đi tới thấy vậy la bài hải:
- Ăn hết nếp của tao đi, rồi bán đất đền cho tao nha.
Mót chạy đuổi con vịt trở lại ruộng, vừa thở vừa nói:
- Hai công nếp quỉ này bao nhiêu tiền mà bà kêu tui bán đất, mà vịt của tui đã ăn được hột nào chưa?
- Tao mà không ra kịp là bầy âm binh này nuốt hết rồi,
- Thí tỷ bầy vịt có ăn hết nếp của bà, tui cũng kêu chị Hai Lượm gởi tiền đô về đền chớ mắc gì phải bán đất để trả ba cái lẻ tẻ này.
Bà Năm Trầu bỉu môi:
- Ối! bộ mày tưởng hai công nếp của tao ít tiền lắm hả? Mầy làm như tiền đô của con Lượm ngon lắm.
- Không ngon gì, mà có người cả đời chưa cầm được một đồng đô-la.
- Xí, con Lượm ở bên Mỹ nó làm cu li thấy mồ tổ, chớ có làm thầy bà gì mà mầy huênh hoang.
- Kệ, làm gì cũng được, miễn tui có tiền đô xài được rồi, còn hơn bà không có.
- Hứ, tao cóc thèm.
- Không cóc thèm cũng chẳng có.
Bà Năm liếc Mót có n
a con mắt rồi đi vòng vòng ruộng kiểm tra nếp coi có bị vịt ăn chỗ nào không. Mót không thèm để ý, nó ngồi chờ cho bầy vịt ăn no lúa đổ đồng rồi lùa về nhà.
 
 
Xế trưa, Thím Hai bưng qua cho Mót một tô canh chua còn nóng hổi, thấy Mót đang lui cui cuốc đất, thím nói lớn:
- Mót ơi! vô ăn cơm đi có canh chua nè, bây cuốc đất trồng gì vậy?
Mót ngừng cuốc ngó lên:
- Con đang trồng mấy cây bông cúc vàng cho kịp Tết.
- Bây kiếm giống cúc này ở đâu mà trồng nhiều quá vậy? Trồng xong có dư cho Thím ít cây.
- Dạ, con xin giống này của cô giáo Hạ Liên ở Bến Tre đó Thím, chị Hai Lượm thích bông cúc vàng lắm, con trồng để coi Tết này chỉ có về thăm nhà không.
Thím Hai hỏi:
- Sao bây biết nó thích bông này.
-Dạ, chị Lượm kể ở bên Mỹ, gần nhà chỉ có vợ chồng anh Mạnh nào đó, trồng bông cúc vàng trước sân đẹp lắm, chắc anh đó có tay trồng bông, mỗi lần đi ngang nhà chỉ cũng ngó mấy hàng bông mà ngắm nghía, chỉ còn nói ở bên đó, nhiều nhà trồng đủ thứ bông, nên ngó không có hấp dẩn, chỉ có nhà anh Mạnh trồng một thứ cúc vàng nên chỉ khoái ngó lắm.
Mót lấy khăn lau mồ hôi trán tuôn dầm dề trên mặt, rồi kéo tay Thím Hai:
- Thím cháu mình ngồi xuống nói chuyện, đứng hoài mỏi chân, Thím biết hôn, có bữa chị Lượm làm gan xin hai cây về để giống, anh Mạnh lắc đầu không cho, chỉ mắc cở quá, nhưng rồi anh đó nói:
- Tôi không cho…. hai cây, mà cho bốn cây.
Chỉ mắc cười, hú hồn, xém chút nữa là quê một cục. Bà Lượm coi vậy chớ nhát lắm Thím ơi. - Con Lượm trồng cây me này trước khi đi Mỹ, nó thích ăn me chín ướp đường lắm, hổng biết bên Mỹ có me cho nó ăn hôn.
- Tánh của chỉ hay hờn mát lắm, đụng một chút là khóc, giống con nít ghê đi.
- Hổng biết ở bển nó có quen với ai chưa, Thím cũng mong cho nó có chồng hạnh phúc với người ta.
Mót cười chúm chím:
- Con cũng nghe nói chị Lượm với anh Điệp nào đó quen nhau.
Thím Hai quay lại:
- Vậy hả? Thằng đó được hôn?
- Chỉ nói anh Điệp đó cũng được, hiền nhưng hơi khó tánh.
Thím Hai lấy nón lá quạt nhè nhẹ, trời nóng bức, vài con cóc nhảy quanh cái lu kê sát con rạch nhỏ, mấy con cá thòi lòi lội bì bỏm dưới nước, có con rượt đuổi nhau len lỏi vào mấy bụi ô rô cốc kèn, chợt Thím Hai thở dài nói nhỏ:
- Mót à, con với bà Năm đừng có gay cấn nữa, chòm xóm với nhau ra vào gặp mặt mà như trâu trắng với trâu đen là không được, chòm xóm coi vậy mà quan trọng lắm, khi tối lửa tắt đèn có nhau, bịnh hoạn, đám cưới, đám tiệc, đám ma chay gì cũng nhờ chòm xóm phụ giúp, vả lại bà Năm đáng tuổi ông bà, con phải biết kính lão mới đắc thọ chứ.
Mót trầm ngâm:
- Con cũng biết vậy, nhưng tại bả già mà không nên nết, hôm đó mắt con bị đau, con lên chợ mua cái kiếng mát về đeo để tránh nắng, lúc về ngang nhà bả, con nghe bả nói với ông Hai:
- Ông ơi! ra đây coi, hôm nay nước lớn thòi lòi lên bờ.
Thím Hai cười sặc sụa, Mót nói tiếp:
- Thím coi đó, ý bả nói con đeo kiếng giống con cá thòi lòi, hai con mắt lòi ra ngoài, thiệt tức hết sức.
- Chắc bây đi cái kiểu cà nghinh, cà bật chớ gì.
- Đâu có, con đi bình thường chớ có nghinh bật gì đâu.
- Thôi con đừng có để ý đến bả nữa.
- Không để ý cũng chẳng được, hồi sáng cái tàu lá dừa khô bên đây rớt xuống, nằm vắt ngang hàng ranh nhà bả, con thấy bả kéo qua bên đó luôn, con chạy qua đòi lại, bả chửi con.
- Bả chửi sao? Thím Hai hỏi.
- Bả chửi cái thứ vừa mập,vừa lùn, vừa xấu ỉn, hổng biết thân mà còn ích kỷ. Con dù mập, lùn, xấu nhưng con đâu có ăn hết của bả đâu mà bả chửi con.
- Con đừng có ăn nói hổn hào mà mang tội, quan trọng gì cái tàu lá dừa, con phải biết “dĩ hòa vi quý” đi, một câu nhịn chín câu lành, chòm xóm với nhau mà gút mắt làm chi.
- Bả còn chê tên của tụi con xấu, tại hồi đó tía má đẻ tụi con ra xấu háy, èo uột khó nuôi nên mới đặt tên như vậy, bả tên Trầu cũng xấu hoắc, có đẹp đẽ gì đâu mà chê người ta.
Thím Hai khoác tay ra dấu biểu con Mót im lặng.
- Bây nhóng coi, tao nghe dường như có tiếng la ở trong nhà bà Năm kìa.
Mót nhìn lên thấy ngọn lửa bốc khói từ chái bếp, bà Năm chạy ra ngoài la làng, nhanh như sóc, Mót phóng tới chụp cái thùng thiếc để cạnh bờ ao, nó khum xuống múc nước tạt lia lịa vào ngọn lửa đang lên cao. Bà Năm và Thím Hai lo mang đồ đạc chạy ra ngoài, nhờ những thùng nước của Mót mà ngọn lửa hạ dần, hạ dần rồi tắt hẳn. Mồ hôi ướt đẩm lưng áo, Mót mệt nhọc ngồi xuống gốc bình bát mà thở, bà Năm thấy vậy kêu lên:
- Mót, con mệt lắm rồi đó, vô nhà nằm nghỉ đi con.
- Không sao đâu, ngồi nghỉ một chút hết mệt rồi con phụ dọn dẹp cho bà. Mót thấy mát lòng khi nghe bà gọi nó tiếng “con” ngọt ngào, sự mệt mỏi tan biến nhanh chóng, nó vụt đứng dậy chạy vô nhà làm đủ mọi thứ, cuối cùng đâu vào đấy, gọn gàng, sạch sẽ. Thím Hai cười nói với bà Năm:
- Tui với bà làm nãy giờ không bằng con Mót làm một lát.

 

 
Bà Năm nhìn Mót với ánh mắt trìu mến rồi đến gần nó, bà đưa tay vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán. Mót thấy bóng dáng người mẹ hiền đến bên con an ủi, vỗ về, chia s, nó nghe yêu thương nồng ấm khi bà Năm choàng tay ôm vai nó nói:
- Nếu hôm nay mà không có con thì nhà bà kể như ra tro rồi.
Mót nắm tay bà Năm xoa bóp nhè nhẹ:
- Nếu năm ngoái mà không nhờ bà cạo gió khi bắt gặp con nằm ngay đơ ở chòi vịt, thì bây giờ con đã ra ma rồi.
Bà Năm cười :
- Nếu mấy tháng trước mà không nhờ con mau mắn chở đứa cháu dâu bà đi nhà bảo sanh thì nó đã đẻ dọc đường rồi.
Thím Hai xen vào:
-Tui nghe con Lượm nói ở bên Mỹ hiếm có tình láng giềng lắm.Vậy tại sao mình có mà mình không quý nó..
Bà Năm vỗ đầu Mót:
- Con à, tình láng giềng là đây.
Nói rồi bà ôm Mót vào lòng. Mót nghe vị mặn trên bờ môi mình cùng với những giọt nước mắt hối hận của bà Năm lăn dài trên má, Thím Hai ngồi trên võng cười tủm tỉm, đâu đó có tiếng bìm bịp kêu con nước lớn ròng….
 
Lợi Trân


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Jul/2016 lúc 1:01pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Aug/2016 lúc 9:33am

Anh Em Bạn Rể


Làng Mỹ Lương nằm uốn quanh dọc theo hai bờ sông dài. Sông nầy nếu đi qua vùng nào thì lấy tên làng đó. Có khúc gọi là sông Cổ Cò, có khúc tên là sông Ông Mẻ, có khúc tên là sông Hòa Lộc. Dòng sông dài không biết bắt nguồn từ đâu, nhưng chảy qua các tỉnh xa xôi sát biên giới Việt Miên, Châu Đốc, Cao Lãnh, Đồng Tháp… chảy qua nhiều nhánh rẽ kinh, rạch… Rồi vào địa phận làng Mỹ Lương. Dòng nước nầy còn chảy ngang qua sông Mỹ Đông (chợ Cái Thia) rồi nhập vào nhánh Tiền Giang của dòng Cửu Long chảy ra biển...

Nhờ phù sa theo nước lớn chảy vào bồi đắp hai bên bờ sông, những bãi tân bồi, vào kinh rạch nuôi tươi tốt cây trái, lúa, nếp... Phù sa còn tạo cồn trẻ nổi lên ở ngã ba sông Mỹ Đông chạy dài trong địa phận làng Mỹ Lương qua khỏi đình thần. Đây là một trong những thôn làng trù phú và an ổn nhứt trong quận Cái Bè, thuộc tỉnh Mỹ Tho.

Làng Mỹ Lương không nhiều ruộng, chỉ có số ít những hộ gia đình trồng lúa nếp để ăn trong năm chớ không dư, hay sản xuất nhiều để bán như các làng Mỹ An, Thiên Hộ, Ngã Sáu, Bà bèo, Long Định, Cái Nứa… thuộc, và lân cận vùng Đồng Tháp Mười.

Mỹ Lương đất thích hợp cho vườn tược hơn. Nên dân sống nhờ vào rẫy nương, trồng các loại cây ăn trái có hoa lợi bốn mùa. Các loại trái cây bán nhiều ở bến bắc Mỹ Thuận khiến Cái Bè nổi tiếng về xoài cát đen, chuối xiêm đen, cam hồng mật, gà Cái Bè, mận kiến sen, ổi xá-lị, ổi tám tháng… cũng là phát xuất từ Mỹ Lương, Hòa Lộc và các thôn làng lân cận…

Làng Mỹ Lương đất đai màu mỡ. Hướng tây giáp Quốc Lộ Bốn. Hướng đông là có dòng Tiền Giang cặp sát chạy dài ra biển… Địa thế không mấy lợi cho giặc trong những trận đụng độ cấp Tiểu đoàn. Nên bọn Việt Cộng nằm vùng chỉ đào đường, đấp mô, bắn sẻ… phá rối trị an chớ không có những trận đánh lớn, đi vào chiến sử như: Sầm Giang, Cai Lậy, Đồng Tháp. Vị Thanh, Cờ đỏ, U Minh… Và miền ngoài như Kongtum, Đắc-Tô, An Lộc, Phước Thành, Khe Sanh…

Từ Quốc lộ bốn, muốn vào làng Mỹ Lương phải đi bộ khoảng ba cây số đường đất râm mát. Dọc theo đường hai bên bờ sông có bóng cau dừa lồng đáy nước xanh, trong vắt và ngọt muôn đời… Hoặc có thể đi đò chèo. Nếu đường xa hơn như từ chợ quận Cái Bè, chợ tỉnh Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre… Thì phương tiện di chuyển phải bằng ghe máy lớn, hay đò máy chở hành khách hàng ngày…

Ở những làng xã xa xôi hẻo lánh như Mỹ Lương, và các thôn lân cận, không phải là vùng địa linh nhân kiệt. Nhưng nhiều hộ gia đình cho con em ra thành học, qua Tây học… Đỗ đạt về làm ông Phủ, ông Huyện… rạng rỡ tông đường. Và cũng có nhân vật nổi tiếng qua nhiều thời kỳ ở nhiều bộ môn. Như Hòa Lộc có nhạc sĩ Anh Việt Thu, nổi tiếng với bài “Dòng An Giang” Còn những gia đình có con lái máy bay, lái tàu biển… Con gái cũng có người bác sĩ, kỹ sư… Tốt nghiệp ở ngoại quốc trở về quê hương công tác cũng không ít.

Ở một góc nhỏ của vùng trời thôn dã nầy. Những dân kỳ cựu sống trong làng Mỹ Lương ai mà không biết, hoặc không nghe ít nhiều về gia đình của thầy giáo Nam. Ông nghỉ hưu trẻ lắm, ở tuổi ngoài bốn mươi. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết. Ông Nam nghỉ dạy học ở trường Tiểu học Long Hồ, kế chợ Trường An thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ông đem gia đình về sống an phận nơi quê vợ.

Vợ chồng ông lam lũ chăm sóc tốt miếng vườn chưa được 2 mẫu của cha mẹ chia phần cho con gái. Vườn được ông bà tu bổ, sửa sang làm rẫy và trồng cây ăn trái là nguồn sinh kế duy nhứt của gia đình. Mặc dù họ cũng có chút ít vốn liếng sau khi nghỉ dạy học về đây. Nhưng ông bà không xây nhà lớn, chỉ cất nhà ngói, vách bổ kho, nền lót gạch tàu thôi. Họ có thể, nhưng cũng không mua thêm đất đai để mở lớn rộng cho việc trồng tỉa.

Vợ chồng ông giáo Nam thức thời, nên hòa nhập vào cảnh sống của dân quê rất dễ dàng. Cộng vào kiến thức sẵn có và óc cầu tiến của hai vợ chồng, nên sự suy nghĩ về tương lai con cái của ông bà cũng có chỗ khác biệt hơn nhiều gia đình lam lũ ở thôn quê.

Thiên hạ thường bảo “Vác thúng đong lúa, chớ không ai vác thúng đong chữ” bao giờ. Nghe người nói, ông không trả lời chỉ cười cười thôi. Nhưng trong thâm tâm ông thì nghĩ rằng: “Ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay” nên năm cô con gái cưng của ông giáo Nam, đều được ra thành theo đuổi bút nghiên học hành. Để khi các cô có chút vốn chữ nghĩa, thì tìm học cái nghề thích hợp có thể lo cho bản thân, và lo cho gia đình mai sau.

Riêng bà Giáo Nam thấy mấy đứa con gái mình đang tuổi lớn, ngấm ngầm thắt thẻo âu lo! Bởi gia đình người ta chỉ có một, hai đứa con gái thì đã lo. Nói chi bà có đến năm đứa con gái nhồng nhộng! Không sanh được một mống con trai để nối dòng, nói dõi cho chồng, đôi lúc nghĩ đến bà cũng buồn lắm! Nhưng rồi bà chép miệng thở dài tự an ủi lấy mình: “Thôi con nào cũng con, thời buổi giặc giã có con gái thì đỡ lo hơn!

Nhưng nói thì nói vậy chớ nghĩ cho cùng, nỗi lo về mấy đứa con gái vẫn lớn hơn những mối lo khác trong lòng bà” Người đời thường bảo: “Nhà mà có con gái lớn chẳng khác nào hũ mắm treo đầu giàn… Không biết chừng nào sẽ rớt xuống bể ra làm hôi thúi cả nhà!” Mặc dù ông bà giáo Nam dạy dỗ các con gái mình rất khít khao về: công, dung, ngôn, hạnh, đạo làm người… Nhưng bà vẫn thấy ngay ngáy trong lòng!

Ờ làng Mỹ Lương, gia đình ông bà Giáo Nam có nếp sống bình đạm ở bậc trung. Họ không khá giả, không nghèo, cũng không so sánh đua đòi “Nhìn lên mình không bằng ai/ Ngó xuống không ai bằng mình”. Đó là nhờ tánh tình tốt, và cách đối xử với những người chung quanh hòa nhã, bình dân của gia đình họ, nên được chòm xóm, thôn dân trong làng xã quý mến khen ngợi. Nhứt là năm cô con gái “Ngũ long công chúa” của ông bà mỗi cô một vẻ, và xắp xỉ tuổi nhau.

Cô Bạch Liên (con gái lớn) 18 tuổi, có vóc dáng thanh cảnh, da trắng, tóc đen, mày ngài, mắt to, mũi cao. Khuôn mặt đều đặn, tánh tình nhu mì ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương. Đã làm rung động trái tim cháu ngoại ông Cả Bảy về nghỉ hè năm đó. Cho nên ông bà giáo Nam bảo cô Bạch Liên nghỉ học chữ, cho đi học nữ công gia chánh. Để cuối năm, về làm dâu cho ông bà chủ hãng xe đò, có tiệm bán tơ lụa nổi tiếng của miền Hậu Giang. Mà chồng tương lại của cô Bạch Liên đang làm việc ở Sài Gòn.

Cô Bạch Huệ 17 tuổi, hơi thấp người, tròn trịa, tánh tình cởi mở, hoạt bát. Mặt mày cô lúc nào cũng tươi vui, ăn nói giòn giã, khoa tay múa chân, giọng cười hào sảng… Nói chuyện với cô, người đối diện cảm thấy rất thoải mái, và dễ thân thiện. Tánh tình Bạch Huệ cương trực, ngay thẳng, nhưng lại nóng nảy không thua gì nam phái. Cô là mối lo cho bà giáo Nam nhứt. Má cô rầu rĩ vì đứa con nầy bởi con nhỏ “Chưa nói đã cười/ Chưa đi mà chạy, là người vô duyên!” mai sau ai mà dám cưới nó đây?

Tuổi đã 15, nhưng mới nhìn ai cũng tưởng Bạch Mai chừng 13 tuổi. Cô cao nhồng, ốm nhách nên trông hết sức ròm rĩnh như bà Hai Ròm trong xóm! Trước khi cô đi ngủ lúc nào cũng có chén thuốc Bắc hoặc thuốc Nam, má cô đã đặt sẵn nơi đầu giường. Khi thuốc ho, lúc thuốc cảm, và kèm theo thuốc bổ… uống cho khỏe mạnh, mập mạp.

Bạch Huệ hay ghẹo em mình, nên bảo:

-  Mầy có uống một hồ, một giếng, một con sông thuốc bổ cũng không mập. Chớ đừng nói chi uống một chén. Tại mầy kén ăn quá trời nên làm sao mập được… Uống thuốc bổ nhưng phải ăn, chớ chén thuốc đắng nghét làm sao mà mập được mậy…

Nói đến đó cô bỗng cười ha hả, mắt ngời sáng. Bà chị Bạch Liên nghi con nầy trở chứng, tà tâm nổi dậy… sắp phá phách chọc ghẹo ai nữa đây? Thiệt y như rằng, Bạch Huệ lên tiếng:

-  Nè từ rày trở đi nghe Bạch Mai, tao đặt cho cái tên rất hấp dẫn và phù hợp với mầy lắm lắm… Mau mau lại đây, kề tai tao nói nhỏ cho mà nghe, lại đây mau lên đi…

Cô em không giận, ngây thơ mỉm cười đến gần chị, nhẹ giọng hỏi:

-  Tên gì, mà chị có vẻ thần bí quá vậy?

-  Lại đây, lại đây “Bà Tư Teo Héo” Nè, mầy có “chịu” cái tên tao đặt không nào?

Bạch Mai nhăn nhó nhưng không nhịn được cười. Cô cung tay vừa đánh thùm thùm vào lưng chị, miệng vừa la oái oái:

-  Đồ quỉ, đồ quỉ… cứ hay đặt tên nầy tên nọ cho người ta! Chị thiệt tình chỉ có tài ăn hiếp và chọc ghẹo em không hà… 

Rồi năm chị em, có cả hai cô em kế là Bạch Cúc và Bạch Lan cười bò lăn, bò lộn. Nhưng sau cơn cười vui đó, thì tội nghiệp cho nàng Bạch Mai có dáng liễu rũ mai gầy, bị mang mãi cái tên cúng cơm “Bà Tư Teo héo” cho mãi mãi về sau.  

Năm đó cô Hai Bạch Liên theo chồng. Vợ chồng cô ở Sài Gòn một thời gian thì trở lại Tây Đô, tiếp nối trông coi công việc làm ăn của cha mẹ chồng. Cô có nếp sống sung túc và hạnh phúc bên chồng con.

Cô Ba Bạch Huệ ra trường Sư phạm dạy lớp nhì, lớp nhứt ở Vũng Liêm. Cô nầy lúc nào cũng ồn ào, cả đến chuyện kết hôn với anh chàng lỡ thầy lỡ thợ. Bởi anh Hậu chồng cô, sau khi thi đậu Trung học Đệ nhứt cấp thì bỏ học, trốn gia đình ôm gói theo đoàn ca vũ nhạc kịch, ở Sài Gòn xuống trình diễn trong tỉnh nhà. Cả năm sau hết tiền dành dụm đem theo, hát hò không bằng ai, thất chí anh hát câu“Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì ai? Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu?” Anh đi lang thang thế nào mà đụng vào nàng Bạch Huệ. Hai người thề non, hẹn biển để rồi sau đó anh Hậu trụ hình, nghe lời Bạch Huệ khuyên bảo trở về phụ cha mẹ mình coi xưởng thợ mộc.

Dĩ nhiên là ông bà giáo Nam không bằng lòng gả Bạch Huệ cho anh thợ đóng xuồng, đóng ghe, tàu, đóng bàn, ghế, có khi còn nhận đóng hòm cho người ta nữa. Nhưng miệng lưỡi Tô Tần của nàng Bạch Huệ đã khiến cha mẹ hồi tâm chuyển ý, cho cô kết tóc se tơ với Hậu người cô mơ tưởng, quý yêu.

Ở thị thành lúc nào cũng ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Các dãy phố chợ buôn bán sầm uất… Dân chúng ăn nên làm ra, nhờ Đồng Minh các nước qua trợ giúp chiến tranh Việt Nam… Mọi ngành nghề vươn lên và phát triển mạnh về kinh tế, y học, khoa học… Những thanh niên ưu tú được chánh phủ cho học bổng, hay tự túc du học, đỗ đạt trở về giúp nước. Trong khi đó, những kẻ nghe lời đường mật của Cộng sản tuyên truyền lén lúc cùng  giặc quấy động ven đô, phá rối trị an khắp nơi… Và thanh niên miền Nam tới tuổi nhập ngũ, tình nguyện tùng chinh đuổi giặc, để giữ gìn bờ cõi…

Thời gian qua mau. Bạch Liên năm nay có ba đứa con kháu khỉnh… Bạch Huệ cũng là mẹ của hai đứa con bụ bẫm dễ thương. Còn cô Tư Bạch Mai đang làm việc tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa tỉnh. Bạch Cúc ra giáo sư Trung học. Bạch Lan năm cuối Kiểm Sự Nông Lâm Súc Cần Thơ.

Mỗi khi về thăm cha mẹ gặp lại các em, nàng Bạch Huệ lúc nào cũng lên giọng chị ả dạy đời. Và lúc nào cô cũng kiếm chuyện gì đó để có cớ chọc ghẹo em như thời còn độc thân:

-  Đời bây giờ giặc giã! Tụi bây nhớ kiếm lấy tấm chồng làm thương gia, hoặc chủ hãng như tao với chị Hai sẽ đỡ lo. Đừng có lấy chồng lính tráng khổ lắm… Tiền lính tính liền nghe tụi bây! Đã nghèo rớt mồng tơi, mà họ còn bay bướm, đa tình… Nhứt là mấy chàng Không quân, Hải quân… vừa khôi vĩ, vừa hào hoa… Bởi họ được Chánh phủ đã lựa sẵn rồi. Vốn liếng đa tình sẵn có của đàn ông, mà còn đẹp trai, rày đây mai đó vì công tác… Có những môi trường thích hợp như vậy, nên họ khó mà chung tình với vợ nhà lắm! “Ai ơi đừng lấy Hải quân/ Bến nào cũng ghé/ Sà quần với mấy ả bán ba” Còn nữa, khi nghe bản “Hoa Biển” của nhạc sĩ Anh Thy thì các em ù té ào ào chạy đến làm quen liền hà… Những tên đó nguy hiểm lắm, tụi bây phải tránh xa, tụi bây phải cẩn cẩn đề phòng mới được nghe chưa…

Bạch Lan háy chị mình con mắt có đuôi. Còn Bạch Mai và Bạch Cúc nhìn nhau bụm miệng cười hí hí. Bởi cô nàng Bạch Lan (cô út) trong “Ngũ long công chúa” đang có bồ là lính biển. Nàng ta nghe chị nói, chạm nọc nên ghét lắm, chõ mỏ đớp lại liền:

- Thôi đi bà ơi, bà già rồi lẩm cẩm nên quơ đũa cả nắm! Xì, bộ người lính Hải quân nào cũng vậy sao? Chị có giỏi rầy bà Năm Sa Đéc kìa (Bạch Cúc) bồ bả là lính Pháo binh đó. Thời buổi nầy không có bồ là lính, không lấy chồng lính thì có nước ở vá, hoặc các cô vào chùa tu hết cho rồi…

Cô nàng Bạch Lan nói đến đó thì đôi mắt phượng lim dim. Ra điều ta đây hạnh phúc ngập lòng. Cô liền gọt dũa cái giọng của mình ngọt như đường cát, mát như đường phèn, lên tiếng liền:

- Người yêu của tui ôi vừa đẹp trai, vừa hiền, vừa thương tui, và tôn sùng tui như nữ hoàng vậy đó! “Anh là lính đa tình/ Tình hải hồ ôm mộng/ Tình vũ trụ ngát hương…” Chu choa ơi, anh hát hay, nhảy đầm giỏi, hoàn cảnh gia đình tốt, lại chưa vợ! Có người đủ điều kiện như vậy thì không lọt vào giếng mắt của nàng Út Bạch Lan nầy sao được đây hỡi trời! Và còn có chỗ nào để chê nữa đây chị Ba Khía?

Bạch Huệ nghe em gọi mình Ba Khía mắc tức cười lắm. Nhưng cô trấn áp nhịn cười, quay qua nhìn Bạch Cúc, nói với Bạch Lan:

-  Nồi ơi, bài ca tuyệt vời mà hát bắc quàng, không đầu không đuôi, coi chừng tác giả kiện mầy đó! Ê, bộ hai con bồ tọt lửa bây có người yêu rồi hả Bạch Cúc, Bạch Lan? Tụi bây có nói cho má biết chưa?

Bỗng Bạch Huệ trở dịu giọng:

-  Ờ, tao nói là nói vậy để nhắc nhở và khuyên thôi. Miễn tụi bây có tấm bồ đàng hoàng, tụi bây hạnh phúc thì bà chị nầy vui mừng lắm rồi…

Chị ta lại quay sang qua Bạch Mai, bảo:

-  Còn Bà Tư Teo Héo của nhà ta thì sao đây? Hai đứa em có bồ rồi, mầy xinh tươi như hoa vậy, thì đừng xạo nói với tao là chưa có bồ nghe! Mầy làm ở bệnh viện, thôi thì coi ông thương phế binh nào thuận mắt “chài” đi, cho chắc ăn!  Nói tóm lại, bọn bây đứa nào cũng có nghề hết rồi, cũng đến lúc có bồ bịch để đi đến hôn nhân chớ. Nhưng lính tráng luôn xa gia đình, phải coi chừng kẻo họ có vợ con đùm đề bên ngoài hai ba đứa mà vợ nhà cũng chưa hay biết… Hoặc súng đạn vô tình không có mắt, chồng thành phế binh, hoặc vợ thành quả phụ nhanh như trở bàn tay đó nghe…

Bạch Mai biết bà chị mình thức thời. Bả ớn hai con em giờ đã lớn và có cái nhìn tinh tế, chớ không thiển cận như bả. Cho nên bả dịu giọng vuốt nhẹ. Và bà ta quay qua định tấn công mình đây. Nhưng bả cũng khựng lại, vì Bạch Mai hôm nay không còn là Bạch Mai của ngày xưa hay nhút nhát sợ sệt, lo âu nữa. Bây giờ cô đã là một công chức trong ngành nghề vững chắc. Cô không còn khù khờ để bà chị tinh ranh của mình chọc ghẹo, phá phách.

Thiệt như vậy, Bạch Mai bây giờ tiến bộ về mọi mặt. Cô không còn teo héo như bà chị “đa sự” nầy nói. Cô có vóc dáng dễ nhìn, miệng cười duyên dáng, tánh tình dịu dàng, nhã nhặn. Cô tha thướt trong chiếc áo dài màu hoa cà trên đường nắng hai buổi đến và tan sở. Nam đồng nghiệp trương lứa len lén nhìn cô rồi thả dê cũng có đôi ba mạng… Cô biết được vui vẻ cười thầm và nghĩ “không được đâu!” Nhưng đàn ông con trai mà, thấy đàn bà con gái xinh không động chân tình, không có máu dê thì có đúng là đàn ông không? Hay là cô gái đó chẳng có nét gì khiến cho bọn họ động lòng? Ôi làm con gái mà như thế không hóa ra là tệ lắm sao? Nên các anh chàng mới không nhìn lén, không huýt sáo, không liếc mắt đưa tình, và không thả dê sao cho được…

Bạch Mai nghiêm giọng bảo với chị:

-  Bà cứ quen miệng ăn mắm, ăn muối hay nói bậy bạ, và hay trù ẻo người ta. Hãy coi chừng bị mang khẩu nghiệp đó! Bà nên nhớ bây giờ nói cái gì, làm cái gì bà cũng phải nghĩ suy, cẩn trọng và phải nghĩ đến gieo phước đức cho con cái sau nầy.

Cô dừng lại liếc chị cười cười, rồi tiếp tục:

-  Bà làm ơn bỏ gọi tui là “Bà Tư Teo Héo” nữa đi. Tui bây giờ “đẹp hết chỗ chê” chớ teo héo chỗ nào đâu mà gọi người ta teo héo hoài vậy? Thiệt thấy bà tội nghiệp, nên tui cũng không nỡ giấu giếm làm chi! Hãy nghe đây: Bồ tui là lính trận miền xa! Sư Đoàn 21, còn có biệt danh là“Sét Miền Tây” nữa đó. Chàng của tui là người hùng rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ ở Cà Mau và cà vùng giới tuyến, có gồ ghề chưa? Nên bà đừng tưởng bở nghe…

Bạch Huệ hấy em con mắt có đuôi, ởm ờ:

- Vậy sao, thiệt ngon quá hén! Thì ra bồ của mầy là “người rừng” hả? “Hù hu… Tarzan đánh đu, máy bay thả dù, Zerô bắn súng… Chết cha con ma nào đây, làm tao hết hồn thằn lằn cụt đuôi…”

Thế là mấy chị em cười rộ lên muốn vỡ mái nhà. Bạch Mai chồm lấy gối, lấy khăn… quơ hốt được thứ gì chọi chị mình thứ ấy. Bạch Cúc, Bạch Lan cười chảy cả nước mắt.

Bạch Huệ nín cười, nghiêm giọng lên tiếng:

- Ờ thì tao biết tụi bây còn trẻ lòng non dạ, nên nghĩ gì bảo nấy để khuyên tụi bây thôi, chớ có ác ý chi đâu! Nhưng tụi bây nhớ phải giữ gìn “Khôn ba năm/ Dại một giờ” đừng làm gì quá trớn để cho ba má đau lòng, và tao cũng không tha tụi bây đâu nghe.

Bao nhiêu năm qua ông bà giáo Nam nhọc nhằn nuôi con ăn học. Giờ đây vợ chồng ông rất hài lòng và mãn nguyện về năm cô con gái của mình:

* Chồng cô gái lớn Bạch Liên trông coi ngành xe cộ với cha mẹ. Còn cô thì coi cửa hàng tơ lụa ở tại thị xã Cần Thơ.

* Cô kế Bạch Huệ có chồng làm chủ lấy mình trong việc làm ăn. Cô xin đổi về dạy học tại trường Tiểu học Châu thành. Để gần nhà ở Cầu Tham Tướng (Tây Đô) cũng gần cơ sở làm ăn của chồng.

* Con gái thứ Tư là cô y tá Bạch Mai có chồng làm lính chiến miền xa như ước nguyện. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, chồng của Bạch Mai bị trọng thương trong trận kéo quân về tái chiếm Thị xã An Lộc. Gần 2 năm trị và dưỡng thương, anh giải ngũ với cấp độ tàn phế 70% (Hư hoàn toàn mắt phải. Mình đầy thương tích. Ba (3) mảnh đạn nhỏ còn nằm trong phổi, có lẽ anh sẽ mang theo suốt cả đời mình!

* Giáo sư Bạch Cúc chồng là binh chủng Pháo binh mà bà Bạch Huệ có “Cái nết đánh chết không chừa” gặp em gái mình, cô hào hứng bảo:

-  Tao đã cảnh cáo mầy rồi là “Ai ơi đừng lấy pháo binh/ đêm đêm nó bắn rung rinh cái giường” mà mầy chẳng nghe. Bọn bây cưới nhau, sau chị Hai và tao mà đã có ba đứa nhỏ, sanh năm một liền tù tì…

Bạch Liên đứng gần đó nghe, vừa cười vừa nạt vải em:

-  Mầy có điên không Bạch Huệ? Lớn cái đầu mà không nên nết, cứ hay ăn nói tào lao, bậy bạ… Không nhìn lại coi, chồng mầy có phải là lính Pháo binh đâu, mà mầy cũng đang mang cái bụng chè è gần sanh kìa… Cứ ở đó mà chọc ghẹo nó…

Bạch Cúc đang đút cơm cho con cũng cười ngất:

- Kệ bả, hơi sức nào giận bả cho mệt… Tui không thèm nói và cãi với chỉ làm chi! Chị Hai nói dùm tui rồi hà, hà…

* Bạch Lan đang mang thai đứa con đầu lòng. Bọn nó gần ngày đám cưới thì giặc cưỡng chiếm miền Nam. Người yêu nó bị đi tù cải tạo mấy năm, khi trở về mới đám cưới.

Thiệt tình, trong năm chị em, không chị hay đứa em nào mà tránh khỏi cái miệng của mụ Bạch Huệ. Em rể trong binh chủng Hải quân, đang đứng đó mà cái miệng bả cứ ông ống ghẹo em gái mình “Chồng em Đại Úy/ Em không vừa ý/ Lắc lư con tàu đi” Thiệt là hết nói nổi!

Hôm nay ông bà Giáo Nam vui lắm. Vì gia đình đoàn tựu, có đủ mặt con, rể, cháu ngoại. Nhà phải kê hai chiếc bàn dài nối liền nhau, mới đủ chỗ cho cả nhà ngồi ăn cơm. Ngồi chung quanh bàn ăn có vợ chồng ông Nam, năm đứa con gái và năm thằng rể. Còn mấy đứa cháu ngoại ngồi ở bàn tròn đặt kế bên.

Từ hồi năm cô lấy chồng, mỗi người một công việc, một gia đình, ở mỗi nơi. Chị em gặp đủ mặt còn khó thì nói chi năm anh em bạn rể với nhau.

Giặc vào chồng của Bạch Cúc, Bạch Lan bị tù cải tạo. Chồng của Bạch Mai là phế binh cũng bị đày mút chỉ cà tha. Anh đi ở tù nhiều năm hơn hai em rể. Mấy chị em trong gia đình lấy làm lạ, sao kỳ vậy? Rồi cũng là Bạch Huệ! Cái miệng bà nầy lách chách thiệt, nhưng bả nói ra những nhận xét cũng rất tinh tế và chí lý lắm chớ:

- Với Việt Cộng thì có gì là lạ đâu? Chuyện gì chúng cũng làm được dù đạp trên sinh mạng kẻ khác! Người ta giải ngũ từ mấy mười đời dương rồi mà cũng kiếm chuyện bắt bớ, cầm tù… Để gia đình lòi tiền, để có cớ trả thù dân trí thức miền Nam, để che đậy cái ngu dốt của chúng…

Ông giáo Nam nhắc nhở con:

- Nhỏ miệng một chút, “Tai vách mạch rừng” thời cuộc nầy người ngu trị đời… Thôi bỏ đi! Ờ thằng Hai, thằng Ba làm ăn của các con thế nào?

Anh Hùng chồng Bạch Liên, lễ phép:

-  Dạ thưa ba, giặc đến thế nào chúng cũng cướp giựt, tịch thu lấy hết của cải, và sẽ bắt mình bỏ tù… Nên ba má con tẩu tán tài sản trước đó rồi. Vậy mà đánh tư sản đợt đầu chúng cũng cướp gọn được một mớ. Vợ con khéo léo trước kia mua vàng giấu, nên cũng còn vốn để làm ăn tiếp tục. Kinh nghiệm mấy mươi năm trong thương trường “Ma cao một trượng, mình cao gấp đôi” mới đấu lại chúng. Ông già con đâu có chịu thua bọn chúng dễ dàng, thưa ba.

Ông giáo Nam gật gù, kề miệng ực nửa chun nhỏ rượu trắng. Ông khà một tiếng thống khoái nhìn thằng rể thứ ba.

Anh Hậu chồng của Bạch Huệ cười hịch hạc trả lời cha vợ:

- Công việc làm ăn của chúng con nhìn bề ngoài, coi như cắt cụp đủ ăn, đủ xài, nhưng tiền vô ngầm. Vì gần đây con lãnh đóng những chiếc tàu cho họ chở hàng ra biển nữa đó ba…

Rồi anh dè dặt nhỏ giọng:

- Trong mấy gia đình chị và em. Người nào có muốn ra khơi. Tôi biết được nhiều chỗ thích hợp, và kín đáo lắm…

Bà giáo Nam thật thà hỏi thằng rể:

- Bộ đi đường xe khó và mắc lắm sao? Đi bằng đường biển thường gặp sóng to gió lớn không đặng đâu đó con. Đi làm ăn, mấy đứa nên đi xe dù mắc hơn cũng được, vì đi xe má thấy sẽ an toàn hơn…

Mấy đứa con biết mẹ chưa thấu hiểu chuyện đóng tàu và giúp người tìm đường vượt biên. Ông già cũng hình như chưa biết! Bạch Mai nháy mắt với mọi người có ý bảo đừng nói nữa… Cô đánh trống lảng sang chuyện khác ngay:

- Má à, má xem coi cái bụng của Bạch Lan sanh con trai hay gái? Cả hai chị và Bạch Cúc cũng đoán thử xem coi có đúng không…

Bà giáo Nam cười hiền:

- Tao sanh lũ bây toàn là gái, nên đoán sẽ không đúng đâu. Sao Quang, Bạch Lan, hai đứa bây muốn con trai hay gái?

Trần Quang chồng cô Bạch Lan là lính biển. Nãy giờ nghe ông anh rể của vợ nói về ra khơi thì anh biết ý ngay. Mắt u buồn nhìn ngoài trời, anh Quang chợt nhớ đến tàu lúc lênh đênh trên biển cả mênh mông, lúc ghé bến lên đất liền… Những tháng ngày ra ngoại quốc học về ngành chuyên môn… Những đêm trăng sáng trên biển nước mênh mông. Mặt nước bao la bát ngát không thấy bến bờ. Có đêm ánh trăng trải lóng lánh vàng như thảm giác kim tuyến… Rồi những lúc biển cuồng nộ trong cơn bão nổi để cho người đời ngợi ca “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.

Giờ bất chợt nghe bà nhạc hỏi, anh Quang giựt mình còn đang lúng túng, thì được vợ đỡ lời:

- Con đầu lòng mà má, trai gái gì cũng được. Nhưng má chồng con muốn có cháu nội gái. Vì nhà bà toàn là trai (7 người) chỉ có chị Năm và cô Út là nữ thôi. Nên bà thích cháu gái lắm…

Anh Vinh chồng của Bạch Mai là cựu sinh viên Luật khoa, và Văn khoa Sài gòn. Cha anh là thầy thuốc Bắc, bị Việt Cộng thủ tiêu. Anh buồn quá bỏ học tình nguyện vào lính. Bình thường ít nói, khi bị tù về anh càng ít nói hơn. Bởi nước nhà nghiêng ngã, giặc dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt, cướp tài sản, giết, chụp mũ thành phần trí thức, những người giàu có, và nhứt là thành phần đối nghịch với chúng. Là một chiến binh bao nhiêu năm trong quân ngũ, rồi bao nhiêu năm bị giặc bắt cầm tù… Đã tôi luyện nung nấu tinh thần nuôi chí lớn trong lòng anh. Vinh cũng là một thương phế binh! Chiến tranh đã cướp mất của anh mắt phải, thị giác của anh không nguyên vẹn như xưa. Nhưng lòng anh không bị thui chột, tâm trí anh vẫn sáng ngời như nhựt nguyệt. Anh đã suy nghĩ lung lắm sau những đêm lén nghe đài VOA, đài BBC… Anh hiểu biết thêm ít nhiều về những miền đất tự do bên ngoài…

Thế giới bàng hoàng xúc động, khi nhắc đến Việt Nam bị lọt vào tay Cộng sản thì quân nhân, công chức… bị giặc trả thù tàn bạo bằng danh xưng hoa mỹ “Cải tạo”. Anh Vinh thao thức theo tháng năm dài ngột ngạt dưới chế độ Cộng sản. Để rồi quyết định trong lòng và chọn lựa: một là anh rút vào bưng tìm đồng chí để chống giặc. Hai là anh phải đem gia đình đào thoát rời bỏ quê hương… Chớ anh không sao sống với chế độ Cộng sản được. Tương lai con anh sẽ ra sao, khi cha chúng bị giặc gọi là “Ngụy quân/ Lính Mỹ đánh thuê…” Anh không thể nào để con mình bị nhồi sọ theo giáo điều của Cộng Sản…

Nhưng mọi thứ gần như bế tắc trong anh. Vì tiền bạc là mối lo đầu tiên nhưng anh không tìm đâu có! Và bọn ba mươi trong vùng anh ở luôn theo dõi mọi hành động của anh… Đôi lúc anh cảm thấy vô cùng tuyệt vọng!

Giờ đây phải chăng là một kỳ tích xuất hiện? Sẽ thay đổi số mạng cho cả gia đình anh! Anh Vinh quyết sẽ tâm sự cùng ông anh rể Hậu (chồng của Bạc Huệ) chị vợ mình. Rất hiếm hoi, hai người họ có dịp gặp nhau như hôm nay. Vinh nghĩ, phải chăng đây là duyên số mà trời đã ngầm ban cho anh cùng gia đình…

Dòng đời lững lờ trôi đi và trôi mãi trôi! Để bây giờ năm anh em bạn rể mỗi người một nơi!

Sau lần gia đình mấy chị em và anh em bạn rể đoàn tựu trong nhà cha mẹ vợ đó. Họ không gặp lại nhau nữa dù ở đám tang bà giáo Nam (mẹ của họ). Các con gái, con rể cũng về không đủ mặt. Bởi thời cuộc đổi thay khắc nghiệt. Người dân Việt chạy tán loạn tìm đường sống, tìm bờ bến tự do… Gia đình năm cô con gái ông bà giáo Nam cũng không thoát khỏi tình trạng chung là: Tù đày, khốn khổ, lầm than… trong nước Cộng sản cai trị!

* Vợ chồng và con cái của Bạch Cúc theo tàu đăng ký của em rể bên chồng. Họ vượt biên đến Mã Lai, và sau đó được vào nước Úc.

* Trần Quang, chồng của cô Bạch Lan lái tàu đăng ký của người chú ruột. Anh đưa gần 300 người vượt biển đã an toàn đến Nam Dương. Trong khi đứa con trai đầu lòng, vợ anh mới sanh chỉ có hai ngày… Gia đình họ cũng đã vào nước Mỹ.

* Rồi tin Bạch Liên qua đời vì hậu sản sau khi sanh đứa con thứ năm! Anh Hùng chồng chị và đứa con út thoát khỏi vòng kềm tỏa của Việt Cộng bằng đường bộ qua Thái Lan. Sau đó đứa con trai lớn của Liên, Hùng cũng đã vượt thoát. Cha con họ, kẻ trước người sau lần lượt đã đến định cư ở đệ tam Quốc gia Hoa Kỳ.

* Anh Hậu chồng của Bạch Huệ ở lại quê nhà vào bưng! Sau khi anh hay tin vợ qua đời vì kiệt sức trên đường vượt biên! Ba đứa con của họ được vợ chồng Bạch Mai nuôi dưỡng. Năm đó, cũng nhờ ông anh rể Hậu chồng chị Bạch Huệ giúp đỡ, sắp xếp để cho gia đình Bạch Mai cùng vợ con anh Hậu ra đi trước. Còn anh ở lại, sẽ đi ở chuyến tàu sau.

Nhớ trước khi tàu vượt biên rời bãi. Hai anh em bạn rể (Hậu chồng Bạch Huệ và Vinh chồng của Bạch Mai) bắt tay hẹn gặp lại nơi bến bờ tự do…

Hậu gởi gấm với em rể mình rằng:

- Chuyến nầy anh không đi chung với chị và các cháu, cùng gia đình em… Trăm sự gì qua bển nhờ em chăm sóc cho chị và các cháu dùm anh…

Chồng của Bạch Mai xiết chặt tay anh rể, cương quyết rưng rưng lời hứa:

-  Khi anh chưa đến, chúng em hứa sẽ lo cho chị và các cháu… Vì ngoài tình gia đình ruột thịt chị em, chúng ta là anh em bạn rể. Ơn trọng của anh đã giúp đỡ gia đình em ra đi hôm nay nữa… Anh yên tâm, chúng em hứa sẽ chu toàn mọi thứ với khả năng mình cho chị và các cháu…

Chồng của Bạch Huệ cười buồn:

- Chúng mình là anh em bạn rể mà dượng Tư… Vả lại chị thương vợ chồng dượng lắm… Thôi xuống ghe đi, chúc tất cả thượng lộ bình an…

Chiếc ghe nhỏ khuất dần trong màn đêm dầy đặc sương mù. Gió biển rạt rào… Mùi biển mặn, mùi bùn, mùi tôm cá quyện vào nhau đưa xa vào vùng ven biển. Và lời hứa hẹn của Vinh có đất trời, biển cả mênh mông làm nhân chứng!

Giờ đây, tính ngày rời nước đến nay đã ba mươi năm rồi! Vinh không ngờ đó là lời từ biệt của hai anh em bạn rể, cho đến nay vẫn cách biệt ngàn trùng. Nhưng lời anh Hậu vẫn còn văng vẳng bên tai anh như mới hôm nào đây thôi.

Vinh đã làm tròn lời gởi thác của người anh em bạn rể. Ba năm trước đây hai đứa con trai lớn của hai chị em (1 của Bạch Huệ, và 1 của Bạch Mai) đã về nước! Hiện chúng đang ở chung với chồng chị Bạch Huệ… Con gái út của Bạch Huệ có chồng được hai con, đang ở gần nhà dì Bạch Mai.

Có buổi tiễn đưa nào mà không buồn! Nhưng hôm nay đây, vợ chồng Bạch Mai rất hài lòng và hãnh diện, chuẩn bị cho đứa con trai mình, và cháu trai nhỏ (con trai anh Hậu) của mình (ngành Quân y trong quân đội Mỹ) trở ra đơn vi sau những ngày nghỉ phép. Chúng đang cùng đồng đội chiến đấu trên chiến trường Iraq. Trước khi con và cháu lên đường, Bạch Mai nấu bữa ăn ngon lành, đặc biệt để đãi hai chàng chiến binh người Mỹ gốc Việt nầy.

Sau khi ăn, trong lúc trò chuyện, anh Vinh dặn dò nhắc nhở với con và cháu rằng:

- Cha của con, và dượng của cháu (ta đây) là cựu chiến binh, và là thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa trên đất Việt. Ta rất hãnh diện xả thân chiến đấu cho quê hương. Ta cũng không bao giờ hối tiếc phần thân thể của mình bị mất mát trên chiến trường cho chánh nghĩa. Nếu có được trở lại thời thanh xuân, ta cũng quyết tâm đi chiến đấu… “Tôi trung không thờ hai chúa/ Gái trinh không lấy hai chồng” Anh Hậu, anh em bạn rể của ta là cha của cháu là dượng của con, không phải là cựu quân nhân trước kia. Nhưng “đất nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách” Anh đang miệt mài không ngại gian nguy cùng đồng chí đang chiến đấu ở quê nhà. Các con còn trẻ, đời người mong manh! Các con sống sao cho đáng sống! Đầu đội trời chân đạp đất, đừng có quên, và tự tước bỏ đi phẩm giá của chính mình! Mọi con người sanh ra ở nước tự do đều bình đẳng như nhau. Nhưng trên cõi đời, người nầy hơn người kia chỉ ở đạo đức và tư cách thôi. Tiền tài danh vọng là vật ngoài thân, phù du lắm… Các con đừng vì lợi ích riêng tư, đừng vì miếng đỉnh chung, mà lầm đường, sai lối làm tay sai cho giặc, theo giặc… Các con sẽ bị người đời nguyền rủa, khinh khi là kẻ vô ơn, phản quốc… Nhưng cái khổ nhứt của kiếp con người là niềm hối hận…

Nửa đêm qua, vợ chồng Vinh được điện thoại của Bạch Lan ở miền Trung Tây Hoa Kỳ báo tin. Chồng cô là Trần Quang vừa mới qua đời! Người em rể Hải Quân nầy bị stroke cả năm nay!

Bạch Mai ôm mặt khóc thút thít. Vinh thở dài, nhìn qua cửa sổ bầu trời đen như nhuộm mực. Đêm nay không trăng, nhưng sáng ngời muôn vì tinh tú…

Qua màn lệ, Bạch Lan bảo: “ Trước ngày ra đi, ảnh có dặn em rằng: Đừng để ảnh ở nhà quàn thăm viếng. Hãy đem thiêu thi hài, lấy tro cốt rải vào biển cả… Chị ơi, chồng em muốn đi vào lòng Đại dương cho tròn vẹn đời của một người lính biển Việt Nam Cộng Hòa… ”

Ôi, nỗi buồn đau sao luôn đến với tha nhân!

Trong năm mươi tiểu bang của Mỹ. Khí hậu tốt nhứt, người Á Châu đông nhứt, đồ dùng rẻ nhứt, trái cây ngon nhứt, các món ăn rẻ nhứt, và còn nhiều thứ nhứt lắm… Gần như đều nằm rải rác ở tiểu bang California. Nhưng vào chánh mùa hè, miền Bắc California năm nào cũng có mấy ngày khí hậu nóng nhứt (100 đến 115… độ F)

Hôm nay nền trời California xanh màu ngọc bích. Gió lay nhẹ đưa từng cụm mây ngồn ngộn trắng như tuyết chầm chậm bay bay. Những con chim trời nhàn hạ như vô tranh với đời. Chúng chớp đôi cánh lượn qua, lượn lại trong không khí trong lành, và mát rười rượi. Rồi chúng đáp xuống, đậu trên những cành cây xanh, lá thắm cất tiếng hót vang vang…

Vinh cảm thấy lòng vui theo ngoại cảnh. Bạch Mai bưng cho chồng tách trà ấm, rồi bước đến mở truyền hình ra xem.

Chị vui miệng ghẹo chồng:

- Ông làm gì mà ngồi chết trân vậy? Đang có tâm sự lên khơi vì nhớ đến cô nào ở thuở ngày xưa hả?

Vinh cười cười, nhìn vợ:

- Bộ muốn chết sao dám nhớ cô nào? Chỉ có một cô ngồi kế bên, đã theo kềm kẹp mấy chục năm trời, khiến đôi lúc không dám ho lớn, không dám thở mạnh… thì tui còn dám nghĩ đến cô khác sao? Tôi đang nhớ đến năm anh em bạn rể (chồng mấy chị, và em của em) Bây giờ mỗi người một nơi, kẻ còn người mất, kẻ ở quê nhà, kẻ ra hải ngoại làm thân chùm gởi… Thiệt đúng là ở đời mỗi con người đều có số cả! Theo thuyết nhà Phật, cái số khổ sở, đắng cay khó mà thay đổi! Trừ ơn phước do ăn hiền ở lành, lánh dữ, tích đức… của chính bản thân thì may ra được hoán chuyển từ nặng thành nhẹ, từ xấu trở nên khá hơn thôi…

Bạch Mai cười bùi ngùi, nhìn chồng lòng đầy thương cảm. Hai vợ chồng chị không phải mở truyền hình nghe tin tức, hay xem phim bộ như mọi ngày. Hôm nay họ dành thời gian để theo dõi đài truyền hình trực tiếp thu buổi văn nghệ “Cảm Ơn Anh” tổ chức tại Nam California. Buổi văn nghệ nầy có mấy chục ca sĩ thiện nguyện, hát ngoài trời để gây quỹ giúp Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại bên kia bức màn tre!

Theo ban tổ chức cho biết thì số tiền thu được của đại nhạc hội “Cảm Ơn Anh” năm nay, có hơn 600 ngàn đô-la. Như vậy thì nhiều lắm, so với tình trạng nền kinh tế toàn cầu không mấy khả quan trong những năm gần đây. Đem số tiền to đó để tặng, thì mỗi người chỉ được một ít thôi, vì số thương phế binh đông! Nhưng “Đây là món quà nghĩa tình, mà người Việt lưu vong lúc nào cũng biết ơn và nhớ đến các anh Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa”còn đang kẹt lại nơi quê hương khốn khổ, đoạn trường!

Dư Thị Diễm Buồn



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Aug/2016 lúc 9:38am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.438 seconds.