Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Sep/2017 lúc 1:23pm

Tính Toán


Bà Lâm trang điểm thật đẹp và diện bộ váy áo thật sang, ông Lâm ngạc nhiên:
- Bà có đi tiệc tùng gì đâu mà diện khiếp thế?
- Ơ kìa, tôi không đi tiệc tùng còn hơn đi tiệc tùng, vì tôi đi với ông bà sui gia đại gia chứ tầm thường đâu…
Giọng bà nghiêm trọng:
- Ở đời đôi khi cũng hơn thua bộ cánh bên ngoài đấy.
- Bà ơi, chỉ là vợ chồng mình đưa anh chị sui gia tương lai thăm khu shopping và cửa hàng nước hoa thôi mà.
Bà mỉm cười đắc ý:
- Chuyến tôi về Việt Nam họ tiếp tôi linh đình lắm, tôi đã tường thuật với ông không sót một tí nào mà ông vẫn không hiểu à? Họ khoe của bao nhiêu thì bây giờ tôi khoe của bấy nhiêu, cho anh chị sui biết rằng con gái họ vào làm dâu nhà mình là phước trăm bề, vừa có tờ thẻ xanh ở lại Mỹ, vừa có chồng hiền đẹp trai, vừa có tài sản nhà chồng...
- Thôi, bà khoe vừa chứ. Tôi chỉ mong chúng nó thương yêu nhau thật tình, chẳng đứa nào vì tài sản của cha mẹ đứa nào cả. Tình yêu thật sự mới bền lâu chứ tài sản cũng có thể… vật đổi sao đời, nay còn mai mất.
Bà la lên:
- Ôi… ông ăn nói mà không sợ xui xẻo hả? hả? hả?... Tôi cấm chỉ ông không được nói “gỡ” thế nhé…
Ông chuyển đề tài:
- Bà thì chuyện gì cũng tính toán, trước đó bà cứ muốn làm sui với anh chị Tài chủ một chung cư của hàng trăm căn và ngon ngọt khuyên thằng Brian lấy con gái họ…
Bà Lâm phụ họa:
- Người ta cũng chấm con trai mình đấy chứ. Hai nhà thật “môn đăng hộ đối” theo thời đại này...
- Nhưng khi bà gặp Kim Chi một du học sinh xin vào làm việc part time trong cửa hàng nước hoa với bà. Chẳng hiểu bà và Kim Chi tì tê tâm sự những gì mà bà đã vồ lấy Kim Chi và không đoái hoài đến con nhà chủ chung cư nữa.
Bà giải thích:.
- Kim Chi là con nhà đại gia bên Việt Nam... Thấy nó đẹp người đẹp nết hiền ngoan biết tự lập không ỷ vào tiền của cha mẹ, vẫn đi làm để kiếm thêm chút tiền chi phí ăn học nên tôi thương.
- Vì thế bà tính toán xắp xếp cho Brian và Kim Chi gặp gỡ và gần gũi nhau...
Bà Lâm đắc ý tiếp lời:
- Tôi đã bay về Việt Nam gặp gỡ và tiếp xúc cha mẹ Kim Chi trước khi làm điều ấy. Tôi tính chuyện gì là phải chắc ăn, tính hơn cả trời tính, trai tài gái sắc gần gũi thì dễ nảy sinh tình cảm, chứ quan niệm cổ lỗ sĩ như ông thì có khi thằng Brian vớ phải con vợ chẳng ra gì. Vì thằng con mình hiền lành chân thật quá không biết nhìn xa trông rộng...
Ông lép vế chịu thua:
- Biết tài bà rồi, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ…
- Ý ông lại nhắc vụ tôi sang tên tài sản nhà cửa cho thằng Brian để hai vợ chồng mình tay trắng xin hưởng những phúc lợi bảo hiểm và trợ cấp của nhà nước Mỹ đấy hả? Ông đừng sĩ diện nhé, tôi chỉ bắt chước thiên hạ thôi, vợ chồng mình buôn bán đóng thuế, con trai mình đi làm đóng thuế, tội gì không “gỡ” lại những đồng tiền của mình? Chẳng thiệt hại đến ai cả, nhà nước thêm hay bớt mình hưởng phúc lợi chẳng nghèo hay giàu thêm.
Ông Lâm đã thôi, nhưng bà đang có đà chưa chịu thôi:
- Tài sản mình có phất lên cũng nhờ phần nào tôi tính toán đấy, gom từ bạc lẻ cho đến bạc chẵn đấy...
Ông Lâm khoác lên người bộ vest, dù gì vợ chồng ông cũng là chủ nhân của một khu buôn bán sầm uất nổi tiếng của cộng đồng người Việt Nam trong thành phố này, đi ra ngoài lúc nào cũng phải ăn mặc chỉnh tề, nhất là đi với ông bà sui gia tương lai...
Hai vợ chồng ông Lâm đi xuống lầu, ông bà sẽ đến khách sạn Four Seasons đón vợ chồng ông Nhất. Họ từ Việt Nam sang Mỹ du lịch 1 tháng mục đích chính là làm đám cưới cho con gái Kim Chi, sau là thăm cho biết nước Mỹ...
Tuy ông bà Lâm mời ông bà Nhất trú ngụ tại nhà minh nhưng ông bà Nhất vẫn lịch sự từ chối, họ ở khách sạn vì muốn thoải mái tự do.
Bà Lâm gọi phone cho ông bà Nhất trước khi lái xe đến khách sạn nên ông bà Nhất đã sẵn sàng đợi nơi phòng khách lớn ở mặt tiền khách sạn. Họ lên xe cùng đi với ông bà Lâm.
Đến khu shopping hai vợ chồng chủ cùng hai vợ chồng khách đi thăm khu thương mại... Bà Lâm tươi cười hớn hở giới thiệu tỉ mỉ:
- Đây là nhà hàng Thiên Thai, rộng 4,000 Spf, với giá họ thuê là 2 đồng mỗi Sqf.
Kia là những văn phòng bán vé máy bay, tiệm dry clean, tiệm bán băng nhạc, kìa là lò sản xuất đậu hũ tươi ngon rất đắt khách.
Ông bà Nhất luôn miệng xuýt xoa:
- Khu này buôn bán sầm uất quá...
- Các cửa hàng sạch đẹp quá.
Bà Lâm hãnh diện, dài dòng khoe:
- Khách thuê 100% đấy, chẳng thừa một chỗ nào, toàn là những hợp đồng lâu dài và ký đi ký lại vì không ai muốn rời khỏi khu business đông vui ăn nên làm ra như thế này anh chị ạ. Ngay cả lúc gía cả địa ốc bèo bọt vừa rồi vì nền kinh tế xuống dốc thì khu shopping của chúng tôi vẫn chẳng ảnh hưởng gì, giá thuê vẫn cao, và nếu muốn bán thì thiên hạ cũng tranh nhau vào mua.
- Thế thuế má địa ốc cao không hở chị?
Bà Lâm lại được dịp khoe:
- Thuế và bảo hiểm chẳng là bao so với lợi tức, mà giá trị của tài sản địa ốc thì vững vàng.
- Anh chị có tài kinh doanh, nếu chúng tôi ở Mỹ cũng cần học hỏi nhiều từ anh chị.
Bây giờ bà Lâm mới giả bộ khiêm tốn:
- Không dám nhận lời khen của chị, chuyến về Việt nam của tôi vừa rồi cũng học hỏi được anh chị rất nhiều, kinh doanh ở Việt Nam nhiêu khê vì phải luồn lách, chạy chọt trăm bề mà thành công như anh chị mới là tài.
Sau khi thăm khu shopping ông bà Lâm đưa ông bà sui gia tương lai đến thăm cửa tiệm chuyên bán nước hoa mỹ phẩm của họ. Là một cửa hàng lớn nằm trên khu phố mua sắm lớn trong thành phố.
Bước vào trong tiệm đang có khá đông khách, cô Kim Chi đang đứng trong quầy tính tiền bận rộn, phụ trông cửa hàng với Kim Chi có hai cô nhân viên một cô người Mỹ trắng và một cô người Mễ. Cửa hàng nước hoa và mỹ phẩm vừa bán lẻ và bán sỉ.
Mỹ phẩm chất đầy trong tủ kính, trên quầy trên kệ hộp lớn hộp nhỏ đủ loại với màu sắc kiểu dáng thật lộng lẫy và sang đẹp.
Ông bà Nhất mỉm cười sung sướng khi thấy con gái có vị trí thân mật và quan trọng trong cửa hàng, cũng như trong gia đình ông bà Lâm.
Bà Lâm đon đả:
- Đây là cửa hàng do tôi đứng bán từ nhiều năm nay, và sẽ giao cho vợ chồng Brian Kim Chi trông coi cùng với khu shopping lúc nãy để vợ chồng tôi nghỉ hưu sớm hưởng nhàn.
Bà Nhất cũng đon đả:
- Cám ơn anh chị, con gái chúng tôi thật may mắn được hưởng phước nhà chị. Chúng tôi cũng chỉ có mình Kim Chi là con thì trước sau gì tài sản của lớn của bé cũng để cho con hết, đợi nó có thẻ xanh, hay chắc ăn hơn có quốc tịch thì chúng tôi sẽ chuyển hết tài sản thành hiện kim mang sang Mỹ cho nó đầu tư kinh doanh...
Bà Lâm mừng thầm, nhưng cũng khuyên:
- Anh chị đang làm ăn phất quá mà, tiền bạc cứ như nước sông nước suối chảy vào túi thì tội gì ngừng? Bà Nhất cương quyết:
- Chúng tôi đã lên kế hoạch thế rồi chị ạ. Làm ăn, giàu có ở Việt Nam cũng hồi hộp lắm.
Ông Nhất thêm vào:
- Mang tiền sang Mỹ kinh doanh là bảo đảm nhất, chẳng ai hà hiếp được mình.
Sau đám cưới tưng bừng và đình đám của Brian và Kim Chi, một là con nhà giàu ở Mỹ và một là con nhà đại đại gia ở Việt Nam thì ông bà đại gia Nhất tạm biệt sui gia đi du lịch ở tiểu bang khác với người thân của họ. Bà Lâm cũng qúa mệt mỏi vì bận rộn từ lúc ông bà Nhất sang Mỹ hết tiếp đón tiệc này đến nhà hàng kia lại đến tổ chức một đám cưới gây tiếng vang trong bạn bè và cộng đồng người Việt tại địa phương, bà thật sự muốn một mình thảnh thơi như ngày hôm nay.
Bà đang nằm ngả người trên chiếc ghế vải kê ven hồ bơi nhà bà, bên cạnh một giàn hoa Tigon xum xuê những chùm hoa tim màu hồng đỏ.
Bà Lâm sung sướng và hài lòng ra mặt, tất cả những tính toán của bà đều đâu vào đấy y như có bàn tay nhiệm màu nào xếp đặt...
Bà nhớ lần về Việt Nam bà đã choáng ngợp và hoa mắt trước sự thành đạt của ông bà Nhất, họ làm chủ công ty “Duy Nhất” chuyên khai thác và xuất khẩu gỗ, ngoài ra còn làm đại lý xe hơi, mua bán địa ốc, v..v..So với họ thì tài sản của nhà bà chỉ là món cỏn con.
Ông Lâm từ trong nhà đi ra đứng bên bà từ lúc nào:
- Bà không xuống hồ tắm nằm đây nghĩ gì mà mỉm cười một mình thế?
- Thì còn gì ngoài con mình. Hôm đám cưới chúng, bạn bè và người thân ai cũng phải khen chúng đẹp đôi và khen chúng ta có sui gia xứng đáng. Nhiều người tỏ ra ghen tị vì hạnh phúc may mắn nhà mình đấy.
Ông Lâm thành thật:
- Ừ, tôi cũng nghĩ thế, vừa được dâu đẹp dâu ngoan vừa có sui gia giàu có thì ai chẳng hài lòng. Tôi phục bà thật đấy, bà tính toán nhanh như chớp mà không sai tí nào. Bà chủ trương cưới ngay, cưới sớm không đợi con Kim Chi ra trường.
- Cờ đến tay là phất, đợi nó mấy năm nữa ra trường thì tôi sốt ruột lắm, cưới chồng xong rồi học tiếp có sao đâu. Ở Mỹ người ta có con vẫn còn đi học mà.
Bà hoan hỉ tính tiếp:
- Ông à, chỉ 4 năm sau là con Kim Chi sẽ có quốc tịch Mỹ, lúc ấy bố mẹ nó sẽ chuyển tài sản sang Mỹ cho con. Hai vợ chồng nó như ngồi trên đống của của hai bên cha mẹ, đời con mình sướng đời cháu đời chắt mình cũng tha hồ sướng…

*****************

Kim Chi đã là vợ Brian, nàng tiếp tục đi học và phụ giúp mẹ chồng bán hàng nước hoa mỹ phẩm. Brian thì làm kỹ sư, công ăn việc làm vững chắc.
Cửa hàng nước hoa vẫn đắt hàng và khu shopping vẫn đầy khách thuê mướn. Tóm lại công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió.
Vợ chồng Brian mua một căn nhà đẹp ở riêng, ông Bà Lâm vẫn ở căn nhà của ông bà.
Bà hài lòng lắm nhưng vẫn… mơ thêm:
- Ông ơi, ước gì mình sang tên nốt căn nhà này cho vợ chồng thằng Brian rồi xin nhà ở diện housing nhà nước trợ cấp nhỉ?
Ông phản đối:
- Bà ơi, bao nhiêu tài sản vốn liếng mình đã cho nó hết rồi, còn căn nhà mình để ở, ít ra cũng còn chút gì là của riêng mình chứ. Chẳng lẽ mang tiếng giàu có như mình mà đi ở nhà housing à? Bà tham lam, bà tính toán cạn tàu ráo máng thế coi sao được, cho dù là bà đang nói đùa hay chỉ là đang mơ...
- Nhưng… người ta làm thế thiếu gì, họ cũng là chủ tiệm vàng, chủ mấy tiệm nail kia kìa. Ở nhà diện housing mình khỏi phải lo sửa chữa, khỏi cần cắt cỏ và nhất là khỏi cần trả tiền bảo hiểm, tiền thuế nhà, chỉ trả hàng tháng một món tiền nhỏ mà thôi.
- Thế bà không ngại ông bà sui gia đánh gía à? họ lại sắp sang Mỹ thăm chúng ta, chẳng lẽ bà tiếp ông bà sui trong một căn phòng bình dân của nhà chung cư?
- Thì tôi chỉ… mơ thêm cho vui mà, ông bà sui chắc là muốn sang thăm con gái đấy, xem chúng nó sau ngày cưới nhau đến giờ cuộc sống ra sao. Họ nói thăm mình chỉ là xã giao thôi.
- Lần này không biết ông bà sui có đi chu du vài tiểu bang như năm ngoái không nhỉ?
Bà Lâm lại đoán non đoán già:
- Dĩ nhiên là có để tiêu pha bớt tiền cho khỏi nặng túi chứ ông.
Ông bà Nhất sang Mỹ đến ở thẳng nhà riêng của vợ chồng Brian và Kim Chi, ông bà Lâm lại mời mọc và săn sóc hai ông bà sui nhiệt tình không thua gì lần trước, sau đó ông bà Nhất cũng đi thăm thân nhân của họ ở vài tiểu bang và cuối cùng thì trở về nhà Brian và không đá động gì đến ngày trở về Việt Nam…
Ông bà Lâm không dám hỏi chỉ thắc mắc bàn bạc với nhau:
- Sao chuyến đi Mỹ này ông bà sui trông không vui bằng năm trước ông nhỉ?
- Chẳng lẽ họ có điều gì chưa hài lòng chúng ta?
- Họ còn muốn gì hơn chứ, con gái họ từ một du học sinh tạm trú đã lấy được chồng có nghề nghiệp bằng cấp và định cư ở Mỹ hẳn hòi lại cùng chồng nắm giữ cả tài sản nhà này... Câu “có điều gì chưa hài lòng” phải dành cho tôi, tôi đang chờ mong vài năm nữa vợ chồng ông sui sang Mỹ định cư với con và mang theo tất cả tài sản của họ.
Buổi chiều trong lúc bà Lâm đang nấu cơm thì ông Lâm từ trong phòng computer bước ra với vẻ mặt hơ hãi:
- Ôi, bà ơi, bà ơi !
- Gì thế? Ông đọc tin gì kinh thiên động địa thế?
- Báo điện tử Việt Nam đăng tin…
Ông Lâm còn đang thở vội để có sức trình bày thì bà hớt lời:
- Lại tin cướp giết chủ tiệm vàng dã man? hay tin dân làng xông ra đánh chết người về tội đi trộm chó hả ông? họ chẳng cần đợi luật pháp, cứ tự xử, xem mạng người không bằng con chó.
Bà lại lanh chanh hỏi tiếp:
- Hay báo đưa tin các thực phẩm ở Việt Nam đầy hóa chất độc hại? hay các y tá bác sĩ ở bệnh viện coi sinh mạng bệnh nhân như rơm như rác? Tôi nghe nhiều lần nhàm tai thành chuyện bình thường rồi.
- Không phải những tin ấy bà ơi, mà là tin công ty… công ty Duy Nhất của ông bà sui mình...
Bà nghểnh mặt ra hỏi vội:
- Công ty Duy Nhất hả? hả? có chuyện gì vậy ông?
- Là một công ty chuyên lừa góp vốn cổ đông và lươn lẹo vay tiền ngân hàng này trả cho ngân hàng kia để kéo dài nguồn vốn đầu tư kinh doanh, nay công ty thua lỗ nợ nần chồng chất không thể cầm cự nổi, chủ công ty là ông Nguyễn văn Nhất đã cùng vợ bỏ trốn ra nước ngoài. Tức là đang ngồi lù lù trong nhà con trai mình đây.
Bà Lâm đang thái thịt bằng con dao sắc, bà giật mình thái vào cả ngón tay làm chảy máu:
- Họ có lộn không? Có vu khống, chụp mũ cho ông bà sui không? Lúc tôi về Việt Nam tận mắt trông thấy những cơ ngơi làm ăn, nhà cao cửa rộng và hai ba chiếc xe hơi loại sang loại đẹp của ông bà sui mà. Mình còn chưa dám ở nhà đẹp và xài loại xe sang như thế.
- Bà ơi, cơ ngơi mặt bằng kinh doanh có thể đi thuê đi mướn, có một căn nhà ngất ngưỡng mấy tầng thì cũng từ tiền thiên hạ xây lên, coi như món hàng đem cầm cố thế chấp hết ngân hàng này tới ngân hàng kia bằng đủ loại giấy tờ nhập nhằng chứng minh chưa cầm cố lần nào, bây giờ các ngân hàng đang tranh nhau, đang xâu xé căn nhà để vớt vát lại đồng nào hay đồng ấy, nói chi vài ba xe hơi cũng toàn là đi thuê đi mướn để làm bộ mặt chủ cả giao thiệp làm ăn với đời…
Bà Lâm ôm ngón tay rên lên vì đau từ hai phía, đau ngón tay và đau lòng:
- Trời ơi, vậy ra ông bà sui lừa cả vợ chồng mình, khoe giàu khoe sang trong khi sự giàu sang chỉ là giả tạo, tiền muôn bạc tỉ toàn là tiền vay mượn từ thiên hạ, mình đã hí hửng làm sui và trân trọng quý hóa họ như vàng ròng bạc nén...
Ông Lâm vẫn còn hơ hãi:
- Còn nữa bà ơi, họ cũng nói đến Kim Chi con gái của đại gia công ty Duy Nhất.
- Không lẽ họ kết tội cả con gái người ta trong vụ làm ăn lừa đảo này sao? Nó có tội tình gì?
- Bà bớt lanh chanh cho tôi nói được không, con Kim Chi không lừa đảo trong vụ này nhưng nó lừa đảo cả nhà mình. Báo chí đào bới cả đời tư gia đình ông chủ công ty Duy Nhất, họ nói Kim Chi là một cô gái ỷ vào tiền và tên tuổi cha mẹ lúc hưng thịnh đã không chịu học hành, ăn chơi bạt mạng, xài tiền như xài tờ giấy báo, tờ giấy rác Ông bà đại gia Nguyễn Văn Nhất vội tống cô con gái đi du học để tránh tai tiếng, nó có học được hay không thì kệ nó...
Bà Lâm rũ người ra rên rỉ nhưng vẫn tò mò thắc mắc:
- Nhưng nó học hành không ra gì làm sao đủ tiêu chuẩn du học hả ông ơi?
- Ở Việt Nam cái gì chẳng làm giả được, có tiền là mua được bằng cấp. Chưa biết chừng con Kim Chi đã nộp hồ sơ xin du học với bằng tốt nghiệp phổ thông loại giỏi nữa đấy và nhà có tài sản chứng minh thì được chấp nhận ngay thôi.
Bà rên rỉ to hơn:
- Ôi, ông ơi... mình đã rước của nợ ấy vào nhà… hèn gì con Kim Chi mang tiếng là đi học mà chẳng nghe nó nói bao giờ ra trường.
- Bà đừng tưởng những sinh viên Việt Nam du học đều là những cậu ấm cô chiêu hay tiểu thư kín cổng cao tường và ngoan hiền lịch sự sang Mỹ học hành để mở mang kiến thức. Loại người như Kim Chi không thiếu.
- Tôi cũng nghe trường hợp những du học sinh mục đích sang Mỹ là tìm cách ở lại, họ học thì ít mà lo kiếm chồng tìm vợ thì nhiều. Con Kim Chi cũng thế, hèn gì lúc nó mới xin vào làm bán cửa hàng nước hoa với tôi, nó đã vô cùng ngọt ngào, luôn chứng tỏ mình là cô gái ngoan gái tốt và làm như rất vô tình khoe gia cảnh giàu sang quý phái của gia đình nó ở Việt Nam, chắc là mong tôi để ý có ai thì mối mai cho nó. Vì thế tôi mới chấm nó cho thằng Brian nhà mình chứ tội gì làm mai cho ai món bở béo này... Ai ngờ..!!!
- Ông bà Nhất cũng tính toán cả đấy, vừa tống của nợ đi xa khuất mắt vừa mong nó lấy chồng hay định cư ở Mỹ may ra đổi tính đổi nết và đổi đời, còn hơn để nó ở nhà phá của và nuôi báo cô.
Bà vừa quấn miếng band-aid vào ngón tay cho cầm máu vừa hùng hổ đứng vùng dậy:
- Ngày mai tôi sẽ sang tên tất cả tài sản lại cho tôi và ông.
Ông Lâm thở dài não nề:
- Chuyện lo trước mắt là hạnh phúc của thằng Brian kìa, nó đã yêu thương con Kim Chi thật tình đừng làm tổn thương đến nó, còn Kim Chi đối với con mình ra sao thì có trời biết? Tôi và bà hãy chấp nhận thương đau, chấp nhận số mệnh, cầu mong Kim Chi đổi tính đổi nết như bố mẹ nó mong ước và cũng yêu thương Brian thật lòng.
Bà vẫn hoang mang đau đớn không thốt nên lời, còn ông Lâm thì đau đớn kết luận:
- Bao nhiêu lần bà tính toán đều hay đều đúng, lần này cú tính toán của bà đã sai và thua to rồi.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Sep/2017 lúc 5:26am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 24/Sep/2017 lúc 5:19am

TUỔI DẠI



Ngày nào cũng vậy, tan học về khi tắm rửa cơm nước xong, tôi thả bộ đến xóm trên để ráp lại với lủ trẻ nơi này bày trò mghijch ngợm, cái khoảnh sân nhà ông Sáu là nơi lý tưởng để cả đám nô đùa,

vì nơi đây nó rợp bóng mát bởi tàn của những cây Vú sữa được trồng khá gần nhau, ở đây được bày nhiều trò chơi do thằng Cảnh cầm đầu, nào là chơi ăn ô quan, chơi trò trốn tìm, đánh bông vụ ( con quay), bắn bi, đá cầu, dá dế . v.v… Nhưng cái trò đám con trai hồi đó thích nhất là  chơi u và chơi  Rồng rắn lên mây, sở dĩ cái đám ” Đực rựa”  mê trò này vì có dịp để nắm tay mắm chân thậm chí ôm eo ếch các cô nàng trong xóm  mà không bị xem là “Dê xồm” , vì trò này bắt buộc phải có những động tác như vậy mới thành trò chơi, cũng thành thật mà nói mấy cô nàng ngày xưa tuy to xác mà trong tâm hồn thật hồn nhiên vô tư trong các trò chơi, thậm chí các nàng khi nắm tay nắm chân hoặc ôm eo ếch thì giữ thật chặt, vì các nàng ta sợ nắm hoặc ôm lỏng lẻo sẽ bị vuột ra thì sẽ thua phía bên kia khiến cho đám con trai ngượng ngùng, đám con trai tuy tinh ranh phá phách kèm theo chút tò mò nên có thằng trong bọn biết thằng này ,thằng kia có lúc làm bộ quá trớn té vào các nàng để có điều kiện khám phá cái cảm giác thơm ngất ngây  mùi bồ kết trên mái tóc dài của các nàng, cái hương thơm toát ra từ làn da mái tóc của các cô nàng làm cho cả bọn khoái chơi cái trò “Chung đụng” này là vậy.

                                           * * *

    Từ lúc có thêm vài ba gia đình  dọn về cư ngụ trong xóm, cả nhóm chúng tôi thầm mừng bởi lẽ từ đây sẽ có thêm vài ba đứa trong số gia đình này nhập bọn để cùng đi học cùng chơi với mọi người , trong số họ có gia đình của cô Hai chạy nạn chiến cuộc từ một tỉnh miền núi về đây, tôi công nhận cô Hai là một người thật giỏi giang, một thân một mình mà cô lo cho cả bầy con sáu đứa an học đến nơi đến chốn,  Mai con gái lớn của cô Hai nàng cũng giỏi giang không kém mẹ, thấy mẹ nhà đơn chiếc bởi cha của mình tử trận nơi chiến trường ví như căn nhà  mất đi trụ cột có thể xiêu vẹo và sụp đổ lúc nào không hay, ý thức của đứa con gái đầu lòng , Mai vùa đi học vừa làm thật chăm chỉ  khiến đứa nào trong nhóm cũng phải kính nể, và điều làm cho cả đám con trai thật sự kính nể là nàng Mai nhà ta học rất giỏi vì lúc nào bảng vinh dự trong lớp nàng ta đều nằm ở ngôi vị “Bá chủ võ lâm” thử hỏi làm sao chúng tôi không phục…

    Mai về ở cũng gần cả tháng, tôi cố lân la làm quen mãi nhưng chưa có dịp thuận tiện, vì khi đi học về cô nàng ôm cái cặp trước ngực, nàng đi thật nhanh về nhà , từ xa xa tôi nhìn đôi tà áo dài trắng của nàng phất phới bay trong gió , tôi liên tưởng nàng như cánh bướm  trắng  vờn bay, biết được trong lòng tôi đang cố đeo đuổi làm quen với Mai, thằng Cảnh bạn tôi nó bèn này tôi một ” Chiêu thức” để lấy tình cảm với Mai, tôi thấy cũng hợp lý bà hợp với hoàn cảnh thời bấy giờ nên tôi nghe theo lời thằng “Quân sư” , nhưng tôi cũng làm bộ nói như không quan tâm lắm đến chuyện này để thằng Cảnh nó không  có cớ ghẹo tôi sau này, tôi nói với nó :

    -Ái chà , ông bày cách này tui thấy cũng có lý à nghe, nhưng ….

   Tôi chưa kịp bày tỏ hết sự e ngại thì bị thằng Cảnh nói chặn họng tôi liền:

   – Ông này ngộ ghê, cái vụ này tui áp dụng rồi, lúc trước mần quen với nhỏ Thúy tui áp dụng y chang kiểu này nè

  Nóng ruột muốn biết kết quả ra sao, tôi bèn cướp lời nó:

  – Vậy là em Thúy quen với ông bằng cách này đó hả, chắc ăn không ông, ông xúi dại , nàng Mai mà lắc đầu thì có nước tui độn thổ nghe ông .

  Thằng Cảnh  nó lườm tôi bằng cặp mắt ” mang hình viên đạn” , nó nói:

  – Thôi , nếu ông ngại thì thôi đi, ông muốn làm quen kiểu nào thì tự lo, coi như tui chưa nói gì hết nhe.

   Bết cái tánh hờn mát của thằng quỷ này lớn hơn cái tuổi của nó nhiều, chơi với nhau hàng ngày ai nói gì không vừa ý nó hay làm mặt giận, tôi bèn nói:

  – Nói vậy thôi, cảm ơn ông không hết  chứ có gì đâu mà nghi ngại, ngày mai tui áp dụng liền :

( Thằng Cảnh nó bày kế cho tôi, mua một phong bánh in nhân đậu xanh ở tiệm tạp hóa của cô Ba bán trong xóm, gói ghém cẩn thận rồi viết vài dòng chữ kèm theo bảo đảm nàng Mai sẽ nhận lời làm quen,vì đâu có cô gái nào mà không hảo ngọt).

  Vài ngày sau, tôi chắt mót được một ít từ số tiền tôi được ba má cho đi học mỗi ngày, vậy là dư sức mua một phong bánh in và có thể mua được thêm cái kẹp tóc màu hồng có con Bướm trang trí  bên trên, chưa có mua quà cho nàng mà tôi đã thấy vui sướng lâng lâng trong lòng rồi, khi mua xong phong bánh in và cây kẹp tóc, lúc này tôi mới lúng túng không biết trao cho Mai bằng cách nào, lúc này tôi mới thấy mình lơ đễnh không hỏi kỹ càng cách thức trao cho Mai bằng cách nào, chặn đường đưa tận tay thì thú thật tôi không có thừa can đảm để thực hiện, mà nhờ trung gian thì không nên vì sẽ ” Lộ bí mật”,  suy đi nghĩ lại chỉ còn một cách tự mình thực hiện …

   Tôi canh giờ nàng học bài xong Mai sẽ ra sau nhà để lo cơm nước cho gia đình, chắc chắn phía nhà trên chẳng còn ai, tôi rón rén đến bên cửa sổ , may là cửa sổ nàng không đóng tôi nhìn vào bên trong , giật mình vì có thằng Bình em nàng nó đang nhìn tôi , thời may Bình lúc này còn nhỏ và nói chuyện chưa rành nên tôi cũng tạm yên tâm, tôi có nhoẻn miệng cười với Bình cho nó đừng sợ hãi khóc thét lên bất tử, lại thêm một cái may nữa thằng Bình nó cười với tôi, cười với một kẻ lạ hoắc,.. Tôi đặt phong bánh in và cây kẹp tóc cùng một lá thư ngắn bày tỏ ý muốn làm quen, tim tôi lúc này nó đạp thình thịch trong lòng ngực vì hồi hộp , lúc này mà Mai xuất hiện bất chợt chắc tôi sẽ vỡ tim mà chết vì sợ sệt. Cố nén lòng tôi đưa tay ra hiệu chào từ giả thằng Bình rồi cười với nó lần nữa và Bình cũng cười với tôi khiến tôi thấy vui vui trong lòng vì đã làm trót lọt mưu tính của riêng mình …

    Hôm sau nàng đi học về , vẫn tha thước trong tà áo trắng học trò, tôi đạp xe đến gần Mai và cố tình đạp thật chậm , tôi nín thở và tưởng tượng sẽ nghe được tiếng gọi tên mình thốt ra từ cửa miệng của nàng, thời gian trôi thật chậm tôi cố đợi chờ, chừng nghe tiếng của thím xẩm đang gánh cái gánh chè la lên tôi mới hoàn hồn :

  – Cái thằng nhỏ này, chạy xe “li lâu”, để con mắt lên trời hả, may thôi “lụng” tui té xỉu rồi “ló” .

   Tôi lật đật nói lời xin lỗi thím rồi nhấn ” pê đan” vọt thẳng về nhà trông thật bẽ bàng, chừng tỉnh táo lại tôi tự đặt câu hỏi , bánh và thư có tới tay nàng không? Nếu tới tay nàng rồi, bánh in đã ăn rồi sao không trả lời thư hoặc nói lời gì với tôi cho phải phép, nàng làm thinh có nghĩa là có thể nàng không thích tôi nên cố tình làm lơ, hoặc có thể món quà không đến tay của màng, nếu thất lạc thì quà đó ai đã cưỡm mất rồi, tôi bèn  nghĩ ra cái kế để kiểm tra lại  thật sự món quà  ở đâu , nàng có sử dụng rồi mà làm lơ với tôi chăng, nghĩ là thực hiện ngay , tôi nóng ruột muốn tìm ra đáp số cho ” bài toán” này, chờ đến trưa khi mọi nhà đều nghỉ trưa, tôi đến nhà nàng, tôi chạy ngay đến thùng rác để bên hông nhà , tôi dùng cái que nhỏ lục tung cái thùng rác ra xem coi có cái chứng tích gì của phong bánh in hoặc tờ giấy gói quà thì sẽ hiểu được vấn đề, ” Dã tràng se cát biển đông” đó là ám chỉ cho hành động moi thùng rác nhà của Mai, tôi thất vọng không thấy gì ngoài rác của gia đình Mai bỏ ra, tôi thất thiểu ghé nhà thằng Cảnh, đến trước nhà tôi bắt gặp nó đang nhai  mấy cái bánh in đậu xanh, dưới chân nó cái kẹp màu hồng nằm chỏng chơ, cạnh đấy đúng là lá thư của tôi viết bị ai vò nhàu nát, tôi hiểu ra sự việc bèn nhào tới cốc lên đầu thằng Cảnh một  cái khiến nó đau điếng, tôi lên tiếng trách nó :

  – Ông ngon quá há, quà tui tặng cho Mai mà ông dám  ” chôm chỉa” về đây ngồi ăn ngon lành vậy hả?

  Tuy đang bị đau vì cái cốc của tôi, thằng Cảnh cũng lên tiếng phân bua:

  – Ai nói ông tui chôm chỉa quà của ông tặng cho Mai.

Thấy bị “bắt tận tay, day tận mặt” mà thằng quỷ này còn lên tiếng chối bài hãi, giận qúa tôi lớn tiếng với nó :

   – Cái này là cái gì đây ông , sờ sờ ra đó ông còn chối nữa hả , nghỉ chơi với ông luôn, bạn gì xấu hoắc.

  Thay vì bực tức khi bị tôi mắng xối xả, vậy mà nó vẫn cười thành tiếng, nó nói với tôi :

  – Ông bình tĩnh nghe tui nói nè , ông tặng quà cho Mai đúng không?

  Tôi hỏi vặn lại nó :

  – Ừa thì sao nữa ?

– Mai nhận rồi, nhưng Mai không xài, Mai đem lại đây nói Mai tặng cho tôi, nói xong nàng bỏ thí trên bàn rồi quầy quả quay về, màng không xài thì tui xài cũng vậy thôi  đúng không, còn phân nửa phong bánh in kia chừa ông đó ăn đi cho hạ hỏa ông ơi! .

   Thế là đã rõ , Mai đã gián tiếp cho tôi biết nàng không chấp nhận tình bạn với tôi, khỏi nói chắc mọi người cũng hiểu, tôi buồn đau vô cùng , nhìn đâu cũng thấy bầu trời u ám, tôi không tha thiết với mọi việc chung quanh nữa ,ánh mắt của Mai nhất là nụ cười thật tươi và không kém phần duyên dáng nó đã hốt hồn tôi trong cái nhìn đầu tiên khi nàng chính thức cư ngụ trong xóm tôi , sau này lớn lên tôi mới biết mình lần đầu bị “sét đánh” là đây.

   Dân gian mình câu ” Thua keo này, bày keo khác”, tôi nỗ lực rất nhiều lần  để cố lọt vào đôi mắt xanh của Mai nhưng càng ngày càng vô vọng , vậy là tôi mang cái bệnh thất tình từ dạo ấy, tôi học hành bắt đầu sa sút, khi biết được tình trạng của tôi mắc phải, ba tôi giận dữ ông cho đã bố tôi một trận bằng cây ” chả lông gồi” đau điếng, sau trận đòn này dường như hiểu được tình cảm và nỗi đau trong lòng  tôi, ba lấy lời khuyên giải.

  – Tụi con còn nhỏ , chuyện bạn bè yêu đương sẽ ảnh hưởng việc học , con Mai nó làm vậy phải rồi con cũng đừng buồn, nhà Mai nghèo , đông anh chị em nó cố gắng học hành đỗ đạc để sau này còn phụ cho thím Hai nữa, yêu đương sớm qúa không nên con ạ.

    Nghe ba tôi phân tích về Mai như thế,chẳng những  tôi không để tâm ghét bỏ nàng, vì nàng chẳng thèm đoái hoài gì đến tấm chân tình của tôi mà tôi còn cảm phục Mai nhiều hơn.

                                       *  *  *

      Tôi lên đường nhập ngũ, đi chinh chiến miệt mài nơi những vùng xa tít tận miền trung nắng gió, nhớ nhà, nhớ bạn bè trong xóm nhỏ thân yêu, dĩ nhiên trong lòng tôi cũng còn chổ để chứa cái tình đơn phương với cô bạn nhỏ ngày nào, nhưng cuộc chiến khốc liệt  khiến tôi tạm quên những chuyện buồn nơi miền hậu tuyến, một hôm tôi được một phong thư, phong thư mà tôi nghĩ chẳng bao giờ mình sẽ vinh hạnh có được, Mai gửi cho tôi một lá thư kể về tình hình hậu phương, chuyện xóm làng , chuyện những đứa bạn thuở nhỏ , đọc thư của Mai tôi thấy mình sống lại tuổi còn thơ, như cuộn phim chiếu chậm , tôi đã khóc khi hay tin vài ba đứa bạn đã ” Ra đi” không hẹn ngày về, và tôi đã khóc trong Hạnh phúc nàng cố tình đối xử tàn tệ với tôi không phải nàng không hiểu tình tôi, mà nàng đã nói y như ba tôi  phân tích sau trận đòn bằng chổi lông gà , tôi xúc động thật sự, tôi không thể là người tình của nàng , nhưng tôi có vị trí đặc biệt trong trái tim nàng, là một người anh kính mến của nàng .

                                        * * *

Miền Nam  gãy súng, cuộc sống hàng ngày của mọi gia đình bị đão lộn, gia đình của cô Hai  trở về quê sinh sống, riêng Mai thì theo bạn đi định cư nơi xứ người quanh năm giá rét, tôi trở về sống lại nơi xóm nhỏ ngày nào, mỗi lần có dịp đi nganh căn nhà cũ của Mai nó làm lòng tôi lại xao động như Thuở nào.

    Được tin cô Hai mang căn  bệnh ung thư giai đoạn cuối, tôi thẩn thờ cả ngày, tuy không bà con  họ hàng gì với cô nhưng  đã từ lâu tôi xem cô như mẹ mình, nên tôi thật sự sốc khi nghe hung tinh này, tôi lật đật vào bệnh viện thăm cô , mấy chục năm gặp lại mừng mừng tủi tủi, cô nằm trên giường bệnh mặt vẫn tươi cười cho dù tóc trên đầu cô rụng sạch nhẵn, cô nói đùa với tôi một câu khiến tôi già hai thứ tóc trên đầu mà phải bẻn lẻn vô cùng:

   – Bây giờ bây còn thương con Mai không?  Mầy là thằng rể hụt của cô đó.

  Tôi xúc động tột cùng với câu nói đùa của cô, bởi vì rốt cuộc cũng đã hiểu được tấm chân tình tôi dành cho cô  và cho cả gia đình Mai bấy lâu, từ giả cô tôi ra về với tâm trạng buồn vui lẫn lộn trong người.

  Cô Hai .mất một chiều cuối đông sau ba ngày tôi gặp cô nơi bệnh viện, cô ra đi rất thanh thản không chút vướng bận, vì cô đã dốc hết sức để nuôi nấng , dạy dỗ cho đàn con yêu dấu thành đạt nên người, trong đó có Mai cô em gái của tôi đang là một khoa học gia danh tiếng  nơi xứ người.

 Cô Hai ơi! Con chúc cô ” an giấc ngàn thu” nơi miên viễn cô nhé.

, Hai Hùng SG



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Sep/2017 lúc 5:21am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2017 lúc 10:14am

“Thằng” Bố Vợ Tôi 


Gọi bố vợ bằng thằng là điều không ai chấp nhận được. “Tứ thân phụ mẫu”, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng đều phải được kính trọng, thương yêu như nhau. Cha vợ hay cha chồng đều gọi bằng cha, bằng bố. Mẹ vợ hay mẹ chồng đều được gọi bằng mẹ hay má, v.v… Trong luân lý nầy, người Mỹ khác với người Việt. Không phải là cha mẹ sinh ra mình, mà cha mẹ của vợ hay chồng, họ thêm vào chữ “in law”. Tại sao phải phân biệt cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng? Thế mà tôi gọi bố vợ bằng “thằng”. Nếu người ta chưởi cho, mắng là đồ mất dạy, hổn láo, vô văn hóa cũng là chuyện thường.
Bố vợ tôi không phải là người mất tư cách hay vô lương tâm, hay làm điều chi vô luân bại lý mà để tôi khinh thị gọi bằng “thằng”. “Ông” là người rất hiền lành!

Thế mà một buổi sáng, bọn tôi ba “đứa”, những “đứa” còn sót lại trong cuộc chiến tranh tàn khốc vừa qua, nay “lưu lạc” ở xứ “Mỹ cờ hoa” nầy, ngồi uống cà-phê trong một cái quán ăn sáng ở Orange County, quán tuy không đẹp nhưng thanh lịch, cây cỏ chung quanh tươi mát đẹp đẽ, vậy mà Quang mắng tôi một câu nghe thật buồn cười:
-“Mày dẹp cái trò “bố bố con con” của mày lại đi. Mày, tao với nó là bạn, bạn từ hồi còn mặc quần xà-lỏn, gọi nhau “mày mày tao tao” quen đã mấy chục năm. Bây giờ nghe mày xưng “bố con” với nó, tao không thấy buồn cười mà thấy bực mình, mất vui.”
Quang gọi là “nó”. Nó là bố vợ tôi đấy, là một đứa bạn trong bọn tôi đấy. Sao gọi là “bọn tôi”?
Trước Hiệp Định Genève 1954 thành phố Saigon chỉ “rộng” tới cầu Trương Minh Giảng. Bên kia cầu, còn là vùng đất hoang, lầy lội, lau sậy mọc um tùm. Vùng đất ấy, xưa, chỉ có một xóm nhà nhỏ, của dân mò cua bắt ốc và trộm cắp. Người ta gọi đó là “Xóm Vẹc”. Hồi ấy, dân chúng tập trung sống ở trung tâm Saigon, còn như ai ở “Xóm Vẹc”, là vùng ngoại ô, mất an ninh. Dân nhậu Saigon, nhà ở Xóm Vẹc, một là nhậu cho “tới chỉ” thì ngủ lại nhà bạn. Còn như ai muốn về thì lo về sớm. Về khuya trên đường Xóm Vẹc, không chừng bị du đảng đánh cho, bị cướp tiền bạc, bị lấy xe đạp. Lỡ như ai đó nhậu chưa tới, nửa muốn ở, nửa muốn về, bạn bè sẽ có người bảo: “Thôi để cho ông ấy về, đường khuya nguy hiểm”.
Thế rồi cả triệu người di cư năm 1954. Ai gốc nông dân, người ta định cư ở vùng nông thôn, dinh điền, khu trù mật… tiếp nối cái nghề tổ tiên để lại. Ai dân Hà Nội hay thành phố ở ngoài Bắc, không quen làm ruộng thì tập trung ở Saigon hay các thành phố khác phía nam vĩ tuyến. Không còn đủ đất ở trung tâm Saigon, nên thủ đô miền Nam phình rộng ra.
Ngay xứ tôi ở, Xóm Vẹc ngày xưa, nay dân di cư tập trung đông đúc. Từ phía đầu cầu Trương Minh Giảng, lên tới “Lăng Cha Cả” là chỗ người Bắc định cư. Những khu vực được nhiều người nhắc tên mới là “Xóm Bùi Phát”. Có phải họ gốc Bùi Chu/ Phát Diệm? Nhà Thờ Ba Chuông, Cư Xá Đô Thành.
Nhà Thờ, Chùa và Chợ theo dân mà mọc lên. Lăng Cha Cả ở cuối đường Trương Mình Ký, ngày xưa vắng vẻ, quạnh hiu, nay thành nơi đô hội. “Cái nhà lăng” kiểu xưa, ngói âm dương, cột kèo cũ kỷ nằm chơ vơ, xa lạ trước những ngôi nhà lầu cao vài ba tầng, kiểu mới, hiện đại.
Bọn tôi, cũng gốc “rân ri-cư”, – như chúng tôi thường gọi đùa chính mình -, từ năm lên năm, lên mười, lớn lên ở cái “Xóm Vẹc” thời xa xưa ấy. Tên đường Alfred Eyriaud Des Vergnes đổi thành đường Trương Minh Giảng, nối dài tới cuối đường, chỗ gần tới cổng Bộ tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH là đường Trương Minh Ký. Chúng tôi bỏ không gọi Xóm Vẹc mà gọi theo những cái tên mới, xuất hiện cùng thời với dân di cư đến định cư ở đây. Tên “Xóm Vẹc” biến mất hồi nào mà không ai hay! Tội nghiệp hay không tội nghiệp cho một ông Tây tên Vẹc, một ông “thực dân”?
Bọn tôi không dưới năm đứa, không quá mười tên, học tiểu học với nhau, đầu tiên ở cái trường tư trong xóm, do một ông giáo già người Bắc di cư, nay đã nghỉ hưu, mở lớp dạy tư tại nhà. Một phần là vì chính phủ chưa kịp mở trường cho dân di cư, một phần, học ở đây thay vì phải vào thành phố. Học ở “Trường Xóm”, chúng tôi khỏi phải đi xa, xe cộ bất tiện, tai nạn nguy hiểm. Học gần nhà, bố mẹ dễ “kiểm soát”, lại có ông thầy già nghiêm khắc, bọn chúng tôi bớt hoang nghịch. “Trường Xóm” của chúng tôi nó tương tự như trường của mấy ông đồ ngày xưa ở làng quê: Học trò đủ hạng tuổi, đủ hạng lớp… Kể theo cách ngày trước, thấp nhất là lớp Năm. Lớp nầy đông nhất, trên hai chục “đứa”. “Đứa” là học sinh nhỏ đấy. Rồi đến lớp Tư, học sinh ít hơn. Lớp Nhất là ít nhất, chỉ có mấy “anh”. “Anh” cũng là học sinh, nhưng lớn tuổi hơn bọn tôi, nên phải gọi bằng “anh” cho “phải phép”. Lớp nầy thầy dạy kỹ lắm vì năm tới phải thi vô trường công, khỏi học trường tư. Trường tư phải đóng học phí. Không kịp đóng học phí, học sinh sẽ bị đuổi học, về nhà xin tiền đóng tiếp để được học tiếp. “Tiên “học phí”, hậu học văn”. “Trường tư” thường bị mang tiếng kinh doanh hơn giáo dục. Nhưng không đóng học phí, tiền đâu trả lương cho thầy?!
Được mấy năm, ông thầy già qua đời. Nghề làm thầy giáo mà: “Tổn lắm”. Bố tôi thường nói vậy. Mẹ tôi bảo làm thầy giáo “dễ bị ho lao”. Người đời thì bảo là nghề “bán cháo phổi”. Ông thầy già, sức yếu, lại nhiều năm gian khổ, dù không bị bệnh lao, ông vẫn qui tiên sớm là chuyện thường.
Ổng chết rồi, bọn chúng tôi vẫn nhớ ông, và thương ông nữa, bởi ông có một điều đáng quí: Tận tâm với bọn trẻ chúng tôi, mặc dù chúng tôi vẫn ngán cây roi mây của ông, một là để thầy nhịp nhiều lần trên mặt bàn, nhắc chúng tôi im, không được nói chuyện, phải học bài làm bài chăm chỉ, và cũng “phết vào đít” thằng nào đó, cái tội nghịch trong giờ học hay đánh lộn ngoài giờ. Ông thầy già qua đời rồi, trường “Xóm Vẹc” của tôi đóng cửa. Không ai nối nghiệp ông ở cái xóm mới định cư nầy.
Chúng tôi xuống học lớp Nhất ở một cái trường tư khác, trên đường Kỳ Đồng, của “ông cha nhà thờ”. Trường có lớp nầy lớp kia đàng hoàng, nhưng bọn học trò chúng tôi thì không đàng hoàng. Sau giờ học, có khi bỏ cả giờ học, chúng tôi leo “Xe Buýt Đỏ”, loại nầy vừa thay cho “Xe Buýt Vàng”, để chui vào Sở Thú chơi.
Ôi, tuyệt vời! Những buổi lang thang trong Sở Thú. “Làm học trò nhưng không sách cầm tay! Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” Ông nhà thơ Đinh Hùng nói chỉ đúng có một nửa, vì chúng tôi “Có tâm sự” gì đâu!?
Tới giờ, lo tìm về cho đúng giờ để “ông bô bà via” của chúng tôi vẫn nghĩ chúng tôi là những đứa học trò ngoan.
Lên Trung Học, mỗi đứa chúng tôi xa nhau hơn. Đứa vào trường công, đứa vào trường tư. Gần thì Huỳnh Thị Ngà ở Xóm Chùa, vào Huỳnh Khương Ninh ở Đa-Kao, đứa xa hơn, Hưng Đạo, gần đường Trần Hưng Đạo. Bấy giờ thì tình hình Saigon “vui lắm”. Biểu tình, đá đảo, hoan hô, tuyệt thực, tự thiêu, đảo chánh, “biểu dương lực lượng”… xảy ra đều đều, tháng nào cũng có hay mỗi năm, năm bảy bận. Cũng có khi chúng tôi đi biểu tình “cho vui”, cho đời thêm “màu sắc”.
Đậu tú tài, được vô đại học; nhưng chiến tranh đã gần kề. Súng không còn nổ ở Bình Giả, Đắk-Tô, Ban-Hét… “xa tít mù khơi” nữa mà gần kề hơn, có khi ngay tại Saigon. Việt Cộng gài lựu đạn, mìn, khủng bố. Thế rồi chúng tôi lần lượt vô quân trường lúc nào mà ngay chính mình cũng không nhớ tới nữa. Tới tuổi rồi, không đi sao được. Với lại, mấy ông thầy đứng trên bục giảng làm chúng tôi “hứng chí” không ít: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Chúng tôi bỗng thấy “gần gũi” với màu áo lính trận, màu xanh cây rừng, màu hoa dù, màu rong biển…

 Vài bữa đi học về, nghe bố mẹ hay ai đó trong gia đình nói: “Thằng X. đi Võ Bị rồi!” Rồi lại: “Thằng Y. vô Không Quân”, rồi lại “Thằng Z. đi Nhảy Dù”, “Thằng T. đi Biệt Động Quân”. Biệt Động Quân là cọp “Ba Đầu Rằn” đấy.Một hôm, gặp “Thằng bố vợ tôi”, sau nầy. Nó bảo: “Tao đi Quân Cụ”. Tôi ừ, nghĩ “Lớ ngớ như mày, ra đơn vị tác chiến, “bỏ mạng sa tràng sớm.” Nói thì nói vậy, chứ đời chưa hẳn vậy. “Đơn vị không tác chiến, có khi bỏ mạng sớm, còn như ai đánh giặc ngày nầy qua tháng khác, lại sống nhăn. Thế rồi có đứa hy sinh, có đứa bị thương, thành thương binh, có đứa bị Việt Cộng bắt.

Trong bọn tôi, tôi là người bị bắt sớm nhất, tù Việt Cộng sớm nhất. Năm 1971, tôi bị chúng nó bắt ở Hạ Lào. Những đứa còn lại, đều thua tuổi tù tôi những 4 năm. Sau Ba mươi tháng Tư, chúng nó mới lục tục kéo nhau “trình diện”, “đóng tiền đi ở tù”. Xem ra, tôi là “tù trưởng” của bọn chúng.
Từ Hạ Lào, Việt Cộng đưa “bọn tù binh chúng tôi” ra Bắc. Năm ký Hiệp Định Paris, tưởng chúng tha về, như các tù binh khác, nhưng không thấy động tĩnh gì cả. Sau nầy mới biết, khi Chính Phủ VNCH yêu cầu thả chúng tôi ra, bọn Việt Cộng nói chúng tôi bị bắt ở Lào là do Pathet Lào giam giữ, chúng nó không có trách nhiệm.
Miệng lưỡi Cộng Sản, ghê gớm thật!
Mãi tới 16 năm sau, tôi mới “được tha ra khỏi trại cải tạo”. Đó là câu ghi trong cái gọi là “Lệnh Tha”. Sau 16 năm tù, về lại xóm cũ thấy quạnh hiu. Quạnh hiu là ở lòng người! Nhà cửa thì vẫn thế, không thay đổi gì nhiều. Người tuy đông mà vắng vẻ. Thế hệ cha ông chúng tôi, hầu như “qui tiên” hết cả rồi. Thế hệ tôi thì cũng tan tác. Mười phương tám hướng chúng nó đi hết: Vượt biên, kinh tế mới, về quê làm ruộng, đi làm ăn xa. Bọn trẻ lớn lên, nhiều đứa nhìn tôi xa lạ. Tôi xa nhà đã hơn hai mươi năm. Những đứa ngày tôi ra đi, nay hơn hai chục tuổi, làm sao chúng biết tôi là ai?
 Khi tôi đạp chiếc xích-lô ngang cổng nhà người bạn cũ thì một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tất tả từ trong nhà chạy ra, tay xách, tay mang, gọi ơi ới:
-“Chú Đức, chú Đức, chở cháu đi với.
Tôi dừng xe lại chờ. Ra tới nơi, cô gái hỏi:
-“Chú đưa cháu qua chợ Hòa Hưng được không? Cháu đi gấp, sợ trễ.”
Tôi hỏi:
-“Cô muốn đi đường nào? Qua ngã Tân Sa Châu hay lên Thoại Ngọc Hầu. Đi ngã Tân Sa Châu ngắn hơn.”
-“Đường Tân Sa Châu xấu lắm. Lên Thoại Ngọc Hầu dễ đạp hơn.”
Cô gái ngồi lên xe xong, tôi nghiêng mình lấy đà đạp xe đi.
Một chốc, cô gái hỏi:
-“Chú ăn gì chưa?”
-“Dân Saigon không ăn sáng, chỉ uống cà phê thôi. Trưa mới ăn.”
-“Buổi trưa chú ăn ở đâu?”
-“Không chắc ở đâu, ngang đâu tấp đấy, miễn no với rẻ thì thôi.”
-“Khổ nhỉ? Chốc nữa chú uống cà phê với cháu. Có chỗ nầy cà phê ngon lắm.” Cô gái nói.
-“Cô sợ trễ mà?” Tôi hỏi.
-“Một chút không sao!” Cô ta trả lời.
Một lúc cô ta hỏi:
-“Chú đạp xe từ hồi nào?”
-“Cải tạo về tới giờ!” Tôi trả lời.
-“Sao gọi là cải tạo? Tù chớ.” Cô gái cải chính.
-“Với ai quen mới gọi tù. Lỡ gặp cán bộ, gọi tù nó phê bình đấy!” Tôi nói.
-“Ối giời! Bây giờ ai còn ngại gì nữa. Cán bô, Công An cũng như mình thôi, kiếm ăn cả. Cứ theo “Chính sách đường lối” thì lấy gì sống!” Cô gái trả lời.
Lại một lúc, cô ta nói:
-“Bố cháu cũng tù về đấy! Chú biết không?”
-“Biết sao không? Ông ấy là bạn với tôi từ hồi còn nhỏ đấy! Bố cháu cũng đỡ vất vả. Mẹ cháu và chị em cháu đảm đang. Ông ấy chỉ giúp vợ việc lặt vặt.”
Tôi nhớ tới Hiền. Có lẽ là bố cô gái. Nó hiền đúng như tên nó. Dù có lính lác như tôi, nhưng nó ít gian khổ hơn nhiều. Nghĩ thế, tôi nói:
-“Ai có gia đình cũng đỡ. Tôi tù về thì không còn ai!”
-“Cháu biết, hàng xóm mà! Người trong nhà chú lần hồi đi cả. Mấy anh lớn chị lớn vượt biên. Ông cụ qua đời, ít lâu bà cụ cũng đi theo. May họ chưa lấy nhà, nhờ bà cô già.”
Quả thật khi tôi tù về thì nhà không còn ai, chỉ còn bà cô già, chị của bố tôi. Bà ở góa từ khi còn trẻ, không chồng con gì cả. Trước 1975, bà vô chùa. Sau đó, thấy bố mẹ tôi cô quạnh, cô bỏ chùa về săn sóc, cơm nước cho bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi mất rồi, Việt Cộng tính lấy nhà vì bà là chị bố tôi, chúng nại cớ bà không có quyền thừa kế, thì tôi về. Cũng may, còn được căn nhà che mưa nắng, không thì ngủ gầm cầu.
Trong khi uống cà phê, cô gái hỏi:
-“Hồi còn trẻ sao chú không lấy vợ như ba cháu?”
-“Lấy vợ sao được? Ba cháu ở “đơn vị không tác chiến”, có “chữ thọ”, lấy vợ không lo gì, chớ như bọn tôi, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”, có ở nhà đâu. Với lại: “Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ…”
-“Chú cũng thơ thẩn dữ!” Cô gái cười nói.
-“Thơ người ta! Với lại, hồi đó chương trình Việt Văn thơ văn nhiều lắm. Bọn tôi phải học Chinh Phụ Ngâm.”
-“Cháu học sau “giải phóng”, chẳng biết gì hết! Cháu có nghe nói Chinh Phụ Ngâm, nhưng có biết gì đâu!”
-“Đó là bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm. Hay lắm. Tôi nghe ông thầy giảng mấy lần câu “Cổ lai chinh chiến địa, kỷ kiến hữu nhân hồi”, nên khi đi lính rồi, ngại tính việc lấy vợ.” Tôi giải thích.
-“Câu chú đọc nghĩa như thế nào?” Cô gái hỏi.
–“Những người đi chinh chiến, ít thấy trở về!” Tôi nói lại theo lời thầy giảng ngày trước.
-“Đang đánh nhau với ngoài kia, mà lại dạy cho học trò như thế, cháu thấy có mâu thuẫn đấy!” Cô ta nhận xét.
-“Dĩ nhiên! Nhưng mà đất nước tự do, không cấm được. Đi lính là bổn phận, không lý không cần tới văn chương!” Tôi nói.
Cuối cùng, trước khi đi tiếp tới chợ, cô ta nói:
-“Nói chuyện với chú vui đấy! Hay cứ mỗi sáng, chú đưa cháu sang chợ. Cháu khỏi lo trễ chợ, chú cháu mình lại uống cà phê. Tiền xe cháu tính đủ cho chú.”
-“Được thôi! Tôi chạy một ngày sao cho đủ mua gạo với rau muống là đủ, về nghỉ. Thành ra cũng thoải mái.”
Vậy rồi, mỗi ngày, tôi đưa cô ra ra chợ. Quen dần, chiều lại thêm một “cuốc”, đón cô ta về.
Công việc cứ thế diễn ra gần nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, vì cùng xóm, có lần cô ta vào nhà thăm tôi, xem tôi ăn ở như thế nào, và bày tỏ vài ý kiến về cảnh sống của tôi: Đàn ông không vợ, sống với bà cô già. Bà cô đã già, nấu cơm bằng củi, khi chín khi khê, áo quần tôi lâu ngày không giặt, treo trên vách, thúi hoắc mồ hôi…
Vì vậy, một lần cô ta hỏi tôi:
-“Chú Đức! Sao chú không lấy vợ đi?”
Tôi thành thật nói:
-“Ai chịu làm vợ tôi bây giờ? Cô thử nghĩ đi!”
Một lúc tôi lại nói:
-“Nửa đời nửa đoạn, trẻ không còn trẻ, già cũng chưa già hẳn.” Rồi tôi đọc nhại câu ca dao“Lấy ai ai lấy bây giờ lấy ai!” Trẻ thì họ không thể lấy tôi, ít ra tôi cũng lớn hơn vài chục tuổi. “Nửa đời hương phấn” thì “có đũa có đôi.” Còn lại thì có ai đó góa chồng mà tay dắt tay bồng:“Em tay bế tay bồng”, đâu phải“người yêu năm cũ” để mà “thương thiếu phụ bên sông!”
-“Hồi ấy chú không có người yêu?” Cô ta hỏi.
-“Vâng! Tôi nói rồi! Sợ người ta “Góa phụ ngây thơ!”
-“Hồi ấy tại sao chú đi lính?” Cô ta lại hỏi.
-“Ai cũng đi thì mình đi. Tôi có anh bạn cùng ở Dù. Anh nó quá ba mươi, đang dạy học, bỗng tình nguyện đi lính?” Tôi nói.
-“Không được miễn lính à?”
-“Có đâu! Mậu Thân ở Huế, ông người Huế – thấy học trò mang khăn tang nhiều quá nên ông bỏ dạy đăng lính. Có vợ con rồi đấy.”
-“Bây giờ mà chú không lấy vợ, cháu cũng không lấy chồng!”
-“Sao kỳ thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
Cô ta chưa kịp trả lời thì xe đã tới chợ. Cô ta xuống xe, quày quả vào chợ!”
o O o
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm, tôi gợi chuyện:
-“Mấy bữa nay, tôi cứ suy nghĩ hoài! Tại sao cô nói cô không lấy chồng.”
-“Chú nghĩ coi! Đời bây giờ có anh thanh niên nào vừa mắt mình để lấy làm chồng! Con gái phải có “thần tượng” chứ! Cháu lớn lên, thế hệ chú và ba cháu qua rồi, vô tù hết cả rồi. Nhưng hình ảnh những người lính thời đó, vẫn còn lại trong lòng cháu. Cháu thấy thích và ngưỡng mộ khi nghĩ đến họ. Còn như đời bây giờ…” Cô ta bỏ lửng câu nói.
-“Bây giờ thì sao?” Tôi giả bộ hỏi.
-“Bây giờ, thời bình, cái hào hùng của người lính không còn nữa. Giữa cái hổn độn xã hội bây giờ, cháu biết tìm ai?” Cô ta tâm sự.
-“Cũng có người cho cô vậy!” Tôi an ủi.
-“Khó lắm chú à! Thanh niên bây giờ, muốn kiếm sống, phải lo chạy mánh.”
-“Cô cho chạy “mánh” là không đứng đắn sao?” Tôi hỏi.
-“Mánh là mánh mung. Mánh mung thì làm người đứng đắn thế nào được?” Cháu lấy một anh chạy mánh làm chồng sao?” Cô gái than thở.
-“Gắng tìm một người không chạy mánh mà chọn làm chồng.” Tôi nói.
-“Khó lắm chú à! Ai cũng phải chạy mánh hết, ai cũng phải mánh mung để kiếm sống! Muốn sống, buôn bán như cháu cũng mánh. Lấy một công nhân, viên chức, muốn sống cũng chạy mánh. Mánh với mọi người, riết rồi vợ mánh với chồng, chồng mánh với vợ. Vợ chồng coi như xong.”
-“Đó là cách “quản lý xã hội” của họ đấy. Ai cũng phải có một cái gì đấy, để chính quyền coi như cái án treo, khi cần thì cho vào tù cho dễ.”
-“Kinh thật chú nhỉ? Thành ra cháu không thể lấy chồng, đành chịu vậy!”
Lại đến chợ! Cô ta quày quả vào chợ.
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm cô ta hỏi tôi một câu, tôi cho là “động trời!”
-“Cháu muốn chú cưới cháu làm vợ!”
Tôi lặng người đi, vừa kinh ngạc, vừa lạ lùng. Tôi hỏi:
-“Tại sao cháu nói thế?”
-“Không phải cháu muốn đi HO với chú. Gia đình cháu cũng chuẩn bị đi HO như chú. Không lấy chú, không đi HO với chú, cháu đi với ba mẹ cháu. Cháu muốn chú cưới cháu vì suy đi tính lại, cháu chẳng thấy ai hợn.”
-“Tại sao cháu nghĩ thế? Tuổi tác xa nhau quá mà!”
-“Hai chục tuổi mà xa gì. Đàn bà mau già lắm. Mẹ cháu nói vậy. Cháu sinh vài đứa con, coi như cháu… già bằng chú. Vả lại tình yêu chú à! Cháu nghĩ cháu cũng có thể yêu chú vậy. Cháu có đọc sách Chu Tử. Tình yêu không cần tuổi tác.”
-“Chú nghĩ cháu không yêu chú! Cháu chỉ thương hại!”
-“Ba cháu nói người Việt giàu tình thương. Cha mẹ, vợ chồng, anh em, bà con, tất cả đều bắt đầu bằng tình thương. Ngày xưa, không yêu nhau mà lấy nhau, người ta thương nhau, rồi yêu nhau. Sau nầy người ta đổi chữ đấy chú à!” Cô gái nói.
-“Đổi chữ là sao?” Chú chưa hiểu.
-“Ba cháu nói hồi xưa ít dùng chữ “yêu” mà thường nói chữ thương. “Thương nhau cởi áo cho nhau…” Chớ đâu phải “Yêu nhau…” Yêu nhau là nói theo cách bây giờ. Xưa là “Thương nhau…” Ba cháu nói bản “Nắng chiều”, chú nhớ không? In đầu tiên, ông nhạc sĩ viết “Lạnh lùng nhìn anh, em nói “mến” anh.” Mà không viết “yêu anh”. Sau nầy người ta hát “yêu anh” là sai đấy! Phải không?” Thành ra, cháu có “thương hại” chú, rồi có… “yêu chú” cũng không có gì lạ cả. Con người ta, căn bản là tình thương, không phải tình yêu. Ba cháu giải thích “thương” là cho mà không đòi lại. Yêu là cho mà đòi lại.“Yêu rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu.”
-“Cô sâu sắc đấy!” Tôi nói.
-“Không phải đâu! Ba cháu giải thích cả đấy!”
-“Cóc mở miệng,” (Thằng) đó mà nói là như “Cóc mở miệng”. Nói xong, tôi thấy ngại. Tôi lỡ lời, gọi bố cô ta bằng “thằng”.
Một chốc, tôi nói:
-“Nhưng chú thấy ngại quá! Làm sao chú có thể mở miệng xin cưới cháu với bố mẹ cháu được?”
-“Chú đừng lo! Cháu sẽ nói. Cháu mở đường xong thì chú tiếp tục… rán mà đạp xe xích lô.” Cô ta nói nửa đùa nửa thật.
o O o
Thế rồi “thằng” ấy trở thành bố vợ tôi.
Tôi rất thương vợ, và kính trọng bố vợ như cô ta kính trọng cha mẹ cô ta vậy. Ở địa vị người rể, tôi gọi thằng bạn thân ấy là “bố” và xưng “con” như vợ tôi vậy!
Rắc rối là từ khi qua Mỹ rồi, cùng ở Orange County, lại cũng đã già, “đất khách quê người”, tình bạn cũ càng thêm khăng khít nên ít nhất, mỗi tuần, sáng Chủ Nhật, cả bọn năm bảy đứa, họp nhau uống cà-phê ở một quán quen, để kể chuyện cũ, vui đùa, chọc quê nhau, một phần vì bạn với nhau từ khi thơ ấu, một phần, cũng “quen đời lính” “lúc nào cũng vui đùa” để quên bớt… súng đạn. Đúng là thói cũ khó chừa.
Cũng rắc rối là cái thằng Quang. Ngồi chung một bàn, quen như ở nhà, – vợ chồng tôi ở chung với bố mẹ vợ – nên cứ quen miệng “bố bố, con con” khiến thằng Quang chưởi tôi không ít bận, cho là gai tai nó. Tôi bỏ “họp mặt” mấy lần, khiến bọn nó nhắc hoài.
Hôm qua, Lộc gọi cho tôi:
-“Ê! Đức, mai chủ nhật, mày vắng mặt là tụi nó chưởi cho đấy!”
-“Nhưng tao…” rồi tôi ngập ngừng.
Lộc nói:
-“Mày sợ thằng Quang chớ gì. Thằng chó “đập chó không ngó đằng sau”. Tù về, nó mới lấy vợ. Vợ nó trước kia góa chồng, tử trận, để lại hai con, lớn hơn nó ba tuổi. “Trai tân lấy gái nạ dòng”, có ai nói gì đâu!”
Thế là tôi thủ sẵn “vũ khí”.
Ngày hôm sau, đang ngồi cười đùa vui vẻ, thấy tôi “bố bố, con con” với bố vợ, Quang nói:
-“Mày dẹp cái “trò bố con” của mày lại đi. Tao gai quá!”
Tôi phản pháo ngay:
-“Nói thật với mày. Tao thương vợ nên gọi “nó” bằng bố. Mày có thương vợ mày không? Nếu mày thương vợ thì mày gọi vợ mày bằng “Chị” hay bằng “Em? Mày nói “Em yêu chị” hay “Anh yêu em”. Trả lời đi!”
Cả bọn cười ồ.
Vậy là coi như xong một màn “Hài kịch thời đại”!
Hoàng Long Hải
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Sep/2017 lúc 11:57am
Lục Bình Trên Sông - Tác Giả Song Nhi.mp3   <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Sep/2017 lúc 12:11pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 29/Sep/2017 lúc 10:14am

Ba Của Tôi 


Trong cái nắng gay gắt trưa hè Hà Nội đợt thi Đại Học, hình ảnh người cha ngồi yên quạt để con gái gối đầu ngủ cho dù những giọt mồ hôi rơi lã chã trên gương mặt mình đã khiến cư dân mạng vô cùng xúc động.  Bức hình trên mạng báo Việt Nam đã khiến bao người rơi lệ, tôi tự hỏi có bao nhiêu người cha đã tạo nên được hình ảnh nầy.  Ngược về quá khứ, kể về người cha thân yêu của tôi, kể từ khi có trí khôn, tôi nghiệm thấy rằng Ba tôi yêu thương tôi nhiều nhất trong số các con của ông, tôi là chị cả trong đàn con 12 đứa của ông, nhưng ông cứ tưởng tượng tôi như một thiên thần bé nhỏ, khi nói với ai về tôi Ông hay dùng câu "Con gái của tui", khi nói chuyện với Má tôi, ông hay nói : "Má con Khiêm" (ở nhà tôi tên K.) 

Tôi không khoe xạo Ba tôi là ông nầy ông nọ, Ba tôi khi đang là thợ máy sửa xe hơi thì đến tuổi bị kêu đi lính thời Ông Tổng Thống Diệm, ông có nghề sửa xe nên sau vài năm bị đổi đi đây đi đó, ông được đổi về SàiGòn làm tài xế cho một ông Đại Tá, những dịp cuối tuần, vị Tá cho ông đem xe về nhà chở vợ con đi chơi. Tôi còn nhớ Ba hay chở cả nhà đi ra bến tàu ở sông SàiGòn, sau khi ghé chợ Cũ mua con vịt quay và mấy ổ bánh mì, có khi ông chở lên xa lộ Biên Hòa mua bưởi, rồi ngồi tại chỗ xẻ bưởi ra ăn, vừa ăn vừa hóng gió đồng nội, thời ấy hai bên xa lộ người ta hay trồng mía, những đồng mía bạt ngàn, nhìn thấy mà mê. Ba tôi bảo không nên vào sâu trong ấy mất an ninh lắm. 

Những hình ảnh thời đó cứ như in mãi vào trí óc non nớt của tôi, các bạn có biết năm học lớp tư và lớp năm, khi làm những bài luân văn, tôi hay được cô giáo đọc bài của tôi cho các bạn trong lớp cùng nghe. Có một bài luận, với đề tài: "Em hãy tả cảnh một buổi dã ngoại với gia đình". Thôi rồi ... tôi trúng tủ! Tôi được Ba tôi đưa đi xe hơi với cả gia đình đến bến Bạch Đằng bằng xe Trắc Xông màu đen..., dưới thân đề tôi diễn tả thật là ngoạn mục: Đến nơi Má tôi tháo bao có con vịt  quay đỏ chói, cả nhà vừa thưởng thức bánh mì vịt quay vừa ngắm cảnh sông SàiGòn ..., trên sông có những con tàu to đang neo trên bến, nếu từ xa nhìn vào chỉ thấy những thanh sắt ngổn ngang, các anh thủy thủ đứng dựa boong tàu, tôi nghĩ các anh được đi đây đi đó thật vui thú làm sao! Nhìn dòng sông nước lững lờ trôi, nước trong đến nỗi thấy cả những con cá lòng tong, tôi có đem theo giấy tập cũ, tôi xếp thành chiếc thuyền thả trôi theo dòng nước. Má tôi la: "đừng xả rác", chắc bà thấy bờ sông sạch quá, không muốn tôi làm hoen ố dòng sông, nhưng Ba tôi cười hiền bảo "để con nó chơi". Tôi đã ôm cổ Ba tôi và nói làm sao mình lên được cái tàu lớn đó hả Ba, Ba tôi cười nói "Con ráng học giỏi thì muốn gì được nấy ". Tôi trả lời: " Dạ, con sẽ ráng, khi học giỏi con sẽ được đi ra nước ngoài như con tàu ấy và gửi thư về Ba nhen! ". 

Khi đọc bài, cô giáo diễn tả giọng trầm bổng lên xuống, cả lớp im phăng phắc, cô giáo đã cho tôi điểm tối đa. Sau giờ luận đến giờ ra chơi, cả lớp xúm lại hỏi tôi: Bộ Ba mầy chở mầy đi chơi bằng xe hơi thiệt hả. Tôi đã có dịp vênh mặt với tụi bạn rồi trả lời: “Chứ sao! Tao chẳng bao giờ nói xạo!” Mặc dù tôi chỉ có 2 bộ đồ tạm cho là lành lặn nhất để đi học (vì con nhà nghèo, em lại đông mà lỵ).  

Xế nhà tôi có gia đình ông bà Thiếu Tá tên Vàng, nhà trông sang nhưng là nhà mướn, nhà Ba Má của tôi là nhà mua, ông Thiếu Tá nầy cứ đi hành quân nay đây may đó nên ông bà ấy không mua nhà, khi dọn đến đâu thì họ chỉ mướn mà thôi, họ chỉ có 2 con nên hai đứa ấy muốn gì được nấy, áo nào đẹp nhất, quần nào sang nhất là bà đều chưng diện cho 2 con, nhà tôi nghèo nên lúc nào tôi cũng mang đầy mặc cảm, dù là tôi học không thua đứa nào, tôi nhìn 2 đứa ấy mà cứ ao ước nếu tôi chỉ có một đứa em thì đỡ khổ biết bao nhiêu, nhất là đỡ phải ẵm em, Ba Má tôi sẽ lo cho tôi nhiều hơn là có một bầy con nít như vầy.  

Những năm ở tiểu học, tôi học giỏi lắm, cuối tuần Thầy Hiệu Trưởng đi từng lớp để phát giấy khen, từ hạng nhất đến hạng năm, tuần nào tôi bị hạng năm tôi buồn lắm, và mỗi cuối niên học năm nào tôi cũng được lãnh thưởng, hình như tôi học vì do lời khen và động viên của Ba tôi hay sao ấy. Tôi có hai đứa bạn ngồi hai bên, tụi nó hay cọp dê toán của tôi, thường thường những bài tôi làm đều đúng, vào giờ ra chơi hai đứa hay chen chúc trước cổng trường để mua đồ ăn cho tôi, đứa thì mua cốm dẹp, đứa thì mua táo xanh, thay đổi tùy theo mùa. Răng tôi không được tốt nên không thích ăn cà rem. Tôi thường khoe với Ba tôi về thành tích "ăn hàng không tốn tiền" của mình, ổng hay nói "Cái nầy con giống Ba". Với tuổi đời non nớt, tôi không hiểu tại sao Ba tôi nói vậy. Năm cuối lớp nhất ở Trường Tiểu Học Chí Hòa, Ba tôi đã đổi về làm ở Tổng Tham Mưu, tôi nhớ không lầm là vị Tá ấy có dính líu với vụ đảo chánh Ông Tổng Thống Diệm lần đầu nhưng thất bại nên bị tù, họ xét Ba tôi vô can vì chỉ là lính thợ nên chuyển đi nơi khác, vì Ba tôi giỏi nghề sửa xe nên được điều về Tổng Tham Mưu để sửa xe nhà binh. 

Ngày đi thi vào đệ thất Trường Gia Long, Ba chở tôi đi bằng xe Jeep quân đội, tôi mặc đồ bộ trắng phớt màu tro bằng tơ, cổ may lá sen, bộ đồ mà tôi nghĩ là đẹp nhất hơn các bộ đồ mà tôi đã mặc trong thời gian học tiểu học, khi xuống xe Ba vẫn còn nhắc "Ráng làm bài nhe con, Ba về sở rồi trưa Ba trở lại chở con đi ăn cơm nhe!". Năm ấy tôi đậu được vào trường Gia Long. Tôi vẫn còn nhớ khi nhìn thấy tên tôi trên bảng kết quả treo trước cổng trường, Ba đã ôm siết tôi vào lòng, nhấc bổng lên, một điều mà chưa bao giờ xẩy ra trước đó, Ba la lên: "Trời ơi con tôi đậu rồi, con tôi đậu rồi", Ba đã lập đi lập lại câu ấy bao nhiêu lần, và tôi cảm nhận nước mắt của người ướt má của tôi, đây là lần hiếm hoi thứ nhì Ba tôi khóc, mà lần đầu là Bà Nội tôi mất, sau đó Ba chở tôi bằng xe Jeep đi ăn cơm gà quay ở Chợ Lớn . 

Cuộc đời Ba gắn liền theo vận nước,  nhất là vào lúc đơn vị của Ba chuyển ra Nha Trang. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao Cô giáo hay đọc những bài luận tôi làm cho bạn bè tôi nghe như bài luận mẫu, và lúc Ba ở nhà vẫn hay khen tôi viết văn hay, vậy mà những năm tháng Ba ở Nha Trang tôi lại chẳng có một lá thư nào cho Ba, mỗi khi về phép, Ba đem về những con sò con ốc  mà ba nói là đi tắm biển với bạn bè  rồi nhặt về cho tôi ở bãi biển Nha Trang, với mớ hình ảnh Ba chụp bên xe Jeep trên quãng đường dài từ SàiGòn ra đến Nha Trang, mỗi địa danh Ba dừng chân bên đường rồi chụp hình đem về cho con gái của Ba. 

Có những lúc Ba về bất ngờ, Ba hỏi Má tôi thường đứng chỗ nào đón tôi khi tan học, rồi Ba ra đứng ngay chỗ ấy. Trời ơi không sao tả được sự mừng vui khi tôi thấy ông đứng chờ tôi, những hình ảnh nầy sẽ theo tôi cho đến cuối đời.  Có lần khi đến rước tôi, bộ đồ lính của Ba hãy còn bụi đường xa sình bùn lem luốc, Ba kể về nhà không kịp thay ra vì đến giờ đi đón con, Ba đưa cho tôi bịch quà mà hãy còn dính bùn, Ba nói tối hôm qua trên đường lái xe về nhà từ Nha Trang với một người bạn, Ba bị VC rượt theo bắn tỉa, 2 người đã lao ra ngoài bỏ xe chạy trối chết, vậy mà Ba vẫn không quên chụp cái bịch quà cho tôi mà trong ấy là vỏ sò và những con sao biển, hai người đã lẩn trong rừng khuya chờ sáng xe đò từ Nha Trang về thì quá giang về SàiGòn. Sáng ra đơn vị bạn kéo xe về, họ không nghĩ là người trong xe còn sống  vì cái xe Jeep bị bắn tan nát! 

Lúc đơn vị Ba còn đóng ở SàiGòn,  ông sửa xe giỏi nên hết giờ làm việc ở đơn vị, thì hết đám nầy đến rước đi sửa, đến đám khác rước đi sửa, họ hỏi Ba tôi xem hư cái gì, rồi kéo nhau đi mua đem về thay vào, rồi họ dắt đi ăn tiệc, trên bàn tiệc họ hỏi công bao nhiêu. Ba tôi nghĩ họ tử tế bao mình ăn uống linh đình, nên ông trả lời  chỉ sửa dùm cho "dui" thôi. Đó là tại sao Ba nói tôi giống Ba ở khoảng đó, và tại sao mỗi lần được đi với Ba, ông hay chở tôi đi ăn toàn đồ ngon, vì những chỗ đó Ba đã được các chủ xe mời đi ăn để đền ơn vì Ba không lấy tiền công. Ba tôi như say mê công việc, nên lúc làm ở Tổng Tham Mưu, ổng ngủ tại garage luôn. Sau đó đơn vị của Ba bị điều động ra Nha Trang tôi không có Ba ở gần, Má tôi bù đầu lo đủ thứ để kiếm cho đủ ăn, không ai khuyến khích, động viên, nên tôi học hành sa sút thấy rõ, mỗi năm được lên lớp là mừng rồi, có điều môn Văn thì khá, các môn khác chỉ trung bình hay kém, tôi như không có điểm tựa nên cứ thả nổi, may phước là cũng đậu được tú tài 2 khóa 2.  

Tôi còn nhớ, những ngày Ba tôi về phép là những ngày tôi hạnh phúc nhất, nhất là những lúc học thi, tôi nằm tòng teng trên võng học bài rồi ngủ quên, cái võng được mắc trên cái giường để gần bếp, Ba tôi lụi hụi nấu cơm, con bạn trong xóm tôi nó tới nhà mượn sách đang lúc Ba tôi kêu tôi dậy " K ., K ..con dậy ăn cơm đi con, rồi học bài tiếp" những lúc ấy tôi làm bộ ngủ, tôi nghe Ba tôi nói với nó: “Bác nấu chứ để K nó nấu, nó nêm nước mắm vô canh ăn chua lè hà!” Sau khi chứng kiến cảnh nầy, bạn tôi về nhà méc Má nó rồi phân bì Ba nó không làm vậy, Má nó nói: Mầy không biết con của Tư Lắm à! (ý là trong xóm ai cũng biết Ba tôi cưng tôi lắm). 

Tôi biết tôi là niềm danh dự của Ba, vì năm tôi thi đậu được vào Gia Long, cả xóm chỉ có mình tôi vào được, phải ba năm sau trong xóm mới có đứa đậu. Vào năm học đệ tam, tôi có đứa bạn thân học với nhau từ đệ thất, nhà nó ở Thủ Đức, nó hay rủ lên nhà chơi, nó có 3 chị làm ở căn cứ Long Bình, 4 chị em ở với bà mẹ già, thời đó nhà nào có người làm sở Mỹ nhà đó khá lắm, chỉ cần một người làm thôi đã khá rồi, mà nhà nó những ba người làm, nó xài toàn đồ Mỹ thơm phức thấy mà ham, trong khi Má tôi vất vả quá, tôi học hành thì như con rùa lật ngửa, lẹt đẹt chạy đàng sau các bạn, tôi nói với các chị của nó xin cho tôi vào làm để đỡ đần cho Má tôi, mấy chị nó mắng tôi không tiếc lời: Còn nhỏ lo học chứ đi làm chi rồi bỏ học uổng lắm, mấy chị không được học hành như các em nên mới phải làm cho Mỹ chứ tụi em học được trường tốt mà bỏ chi uổng vậy! Thế là tôi đành phải học tiếp, dù trong bụng ngán quá chừng luôn! 

Vào lúc ra trường Gia Long tôi thấy Má tôi vất vả quá nên tôi chẳng muốn tiếp tục học nữa, nộp đơn xin thi vào làm Thư Ký Học Chánh trong Bộ Giáo Dục SàiGòn. Cùng năm đó 1971, Ba tôi được giải ngũ, và được người quen giới thiệu làm tài xế cho tòa báo Star & Stripes, chuyên chở báo từ phi trường Tân Sơn Nhất về phân phát cho các sạp và các cơ quan của Mỹ đóng tại SàiGòn, những loại báo này in từ Thái Lan hoặc từ Mỹ được máy bay chở về phi trường. 

Thế là "đời Ba lên hương", nhà tôi được xây lại 2 tầng khang trang hơn, phòng khách được trang hoàng thật đẹp, đèn mờ, đèn sáng đủ cả, Ba tôi mua hẳn cho tôi cái xe Honda Dame mới để đi làm, Ba cứ tiếc hùi hụi là 12 năm đèn sách, mà kết quả của tôi chỉ là nhân viên quèn ở Bộ, Ba nói tại Ba bị đổi đi xa  chứ nếu ông ở nhà chắc tôi sẽ học khá hơn. Bây giờ sau bao nhiêu năm, Ba tôi đã mất, Má tôi không còn, ngẫm nghĩ những ngày xưa dưới mái nhà, có cha, có mẹ, có những người thân yêu bên cạnh thấy êm đềm hạnh phúc dường bao.  

Viết từ Pennsylvania  2017  
Phan Ngọc Vinh 
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Oct/2017 lúc 4:21pm

Vết Xước Đầu Đời


vet%20xuoc%20dau%20doiQua khỏi đoạn đường đất rợp bóng tre, là con đường rải nhựa. Đứng ở ngã ba, chú Tâm chỉ về phía xa, nơi con đường như một gạch thẳng chạy suốt qua các đồng lúa hai bên:

- Đường này về đâu, cháu?
Lan đáp:
- Về chợ Bao Vinh.
- Thế à? Chú chưa hề biết con đường này.
Lan ngước mắt nhìn lên:
- Chú sinh trưởng ở đây mà.

- Ờ, nhưng chú ở phố. Ngay ở phố, nhiều con đường chú cũng chưa hề đi bao giờ.
- Cháu cũng tệ lắm. Chỉ biết đường đến trường, đường về chợ và vài đường đi về nhà o, nhà dì. Cháu hiếm khi đi đâu xa.
- Cháu có xe đạp mà?
- Dạ, nhưng mẹ cháu không cho đi nhiều.
Giọng Lan có vẻ buồn. Chú Tâm hơi nghiêng đầu, cúi xuống nhìn Lan. Lan quay đi, nhìn phía xa. Chú Tâm hỏi:
- Chú cháu mình đi uống cà phê nhé.
Lan lắc đầu:
- Không, cháu không biết uống cà phê.
- Thì cháu uống nước, còn chú uống cà phê vậy.
- Nhưng…nhưng mẹ cháu không chịu đâu. Mẹ cháu nói con gái đừng có đi vào quán nước. Như thế là không đứng đắn.
- Ừ. Thì thôi. Chú cháu mình đi dạo vậy.
Hai người đi qua đoạn đường hẹp, đầy ổ gà. Hai bên đường không có ruộng lúa như phần đường bên kia ngã ba. Chỉ có những ao, hồ, cỏ dại và những loại cây chẳng ai biết đến. Xế chiều, nắng vàng rực. Khói lam. Màu hoàng hôn thấp thoáng. Lan bước đi bên chú Tâm, ngập ngừng, lấn cấn. Lan đi bộ trên con đường này nhiều lần, nhưng không hề đi dạo như thế này. Lại chẳng bao giờ đi với một người đàn ông. Chú Tâm cao, Lan thấp. Giọng chú ngọt và ấm. Cách nói của chú cũng khác thường, đôi khi hơi lạ và khó hiểu. Đàn ông hiếm khi tốt lắm, mẹ nhiều lần bảo Lan thế. Phải luôn luôn dè chừng với đàn ông. Chú Tâm đàn ông, nhưng là bạn của mẹ. Vậy thì hề gì, Lan nghĩ.
- Cháu nghĩ gì thế? Giọng chú Tâm nghe dịu dàng.
- Không, không có gì cả. Cháu không biết nghĩ.
Chú Tâm cười:
- Mười sáu, mười bảy tuổi mà không biết nghĩ. Vậy là biết mơ.
- Không, mơ cũng không.
- Không mơ thì cháu sống bằng gì nào?
- Cơm, cá và mẹ.
Chú Tâm cười ha hả, bàn tay chợt bóp nhẹ vai Lan. Lan né người tránh, hơi khó chịu. Chú Tâm nói:
- Cháu làm như cháu mới có ba, bốn tuổi không bằng.
Lan nhìn lên:
- Vậy thì phải sống bằng gì bây giờ?
- Ước mơ. Tuổi của cháu là tuổi ước mơ. Thiếu ước mơ, cuộc đời vô nghĩa lắm. Tuổi chú là tuổi mọi giấc mơ đều tan tành, nhưng chú vẫn mơ.
Lan bâng khuâng:
- Ừ, hình như cháu cũng có ước mơ, nhưng không rõ ước mơ gì. Còn chú, chú mơ gì mà tan tành dữ vậy?
- Nhiều, nhiều lắm. Có lẽ vì tuổi trẻ của chú rộng đường hơn tuổi trẻ của cháu. Thời của chú vui hơn.
- Nhưng tại sao lại tan tành?
- Thì vui thời kỳ đầu lúc còn trẻ, nhưng sau đó thì chiến tranh, loạn lạc, thay ngôi đổi chủ, tù đày, chia ly…
- Chú cũng là “ngụy” chứ gì?
- Ờ, thì đương nhiên là “ngụy” rồi. Thì cháu cũng “ngụy” mà!
Lan cười:
- Cháu là con bác Hồ. Hồi nhỏ cháu vẫn hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” mà chẳng bao giờ gặp cả.
Chú Tâm cười theo:
- Cháu nên chớ mơ thì khác với ước mơ nhé. Cháu nằm mơ thấy bác Hồ, còn ngày xưa chú mơ trở thành bác Hồ.
- Làm bác Hồ thì có gì vui mà chú mơ?
- Mơ thành bác Hồ cũng như mơ thành vua vậy thôi.
Lan lại cười:
- Hèn gì mà đời chú chẳng tan tành. Mẹ cháu dặn đừng có mơ mộng bậy bạ. Mơ nhiều, khổ nhiều. Mẹ khổ vì hồi xưa mẹ hay mơ.
Chú Tâm chợt dừng lại, nhìn Lan. Chú đưa bàn tay ra như muốn nắm tay Lan. Nhưng rồi chú rút tay lại. Chú nói:
- Mẹ cháu hơi khắt khe đấy nhé. Mơ nhiều thì khổ, nhưng khổ nhiều không phải vì mơ đâu. Mà lại, làm sao cấm cháu mơ được. Chú biết cháu có mơ đấy, mơ nhiều, nhiều hơn chú và mẹ hồi xưa nữa. Càng khó, càng mơ, càng cấm càng mơ.
Lan im lặng ngẫm nghĩ rồi nói:
- Ừ, để cháu nhớ thử xem.
Hai người đã đi hết đoạn đường từ ngã ba đến bến xe. Chú Tâm hỏi:
- Chú cháu mình qua cầu rồi rẽ lên phố chơi.
- Đi bộ lên phố à?
- Thế cháu muốn đi xe lam?
- Không, mình trở lại đi chú. Mẹ cháu không thích như thế đâu.
- Đi chơi với chú thì có sao đâu mà sợ mẹ.
- Không được. Chú là đàn ông.
Chú Tâm cười:
- Đàn ông thì đã sao. Chú là chú mà. Chú là bạn của mẹ, chứ có phải là bạn của cháu đâu.
Lan quay bước
- Trở lại đi chú.
- Ơ, kỳ thật cái cô bé này!
Nói thế nhưng chú Tâm cũng quay lại. Chú định cầm tay Lan, nhưng Lan tránh. Bàn tay chú chạm nhẹ trên cánh tay cô. Cô rùng mình.
Nắng tắt. Cả vùng ngoại ô lặng xuống. Cây cối như kết vào nhau thành từng chòm, rải rác. Hai người im lặng bước đi. Lan cố đi chậm lại đàng sau. Tự nhiên, cô cảm thấy bối rối. Chú Tâm bước, dáng cao lớn, chênh vênh như muốn ngã về phía trước. Lan có cảm giác như cả một khoảng trời chao đảo theo bước chân chú. Chú, đàn ông trông vững, lớn và đáng tin cậy. Khác với mẹ. Mẹ bao dung, chu đáo, nhưng có cái gì không ổn. Bao giờ mẹ cũng thu vén, tém tủm, tránh trút. Mẹ ngăn, mẹ chặn. Trước và sau. Mẹ sợ mọi thứ. Mẹ đúng, dĩ nhiên. Nhưng Lan buồn.
Chú Tâm dừng lại, dịu dàng:
- Cháu không muốn đi nữa hay cháu sợ mẹ?
- Không, cháu không thích đi xa.
Chú Tâm chép miệng:
- Vậy thì chúng ta về.
Lan dừng lại. Đột nhiên cô chưa muốn về.
- Trời nóng quá, Lan than.
Chú Tâm đề nghị:
- Hay chú cháu mình đi dọc theo cánh đồng bên kia nhé. Cảnh hoàng hôn trên đồng ruộng đẹp quá. Còn sớm mà. Giờ này mẹ đi dạy về chưa?
- Rồi. Giờ này mẹ đang nấu cơm.
Hai người lại bước tiếp về phía cánh đồng. Lúa, gió và mùi thơm. Chú Tâm nói:
- Hôm trước, khi tìm về nhà cháu, chú đi lạc tận đoạn đường này.
- Chú xa Huế bao lâu rồi mà trông bộ quên hết thế.
Chú Tâm bước chậm lại chờ Lan.
- Xa lâu lắm. Hơn nửa cuộc đời chú. Thôi học, lang thang ở Sài Gòn, đi lính, lấy vợ tận Vĩnh Long, rồi ở tù.
Lan cười:
- Một nửa cuộc đời mà sao nghe chú nói gọn gàng thế. Nghe như mấy lần chú kể chuyện đi uống cà phê.
- Cuộc đời nào rồi thì cũng gọn thế thôi. Chỉ có những suy nghĩ của mình là rắc rối. Chú nghiệm, cái gì chưa tới thì tuế toái, phiền phức, còn cái gì qua rồi thì bao giờ cũng lớp lang, thứ tự y như có ai đó đã sắp xếp trước cho mình vậy.
Lan không hiểu lắm, nhưng cố lắng nghe. Lan hỏi:
- Ý chú muốn nói cái số…
- Ừ, cái số… không hẳn thế, ý chú muốn nói khác một chút. Cuộc sống nó đơn giản…
- Mẹ cháu hay nói cái số. Với lại, lúc nào mẹ cháu cũng nói “nếu mà”, “nếu mà”… Nếu mà hồi đó, mẹ đừng làm cái này hoặc mẹ làm cái kia chẳng hạn, thì bây giờ thế này thế nọ. Riết, cứ thấy mẹ quanh quẩn với cái hồi đó. Hồi đó, có chú, có ba…
- Cái “hồi đó” nào cũng giống nhau thôi. Hồi đó, mẹ cháu cũng như cháu, mười bảy mười tám, mơ mộng, yêu đời và yêu chú.
- Cháu biết, mẹ cháu thương chú nhất. Mẹ viết trong nhật ký. Nhưng chú không yêu mẹ, chú bỏ đi. Mẹ nói chú bạc tình.
Lan có cảm giác như chú Tâm thở dài. Chú nói:
- Cứ xem như thế đi. Hoặc chú hoặc mẹ cháu, có một kẻ bạc tình.
- Bạc tình. Cái chữ nghe thấy sợ. Theo cháu, chú lấy vợ, mẹ lấy chồng, thế là xong, đâu có chuyện gì nữa.
- Cháu nói như trong cải lương, chú Tâm cười.
Chú Tâm thọc hai tay vào túi quần. Lan vòng tay trước mặt, đi ngang hàng. Tự dưng, cô thấy chú Tâm gần gũi hơn một chút. Và cảm thấy thú. Đi dạo bên cạnh một người đàn ông, Lan có nhiều cảm giác hơn đi với mẹ hay với các bạn gái. Một đôi khi, trên đường đi học về, có vài ba đứa con trai rà xe theo hỏi han lẩm cẩm, Lan thấy sợ, nhưng cũng thích. Không có ai theo, cũng trông. Nhưng nghĩ đến cái chuyện có một người yêu hay một người bạn trai, cô sợ. Cô không hình dung nỗi cái loại quan hệ ghê gớm đó.
Chú Tâm đi sát bên Lan. Lan hỏi:
- Vợ con chú đâu?
- Bỏ chú hết, từ khi chú còn ở trong trại cải tạo.
Lan kêu lên:
- Đến thế lận à!
- Ừ, đang ở tù mà được ra tòa hai lần để ly dị
- Vợ chú đòi ly dị à?
- Chả lẽ chú đòi? Chú đang ở trong tù mà!
- Vợ chú thương ai khác sao?
- Ừ, tay tài xế lái xe cũ của chú.
- Trời, ghê gớm thế!
- Cũng không ghê gớm lắm đâu. Mọi chuyện đều có lớp lang cả.
- Chú có buồn không?
- Quen rồi cháu à. Buồn không nuôi mình sống được.
Lan thở dài:
- Thế mà mẹ cháu lại sống bằng nỗi buồn, mới lạ. Đôi khi cháu tưởng là nếu không buồn, mẹ cháu không sống được.
Giọng chú Tâm bỗng nghe xa vắng:
- Cũng nên thông cảm cho mẹ cháu. Không phải mẹ cháu sống bằng nỗi buồn đâu, mà bằng kỷ niệm đấy.
- Chẳng hề thấy có bóng ba cháu trong kỷ niệm của mẹ. Nên cháu biết về ba cháu rất lờ mờ. Hình như ông bị máy bay cán chết.
- Ba cháu bị cánh quạt máy bay trực thăng, à quên, máy bay lên thẳng, đụng phải khi đi hành quân.
- Khiếp thật! Lan la lên.
Lan cảm thấy lành lạnh. Gió bây giờ lồng lộng. Cô đi sát thêm vào chú Tâm. Chú Tâm chợt ôm vai cô. Cô để yên
- Gió quá chú ơi.
- Cháu lạnh à? Tội nghiệp cháu, mất ba sớm.
- Không phải đâu. Tuy không có ba nhưng mẹ cháu lo cho cháu đầy đủ lắm. Mẹ đi dạy, mẹ đi buôn, mẹ làm vườn. Có điều…
- Sao?
- Mẹ khó…
Chú Tâm an ủi:
- Không phải mẹ cháu khó đâu. Mẹ cháu thương cháu đấy.
- Mẹ thương, nhưng mẹ không hiểu cháu.
- Mẹ cháu hiểu cháu, chú biết mà.
Lan đẩy nhẹ chú Tâm ra.
- Không. Mẹ chỉ biết có mẹ thôi.
Lan cắn môi. Cô muốn khóc. Trời sẫm. Đường vắng. Cô bỗng muốn ngã vào lòng chú Tâm. Nhưng cô giật mình, nhẹ gỡ bàn tay thô nhám của chú Tâm vừa đặt lên bàn tay nhỏ nhắn của cô. Mùi áo quần từ nơi chú Tâm tỏa ra khiến cô ngây ngấy. Cái mùi lạ hoắc! Thơm không thơm, hôi không hôi, lại nồng nồng. Cô bồn chồn, lạc dạ, quay mặt đi chỗ khác.
Chú Tâm nhìn cô, ôn tồn:
- Chú có con, chú biết. Cha mẹ bao giờ cũng muốn cho con mình luôn luôn sống hạnh phúc.
Giọng Lan nghe tỉnh khô:
- Cháu không hạnh phúc.
- Mà cháu muốn gì nào?
- Ước mơ, như chú nói.
- Có ai cấm cháu ước mơ.
- Có. Mẹ cháu.
- Cháu nói không đúng đâu.
- Đúng. Ước mơ là ở trong đầu mình.Mình thích thì ước mơ, mẹ cháu làm sao cấm.
Lan ngẩng mặt lên:
- Chẳng lẽ cứ ước mơ rồi để luôn trong đầu ngày này qua tháng khác hay sao!
- Vậy cháu muốn mơ thành thực hay sao? Sự thực buồn lắm cháu.
- Buồn cũng được. Đau cũng được. Cứ nghe người ta nói cuộc đời này nọ, đỏ đỏ xanh xanh vàng vàng mà rồi y như chuyện cổ tích, kể xong rồi hết. Cháu không ham làm công chúa, cháu chỉ muốn có cái gì mà cắn một miếng, nhai một miếng. Còn không thì cầm trong tay một chút thử xem sao.
Chú Tâm dừng lại, nhìn chăm Lan.
- Cháu muốn cắn, muốn nhai cái gì. Chú không hiểu.
Giọng Lan tỉnh queo:
- Cắn chú chẳng hạn.
Chú Tâm cười:
- Đâu có khó gì. Đây, cháu có thích thì cắn đi.
Chú Tâm đưa cánh tay ra. Trong một cử chỉ đột ngột, Lan không ngần ngại gì, ôm cánh tay chú Tâm, cắn một miếng. Chú Tâm kêu “ái” một tiếng, rút tay lại. Lan buông ra, giọng lắp bắp:
- Cháu…cháu…xin lỗi chú. Cháu định thử… thử nhẹ thôi.
Chú Tâm im lặng, nhìn Lan lạ lẫm. Lan nhìn vào mắt chú:
- Chú tha lỗi cho cháu.
Chú Tâm không nói gì. Bóng hoàng hôn làm khuôn mặt chú sẫm lại. Lan không rõ là chú có giận hay không. Một lát, chú nói, giọng như nhỏ hơn bình thường:
- Trời tối rồi, thôi ta về, cháu.
Lan lẳng lặng đi, người bần thần. Cô kéo cổ áo lại, che ngực. Thấy chú Tâm yên lặng bước, cô hỏi:
- Chú giận cháu đấy à?
- Không đâu.
- Chú không giận, nhưng trông bộ chú chẳng hiểu cháu tí nào, phải không?
Chú Tâm có vẻ lúng túng:
- Ờ, chú không hiểu. Mà chắc có hiểu, nhưng … để chú suy nghĩ đã.
Lan thấp giọng:
- Mà… cháu cũng chẳng hiểu cháu nữa.
Chú Tâm bước nhanh hơn. Lan hỏi:
- Chú đói bụng à?
- Không, nhưng về thôi cả mẹ cháu đợi.
Lan cười:
- Thế là đến phiên chú sợ mẹ cháu.
Chú Tâm im lặng bước. Bóng tối nhòe nhòe trên dáng chú. Lan thay đổi đề tài:
- Từ ngày có chú về, mẹ cháu thay đổi hẳn.
Đang suy nghĩ gì đó, chợt nghe Lan nói thế, chú quay lại:
- Cháu nói… mẹ cháu sao?
- Cháu nói mẹ cháu thay đổi hẳn khi có chú về. Hẳn mẹ cháu còn thương chú lắm. Như ngày xưa vậy.
Lan tránh không dùng chữ “yêu”. Chú Tâm nói:
- Chú cũng thấy thường thường vậy thôi. Cái gì cũng muộn màng cả rồi.
Lan nói tiếp ý nghĩ của mình:
- Mẹ cháu độ rày chịu khó ăn mặc hơn, tiêu tiền nhiều hơn. Thỉnh thoảng cháu còn nghe mẹ cháu hát nữa. Trước đây, cứ nhìn mẹ cháu là cháu thấy rầu. Khuôn mặt khi nào cũng như đưa đám, hiếm khi cười.
- Tội nghiệp mẹ cháu. Mẹ cháu đôn hậu quá, chân chính quá, nên khổ.
- Mẹ cháu nói mẹ cháu khổ vì mơ mộng. Theo cháu, mẹ khổ vì mẹ thích khổ, thế thôi.
Chú Tâm cười:
- Ai lại thích khổ bao giờ.
- Thương chú, mẹ khổ. Lấy ba, mẹ khổ. Ba mất, mẹ cũng khổ. Có con, mẹ khổ. Con lớn, mẹ cũng khổ. Nhìn đâu mẹ cũng thấy khổ. Chẳng rõ, chú về đây, mẹ vui được bao nhiêu hôm rồi chưa chừng cũng lại thấy khổ. Mai kia mốt nọ, chú ra đi rồi, mẹ lại khổ thêm.
Chú Tâm nhìn chăm Lan:
- Mẹ cháu nói là cháu còn dại lắm. Dại như cháu còn bằng mười cái khôn.
Lan thở dài:
- Mẹ chỉ biết có mẹ thôi.
Ngưng một lát, cô tiếp:
- Gió chiều hôm lạnh quá, chú há! Chú đi về phía này che bớt gió cho cháu.
Hai người đi vào đoạn đường làng. Trời tối hẳn. Những khóm tre tù mù. Thỉnh thoảng Lan cố đi thật sát vào người chú Tâm, nhưng chú né người, tránh đụng vào cô. Leo lên con dốc đá trước khi vào đầu ngõ, Lan vấp khúc cây, té xuống. Cô vớ được cánh tay chú Tâm, vịn đứng lên, miệng xuýt xoa. Chú Tâm đỡ Lan dậy, cuống quít:
- Trời, có sao không cháu?
Lan không nói gì, bóp tay chú Tâm một cái rõ mạnh, rồi buông ra, giọng run run:
- Không sao chú. Trời tối, cháu không thấy đường. Mà lại, chú đi nhanh quá.
*
Khi hai người bước vào sân nhà, thì đã thấy mẹ Lan đứng ở đó, dáng vẻ bồn chồn. Lan không nhìn rõ khuôn mặt mẹ như thế nào, nhưng cô nghe giọng mẹ lạnh buốt:
- Các người sung sướng quá thể!
Mẹ quay ngoắt đi. Bóng mẹ nhập nhòa biến mất sau cánh cửa nhà bếp. Chú Tâm khựng lại, đứng bất động trong sân, hai tay vẫn đút túi quần. Lan bước vội vào nhà, tìm mẹ, nhưng không thấy mẹ đâu. Hỏi bà ngoại, bà ngoại không biết.
Bữa cơm dọn ra buồn tẻ. Bà ngoại mời:
- Cháu Tâm vào ăn cơm kẻo nguội.
Chú Tâm miễn cưỡng ngồi vào bàn ăn.
- Lan, mời mẹ ra ăn.
Lan vào giường, thấy mẹ về tự hồi nào, nằm yên lặng trên giường. Lan nói:
- Mẹ ra ăn cơm. Ngoại với chú Tâm đang đợi..
Mẹ nói, như một nhát dao cứa vào tay Lan, ứa máu:
- Không mắc mớ gì đến tôi mà mời. Các người cứ ăn đi.
Lan trở ra. Bàn ăn ba người lạnh lùng. Lan nhai cơm nghe đắng. Chú Tâm vân vê cọng rau muống luộc, không buồn chấm nước mắm. Bà ngoại thủng thẳng mút xương cá vụn. Ngọn đèn điện mờ, ánh sáng bị chận lại sau nhiều dãy cột đen bóng, không tỏa được khắp. Lan nhớ đến những bữa ăn chiều thường lệ trước khi chú Tâm đến. Cũng im lặng, nhưng không đến nỗi lạnh lẽo như thế này. Bây giờ, không có mẹ, nhưng bóng mẹ trùm lên cả bữa ăn. Món ăn nào cũng lạnh buốt như giọng mẹ.
Bà ngoại lên tiếng:
- Cháu với Lan đi chơi nhưng nơi nào?
Chú Tâm đặt đôi đũa xuống:
- Dạ, cháu dẫn Lan đi dạo loanh quanh ngoài con đường ruộng. Ở nhà nóng quá.
Bà ngoại nói như giải thích giùm cho mẹ:
- Mẹ cháu không rõ chú cháu đi đâu mà lâu về, mẹ cháu sợ có chuyện gì không hay. Thường thì Lan chẳng bao giờ đi đâu khỏi nhà.
Thấy chú Tâm yên lặng, bà ngoại tiếp:
- Từ hồi chồng mất, con Ánh nhà tui đâm ra đổi tính đổi nết. Sống cô độc, ít bạn bè. Khác hẳn thời con gái. Có cháu về đây, nhà này đỡ lạnh, con Ánh tui trông bộ cũng vui ra.
Ngẫm nghĩ một lát, bà chép miệng:
- Nhà thiếu đàn ông, hiu quạnh lắm. Cháu xem, cột kèo mối mọt lung lay, nhện giăng đầy. Vậy đó, vì không có đàn ông.
Chú Tâm nhìn quanh:
- Nhà này xưa ghê, thưa bác?
- Ừ, xưa lắm, xây đâu từ thời ông cố. Mấy đời rồi.
Im lặng. Ai cũng mong ngóng mẹ, nhưng mẹ không ra. Bữa cơm chấm dứt, uể oải. Bà ngoại hỏi một câu lấy lệ:
- Cháu định về Huế luôn hay rồi lại đi?
- Dạ, mới ra khỏi tù chưa tính gì dứt khoát cả, bác ạ.
- Có định đi xa không? Ra nước ngoài chẳng hạn.
Chú Tâm cười:
- Cũng có nghĩ đến, nhưng không có tiền.
Chú Tâm uống nước xong rồi bỏ ra sân, khuôn mặt còn sững sờ vì thái độ của mẹ. Lan phụ bà ngoại dọn dẹp xong rồi trốn vào phòng, đầu óc rối bời. Cô đem sách vở ra cố ôn bài, nhưng chữ nghĩa trôi tuột đi đâu hết. Chán nản với ý nghĩ không đâu, cô thiu thiu ngủ trên bàn học. Chợt có tiếng động. Cô mở mắt, thấy mẹ nhìn, tia mắt long lanh. Tiếng mẹ rít qua kẽ răng:
- Ai cho phép con đi lăng nhăng với đàn ông ngoài đường?
Lan nhìn mẹ, sững sờ, không biết trả lời thế nào.
- Con không nói hả?
Mẹ bất ngờ tát một cái vào mặt Lan. Lan ôm mặt, không cảm thấy đau, đôi mắt nhìn mẹ không chớp. Chưa bao giờ cô thấy mẹ lạ lùng dường ấy. Mẹ dịu giọng:
- Mẹ hỏi lại, ai cho phép con đi với đàn ông?
Lan tấm tức:
- Con đi với chú Tâm chứ có đi với ai đâu.
- Chẳng lẽ chú Tâm không phải là đàn ông?
Lan cúi mặt ấp úng:
- Thì là…đàn ông, nhưng chú ấy là… là… bạn của mẹ.
Giọng mẹ trở nên chua chát:
- Đời mẹ đã khổ vì đàn ông, con biết không. Đàn ông không có gì gì đáng tin hết. Họ luôn luôn phỉnh phờ, lường gạt. Họ không hề biết yêu như đàn bà. Có họ mình cũng khổ, mất họ mình cũng khổ. Mẹ không muốn con gần đàn ông vì không muốn con khổ, con hiểu chưa?
- Chú Tâm cũng như ba con.
Mẹ trừng mắt:
- Ai bảo con thế! Ba con là ba con, chú Tâm là chú Tâm. Nội sự lầm lẫn như thế sẽ dẫn con đi xa, vô cùng nguy hiểm.
Lan im lặng. Cô không hiểu nổi mẹ cô muốn nói gì. Mẹ lại gằn giọng:
- Nhìn vào đây. Trả lời cho mẹ biết, chú Tâm nói với con những gì?
Lan lúng túng, vì sự thực cô không thể nhớ rõ là chú Tâm và cô đã nói những chuyện gì.
- Con không nhớ rõ. Đại khái là nói chuyện học hành, bạn bè…
- Có rủ con đi uống cà phê không?
- Dạ có, nhưng con không đi.
- Có khen tóc con đẹp, mắt con mơ mộng không?
- Dạ không.
- Có hát cho con nghe một bài tình ca nào không?
- Dạ không.
- Có cầm tay con không?
- Dạ không.
- Có hỏi con có người yêu chưa hay không?
- Dạ không.
Giọng mẹ hơi dịu xuống:
- Thôi được, mẹ hỏi con cho vui thôi, chứ thực ra, mẹ cũng đoán được chú ấy và con nói những chuyện gì rồi. Đàn ông chỉ có chừng ấy chuyện để nói với đàn bà. Họ tán hươu, tán vượn, thêm mắm dặm muối. Họ nói láo hết. Đôi khi họ chẳng hiểu họ nói những gì. Thế mà đàn bà chúng ta vẫn tin, cứ tin. Mẹ nghiệm đời mẹ, mẹ biết. Cả ba con, cả chú Tâm và nhiều người nữa, không có điều gì họ nói với mẹ là thật cả. Láo, từ đầu đến cuối. Con phải nhớ như vậy. Đàn ông, nghĩa là nói láo, con hiểu chưa?
Lan nhìn mẹ:
- Nhưng…nhưng mẹ đem chú Tâm về nhà mà.
Mẹ trừng mắt:
- Ai nói với con mẹ đem chú Tâm về? Chính chú ấy năn nỉ, van vỉ mẹ. Chú ấy bị vợ con ruồng bỏ, cô đơn, chú ấy tìm mẹ. Mẹ thấy tội…
Lan xen vào:
- Mẹ yếu lòng…
Mẹ ngơ ngác:
- Ờ, ờ…phải rồi, mẹ yếu lòng, mẹ tin. Nhưng sao mẹ lại tin nhỉ? Anh ấy …à chú ấy đã bỏ mẹ đi, đã… chú ấy dối mẹ nhiều lần, nhưng biết đâu lần này…
Mẹ ngừng lại, yên lặng. Mẹ không nhìn vào cô. Đôi mắt mẹ bỗng mông lung vô định. Cô sờ một bên má. Cái tát đọng ở đó. Cô không cảm thấy đau, mà nghe rưng rưng. Lần đầu tiên kể từ ngày cô lớn, mẹ tỏ ra giận dữ dường ấy. Cô chẳng thấy giận mẹ, chỉ thấy khó hiểu. Xưa nay, mẹ vất vả, khó khăn, nhưng cái gì mẹ cũng chìu cô. Thế mà bây giờ khác hẳn. Cô có làm gì sai trái đâu! Nhưng khi chợt nhớ đến việc cô cắn vào cánh tay chú Tâm, cô rùng mình. Cô nhìn mẹ, ân hận.
Mẹ hỏi:
- Chú Tâm nói mẹ thế nào?
- Chú nói: Tội nghiệp mẹ, mẹ hiền hậu quá nên mẹ khổ.
Mẹ thở dài:
- Ừ, mẹ thiệt thà. Mẹ dại.
Chợt nhìn vào mặt cô, mẹ trở giọng nghiêm nghị:
- Mẹ dặn con: con đừng tin ở đàn ông, bất cứ là thứ đàn ông nào.
Nói xong, mẹ quay bước ra khỏi phòng. Lan bàng hoàng lắng nghe tiếng chân mẹ đâu đó trong phòng, tự hỏi không biết có phải mẹ đang đi tìm chú Tâm hay không. Cô úp mặt xuống giường, thiếp đi.
*
Cô thức giấc vào một lúc nào đó trong đêm. Cô vừa trải qua một giấc mơ chắp nối, khi thì thấy chú Tâm bỏ đi, khi thì thấy mẹ đuổi cô đi, khi thì thấy mẹ cô chết. Cô ngồi dậy, định bật đèn, thì bỗng nghe có tiếng thì thào trong đêm vắng. Cô sởn tóc gáy, nghĩ đến ma. Không, tiếng nói chuyện. Cô nén sợ hãi, rón rén bước ra khỏi phòng, đi về phía cửa trước, nhìn ra sân qua những chấn song. Trăng hạ tuần méo mó chiếu xuống vườn một thứ ánh sáng nhờ nhờ, trông quái dị. Không nhìn thấy người nhưng nhận rõ giọng mẹ chen lẫn giọng chú Tâm vẳng lại từ đâu đó sau khóm chìa tàu.
Giọng mẹ nghe như rít:
- Ai cho phép anh rủ rê con bé Lan đi chơi?
- Thì bé Lan, con em cũng như con anh.
- Em không tin anh đã như thế. Anh chứng nào tật đó, rủ rê, tán tỉnh, giọng lưỡi ngon ngọt…
- Trời, em nói anh rủ rê, tán tỉnh con em thế mà nghe được à?
- Sao không! Em biết rõ bụng dạ đàn ông các anh. Cứ nói, cứ khen, cứ hát, cứ hứa cho đã. Anh có biết đâu, đàn bà nhẹ dạ, không tưởng có, giả tưởng thật. Em đây này, chừng này tuổi, cay đắng mùi đời, mà vẫn còn nhẹ dạ, huống hồ con bé Lan.
- Gì mà nhẹ dạ với không nhẹ dạ, Ánh. Em lấy chồng, có con đàng hoàng. Có điều, cái số em chẳng may, anh ấy tử trận.
- Anh biết vì sao em lấy Tuân không. Em trả thù anh đấy, anh biết không. Anh lăng nhăng, bội bạc.
- Thì cứ cho như vậy đi. Nhưng bây giờ, em cũng như anh, nếm đủ mùi đời. Anh tìm về với em tang thương, rách nát…
- Bộ em lành lặn lắm sao!
- Đâu có, anh với em, hai phần đời người hoài phí.
Giọng mẹ cắt ngang, nóng nảy:
- Thôi được rồi. Bây giờ em hỏi đây. Anh có rủ con bé Lan đi uống cà phê không?
- Có, nhưng bé Lan không đi.
- Anh có khen tóc con bé Lan đẹp, mắt con bé Lan thơ mộng không?
- Ồ kià, mắc mớ gì anh lại đi khen mắt với tóc con em.
- Anh có cầm tay bé Lan không?
- Không đời nào.
- Anh có hát cho bé Lan nghe một bài tình ca không?
- Không.
- Anh có nói chuyện với bé Lan về tình yêu, về kỷ niệm hay một cái gì đại loại như thế không?
- Trời ơi, em làm gì mà như thẩm vấn anh vậy. Y em muốn gì?
- Em không muốn gì hết. Em thương con em, em không muốn nó sa đà vào những chuyện hão huyền.
- Vậy là em ngờ vực anh…
- Em không ngờ vực gì hết. Em không muốn con em khổ như mẹ nó. Anh đừng chối cãi, biện luận. Anh phải nghe em, phải hiểu em.
Im lặng. Sương khuya rớt nhẹ, mơ hồ. Khu vườn mờ ảo như trong truyện liêu trai. Lan bồn chồn theo dõi cuộc nói chuyện trong đêm. Chú Tâm lên tiếng:
- Ánh, em cư xử với anh như vậy là quá thể.
Mẹ nức nở:
- Không có gì là quá thể. Em lo sợ…
Tiếng mẹ nhỏ dần. Lan cố lắng nghe, nhưng không nghe được gì nữa. Khóm chìa tàu là một khối đen im lìm. Lan có cảm tưởng như chẳng có gì, chẳng hề có ai đàng sau đó. Một chút gì tái tê, một chút gì đăng đắng, nghèn nghẹn của mùi vị cuộc đời lan vào trong cô. Chỉ là một vết xước. Vết xước đầu đời, nhẹ nhưng buốt. Cô chợt nhận ra một mẹ khác, một mẹ lạ hẳn, một mẹ cô chưa hề biết, chưa hề thấy. Và cô, cô cũng khác. Cô trở thành một người khác.
Lan định trở vào thì nghe giọng chú Tâm:
- Có lẽ anh phải đi.
Trái tim cô chợt đau nhói. Giọng mẹ hốt hoảng:
- Anh đi. Đi đâu? Sao lại đi?
Chú Tâm nói:
- Đi đâu thì cũng phải đi thôi. Rõ ràng là ở lại chỉ làm khổ thêm cho em. Lại khổ cho bé Lan nữa. bé Lan nói đúng, Ánh chỉ tự làm khổ cho mình.
Nghe tiếng mẹ thút thít. Lan quay vào, bần thần, tê dại. Có tiếng động nhẹ đâu đó ở bàn ăn. Cô giật mình, định thần nhìn thì thấy bà ngoại đang ngồi im lặng ở đó. Cô không hỏi han gì, lặng lẽ vào phòng nằm xuống. Tiếng thút thít của mẹ như tràn hẳn vào giấc ngủ đầy mộng mị của cô.
*
Vừa tỉnh giấc, mở mắt, Lan vội vã bước ra khỏi phòng, nhìn quanh nhà. Chiếc giường nhỏ kê cạnh cửa sổ, nơi chú Tâm ngủ không chăn, không chiếu. Không có cái mũ lớn treo đầu cửa. Không có mấy tờ báo nằm trên bàn. Không có đôi dép dưới kệ sách. Không có cái áo sơ mi vắt trên ghế. Không có cái “xắc” nhỏ ở góc nhà. Thiếu chúng, căn nhà như trống trơn. Thế là chú Tâm đã đi! Cô đứng lặng người một lát, như để cho cái cảm giác buồn loáng thoáng đâu đó thấm sâu hơn vào trong người. Cô đi xuống bếp, thấy bà ngoại ngồi một mình, nhìn vơ vẩn ra sân. Thấy cô, bà ngoại lên tiếng:
- Chú Tâm đi rồi, Lan.
Lan im lặng. Như sợ Lan chưa nghe, bà ngoại lại nói:
- Chú Tâm đi rồi.
- Dạ, còn mẹ cháu đâu?
- Chắc là tiễn chú Tâm đi.
- Sao ngoại không nói chú ấy ở lại chơi cho vui. Có chú, nhà vui hơn.
- Ờ, thì vui hơn. Nhưng quyền của hai người, ngoại không có ý kiến.
- Chú Tâm ở chơi được tháng chưa ngoại nhỉ?
- Cỡ đó. Ngoại không nhớ rõ.
Bà ngoại chỉ chỗ phơi quần áo ngoài vườn:
- Còn cái áo chú Tâm phơi đó. Hai người đi rồi, ngoại mới nhớ ra có cái áo chưa giặt, ngoại đem ra giặt.
Ngừng một lát, ngoại chép miệng:
- Biết chú ấy ở đâu mà đưa chừ!.
Nhìn cái áo, Lan chợt nhớ đến mùi đàn ông phảng phất đâu đây. Cô hỏi vu vơ:
- Không biết chú ấy có trở lại không nhỉ?
Bà ngoại cười buồn:
- Ai mà biết. Đàn ông rộng chân rộng cẳng hơn đàn bà.
- Ngoại có thích chú Tâm về lại không?
Ngoại dứng dậy, thở ra:
- Ngoại không rõ lắm. Mà nhà có đàn ông thì cũng vui.
Nhà có đàn ông thì cũng vui. Có lẽ thế, Lan nghĩ.


Trần Doãn Nho

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Oct/2017 lúc 4:26pm

QUỚI NHÂN


Mấy má con đang theo dõi  tuồng cải lương Tiếng trống Mê Linh trên vô tuyến truyền hình, đến đoạn Kép Thanh Sang trong vai Thi Sách đang vô vọng cổ mùi mẫn để từ biệt Trưng Trắc  thì bà Mười và đám con ai nấy cũng Sụt sùi thương cảm cho hoàn cảnh này, nhất là con Út Đẹt là đứa nhạy cảm nhất trong nhà, hể truyền hình chiếu cái gì có chia tay, chết chóc bệnh hoạn thì y như rằng đôi mắt nó đỏ hoe ngấn lệ, hôm nay cũng vậy thấy ông Thi Sách bị giặc bắt và đem ra pháp trường hành quyết, trong lòng Út Đẹt nó bất nhẫn vô cùng, nó đưa tay che mắt lại để không phải thấy cảnh bi thương kia, nó ngồi rút vội  vô lòng bà Mười rồi nó nói:
 – Giặc Tàu ác quá má ơi, khi không lại bắt người ta hà, con ghét ông giặc Tàu có râu thấy ghê quá.
 Nghe cái giọng ngây thơ của con, bà Mười cũng nói cho qua chuyện, vì có giải thích thế nào thì Út Đẹt cũng chưa thể nhận biết được, bà nói :
 – Ừ , họ ác lắm con , mai mốt lớn lên con sẽ biết tại sao họ bắt ông Thi Sách, thôi vô ngủ đi con, ngày mai còn đi học nữa.
 Út Đẹt chưa kịp đứng lên thì ngoài sân tiếng chó sủa vang lên inh ỏi, bà Mười làu bàu :
 -Ai làm gì ngoài đó mà con ki ki nó sủa rân trời vậy cà.
 Rồi bà cất tiếng kêu :
– Hải ơi! Con ra trước coi ai rình rập gì mà con Ki nó làm quá kìa, tía bây ăn nhậu gì mà giờ này chưa về nữa.
 Thằng Hải nghe má kêu như vậy, nó dạ rân một tiếng rồi chạy u ra sân xem tại sao con ki nhà mình nó sủa dữ vậy, trong bóng tối lờ mờ thằng Hải nhận ra bước chân xiêu vẹo của tía mình, nó nói thầm:
 -Rồi tía say rượu nữa rồi, uống gì uống hoài kỳ quá.
Hải bước nhanh đến bên ông Mười định dìu ông vô nhà, bổng nó giật mình khi thấy tía mình ôm cái khăn lông trắng quấn trong đó hình như một đứa trẻ thì phải, chới với trong lòng Hải nghĩ thầm:
 – Rồi cái điệu nầy tía  léng phéng với ai để cho có con, rồi nay họ giao con tía đem về nuôi đây mà.
Tức tối với ý nghĩ trên, Hải thầm ghen tức cho má nó, nó bèn hỏi tía với cái giọng hơi hỗn xược :
 -Đó tía thấy hậu quả ham vui của tía chưa, tía ẵm nó về đây ai ở không đâu bồng bế nó, con là con không bồng rồi đó nghe.
 Thấy thằng con trai mình nói điều bậy bạ, nó dám xem thường phẩm giá của tía nó, ông biết nó hớ nặng tuy có hơi men trong người  cũng “là đà” say nhưng chưa đủ “đô” khiến ông Mười phải “nộ khi xung thiên” với thằng Hải, ông làm bộ nương theo câu trách móc của nó để ghẹo và xem Hải phản ứng ra sao, rồi giả cái giọng lè nhè của những lúc đang  “quắc cần câu” ông Mười nói :
– Hải nè ! “Em” con nó bị bỏ rơi ngoài đường, má nó tàn nhẫn quá, thấy vậy tía đành phải cưu mang chớ biết sao con, nè tía lòn ra cửa sau, mầy vô mở cửa cho tía đi, tía giấu em con sau bếp, rồi từ từ tía nói với má bây sau, nhớ đừng cho bả biết vụ này, bả hay được làm rùm beng lên mất mặt với lối xóm nghe bây.
 Thấy ông già tía mình “Tự thú trước bình minh” với thái độ của người có thái độ
“Hạ mình”, thằng Hải nổi lên cái tánh “Anh Hùng mã thượng” hồi nào nó chẳng hay, nó không còn oán trách ông Mười nữa, rồi dường như nó thương cảm cho số phận đứa em ” Một cha khác mẹ” của mình, Hải nhanh nhẩu nói:
 – Thôi vậy đi tía, nhưng tía để chỗ nào lớ quớ coi chừng mấy con Kiến nó tha thằng nhỏ đi mất là mệt nghe tía.
 Nói xong thằng Hải đi nhanh vào nhà ra sau bếp để mở cửa cho tía mình, phần ông Mười thì ông nở một nụ cười đắc chí, ông lẩm nhẩm một mình:
 – Chết mầy chưa con, bị tía bây gạt mà không biết, cho bỏ cái tật bộp chộp nghe con, cái thằng thiệt tình khi không tự dưng nó úp chụp cho tui có vợ bé vợ mọn chịu đời sao cho thấu đây.
 Bà Mười thấy thằng Hải trở vô nhà với thái độ lạ lẫm vô cùng, bà sai nó ra xem tại sao chó sủa, vì bà nằm lòng câu ca dao:
 “Chó đâu chó sủa lổ không, chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày”.
 Bà Mười thắc mắc chuyện gì bên ngoài mà thằng Hải đang giấu bà, khi Hải vừa sắp rẽ vô nhà bếp phía sau, bà Mười gọi nó giật ngược:
 -Hải, Hải ra tao biểu nè .
 Nghe bà Mười gọi bất ngờ khiến Hải điếng hồn, nó phân vân không biết có nên nói thiệt cái tình cảnh của ông Mười hiện tại hay không, nếu nói ra thì đêm nay e rằng cả nhà nó sẽ bị thức suốt đêm, gì chứ tía có vợ bé còn bồng con về nhà thì đâu phải chuyện nhỏ, má nó sẽ kêu gào thảm thiết hoặc nhẹ lắm cũng chì chiết cả nhà không chừa một ai, nghĩ tới đây Hải thấy kinh hãi vô cùng, vì mỗi khi có chuyện gì khiến bà cau có, bà sẽ cho cả nhà nghe “Kinh nhật tụng” muốn nổ tung cái màng nhĩ.
 Còn như giấu biệt cái chuyện này đi, tìm cách nói quanh co gì đó thì cũng dễ, nhưng khi bà Mười biết được toàn bộ chuyện này thì Hải chắc rằng “tội trạng” này sẽ to tác vô cùng, nó chợt nhớ lại khuôn mặt ông Mười lúc nãy, như van xin quỳ lụy mình, vì vậy nó lại không cam lòng bán đứng tía mình, nhanh chóng nghĩ trong đầu, một liều ba bảy cũng liều, lỡ đâm lao phải theo lao luôn nên nó mạnh dạn nói xạo, phải công nhận trình độ xạo ke của thằng Hải thuộc hạng có cỡ nên bà Mười tuy thấy nó có biểu hiện lạ nhưng khi nghe nó nói bà Mười cũng phải tin sái cổ :
-Tao biểu ra coi con ki nó bị cái giống gì mà sủa rân trời, bây coi xong đi vô te rẹt không nói một tiếng cho tao biết là sao cái thằng kia.
 – Ối có gì đâu má ơi, con Mèo của nhà bà Chín Phàn nó “Xâm nhập bất hợp pháp” vô sân mình nên con Ki nó cự nự chút đỉnh chứ có gì đâu, con đuổi con Mèo đi rồi, con ra sau nhà  uống miếng nước, chiều má cho ăn ba cái mắm kho ngon thì ngon thiệt, nhưng nói thiệt là hơi mặn nên khát nước gần chết luôn.
 Nghe thằng con than khát nước, bà Mười đốc vô :
 – Bây xuống bếp uống đi, xong rồi múc má một ly, tao cũng khát nãy giờ đây.
 Chờ có nhiêu đó thôi thằng Hải phóng cái rột ra sau bếp mở cửa cho tía mình, cửa vừa mở ra Hải liền bị ông Mười cự nự liền:
 – Mở có cái cửa không mà mà làm cái giống gì lâu lắc quá vậy Hải, đứng đây muỗi cắn gần chết luôn nè.
 – Bộ tía tưởng con ở không chắc, má nghi ngờ cái gì đó nên chận lại hỏi, con phải dùng ba tất lưỡi của “Tô tần” giải tỏa nghi ngờ, nếu không thì tía “Dính chấu” rồi chứ ở đó mà tía càm ràm.
– Thì thấy mầy lâu quá tía hỏi vậy thôi mà, thôi bây lên nhà trên đi để bả nghi là “héo đời” luôn nghe bây.
 Thằng Hải múc ly nước trong cái khạp da bò cho bà Mười, trước khi đi nó ném một cái nhìn thông cảm cho tía mình vì tía đã trót lỡ để tay “nhúng chàm”.
                               ***
  Cả nhà đang say giấc nồng, chợt tiếng thằng Hải mớ la lên bài hãi khiến mọi người trong nhà tĩnh giấc :
-Con đâu biết pha sữa , thay tả đâu mà tía ép con hoài, con tía thì tía lo đi.
 Bà Mười nghe rõ ràng câu nói từ cửa miệng thằng Hải thốt ra, bà gọi Hải :
– Hải đâu, sao tía mầy có con mọn sao mầy giấu má , cha con bây quá trời rồi.
 Ý Bà Mười ghẹo thằng Hải cho nó cãi lại để tĩnh giấc mơ, không ngờ Hải tưởng má mình biết mọi việc nên nó bật ngồi dậy bà đến bên bà Mười nó chắp tay xin lỗi má  mình, rồi tự nó khai ra hết trơn diễn tiến hồi đầu hôm hai tía con toa rập nhau giấu giếm  bà chuyện con rơi của ông Mười, tuy khai hết trơn nhưng nó ráng vớt một câu để cứu tía mình:
 – Thôi lỡ rồi má, tía giấu nó dưới bếp kìa để kêu tía dậy bồng em lên má xem.
Ông Mười nằm kế bên nghe câu chuyện hai má con tố khổ mình cái tội đèo bồng, bà Mười thì chưa phản ứng gì khi nghe tin sét đánh ngang mày như thế này, nhưng ông ưng ý nhất là câu vớt của thằng con trai nói về mình làm ông cảm động vô cùng, ông nói thầm:
 -Thằng Hải này coi vậy ăn ở có trước có sau ghê nhe, được đó bây xong vụ này tía thưởng
 Ông nở nụ cười tươi như chưa bao giờ được cười sau khi nghe bà Mười gọi dựng ông  dậy:
 -Ông Mười, dậy tui hỏi cái này nè.
Làm như đang say giấc nồng mà bị phá đám, ông cựa mình rồi ôm cái gối ôm ngủ tiếp, bà Mười đang nóng máu vì cái tin thằng Hải vừa phun ra cho bà nên không còn giữ bình tĩnh nữa, bà giật giò ông dậy:
– Ngủ nghê gì nữa, có con mọn phải thức thay tả cho nó chứ ông.
Ngồi dậy kế bên bà Mười ông lấy tay che miệng ngáp rồi làm bộ ngạc nhiên hỏi:
– Vụ gì mà khuya lơ khuya lắc còn họp hành nữa vậy bà.
 Thằng Hải nó nháy mắt “xi nhan” cho ông Mười lia lịa, nó ngầm bảo với ông nhận tội để được hưởng lượng khoan hồng, tuy thấy hết ý tứ của thằng Hải nhưng ông cố tình lờ đi khiến trong bụng thằng Hải đánh lô tô mệt nghỉ.
 Nghe bà vợ chì chiết cái tội “Ham mê bóng sắc, đọa đày tấm thân” của mình, rồi thấy bà kêu thằng Hải xuống bếp đem đứa em khác mẹ của nó lên làm tang vật để bà có cớ hỏi tội ông và sẳn tiện bà nhất quyết ly dị ông luôn cho từ nay trở đi ông sẽ nằm chèo queo một mình về cái tội đa thê, thằng Hải xuống bếp lục lạo một hồi nó thấy cái khăn trắng được tía lót trong cái thúng, nó nhào tới khi thấy đứa em bằng xương bằng thịt nằm ngủ như một thiên thần bé nhỏ nó không còn sợ sệt như lúc nãy , nó cười khoái chi và ôm cái thúng tang vật lên nhà trên tức thì.
 Trong lúc này ở nhà trên không khí nặng trịch trên gương mặt bà Mười, trái lại ông Mười có thái độ “Tĩnh bơ sư cụ” càng làm cho bà Mười điên tiết hơn nữa.
 -Má em con nè má.
Bà Mười nhìn thấy con chó con mập mạp lông trắng tươi như cái khăn lông đang lót cho nó nằm, đang bực dọc không hiểu chuyện gì rồi thấy ông Mười ôm bụng cười bò lăn ra giường, lúc này thằng Hải mới kể hết đầu đuôi lần nữa cho bà nghe, đến bấy giờ bà Mười mới  biết ông chồng cố tình chọc ghẹo hai má con mình, bà quay qua ông Mười đấm lia lịa trên lưng ông, thằng Hải cũng sáp lá cà phụ mẹ “dợt” cho ông Mười một trận cho bỏ cái tật ghẹo vợ con mình, sau một hồi quần ông Mười tơi tả tuy mệt nhưng cả nhà vang lên đầy ắp tiếng cười…
                            ***
  Thắm thoát Con Phèn lớn lên bên con Ki, hai con cho quấn quýt nhau rất thân tình, một sánh nọ ông Mười mở cửa cho con Ki và con Phèn ra chạy nhảy bên vệ đường, hai con chó sau một đêm tù túng trong nhà như chú chim sổ lồng nên hai con rượt đuổi đùa vui với nhau, ông Mười thì tranh thủ làm vài động tác thể dục cho dãn gân dãn cốt, nhìn con Phèn khỏe mạnh chơi đùa ông rất vui, ông được người bạn tặng con Phèn họ nói:
 -Giống chó này hết xẩy nghe anh Mười, mẹ nó khôn dữ  dội luôn, quý anh lắm tui mới tặng anh nghe, nhớ nuôi đừng cho ai nghe ông.
 Đang nhớ lại buổi nhậu chiều hôm ấy, rồi nhớ lại vụ mình gạt má con thằng Hải làm họ hố một cái quá mạng khiến ông cười một mình, đang thả hồn nhìn bầu trời buổi sáng tinh mơ hít thở không khí trong lành ông thấy đời còn gì vui hơn, rồi ông nhớ hôm ngồi trong bàn nhậu, có ông bạn mới quen, họ tự xưng là chiêm tinh gia trước kia có ngồi ở Lăng ông Bà Chiểu để xem tử vi , do thời thế thay đổi ông ta bỏ nghề tuy vậy lâu lâu ngứa nghề ông hay xem cho bạn bè, mà lần nào những người được xem đều cho là ông ta đoán việc như thần, ông ta xem cho ông Mười sẽ gặp một tai nạn nho nhỏ nhưng sẽ tai qua nạn khỏi, tuy xem chơi trong bàn nhậu cho vui chứ thật tâm ông Mười chẳng tin bói toán bao giờ….
  Hai thanh niên bịt mặt bằng khẩu trang, họ chạy xe gắn máy chạy sát đến con Ki, tay ngồi sau nhanh chóng dùng thòng lọng bắt con ki, tiếng con ki la thất thanh khiến ông Mười choàng tĩnh, thấy con Ki bị bắt nhanh chóng ông lượm cục đá bên đường ông chọi thật mạnh trúng ngay tên cầm lái, do đau quá hắn loạng choạng tay láy làm chiếc xe ngã lăn kềnh ra đường, ông Mười chạy đến giành lại con ki, nhưng tên này tuy té đau cố phản ứng để quyết giữ con ky đem về lò mỗ bán, hắn rút con dao nhỏ trong lưng cầm trên tay lăm le hăm dọa ông Mười , xui cho hai tên này ông Mười vốn là võ sư nên ông không coi thường cái vũ khí cỏn con kia, ông nhào vô đá văng con dao rồi dùng chân còn lại đâ tiếp vào đầu tên giữ con Ki khiến hắn phải bỏ con ki ra và té lăn cù xuống đường, lợi dụng ông đang đối phó với thằng nọ, tên cầm lái lấy cây gậy gỗ đánh vào gáy khiến ông Mười té nhào xuống đất, thấy chủ và bạn mình bị tấn công con Phèn nỗi điên lên nó nhào vô táp cho mỗi tên vài vết, công nhận ngày thường con Phèn hiền lành bao nhiêu hôm ấy nó làm cho hai tên trộm chó hồn xiêu phách lạc, bà con chung quanh thấy vụ việc họ chạy đến cứu ứng, hai tên bị bắt dẫn giải về đồn lấy “ăn kết”.
 Ông Mười đau đớn ngồi trên cái ghế bố ngoài sân, con Ki và con Phèn nằm phũ phục dưới đất cạnh ông, đưa tay vuốt lưng con ki rồi vuốt lưng con Phèn, lúc bấy giờ ông Mười mới nhớ lại lời ông thầy tử vi phán hôm nọ  “y như trong kinh” thì ra quới nhân giúp ông chính là con Phèn , con chó mà ông bạn từng khẳng định quý nhau lắm mới tặng ông con phèn này.
 Ông Mười cố ẩm con Phèn lên, ông ghé sát vào tai nó ông nói :
– Cảm ơn quới nhân của tui thật nhiều nhe, chiều nay tui trả ơn cho 2 quới nhân bằng một chầu thịt bò bít tết nhé.
 Dường như biết được tiếng lòng của ông Mười, con Ki và con Phèn rít lên rồi vẫy vẫy cái đuôi mừng rỡ, bất chợt khóe mắt ông Mười nó lại ươn ướt…


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Oct/2017 lúc 9:23am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Oct/2017 lúc 10:07am

Thu Nhớ Người!


Sáng nay thức giấc nghe lành lạnh, ngoài trời mưa bay bay, gió hắt hiu, trời thu trông ảm đạm làm Thúy buồn mênh mang, và lòng nàng chợt bâng khuâng khi nhớ đến tình. Nàng có tình xưa và tình nay, mà tâm và trí luôn chia hai nửa, một nửa dành cho mỗi tình, khi thì sôi nổi bên tình này, khi thì u uất trầm lắng với tình kia.

Chính Thúy đã định sẽ ở goá, chỉ sống với tình xưa, chung thủy với hình bóng của Người xưa chứ không yêu ai khác, nhưng mỗi khi thu về sao thấy mình cô đơn, khi đông về một thân sao lạnh lẽo làm lòng nàng thấy trống trải, cứ ước rằng mình có bạn để chia xẻ vui buồn thì vẫn hơn. Thế rồi trời xui đất khiến cho Thúy gặp gỡ Anh trong một hoàn cảnh thật bất ngờ.

Trong một buổi Lễ Thất Tuần do một người bạn tổ chức cho cụ thân sinh ở chùa NLTT ở San Diego, Thúy và Anh đều đã được mời đến. Giữa hàng ngàn người trong khuôn viên chùa rộng lớn, cả bầu trời bỗng đầy tiếng chim ca và hoa nở, và như có một hấp lực vô hình nào đó đã kéo hai người lại với nhau. Khi đôi ánh mắt vừa trao nhau là hai cõi lòng liền rung động, không muốn rời xa.  Sau đó, những lúc Thúy vắng thư, Anh đã mượn những câu thơ của Hàn Mặc Tử để tỏ bày nỗi nhớ mong:

Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây trời còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê...

Từ đó đến nay đã qua mười năm mà tình với Anh vẫn còn khắn khít, dù Thúy vẫn yêu và nhớ đến chồng. Nhiều khi nàng tự hỏi như thế có phải là mình đã ngoại tình trong tư tưởng đối với Người xưa hay không!!! Nàng nhớ hoài, trong giờ phút hấp hối, khi nghe nàng sụt sùi khóc than:  “Không có anh em làm sao mà sống?” chồng nàng đã thều thào khuyên:  “Em hãy... thương yêu con mình, lo.. cho con ăn học, và mang...tình cảm em dành...cho anh đó cho...những kẻ, những kẻ... cần đến tình thương!”  Nàng đã chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ các con của Người, săn sóc mẹ già thay Người, và còn làm theo lời Người dặn; giúp cho rất nhiều tha nhân cần đến sự giúp đỡ của mình. Người xưa đã rất tốt bụng, rất yêu vợ. Khi Người mất đi nếu có linh thiêng thì chắc chắn hồn linh của Người càng thương nàng hơn, chẳng muốn cho nàng phải lẻ loi đơn chiếc trong chuỗi ngày dài. Hể còn sống, còn máu chảy trong tim thì ai cũng cần có tình cảm. Trời chẳng đã sinh ra âm dương để muôn loài bù đắp cho nhau đó hay sao. Thúy lý luận như thế, để khỏi mang mặc cảm tội lỗi. Hơn nữa, chính Anh đã biết Thúy từng là vợ một người đàn ông khác mấy chục năm, có với nhau một bầy con. Thúy cũng biết anh từng có vợ khác còn sống với hai con, dù đã xa nhau nhiều năm.  Bất cứ cặp vợ chồng nào khi đã chung sống lâu dài, từng có con cái và cùng trải qua bao nhiêu vui buồn với nhau, ai mà khỏi yêu khỏi thương, không buồn không nhớ sau khi nửa đường đứt gánh phải xa nhau dù vì lý do nào đó? Thúy không ghen với quá khứ của Anh, thì không lẽ một người trọng tình trọng nghĩa và có tâm hồn phóng khoáng như Anh lại không thể thông cảm với một kẻ có tâm hồn nghệ sĩ mẫn cảm như nàng? Hôm nay với bộ mặt chảy dài như cha chết của thu làm Thúy nhớ ray rứt đến tình kia, và vì nghĩ rằng không ai trách mình được nên nàng muốn cùng với thu tâm sự, tự do diễn tả cảm xúc này để chia xẻ với tình nay: 

Thu Nhớ Người

Cứ tưởng là mình không còn buồn
Không còn nhớ đến một người thương
Nhưng khi thu đến mưa thu đến
Lòng mênh mang buồn giọt vấn vương

Mưa giăng giăng mắt ướt lệ mờ
Gió làm liểu rũ hết nên thơ
Hàng cây trơ lá như xương cốt
Nhắc nhớ ai đang ngủ dưới mồ

Năm xưa ai đã yêu đắm say
Suốt một cuộc đời tay trong tay
Một bóng uyên ương đành rả cánh
Chỉ còn một bóng ở nơi này.

Trời buồn trời đang khóc cho người
Ðất cũng nhòe nhoẹt lệ vì ai
Trời đất còn khóc thương người ấy
nên mình vẫn nhớ người không thôi
(Thơ Ái Hoa)

Viết vội cho xong bài thơ, Thúy đọc luôn qua điện thoại cho Anh nghe, trong lòng tin tưởng là Anh sẽ thông cảm như bao giờ; không ghen.  Không biết Anh ghen hay không, Thúy chỉ nghe Anh nói:

-Bài này buồn thật em à!  May là em đã nói trước.  Anh muốn mình vui hôm nay.

Thúy đã có nói trước với Anh rằng trời buồn làm nàng rất muốn làm thơ, rất muốn diễn tả ra những cảm xúc mà nàng đang có, và luôn cả giai điệu nhạc cho bài thơ ấy nữa (nhưng đã không nói cho Anh biết mình diễn tả về đề tài nào). Dù không nhìn được mặt Anh để dò xét và phán đoán, nhưng câu nói ấy của Anh đã làm cho Thúy hiểu rằng mình rất thiếu tế nhị. Thúy cố vớt vát:

-Cũng may mà em đã nói trước rồi thiệt!  Anh đừng buồn em anh nhé! Em đã trút được nỗi buồn rồi thì em sẽ vui.  Hiện giờ em đang vui vì sắp được gặp anh.

-Rất tốt! Giờ em đi ra cái hồ Diamond, nơi mình từng đến xem vịt lội để nhớ đến anh, rồi trưa hai đứa mình gặp nhau!

Cả Anh lẫn Thúy đều là người biết tự chủ, biết phân biệt phải trái, nhưng tình yêu thường có khuynh hướng muốn sở hữu, nên khi yêu rất nhiều người trở thành nhỏ mọn, ghen tuông. Biết đâu! Thúy biết là mình nên tế nhị hơn, để kẻ khác khỏi buồn lòng theo, nên nàng nói:

-Anh có tin là em có thể tưởng tượng ra nhiều chuyện buồn khác nữa để làm thơ không?   Thương mây khóc gió là nghề của em đó.

-Anh tin chứ.  Nhưng các nghệ sĩ không phải sáng tác để thương vay khóc mướn mà là để tỏ bày cảm thông đồng cảm đó em.  Anh đã nhiều lần nói thế rồi, em nhớ không?  Văn chương có thể chỉ có sự thật 10% hoặc ít hơn, có khi chỉ do tưởng tượng, quan sát,  hay do được kể lại thôi. Anh mong là em chỉ nhớ để mà quên, chuyện buồn nên quên mới có thể sống vui được.

- Anh nói rất có lý.  Em sẽ cố quên bớt chuyện buồn trong dĩ vãng anh nhé! Anh biết không?  Nhiều khi cũng vì để viết văn làm thơ, em phải tưởng tượng những hoàn cảnh trái ngang hoặc nhớ chuyện của người khác, rồi em vui buồn thật theo người ta.

-Dĩ nhiên... Đinh Hùng thơ tình rất nhiều mà rất chung thủy, Tạ Tỵ vẽ nhiều người đẹp mà cũng vẫn ở suốt đời với bà vợ nghe nói là xấu xí!  Để anh nhắc em 4 câu thơ của Đinh Hùng có cùng ý với bài thơ của em:

Trời đã thu rồi em ở đâu
Nằm trong đáy mộ chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu

Em thấy chỉ 4 câu thơ thôi nhưng đã nói lên tình ý của nhà thơ đối với người vợ/người tình đã khuất của họ.  Thật là chí tình phải không em?  Anh hiểu em sợ anh buồn khi em nhắc về anh ấy.  Nhưng em đừng ngại nhé!  Anh chẳng đã kể cho em biết rằng anh và anh ấy đã từng sinh hoạt cộng đồng chung với nhau và chúng anh rất mến nhau. Nhiều khi anh tin rằng chính vì muốn cho em và anh khỏi buồn vì cô đơn nên anh ấy đã xui khiến cho chúng mình gặp nhau đây.

Nghe anh nói những câu đó với giọng chân thành như vậy, Thúy cảm động muốn khóc. Thì ra người ấy quả thật rất tốt, rất đáng cho nàng yêu thương, tin tưởng. Thúy hối hận đã có lúc mình nghi ngờ không đúng! Bây giờ Thúy tin lời Anh nói, phục Anh có lòng độ lượng, và càng yêu anh hơn. Nhưng sao nỗi thương nhớ Người xưa vẫn không vì thế mà phai nhạt. Nhiều lúc chính  Thúy cũng nghĩ là Người xưa đã đưa Anh đến làm bạn với nàng cho nàng bớt cô đơn. Cả hai đều yêu nàng, tốt với nàng là điều may mắn cho nàng.  Nhưng sao nàng vẫn cảm thấy lòng đầy mâu thuẩn, rồi lại hoang mang, không biết mình nên thế nào mới phải!!! 

Để cho Anh đừng biết là mình sắp khóc vì cảm động vì hoang mang, Thúy vội vàng từ giã:

-Anh ơi!  Em có chuyện phải làm gấp.  Tạm biệt anh nhé!  Trưa mình gặp lại.  Đi đường xa quá như vậy nhớ đừng ngủ khi lái xe nghe anh!

-Anh sẽ cẩn thận. Vậy tạm biệt em! Trưa sẽ gặp. Hôn em.

Ái Hoa
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Oct/2017 lúc 7:26am

Một Tấm Lòng

Hôm nay bác sĩ Diệu Hiền đến phòng mạch làm việc trở lại sau một tháng nghỉ vacation về Việt Nam. Thời gian vắng mặt chị đã nhờ một đồng nghiệp trông coi giùm phòng mạch nên công việc không hề bị ảnh hưởng.
Mỗi năm Diệu Hiền về Việt Nam một lần, mục đích chính là để làm từ thiện song song với du lịch thăm các danh lam thắng cảnh quê nhà, chẳng cần phải là những nơi nổi tiếng, chỉ cần nơi nào đó có nét đẹp riêng theo cảm nghĩ của mình là Diệu Hiền sẽ tìm đến để tâm hồn khuây khỏa.
Chị về Việt Nam một mình vì chồng chị không hề muốn đi theo. Hai vợ chồng càng nhiều tuổi càng có sự xung khắc dù nhìn bề ngoài ai cũng tưởng vợ chồng chị rất hạnh phúc, cả hai vợ chồng đều có nghề nghiệp danh giá và ổn định.
Từ nhiều năm nay Diệu Hiền đã được bạn bè ở Việt Nam cũng như ở Mỹ nhìn vào ngưỡng mộ vì chị có “một tấm lòng”. Lần nào về Việt Nam Diệu Hiền cũng mang theo tiền bạc của chính mình hay thỉnh thoảng có bạn bè nào thông cảm và tự động đóng góp thêm vào để Diệu Hiền tận tay mang đến giúp đỡ, thân tặng những người nghèo, những hoàn cảnh khó khăn.
Kể từ khi sang Mỹ định cư, cuộc sống khá giả và con cái đã trưởng thành, thành tài, nhưng tình chồng vợ vẫn có nét buồn riêng. Thế là chị lao vào làm từ thiện, trước là vì từ tâm sau là để mong lấy niềm vui của tha nhân làm niềm vui cho mình.
Khi người ta làm việc có mục đích thì sự làm việc thật hăng say và ý nghĩa, Diệu Hìền đã 60 tuổi, chị có thể nghỉ hưu với gia tài rủng rỉnh, nhưng Diệu Hiền vẫn muốn tiếp tục làm việc cho tới khi nào chị không thể. Chị làm việc để giết thời gian buồn tẻ trong mái gia đình và có tiền để đi làm từ thiện.
Vì thế hôm nay cũng như mọi hôm Diệu Hiền làm việc cả ngày mà không thấy mệt.
Đến lượt người khách cuối cùng Diệu Hiền dự định khám xong, đóng cửa office chị sẽ ghé chợ mua món gì đó về nhà làm nóng sốt thật ngon, thật đúng ý chồng để hai vợ chồng cùng ăn, bù đắp lại cho chồng sau mấy tuần lễ chị vắng nhà.
Dù sao chị cũng muốn gìn giữ mái gia đình, không thể để đời mình đổ vỡ thêm một lần nữa.
Bệnh nhân là một phụ nữ khoảng ngoài 60 tuổi, dáng dấp bình dân... Đây là bệnh nhân mới vì cả mặt và tên đều chưa quen với chị, Diệu Hiền thường xuyên có bệnh nhân mới “walk in” vì họ nghe người nọ người kia giới thiệu phòng mạch chị khám bệnh gía rẻ, bác sĩ thăm bệnh rất thân thiện và tận tình.
Bệnh nhân nhìn bác sĩ chăm chăm cả phút rồi thảng thốt kêu lên:
- Đúng là bác sĩ Diệu Hiền của tui ngày xưa rồi. Tui nè, Nguyễn thị Phèn ở chợ Gò Vấp nè...
Trời, bao nhiêu năm đã trôi qua, và bao nhiêu tên bệnh nhân trong quá khứ hồi còn ở Việt Nam làm sao Diệu Hiền nhớ cho hết.
Chị Phèn nói tiếp:
- Bác sĩ không nhớ tui là phải rồi, nhưng tui nói ra một người là bác sĩ nhớ liền, tui là bạn hàng chợ ngồi cạnh sạp chị Tư bán bún ở chợ Gò Vấp đó.
Diệu Hiền bật kêu lên mừng rỡ:
- Chị Tư bún tươi thì tôi nhớ…
- Đúng đó, chị Tư bán bún mà bác sĩ hay gọi là chị Tư bún tươi, vì chị ấy làm và bán bún tươi.
- Nhắc tới chị Tư bún tươi là tôi nhớ mang máng ra chị Phèn rồi, thuở đó cứ mỗi lần chị Tư tâm sự với tôi ở ngoài chợ là có chị đứng cạnh cùng nghe, cùng bàn ra tán vào chuyện vợ chồng chị Tư chứ gì?
- Thì tui đó…
Chị Phèn hớn hở tiếp:
- Tui mới “mu” tới Cali này, mấy dịp đi lang bang qua đây cũng như đọc quảng cáo trên báo Việt Nam thấy văn phòng bác sĩ Diệu Hiền tui nghi là bác sĩ Diệu Hiền ngày xưa ở ngay chợ Gò Vấp, nhờ cái tên giống cô đào cải lương Diệu Hiền nên tui vẫn nhớ tên bác sĩ đó. Tui đã… cầu bữa nào bịnh để tới gặp bác sĩ, nhận diện người quen, cho tới hôm nay mới cầu được ước thấy…
Diệu Hiền khám bệnh cho chị Phèn trong khi chị không ngớt vui mừng kể chị sang Mỹ định cư do đứa con gái theo gia đình chồng đi Mỹ và bảo lãnh chị.
- Chúc mừng chị đã sang Mỹ đổi đời, khỏi phải buôn bán cực khổ ngoài chợ như hồi ở Việt Nam. Còn chị Tư bún tươi lúc này chắc cũng khá hơn xưa hả chị?
Chị Phèn chợt lặng thinh vài giây rồi buồn bã:
- Mục đích tui gặp bác sĩ chủ yếu là kể về chị Tư mà nãy giờ gặp bác sĩ vui quá chưa kịp kể ra, bả chết rồi!!! mà chết trong nghèo khổ mới tội!
- Chị Tư!
Diệu Hiền thốt kêu tên chị Tư như một tiếng than van... Hình ảnh người đàn bà ngày nào đứng giữa chợ kể chị nghe chuyện đời, mà toàn là những chuyện buồn, chuyện khổ hiện ra chập chờn…
- Sau khi chị Tư bán sạp chợ, rồi tới bán nhà mà vẫn không cứu nổi bệnh tình của chồng thì hàng bún tươi của chị cũng sa sút ế ẩm dần, làm như con người ta buôn bán có thời, chị Tư bỏ nghề, bỏ chợ đi làm thuê, ở mướn rồi bịnh rề rề và chết tại nhà đứa con gái cũng nghèo khổ chẳng khá hơn mẹ là bao nhiêu.
Nước mắt Diệu Hiền rưng rưng từ lúc nào:
- Chị Phèn ơi, làm sao mà số phận chị Tư bún thay đổi nhanh chóng đến thế? Hàng bún tươi của chị ấy vẫn đắt hàng làm ra bao nhiêu bán hết bấy nhiêu mà.
- Tui hỏi bác sĩ chứ đang ngồi bán bún chễm chệ trên sạp ngon lành, hạ xuống đất dơ dáy và nay chỗ này mai chỗ khác thì mất khách là phải rồi. Bán hàng cần địa điểm tốt, khi tạo được khách quen rồi mà bỏ đi thì coi như mất khách luôn, ai rảnh, ai thương mà đi tìm mình chứ? chợ búa người dưng kẻ lạ mà, không có hàng này thì khách mua hàng khác. Hôm nay khách của mình mai là khách của người.
Chị Phèn chép miệng tiếp:
- Tui nghĩ là cái số bác sĩ à, nếu như chồng chị Tư không mang bệnh nặng, nếu như chị Tư không bán sạp, không bán nhà, nếu… đủ thứ thì giờ này chị Tư chắc gì đã buồn rầu mà sanh bịnh, mà ra đi chứ???
Diệu Hiền nghe chuyện cũ mà bàng hoàng như vừa mới xảy ra hôm nay.
Ôi, chỉ một chữ “nếu” mà thay đổi một kiếp người, cũng như nếu ngày ấy Diệu Hiền đừng quá khắt khe đòi hỏi, đừng chia tay người chồng trước thì biết đâu chị vẫn hạnh phúc hơn với người chồng hiện tại???

****************

Chị Phèn khám bệnh xong ra về mà Diệu Hiền còn lặng người một mình nơi văn phòng, chẳng còn háo hức chạy ra chợ mua đồ về để nấu một bữa ăn ngon cho chồng như từ lúc đầu đã dự tính nữa.
Ngày ấy Diệu Hiền khoảng 30 tuổi, sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Sài Gòn và hành nghề trong bệnh viện được vài năm đủ kinh nghiệm thì vợ chồng Diệu Hiền mở một phòng khám riêng nơi địa phương chị cư ngụ, phòng khám nằm ngay cạnh chợ Gò Vấp. Anh Thuận chồng Diệu Hiền cũng là bác sĩ, anh ra trường sớm hơn Diệu Hiền một năm.
Vì văn phòng cạnh chợ Gò Vấp nên mỗi ngày Diệu Hiền vào chợ này mua đồ ăn luôn. Diệu Hiền thường mua bún tươi của chị Tư, vì bún chị làm tại nhà rồi mang ra chợ bán nên bún luôn tươi ngon. Có hôm đói bụng mua bún về Diệu Hiền chỉ chấm lá bún với nước mắm nhĩ dầm qủa ớt hiểm mà thấy ngon miệng vô cùng.
Là khách hàng thường xuyên nên bác sĩ Diệu Hiền và chị Tư dần dần trở nên gần gũi thân thiện như đôi bạn, bán bún cho Diệu Hiền bao giờ chị Tư cũng bốc thêm cho vài lá bún sau khi đã cân xong, không thì cũng tính rẻ bớt cho chị chút đỉnh lấy thơm lấy thảo dù chị Tư hiểu rằng lợi tức bán bún của chị Tư làm sao so sánh nổi với lợi tức của phòng mạch hai vợ chồng bác sĩ lúc nào cũng đông khách.
Tấm lòng chị Tư đơn giản và rộng rãi chị đâu tính toán điều trái ngược một trời một vực ấy. Chị Tư hay níu chân Diệu Hiền để kể chuyện gia đình mình, câu chuyện hai người trao đổi ngay giữa chợ ồn ào và xô bồ, thỉnh thoảng có chị Phèn bán hàng ở sạp rau sống, giá hẹ bên cạnh cùng tham dự.
Những lúc ấy Diệu Hiền không nỡ chia tay dù bận thế nào, chị lắng nghe bạn tâm tình và có những lời an ủi...
Anh Tư là một người chồng cửa quyền, chuyến hà hiếp vợ, bất bình vợ chuyện gì là dở thói vũ phú đánh vợ không nương tay. Mỗi lần ra sạp chị Tư mua bún Diệu Hiền thấy mắt chị sưng tím, hay trán bầm dập, môi sưng vêu… là biết ngay hôm qua chị Tư vừa ăn đòn của chồng, người chồng ăn nhậu và cờ bạc, tiền lời bán bún của vợ không bao giờ đủ cung phụng cho anh ta, cho nên đàn con mấy đứa luôn nheo nhóc, nhếch nhác như con nhà mồ côi.
Diệu Hiền ái ngại hỏi thăm thì chị Tư vẫn mỉm cười chống chế:
- Thằng chả nổi khùng uýnh vợ là thường. Hết khùng chả lại dễ thương. Tui quen rồi.
- Mà những lúc ấy chị có chửi bới gì anh ta không mà nổi khùng lên vậy?
- Tui chỉ cằn nhằn chút đỉnh thôi đó, nếu chửi bới chắc thằng chả giết tui đời nào rồi. Mà cũng tại tui, thà nhịn, thà im họng thì chưa chắc chả uýnh tui… có điều tui nhịn không nổi cô Hai à…
Bấy giờ chị Tư mới chịu để đôi khóe mắt rưng rưng:
- Hỏi cô Hai chứ công lao hai vợ chồng thức khuya dậy sớm làm bún cực khổ, rồi tui phải mang ra chợ bán kiếm từng đồng, thằng chả chỉ cờ bạc một buổi hay ăn nhậu một chầu là tiêu tán hết thì ai không tức?
Diệu Hiền đã thẳng thắn khuyên:
- Chị li dị anh ta cho rồi, làm thì ít phá hoại thì nhiều còn thường xuyên đánh đập, chửi bới vợ con thì ở làm gì?
Chị Tư vội vàng gạt ngay đi như sợ những lời khuyên ấy sẽ thành sự thật:
- Úy trời, chuyện vợ chồng là chuyện duyên nợ dài lâu, nhà nào cũng có buồn vui mà cô Hai, tui bỏ chồng rồi mấy con tui mất cha sao???
Những lời nói chân chất nghĩa tình của người đàn bà nhà quê ít học ấy đã từng vang lên trong lòng Diệu Hiền mỗi khi chị giận hờn hay cãi nhau với chồng và chị đã từng tự hỏi chẳng biết duyên nợ của vợ chồng mình có được bền lâu???
Có hôm Diệu Hiền vừa đến chợ chị Tư hớn hở khoe:
- Cô Hai, vui qúa, thằng chả uýnh tui bao nhiêu lần tui không nhớ hết, nhưng hôm qua tui uýnh được thằng chả 1 lần cũng đủ trả thù rồi.
Diệu Hiền ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao mà chị Tư dám đánh chồng?
- Tui chỉ phản ứng bất ngờ thôi. Chuyện thế này, chả đang cằn nhằn, bực mình đi tìm cái hộp quẹt, khi chả giơ tay về phía tui như là tính uýnh tui làm tui hoảng quá, tức mình quá, vì tui đâu có lỗi gì trong vụ chả không tìm thấy cái hộp quẹt, nên tui nhào tới giáng cho chả một bạt tai thấu trời luôn.
- Rồi anh ta không đánh lại chị sao?
- Không, trái lại anh ta ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn tui như nhìn người từ hành tinh nào mới xuất hiện. Chả còn bật cười nói ”tui đâu có ý định uýnh bà, tui với tay ra phía bàn sau lưng bà để lấy cái hộp quẹt ở đó mà”. Quả đúng thế, mà thôi dù tui lầm lẫn nhưng tui cũng sung sướng vì một lần trong đời dám đánh chồng.
- Hên cho chị Tư đó...
Chị Tư vui vẻ và hồn nhiên như một đứa trẻ con:
- Có lẽ chả thấy bất ngờ và kinh ngạc quá nên tức cười chứ không nổi giận mà uýnh lại tui. Chính tui cũng… kinh ngạc nói gì chả.
Nhưng chị Tư lại xuống giọng buồn:
- Giáng cho chả cái bạt tai oan ức xong cũng thấy… tội nghiệp!
Chị vừa vui vì đánh được chồng, trả thù cho bao lần trong đời bị chồng đánh, rồi lại hối hận. Tình thương yêu chồng trong lòng chị vẫn bao la trong từng cử chỉ nhỏ của chị.
Một hôm Diệu Hiền đến chợ thấy chị Tư ngồi bán bún với cái đầu cạo trọc lóc và gương mặt buồn so. Diệu Hiền hỏi đùa:
- Bộ chị Tư tính cạo đầu vô chùa hả? sao còn ngồi đây bán bún…
- Rầu qúa cô Hai ơi…
Chị Tư than thở và ủ ê tiếp:
- Thằng chả bịnh, tui cạo đầu nguyện ăn chay một tuần cầu nguyện cho chả hết bịnh...
Máu nghề nghiệp nổi lên Diệu Hiền lo lắng hỏi:
- Anh ta bệnh gì? chị kể những triệu chứng bệnh xem…
- Chả bị vàng da xuống cân mà cái bụng to phình ra, khỏi cần đi bác sĩ tui cũng đoán chả bịnh gan rồi. Hôm nay chả vô nhà thương khám bịnh chiều về xem sao… tui ngồi đây mà lòng dạ như lửa đốt kim châm cô Hai ơi…
Người đàn bà lam lũ từng bị chồng hành hạ đánh đập, bóc lột từng đồng bạc mồ hôi lao động của mình, đang đau khổ xót xa cho người chồng bất nhân ấy.
Hôm ấy Diệu Hiền mang mớ bún tươi của chị Tư về nhà ăn mà cảm thấy xót xa theo. Bún chị làm vẫn tươi, lòng chị vẫn hiền hậu bao dung. Thương chị quá.
Chuyện người thì dễ cảm thông, sao chuyện mình thì khó! hình như chưa bao giờ Diệu Hiền rộng lượng nghĩ về chồng mình như người đàn bà này.
Chuyện gia đình chị chẳng an vui gì nhưng chưa bao giờ Diệu Hiền kể cho chị Tư nghe. Chị Tư cứ hồn nhiên coi Diệu Hiền như người bạn để tâm tình nhưng đời nào Diệu Hiền coi chị Tư như người bạn ngang hàng được, chỉ là bạn trong giới hạn nào đó thôi.
Cuộc sống giữa Thuận và Diệu Hiền không hề hạnh phúc.
Cả hai vợ chồng cùng tất bật với phòng khám, lo kiếm tiền để gây dựng cơ ngơi gia đình. Bản tính Thuận lại khô khan không biết ngọt ngào chiều chuộng vợ, ngược lại Diệu Hiền là phụ nữ thích được chiều chuộng, thích được nghe lời âu yếm, họ không có thời gian riêng, không gian riêng để sống cho nhau.
Thuận luôn cho là anh không có lỗi gì với vợ cả. Anh quan niệm tình yêu vợ chồng là thực tế không thể so sánh hơn kém với tình yêu hồi chưa cưới được.
Diệu Hiền thì hờn dỗi chê trách chồng đối xử lạnh nhạt với mình, đã bớt yêu mình.
Tình cảm vợ chồng đã mỗi ngày mỗi xa cách rồi sinh ra mâu thuẫn bất hòa…
Một tuần sau Diệu Hiền ra chợ vừa mua bún vừa hỏi thăm tình trạng bệnh tình chồng chị Tư thì sạp đã đổi chủ. Diệu Hiền ngạc nhiên ghé sang sạp chị Phèn để hỏi thăm, chị Phèn kể:
- Cô Hai bác sĩ ơi, tội quá, anh Tư bị ung thư gan phải nằm viện mổ nên chị Tư cần tiền phải sang gấp sạp bún cho người khác rồi... Mấy hôm nay chị Tư nghỉ bán ở bệnh viện lo nuôi chồng.
- Rồi chị Tư bỏ nghề làm bún và bán bún luôn hả chị Phèn?
- Đâu có, bỏ nghề lấy gì sống? giá nào chị Tư cũng sẽ bán bún tiếp mà, tui nghe chị nói chừng nào chồng đỡ bịnh chị sẽ bưng mấy sọt bún ra lề đường ngoài chợ bán vì sạp không còn nữa.
Diệu Hiền chỉ biết thở dài:
- Tội nghiệp!
Sau đó Diệu Hiền không kịp ra chợ hỏi thăm tiếp chuyện của chị Tư bán bún nữa, vì thời gian đó Diệu Hiền đang chuẩn bị cho một chuyến vượt biên, một cuộc chia ly tình cảm, chị không thể tiếp tục sống bên Thuận, hai tâm hồn không hòa hợp nhau, chị sẽ ra đi một mình, vừa đi tìm tự do vừa là cách chia tay êm đẹp với Thuận mà không cần phải qua cuộc li dị ít nhiều cũng gây ồn ào trong gia đình, bạn bè và dư luận.
Diệu Hiền muốn chia tay Thuận để làm lại cuộc đời khác, tại một phương trời khác, chị hi vọng sẽ tìm được người đàn ông yêu thương chị và hoà hợp với chị hơn Thuận. Hai vợ chồng chưa có con nên sự chia tay cũng chẳng mấy tổn thương ai, vì cả hai vẫn còn trẻ và có thể làm lại cuộc đời dễ dàng.
Định cư ở Mỹ, Diệu Hiền đã nhanh chóng học lại để lấy bằng bác sĩ hành nghề, rồi chị quen biết, yêu thương và nên duyên với Hậu, anh là một doanh nhân thành đạt, từ một kỹ sư chuyển thành một nhà thầu xây cất uy tín không chỉ trong cộng đồng người Việt mà cả với người bản xứ.
Từ tình yêu đến tình vợ chồng bao giờ cũng là một sự đổi thay, Hậu cũng có những bận rộn riêng của công việc, tính anh phóng khoáng nghệ sĩ làm Diệu Hiền luôn cảm thấy bất an và ghen tương. Vì con cái, vì tài sản và vì Diệu Hiền càng ngày càng hiểu ra rằng hạnh phúc ở đời chẳng bao giờ lý tưởng và trọn vẹn như mình mong muốn nên Diệu Hiền luôn phải chiều chồng và làm ngơ với nhiều cuộc giao du rộng rãi của chồng. Chị giữ thể diện với gia đình, bạn bè, với cộng đồng người Việt ở đây vì cả hai vợ chồng đều nổi tiếng.
Đôi lúc nghĩ lại Diệu Hiền cảm thấy mình có lỗi với Thuận khi ngày ấy bỏ anh để ra đi vượt biên một mình. Nếu chỉ vì vài sự bất đồng mà vợ chồng bỏ nhau thì thế giới sẽ không còn ai để cho mình chung sống nữa, và cả đời cứ mãi đi tìm hạnh phúc, như người đi bắt bóng không bao giờ nắm được bóng trong tay, như người đi tìm mây mà không bao giờ có thể với tay chạm tới trời.
Diệu Hiền được biết sau khi chị bỏ đi Thuận vẫn ở lại phòng mạch cũ của hai vợ chồng gây dựng, anh tiếp tục hành nghề rồi lấy vợ khác, người vợ này cũng là một bác sĩ. Họ đã sống hạnh phúc êm ả cho tới ngày hôm nay.
Hạnh phúc của người chồng cũ làm lòng Diệu Hiền cay đắng...
Diệu Hiền đã tự trách mình nông nỗi, không có một tấm lòng bao dung như chị Tư bán bún. Diệu Hiền cũng thương Thuận như chị Tư thương chồng, nếu chị chịu mở lòng ra, biết thông cảm và thương yêu chồng hơn thì biết đâu chị cũng tìm thấy hạnh phúc với Thuận đâu đến lượt người đàn bà kia.
Diệu Hiền đã có lỗi, đã vô tâm, vô tình qúa, với người chồng trước và với người bạn ngẫu nhiên ngoài chợ nhưng tốt bụng là chị Tư bán bún.
Khi nghe tin chị lâm vào vòng túng quẩn phải sang sạp chợ mà Diệu Hiền không giúp đỡ gì cho chị Tư ngoài những lời an ủi suông, những lời than suông. Dù bận rộn tới đâu Diệu Hiền vẫn có thể bỏ ra chút thì giờ lo cho chị Tư được mà.
Món tiền sang lại một cái sạp chợ cho chị Tư không đáng là bao với khả năng của Diệu Hiền. Thì biết đâu Diệu Hiền đã cứu được chị Tư, duy trì việc buôn bán kiếm sống, chị có sạp ngồi bán bún đàng hoàng, không phải bưng sọt bún ra lề đường lề chợ cho tới khi ế ẩm phải buông bỏ nghề rồi sa vào vòng túng quẩn thêm, nghèo khổ thêm.
Mấy năm đầu tiên từ Mỹ về Việt Nam làm từ thiện Diệu Hìền đều nhớ đến chị Tư, cũng muốn biết tin tức chị để trả món nợ tình cảm của chị, không chỉ vì mấy lá bún chị bốc tặng thêm, không chỉ vì mấy đồng bạc chị Tư tính rẻ bớt mỗi lần mua bún, mà cả tấm lòng chân chất chị ưu ái và tin cậy trao gởi nỗi niềm riêng cho một người lạ, quen nhau giữa chợ búa, giữa chợ đời.
Diệu Hiền sẽ tặng chị một món tiền và tiếp tục giúp đỡ chị nếu cần. Nhưng Diệu Hiền không làm được điều ấy, chị chạnh lòng đau đớn không bao giờ muốn trở về chợ Gò Vấp nơi chốn cũ có phòng mạch của vợ chồng chị, có hình ảnh của Thuận, nơi chốn sẽ gợi lại nỗi thương tiếc khôn nguôi.
Thế là chị Tư biến mất như bóng chim tăm cá trong đời Diệu Hiền.
Ngày nay Diệu Hiền đã làm từ thiện, đã giúp đỡ được bao nhiêu người, nhưng một người mà Diệu Hiền quý mến và một thời thân thiện, một người đã vào bước đường cùng rất cần sự giúp đỡ thì ngày ấy Diệu Hiền đã không giúp được gì.
- Ôi, chị Tư… chị tha lỗi cho tôi…
Diệu Hiền bỗng thốt lên nghẹn ngào.
Ngày nay xung quanh Diệu Hiền người ta khen chị có một tấm lòng, biết thương người và giúp đỡ tha nhân.
Chỉ có một mình Diệu Hiền biết, Diệu Hiền hơn chị Tư bán bún đủ thứ, từ kiến thức, danh vọng và tiền bạc, nhưng thua chị ở một tấm lòng.

Nguyễn Thị Thanh Dương




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Oct/2017 lúc 7:28am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Oct/2017 lúc 4:30am

Trả Nợ Ân Tình 


Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.

Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.

Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi

Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. 

Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.

Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.

Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.

Sau đó, những ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.

Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.

Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên thân thiết như anh em.

Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai trai một gái.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một thời gian đến định cư ở vùng này.
Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết.       Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.

Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi.  Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà.  Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.

Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.

Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như  thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?

Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.

Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”

Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.

Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu.  Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau.  Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.

Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh  luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.

Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.
Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.

Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.
Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.447 seconds.