Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 190 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 23/Sep/2017 lúc 1:23pm |
Tính ToánBà Lâm trang điểm thật đẹp và diện bộ váy áo thật sang, ông Lâm ngạc nhiên: ***************** Kim Chi đã là vợ Brian, nàng tiếp tục đi học và phụ giúp mẹ chồng bán
hàng nước hoa mỹ phẩm. Brian thì làm kỹ sư, công ăn việc làm vững chắc. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Sep/2017 lúc 5:26am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 24/Sep/2017 lúc 5:19am |
TUỔI DẠINgày nào cũng vậy, tan học về khi tắm rửa cơm nước xong, tôi thả bộ đến xóm trên để ráp lại với lủ trẻ nơi này bày trò mghijch ngợm, cái khoảnh sân nhà ông Sáu là nơi lý tưởng để cả đám nô đùa, vì nơi đây nó rợp bóng mát bởi tàn của những cây Vú sữa được trồng khá gần nhau, ở đây được bày nhiều trò chơi do thằng Cảnh cầm đầu, nào là chơi ăn ô quan, chơi trò trốn tìm, đánh bông vụ ( con quay), bắn bi, đá cầu, dá dế . v.v… Nhưng cái trò đám con trai hồi đó thích nhất là chơi u và chơi Rồng rắn lên mây, sở dĩ cái đám ” Đực rựa” mê trò này vì có dịp để nắm tay mắm chân thậm chí ôm eo ếch các cô nàng trong xóm mà không bị xem là “Dê xồm” , vì trò này bắt buộc phải có những động tác như vậy mới thành trò chơi, cũng thành thật mà nói mấy cô nàng ngày xưa tuy to xác mà trong tâm hồn thật hồn nhiên vô tư trong các trò chơi, thậm chí các nàng khi nắm tay nắm chân hoặc ôm eo ếch thì giữ thật chặt, vì các nàng ta sợ nắm hoặc ôm lỏng lẻo sẽ bị vuột ra thì sẽ thua phía bên kia khiến cho đám con trai ngượng ngùng, đám con trai tuy tinh ranh phá phách kèm theo chút tò mò nên có thằng trong bọn biết thằng này ,thằng kia có lúc làm bộ quá trớn té vào các nàng để có điều kiện khám phá cái cảm giác thơm ngất ngây mùi bồ kết trên mái tóc dài của các nàng, cái hương thơm toát ra từ làn da mái tóc của các cô nàng làm cho cả bọn khoái chơi cái trò “Chung đụng” này là vậy. * * * Từ lúc có thêm vài ba gia đình dọn về cư ngụ trong xóm, cả nhóm chúng tôi thầm mừng bởi lẽ từ đây sẽ có thêm vài ba đứa trong số gia đình này nhập bọn để cùng đi học cùng chơi với mọi người , trong số họ có gia đình của cô Hai chạy nạn chiến cuộc từ một tỉnh miền núi về đây, tôi công nhận cô Hai là một người thật giỏi giang, một thân một mình mà cô lo cho cả bầy con sáu đứa an học đến nơi đến chốn, Mai con gái lớn của cô Hai nàng cũng giỏi giang không kém mẹ, thấy mẹ nhà đơn chiếc bởi cha của mình tử trận nơi chiến trường ví như căn nhà mất đi trụ cột có thể xiêu vẹo và sụp đổ lúc nào không hay, ý thức của đứa con gái đầu lòng , Mai vùa đi học vừa làm thật chăm chỉ khiến đứa nào trong nhóm cũng phải kính nể, và điều làm cho cả đám con trai thật sự kính nể là nàng Mai nhà ta học rất giỏi vì lúc nào bảng vinh dự trong lớp nàng ta đều nằm ở ngôi vị “Bá chủ võ lâm” thử hỏi làm sao chúng tôi không phục… Mai về ở cũng gần cả tháng, tôi cố lân la làm quen mãi nhưng chưa có dịp thuận tiện, vì khi đi học về cô nàng ôm cái cặp trước ngực, nàng đi thật nhanh về nhà , từ xa xa tôi nhìn đôi tà áo dài trắng của nàng phất phới bay trong gió , tôi liên tưởng nàng như cánh bướm trắng vờn bay, biết được trong lòng tôi đang cố đeo đuổi làm quen với Mai, thằng Cảnh bạn tôi nó bèn này tôi một ” Chiêu thức” để lấy tình cảm với Mai, tôi thấy cũng hợp lý bà hợp với hoàn cảnh thời bấy giờ nên tôi nghe theo lời thằng “Quân sư” , nhưng tôi cũng làm bộ nói như không quan tâm lắm đến chuyện này để thằng Cảnh nó không có cớ ghẹo tôi sau này, tôi nói với nó : -Ái chà , ông bày cách này tui thấy cũng có lý à nghe, nhưng …. Tôi chưa kịp bày tỏ hết sự e ngại thì bị thằng Cảnh nói chặn họng tôi liền: – Ông này ngộ ghê, cái vụ này tui áp dụng rồi, lúc trước mần quen với nhỏ Thúy tui áp dụng y chang kiểu này nè Nóng ruột muốn biết kết quả ra sao, tôi bèn cướp lời nó: – Vậy là em Thúy quen với ông bằng cách này đó hả, chắc ăn không ông, ông xúi dại , nàng Mai mà lắc đầu thì có nước tui độn thổ nghe ông . Thằng Cảnh nó lườm tôi bằng cặp mắt ” mang hình viên đạn” , nó nói: – Thôi , nếu ông ngại thì thôi đi, ông muốn làm quen kiểu nào thì tự lo, coi như tui chưa nói gì hết nhe. Bết cái tánh hờn mát của thằng quỷ này lớn hơn cái tuổi của nó nhiều, chơi với nhau hàng ngày ai nói gì không vừa ý nó hay làm mặt giận, tôi bèn nói: – Nói vậy thôi, cảm ơn ông không hết chứ có gì đâu mà nghi ngại, ngày mai tui áp dụng liền : ( Thằng Cảnh nó bày kế cho tôi, mua một phong bánh in nhân đậu xanh ở tiệm tạp hóa của cô Ba bán trong xóm, gói ghém cẩn thận rồi viết vài dòng chữ kèm theo bảo đảm nàng Mai sẽ nhận lời làm quen,vì đâu có cô gái nào mà không hảo ngọt). Vài ngày sau, tôi chắt mót được một ít từ số tiền tôi được ba má cho đi học mỗi ngày, vậy là dư sức mua một phong bánh in và có thể mua được thêm cái kẹp tóc màu hồng có con Bướm trang trí bên trên, chưa có mua quà cho nàng mà tôi đã thấy vui sướng lâng lâng trong lòng rồi, khi mua xong phong bánh in và cây kẹp tóc, lúc này tôi mới lúng túng không biết trao cho Mai bằng cách nào, lúc này tôi mới thấy mình lơ đễnh không hỏi kỹ càng cách thức trao cho Mai bằng cách nào, chặn đường đưa tận tay thì thú thật tôi không có thừa can đảm để thực hiện, mà nhờ trung gian thì không nên vì sẽ ” Lộ bí mật”, suy đi nghĩ lại chỉ còn một cách tự mình thực hiện … Tôi canh giờ nàng học bài xong Mai sẽ ra sau nhà để lo cơm nước cho gia đình, chắc chắn phía nhà trên chẳng còn ai, tôi rón rén đến bên cửa sổ , may là cửa sổ nàng không đóng tôi nhìn vào bên trong , giật mình vì có thằng Bình em nàng nó đang nhìn tôi , thời may Bình lúc này còn nhỏ và nói chuyện chưa rành nên tôi cũng tạm yên tâm, tôi có nhoẻn miệng cười với Bình cho nó đừng sợ hãi khóc thét lên bất tử, lại thêm một cái may nữa thằng Bình nó cười với tôi, cười với một kẻ lạ hoắc,.. Tôi đặt phong bánh in và cây kẹp tóc cùng một lá thư ngắn bày tỏ ý muốn làm quen, tim tôi lúc này nó đạp thình thịch trong lòng ngực vì hồi hộp , lúc này mà Mai xuất hiện bất chợt chắc tôi sẽ vỡ tim mà chết vì sợ sệt. Cố nén lòng tôi đưa tay ra hiệu chào từ giả thằng Bình rồi cười với nó lần nữa và Bình cũng cười với tôi khiến tôi thấy vui vui trong lòng vì đã làm trót lọt mưu tính của riêng mình … Hôm sau nàng đi học về , vẫn tha thước trong tà áo trắng học trò, tôi đạp xe đến gần Mai và cố tình đạp thật chậm , tôi nín thở và tưởng tượng sẽ nghe được tiếng gọi tên mình thốt ra từ cửa miệng của nàng, thời gian trôi thật chậm tôi cố đợi chờ, chừng nghe tiếng của thím xẩm đang gánh cái gánh chè la lên tôi mới hoàn hồn : – Cái thằng nhỏ này, chạy xe “li lâu”, để con mắt lên trời hả, may thôi “lụng” tui té xỉu rồi “ló” . Tôi lật đật nói lời xin lỗi thím rồi nhấn ” pê đan” vọt thẳng về nhà trông thật bẽ bàng, chừng tỉnh táo lại tôi tự đặt câu hỏi , bánh và thư có tới tay nàng không? Nếu tới tay nàng rồi, bánh in đã ăn rồi sao không trả lời thư hoặc nói lời gì với tôi cho phải phép, nàng làm thinh có nghĩa là có thể nàng không thích tôi nên cố tình làm lơ, hoặc có thể món quà không đến tay của màng, nếu thất lạc thì quà đó ai đã cưỡm mất rồi, tôi bèn nghĩ ra cái kế để kiểm tra lại thật sự món quà ở đâu , nàng có sử dụng rồi mà làm lơ với tôi chăng, nghĩ là thực hiện ngay , tôi nóng ruột muốn tìm ra đáp số cho ” bài toán” này, chờ đến trưa khi mọi nhà đều nghỉ trưa, tôi đến nhà nàng, tôi chạy ngay đến thùng rác để bên hông nhà , tôi dùng cái que nhỏ lục tung cái thùng rác ra xem coi có cái chứng tích gì của phong bánh in hoặc tờ giấy gói quà thì sẽ hiểu được vấn đề, ” Dã tràng se cát biển đông” đó là ám chỉ cho hành động moi thùng rác nhà của Mai, tôi thất vọng không thấy gì ngoài rác của gia đình Mai bỏ ra, tôi thất thiểu ghé nhà thằng Cảnh, đến trước nhà tôi bắt gặp nó đang nhai mấy cái bánh in đậu xanh, dưới chân nó cái kẹp màu hồng nằm chỏng chơ, cạnh đấy đúng là lá thư của tôi viết bị ai vò nhàu nát, tôi hiểu ra sự việc bèn nhào tới cốc lên đầu thằng Cảnh một cái khiến nó đau điếng, tôi lên tiếng trách nó : – Ông ngon quá há, quà tui tặng cho Mai mà ông dám ” chôm chỉa” về đây ngồi ăn ngon lành vậy hả? Tuy đang bị đau vì cái cốc của tôi, thằng Cảnh cũng lên tiếng phân bua: – Ai nói ông tui chôm chỉa quà của ông tặng cho Mai. Thấy bị “bắt tận tay, day tận mặt” mà thằng quỷ này còn lên tiếng chối bài hãi, giận qúa tôi lớn tiếng với nó : – Cái này là cái gì đây ông , sờ sờ ra đó ông còn chối nữa hả , nghỉ chơi với ông luôn, bạn gì xấu hoắc. Thay vì bực tức khi bị tôi mắng xối xả, vậy mà nó vẫn cười thành tiếng, nó nói với tôi : – Ông bình tĩnh nghe tui nói nè , ông tặng quà cho Mai đúng không? Tôi hỏi vặn lại nó : – Ừa thì sao nữa ? – Mai nhận rồi, nhưng Mai không xài, Mai đem lại đây nói Mai tặng cho tôi, nói xong nàng bỏ thí trên bàn rồi quầy quả quay về, màng không xài thì tui xài cũng vậy thôi đúng không, còn phân nửa phong bánh in kia chừa ông đó ăn đi cho hạ hỏa ông ơi! . Thế là đã rõ , Mai đã gián tiếp cho tôi biết nàng không chấp nhận tình bạn với tôi, khỏi nói chắc mọi người cũng hiểu, tôi buồn đau vô cùng , nhìn đâu cũng thấy bầu trời u ám, tôi không tha thiết với mọi việc chung quanh nữa ,ánh mắt của Mai nhất là nụ cười thật tươi và không kém phần duyên dáng nó đã hốt hồn tôi trong cái nhìn đầu tiên khi nàng chính thức cư ngụ trong xóm tôi , sau này lớn lên tôi mới biết mình lần đầu bị “sét đánh” là đây. Dân gian mình câu ” Thua keo này, bày keo khác”, tôi nỗ lực rất nhiều lần để cố lọt vào đôi mắt xanh của Mai nhưng càng ngày càng vô vọng , vậy là tôi mang cái bệnh thất tình từ dạo ấy, tôi học hành bắt đầu sa sút, khi biết được tình trạng của tôi mắc phải, ba tôi giận dữ ông cho đã bố tôi một trận bằng cây ” chả lông gồi” đau điếng, sau trận đòn này dường như hiểu được tình cảm và nỗi đau trong lòng tôi, ba lấy lời khuyên giải. – Tụi con còn nhỏ , chuyện bạn bè yêu đương sẽ ảnh hưởng việc học , con Mai nó làm vậy phải rồi con cũng đừng buồn, nhà Mai nghèo , đông anh chị em nó cố gắng học hành đỗ đạc để sau này còn phụ cho thím Hai nữa, yêu đương sớm qúa không nên con ạ. Nghe ba tôi phân tích về Mai như thế,chẳng những tôi không để tâm ghét bỏ nàng, vì nàng chẳng thèm đoái hoài gì đến tấm chân tình của tôi mà tôi còn cảm phục Mai nhiều hơn. * * * Tôi lên đường nhập ngũ, đi chinh chiến miệt mài nơi những vùng xa tít tận miền trung nắng gió, nhớ nhà, nhớ bạn bè trong xóm nhỏ thân yêu, dĩ nhiên trong lòng tôi cũng còn chổ để chứa cái tình đơn phương với cô bạn nhỏ ngày nào, nhưng cuộc chiến khốc liệt khiến tôi tạm quên những chuyện buồn nơi miền hậu tuyến, một hôm tôi được một phong thư, phong thư mà tôi nghĩ chẳng bao giờ mình sẽ vinh hạnh có được, Mai gửi cho tôi một lá thư kể về tình hình hậu phương, chuyện xóm làng , chuyện những đứa bạn thuở nhỏ , đọc thư của Mai tôi thấy mình sống lại tuổi còn thơ, như cuộn phim chiếu chậm , tôi đã khóc khi hay tin vài ba đứa bạn đã ” Ra đi” không hẹn ngày về, và tôi đã khóc trong Hạnh phúc nàng cố tình đối xử tàn tệ với tôi không phải nàng không hiểu tình tôi, mà nàng đã nói y như ba tôi phân tích sau trận đòn bằng chổi lông gà , tôi xúc động thật sự, tôi không thể là người tình của nàng , nhưng tôi có vị trí đặc biệt trong trái tim nàng, là một người anh kính mến của nàng . * * * Miền Nam gãy súng, cuộc sống hàng ngày của mọi gia đình bị đão lộn, gia đình của cô Hai trở về quê sinh sống, riêng Mai thì theo bạn đi định cư nơi xứ người quanh năm giá rét, tôi trở về sống lại nơi xóm nhỏ ngày nào, mỗi lần có dịp đi nganh căn nhà cũ của Mai nó làm lòng tôi lại xao động như Thuở nào. Được tin cô Hai mang căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, tôi thẩn thờ cả ngày, tuy không bà con họ hàng gì với cô nhưng đã từ lâu tôi xem cô như mẹ mình, nên tôi thật sự sốc khi nghe hung tinh này, tôi lật đật vào bệnh viện thăm cô , mấy chục năm gặp lại mừng mừng tủi tủi, cô nằm trên giường bệnh mặt vẫn tươi cười cho dù tóc trên đầu cô rụng sạch nhẵn, cô nói đùa với tôi một câu khiến tôi già hai thứ tóc trên đầu mà phải bẻn lẻn vô cùng: – Bây giờ bây còn thương con Mai không? Mầy là thằng rể hụt của cô đó. Tôi xúc động tột cùng với câu nói đùa của cô, bởi vì rốt cuộc cũng đã hiểu được tấm chân tình tôi dành cho cô và cho cả gia đình Mai bấy lâu, từ giả cô tôi ra về với tâm trạng buồn vui lẫn lộn trong người. Cô Hai .mất một chiều cuối đông sau ba ngày tôi gặp cô nơi bệnh viện, cô ra đi rất thanh thản không chút vướng bận, vì cô đã dốc hết sức để nuôi nấng , dạy dỗ cho đàn con yêu dấu thành đạt nên người, trong đó có Mai cô em gái của tôi đang là một khoa học gia danh tiếng nơi xứ người. Cô Hai ơi! Con chúc cô ” an giấc ngàn thu” nơi miên viễn cô nhé. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Sep/2017 lúc 5:21am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 26/Sep/2017 lúc 10:14am |
“Thằng” Bố Vợ Tôi
Gọi
bố vợ bằng thằng là điều không ai chấp nhận được. “Tứ thân phụ mẫu”,
cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng đều phải được kính trọng, thương yêu như
nhau. Cha vợ hay cha chồng đều gọi bằng cha, bằng bố. Mẹ vợ hay mẹ chồng
đều được gọi bằng mẹ hay má, v.v… Trong luân lý nầy, người Mỹ khác với
người Việt. Không phải là cha mẹ sinh ra mình, mà cha mẹ của vợ hay
chồng, họ thêm vào chữ “in law”. Tại sao phải phân biệt cha mẹ vợ hay
cha mẹ chồng? Thế mà tôi gọi bố vợ bằng “thằng”. Nếu người ta chưởi cho,
mắng là đồ mất dạy, hổn láo, vô văn hóa cũng là chuyện thường.
Bố
vợ tôi không phải là người mất tư cách hay vô lương tâm, hay làm điều
chi vô luân bại lý mà để tôi khinh thị gọi bằng “thằng”. “Ông” là người
rất hiền lành!
Thế
mà một buổi sáng, bọn tôi ba “đứa”, những “đứa” còn sót lại trong cuộc
chiến tranh tàn khốc vừa qua, nay “lưu lạc” ở xứ “Mỹ cờ hoa” nầy, ngồi
uống cà-phê trong một cái quán ăn sáng ở Orange County, quán tuy không
đẹp nhưng thanh lịch, cây cỏ chung quanh tươi mát đẹp đẽ, vậy mà Quang
mắng tôi một câu nghe thật buồn cười:
-“Mày
dẹp cái trò “bố bố con con” của mày lại đi. Mày, tao với nó là bạn, bạn
từ hồi còn mặc quần xà-lỏn, gọi nhau “mày mày tao tao” quen đã mấy chục
năm. Bây giờ nghe mày xưng “bố con” với nó, tao không thấy buồn cười mà
thấy bực mình, mất vui.”
Quang gọi là “nó”. Nó là bố vợ tôi đấy, là một đứa bạn trong bọn tôi đấy. Sao gọi là “bọn tôi”?
Trước
Hiệp Định Genève 1954 thành phố Saigon chỉ “rộng” tới cầu Trương Minh
Giảng. Bên kia cầu, còn là vùng đất hoang, lầy lội, lau sậy mọc um tùm.
Vùng đất ấy, xưa, chỉ có một xóm nhà nhỏ, của dân mò cua bắt ốc và trộm
cắp. Người ta gọi đó là “Xóm Vẹc”. Hồi ấy, dân chúng tập trung sống ở
trung tâm Saigon, còn như ai ở “Xóm Vẹc”, là vùng ngoại ô, mất an ninh.
Dân nhậu Saigon, nhà ở Xóm Vẹc, một là nhậu cho “tới chỉ” thì ngủ lại
nhà bạn. Còn như ai muốn về thì lo về sớm. Về khuya trên đường Xóm Vẹc,
không chừng bị du đảng đánh cho, bị cướp tiền bạc, bị lấy xe đạp. Lỡ như
ai đó nhậu chưa tới, nửa muốn ở, nửa muốn về, bạn bè sẽ có người bảo:
“Thôi để cho ông ấy về, đường khuya nguy hiểm”.
Thế
rồi cả triệu người di cư năm 1954. Ai gốc nông dân, người ta định cư ở
vùng nông thôn, dinh điền, khu trù mật… tiếp nối cái nghề tổ tiên để
lại. Ai dân Hà Nội hay thành phố ở ngoài Bắc, không quen làm ruộng thì
tập trung ở Saigon hay các thành phố khác phía nam vĩ tuyến. Không còn
đủ đất ở trung tâm Saigon, nên thủ đô miền Nam phình rộng ra.
Ngay
xứ tôi ở, Xóm Vẹc ngày xưa, nay dân di cư tập trung đông đúc. Từ phía
đầu cầu Trương Minh Giảng, lên tới “Lăng Cha Cả” là chỗ người Bắc định
cư. Những khu vực được nhiều người nhắc tên mới là “Xóm Bùi Phát”. Có
phải họ gốc Bùi Chu/ Phát Diệm? Nhà Thờ Ba Chuông, Cư Xá Đô Thành.
Nhà
Thờ, Chùa và Chợ theo dân mà mọc lên. Lăng Cha Cả ở cuối đường Trương
Mình Ký, ngày xưa vắng vẻ, quạnh hiu, nay thành nơi đô hội. “Cái nhà
lăng” kiểu xưa, ngói âm dương, cột kèo cũ kỷ nằm chơ vơ, xa lạ trước
những ngôi nhà lầu cao vài ba tầng, kiểu mới, hiện đại.
Bọn
tôi, cũng gốc “rân ri-cư”, – như chúng tôi thường gọi đùa chính mình -,
từ năm lên năm, lên mười, lớn lên ở cái “Xóm Vẹc” thời xa xưa ấy. Tên
đường Alfred Eyriaud Des Vergnes đổi thành đường Trương Minh Giảng, nối
dài tới cuối đường, chỗ gần tới cổng Bộ tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH là
đường Trương Minh Ký. Chúng tôi bỏ không gọi Xóm Vẹc mà gọi theo những
cái tên mới, xuất hiện cùng thời với dân di cư đến định cư ở đây. Tên
“Xóm Vẹc” biến mất hồi nào mà không ai hay! Tội nghiệp hay không tội
nghiệp cho một ông Tây tên Vẹc, một ông “thực dân”?
Bọn
tôi không dưới năm đứa, không quá mười tên, học tiểu học với nhau, đầu
tiên ở cái trường tư trong xóm, do một ông giáo già người Bắc di cư, nay
đã nghỉ hưu, mở lớp dạy tư tại nhà. Một phần là vì chính phủ chưa kịp
mở trường cho dân di cư, một phần, học ở đây thay vì phải vào thành phố.
Học ở “Trường Xóm”, chúng tôi khỏi phải đi xa, xe cộ bất tiện, tai nạn
nguy hiểm. Học gần nhà, bố mẹ dễ “kiểm soát”, lại có ông thầy già nghiêm
khắc, bọn chúng tôi bớt hoang nghịch. “Trường Xóm” của chúng tôi nó
tương tự như trường của mấy ông đồ ngày xưa ở làng quê: Học trò đủ hạng
tuổi, đủ hạng lớp… Kể theo cách ngày trước, thấp nhất là lớp Năm. Lớp
nầy đông nhất, trên hai chục “đứa”. “Đứa” là học sinh nhỏ đấy. Rồi đến
lớp Tư, học sinh ít hơn. Lớp Nhất là ít nhất, chỉ có mấy “anh”. “Anh”
cũng là học sinh, nhưng lớn tuổi hơn bọn tôi, nên phải gọi bằng “anh”
cho “phải phép”. Lớp nầy thầy dạy kỹ lắm vì năm tới phải thi vô trường
công, khỏi học trường tư. Trường tư phải đóng học phí. Không kịp đóng
học phí, học sinh sẽ bị đuổi học, về nhà xin tiền đóng tiếp để được học
tiếp. “Tiên “học phí”, hậu học văn”. “Trường tư” thường bị mang tiếng
kinh doanh hơn giáo dục. Nhưng không đóng học phí, tiền đâu trả lương
cho thầy?!
Được
mấy năm, ông thầy già qua đời. Nghề làm thầy giáo mà: “Tổn lắm”. Bố tôi
thường nói vậy. Mẹ tôi bảo làm thầy giáo “dễ bị ho lao”. Người đời thì
bảo là nghề “bán cháo phổi”. Ông thầy già, sức yếu, lại nhiều năm gian
khổ, dù không bị bệnh lao, ông vẫn qui tiên sớm là chuyện thường.
Ổng
chết rồi, bọn chúng tôi vẫn nhớ ông, và thương ông nữa, bởi ông có một
điều đáng quí: Tận tâm với bọn trẻ chúng tôi, mặc dù chúng tôi vẫn ngán
cây roi mây của ông, một là để thầy nhịp nhiều lần trên mặt bàn, nhắc
chúng tôi im, không được nói chuyện, phải học bài làm bài chăm chỉ, và
cũng “phết vào đít” thằng nào đó, cái tội nghịch trong giờ học hay đánh
lộn ngoài giờ. Ông thầy già qua đời rồi, trường “Xóm Vẹc” của tôi đóng
cửa. Không ai nối nghiệp ông ở cái xóm mới định cư nầy.
Chúng
tôi xuống học lớp Nhất ở một cái trường tư khác, trên đường Kỳ Đồng,
của “ông cha nhà thờ”. Trường có lớp nầy lớp kia đàng hoàng, nhưng bọn
học trò chúng tôi thì không đàng hoàng. Sau giờ học, có khi bỏ cả giờ
học, chúng tôi leo “Xe Buýt Đỏ”, loại nầy vừa thay cho “Xe Buýt Vàng”,
để chui vào Sở Thú chơi.
Ôi, tuyệt vời! Những buổi lang thang trong Sở Thú. “Làm học trò nhưng không sách cầm tay! Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” Ông nhà thơ Đinh Hùng nói chỉ đúng có một nửa, vì chúng tôi “Có tâm sự” gì đâu!?
Tới giờ, lo tìm về cho đúng giờ để “ông bô bà via” của chúng tôi vẫn nghĩ chúng tôi là những đứa học trò ngoan.
Lên
Trung Học, mỗi đứa chúng tôi xa nhau hơn. Đứa vào trường công, đứa vào
trường tư. Gần thì Huỳnh Thị Ngà ở Xóm Chùa, vào Huỳnh Khương Ninh ở
Đa-Kao, đứa xa hơn, Hưng Đạo, gần đường Trần Hưng Đạo. Bấy giờ thì tình
hình Saigon “vui lắm”. Biểu tình, đá đảo, hoan hô, tuyệt thực, tự thiêu,
đảo chánh, “biểu dương lực lượng”… xảy ra đều đều, tháng nào cũng có
hay mỗi năm, năm bảy bận. Cũng có khi chúng tôi đi biểu tình “cho vui”,
cho đời thêm “màu sắc”.
Đậu
tú tài, được vô đại học; nhưng chiến tranh đã gần kề. Súng không còn nổ
ở Bình Giả, Đắk-Tô, Ban-Hét… “xa tít mù khơi” nữa mà gần kề hơn, có khi
ngay tại Saigon. Việt Cộng gài lựu đạn, mìn, khủng bố. Thế rồi chúng
tôi lần lượt vô quân trường lúc nào mà ngay chính mình cũng không nhớ
tới nữa. Tới tuổi rồi, không đi sao được. Với lại, mấy ông thầy đứng
trên bục giảng làm chúng tôi “hứng chí” không ít: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Chúng tôi bỗng thấy “gần gũi” với màu áo lính trận, màu xanh cây rừng, màu hoa dù, màu rong biển…
Vài
bữa đi học về, nghe bố mẹ hay ai đó trong gia đình nói: “Thằng X. đi Võ
Bị rồi!” Rồi lại: “Thằng Y. vô Không Quân”, rồi lại “Thằng Z. đi Nhảy
Dù”, “Thằng T. đi Biệt Động Quân”. Biệt Động Quân là cọp “Ba Đầu Rằn”
đấy.Một hôm, gặp “Thằng bố vợ tôi”, sau nầy. Nó bảo: “Tao đi Quân Cụ”.
Tôi ừ, nghĩ “Lớ ngớ như mày, ra đơn vị tác chiến, “bỏ mạng sa tràng
sớm.” Nói thì nói vậy, chứ đời chưa hẳn vậy. “Đơn vị không tác chiến, có
khi bỏ mạng sớm, còn như ai đánh giặc ngày nầy qua tháng khác, lại sống
nhăn. Thế rồi có đứa hy sinh, có đứa bị thương, thành thương binh, có
đứa bị Việt Cộng bắt.
Trong
bọn tôi, tôi là người bị bắt sớm nhất, tù Việt Cộng sớm nhất. Năm 1971,
tôi bị chúng nó bắt ở Hạ Lào. Những đứa còn lại, đều thua tuổi tù tôi
những 4 năm. Sau Ba mươi tháng Tư, chúng nó mới lục tục kéo nhau “trình
diện”, “đóng tiền đi ở tù”. Xem ra, tôi là “tù trưởng” của bọn chúng.
Từ
Hạ Lào, Việt Cộng đưa “bọn tù binh chúng tôi” ra Bắc. Năm ký Hiệp Định
Paris, tưởng chúng tha về, như các tù binh khác, nhưng không thấy động
tĩnh gì cả. Sau nầy mới biết, khi Chính Phủ VNCH yêu cầu thả chúng tôi
ra, bọn Việt Cộng nói chúng tôi bị bắt ở Lào là do Pathet Lào giam giữ,
chúng nó không có trách nhiệm.
Miệng lưỡi Cộng Sản, ghê gớm thật!
Mãi
tới 16 năm sau, tôi mới “được tha ra khỏi trại cải tạo”. Đó là câu ghi
trong cái gọi là “Lệnh Tha”. Sau 16 năm tù, về lại xóm cũ thấy quạnh
hiu. Quạnh hiu là ở lòng người! Nhà cửa thì vẫn thế, không thay đổi gì
nhiều. Người tuy đông mà vắng vẻ. Thế hệ cha ông chúng tôi, hầu như “qui
tiên” hết cả rồi. Thế hệ tôi thì cũng tan tác. Mười phương tám hướng
chúng nó đi hết: Vượt biên, kinh tế mới, về quê làm ruộng, đi làm ăn xa.
Bọn trẻ lớn lên, nhiều đứa nhìn tôi xa lạ. Tôi xa nhà đã hơn hai mươi
năm. Những đứa ngày tôi ra đi, nay hơn hai chục tuổi, làm sao chúng biết
tôi là ai?
Khi
tôi đạp chiếc xích-lô ngang cổng nhà người bạn cũ thì một cô gái khoảng
hai mươi tuổi, tất tả từ trong nhà chạy ra, tay xách, tay mang, gọi ơi
ới:
-“Chú Đức, chú Đức, chở cháu đi với.
Tôi dừng xe lại chờ. Ra tới nơi, cô gái hỏi:
-“Chú đưa cháu qua chợ Hòa Hưng được không? Cháu đi gấp, sợ trễ.”
Tôi hỏi:
-“Cô muốn đi đường nào? Qua ngã Tân Sa Châu hay lên Thoại Ngọc Hầu. Đi ngã Tân Sa Châu ngắn hơn.”
-“Đường Tân Sa Châu xấu lắm. Lên Thoại Ngọc Hầu dễ đạp hơn.”
Cô gái ngồi lên xe xong, tôi nghiêng mình lấy đà đạp xe đi.
Một chốc, cô gái hỏi:
-“Chú ăn gì chưa?”
-“Dân Saigon không ăn sáng, chỉ uống cà phê thôi. Trưa mới ăn.”
-“Buổi trưa chú ăn ở đâu?”
-“Không chắc ở đâu, ngang đâu tấp đấy, miễn no với rẻ thì thôi.”
-“Khổ nhỉ? Chốc nữa chú uống cà phê với cháu. Có chỗ nầy cà phê ngon lắm.” Cô gái nói.
-“Cô sợ trễ mà?” Tôi hỏi.
-“Một chút không sao!” Cô ta trả lời.
Một lúc cô ta hỏi:
-“Chú đạp xe từ hồi nào?”
-“Cải tạo về tới giờ!” Tôi trả lời.
-“Sao gọi là cải tạo? Tù chớ.” Cô gái cải chính.
-“Với ai quen mới gọi tù. Lỡ gặp cán bộ, gọi tù nó phê bình đấy!” Tôi nói.
-“Ối
giời! Bây giờ ai còn ngại gì nữa. Cán bô, Công An cũng như mình thôi,
kiếm ăn cả. Cứ theo “Chính sách đường lối” thì lấy gì sống!” Cô gái trả
lời.
Lại một lúc, cô ta nói:
-“Bố cháu cũng tù về đấy! Chú biết không?”
-“Biết
sao không? Ông ấy là bạn với tôi từ hồi còn nhỏ đấy! Bố cháu cũng đỡ
vất vả. Mẹ cháu và chị em cháu đảm đang. Ông ấy chỉ giúp vợ việc lặt
vặt.”
Tôi
nhớ tới Hiền. Có lẽ là bố cô gái. Nó hiền đúng như tên nó. Dù có lính
lác như tôi, nhưng nó ít gian khổ hơn nhiều. Nghĩ thế, tôi nói:
-“Ai có gia đình cũng đỡ. Tôi tù về thì không còn ai!”
-“Cháu
biết, hàng xóm mà! Người trong nhà chú lần hồi đi cả. Mấy anh lớn chị
lớn vượt biên. Ông cụ qua đời, ít lâu bà cụ cũng đi theo. May họ chưa
lấy nhà, nhờ bà cô già.”
Quả
thật khi tôi tù về thì nhà không còn ai, chỉ còn bà cô già, chị của bố
tôi. Bà ở góa từ khi còn trẻ, không chồng con gì cả. Trước 1975, bà vô
chùa. Sau đó, thấy bố mẹ tôi cô quạnh, cô bỏ chùa về săn sóc, cơm nước
cho bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi mất rồi, Việt Cộng tính lấy nhà vì bà là chị bố
tôi, chúng nại cớ bà không có quyền thừa kế, thì tôi về. Cũng may, còn
được căn nhà che mưa nắng, không thì ngủ gầm cầu.
Trong khi uống cà phê, cô gái hỏi:
-“Hồi còn trẻ sao chú không lấy vợ như ba cháu?”
-“Lấy
vợ sao được? Ba cháu ở “đơn vị không tác chiến”, có “chữ thọ”, lấy vợ
không lo gì, chớ như bọn tôi, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”, có ở nhà đâu.
Với lại: “Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ…”
-“Chú cũng thơ thẩn dữ!” Cô gái cười nói.
-“Thơ người ta! Với lại, hồi đó chương trình Việt Văn thơ văn nhiều lắm. Bọn tôi phải học Chinh Phụ Ngâm.”
-“Cháu học sau “giải phóng”, chẳng biết gì hết! Cháu có nghe nói Chinh Phụ Ngâm, nhưng có biết gì đâu!”
-“Đó là bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm. Hay lắm. Tôi nghe ông thầy giảng mấy lần câu “Cổ lai chinh chiến địa, kỷ kiến hữu nhân hồi”, nên khi đi lính rồi, ngại tính việc lấy vợ.” Tôi giải thích.
-“Câu chú đọc nghĩa như thế nào?” Cô gái hỏi.
–“Những người đi chinh chiến, ít thấy trở về!” Tôi nói lại theo lời thầy giảng ngày trước.
-“Đang đánh nhau với ngoài kia, mà lại dạy cho học trò như thế, cháu thấy có mâu thuẫn đấy!” Cô ta nhận xét.
-“Dĩ nhiên! Nhưng mà đất nước tự do, không cấm được. Đi lính là bổn phận, không lý không cần tới văn chương!” Tôi nói.
Cuối cùng, trước khi đi tiếp tới chợ, cô ta nói:
-“Nói
chuyện với chú vui đấy! Hay cứ mỗi sáng, chú đưa cháu sang chợ. Cháu
khỏi lo trễ chợ, chú cháu mình lại uống cà phê. Tiền xe cháu tính đủ cho
chú.”
-“Được thôi! Tôi chạy một ngày sao cho đủ mua gạo với rau muống là đủ, về nghỉ. Thành ra cũng thoải mái.”
Vậy rồi, mỗi ngày, tôi đưa cô ra ra chợ. Quen dần, chiều lại thêm một “cuốc”, đón cô ta về.
Công
việc cứ thế diễn ra gần nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, vì cùng
xóm, có lần cô ta vào nhà thăm tôi, xem tôi ăn ở như thế nào, và bày tỏ
vài ý kiến về cảnh sống của tôi: Đàn ông không vợ, sống với bà cô già.
Bà cô đã già, nấu cơm bằng củi, khi chín khi khê, áo quần tôi lâu ngày
không giặt, treo trên vách, thúi hoắc mồ hôi…
Vì vậy, một lần cô ta hỏi tôi:
-“Chú Đức! Sao chú không lấy vợ đi?”
Tôi thành thật nói:
-“Ai chịu làm vợ tôi bây giờ? Cô thử nghĩ đi!”
Một lúc tôi lại nói:
-“Nửa đời nửa đoạn, trẻ không còn trẻ, già cũng chưa già hẳn.” Rồi tôi đọc nhại câu ca dao“Lấy ai ai lấy bây giờ lấy ai!” Trẻ
thì họ không thể lấy tôi, ít ra tôi cũng lớn hơn vài chục tuổi. “Nửa
đời hương phấn” thì “có đũa có đôi.” Còn lại thì có ai đó góa chồng mà
tay dắt tay bồng:“Em tay bế tay bồng”, đâu phải“người yêu năm cũ” để mà “thương thiếu phụ bên sông!”
-“Hồi ấy chú không có người yêu?” Cô ta hỏi.
-“Vâng! Tôi nói rồi! Sợ người ta “Góa phụ ngây thơ!”
-“Hồi ấy tại sao chú đi lính?” Cô ta lại hỏi.
-“Ai cũng đi thì mình đi. Tôi có anh bạn cùng ở Dù. Anh nó quá ba mươi, đang dạy học, bỗng tình nguyện đi lính?” Tôi nói.
-“Không được miễn lính à?”
-“Có đâu! Mậu Thân ở Huế, ông người Huế – thấy học trò mang khăn tang nhiều quá nên ông bỏ dạy đăng lính. Có vợ con rồi đấy.”
-“Bây giờ mà chú không lấy vợ, cháu cũng không lấy chồng!”
-“Sao kỳ thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
Cô ta chưa kịp trả lời thì xe đã tới chợ. Cô ta xuống xe, quày quả vào chợ!”
o O o
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm, tôi gợi chuyện:
-“Mấy bữa nay, tôi cứ suy nghĩ hoài! Tại sao cô nói cô không lấy chồng.”
-“Chú
nghĩ coi! Đời bây giờ có anh thanh niên nào vừa mắt mình để lấy làm
chồng! Con gái phải có “thần tượng” chứ! Cháu lớn lên, thế hệ chú và ba
cháu qua rồi, vô tù hết cả rồi. Nhưng hình ảnh những người lính thời đó,
vẫn còn lại trong lòng cháu. Cháu thấy thích và ngưỡng mộ khi nghĩ đến
họ. Còn như đời bây giờ…” Cô ta bỏ lửng câu nói.
-“Bây giờ thì sao?” Tôi giả bộ hỏi.
-“Bây
giờ, thời bình, cái hào hùng của người lính không còn nữa. Giữa cái hổn
độn xã hội bây giờ, cháu biết tìm ai?” Cô ta tâm sự.
-“Cũng có người cho cô vậy!” Tôi an ủi.
-“Khó lắm chú à! Thanh niên bây giờ, muốn kiếm sống, phải lo chạy mánh.”
-“Cô cho chạy “mánh” là không đứng đắn sao?” Tôi hỏi.
-“Mánh là mánh mung. Mánh mung thì làm người đứng đắn thế nào được?” Cháu lấy một anh chạy mánh làm chồng sao?” Cô gái than thở.
-“Gắng tìm một người không chạy mánh mà chọn làm chồng.” Tôi nói.
-“Khó
lắm chú à! Ai cũng phải chạy mánh hết, ai cũng phải mánh mung để kiếm
sống! Muốn sống, buôn bán như cháu cũng mánh. Lấy một công nhân, viên
chức, muốn sống cũng chạy mánh. Mánh với mọi người, riết rồi vợ mánh với
chồng, chồng mánh với vợ. Vợ chồng coi như xong.”
-“Đó
là cách “quản lý xã hội” của họ đấy. Ai cũng phải có một cái gì đấy, để
chính quyền coi như cái án treo, khi cần thì cho vào tù cho dễ.”
-“Kinh thật chú nhỉ? Thành ra cháu không thể lấy chồng, đành chịu vậy!”
Lại đến chợ! Cô ta quày quả vào chợ.
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm cô ta hỏi tôi một câu, tôi cho là “động trời!”
-“Cháu muốn chú cưới cháu làm vợ!”
Tôi lặng người đi, vừa kinh ngạc, vừa lạ lùng. Tôi hỏi:
-“Tại sao cháu nói thế?”
-“Không
phải cháu muốn đi HO với chú. Gia đình cháu cũng chuẩn bị đi HO như
chú. Không lấy chú, không đi HO với chú, cháu đi với ba mẹ cháu. Cháu
muốn chú cưới cháu vì suy đi tính lại, cháu chẳng thấy ai hợn.”
-“Tại sao cháu nghĩ thế? Tuổi tác xa nhau quá mà!”
-“Hai
chục tuổi mà xa gì. Đàn bà mau già lắm. Mẹ cháu nói vậy. Cháu sinh vài
đứa con, coi như cháu… già bằng chú. Vả lại tình yêu chú à! Cháu nghĩ
cháu cũng có thể yêu chú vậy. Cháu có đọc sách Chu Tử. Tình yêu không
cần tuổi tác.”
-“Chú nghĩ cháu không yêu chú! Cháu chỉ thương hại!”
-“Ba
cháu nói người Việt giàu tình thương. Cha mẹ, vợ chồng, anh em, bà con,
tất cả đều bắt đầu bằng tình thương. Ngày xưa, không yêu nhau mà lấy
nhau, người ta thương nhau, rồi yêu nhau. Sau nầy người ta đổi chữ đấy
chú à!” Cô gái nói.
-“Đổi chữ là sao?” Chú chưa hiểu.
-“Ba cháu nói hồi xưa ít dùng chữ “yêu” mà thường nói chữ thương. “Thương nhau cởi áo cho nhau…” Chớ
đâu phải “Yêu nhau…” Yêu nhau là nói theo cách bây giờ. Xưa là “Thương
nhau…” Ba cháu nói bản “Nắng chiều”, chú nhớ không? In đầu tiên, ông
nhạc sĩ viết “Lạnh lùng nhìn anh, em nói “mến” anh.” Mà
không viết “yêu anh”. Sau nầy người ta hát “yêu anh” là sai đấy! Phải
không?” Thành ra, cháu có “thương hại” chú, rồi có… “yêu chú” cũng không
có gì lạ cả. Con người ta, căn bản là tình thương, không phải tình yêu. Ba cháu giải thích “thương” là cho mà không đòi lại. Yêu là cho mà đòi lại.“Yêu rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu.”
-“Cô sâu sắc đấy!” Tôi nói.
-“Không phải đâu! Ba cháu giải thích cả đấy!”
-“Cóc mở miệng,” (Thằng) đó mà nói là như “Cóc mở miệng”. Nói xong, tôi thấy ngại. Tôi lỡ lời, gọi bố cô ta bằng “thằng”.
Một chốc, tôi nói:
-“Nhưng chú thấy ngại quá! Làm sao chú có thể mở miệng xin cưới cháu với bố mẹ cháu được?”
-“Chú đừng lo! Cháu sẽ nói. Cháu mở đường xong thì chú tiếp tục… rán mà đạp xe xích lô.” Cô ta nói nửa đùa nửa thật.
o O o
Thế rồi “thằng” ấy trở thành bố vợ tôi.
Tôi
rất thương vợ, và kính trọng bố vợ như cô ta kính trọng cha mẹ cô ta
vậy. Ở địa vị người rể, tôi gọi thằng bạn thân ấy là “bố” và xưng “con”
như vợ tôi vậy!
Rắc
rối là từ khi qua Mỹ rồi, cùng ở Orange County, lại cũng đã già, “đất
khách quê người”, tình bạn cũ càng thêm khăng khít nên ít nhất, mỗi
tuần, sáng Chủ Nhật, cả bọn năm bảy đứa, họp nhau uống cà-phê ở một quán
quen, để kể chuyện cũ, vui đùa, chọc quê nhau, một phần vì bạn với nhau
từ khi thơ ấu, một phần, cũng “quen đời lính” “lúc nào cũng vui đùa” để
quên bớt… súng đạn. Đúng là thói cũ khó chừa.
Cũng
rắc rối là cái thằng Quang. Ngồi chung một bàn, quen như ở nhà, – vợ
chồng tôi ở chung với bố mẹ vợ – nên cứ quen miệng “bố bố, con con”
khiến thằng Quang chưởi tôi không ít bận, cho là gai tai nó. Tôi bỏ “họp
mặt” mấy lần, khiến bọn nó nhắc hoài.
Hôm qua, Lộc gọi cho tôi:
-“Ê! Đức, mai chủ nhật, mày vắng mặt là tụi nó chưởi cho đấy!”
-“Nhưng tao…” rồi tôi ngập ngừng.
Lộc nói:
-“Mày
sợ thằng Quang chớ gì. Thằng chó “đập chó không ngó đằng sau”. Tù về,
nó mới lấy vợ. Vợ nó trước kia góa chồng, tử trận, để lại hai con, lớn
hơn nó ba tuổi. “Trai tân lấy gái nạ dòng”, có ai nói gì đâu!”
Thế là tôi thủ sẵn “vũ khí”.
Ngày hôm sau, đang ngồi cười đùa vui vẻ, thấy tôi “bố bố, con con” với bố vợ, Quang nói:
-“Mày dẹp cái “trò bố con” của mày lại đi. Tao gai quá!”
Tôi phản pháo ngay:
-“Nói
thật với mày. Tao thương vợ nên gọi “nó” bằng bố. Mày có thương vợ mày
không? Nếu mày thương vợ thì mày gọi vợ mày bằng “Chị” hay bằng “Em? Mày
nói “Em yêu chị” hay “Anh yêu em”. Trả lời đi!”
Cả bọn cười ồ.
Vậy là coi như xong một màn “Hài kịch thời đại”!
Hoàng Long Hải
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 27/Sep/2017 lúc 11:57am |
Lục Bình Trên Sông - Tác Giả Song Nhi.mp3 <<<<<
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Sep/2017 lúc 12:11pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Sep/2017 lúc 10:14am |
Ba Của Tôi
Trong
cái nắng gay gắt trưa hè Hà Nội đợt thi Đại Học, hình ảnh người cha
ngồi yên quạt để con gái gối đầu ngủ cho dù những giọt mồ hôi rơi lã chã
trên gương mặt mình đã khiến cư dân mạng vô cùng xúc động. Bức hình
trên mạng báo Việt Nam đã khiến bao người rơi lệ, tôi tự hỏi có bao
nhiêu người cha đã tạo nên được hình ảnh nầy. Ngược về quá khứ, kể về
người cha thân yêu của tôi, kể từ khi có trí khôn, tôi nghiệm thấy rằng
Ba tôi yêu thương tôi nhiều nhất trong số các con của ông, tôi là chị cả
trong đàn con 12 đứa của ông, nhưng ông cứ tưởng tượng tôi như một
thiên thần bé nhỏ, khi nói với ai về tôi Ông hay dùng câu "Con gái của
tui", khi nói chuyện với Má tôi, ông hay nói : "Má con Khiêm" (ở nhà tôi
tên K.)
Tôi
không khoe xạo Ba tôi là ông nầy ông nọ, Ba tôi khi đang là thợ máy sửa
xe hơi thì đến tuổi bị kêu đi lính thời Ông Tổng Thống Diệm, ông có
nghề sửa xe nên sau vài năm bị đổi đi đây đi đó, ông được đổi về SàiGòn
làm tài xế cho một ông Đại Tá, những dịp cuối tuần, vị Tá cho ông đem xe
về nhà chở vợ con đi chơi. Tôi còn nhớ Ba hay chở cả nhà đi ra bến tàu ở
sông SàiGòn, sau khi ghé chợ Cũ mua con vịt quay và mấy ổ bánh mì, có
khi ông chở lên xa lộ Biên Hòa mua bưởi, rồi ngồi tại chỗ xẻ bưởi ra ăn,
vừa ăn vừa hóng gió đồng nội, thời ấy hai bên xa lộ người ta hay trồng
mía, những đồng mía bạt ngàn, nhìn thấy mà mê. Ba tôi bảo không nên vào
sâu trong ấy mất an ninh lắm.
Những
hình ảnh thời đó cứ như in mãi vào trí óc non nớt của tôi, các bạn có
biết năm học lớp tư và lớp năm, khi làm những bài luân văn, tôi hay được
cô giáo đọc bài của tôi cho các bạn trong lớp cùng nghe. Có một bài
luận, với đề tài: "Em hãy tả cảnh một buổi dã ngoại với gia đình". Thôi
rồi ... tôi trúng tủ! Tôi được Ba tôi đưa đi xe hơi với cả gia đình đến
bến Bạch Đằng bằng xe Trắc Xông màu đen..., dưới thân đề tôi diễn tả
thật là ngoạn mục: Đến nơi Má tôi tháo bao có con vịt quay đỏ chói, cả
nhà vừa thưởng thức bánh mì vịt quay vừa ngắm cảnh sông SàiGòn ..., trên
sông có những con tàu to đang neo trên bến, nếu từ xa nhìn vào chỉ thấy
những thanh sắt ngổn ngang, các anh thủy thủ đứng dựa boong tàu, tôi
nghĩ các anh được đi đây đi đó thật vui thú làm sao! Nhìn dòng sông nước
lững lờ trôi, nước trong đến nỗi thấy cả những con cá lòng tong, tôi có
đem theo giấy tập cũ, tôi xếp thành chiếc thuyền thả trôi theo dòng
nước. Má tôi la: "đừng xả rác", chắc bà thấy bờ sông sạch quá, không
muốn tôi làm hoen ố dòng sông, nhưng Ba tôi cười hiền bảo "để con nó
chơi". Tôi đã ôm cổ Ba tôi và nói làm sao mình lên được cái tàu lớn đó
hả Ba, Ba tôi cười nói "Con ráng học giỏi thì muốn gì được nấy ". Tôi
trả lời: " Dạ, con sẽ ráng, khi học giỏi con sẽ được đi ra nước ngoài
như con tàu ấy và gửi thư về Ba nhen! ".
Khi đọc bài, cô giáo diễn tả giọng trầm bổng lên xuống, cả lớp im phăng phắc, cô giáo đã cho tôi điểm tối đa. Sau giờ luận đến giờ ra chơi, cả lớp xúm lại hỏi tôi: Bộ Ba mầy chở mầy đi chơi bằng xe hơi thiệt hả. Tôi đã có dịp vênh mặt với tụi bạn rồi trả lời: “Chứ sao! Tao chẳng bao giờ nói xạo!” Mặc dù tôi chỉ có 2 bộ đồ tạm cho là lành lặn nhất để đi học (vì con nhà nghèo, em lại đông mà lỵ).
Xế
nhà tôi có gia đình ông bà Thiếu Tá tên Vàng, nhà trông sang nhưng là
nhà mướn, nhà Ba Má của tôi là nhà mua, ông Thiếu Tá nầy cứ đi hành quân
nay đây may đó nên ông bà ấy không mua nhà, khi dọn đến đâu thì họ chỉ
mướn mà thôi, họ chỉ có 2 con nên hai đứa ấy muốn gì được nấy, áo nào
đẹp nhất, quần nào sang nhất là bà đều chưng diện cho 2 con, nhà tôi
nghèo nên lúc nào tôi cũng mang đầy mặc cảm, dù là tôi học không thua
đứa nào, tôi nhìn 2 đứa ấy mà cứ ao ước nếu tôi chỉ có một đứa em thì đỡ
khổ biết bao nhiêu, nhất là đỡ phải ẵm em, Ba Má tôi sẽ lo cho tôi
nhiều hơn là có một bầy con nít như vầy.
Những
năm ở tiểu học, tôi học giỏi lắm, cuối tuần Thầy Hiệu Trưởng đi từng
lớp để phát giấy khen, từ hạng nhất đến hạng năm, tuần nào tôi bị hạng
năm tôi buồn lắm, và mỗi cuối niên học năm nào tôi cũng được lãnh
thưởng, hình như tôi học vì do lời khen và động viên của Ba tôi hay sao
ấy. Tôi có hai đứa bạn ngồi hai bên, tụi nó hay cọp dê toán của tôi,
thường thường những bài tôi làm đều đúng, vào giờ ra chơi hai đứa hay
chen chúc trước cổng trường để mua đồ ăn cho tôi, đứa thì mua cốm dẹp,
đứa thì mua táo xanh, thay đổi tùy theo mùa. Răng tôi không được tốt nên
không thích ăn cà rem. Tôi thường khoe với Ba tôi về thành tích "ăn
hàng không tốn tiền" của mình, ổng hay nói "Cái nầy con giống Ba". Với
tuổi đời non nớt, tôi không hiểu tại sao Ba tôi nói vậy. Năm cuối lớp
nhất ở Trường Tiểu Học Chí Hòa, Ba tôi đã đổi về làm ở Tổng Tham Mưu,
tôi nhớ không lầm là vị Tá ấy có dính líu với vụ đảo chánh Ông Tổng
Thống Diệm lần đầu nhưng thất bại nên bị tù, họ xét Ba tôi vô can vì chỉ
là lính thợ nên chuyển đi nơi khác, vì Ba tôi giỏi nghề sửa xe nên được
điều về Tổng Tham Mưu để sửa xe nhà binh.
Ngày
đi thi vào đệ thất Trường Gia Long, Ba chở tôi đi bằng xe Jeep quân
đội, tôi mặc đồ bộ trắng phớt màu tro bằng tơ, cổ may lá sen, bộ đồ mà
tôi nghĩ là đẹp nhất hơn các bộ đồ mà tôi đã mặc trong thời gian học
tiểu học, khi xuống xe Ba vẫn còn nhắc "Ráng làm bài nhe con, Ba về sở
rồi trưa Ba trở lại chở con đi ăn cơm nhe!". Năm ấy tôi đậu được vào
trường Gia Long. Tôi vẫn còn nhớ khi nhìn thấy tên tôi trên bảng kết quả
treo trước cổng trường, Ba đã ôm siết tôi vào lòng, nhấc bổng lên, một
điều mà chưa bao giờ xẩy ra trước đó, Ba la lên: "Trời ơi con tôi đậu
rồi, con tôi đậu rồi", Ba đã lập đi lập lại câu ấy bao nhiêu lần, và tôi
cảm nhận nước mắt của người ướt má của tôi, đây là lần hiếm hoi thứ nhì
Ba tôi khóc, mà lần đầu là Bà Nội tôi mất, sau đó Ba chở tôi bằng xe
Jeep đi ăn cơm gà quay ở Chợ Lớn .
Cuộc
đời Ba gắn liền theo vận nước, nhất là vào lúc đơn vị của Ba chuyển ra
Nha Trang. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao Cô giáo hay đọc
những bài luận tôi làm cho bạn bè tôi nghe như bài luận mẫu, và lúc Ba ở
nhà vẫn hay khen tôi viết văn hay, vậy mà những năm tháng Ba ở Nha
Trang tôi lại chẳng có một lá thư nào cho Ba, mỗi khi về phép, Ba đem về
những con sò con ốc mà ba nói là đi tắm biển với bạn bè rồi nhặt về
cho tôi ở bãi biển Nha Trang, với mớ hình ảnh Ba chụp bên xe Jeep trên
quãng đường dài từ SàiGòn ra đến Nha Trang, mỗi địa danh Ba dừng chân
bên đường rồi chụp hình đem về cho con gái của Ba.
Có
những lúc Ba về bất ngờ, Ba hỏi Má tôi thường đứng chỗ nào đón tôi khi
tan học, rồi Ba ra đứng ngay chỗ ấy. Trời ơi không sao tả được sự mừng
vui khi tôi thấy ông đứng chờ tôi, những hình ảnh nầy sẽ theo tôi cho
đến cuối đời. Có lần khi đến rước tôi, bộ đồ lính của Ba hãy còn bụi
đường xa sình bùn lem luốc, Ba kể về nhà không kịp thay ra vì đến giờ đi
đón con, Ba đưa cho tôi bịch quà mà hãy còn dính bùn, Ba nói tối hôm
qua trên đường lái xe về nhà từ Nha Trang với một người bạn, Ba bị VC
rượt theo bắn tỉa, 2 người đã lao ra ngoài bỏ xe chạy trối chết, vậy mà
Ba vẫn không quên chụp cái bịch quà cho tôi mà trong ấy là vỏ sò và
những con sao biển, hai người đã lẩn trong rừng khuya chờ sáng xe đò từ
Nha Trang về thì quá giang về SàiGòn. Sáng ra đơn vị bạn kéo xe về, họ
không nghĩ là người trong xe còn sống vì cái xe Jeep bị bắn tan nát!
Lúc
đơn vị Ba còn đóng ở SàiGòn, ông sửa xe giỏi nên hết giờ làm việc ở
đơn vị, thì hết đám nầy đến rước đi sửa, đến đám khác rước đi sửa, họ
hỏi Ba tôi xem hư cái gì, rồi kéo nhau đi mua đem về thay vào, rồi họ
dắt đi ăn tiệc, trên bàn tiệc họ hỏi công bao nhiêu. Ba tôi nghĩ họ tử
tế bao mình ăn uống linh đình, nên ông trả lời chỉ sửa dùm cho "dui"
thôi. Đó là tại sao Ba nói tôi giống Ba ở khoảng đó, và tại sao mỗi lần
được đi với Ba, ông hay chở tôi đi ăn toàn đồ ngon, vì những chỗ đó Ba
đã được các chủ xe mời đi ăn để đền ơn vì Ba không lấy tiền công. Ba
tôi như say mê công việc, nên lúc làm ở Tổng Tham Mưu, ổng ngủ tại
garage luôn. Sau đó đơn vị của Ba bị điều động ra Nha Trang tôi không có
Ba ở gần, Má tôi bù đầu lo đủ thứ để kiếm cho đủ ăn, không ai khuyến
khích, động viên, nên tôi học hành sa sút thấy rõ, mỗi năm được lên lớp
là mừng rồi, có điều môn Văn thì khá, các môn khác chỉ trung bình hay
kém, tôi như không có điểm tựa nên cứ thả nổi, may phước là cũng đậu
được tú tài 2 khóa 2.
Tôi
còn nhớ, những ngày Ba tôi về phép là những ngày tôi hạnh phúc nhất,
nhất là những lúc học thi, tôi nằm tòng teng trên võng học bài rồi ngủ
quên, cái võng được mắc trên cái giường để gần bếp, Ba tôi lụi hụi nấu
cơm, con bạn trong xóm tôi nó tới nhà mượn sách đang lúc Ba tôi kêu tôi
dậy " K ., K ..con dậy ăn cơm đi con, rồi học bài tiếp" những lúc ấy tôi
làm bộ ngủ, tôi nghe Ba tôi nói với nó: “Bác nấu chứ để K nó nấu, nó
nêm nước mắm vô canh ăn chua lè hà!” Sau khi chứng kiến cảnh nầy, bạn
tôi về nhà méc Má nó rồi phân bì Ba nó không làm vậy, Má nó nói: Mầy
không biết con của Tư Lắm à! (ý là trong xóm ai cũng biết Ba tôi cưng
tôi lắm).
Tôi
biết tôi là niềm danh dự của Ba, vì năm tôi thi đậu được vào Gia Long,
cả xóm chỉ có mình tôi vào được, phải ba năm sau trong xóm mới có đứa
đậu. Vào năm học đệ tam, tôi có đứa bạn thân học với nhau từ đệ thất,
nhà nó ở Thủ Đức, nó hay rủ lên nhà chơi, nó có 3 chị làm ở căn cứ Long
Bình, 4 chị em ở với bà mẹ già, thời đó nhà nào có người làm sở Mỹ nhà
đó khá lắm, chỉ cần một người làm thôi đã khá rồi, mà nhà nó những ba
người làm, nó xài toàn đồ Mỹ thơm phức thấy mà ham, trong khi Má tôi vất
vả quá, tôi học hành thì như con rùa lật ngửa, lẹt đẹt chạy đàng sau
các bạn, tôi nói với các chị của nó xin cho tôi vào làm để đỡ đần cho Má
tôi, mấy chị nó mắng tôi không tiếc lời: Còn nhỏ lo học chứ đi làm chi
rồi bỏ học uổng lắm, mấy chị không được học hành như các em nên mới phải
làm cho Mỹ chứ tụi em học được trường tốt mà bỏ chi uổng vậy! Thế là
tôi đành phải học tiếp, dù trong bụng ngán quá chừng luôn!
Vào
lúc ra trường Gia Long tôi thấy Má tôi vất vả quá nên tôi chẳng muốn
tiếp tục học nữa, nộp đơn xin thi vào làm Thư Ký Học Chánh trong Bộ Giáo
Dục SàiGòn. Cùng năm đó 1971, Ba tôi được giải ngũ, và được người quen
giới thiệu làm tài xế cho tòa báo Star & Stripes, chuyên chở báo từ
phi trường Tân Sơn Nhất về phân phát cho các sạp và các cơ quan của Mỹ
đóng tại SàiGòn, những loại báo này in từ Thái Lan hoặc từ Mỹ được máy
bay chở về phi trường.
Thế là "đời Ba lên hương", nhà
tôi được xây lại 2 tầng khang trang hơn, phòng khách được trang hoàng
thật đẹp, đèn mờ, đèn sáng đủ cả, Ba tôi mua hẳn cho tôi cái xe Honda
Dame mới để đi làm, Ba cứ tiếc hùi hụi là 12 năm đèn sách, mà kết quả
của tôi chỉ là nhân viên quèn ở Bộ, Ba nói tại Ba bị đổi đi xa chứ nếu
ông ở nhà chắc tôi sẽ học khá hơn. Bây giờ sau bao nhiêu năm, Ba tôi đã
mất, Má tôi không còn, ngẫm nghĩ những ngày xưa dưới mái nhà, có cha, có
mẹ, có những người thân yêu bên cạnh thấy êm đềm hạnh phúc dường bao.
Viết từ Pennsylvania 2017
Phan Ngọc Vinh
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/Oct/2017 lúc 4:21pm |
Vết Xước Đầu ĐờiQua khỏi đoạn đường đất rợp bóng tre, là con đường rải nhựa. Đứng ở ngã ba, chú Tâm chỉ về phía xa, nơi con đường như một gạch thẳng chạy suốt qua các đồng lúa hai bên: - Đường này về đâu, cháu? - Ờ, nhưng chú ở phố. Ngay ở phố, nhiều con đường chú cũng chưa hề đi bao giờ.
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 03/Oct/2017 lúc 4:26pm |
QUỚI NHÂNMấy má con đang theo dõi tuồng cải lương Tiếng trống
Mê Linh trên vô tuyến truyền hình, đến đoạn Kép Thanh Sang trong vai Thi
Sách đang vô vọng cổ mùi mẫn để từ biệt Trưng Trắc thì bà Mười và đám
con ai nấy cũng Sụt sùi thương cảm cho hoàn cảnh này, nhất là con Út Đẹt
là đứa nhạy cảm nhất trong nhà, hể truyền hình chiếu cái gì có chia
tay, chết chóc bệnh hoạn thì y như rằng đôi mắt nó đỏ hoe ngấn lệ, hôm
nay cũng vậy thấy ông Thi Sách bị giặc bắt và đem ra pháp trường hành
quyết, trong lòng Út Đẹt nó bất nhẫn vô cùng, nó đưa tay che mắt lại để
không phải thấy cảnh bi thương kia, nó ngồi rút vội vô lòng bà Mười rồi
nó nói:
– Giặc Tàu ác quá má ơi, khi không lại bắt người ta hà, con ghét ông giặc Tàu có râu thấy ghê quá.
Nghe cái giọng ngây thơ của con, bà Mười cũng nói cho
qua chuyện, vì có giải thích thế nào thì Út Đẹt cũng chưa thể nhận biết
được, bà nói :
– Ừ , họ ác lắm con , mai mốt lớn lên con sẽ biết tại sao họ bắt ông Thi Sách, thôi vô ngủ đi con, ngày mai còn đi học nữa.
Út Đẹt chưa kịp đứng lên thì ngoài sân tiếng chó sủa vang lên inh ỏi, bà Mười làu bàu :
-Ai làm gì ngoài đó mà con ki ki nó sủa rân trời vậy cà.
Rồi bà cất tiếng kêu :
– Hải ơi! Con ra trước coi ai rình rập gì mà con Ki nó làm quá kìa, tía bây ăn nhậu gì mà giờ này chưa về nữa.
Thằng Hải nghe má kêu như vậy, nó dạ rân một tiếng rồi
chạy u ra sân xem tại sao con ki nhà mình nó sủa dữ vậy, trong bóng tối
lờ mờ thằng Hải nhận ra bước chân xiêu vẹo của tía mình, nó nói thầm:
-Rồi tía say rượu nữa rồi, uống gì uống hoài kỳ quá.
Hải bước nhanh đến bên ông Mười định dìu ông vô nhà,
bổng nó giật mình khi thấy tía mình ôm cái khăn lông trắng quấn trong đó
hình như một đứa trẻ thì phải, chới với trong lòng Hải nghĩ thầm:
– Rồi cái điệu nầy tía léng phéng với ai để cho có con, rồi nay họ giao con tía đem về nuôi đây mà.
Tức tối với ý nghĩ trên, Hải thầm ghen tức cho má nó, nó bèn hỏi tía với cái giọng hơi hỗn xược :
-Đó tía thấy hậu quả ham vui của tía chưa, tía ẵm nó về đây ai ở không đâu bồng bế nó, con là con không bồng rồi đó nghe.
Thấy thằng con trai mình nói điều bậy bạ, nó dám xem
thường phẩm giá của tía nó, ông biết nó hớ nặng tuy có hơi men trong
người cũng “là đà” say nhưng chưa đủ “đô” khiến ông Mười phải “nộ khi
xung thiên” với thằng Hải, ông làm bộ nương theo câu trách móc của nó để
ghẹo và xem Hải phản ứng ra sao, rồi giả cái giọng lè nhè của những lúc
đang “quắc cần câu” ông Mười nói :
– Hải nè ! “Em” con nó bị bỏ rơi ngoài đường, má nó tàn
nhẫn quá, thấy vậy tía đành phải cưu mang chớ biết sao con, nè tía lòn
ra cửa sau, mầy vô mở cửa cho tía đi, tía giấu em con sau bếp, rồi từ từ
tía nói với má bây sau, nhớ đừng cho bả biết vụ này, bả hay được làm
rùm beng lên mất mặt với lối xóm nghe bây.
Thấy ông già tía mình “Tự thú trước bình minh” với thái độ của người có thái độ
“Hạ mình”, thằng Hải nổi lên cái tánh “Anh Hùng mã
thượng” hồi nào nó chẳng hay, nó không còn oán trách ông Mười nữa, rồi
dường như nó thương cảm cho số phận đứa em ” Một cha khác mẹ” của mình,
Hải nhanh nhẩu nói:
– Thôi vậy đi tía, nhưng tía để chỗ nào lớ quớ coi chừng mấy con Kiến nó tha thằng nhỏ đi mất là mệt nghe tía.
Nói xong thằng Hải đi nhanh vào nhà ra sau bếp để mở
cửa cho tía mình, phần ông Mười thì ông nở một nụ cười đắc chí, ông lẩm
nhẩm một mình:
– Chết mầy chưa con, bị tía bây gạt mà không biết, cho
bỏ cái tật bộp chộp nghe con, cái thằng thiệt tình khi không tự dưng nó
úp chụp cho tui có vợ bé vợ mọn chịu đời sao cho thấu đây.
Bà Mười thấy thằng Hải trở vô nhà với thái độ lạ lẫm vô cùng, bà sai nó ra xem tại sao chó sủa, vì bà nằm lòng câu ca dao:
“Chó đâu chó sủa lổ không, chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày”.
Bà Mười thắc mắc chuyện gì bên ngoài mà thằng Hải đang
giấu bà, khi Hải vừa sắp rẽ vô nhà bếp phía sau, bà Mười gọi nó giật
ngược:
-Hải, Hải ra tao biểu nè .
Nghe bà Mười gọi bất ngờ khiến Hải điếng hồn, nó phân
vân không biết có nên nói thiệt cái tình cảnh của ông Mười hiện tại hay
không, nếu nói ra thì đêm nay e rằng cả nhà nó sẽ bị thức suốt đêm, gì
chứ tía có vợ bé còn bồng con về nhà thì đâu phải chuyện nhỏ, má nó sẽ
kêu gào thảm thiết hoặc nhẹ lắm cũng chì chiết cả nhà không chừa một ai,
nghĩ tới đây Hải thấy kinh hãi vô cùng, vì mỗi khi có chuyện gì khiến
bà cau có, bà sẽ cho cả nhà nghe “Kinh nhật tụng” muốn nổ tung cái màng
nhĩ.
Còn như giấu biệt cái chuyện này đi, tìm cách nói quanh
co gì đó thì cũng dễ, nhưng khi bà Mười biết được toàn bộ chuyện này
thì Hải chắc rằng “tội trạng” này sẽ to tác vô cùng, nó chợt nhớ lại
khuôn mặt ông Mười lúc nãy, như van xin quỳ lụy mình, vì vậy nó lại
không cam lòng bán đứng tía mình, nhanh chóng nghĩ trong đầu, một liều
ba bảy cũng liều, lỡ đâm lao phải theo lao luôn nên nó mạnh dạn nói xạo,
phải công nhận trình độ xạo ke của thằng Hải thuộc hạng có cỡ nên bà
Mười tuy thấy nó có biểu hiện lạ nhưng khi nghe nó nói bà Mười cũng phải
tin sái cổ :
-Tao biểu ra coi con ki nó bị cái giống gì mà sủa rân
trời, bây coi xong đi vô te rẹt không nói một tiếng cho tao biết là sao
cái thằng kia.
– Ối có gì đâu má ơi, con Mèo của nhà bà Chín Phàn nó
“Xâm nhập bất hợp pháp” vô sân mình nên con Ki nó cự nự chút đỉnh chứ có
gì đâu, con đuổi con Mèo đi rồi, con ra sau nhà uống miếng nước, chiều
má cho ăn ba cái mắm kho ngon thì ngon thiệt, nhưng nói thiệt là hơi
mặn nên khát nước gần chết luôn.
Nghe thằng con than khát nước, bà Mười đốc vô :
– Bây xuống bếp uống đi, xong rồi múc má một ly, tao cũng khát nãy giờ đây.
Chờ có nhiêu đó thôi thằng Hải phóng cái rột ra sau bếp mở cửa cho tía mình, cửa vừa mở ra Hải liền bị ông Mười cự nự liền:
– Mở có cái cửa không mà mà làm cái giống gì lâu lắc quá vậy Hải, đứng đây muỗi cắn gần chết luôn nè.
– Bộ tía tưởng con ở không chắc, má nghi ngờ cái gì đó
nên chận lại hỏi, con phải dùng ba tất lưỡi của “Tô tần” giải tỏa nghi
ngờ, nếu không thì tía “Dính chấu” rồi chứ ở đó mà tía càm ràm.
– Thì thấy mầy lâu quá tía hỏi vậy thôi mà, thôi bây lên nhà trên đi để bả nghi là “héo đời” luôn nghe bây.
Thằng Hải múc ly nước trong cái khạp da bò cho bà Mười,
trước khi đi nó ném một cái nhìn thông cảm cho tía mình vì tía đã trót
lỡ để tay “nhúng chàm”.
***
Cả nhà đang say giấc nồng, chợt tiếng thằng Hải mớ la lên bài hãi khiến mọi người trong nhà tĩnh giấc :
-Con đâu biết pha sữa , thay tả đâu mà tía ép con hoài, con tía thì tía lo đi.
Bà Mười nghe rõ ràng câu nói từ cửa miệng thằng Hải thốt ra, bà gọi Hải :
– Hải đâu, sao tía mầy có con mọn sao mầy giấu má , cha con bây quá trời rồi.
Ý Bà Mười ghẹo thằng Hải cho nó cãi lại để tĩnh giấc
mơ, không ngờ Hải tưởng má mình biết mọi việc nên nó bật ngồi dậy bà đến
bên bà Mười nó chắp tay xin lỗi má mình, rồi tự nó khai ra hết trơn
diễn tiến hồi đầu hôm hai tía con toa rập nhau giấu giếm bà chuyện con
rơi của ông Mười, tuy khai hết trơn nhưng nó ráng vớt một câu để cứu tía
mình:
– Thôi lỡ rồi má, tía giấu nó dưới bếp kìa để kêu tía dậy bồng em lên má xem.
Ông Mười nằm kế bên nghe câu chuyện hai má con tố khổ
mình cái tội đèo bồng, bà Mười thì chưa phản ứng gì khi nghe tin sét
đánh ngang mày như thế này, nhưng ông ưng ý nhất là câu vớt của thằng
con trai nói về mình làm ông cảm động vô cùng, ông nói thầm:
-Thằng Hải này coi vậy ăn ở có trước có sau ghê nhe, được đó bây xong vụ này tía thưởng
Ông nở nụ cười tươi như chưa bao giờ được cười sau khi nghe bà Mười gọi dựng ông dậy:
-Ông Mười, dậy tui hỏi cái này nè.
Làm như đang say giấc nồng mà bị phá đám, ông cựa mình
rồi ôm cái gối ôm ngủ tiếp, bà Mười đang nóng máu vì cái tin thằng Hải
vừa phun ra cho bà nên không còn giữ bình tĩnh nữa, bà giật giò ông dậy:
– Ngủ nghê gì nữa, có con mọn phải thức thay tả cho nó chứ ông.
Ngồi dậy kế bên bà Mười ông lấy tay che miệng ngáp rồi làm bộ ngạc nhiên hỏi:
– Vụ gì mà khuya lơ khuya lắc còn họp hành nữa vậy bà.
Thằng Hải nó nháy mắt “xi nhan” cho ông Mười lia lịa,
nó ngầm bảo với ông nhận tội để được hưởng lượng khoan hồng, tuy thấy
hết ý tứ của thằng Hải nhưng ông cố tình lờ đi khiến trong bụng thằng
Hải đánh lô tô mệt nghỉ.
Nghe bà vợ chì chiết cái tội “Ham mê bóng sắc, đọa đày
tấm thân” của mình, rồi thấy bà kêu thằng Hải xuống bếp đem đứa em khác
mẹ của nó lên làm tang vật để bà có cớ hỏi tội ông và sẳn tiện bà nhất
quyết ly dị ông luôn cho từ nay trở đi ông sẽ nằm chèo queo một mình về
cái tội đa thê, thằng Hải xuống bếp lục lạo một hồi nó thấy cái khăn
trắng được tía lót trong cái thúng, nó nhào tới khi thấy đứa em bằng
xương bằng thịt nằm ngủ như một thiên thần bé nhỏ nó không còn sợ sệt
như lúc nãy , nó cười khoái chi và ôm cái thúng tang vật lên nhà trên
tức thì.
Trong lúc này ở nhà trên không khí nặng trịch trên
gương mặt bà Mười, trái lại ông Mười có thái độ “Tĩnh bơ sư cụ” càng làm
cho bà Mười điên tiết hơn nữa.
-Má em con nè má.
Bà Mười nhìn thấy con chó con mập mạp lông trắng tươi
như cái khăn lông đang lót cho nó nằm, đang bực dọc không hiểu chuyện gì
rồi thấy ông Mười ôm bụng cười bò lăn ra giường, lúc này thằng Hải mới
kể hết đầu đuôi lần nữa cho bà nghe, đến bấy giờ bà Mười mới biết ông
chồng cố tình chọc ghẹo hai má con mình, bà quay qua ông Mười đấm lia
lịa trên lưng ông, thằng Hải cũng sáp lá cà phụ mẹ “dợt” cho ông Mười
một trận cho bỏ cái tật ghẹo vợ con mình, sau một hồi quần ông Mười tơi
tả tuy mệt nhưng cả nhà vang lên đầy ắp tiếng cười…
***
Thắm thoát Con Phèn lớn lên bên con Ki, hai con cho
quấn quýt nhau rất thân tình, một sánh nọ ông Mười mở cửa cho con Ki và
con Phèn ra chạy nhảy bên vệ đường, hai con chó sau một đêm tù túng
trong nhà như chú chim sổ lồng nên hai con rượt đuổi đùa vui với nhau,
ông Mười thì tranh thủ làm vài động tác thể dục cho dãn gân dãn cốt,
nhìn con Phèn khỏe mạnh chơi đùa ông rất vui, ông được người bạn tặng
con Phèn họ nói:
-Giống chó này hết xẩy nghe anh Mười, mẹ nó khôn dữ
dội luôn, quý anh lắm tui mới tặng anh nghe, nhớ nuôi đừng cho ai nghe
ông.
Đang nhớ lại buổi nhậu chiều hôm ấy, rồi nhớ lại vụ
mình gạt má con thằng Hải làm họ hố một cái quá mạng khiến ông cười một
mình, đang thả hồn nhìn bầu trời buổi sáng tinh mơ hít thở không khí
trong lành ông thấy đời còn gì vui hơn, rồi ông nhớ hôm ngồi trong bàn
nhậu, có ông bạn mới quen, họ tự xưng là chiêm tinh gia trước kia có
ngồi ở Lăng ông Bà Chiểu để xem tử vi , do thời thế thay đổi ông ta bỏ
nghề tuy vậy lâu lâu ngứa nghề ông hay xem cho bạn bè, mà lần nào những
người được xem đều cho là ông ta đoán việc như thần, ông ta xem cho ông
Mười sẽ gặp một tai nạn nho nhỏ nhưng sẽ tai qua nạn khỏi, tuy xem chơi
trong bàn nhậu cho vui chứ thật tâm ông Mười chẳng tin bói toán bao
giờ….
Hai thanh niên bịt mặt bằng khẩu trang, họ chạy xe gắn
máy chạy sát đến con Ki, tay ngồi sau nhanh chóng dùng thòng lọng bắt
con ki, tiếng con ki la thất thanh khiến ông Mười choàng tĩnh, thấy con
Ki bị bắt nhanh chóng ông lượm cục đá bên đường ông chọi thật mạnh trúng
ngay tên cầm lái, do đau quá hắn loạng choạng tay láy làm chiếc xe ngã
lăn kềnh ra đường, ông Mười chạy đến giành lại con ki, nhưng tên này tuy
té đau cố phản ứng để quyết giữ con ky đem về lò mỗ bán, hắn rút con
dao nhỏ trong lưng cầm trên tay lăm le hăm dọa ông Mười , xui cho hai
tên này ông Mười vốn là võ sư nên ông không coi thường cái vũ khí cỏn
con kia, ông nhào vô đá văng con dao rồi dùng chân còn lại đâ tiếp vào
đầu tên giữ con Ki khiến hắn phải bỏ con ki ra và té lăn cù xuống đường,
lợi dụng ông đang đối phó với thằng nọ, tên cầm lái lấy cây gậy gỗ đánh
vào gáy khiến ông Mười té nhào xuống đất, thấy chủ và bạn mình bị tấn
công con Phèn nỗi điên lên nó nhào vô táp cho mỗi tên vài vết, công nhận
ngày thường con Phèn hiền lành bao nhiêu hôm ấy nó làm cho hai tên trộm
chó hồn xiêu phách lạc, bà con chung quanh thấy vụ việc họ chạy đến cứu
ứng, hai tên bị bắt dẫn giải về đồn lấy “ăn kết”.
Ông Mười đau đớn ngồi trên cái ghế bố ngoài sân, con Ki
và con Phèn nằm phũ phục dưới đất cạnh ông, đưa tay vuốt lưng con ki
rồi vuốt lưng con Phèn, lúc bấy giờ ông Mười mới nhớ lại lời ông thầy tử
vi phán hôm nọ “y như trong kinh” thì ra quới nhân giúp ông chính là
con Phèn , con chó mà ông bạn từng khẳng định quý nhau lắm mới tặng ông
con phèn này.
Ông Mười cố ẩm con Phèn lên, ông ghé sát vào tai nó ông nói :
– Cảm ơn quới nhân của tui thật nhiều nhe, chiều nay tui trả ơn cho 2 quới nhân bằng một chầu thịt bò bít tết nhé.
Dường như biết được tiếng lòng của ông Mười, con Ki và
con Phèn rít lên rồi vẫy vẫy cái đuôi mừng rỡ, bất chợt khóe mắt ông
Mười nó lại ươn ướt…
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Oct/2017 lúc 9:23am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 05/Oct/2017 lúc 10:07am |
Thu Nhớ Người!Sáng nay thức giấc nghe lành lạnh, ngoài trời mưa bay bay, gió hắt hiu, trời thu trông ảm đạm làm Thúy buồn mênh mang, và lòng nàng chợt bâng khuâng khi nhớ đến tình. Nàng có tình xưa và tình nay, mà tâm và trí luôn chia hai nửa, một nửa dành cho mỗi tình, khi thì sôi nổi bên tình này, khi thì u uất trầm lắng với tình kia. Chính Thúy đã định sẽ ở goá, chỉ sống với tình xưa, chung thủy với hình bóng của Người xưa chứ không yêu ai khác, nhưng mỗi khi thu về sao thấy mình cô đơn, khi đông về một thân sao lạnh lẽo làm lòng nàng thấy trống trải, cứ ước rằng mình có bạn để chia xẻ vui buồn thì vẫn hơn. Thế rồi trời xui đất khiến cho Thúy gặp gỡ Anh trong một hoàn cảnh thật bất ngờ. Trong một buổi Lễ Thất Tuần do một người bạn tổ chức cho cụ thân sinh ở chùa NLTT ở San Diego, Thúy và Anh đều đã được mời đến. Giữa hàng ngàn người trong khuôn viên chùa rộng lớn, cả bầu trời bỗng đầy tiếng chim ca và hoa nở, và như có một hấp lực vô hình nào đó đã kéo hai người lại với nhau. Khi đôi ánh mắt vừa trao nhau là hai cõi lòng liền rung động, không muốn rời xa. Sau đó, những lúc Thúy vắng thư, Anh đã mượn những câu thơ của Hàn Mặc Tử để tỏ bày nỗi nhớ mong: Trước sân anh thơ thẩnĐăm đăm trông nhạn về Mây trời còn phiêu bạt Lang thang trên đồi quê... Từ đó đến nay đã qua mười năm mà tình với Anh vẫn còn khắn khít, dù Thúy vẫn yêu và nhớ đến chồng. Nhiều khi nàng tự hỏi như thế có phải là mình đã ngoại tình trong tư tưởng đối với Người xưa hay không!!! Nàng nhớ hoài, trong giờ phút hấp hối, khi nghe nàng sụt sùi khóc than: “Không có anh em làm sao mà sống?” chồng nàng đã thều thào khuyên: “Em hãy... thương yêu con mình, lo.. cho con ăn học, và mang...tình cảm em dành...cho anh đó cho...những kẻ, những kẻ... cần đến tình thương!” Nàng đã chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ các con của Người, săn sóc mẹ già thay Người, và còn làm theo lời Người dặn; giúp cho rất nhiều tha nhân cần đến sự giúp đỡ của mình. Người xưa đã rất tốt bụng, rất yêu vợ. Khi Người mất đi nếu có linh thiêng thì chắc chắn hồn linh của Người càng thương nàng hơn, chẳng muốn cho nàng phải lẻ loi đơn chiếc trong chuỗi ngày dài. Hể còn sống, còn máu chảy trong tim thì ai cũng cần có tình cảm. Trời chẳng đã sinh ra âm dương để muôn loài bù đắp cho nhau đó hay sao. Thúy lý luận như thế, để khỏi mang mặc cảm tội lỗi. Hơn nữa, chính Anh đã biết Thúy từng là vợ một người đàn ông khác mấy chục năm, có với nhau một bầy con. Thúy cũng biết anh từng có vợ khác còn sống với hai con, dù đã xa nhau nhiều năm. Bất cứ cặp vợ chồng nào khi đã chung sống lâu dài, từng có con cái và cùng trải qua bao nhiêu vui buồn với nhau, ai mà khỏi yêu khỏi thương, không buồn không nhớ sau khi nửa đường đứt gánh phải xa nhau dù vì lý do nào đó? Thúy không ghen với quá khứ của Anh, thì không lẽ một người trọng tình trọng nghĩa và có tâm hồn phóng khoáng như Anh lại không thể thông cảm với một kẻ có tâm hồn nghệ sĩ mẫn cảm như nàng? Hôm nay với bộ mặt chảy dài như cha chết của thu làm Thúy nhớ ray rứt đến tình kia, và vì nghĩ rằng không ai trách mình được nên nàng muốn cùng với thu tâm sự, tự do diễn tả cảm xúc này để chia xẻ với tình nay: Thu Nhớ Người Cứ tưởng là mình không còn buồn Mưa giăng giăng mắt ướt lệ mờ Năm xưa ai đã yêu đắm say Trời buồn trời đang khóc cho người Viết vội cho xong bài thơ, Thúy đọc luôn qua điện thoại cho Anh nghe, trong lòng tin tưởng là Anh sẽ thông cảm như bao giờ; không ghen. Không biết Anh ghen hay không, Thúy chỉ nghe Anh nói: -Bài này buồn thật em à! May là em đã nói trước. Anh muốn mình vui hôm nay. Thúy đã có nói trước với Anh rằng trời buồn làm nàng rất muốn làm thơ, rất muốn diễn tả ra những cảm xúc mà nàng đang có, và luôn cả giai điệu nhạc cho bài thơ ấy nữa (nhưng đã không nói cho Anh biết mình diễn tả về đề tài nào). Dù không nhìn được mặt Anh để dò xét và phán đoán, nhưng câu nói ấy của Anh đã làm cho Thúy hiểu rằng mình rất thiếu tế nhị. Thúy cố vớt vát: -Cũng may mà em đã nói trước rồi thiệt! Anh đừng buồn em anh nhé! Em đã trút được nỗi buồn rồi thì em sẽ vui. Hiện giờ em đang vui vì sắp được gặp anh. -Rất tốt! Giờ em đi ra cái hồ Diamond, nơi mình từng đến xem vịt lội để nhớ đến anh, rồi trưa hai đứa mình gặp nhau! Cả Anh lẫn Thúy đều là người biết tự chủ, biết phân biệt phải trái, nhưng tình yêu thường có khuynh hướng muốn sở hữu, nên khi yêu rất nhiều người trở thành nhỏ mọn, ghen tuông. Biết đâu! Thúy biết là mình nên tế nhị hơn, để kẻ khác khỏi buồn lòng theo, nên nàng nói: -Anh có tin là em có thể tưởng tượng ra nhiều chuyện buồn khác nữa để làm thơ không? Thương mây khóc gió là nghề của em đó. -Anh tin chứ. Nhưng các nghệ sĩ không phải sáng tác để thương vay khóc mướn mà là để tỏ bày cảm thông đồng cảm đó em. Anh đã nhiều lần nói thế rồi, em nhớ không? Văn chương có thể chỉ có sự thật 10% hoặc ít hơn, có khi chỉ do tưởng tượng, quan sát, hay do được kể lại thôi. Anh mong là em chỉ nhớ để mà quên, chuyện buồn nên quên mới có thể sống vui được. - Anh nói rất có lý. Em sẽ cố quên bớt chuyện buồn trong dĩ vãng anh nhé! Anh biết không? Nhiều khi cũng vì để viết văn làm thơ, em phải tưởng tượng những hoàn cảnh trái ngang hoặc nhớ chuyện của người khác, rồi em vui buồn thật theo người ta. -Dĩ nhiên... Đinh Hùng thơ tình rất nhiều mà rất chung thủy, Tạ Tỵ vẽ nhiều người đẹp mà cũng vẫn ở suốt đời với bà vợ nghe nói là xấu xí! Để anh nhắc em 4 câu thơ của Đinh Hùng có cùng ý với bài thơ của em: Trời đã thu rồi em ở đâu Em thấy chỉ 4 câu thơ thôi nhưng đã nói lên tình ý của nhà thơ đối với người vợ/người tình đã khuất của họ. Thật là chí tình phải không em? Anh hiểu em sợ anh buồn khi em nhắc về anh ấy. Nhưng em đừng ngại nhé! Anh chẳng đã kể cho em biết rằng anh và anh ấy đã từng sinh hoạt cộng đồng chung với nhau và chúng anh rất mến nhau. Nhiều khi anh tin rằng chính vì muốn cho em và anh khỏi buồn vì cô đơn nên anh ấy đã xui khiến cho chúng mình gặp nhau đây. Nghe anh nói những câu đó với giọng chân thành như vậy, Thúy cảm động muốn khóc. Thì ra người ấy quả thật rất tốt, rất đáng cho nàng yêu thương, tin tưởng. Thúy hối hận đã có lúc mình nghi ngờ không đúng! Bây giờ Thúy tin lời Anh nói, phục Anh có lòng độ lượng, và càng yêu anh hơn. Nhưng sao nỗi thương nhớ Người xưa vẫn không vì thế mà phai nhạt. Nhiều lúc chính Thúy cũng nghĩ là Người xưa đã đưa Anh đến làm bạn với nàng cho nàng bớt cô đơn. Cả hai đều yêu nàng, tốt với nàng là điều may mắn cho nàng. Nhưng sao nàng vẫn cảm thấy lòng đầy mâu thuẩn, rồi lại hoang mang, không biết mình nên thế nào mới phải!!! Để cho Anh đừng biết là mình sắp khóc vì cảm động vì hoang mang, Thúy vội vàng từ giã: -Anh ơi! Em có chuyện phải làm gấp. Tạm biệt anh nhé! Trưa mình gặp lại. Đi đường xa quá như vậy nhớ đừng ngủ khi lái xe nghe anh! -Anh sẽ cẩn thận. Vậy tạm biệt em! Trưa sẽ gặp. Hôn em. Ái Hoa |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 07/Oct/2017 lúc 7:26am |
Một Tấm LòngHôm nay bác sĩ Diệu Hiền đến phòng mạch làm việc trở lại sau một
tháng nghỉ vacation về Việt Nam. Thời gian vắng mặt chị đã nhờ một đồng
nghiệp trông coi giùm phòng mạch nên công việc không hề bị ảnh hưởng. **************** Chị Phèn khám bệnh xong ra về mà Diệu Hiền còn lặng người một mình
nơi văn phòng, chẳng còn háo hức chạy ra chợ mua đồ về để nấu một bữa ăn
ngon cho chồng như từ lúc đầu đã dự tính nữa. Nguyễn Thị Thanh Dương Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Oct/2017 lúc 7:28am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 09/Oct/2017 lúc 4:30am |
Trả Nợ Ân Tình
Đầu
mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng
một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển
đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với
khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những
sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ
ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt
đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ
ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát
và ngắm trời xanh.
Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái
đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho
ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu
này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo,
bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí
mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn,
nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách,
nên tôi chưa có dịp gặp ông.
Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi
nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông
cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ
hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng
hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối.
Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng,
bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn. Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo: – Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi
Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói
chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư
cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều
khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt
biểu hiện một con người khí khái và nghị lực.
Ngồi với nhau khoảng hơn
mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn
cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến
sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt
tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.
Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có
nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm
chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.
Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ
anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu
dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.
Sau đó, những ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh
chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình
nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.
Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm
hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc
rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua
anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi
biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi,
anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi
tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị
bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp
nhà cửa bếp núc.
Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi
thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên
thân thiết như anh em.
Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng
chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo
trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư
ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai trai một
gái.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi
có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ
có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một
thời gian đến định cư ở vùng này.
Nhìn tấm ảnh, tôi khen: – Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương. Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ: – Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi. Tôi tò mò, không kịp giữ ý: – Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam? – Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston. Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích: – Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979. Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp: – Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó. Tôi cố tìm một lời an ủi: – Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn? Anh cười: – Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng. – Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì. Anh trầm ngâm: – Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà. Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà: – Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá. – Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi. – Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được. – Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh. – Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu. – Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra: – Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.
Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.
Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong
thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay.
Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù
rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình
bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai
đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh
giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như
con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa
con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần
nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu
rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong
ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.
Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ
cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu.
Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc
đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa: – Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết. Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm: – Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?
Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người
lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua
cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung
và nhân cách của mình.
Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính.
Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc
những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau
này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể
từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ
huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả
như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã
sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ
Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy,
còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này
để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến
trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”
Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp
được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu
con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của
một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một
trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ
giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi
đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất
ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu
trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón
và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác
hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay
với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân
thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ
phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà
trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô
dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay
cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút
xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của
cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên
nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.
Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị
ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo
là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho
hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà
chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi
tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu
tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với
tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần
này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa
sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời,
ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy
trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt
số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh
ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn. Anh cười: – Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!” Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.
Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo
cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ
vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không
khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có
cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy
chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn
bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu
của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính
cho chị nghe.
Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa
chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các
con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe,
nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận
đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia
đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng
lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ
về thời gian chị đã có lỗi lầm.
Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị: – Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em. Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.
Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với
chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình
thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản. Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc. Phạm Tín An Ninh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 190 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |