Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Jan/2011 lúc 11:08pm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jan/2011 lúc 10:34pm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Jan/2011 lúc 1:51am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 09/Feb/2011 lúc 8:42pm
Mẹ đi lấy chồng
Tác giả Thu Trinh 
 

 

     Năm tôi lên bốn tuổi, bà tôi nói khi nào trời có cầu vồng thì mẹ tôi sẽ băng qua cầu về thăm tôi. Thương mẹ, tôi dặn bà nhắn với mẹ nếu cầu vồng gẫy khúc thì mẹ khoan về, tôi sợ mẹ té xuống cầu sẽ bị cá sấu cắn.

Bà ngồi đưa võng sau hè
Hát ru cháu ngủ câu vè đắng cay  
"À ơi cháu ngủ cho say
Mẹ cháu đi lấy chồng xa không về
Con ai cha mẹ đề huề
Cháu tôi mẹ nó lối về quên đi"
Thân tôi có đáng tội chi
Năm lên bốn tuổi mẹ đi lấy chồng
“Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai” (1)
Lời bà ru quá bi ai
Nghe sao thấm thía cảnh ai giống mình
Mẹ đi con ở một mình
Đêm khuya trở lạnh ai người đắp chăn
Ai người chăm sóc miếng ăn
Ai đưa đi học, ai răn làm người
Mẹ đi con vắng tiếng cười
Chiều ra ngõ đứng trông trời ngóng mưa
Cầu vồng sắp mọc hay chưa
Vì mẹ đã hứa sẽ về thăm con
Cầu treo gẫy khúc vẫn còn
Cầu vòng gẫy khúc mẹ không đường về
Bà ơi dắt cháu rời quê
Để cháu tìm mẹ hỏi lời này thôi
Chim ri mất mẹ đói mồi
Nỡ nào mẹ vội bỏ con lấy chồng

****************
Tâm Sự Con Trẻ

     Năm tôi lên bốn tuổi, một ngày mẹ tôi đi làm rồi đi luôn không về nữa. Mẹ chỉ để lại cho tôi một con chuột Mickey nhồi bông lớn và cho cha tôi một lá thư.

     Đọc xong thư ba tôi như người điên, lồng lộn, đập phá, la hét, sau đó xách xe đi biệt mấy ngày tìm vợ. Chừng một tuần, hình như mẹ tôi đã liên lạc điện thoại về nhà, nói gì đó không biết nhưng ba tôi khóc. Những ngày tiếp theo, ông vùi mình vào trong men rượu để quên đời. Ngày nào ba cũng đi tới khuya, khi về tới nhà thì say bê bết không còn biết trời trăng mây nước gì cả.

     Về phần tôi, bà tôi không hề nói cho tôi biết mẹ tôi đã đi đâu, bà chỉ nói mẹ tôi đi làm xa lắm. Nhớ mẹ, tôi khóc mỗi ngày không thôi. Bà đưa cho tôi con chuột Mickey, nói của mẹ cho. Giận lẫy, tôi đem ném con chuột ra xa. Ai cho gì tôi cũng không lấy, ai nói sao tôi cũng không ngừng khóc, tôi chỉ nức nở lập đi lập lại một câu “con muốn mẹ”.

     Để dỗ cho tôi nín, bà nói khi nào trời có cầu vồng thì mẹ tôi sẽ băng qua cầu về thăm tôi, mẹ tôi sẽ mang về cho tôi rất nhiều quà. Lúc đó tuy nhớ mẹ và tha thiết mong gặp mẹ, tôi không khỏi rùng mình nhớ đến những con cá xấu mõm nhọn răng dài mà tôi thấy được trong sách hình. Thương mẹ, tôi nói bà nhắn với mẹ nếu cầu vồng gẫy khúc thì mẹ khoan về, tôi sợ mẹ té cá sấu sẽ cắn mẹ.

     Sau vài tuần thì tôi không còn khóc lóc thảm thiết đòi mẹ nữa, thế nhưng lòng thương nhớ mẹ thì không bao giờ nguôi. Tôi đi tìm lại con chuột Mickey về ôm. Chiều chiều, tôi ôm chuột ra trước nhà đứng nhìn lên trời mong cho cầu vồng mọc để mẹ về thăm như đã hứa. Thế nhưng trời California quanh năm nắng ấm, những trận mưa thưa thớt hàng năm chỉ đếm được trên đầu ngón tay, tôi không bao giờ thấy có cầu vồng. Và cứ như thế tôi tiếp tục đợi năm này qua tháng kia, mẹ tôi không bao giờ về.

     Vài năm sau đó, khi đã lớn hơn lên và đầu óc đã có nhận thức, tôi hiểu được chuyện cầu vồng mà bà tôi kể cho tôi nghe là chuyện không thực. Bà chỉ kể như vậy để dỗ cho tôi đừng khóc. Thế nhưng tôi vẫn đợi, vẫn mong một ngày nào đó mẹ tôi tay cầm quà mở cửa bước vào nhà, sau đó ôm tôi vào lòng và hôn lên má như lúc xưa mẹ thường làm mỗi lần về nhà trong ngày lãnh lương.

     Sau khi mẹ bỏ đi, ba tôi đã sống cuộc sống bê tha như vậy cả năm trời. Ông quên hết mọi người chung quanh, quên con, quên luôn cả bản thân mình, sống như bóng ma. Chỉ có những chai rượu mới chính là những bạn thân của ông. Ngay cả công việc làm của mình ba tôi cũng không giữ được, ông bị đuổi việc.

     Mãi hơn một năm ba tôi mới tạm nguôi đau đớn và muốn làm lại cuộc đời. Nghe rủ, ông theo bạn lên tận Alaska làm cho tàu bắt cua, một lần đi như vậy cả sáu tháng trời. Hết mùa cua, ông về.nhà nghỉ sáu tháng, chờ mùa sau đi tiếp.

     Suốt sáu tháng làm việc và sống trên tàu đánh cua, ba không xài tiền cho mấy, lúc hết mùa ông đem hết cả lương mình về chia làm hai, một phần giao cho bà tôi để nuôi tôi, phần còn lại ông đem đổ vào những bar rượu, nướng ở các sòng bài Las Vegas, hay tiêu xài xả láng ở Việt Nam mấy tháng mới qua.
Đời sống của ba tôi cứ tiếp tục như thế năm này qua năm kia. Ông không hề nhắc tới mẹ trước mặt tôi. Tuy tôi cảm nhận ba tôi thương tôi lắm, nhưng ông ít bày tỏ. Đã vậy, ông vắng nhà thường xuyên, chỉ ở với tôi một năm được một hai tháng, cho nên tình cảm giữa hai cha con tôi cũng không gắn bó nhiều.

     Niềm hy vọng mẹ sẽ về có lẽ chỉ là hão huyền và vô vọng, thế nhưng tôi vẫn mong vẫn đợi. Món quà mẹ để lại cho tôi lúc ra đi tôi vẫn giữ. Con chuột Mickey giờ đã sờn lông cũ kỹ, màu trắng hai cánh tay đã ngả sang màu ngà vàng, áo mất nút không còn. Tôi để con chuột nhồi bông trên tủ áo, ngày ngày nhìn nó để nhắc nhở cho tôi nhớ tôi có một người mẹ ở đâu đó.

     Tôi lớn lên trong tình thương của bà nội. Bà thương tôi lắm. Bà đã trông coi tôi từ ngày tôi mới sanh, lúc ba mẹ tôi còn ở với nhau. Khi mẹ tôi bỏ đi rồi, và nhất là từ lúc cha tôi đi làm xa vắng nhà, thì tình thương bà dành cho tôi càng tăng lên gấp bội. Có lẽ bà thương cho cảnh côi cút của tôi, có cha mẹ mà cũng như mồ côi. Hay cũng có thể bà thương tôi vì chỉ có hai bà cháu nương tựa nhau mà sống cho qua ngày. Tôi là nguồn an ủi duy nhất của bà. Bà tôi có hai người con. Người con lớn là ba tôi, người thứ hai là cô Ba, em ba tôi, nhưng cô Ba bận rộn làm ăn con cái nên hai ba tuần mới đến thăm bà. Thành ra, chỉ có tôi là người sớm hôm hủ hỉ bên cạnh bà.

     Bà tôi tuy có tiền trợ cấp của chính phủ, cộng thêm tiền cha tôi đem về coi như cũng vừa đủ. Nhưng vốn tính cần cù, bà kiếm thêm tiền bằng cách nấu bánh tét, bánh đậu ra chợ bán. Bánh bà gói dĩ nhiên không bán được ở các chợ, bà bày rổ ra bán ở vỉa hè trước cửa các siêu thị Việt Nam, giống như những hàng bán bưng ở Việt Nam. Dĩ nhiên cảnh sát không cho phép bán hàng rong kiểu này. Những khi thấy cảnh sát tới, bà ôm rổ bánh chạy hấp tấp vào trong các quán trốn. Cũng có lần cảnh sát bắt được bà, cho giấy phạt và tịch thu hết bánh của bà. Nhưng sau đó thấy bà già cả, miệng móm mếu máo khóc, ông cảnh sát lại thương tình, xé giấy phạt và trả rổ bánh lại cho bà, chỉ cảnh cáo bà không được bán hàng rong vỉa hè.

     Bà tôi nghỉ được vài tuần, đợi cho nguôi ngoai bớt sợ, sau đó lại đâu vào đấy, tiếp tục bưng rổ bánh lá ra vỉa hè trước chợ siêu thị ngồi bán. Thật ra bà tôi không phải là người duy nhất làm nghề bán hàng rong vỉa hè. Bà có nhiều bạn đồng nghiệp lắm. Nhiều cụ già Việt Nam lớn tuổi như bà cũng bày hàng bán như vậy. Người thì bán báo, người thì bán rau thơm, bán trái cây, tụ tập với nhau họ làm thành những nhóm bán rong chồm hổm nhỏ. Chủ nhân của các cửa hàng cảm thấy thương hại cho các cụ già, nên họ mắt nhắm mắt mở để cái chợ vỉa hè chồm hổm được tự do hoạt động trước cửa tiệm của họ.
Tôi thương bà tôi lắm. Ông tôi chết đã lâu, bà chỉ có hai con là cô Ba và ba tôi. Cô Ba có gia đình ở gần đấy, nhưng đời sống cô cũng vừa đủ, không giàu có gì.

     Ngày nào bà cũng dậy sớm để gói bánh và làm đồ ăn sáng cho tôi. Tới giờ đi học bà tiễn tôi ra tới tận ngoài đường, chờ cho tôi đi bộ khuất hút rồi mới về. Bà quay vào nhà nấu cơm, để sẵn trong tủ lạnh cho tôi chiều về ăn, sau đó đem thúng bánh đi xe bus ra cửa siêu thị ngồi bán.

     Hình ảnh bà già quê mùa mặc áo bà ba theo kiểu miền quê Việt Nam ngồi bên cạnh rổ bánh lá mời khách qua lại mua làm tôi thương muốn rơi nước mắt. Bà tôi không cho phép tôi ra chỗ bà bán, sợ tôi mắc cở với bạn bè. Thế nhưng tôi không sợ mắc cở, nếu bà tôi đã có thể đi bán như vậy để nuôi tôi thì tôi càng cảm động và thương bà tôi nhiều hơn. Thỉnh thoảng, nếu đã làm bài xong, tôi ra phụ bà dọn hàng và đón bà về nhà. Bà không nói, nhưng qua ánh mắt rạng niềm vui và khuôn mặt hớn hở mỗi khi thấy tôi, tôi biết bà tôi mừng lắm.

     Nơi khu phố Bolsa, trong khi người người ăn mặc đẹp đẽ qua lại dập dìu, xe cộ nhãn hiệu mắc tiền chạy như mắc cửi, thì bà tôi, đội nón lá chùm khăn quê mùa, ngồi bên vỉa hè mời khách qua đường mua bánh. Tôi nghĩ, đa số những người mua bánh của bà là vì thương hại hơn là vì lý do nào khác. Đôi khi có người chạnh lòng thương, gợi chuyện hỏi thăm, bà tôi chỉ cười nói “Con cháu tôi đi làm cả ngày, tôi ở nhà buồn, nên ra đây bán cho vui đấy mà, đâu phải nghèo nàn gì.” Bà tôi hiền lành, dễ thương thân thiện, riết rồi bà và đám bạn hàng trở thành những hình ảnh thân quen mỗi ngày trước cửa chợ.  

     Năm tôi khoảng mười tuổi, một lần chị Vân Anh con của cô Ba, lớn hơn tôi hai tuổi, kéo tôi ra bên cạnh lớp học nói khẽ thì thầm vào tai tôi một cách bí mật:
- Hôm qua trong giờ ăn chiều, chị nghe ba má chị nói chuyện, nhắc đến mẹ em. Nghe như chị hiểu họ nói mẹ em đi lấy chồng khác rồi chứ không phải đi làm xa. Mẹ em sẽ không về đâu.
     Tôi đứng dựa lưng vào tường, lặng người không nói gì. Nước mắt tôi chảy ra. Chị Vân Anh nhìn tôi ái ngại. Một lúc sau chị vỗ vai tôi ra giọng kẻ cả:
- Đừng buồn. Mai mốt em lớn, chị sẽ dẫn em đi tìm mẹ.
     Sau khi nghe chị Vân Anh tiết lộ tin bí mật, tôi trở nên thẩn thờ. Nguyên ngày hôm đó tôi không còn tâm trí gì học hành.

     Đến bữa ăn chiều, tôi ngồi nuốt không nổi đồ ăn. Ngập ngừng mãi tôi mới hỏi bà tôi, muốn kiểm chứng những gì tôi mới nghe được. Bà tôi không trả lời đúng hay sai, chỉ hỏi tôi ai kể cho tôi nghe. Nghe xong bà ghạt đi, nói con nít nghe không đúng, chị Vân Anh chỉ ăn nói tầm bậy tầm bạ. Sau đó bà lảng sang đề tài khác và không hề nhắc tới chuyện đó nữa.

     Ngày hôm sau chị Vân Anh lên trường gặp tôi tấm tức. Chị nói chị bị cô Ba phạt vì tội con nít đã dám nghe lén chuyện người lớn mà còn đi nhiều chuyện. Chị ức lắm, mím môi trợn mắt cam đoan với tôi những gì chị nghe được hoàn toàn chính xác:
- Mai mốt chị nhất định dẫn em đi tìm mẹ em để hỏi cho ra lẽ, ở nhà không ai nói thật cả.
     Mấy tháng sau ba tôi về. Như thường lệ, ông chỉ hỏi han tới tôi qua loa, cho tiền, rồi đi la cà các quán cà phê hay quán bar với bạn bè mỗi ngày. Chắc bà tôi đã kể cho ba tôi chuyện tôi hỏi hôm nọ, cho nên một hôm ông dẫn tôi ra tiệm đồ chơi. Sau khi mua cho tôi một món mắc tiền, ông dẫn tôi ra công viên. Hai cha con ngồi trên ghế đá ném bánh mì cho chim bồ câu ăn. Ba tôi nói với tôi rằng khi nào tôi lớn hơn chút nữa, ba tôi sẽ kể chuyện mẹ tôi cho tôi nghe.

     Tôi lại có thêm cái để đợi. Xưa nay tôi vẫn đợi cho mẹ về, bây giờ lại thêm đợi ba kể cho nghe chuyện của mẹ.

     Phải đợi mãi đến năm tôi mười bốn tuổi ba tôi mới chịu kể cho tôi nghe. Ông dẫn tôi ra công viên như lần trước và kể cho tôi nghe câu chuyện mà tôi đã mong mỏi muốn biết bao nhiêu năm qua. Ba tôi nói, thật ra mẹ tôi đã bỏ gia đình đi lấy chồng khác. Mẹ tôi không muốn nuôi con nên chịu ký giấy cho ba tôi được toàn quyền nuôi tôi. Mẹ đi theo người yêu mới đến tiểu bang khác sinh sống và bao năm nay đã không liên lạc gì với chúng tôi. Lúc đầu mẹ có cho địa chỉ để ba tôi liên lạc, nhưng sau này thì dọn đi chỗ nào khác cũng không báo. Thư ba tôi gửi đi thì bị trả lại, điện thoại gọi thì số đã cắt không còn. Ba tôi nói ông cũng không buồn đi tìm, ông không cần sự cấp dưỡng con cái từ mẹ. Còn tôi, ông nói thêm, có người mẹ như vậy thì cũng nên quên đi coi như không có.

     Sau khi nghe ba tôi kể câu chuyện, mắt tôi ráo hoảnh, tôi không  khóc như tôi đã tưởng. Thật ra tôì đã chuẩn bị tư tưởng cho mình từ bao năm qua rồi. Bao năm, tôi đã đặt ra biết bao là giả thuyết trong đầu về sự ra đi của mẹ tôi. Nào là bà đã chết, nào là bà đã về lại Việt Nam, nào là bà là tội nhân bị truy lùng nên phải trốn tránh. Sự thật mà ba tôi kể cho tôi nghe đã không quá khủng khiếp như những lý do tôi đã nghĩ trong đầu. Ít ra, tôi biết mẹ tôi còn sống và có một đời sống bình thường trên xứ Mỹ.

     Lúc đó tâm trạng tôi cảm thấy giải thoát hơn là đau đớn. Cuối cùng tôi đã biết sự thật về mẹ, tôi đã giải toả được câu hỏi mà tôi mang bên người trong suốt bao năm qua. Người  khóc lúc đó không phải là tôi, mà là ba tôi. Nước mắt ông rơi rớt xuống ướt vai tôi. Tôi không  biết những gọt nước mắt của ba tôi lúc đó là để thương cảm cho tôi, hay thương cảm cho chính mình.

     Tôi an ủi ba tôi, nói tôi đã lớn và đã hiểu. Tôi khuyên ba nên bước đi bước nữa, ông nên làm lại cuộc đời, mười năm qua đi đã quá đủ cho ông để sống cuộc đời đơn độc như vậy.

     Thật ra ba tôi không cần lời khuyên của tôi, mấy năm rồi đi qua lại Việt Nam ông đã có quen người đàn bà khác. Chỉ ít lâu sau ngày hôm đó, ba tôi đã bảo lãnh vợ mới qua Mỹ. Hai người dọn nhà ra ở riêng. Tôi vẫn ở với bà, ba tôi thường xuyên ghé thăm bà và tôi.

     Càng lớn, tôi càng nhận thức được hoàn cảnh gia đình. Ba tôi đã có đời sống và gia đình riêng của ông. Mẹ tôi đã đi lấy chồng và có lẽ sẽ không bao giờ về nữa. Tôi đau đớn trong lòng, tự hỏi sao mẹ tôi đi lấy chồng lại không mang tôi theo. Có người mẹ nào trên đời lại bỏ con như vậy. Người ta có lấy chồng khác thì cũng vẫn nuôi con, vậy mà mẹ tôi nỡ bỏ tôi. Tôi thiết tha mong một ngày nào đó khi tôi lớn lên, tôi sẽ tìm được mẹ để hỏi mẹ tôi một câu hỏi, câu hỏi mà tôi vẫn ấp ủ trong lòng nguyên cả thời niên thiếu của mình, “sao mẹ nở bỏ con lấy chồng:?”

******************************

Nhật Ký Người Mẹ

     Khi con tôi lên bốn tuổi, tôi rũ áo bỏ chồng bỏ con đi lấy chồng khác. Tôi là một người mẹ đáng nguyền rủa, nhẫn tâm và vô lương.

     Ngày xưa vì không cam lòng sống cuộc đời gái quê xã cầu Xập, tôi đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi đời sống buồn tẻ quê mùa đó.

     Tôi không biết đối với người khác, cái mã Việt Kiều của anh Bảo bảnh tới cỡ nào hay vóc dáng anh đẹp trai hào hoa ra sao, riêng đối với tôi, anh lúc đó là cơ hội vàng giúp tôi thoát khỏi đời sống miền quê tù túng và thấp kém. Bởi vậy anh Bảo đã chiếm được trái tim của tôi, một cô gái mới lớn miền quê vùng cầu Xập, ngay trong lần gặp mặt đầu.

     Ở cái tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống và ước mơ, lại thêm có chút nhan sắc, tôi không cam tâm sống cuộc đời thôn nữ. Tôi không muốn nhìn đời mình trôi qua trong tẻ nhạt buồn bã, lấy chồng, sanh con, tiếp tục sống hết từ thế hệ này qua thế hệ kia như cuộc đời của mẹ và bà ngoại tôi trước đó.

     Bao nhiêu trai trong vùng theo tôi, nhưng cô gái quê thanh xuân có chút nhan sắc chỉ mơ ước một ngày được thoát khỏi cái xã cầu Xập đầy tẻ nhạt và quạnh hiu. Thật ra tôi chẳng dám mơ ước xuất ngoại như bao người khác, tôi chỉ mong một ngày được vươn cánh bay tới Sài Gòn hoa lệ, sống cuộc đời nơi phồn hoa đô thị, người xe tấp nập, tiện nghi sẵn có.

     Thế rồi sự xuất hiện của anh Việt kiều theo bạn về quê chơi đã vượt hơn khỏi những gì tôi mơ ước. Anh Việt kiều về vùng cầu Xập giống như một Bạch Mã Hoàng tử đến với nàng công chúa lọ lem vùng nông thôn quê mùa. Hoàng tử bạch mã mặc quần Jean Mỹ, áo hàng hiệu đắt tiền, chi tiền như nước, chàng như ánh nắng mùa xuân về rọi sáng cái thôn quê ảm đạm mà tôi tưởng tôi sẽ chôn chân đến mãn đời.

     Tôi đã yêu anh Bảo say mê. Anh không đẹp trai, anh không cao ráo, nhưng anh có cái nhãn hiệu Việt kiều. Vậy là quá đủ, chỉ chừng đó thôi, anh đã đủ sức chiếm trái tim của tôi và đánh bại hết tất cả các anh chàng khác chung quanh.

     Anh Bảo nói với tôi, ngay hôm mới gặp tôi trong đầu anh đã có ý tưởng tôi là người anh muốn lấy làm vợ. Đây thật đúng là loại tiếng sét ái tình mà người ta thường diễn tả. Một loại sét ái tình mà người đang yêu không cần biết đến lý do tại sao mình yêu.

     Hai đứa chúng tôi nhanh chóng trở thành một cặp tình nhân đậm đà. Cái viễn cảnh một ngày được theo chồng về Mỹ, cộng thêm những lời vẽ vời của người yêu, tôi cảm thấy mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Niềm hãnh diện có người yêu Việt kiều khiến tôi mù quáng không đi tìm hiểu sâu xa bản thân và quá khứ của người mình yêu. Tôi không buồn biết tại sao anh Việt kiều này mỗi lần về nước thì ở đến năm sáu tháng mới quay về Mỹ.

     Một cuộc tình kết hợp nhanh chóng được đi theo sau bởi một đám cưới cũng nhanh chóng như vậy. Chỉ trong vòng một năm, đám cưới của chúng tôi đã diễn ra. Anh Bảo bàn với tôi, nói hãy làm đám cưới nho nhỏ, để dành tiền về bên Mỹ làm đám cưới lớn. Tôi nghe lời anh nói cũng đúng, nên chỉ tổ chức một đám cưới đơn giản nho nhỏ. Tôi tuy có thất vọng vì đám cưới không được to lớn linh đình như lòng mơ ước, nhưng nó cũng không khiến tôi mất đi niềm hãnh diện. Đám trẻ nhỏ trong xã bu chật cửa nhà tôi tò mò xem đám cưới Việt Kiều.    

     Đám cưới đã tổ chức hơn một năm mà chẳng thấy anh Bảo đả động gì tới việc bảo lãnh vợ sang Mỹ.  Tôi có hỏi thì anh lần lữa viện cớ trục trặc giấy tờ này giấy tờ kia. Anh về Việt Nam ở một lần mấy tháng, tôi hỏi anh sao không về Mỹ đi làm, anh nói anh làm thâm niên nên có nhiều ngày nghỉ phép, được về lâu chơi. Tôi tin anh, không cật vấn gì hơn, nhưng càng lúc càng nóng lòng muốn được sang Mỹ. Tôi ép anh mãi, giận dỗi, lẫy hờn, cuối cùng thì anh Bảo cũng chịu thua và làm giấy bảo lãnh vợ.

     Tôi vui mừng khôn tả, giấc mơ của tôi đã trở thành sự thật. Tôi cuối cùng đã có thể thoát ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu miền quê để chuẩn bị bước vào đời sống mới nơi một quốc gia tây phương văn minh tiến bộ, tràn đầy tiện nghi vật chất và thú vui cuộc đời.

     Thế nhưng niềm vui của tôi không kéo dài được bao lâu, ngày bước chân đến Mỹ là ngày tôi đương đầu với hiện thực. Anh Bảo không có gì như tôi tưởng. Anh không có tài sản, không có nhà cửa, không công ăn việc làm. Anh ở chung với mẹ trong một căn nhà thuê một phòng chật hẹp. Việc làm của anh không ổn định. Không học vấn cao, không bằng cấp, không nghề nghiệp chuyên môn, anh làm đủ mọi việc vặt vãnh mà anh có thể kiếm được, hết việc phụ xây dựng cho người chủ này, đến phụ kho khuân vác cho các siêu thị người Việt Nam kia. Chiếc xe anh làm chủ là một chiếc xe lâu đời cũ kỹ, sơn đã phai màu. Đi xe giữa đường nếu có đậu lại cũng không dám tắt máy, sợ tắt rồi thì đề máy không nổ nữa.

     Nhà chỉ có một phòng, mẹ chồng tôi phải nhường căn phòng duy nhất cho con trai và con dâu, bà ra phòng khách ngủ. Thật ra mẹ anh Bảo mới là người đứng tên mướn căn nhà đó. Bà cụ có tiền trợ cấp của chính phủ, cộng thêm tiền trợ giúp mướn nhà, bà cụ cho con trai về ở chung, mẹ ở trong phòng, con trai ngủ ngoài phòng khách. Từ ngày có tôi sang, bà cụ không ngần ngại nhường luôn phòng mình cho vợ chồng tôi.

     Tôi như người rớt từ trên cao xuống, cú sốc tâm thầm khiến tôi chới với. Tôi khóc thầm, tôi ủ rủ, tôi than thở riêng cho bản thân. Tôi chẳng quen ai để có thể thở than tâm sự. Tôi không cam lòng, tôi đã tìm đủ mọi cách để có được một cuộc sống đầy đủ vật chất. Tôi không cam lòng lại bước vào cuộc sống mới khác cũng không khác gì như cũ. Anh Bảo dường như áy náy trong lòng. Anh không ngừng an ủi tôi, khuyên tôi ráng chịu đựng, anh sẽ cố gắng kiếm việc nhiều tiền để tôi có một cuộc sống khá hơn.

     Mẹ chồng tôi là người tốt bụng và dễ thương. Thấy tôi buồn bã, ít nói, ít cười, bà tưởng tôi nhớ nhà và nhớ Việt Nam nên an ủi tôi nhiều, cố gắng tìm mọi cách làm cho tôi nguôi ngoai.

     Nhớ nhà và nhớ Việt Nam thì quả thật tôi có nhớ, nhưng chán chường và thất vọng vì hoàn cảnh sống mới chính là nguyên nhân khiến tôi bi thảm. Cũng may hàng xóm chung quanh đều là người Việt Nam nên tôi cũng thấy đỡ.

     Hầu hết những căn nhà trong khu đường nhà anh Bảo đều là người Việt Nam. Nghe kể lúc trước khu này toàn là người Mỹ ở. Sau này, mỗi khi có một căn nhà dựng bảng bán, thì người vào hỏi mua lại là người Việt Nam. Riết rồi chỉ trong vòng mười năm, cả khu đều là người Việt Nam. Nghe nói chỉ còn hai căn nhà cuối đường là hai căn nhà cuối cùng có người Mỹ ở. Họ là hai cặp vợ chồng Mỹ già đã về hưu.

     Tôi qua mấy tháng cũng không cần nói tiếng Mỹ, chung quanh tôi ai cũng người Việt Nam. Mỗi sáng, tôi thấy mấy cụ lớn tuổi rủ nhau ra trước sân tập Thái Cực quyền hay chí công gì đó. Trong ngày, nếu rảnh rỗi các cụ lại ghé nhà nhau chơi ngồi tán chuyện trong nhà ngoài ngõ. Thật ra tiếng Mỹ không biết nói, xe không biết đi, con cháu đi làm cả ngày, các cụ ở nhà sao lại không rảnh. Tôi còn nhận thấy đời sống ở xóm này chẳng khác gì đời sống ở Việt Nam, hàng xóm chung quanh chạy qua chạy lại gõ cửa nhà nhau chỉ để hỏi mượn chút nước mắm hay chút muối là chuyện mỗi ngày. Hàng xóm thân thiện như vậy, người mới từ Việt Nam qua như tôi cũng cảm thấy dễ ở.

     Ở được một thời gian tôi quen được chị hàng xóm gần đó. Nghe tôi kể lể tâm sự, chị khuyên tôi nên chịu đựng, chừng nào tôi chưa có quốc tịch, anh Bảo vẫn có thể bỏ tôi và lúc đó tôi sẽ bị trả về Việt Nam.

     Nghe thấy chữ bị trả về Việt Nam, tôi quả thật đâm sợ. Nếu bắt tôi phải quay lại xã cầu Xập lúc này, tôi thà ở lại Mỹ. Thứ nhất, nếu cả làng xóm thấy tôi quay về mà vẫn nghèo rớt mồng tơi như ngày xưa, họ sẽ cười tôi đến mất mặt. Còn nữa, nói gì thì nói, đời sống ở bên Mỹ vẫn nhàn nhã hơn ở Việt Nam nhiều. Nhà anh Bảo tuy nghèo thiệt, nhưng tiện nghi vật chất đầy đủ, tủ lạnh, tivi, microwave cái gì cũng có. Giặt và phơi quần áo đều bằng máy, tôi không phải ngày ngày mang đồ ra giặt ở bờ sông rồi căng ra phơi rào như lúc ở quê. Cơm thì cứ bỏ nồi cắm điện là có ăn. Đi đâu cũng đi bằng xe. Nói chung tôi không phải cực khổ lam lũ như những ngày trước nữa.

     Sang Mỹ một thời gian ngắn thì tôi có mang và sanh con. Tuy đứa con ra đời là niềm vui của cả gia đình ngay cả bản thân tôi, tôi không khỏi không cảm thấy đứa bé sẽ cản bước chân còn đang bay nhẩy của tôi. Tôi còn quá trẻ để phải ngồi nhà mỗi ngày trông con, làm việc nhà. Mảnh trời xanh nước Mỹ còn quá cao và quá rộng cho bà mẹ trẻ chôn chân trong nhà làm bổn phận người mẹ. Mỗi ngày, tôi ôm con thơ vào lòng hát ru con ngủ, tình thương con dạt dào trong lòng. Tôi hôn con, nựng nịu con, nhưng mắt tôi không khỏi không nhìn ra cửa nơi xe cộ chạy dập dìu qua lại, trong đầu cố hình dung ra những bí ẩn nơi thế giới bên ngoài.  

    Anh Bảo khuyến khích tôi tập lái xe và đi làm. Anh nói, bên Mỹ đàn bà như đàn ông, ai cũng đi làm. Tôi đi làm sẽ giúp được kinh tế gia đình, chúng tôi sẽ có thể dọn ra riêng hay mướn căn nhà lớn hơn, và tôi cũng có tiền riêng tiêu xài hay gửi về cho gia đình ở Việt Nam. Thật ra anh Bảo không cần phải khuyến khích tôi làm việc đó. Xưa nay tôi vẫn có ý định đi làm một khi có điều kiện.

     Người ta nói nước Mỹ là nước của cơ hội nếu mình chịu khó và cố gắng, điều đó quả thật là đúng. Con tôi chỉ được vài tháng thì tôi đã lấy được bằng lái xe và đi làm. Tôi đã có thể tự mình kiếm tiền. Biết lái xe, đi làm có tiền, có thể nói bập bẹ tiếng Mỹ để giao dịch hàng ngày, tôi như con chim mọc thêm cánh, con chim bắt đầu biết bay, thấy mảnh trời xanh trên đầư mình hình như cao hơn, rộng hơn.

     Tôi đi làm để con ở nhà cho má anh Bảo trông coi. Bà cụ thương thằng bé thiết tha nên tôi rất yên tâm. Con trai tôi ngoan ngoãn lạ lùng, nó không phá và dễ dạy. Mẹ đi làm cả ngày nó chẳng khóc, ở nhà với bà suốt ngày. Tối đến khi tôi về nhà thì nó chạy ra cửa đón tôi mừng rỡ, đôi mắt to tròn của nó sáng lên niềm vui mừng. Nó ôm lấy chân tôi, dơ tay đòi bế. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất trong ngày của tôi, sau những giờ làm việc mệt nhọc bên ngoài.

     Có tiền, tôi dư giả may sắm quần áo trưng diện, con người đẹp thêm ra. Anh Bảo nói trông tôi còn đẹp hơn cả lúc còn ở Việt Nam. Lại thêm là gái một con, thân hình nẩy nở, tôi như đóa nở rộ rực rỡ.

      Trong khi đó, anh Bảo sau khi về Mỹ vẫn tiếp tục đi làm những công việc tạm bợ qua ngày như lúc xưa. Tiền lương anh đem về chỉ đủ cho hai vợ chồng tiêu xài, không đủ để mướn căn nhà khác lớn hơn. Cái đám cưới lớn linh đình mà anh hứa hẹn lúc ở Việt Nam dĩ nhiên chỉ là lời hứa xuông. Càng ở lâu, tôi càng cảm thấy anh Bảo không phải là một người ‘hùng” như ngày xưa tôi vẫn thường tôn sùng trong đầu. Với tôi, anh bây giờ là một người đàn ông tầm thường từ nhân dáng tới sự nghiệp. Một người không có tài cán, không có chí phấn đấu và không có được một việc làm vững chắc để nuôi vợ con. Tôi cảm thấy mình vừa thoát khỏi một cuộc đời bế tắc không lối thoát ở xã Cầu Xập, sang một cuộc sống bế tắc không lối tiến khác ở xứ người. Người đàn bà trẻ có nhan sắc lại một lần nữa cảm thấy chán chường và thất vọng.

     Công việc làm đã giúp tôi hội nhập vào đời sống bên ngoài, và tôi đã rơi vòng tình ái với người khác. Anh Đức là ông chủ tiệm của tôi, chúng tôi đã yêu nhau. Tôi yêu anh Đức say đắm điên cuồng. Người yêu mới của tôi đã ly dị vợ. Anh có tiền, có tài sản, có cơ sở làm ăn. Anh hào hoa phong nhã, biết tình điệu lãng mạn, lễ tình nhân hay sinh nhật đều có hoa hồng và những món quà đắt tiền tặng tôi. Thế là tôi đã lao vào cuộc tình mới không đắn đo không suy nghĩ.

     Chỉ trong vòng hơn một năm ngụp lặn trong tình yêu, chúng tôi muốn sống chung với nhau. Anh Đức muốn tôi bỏ chồng để lấy anh, tuy nhiên anh kèm theo một điều kiện, nếu tôi ly dị chồng lấy anh, tôi phải để con lại, không mang con theo. Anh Đức nói anh yêu tôi tha thiết và có thể làm bất cứ việc gì cho tôi nhưng anh chưa đủ rộng lượng để nuôi con người khác. Anh còn bàn tính cho tôi thấy kế hoạch của anh. Sau khi tôi đã ly dị chồng, anh sẽ đem tôi qua tiểu bang khác sống. Anh sẽ thành lập cơ sở làm ăn khác ở đó. Chúng tôi sẽ vứt bỏ hết quá khứ lại sau lưng để làm lại một cuộc sống mới và một thế giới mới của riêng chúng tôi.

     Tôi đã sống trong dằn vặt đắn đo. Tôi đã suy nghĩ bao ngày nhức óc không lối thoát. Mỗi ngày ôm con tôi tự hỏi mình phải nên làm gì. Tôi nói anh Đức hãy cho tôi một thời gian, khi nào con tôi đi học thì tôi sẽ có quyết định. Thế nhưng tôi đã không có cơ hội chờ cho tới ngày con tôi đi học. Anh Bảo đã sinh lòng nghi ngờ và đã bắt đầu hạch sách tôi. Anh chưa bắt được quả tang tôi ngoại tình nhưng cảm giác của anh cho anh biết tôi đang làm điều đó. Anh bắt tôi nghỉ làm, đi kiếm việc khác.

     Tôi và anh Đức đang yêu nhau say đắm, chúng tôi không muốn mất nhau. Ngoài ra, tài sản anh Đức nhiều, anh giầu quá, tôi muốn có được chúng. Tôi đã gặp một người đàn ông đúng như tôi mơ ước, tôi không đành lòng bỏ. Tôi không có đường lựa chọn. Anh Bảo ép tôi bỏ việc là ép tôi phải lựa chọn. Và tôi đã làm điều đó. Tôi quyết định sẽ bỏ gia đình đi theo anh Đức.

    Vài tháng sau khi tôi lấy được bằng quốc tịch Mỹ, tôi quyết định ra đi. Tôi mua cho con tôi một con chuột Mickey nhồi bông lớn. Thằng bé xưa nay vẫn mê thích những sản phẩm về Mickey. Tôi để con chuột nhồi bông trên đầu tủ quần áo. Buổi sáng, tôi chuẩn bị đi làm như thường lệ. Con tôi ngày thường vẫn hay dậy sớm. Nó sáng nào cũng đi tìm tôi, chờ cho tôi ôm hôn rồi tiễn tôi ra tận cửa, sau đó dơ tay nói “bye bye”. Hôm đó trước khi đi, tôi ôm con trai tôi thật chặt trong lòng, nước mặt tôi rơi dàn dụa. Tôi cố che mặt không cho nó thấy, tôi hứa thầm với con rằng chỉ một hai năm tôi sẽ quay lại đón nó.

     Thằng bế không hay biết gì, nó dơ tay nói “bye bye mẹ”. Tôi quay mặt đi, vội vã bước ra cửa. Tạm biệt con. Mẹ sẽ về đón con.

     Lòng tôi đau như cắt. Tôi ra ngoài xe gục đầu lên tay lái xe khóc nức nở. Hôm đó tôi đi tới nhà anh Đức luôn không về. Trước khi đi tôi có để lại một lá thư cho anh Bảo giải thích việc tôi làm và xin lỗi anh. Nguyên tuần đó tôi không liên lạc gì với anh Bảo cả. Tôi chờ cho cơn đau của anh được dịu lại. Sau đó tôi liên lạc lại với anh để nói về chuyện ly dị. Tôi đã phụ lòng anh.

--------------------------------

    Tôi ngồi núp trong xe, đeo khăn chùm đầu và cặp mắt kiếng to để không ai nhận ra mình. Tôi ngồi như vậy rất lâu chờ cho chuông nghỉ giải lao của trường reo. Rút cuộc chuông giải lao cũng vang lên, đám học sinh túa ra ngoài sân chơi. Tôi nhướng cổ tìm trong đám trẻ nhỏ đứa con trai mình. Cuối cùng tôi đã thấy nó. Con tôi đó, làm sao tôi không nhận ra. Năm nào tôi chẳng về tìm nó. Năm nào tôi chẳng viện cớ dẫn hai con nhỏ về California nghỉ mát, và rồi tìm cách đi tìm con trai.

     Mẹ chồng tôi vẫn còn ở đấy, vẫn ở căn chung cư cũ kỹ ngày xưa. Tôi đậu xe cách nhà một khoảng đợi cho con đi học, rồi lái xe từ từ theo con tới trường. Con tôi vào trường rồi, tôi vẫn đậu xe ở ngoài đường chờ cho tới giờ nghỉ lao để được nhìn thấy con chơi đùa với chúng bạn. Đã bao năm, từ ngày ra đi, tôi chưa hề một lần về gặp nó. Tuy năm nào tôi cũng về, nhưng chỉ là để nhìn con từ xa. Tôi không có mặt nào đối diện với con tôi. Tôi đã bỏ nó đi. Lúc mới đi, tôi tưởng tôi sẽ đi một vài năm rồi sẽ về đón con, nhưng anh Đức đã không cho tôi làm như vậy. Rồi sau đó tôi lại sanh thêm con cho anh Đức. Anh Đức quá ích kỷ, anh chỉ muốn tôi thương yêu con của anh.

     Tôi không dám về đối diện với con trai tôi. Tôi sợ nó sẽ hỏi tôi sao mẹ không đón con đi với mẹ. Tôi sẽ trả lời con sao đây? Có ai hiểu cho lòng tôi. Tôi biết người đời ai cũng sẽ nguyền rủa tôi là người đàn bà tham tiền, lăng loàn bỏ chồng bỏ con. Tôi chỉ xin con tôi hiểu một điều, tôi thương con tôi vô cùng, và mong con tôi sẽ tha thứ cho tôi.

------------------------------------------------
    
     Năm nay tôi lại về lén trộm nhìn con. Thằng bé mau lớn quá. Mới có từ năm ngoái đến nay mà nó đã cao hơn cả cái đầu.  Tôi ngồi trong xe nhìn con trong sân trường, nước mắt tôi ứa ra. Chỉ có một khoảng cách ngắn từ xe tới sân chơi, nhưng sao tôi thấy nó là cả một đại dương ngăn cách. Tôi thèm được chạy lại bên con và ôm nó vào lòng cho thỏa niềm thương nhớ. Tôi gọi thầm trong lòng con ơi, con ơi. Tôi mang tấm hình của con chụp lúc nó còn nhỏ ra coi. Tấm hình này tôi đã mang theo với tôi từ ngày tôi bỏ con đi. Ngày nào, khi không có anh Đức bên cạnh, tôi đều mang hình ra coi cho thoả lòng thương nhớ. Tôi hôn lên hình con mà không cầm được nước mắt.

     Mấy năm nay gia đình tôi làm ăn khá giả, anh Đức mở thêm nhiều cửa tiệm nhỏ. Tôi đã để dành được tiền riêng cho mình, không cho anh Đức biết. Tôi mong rằng sau này tôi có thể đền bù cho con tôi những gì tôi nợ nó. Tôi không thể trả nợ cho con tôi bằng tình mẹ mà tôi nợ nó. Tôi chỉ có thể lấy tiền bạc đền bù.

*******************************

Kết Thúc

     Đúng như cơ quan khí tượng tiên đoán, những đám mây đen từ ngoài biển đã kéo về che kín bầu trời và chẳng bao lâu thì cơn mưa nhẹ và nhỏ hột đã đổ xuống thành phố.

     Bà tôi kéo tấm màn che cửa sổ nhìn ra ngoài trời lẩm bẩm:
- Sao lại có mưa vào tháng này, đúng là mưa trái mùa. Trái nắng trở trời chỉ làm cho người ta sinh cảm cúm.
     Mưa không lâu, chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ thì tạnh.

     Có tiếng chuông reo gọi cửa, tôi bước ra mở cửa. Trước mặt tôi là một người đàn ông Mỹ quần áo chỉnh tề. Người khách lạ hỏi để được nói chuyện với ba tôi và tôi. Sau khi nghe tôi xác nhận tôi là người ông muốn tìm, nhưng ba tôi thì không có ở đây, người đàn ông đưa danh thiếp tự giới thiệu mình là đại diện cho văn phòng luật sư, muốn hẹn hai cha con tôi lên văn phòng để gặp luật sư.

     Ông chỉ giải thích với tôi vài lời ngắn ngủi:
- Tôi không được phép nói nhiều với cậu ở đây. Cha cậu và cậu khi gặp luật sư sẽ được nghe giải thích cặn kẽ hơn. Tuy nhiên, tôi có thể nói đại khái tổng quát. Cậu có một người mẹ ở tiểu bang xa, bà ta có một trương mục chứng khoán để tên cậu và hàng tháng vẫn bỏ tiền vào trương mục. Trước đây đã lâu, bà có nhờ văn phòng luật sư làm giấy ủy nhiệm để giao chương mục này cho cậu khi cậu được mười tám tuối. Mới đây, bà đã qua đời trong một tai nạn giao thông, nên luật sư mời cậu đến để thông báo cho cậu biết về trương khoản này. Chi tiết ra sao, cậu phải đợi luật sư nói cho cậu hay. Ngoài chương mục chứng khoán, mẹ cậu còn để lại trong hộp thư an toàn một quyển sổ nhật ký cho cậu. Tiền trong chương mục thì cậu phải chờ đến mười tám tuổi mới được tiếp nhận, nhưng quyển nhật ký của mẹ thì cậu có thể lấy về được bất cứ lúc nào.
      Người đàn ông sau đó ra về. Ông ta đi rồi tôi vẫn đứng sững trước cửa, không biết nói gì. Tôi quay nhìn con chuột Mickey nhồi bông, mặt nó hôm nay sao khác lạ. Cái miệng nó vẫn nhếch lên thành hình vòng cung như mọi ngày, nhưng tôi không biết lúc đó nó đang cười hay đang khóc.

     Tôi quay nhìn lên trời, mặt trời đã ló dạng sau những đám mây. Phía bên kia chân trời, bóng cầu vồng với bẩy màu rực rỡ không biết đã mọc lên từ lúc nào. Tôi nhìn mảnh cầu vòng không chớp mắt. Bao nhiêu năm chờ đợi, cuối cùng tôi đã thấy cầu vồng mọc. Tôi ngồi bệt xuống đất, với tay ôm con chuột Mickey vào lòng. Nước mắt tôi rơi ướt thẫm đầu con chuột. Tôi để cho mình được khóc tự do. Ngoài kia ánh cầu vồng vẫn rực rỡ cuối chân trời.  Mẹ tôi đã về như đã hứa.
 




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Feb/2011 lúc 8:43pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2011 lúc 11:19am
SÀI GÒN MƯA VẪN RƠI
Phong Thu
Hạt Sương diễn đọc


Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 18/Feb/2011 lúc 11:23am
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 09/Mar/2011 lúc 10:29pm
Lê Thúy Bảo Nhi


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Mar/2011 lúc 10:34pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2011 lúc 4:52am
KỶ NIỆM MÙ SƯƠNG
Tác giả: Chu Sa Lan
Diễn đọc: Phượng DungNam Phong

http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=673914

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Mar/2011 lúc 9:43pm
CÔ ÁO LỤA HỒNG
Tác Giả: Thạch Lam   
Thứ Ba, 15 Tháng 3 Năm 2011 19:36

Sự kinh nghiệm đã bảo cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất

Hiệp đi thong thả trong phố, mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá. Chàng vừa đi vừa nhìn đám người qua lại tấp nập dưới bóng nắng ấm của sáng mùa thu.

 
 
 
 

Thỉnh thoảng, Hiệp đứng dừng lại trước một cửa hiệu bán đồ trang sức, anh ta sung sướng ngắm nghía những cái mũ phớt mềm mại, những dây lưng đẹp đẽ và những cà vát lụa nhiều màu rực rỡ.

Tuy không có tiền để mua những thứ đó, nhưng trông ngắm không cũng đủ cho Hiệp hưởng mấy cái vui thú của những cuộc đi chơi phiếm.

Nhất là những cuộc đi chơi của Hiệp lại còn có một mục đích khác nữa. Cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, anh ta thắng bộ, nói là đi chơi mát, nhưng chính thực ra chỉ cố để trông ngắm các thiếu nữ Hà thành.

Sự kinh nghiệm đã bảo cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất. Giờ các cô đi sắm sửa quần áo và phấn sáp, nước hoa, một công việc mà Hiệp cho là hợp với tính cách người thiếu nữ hơn cả.

Chính cái sung sướng của Hiệp là được trông thấy một cô thiếu nữ xinh xắn đứng chọn các hàng mẫu để may áo kiểu mới, hay là chọn các thứ phấn và nước hoa đựng trong những cái hộp đẹp đẽ.

Có khi chàng đứng lặng hàng giờ, hay suốt cả buổi sáng trước một cửa hiệu bán tơ lụa để nhìn các cô thiếu nữ mua hàng. Chàng nhìn những mái tóc đen nhánh che lấp vành tai hồng hồng và xinh xắn, những sợ tóc mai lơ thơ trên má phơn phớt, những tấm thân mềm mại hay những tà áo màu tha thướt.

Nếu có một cô nào tươi đẹp đi ra là Hiệp đi theo liền...Đi theo xa xa thôi, mà đi theo một cách kín đáo, không cho thiếu nữ biết. Có khi cứ như thế đi hết phố nọ sang phố kia, rồi đến khi thiếu nữ vào nhà, Hiệp ta còn đứng tẩn ngẩn ở ngoài hè... Nhưng rồi anh ta cũng thấy cái vô vị của sự đứng như thế không có lợi gì. Vì thiếu nữ có biết anh ta theo đâu, mà dầu có biết nữa, chắc cô ta cũng không để ý.

Nhiều lần, theo sau một cô thiếu nữ xinh xắn một thôi đường cũng khá mỏi chân, Hiệp chỉ muốn tiến lên tìm cách làm quen hay nói chuyện với thiếu nữ. Nhưng cái tính rụt rè làm cho Hiệp, khi sắp sửa nói, lại ngượng nghịu, tự thấy câu mình sắp nói không có ý nghĩa gì hết. Thành thử, dưới đôi con mắt ngạc nhiên của thiếu nữ, Hiệp lúng túng rồi lại lùi xuống giữ cái địa vị đi theo như cũ.

Đã nhiều lần Hiệp tự tức mình về cái tính rụt rè ấy. Chàng thấy những anh bạn tự nhiên gợi chuyện với một thiếu nữ chưa từng quen biết ở ngoài phố một cách rất dễ dàng: chàng lẩm bẩm tự cho mình là hèn, nhát, và nhất định lần sau thì sẽ can đảm và mạnh bạo hơn nữa.

Nghĩ như vậy, Hiệp thổi sáo ở giữa phố để lấy cái vẻ dung dị, không cần gì ai, mà chàng thấy các anh em bạn vẫn có, rồi rảo bước đi mạnh về phía bờ hồ.

Chợt chàng đứng dừng ngay lại: một thiếu nữ rẽ đầu xuống phố hàng Gai ra, vừa gặp Hiệp đưa mắt lên nhìn. Một luồng điện như truyền khắp từ đầu đến chân, Hiệp không nhìn thấy gì nữa, chỉ thấy đôi mắt đen nhánh của thiếu nữ và cái màu hồng của tấm áo. Thật chưa bao giờ Hiệp thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp như thế!

 Anh ta cứ bàng hoàng đứng ngẩn người ra như phỗng, quên mất cả cái lễ phép tránh sang một bên để nhường lối cho thiếu nữ đi. Đến khi cô kia đưa cặp mắt ngạc nhiên nhìn anh ta lần nữa, mỉm cười như có ý chế nhạo rồi quay đi, Hiệp mới hoàn hồn, bước theo sau thiếu nữ.

Tấm áo lụa hồng phấp phới bay theo chiều gió, thiếu nữ có một cái dáng điệu mềm mại, khiến Hiệp lấy làm sung sướng rằng đã được gặp một người đẹp. Chàng nhất đinh lần này không để lỡ mất dịp tốt, vừa theo vừa nghĩ kế làm quen với thiếu nữ.

Có lẽ thiếu nữ cũng biết anh ta theo, nên thỉnh thỏang nàng quay lại nhìn Hiệp mỉm cười. Qua phố hàng Ngang, hàng Đường, chợ Đồng Xuân... thiếu nữ rẽ qua hàng Lược, rồi đứng dừng lại trên hè, ngơ ngác nhìn hai dãy phố như người tìm số nhà.

Cố thu hết can đảm trong người, Hiệp bước rảo đến trước mặt thiếu nữ. Chàng ngả mũ chào rất lễ phép:

- Thưa cô... thưa cô...

Thiếu nữ ngẩng lên nhìn Hiệp, lặng yên đứng đợi.

- Thưa cô... thưa cô...

Tự nhiên cái can đảm của Hiệp đi đâu mất cả, Hiệp thấy bối rối, mặt nóng bừng, quên mất không nói câu gì nữa...

Thấy cái vẻ lúng túng của Hiệp, thiếu nữ như có ý thương hại. Đột ngột nàng hỏi :

- Anh Tân đấy à?

Hiệp đứng ngây người ra một lát. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua trong óc Hiệp, một cách có thể thoát khỏi cái thời khắc ngượng nghịu, Hiệp liền liều trả lời :

- Vâng... chính tôi...

Thiếu nữ bỗng có vẻ vồn vã, ân cần, bước lại gần Hiệp, nói :

- Chết chửa! Thế mà tôi không nhận ra đấy. Trông bây giờ anh khác hẳn trước kia, nhớn hơn nhiều...

Rồi nàng chúm chím đôi môi đỏ :

- Mà từ độ ấy đến bây giờ, làm gì anh chẳng nhớn...thưa anh, hai cụ nhà ta vẫn được mạnh giỏi đấy chứ?

Đã chót thì phải chét, Hiệp ngập ngừng trả lời:

- Vâng cám ơn cô, thầy mẹ tôi vẫn được bình thường...

Hiệp hơi lo, chỉ sợ cô ta biết là nhầm không phải, thì thật là bẽn. Nhưng thiếu nữ như không để ý đến cái vẻ lúng túng của Hiệp, cứ điềm nhiên nói tiếp :

- Từ độ anh thôi học trở về, bà tôi vẫn có ý nhớ, thường nhắc đến anh luôn và cứ mong anh ra chơi. Chắc anh ở nhà quê cũng bận lắm đấy nhỉ?

Lần này Hiệp không còn lo nữa. Anh đoán già rằng chắc cậu Tân nào đó trước có ở trọ học nhà cô này, rồi về quê nghỉ, mà nghỉ cũng lâu nên bây giờ cô ta mới nhận nhầm được. Chàng vững dạ, mỉm một nụ cười rất xinh rồi nói :

- Vâng, khi ở nhà quê tôi cũng bận công việc lắm, chẳng đi đến đâu được. Nhớ bà và nhớ... cô quá, lắm lúc muốn ra hỏi thăm nhưng không sao mà rứt ra được...

Thiếu nữ đưa đôi mắt đen lánh nhìn Hiệp rồi thân mật trách :

- Anh thật tệ quá! Lên Hà Nội mà cũng không đến thăm em. Anh không nhớ đến em sao? Hay anh quên em rồi?

Thiếu nữ cúi xuống mỉm cười. Hiệp cảm động trong lòng, âu yếm và lấy giọng dịu dàng :

- Không, tôi không quên em...à, quên cô đâu... không bao giờ tôi quên được...

Chàng cảm động thật, cảm động vì đôi mắt trong của thiếu nữ, đôi mắt tình tứ ngây thơ. Càng trông Hiệp càng thấy thiếu nữ đẹp, nhất là cái miệng xinh xắn, có duyên, chúm chím như tinh nghịch.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Câu chuyện mỗi lúc thêm thân mật, như hai người bạn cũ gặp nhau. Hiệp đóng vai anh Tân nào đó thật là hoàn toàn, trả lời một cách kín đáo... Có khi Hiệp cũng ngập ngừng về một câu nói, nhưng thiếu nữ hình như vui mừng gặp người cũ, không để ý đến gì cả.

Đến lúc chia tay, anh ta đã biết rõ thiếu nữ là Lan, lưu học sinh trường nữ sư phạm. Anh ta lại biết cả số nhà ở hàng Lược và lại được cô hẹn đến chủ nhật sau đến cửa trường học đón cô đi chơi.

Lúc trở về, Hiệp thấy bước chân nhẹ nhàng như người bay. Anh sung sướng tự khen mình đã bỏ được cái tính rụt rè và cảm ơn thầm cái anh Tân nào đó đã cho anh cái dịp làm quen với một thiếu nữ xinh đẹp như thế.

Nhưng Hiệp vẫn có một điều lo: chàng chỉ sợ Lan biết chàng không phải là Tân thì thật rầy rà, chàng lo sợ nghĩ đến lúc Lan mời đến nhà chơi, tuy trong những lúc nói chuyện, Hiệp không thấy Lan đả động gì đến việc ấy cả.

Tuy vậy, Hiệp cũng nhất định nói thật cho Lan biết, một phần vì chàng biết trước không giấu được mãi, một phần vì chàng chắc rằng Lan đối với chàng cũng sẽ tha thứ cho cái sự giả dối bất đắc dĩ ấy.

Hôm ấy gặp Lan, Hiệp cảm động, hồi hộp, cầm tay Lan rồi lưỡng lự nói:

- Em Lan, anh có câu chuyện muốn nói với em...

Lan nhìn Hiệp, chớp mắt nhanh, như nghĩ ngợi một chút, rồi mỉm cười cũng nói:

- Anh Tân, em cũng có câu chuyên muốn nói với anh...

- Chuyện gì, em cứ nói đi.

- Không, anh nói trước.

Hiệp lại ngập ngừng:

- Câu chuyện của anh... em tha thứ cho nhé. Hôm ấy, anh đã nói dối em, vì anh...không phải là Tân!

Lan cười ròn vui vẻ, đáp:

- Em cũng không phải là Lan!

Thấy Hiệp mở to đôi mắt, ra dáng không hiểu, nàng tiếp thêm:

- Em không phải là Lan của anh Tân, mà của anh cơ! Nghĩa là... em biết anh không phải là Tân.

- Em biết?

- Vâng.

Hiệp ngơ ngác; chàng hỏi :

- Thế là làm sao? Anh không hiểu.

Lan lấy tay che miệng, giảng :

- Có gì đâu. Hôm ấy em thấy anh cứ lúng túng mãi, nên em mới giả vờ hỏi thế cho anh đỡ ngượng, chứ có anh Tân, anh Tiếc nào đâu. Hiệp chợt hiểu, vui vẻ cười.

Một lát, Hiệp sung sướng hỏi :

- Thế em biết anh? Em yêu anh?

- Lan đưa đôi mắt đen láy, ngây thơ nhìn Hiệp :

- Không, em chỉ biết anh theo em, chứ không quen biết anh bao giờ, nhưng em thấy anh cứ ấp úng mãi không nói được câu gì, em thương hại.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Mar/2011 lúc 9:46pm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2011 lúc 4:37am
THƠ NÚI TÀ LƠN


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2011 lúc 4:37am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2011 lúc 1:40pm
CON BẦN                                 

Nhã Ca




Trời mùa đông ở Huế, lạnh cắt da thịt mà con Mận phải dậy từ ba giờ sáng. Bà chủ là cái đồng hồ tốt nhất. Nếu có bữa nào Mận ngủ quên thì cứ đúng giờ bà chủ tỉnh dậy, gọi:

- Con Bần dậy chưa, dậy, xắt chuối cho heo ăn.

Bần là tên cúng cơm của cha mẹ đặt cho. Nhưng Mận không hề biết cha mẹ mình là ai. Ông chủ nghe cái tên Bần, kỵ, sợ có cái nghèo trong nhà, nên mới sửa lại tên Mận. Bà chủ quen miệng, cứ gọi là con Bần. Tên Mận ngọt ngào thanh lịch đâu có hợp cho một con ở đợ.

Đâu chỉ có xắt chuối không thôi. Nấu cơm bằng củi ướt, thổi, khói xông hai con mắt đỏ lòm, sưng húp, nước mắt chảy ràn rụa. Hồi còn nhỏ, hai con mắt Mận luôn luôn có hai cục ghèn. Cậu chủ sợ lắm, hễ con Bần bưng cơn vô phòng học cho cậu là cậu gớm, không chịu ăn. Bà chủ lại chửi:

- Con quỉ, mi bưng cơm vô cho cậu thì phải rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, nghe. Xòe bàn tay coi.

Con Bần xòe tay, lúc nào cũng bị gõ mấy cây thước đau điếng.

- Đồ nhớp nhúa.

Nấu cơm hay cháo bữa sáng, xong rồi, tay nách một cái thau, đầu đội một cái thau nữa đựng quần áo dơ đi xuống sông giặt. Mùa đông khổ hết biết, nước lạnh như băng, xà phòng không có, giặt bằng trái mù u. Xát bọt mù u với cục đá lên quần áo, chà mòn nhám cả tay. Chưa kể mỗi ngày phải cầm cái búa bửa củi, rồi chẻ củi thành từng thanh nhỏ. Và để tiết kiệm, con Bần còn phải cầm cái cào đi cào lá khô đem về nấu nướng, bởi vậy, hai bàn tay của con Bần sần sùi, lúc nào cũng có vết đứt, trầy trụa, có khi mưng mủ, cả đêm đau nhức không ngủ được. Hai con mắt nó gần như bị bét nhèm, vì thổi ống khói cho củi cháy lên, nhất là mùa đông, lá cây, củi mục gì cũng ẩm ướt, hai con mắt nó bị um khói chín nhừ.

Mặt con bé buồn lắm, duy nhứt có đôi mắt tròn xoe, đen nhánh và cái mũi cao, kín đáo. Có lần, một ông thầy tướng tới coi cho cậu chủ, con Bần pha nước hầu, ông thầy ngó nó:

- Con ni thiếu niên tân khổ nhưng qua tuổi ba mươi, nó đổi vận hạn, giàu có lắm chơ không phải chơi mô Bà chủ cười nhạt, không tin. Cái thứ dân bần tiện này, nếu bà không nuôi, có đi ăn mày, ăn cắp mà sống, đôi khi cũng chết tấp trong bờ bụi, kiến bu rồi.

Con Bần thuộc lòng câu nói của ông thầy tướng để an ủi mỗi khi làm lụng cực quá hay bị mắng chửi, ăn đòn. Từ nhỏ tới lớn, con bé ăn đòn đếm không hết số. Và mỗi lần bà chủ giận là người mẹ của Bần bị đem ra biêu riếu. Theo lời bà chủ thì Bần là con hoang, mẹ gính nước thuê, không biết nhẹ dạ với ai mà có mang. Đẻ con ra nhưng nuôi không nổi, gặp năm đói đã bỏ con nhỏ đầu làng, trốn đi. On nhỏ bị kiến bu, người tím bầm. Ông chủ thương tình đem về nuôi, và bà chủ huấn luyện thành con ở.

- Cái thứ đó rồi cũng y như con mạ nó, đoảng hậu rứa thê!

Ăn toàn canh thừa cá cặn, lại ăn không đủ, mặc không ấm, năm mười sáu tuổi con Bần cũng lớn lên được, nhưng gầy nhom, nhìn thấy cả bộ xương. Có điều, không biết ai gây giống mà con Bần có cặp mắt đẹp quá, đen láy, hễ giương mắt nhìn ai là người đó không thể ngoảnh mặt làm ngơ, trừ bà chủ lòng sắt dạ đá. Bạn bè của cậu chủ tới chơi, thấy con Bần ngộ quá, cũng tấm tắc:

Coi con ở nhà mi ưa mắt lắm nghe. Con mắt nó đẹp quá.

Cậu chủ làm nghiêm:

- Nó là con ở, tụi bây đừng bắt thang cho nó leo.

- Làm ra vẻ ông cụ há. Thôi mi ơi, đã nói trong nhà gì đẹp bằng sen...

Con Bần ra đằng sau nhà, có cái lu nước mưa, cúi xuống soi mặt.Õ Trong lu nước, cặp mắt nó nhìn lại nó và nó cười. Có cả áng mây từ trên t.rời in trong đáy lu nước nữa. Nó đưa tay vọc, mắt nó tan, mây tan. Nó đứng sửng, muốn soi mặt mình lại lần nữa cũng không được. Nó thương đôi mắt nó lắm, ai đã cho nó hai con mắt đó vậy?

Nghe nói lúc xưa, Bần có người mạ, bỏ con mà đi. Bần đã một lần trốn nhà, muốn tìm mạ. Đi suốt mấy ngày qua làng bên, đói quá phải bò về, để lãnh đòn thí chết. Sau lần đó, gia đình chủ dọn lên thành phố, vì cậu chủ phải ăn học. Bần không còn hy vọng tìm ra mạ mình nữa.

Gia đình chủ chỉ có một cậu con trai. Năm đó cậu thi đỗ tú tài, nhà rấp rem muốn cưới vợ cho cậu. Ông bà chủ có một người bạn quen biết đâu hồi mới lên thành phố làm ăn mua bán, thường tới lui thăm viếng, coi bộ hạp ý hạp tình lắm. Nhà này có tới bốn chị em gái, nghe nói cô nào cũng giỏi giang. Vậy là hai nhà đi lại, sắp làm thông gia với nhau. Con Bần nghe chuyện, tò mò lắm, muốn biết mặt đứa con gái may mắn đó là ai. Khi gặp, nó thất vọng, vì cô gái đó không nhan sắc mặn mà, chỉ vì con nhà giàu có.

Lên thành phố ở, ông chủ bà chủ mãi mê chuyện làm ăn. Họ có một cửa hàng ở trên phố mà nhà thì ở Vỹ Dạ. Cậu chủ đi học bằng xe đạp, và mỗi lần trời mưa, dẫn xe về, cậu chủ đều bảo con Bần:

- Bần, xe tao nhớp quá, mày rửa sạch dùm tao.

Con Bần chùi rửa chiếc xe láng cóng. Cậu chủ thích lắm, tập cho con Bần biết đi xe đạp. Đạp chiếc xe đạp con Bần sướng rơn, coi sang trọng quá, đâu phải giống như con ở nữa. Nhưng biết đi xe đạp rồi, cậu Thanh sai suốt ngày, đi mua thuốc lá, đi bỏ thư, đi trả sách nhà bạn cậu. Lúc này nhà vắng người, cậu chủ muốn nói chuyện cũng chỉ nói chuyện với con Bần. Riết, có chuyện gì khẩn cấp cậu cũng nhờ Bần lọ Bữa nọ, cậu Thanh biểu:

- Bần, mi đưa cái thư tới nhà cô Trâm dùm tao chút được không?

Con Bần được ra khỏi nhà là mừng rồi. Nó hăng hái:

- Dạ được, cậu.

- Mi đừng vô nhà, nhà đó chó dữ lắm. Mi đứng đầu đường, chờ lúc cô nớ đi học, mi đưa thư là được.

- Tui nói mần răng?

- Nói của cậu Thanh là không có chuyện chi hết.

Vậy ra, cậu Thanh vợ đã đi hỏi mà còn trai gái. Mấy lần như vậy rồi, họ hẹn hò gặp nhau. Con Bần cũng lấy làm vui vì chứng kiến hai người, người nào cũng đẹp, xứng đôi vừa lứa lắm. Cậu chủ, bớt coi rẻ rúng con ở, vì lúc này, Bần cũng trổ mã, đẹp ra, mặc dù thân hình gầy nhom, nhưng cặp mắt đẹp lạ lùng. Cô Trâm còn phải khen:

- Con ở nhà anh có cặp mắt đẹp quá. Coi chừng anh...

Cô cười rúc rích. Thanh nghiêm mặt:

- Đẹp cũng là con ở. Em nói chi lạ rứa!

Lại trong nhà gì đẹp bằng sen, cô Trâm nhắc và cười khúc khích.

Bữa đó con Bần tủi thân lắm. Nó khóc một đêm sưng cả mắt. Sáng ra, cậu chủ nhăn mặt:

- Coi tề. Mi cứ ở nhớp nhúa, coi, hai cục ghèn dính nơi mắt tề...

Con Bần đưa vạt áo lau. Nước mắt nó lại muốn trào ra. Nó buồn cả tháng không hết.

Chuyện của cậu chủ, dù kín đến mấy cũng có lúc hở ra. Ba má cô Trâm tới tận nhà nói chuyện với ông bà chủ. Vậy là cậu chủ thất tình, những lúc không có ai, cậu chủ say mèm. Con Bần thương cậu chủ quá mà không biết làm sao cho cậu chủ bớt buồn. Nhiều bữa, thấy cậu ngồi trong phòng, nó gõ cửa. Cậu không mở mà còn đuổi đi. Cho tới chỉ còn một tháng nữa là đám cưới, cậu nhờ con Bần đi đưa thư nhưng con Bần không gặp được cô Trâm. Bữa đó, cậu uống rượu say mềm người. Nhà lại vắng, con Bần phải pha nước chanh đem vô cho cậu chủ.

- Cậu uống nước chanh cho giã rượu.

- Tao không muốn giã rượu chi hết. Mi đi kiếm cô Trâm về cho tau.

Cậu chủ lè nhè. Con Bần trố mắt nhìn. Cậu chủ cũng nhìn lại nó, rồi nó thấy mặt cậu chủ đỏ như trái lựu chín. Cậu vẫy:

- Bần, mi lại đây tao biểu.

Nửa muốn bỏ chạy, nửa lại muốn bước tới. Con Bần không biết trong bụng nó nghĩ ra làm sao nữa.

- Mắt mi đẹp rứa thê, Bần.

Cậu chủ ôm con Bần trong tay:

- Đúng. Nói đúng, mắt mi đẹp chi lạ.

Cậu cúi hôn thật nhẹ vào đôi mắt con Bần. Lần đầu tiên con Bần ngửi được hơi hướm đàn ông, nhất là cậu chủ, nó đã nhiều lần nhìn lén cậu tắm, cậu thay quần áo.

- Hun một cái nữa hí.

Cậu chủ đưa cái môi từ mắt xuống má, rồi từ má gắn qua miệng. Con Bần choáng váng, hết biết.

Rồi tay cậu mở từng khuy nút áo của con Bần ra. Bàn tay cậu điệu nghệ quá, đã có lần, con Bần leo lên cái thành tường ngoài cửa sổ, ngó vô phòng cậu, thấy cậu làm như vầy với cô Trâm, con Bần chết trân, mấy đêm sau không ngủ được. Giờ đây, chính cậu chủ đang làm với nó điều đó. Con Bần để yên.

Lần đó, lần tới và nhiều lần nữa, con Bần lén vô phòng cậu chủ. Còn không, cậu chủ cũng lén xuống bếp. Nó ngủ dưới bếp thì khua lắc khuya lơ, cậu chủ cũng mò xuống.

Năm đó ông bà chủ ăn Tết lớn. Nhà cửa được quét vôi mới, các màn cửa được thay lại hết. Vừa ăn Tết vừa chuẩn bị cho đám cưới cậu Thanh qua giêng. Con Bần cực khổ không còn chỗ than van. Thôi thì mua sắm, làm bánh mứt, lại vườn sau sân trước, ngày nào cũng phải quét dọn sạch sẽ. Bà chủ để ý từng li từng tí, trong góc vườn kiểm lại còn một vài lá khô là con Bần cũng bị lôi ra chửi. Chưa hết, sáng sớm tinh mơ không giặt giụa quần áo thì cũng phải đi gính nước. Bọn con gái đi ở quanh xóm thấy con Bần cực quá cũng phải bất bình:

- Không ở nhà ni thì ở nhà khác, sợ chi hè. Bắt con người ta làm việc hơn trâu nữa Đứa khác quá quắt hơn:

- Tụi bây đừng chọc vô tổ ong vè vẻ nghe. Trong nhà có cậu chủ đẹp trai rứa, tau, tau cũng ở không công nữa Con Bần không ham tranh cãi với chúng bạn. Nó chỉ lo làm sao gính cho nhanh để đầy lu trong bể ngoài. Làm việc quá đến nổi tối name vật xuống là nó ngủ như chết. Với lại bà chủ thức khuya làm bánh mứt, cậu chủ cũng không dám luông tuồng, sợ bể.

Mùng một Tết năm đó lần đầu tiên trong đời con Bần có được bộ quần áo mới. Ông chủ đã phải nói khó lắm bà chủ mới bằng lòng.

- Chó khôn đẹp mặt chủ nhà. Nó lớn rồi, năm nay khách khứa đông, bà cũng nên may cho nó một bộ đồ để coi cho được. Quần áo của nó rách rưới quá.

Bộ đồ bằng vải bông đối với con Bần là một vật vô cùng quí báu. Tuy vậy ba ngày Tết nó cũng không có thì giờ để ngắm nghía coi mình mặc đồ mới ra sao nữa. Con Bần đâu, pha trà. Con Bần đâu, tét bánh, con Bần đâu, lấy khay trầu ra têm. Chưa xong việc này con Bần đã bắt tay qua việc khác. Rồi rửa dọn, bữa nào con Bần làm xong thì trời cũng vừa hửng sáng.

Cho tới trưa mùng bốn, ông bà chủ đi chùa. Trong nhà cũng đi vắng hết. Con Bần dọn dẹp xong, mới đi ra vườn cầm cây chổi định quét mớ lá đem vào để dành nhúm lửa. Nó thấy lu nước nên dựng cây chổi ở một gốc cây rồi tới lu nước soi cái mặt mình coi. Lu nước trong veo, lợn lợn mấy con loăng quang nhào lên nhào xuống nhưng không làm rung động mặt nước. Con Bần còn nhìn thấy một mảnh trời và mấy cành lá in trong đáy lu nữa. Rồi nó nhìn thấy cái mặt của nó, nhìn thấy bộ đồ vải bông. Bộ áo quần đẹp quá, mua ở chợ mà mặc vừa khít. Nhưng coi mặt mũi nó tiều tụy quá chừng. Nó bèn lén lấy trong túi áo ra một miếng giấy màu đỏ xé từ một bao nhang để dành. Nó dấp nước, thoa nhẹ lên hai gò má, rồi xếp đôi một phần còn nguyên khác, cắn lên môi. Có vậy thôi mà khi soi lại trong lu, khuôn mặt con Bần đã thay đổi hẳn. Làm như hai con mắt nó đen hơn, long lanh, tình tứ hơn.

Nó giật mình khi thấy có hai cánh tay ôm qua người nó. Định thần lại thì ra cậu chủ. Nhìn vô lu nước, khuôn mặt cậu chủ bên cạnh khuôn mặt nó, cả hai cùng đẹp quá. Rồi chính cậu chủ làm tan cái hình ảnh quá đẹp đó đi. Cậu day cái mặt nó lại và siết chặt con Bần vào người cậu.

- Cậu ơi, đừng... đừng, cậu thả tui ra.

- Không thả. Bữa nay mày đẹp thiệt nghe. Đẹp ghê hè.

Một tay giữ vòng ôm, một tay cậu tốc cái áo con Bần lên.

- Cậu..đừng. Lỡ ai thấy....

- Không ai thấy mô. Tau nhớ mi quá. Thiệt, tau nhớ bất chết.

Cái quần của con Bần bị kéo trụt xuống. Nó cố vùng vẫy, dùng cả hai tay giữ lại.

- Cậu...đừng mà. Ai thấy là chết con, cậu....

Nó sửa lại quần áo cầm cáu chổi lên.

- Để tui mầm việc, cậu.. - Mận. Từ nay mày là Mận chớ không phải con Bần nghe. Con Bần nhà quê lắm, còn con Mận khác...

- Khác ra răng, cậu?

- Khác ri nì...

Cậu chủ giựt cái chổi vất xuống đất, ôm chặt con Bần, cái áo của con Bần lại bị tốc lên.

- Như ri mới là Mận. Mận nì. Nói thiệt, tau thương mi....Tao thương Mận nì...

Lúc bị đè nằm xuống đống lá, cái đầu con Bần còn đè lên cái chổi quét sân. Tay nó nắm chặt một mớ lá khô và nó thấy cái mặt cậu chủ đỏ rừ. Trong miệng cậu, mùi rượu xông ra. Thì ra, cậu đã uống rượu.

- Cậu đừng nói láo với tui mà tôi.

- Không, tau nói thiệt. Mi đẹp, mi mới đẹp nhứt.

Cậu chủ bỗng trở lại nhẹ nhàng. Cậu hôn lên đôi mắt của con Bần:

- Mận, em có đôi mắt đẹp nhứt, biết không?

Con Bần bị cành khô, đá sỏi châm vào mông vào lưng đau rát, nhưng trong lòng lại vô cùng thích thú, nó quên cả thân phận con ở của mình. Lần đầu tiên nó nghe tiếng em từ miệng cậu chủ gọi nó.

- Cậu à. Cậu đừng bỏ tui nghe. Tui.. Đang trìu mến, mơn trớn, cậu chủ bỗng thở dài:

- Tiếc mi là con ở, nếu không... Bần à...Mận, mày đừng cho ai biết chuyện này nghe. Tao..tao phải lấy vợ.

- Sao cậu không thương cô nớ mà cậu lấy. - Tao không biết.

- Cậu ngồi đây một chút nữa được không?

- Được.

- Mai mốt ông bà biết được chắc giết chết tui. Tui sợ lắm cậu ơi.

- Mày không nói, tao không nói, ai biết. Đừng sợ.

- Dạ.

Con Bần ngoan ngoãn. Cậu chủ đỡ nó lên.

- Tao vô nhà trước. Mày coi sửa lại tóc tai mới vộ Họ sắp về tới rồi.

- Cậu Thanh.

Con Bần kêu lên, vừa sung sướng vừa sợ hãi. Rồi nó đút cả bàn tay vô miệng để đừng bật ra tiếng kêu nữa. Cậu chủ không quay lại, đi một mạch.

Còn lại một mình, con Bần đứng lặng người một lúc rồi tới bên lu nước. Nó lại soi mặt mình. Nhưng không có khuôn mặt cậu chủ kề cận một bên nữa. Nếu không còn những cảm giác đau đớn trên thân thể thì nó nghĩ chuyện vừa rồi là nằm mơ thôi. Nó nhìn một lúc lâu khuôn mặt lẻ loi của nó, rồi nó giận giữ vọc tay vào lu nước. Cái mặt của nó tan ra theo từng lằn nước chưa kịp tụ lại thì nó đã đập tiếp. Đập cho nát mày ra, đập cho nát. Nó khóc một mình rồi ngồi xuống trên cái chổi.

- Bần. Bần. Cái con quỷ sứ đâu rồi, há, con tinh le le đi đâu rồi!

Nghe tiếng bà chủ, con Bần lật đật chạy vô.

- Mi làm cái chi mà áo quần tóc tai....Mi chui ở bụi mô ra rứa há con yêu bánh nậm...

Con Bần cúi đầu.

- Mi đã cơm nước cho cậu chưa, cái mặt rượng cả ngày, thấy cái mặt là muốn đạp cho một cái rồi. Cậu mô?

- Dạ cậu ngủ.

- Ngủ thì cũng thức cậu dậy biểu cậu ăn. Con ni vô hậu tế đợi rứa.

Cánh cửa phòng mở. Cậu chủ đi ra, không hề ngó tới con Bần:

- Chi mà ồn rứa mạ. Con ngủ, có dặn không được đánh thức...Ăn chi mà ăn cả ngày, mạ lo chi mà lo dữ...

Hai bàn tay cậu chủ bẻ lắc cắc. Tội nghiệp con Bần, nó đứng run rẩy trước mặt bà chủ. Hai bàn tay cậu chủ bẻ lắc cắc mà như đang luồng trong người nó.

- Cút xuống bếp mần việc đi, còn đứng trơ đó, con hà bá.

Con Bần chờ dợi làm sao một ánh mắt nhìn của cậu chủ mà không có.

Cho tới ngày cưới thì con Bần không còn một lần nào được cậu chủ đoái hoài... Mợ chủ, con nhà giàu, hách dịch lắm, hở mở miệng là mắng nhiếc:

- Cái con ở nhà anh mất dạy chi lạ, thấy nó là em nổi ma rồi...

- Đứa ở mà em chấp mần chi. Kệ nó.

- Thấy cái mặt ngó không sửa. Vừa nhớp vừa ngu như bò.

- Rứa nó mới làm con ở.

Câu chửi độc của mợ chủ không làm con Bần buồn, mà câu trả lời của cậu chủ làm con Bần đau điếng. Vậy mà mới đây thôi, trước ngày cưới, cậu chủ đã gọi nó là Mận. Em Mận. Con Mận khác với con Bần mà, chính miệng cậu chủ đã nói, từ nay, đối với cậu chủ nó là con Mận. Không Bần nữa đâu được. Nó vẫn chỉ là đứa ở. Một bữa, lên nhà trên chỉ mình cậu chủ, nó làm gan tới gần, gọi:

- Cậu chủ.

- Mi...thôi xuống dưới đi. Mau lên..Mi...

Đôi mắt cậu chủ ngó dớn dác. Con Bần lầm lũi quay lưng. Đêm nào nước mắt của nó cũng chảy ướt cả gối. Nó thề là sẽ quean cậu chủ, con người lòng lang dạ sói, có mới nới cũ. Từ ngày cưới vợ về, cậu chưa hề một lần ngó ngàng hay táy máy tới con Bần. Nhiều bữa nhà vắng, mợ chủ về nhà mẹ, con Bần trốn việc ra sau vườn, đứng bên lu nước, hy vọng cậu chủ ngang qua. Nhưng không có thêm một lần nào nữa. Nó lại tự hứa trong lòng, sẽ cố quên.

Con Bần cũng sẽ quên được thôi, nếu tháng sau, nó không cảm thấy khó chịu trong người. Một buổi sáng, đang giặt áo ở bến sông, nó nôn thốc nôn tháo. Không phải ăn trúng độc gì, mà tiếp theo những ngày sau đó, cứ thấy mùi cá kho là bụng nó cồn cào, nôn nao và ụa mữa. Con Bần biết là đã có mang với cậu chủ.

Nó sợ lắm. Mỗi ngày ra gính nước giếng, nó gặp nhiều con ở khác, kể nhiều chuyện. Con Cau, cũng bị Ông chủ làm có mang, bà chủ đánh đập quá, chịu không thấu đã thắt cổ tự tử trong nhà bếp. Con Mực không biết chửa hoang với ai, bị chủ nhà đuổi ra đường, vác cái bụng đi ăn mày, mùa đông, chết cóng trước cửa nhà người ta...Nó lo sợ và chờ những giờ giếng nước vắng hoặc ít người, nó mới ra thả gàu kéo nước. Múc nước lên mà nước mắt của nó rơi tong tong xuống giếng.

Chuyện con Bần có mang không dấu được lâu. Một buổi sáng, đang làm việc, con Bần phải chạy ra góc vườn để ụa mửa thì mợ chủ thấy. Không phải tình cờ gì đâu, mà mợ chủ đã nghi ngờ, để ý. Tối đó, cả nhà ngồi lại, kêu con Bần ra. Bà chủ lên tiếng.

- Bần. Mày có mang phải không?

- Con...

Con Bần run rẩy, hai đầu gối như muốn quỵ xuống.

- Khun hồn thì đừng có chối. Mi có mang với ai? Con Bần cắn răng lại. Nói là của cậu chủ, ai tin. Nó nghĩ tới những trận đòn thừa sống thiếu chết, nghĩ tới hình ảnh con Cau thắt cổ trên xà nhà...

- Có phải mi lẹo tẹo với thằng Mương bên nhà hàng xóm khôn, hí?

Thằng Mương cũng ở đợ. Nhà hàng xóm làm bún, phải mướn một thằng trai trẻ có sức để xay bột bằng cối đá. Con Bần rất sợ thằng này vì thằng này hoang lắm. Có lần, thấy con Bần, nó đứng bên hàng rào tuột quần ra, con Bần chạy bán sống bán chết. Mấy con ở trong xóm đều sợ thằng Mương này, có mấy con ba đá ngựa thượng tứ mới lẹo tẹo với nó.

- Dạ không phải cô chủ nờ. Con...

- Hừ, chỉ có cái thằng đó bạ mô xâu đó, mi mới thích xâu, mới chình ình cái bụng ra....

- Oan cho con, cô ơi.

- Vậy đứa mộ Đứa mô. Không noái tau đập cho chết.

Con Bần bị đến mấy trận đòn. Nó vẫn cắn răng. Sau, bà chủ đem cột nó ngoài vườn, lột áo cho dầm sương đêm. Cả người nó roi lằn ngang lằn dọc, đau đớn như bị lóc thịt xẻ da. Chỗ nó bị trói là góc vườn bên này, đối diện bên kia là lu nước mưa. Nó nhớ như in khuôn mặt của nó, của cậu chủ soi trong đó. Lu nước trong vắt với những con lăng quăng vùng vẫy mà không hề gợn được một lằn sóng nhỏ. Nó cũng vậy, còn yếu hơn con lăng quăng nữa.

Đã vậy mà đâu có yên, mợ chủ đa nghi, nửa đêm, ra vườn cầm đầu tóc con Bần xoáy trong tay, giựt mạnh.

- Mi phải khai ra, không tao giết chết. Mi ngủ với ai? - Dạ không biết.

- Con ngựa thương tứ. Mi ngủ với ai lại không biết. Không biết tao đập cho mi biết.

Mợ chủ, nhìn khuôn mặt đã thấy ác rồi. Khi cơn giận lên tới đầu, mợ chủ dữ như cọp. Giật tóc, tát vào mặt, lột quần con Bần ra rồi bôi đường bôi mỡ lên người con Bần.

- Cho muỗi nó cắn, cho kiến nó bu, đồ nặc nô.

Ông chủ, lòng nhơn từ hơn, sáng, ông dậy sớm, lén đem nắm cơm nguội cho con Bần ăn, dỗ dành:

- Con noái đại đi. Đứa mô mần con có mang con cứ khai ra, sợ chị Chơ con giữ trong bụng, bà chủ với mợ Thanh đánh chết con.

Con Bần khóc:

- Con noái thì mợ với bà chủ cũng đánh chết con.

- Răng đánh. Nói đứa mô rồi ông tính cho, bắt nó lấy mi.

Thấy con Bần cắn răng làm thinh, ông dỗ:

- Nói đi con. Nói đi, ông biết đứa mô là ông bắt nó cưới, ông cho tiền để nó cưới, chớ con mần thinh rứa là con sẽ khổ cho coi. Nói đi con.

- Con không nói được ông ơi. Con...thà con cắn lưỡi con chết.

Ông chủ thở dài bỏ đi. Con Bần bị cột ngoài vườn, trần truồng cho muỗi đốt và kiến cắn tới ngày thứ ba thì kiệt sức. Nửa đêm mắt nó nhìn lên trời, cả ngàn sao nhấp nháy mà nó chỉ thấy những lằn chớp xẹt qua sẹt lai. Lúc nó sắp ngất đi, gục mặt xuống thì có một bàn tay nâng mặt nó dậy, có người cho nó uống nước. Trong lúc mơ mơ màng màng, thần quách tá hỏa, nó cũng nhận ra khuôn mặt cậu chủ. Đầu nó lóe lên mấy tia sáng, nhưng rồi tắt ngúm liền. Nó rên:

- Cậu chủ ơi, tui chắc chết, không chịu thấu quá.

- Đừng noái nghe. Bần, mi đừng noái.

Con Bần đưa tay lên, muốn níu nhưng không đụng ai. Giọng cậu chủ.

- Họ đang sắc thuốc trục thai, bữa mơi bắt mi uống. Mi uống không?

- Không, cậu ơi. Không, cậu. Con của cậu mà. Cậu Thanh.

Bàn tay của nó đã được cậu chủ nắm.

- Suỵt, mi đừng noái lớn rứa. Tau trốn ra đây một chút thôi chớ không mợ mi nghi là mệt lắm. Mi không muốn trục đứa con.

Đang muốn ngất đi vì kiệt lực, con Bần cảm thấy hơi ấm từ tay cậu chủ đang dồn qua người nó, nó tỉnh dần.

- Không, cậu. Tui thương cậu. Tui thương cậu lắm.

Nước mắt nó chảy ràn rụa trên mặt như mưa ướt. Không thấy cậu chủ nói gì thêm. Con Bần nhìn lên trời, nó đã nhìn thấy rõ những choom sao rồi. Nó còn ngửi thấy mùi thơm của hoa nhài, hoa bưởi trong vườn nựa.

- Nếu cậu không muốn tui giữ con, cậu giết tui đi. Nì, cậu giết tui đi.

- Bần, lỡ rồi, thiệt tao mô muốn rứa, mi đừng trách tao...

- Tui mô có trách chi cậu. Cậu ơi, nhưng thà cậu giết tui đi. Thà cậu giết chớ đừng để người ta giết tui, tui hận lắm.

Nó nhắm mắt lại, chờ coi người đàn ông này làm sao để giết mình. Nó chỉ nghe một tiếng thở dài và giọng cậu chủ run run.

- Bần. Mi đừng tên Bần nữa. Mi đổi tên là Mận cho đỡ khổ nghe. Tao... tao có thương mi cách mấy cũng chịu. vậy...

Cậu chủ ngừng lại nuốt nước miếng mới nói tiếp:

- Vậy mi đi trốn đi rồi đẻ con. Tau có cặp xuyến cho mi...

- Thôi cậu ơi, ở mô mà cậu có đôi xuyến. Cậu ăn cắp của mợ phải không? Thôi, cậu ơi....

Con Bần khóc. Đây mới là giọt nước mắt thực tình thương cho cậu chủ và thương cho nó.

- Của ai mi không cần biết. Mi cầm và nhớ trốn đi càng xa càng tốt. Mi...

Con Bần nức nở:

- Con cậu thiệt cậu ơi.

- Tau biết. Nhưng tau chịu rồi. Tau thua gia đình rồi. Mai, họ bắt mi uống thuốc trục thai.. Con Bần ngước mắt nhìn cậu chủ. Đôi mắt nó vẫn còn đen láy, còn đẹp. Cậu chủ thấy nhói trong lòng khi cúi sát xuống nhìn đôi mắt của con Bần vẫn chưa hiểu gì cuộc đời.

- Cậu nói thiệt cho tui biết, cậu có thương tui không?

Có? Không? Lẫn lộn trong lòng cậu thanh niên Huế. Cậu cắn môi, gỡ trói cho con ở và bảo:

- Đi đi. Bần.

- Cậu chủ...

- Đi đi mà. Đi.

- Cậu ơi.

- Dặn nì. Đừng nói ra. Chết cũng không nói nghe chưa?

- Dạ.

Đôi mắt con Bần nhìn thấy tội làm sao. Cậu chủ không dám nhìn thẳng nữa.

- Cậu, cậu cho tui miếng nước. Miếng nước trong lu đằng nớ đó cậu. Bữa đó... cậu.. Cậu chủ hiểu con Bần định nói gì. Cậu đi lại cái lu nước, có cái gáo dừa móc trên một gốc cây. Cậu lấy xuống vục vô lu lấy đầy moat gáo rồi đem tới cho con Bần.

- Cám ơn cậu.

Nó uống một hơi cạn queo rồi vất cái gáo xuống đất. Giọng cậu chủ run run:

- Mận, mi đi đi. Khôn khéo trong nhà họ biết, Mận...

- Cậu...

Cậu chủ xoay lưng đi vào. Con Bần đứng nhìn theo. Bóng cậu chủ khuất. Con Bần cắn môi rồi bật khóc. Nó vừa khóc vừa chui qua cái lỗ hàng rào mà mới đây thôi, cậu chủ hay chui qua để đi hẹn với người yêu của cậu.

Tờ mờ sáng, chính mợ chủ là người xuống bếp sớm nhứt. Mợ chủ chăm chỉ sắc thuốc cho con ở uống. Linh tính người đàn bà cho biết là điều mình nghi ngờ chắc chắn không sai. Trong nhà, ai cũng tra khảo, đánh đập con ở, duy chỉ có Thanh là hoàn toàn im lặng. Mợ đã hỏi dò:

- Anh có nghi nó với ai không?

- Anh mần răng biết được.

- Em.. hừ, trong nhà này có hai người đàn ông...

Mợ chủ định nói hai người là chồng, là bố chồng nhưng kịp dừng lại. Cậu chủ hiểu, nhíu mày:

- Em ăn noái chi lạ rứa!

- Em...

- Hừ.

Cậu chủ quay lưng.

Thang thuốc sắc cũng phải mấy tiếng đồng hồ. Mợ chủ cẩn thận, chi li như vậy vì sợ thuốc sắc không đúng phân lượng uống vô không hiệu quả. Thôi thì ai nói chi thì nói, sư tử hà đông cũng được, ác nhơn ác đức cũng được. Không bịt cái mối họa này thì mối họa khác còn lớn hơn, tiếng tăm còn nhục nhãÕ hơn. Mợ chủ nhẫn nhục để lửa liu riu chờ.

Đến sáng, khi chén thuốc sắc xong, ra vườn thì không thấy con Bần đâu nữa. Ông chủ thở phào nhẹ nhõm cả người. Mợ chủ cầm chén thuốc chạy quanh nhà.

- Mần răng chừ. Nó bỏ trốn rồi.

Mợ chủ gọi cha chồng, mạ chồng, bù lu bù loa:

- Chắc có người mở trói cho nó chớ thắt nút kỹ lắm.

Mần răng chừ đây?

Bà chủ:

- Đừng để cho nó thoát.

Phải làm một cái gì để chặn lại. Mợ chủ quay quắt:

- Phải đuổi theo, tìm cho được nó.

Ông chủ chắp tay sau lưng, ngó đứa con trai đang thập thò ở cửa buồng, lắc đầu.

- Nó đi xa rôi. Biết mô mà tìm.

- Rồi mần răng. Bộ dứng trợn mắt mà ngó?

- Rứa không ngó, bà đi kiếm bắt đi.

Ông chủ chắp tay sau lưng, ngó mông lung ra cửa. Mợ chủ đi vô buồng lục tung tủ tìm mớ nữ trang. Thấy không mất gì, mợ chủ nhìn chồng:

- Răng anh đứng chết trân rưa.

Thanh mở lớn mắt ngó vợ:

- Rứa chừ anh biết mần chi chừ.

Đôi mắt người thanh niên ngây thợ.. vô số tội. Đôi mắt đã quá hiểu về cuộc đơi. Người vợ dí tay vào trán chồng.

- Anh hí, gớm lắm. Không phải tui nghi tầm bậy tầm bạ chi....

- Rứa em nghi ai? Tui hay bọ?

Người vợ cứng họng. Rồi không biết làm gì cho hả cơn giận, mợ chủ đi ra vườn cầm cái dao phay, phạt gãy phăng mấy cây chuối non. Mợ chủ biết, ít nhất, mợ cũng phải thay thế con ở dăm bữa nửa tháng xắt chuối cho heo ăn, chờ tìm nuôi một con ở mới.

Chiều hôm đó, bà chủ nói với ông chủ.

- Tui mất một đôi xuyến. Chắc...

Ông chủ trầm ngâm:

- Thôi được rôi. Để tui mua lại cho bà.

- Ông nghi ai?

- Vô lẽ bà nghi tui?

Họ ngồi vào bàn cơm. Cô con dâu mặt chằm vằm một đống, còn đứa con trai thì cúi đầu ăn, và lấy và để, không thấy nhai mà chỉ thấy nuốt.

- Mạ có mất chi không mạ?

Cô con dâu hỏi. Bà chủ bắt gặp cặp mắt của chồng nhìn, bà nói:

- Không. Không mất chi cả.

Cậu chủ ngừng ăn, lấy muỗng chan canh đầy bát, lúc đó, cậu mới ăn thong thả trở lại.

Ba mươi năm tám năm sau họ gặp nhau tại Mỹ.

Mùa Xuân năm đó, ông Thanh từ tiểu bang Minesotta bay về San José. Một phần ông muốn gặp lại bạn bè cũ, một phần muốn trốn băng giá. Ông đi một mình, người vợ tưởng ở với ông suốt đời, ông cũng đã chôn hai năm về trước. Hai vợ chồng không có con cái, họ sẽ không bỏ Huế nếu không có cộng sản xâm chiếm.

Đến San José, ông Thanh tìm gặp một gia đình bạn cũ, cũng người Huế. Siết bao vui mừng, chuyện mới, chuyện cũ gợi hoài không hết.

- Rồi anh có tính bước thêm một bước nữa không?

Người bạn hỏi ông Thanh.

- Ngót nghét sáu mươi rồi còn ngọ nguậy chi nữa, cụ.

Tiếng cụ không phải để chỉ tuổi tác. Tiếng cụ từ thủa còn học sinh, họ đã gọi nhau nghịch ngợm như vậy.

- Ở Mỹ khác rồi. Tám mươi người ta còn lấy vợ kìa.

Tụi này mới đi dự đám cưới chú rể bảy mươi tư, cô dâu bảy mốt. Đám cưới vui quá đáo để. Cô dâu thay ba bốn lượt áo mới, có nhảy đầm. Chú rể cô dâu dìu nhau lã lướt tango đàng hoàng nghe...

Chị vợ cười:

- Tối nay có buổi họp tất niên của một số bạn cũ, anh đi dự với bọn ni nghe. Chừ tự do rồi phải không? Nghe đồn hồi còn sống, chị bắt nạt anh lắm phải không?

Giọng Huế đậm đà, không pha trộn của vợ bạn làm Thanh nghĩ tới vợ. Trong cuộc sống, chị có khắt khe, ép buộc anh đủ điều, nhưng nghĩ cho cùng, chị vẫn không có gì lầm lỗi. Thương chồng, giữ chồng, lo cho chồng nên sợ mất chồng. Suốt mấy chục năm, Thanh chưa bao giờ đi đâu một mình mà không có vợ bên cạnh.

Tối hôm đó, Thanh ngồi cùng bàn với một cặp vợ chồng trẻ. So với ông Thanh là trẻ nhưng cũng ngót nghét trên ba mươi và dưới bốn chục. Người chồng còn dẫn theo một bà mẹ khó đoán được chính xác tuổi tác. Lúc mới gặp, ông Thanh ngờ ngợ, đôi mắt đen láy, tuy hai mí đã sụp và có nếp nhăn, nhưng hình như ông đã gặp đâu trong đời rồi. Không nhớ nỗi với mớ ký ức chằng chịt. Vì, mặc dù vợ canh rất kỹ, thỉnh thoảng ông vẫn có những mối tình vụng trộm, qua đường và không đi đến kết quả nào.

Sau khi bắt tay, ngồi xuống, người bạn giới thiệu:

- Đây là kiến trúc sư Thanh Mận, đây là chị Thanh Mận...

Người đàn ông trẻ tươi cười. Kìa nụ cười, sao làm ông Thanh chăm chú.

- Và đây là mẹ tôi.

Ông Thanh gật đầu chào người đàn bà đứng tuổi. Vợ người bạn nói:

- Anh Thanh Mận có hiếu lắm, lấy vợ rồi mà không rời mẹ một bước.

Người đàn ông trẻ hớn hở:

- Vâng. Tôi có một mẹ một con. Có được ngày hôm nay cũng là nhờ mẹ tôi....

Không hề có sự sắp đặt mà ngẫu nhiên thôi, Thanh ngồi cạnh người đàn bà rồi mới đến cặp vợ chồng bạn. Người đàn bà không thấy nói cười mà khuôn mặt nghiêm trang. Người bạn nói:

- Chị Thanh Bần đây thiệt là giỏi. Lớn tuổi rồi, qua Mỹ chị thành công hơn nhiều người trẻ. Hệ thống Bakery lớn nhất ở đây là do chị thành lập, nổi tiếng lắm.

Người con:

Thiệt đều do một tay mẹ tôi. Lớn tuổi rồi mà mẹ tôi hoạt động hăng lắm. Vợ tôi chỉ là thợ vịn...mẹ. Phải không em?

Người vợ có vẻ ít tuổi hơn chồng, cười tít mắt ngó mẹ chồng. Người mẹ cũng nhìn lại con dâu, nheo mắt. Ông Thanh giật mình ngớ người. Cặp mắt đen láy, tinh ánh với cái nháy nháy đó, ở đâu trong đầu ông, bật ra. Ông lại vừa nhìn thấy trên cổ tay gầy của bà Thanh Bần đeo một đôi xuyến méo mó, cũ kỹ.

Thanh Mận. Hai chữ không ăn khớp với nhau ghép thành một tên. Rồi Thanh Bần... Mận và Bần, hai cái tên của một con người năm xưa... Đôi xuyến mà bà đeo trong cổ tay, có phải là đôi xuyến năm xưa của người đàn ông trả tội.

Bàn tay của ông Thanh rung lên, không phải vì già yếu mà vì xúc động.

- Bà chi..... Chị là...

Khuôn mặt ngó thẳng, nghiêm nghị, lạnh lùng:

- Thưa ông, ông nói chi?

Giọng Huế, người xưa. Rõ ràng. Không lầm được... Ông Thanh nói khó ra lời:

- Thấy....thấy chi.....quen quá.

Người đàn bà vẫn giữ thái độ lịch sự mà xa cách:

- Thưa ông, có thể ông nhầm vì người giống người....

- Tôi là Huỳnh văn Thanh, chi...., chị là...

Nụ cười trên môi người đàn bà nhạt như nước ốc.

- Chắc là ông đã lầm, thưa ông. Từ nhỏ tới già, tôi chưa hề quen biết một người nào có tên đó.

Thanh ngượng ngùng. Cũng may, lúc đó có vài người bạn cũ nhận ra anh, réo gọi. Anh bị kéo tới bàn khác hàn huyên. Nhân cơ hội Thanh hỏi bạn hữu về người đàn bà tên Thanh Bần, họ nói:

- Chỉ biết bà Thanh Bần gốc Huế, vô Sài Gòn. Có thời bà giàu lắm, có cả chục căn phố cho thuệ Lúc di tản, nghe nói cũng đem theo được ít của cải nên lập nghiệp lại, thành công sớm. Kỳ thiệt, giàu có vậy mà tên Thanh Bần.

- Bà Bần có nhiều con cái không?

- Có chỉ một đứa. Một mà nên. Thằng cha có hiếu khiếp. Mẹ Thanh Bần, con trai lại Thanh Mận.

Lúc trở lại bàn, ba mẹ con vẫn còn ngồi đó. Nếu người đàn bà này là con Bần xưa thì đúng như truyện con bé Da Lừa đã đổi lốt. Người đàn bà này trông dáng dấp quí phái, ăn nói linh hoạt, cái áo da lừa là con Bần ngây dại, sợ sệt, ngu muội xưa đã bị ai đem đốt đi rồi. Ông Thanh bụng dạ thấp thỏm.

Người đàn ông trẻ đẩy cái dĩa thức ăn đã lấy phần sẳn về phía ông Thanh và mỉm cười. Ông Thanh lại giật mình. Ông nhớ lại, ông còn một tấm ảnh chụp năm ba mươi tám tuổi, tấm hình và người này y chang một khuôn mặt. Thanh nhìn người đàn bà. Ông dần dần nhận ra nhiều nét quen thuộc của con Bần, người ở nhà ông. Mấy chục năm qua, không phải là ông đã quên hẳn lầm lỗi thời còn trẻ. Ông vẫn thắc mắc không biết con Bần trôi dạt nơi đâu, sống chết như thế nào. Giọt máu đầu đời của ông, đứa con hoang của tội lỗi có lớn lên được thành người?.

Trước mặt ông là một người đàn bà trọng tuổi, nghiêm trang, quí phái, vậy cũng không thể nào lầm lẫn. Ông Thanh nhớ lại hồi nhỏ, khi ông thầy tử vi coi số cho, cho ông nhìn thấy con Bần đã buột miệng:

- Con này về sau ba mươi tuổi sẽ giàu có.

Nếu đúng như vậy thì Thanh Mận có thể là đứa con năm xưa của ông.Õ Và con Bần đã lột xác thành một bà chủ. Người đàn bà này còn hận ông bầm gan tím ruột, không muốn nhìn nhận ông nữa. Cũng phải thôi, khi xưa, Ông Thanh đâu dám nhìn nhận con Bần. Mặc dầu ông đã cứu Bần, cứu đứa con, nhưng ông đã xua đuổi họ ra khỏi cuộc đời của ông, không màng đến sống chết của họ. Bây giờ, bà Bần nói chuyện với ông Thanh còn hơn những người xa lạ.

- Năm Mậu Thân chị có ở Huế không?

- Dạ không. Có thì bị chôn sống rồi. Đời tôi bị chôn sống một lần mà không chết.

Giọng cay đắng quá. Ông Thanh tự rủa thầm mình, rồi nhát gan không dám hỏi tiếp nữa. Người đàn bà lặng thinh một hồi lâu, nói:

- Chắc anh không ở vùng nỉ


- Dạ thưa chị, tui ở tận Minesotta, xa lắm.

- Chị và các cháu cũng ở trên đó?

- Dạ không. Bà ấy chết cách đây hai năm rồi. Tụi này cũng không có con.

Đôi môi người đàn bà dãn ra mà không phải cười. Các nếp nhăn trên mặt cũng dãn ra một cách thoải mái. Người đàn bà này, nếu tuổi trên năm mươi, đúng là con Bần ở đợ năm xưa. Ông tính nhẫm, năm đó con Bần mười bảy tuổi, cọng ba tám năm thì đúng 55 tuổi.

- Xin lỗi, hồi ở Huế, chị Ở mổ

- Dạ cám ơn ông. Bị tui có hứa với mình là có chết cũng không được nói. Ông Thanh cảm thấy như mình đang bị điện giật. Lời đó được nhắc trong đầu ông:
Có chết cũng đừng noái nghe Bần.

- Cậu..Cậu ơi.. Ông đã quay lưng đi vội vã, lúc đó suýt vấp phải lu nước mưa. Ở lu nước mưa đó, lần cuối cùng... Ông nhớ, ông đã tốc cái áo của con Bần lên và... Chuyện đó, đã qua ba mươi tám năm...

- Chi.....Nếu tôi đoán không lầm thì năm nay chị khoảng trên năm mươi, nhưng trông chị còn trẻ lắm.

Bà Thanh Bần, đúng là con Bần ở đợ năm xưa, đã tính gật đầu thì mối hận trong lòng sống dậy. Cũng may, nhờ lời đoán của ông thầy tử vi mà con Bần lãnh chịu bao nhiêu khổ đau, cũng cứ tin vào vận số và vươn lên. Kể cả đôi xuyến cậu chủ đưa, con Bần ngày xưa cũng không hề bán đi để xài trong lúc sanh đẻ. Đôi xuyến đeo trong cổ tay như đeo đôi vòng nhục nhã để nhắc nhở. Bởi vậy khi thành công, có cơ nghiệp, con Bần mời thầy về dạy học chữ, học sinh ngữ. Bà có thể thay đổi thành một người khác, nhưng mối hận tình xưa vẫn mang nặng trong lòng, và cái tên Thanh Bần không rời cuộc đời của bà nữa.

Người thanh niên tuấn tú, đẹp trai, con ông chủ không phải đã nói với con Bần xưa:

Đừng có noái. Có chết cũng không được noái ra nghẹ. Đến chết cũng không được nói, huống chi bà còn sống. Bà đứng dậy:

- Xin lỗi, tôi phải về.

Người con:

- Mẹ mệt rồi hả mẹ. Chúng con đưa mẹ về.

Bà cười, mắt không ngó ông Thanh nhưng cốt ý nói cho ông nghe:

- Tuổi già, ngồi lâu nhức mỏi cái lưng.

- Bác, Tết cháu mời bác tới nhà chơi. Mẹ cháu năm nào cũng nấu nướng. Bánh tét với dưa món của mẹ cháu ăn bứt hết dưa món ở đây.


- Năm nay mẹ làm biếng lắm, đâu có làm gì mà con dám mời khách.

Giọng nói nhạt nhẽo, thiệt vô tình, Một lối cấm cửa khách rất khéo.

Người đàn ông trẻ tuổi đưa tay cho Thanh bắt. Thanh nắm chặt bàn tay ấm áp, chắc nịch, thấy rất thân thuộc. Ông có cảm giác những mạch máu nhỏ li ti của người đàn ông trẻ đang đập cùng một nhịp với mạch máu trong lòng bàn tay ông. Mắt ông mờ đi như có một màng lệ mỏng che phủ. Rồi ông cũng buông tay ra và người đàn ông trẻ trung đi bên vợ, ôm vai mẹ dần ra khỏi cửa. Ông Thanh cảm thấy chân tay thừa thãi và chỉ còn biết nhìn theo cho tới lúc họ khuất dạng.

Trên xe trở về nhà, bà Thanh Bần ngồi băng ghế sau một mình. Qua chiếc kiếng chiếu hậu, bà nhìn thấy mớ tóc của bà cũng đã lẫn màu muối tiêu. Thời gian hình như cũng làm bạc màu hết kỷ niệm. Vậy mà gặp lại người xưa, giữa xứ lạ quê người, tim bà vẫn còn thổn thức.

Cậu chủ, người thanh niên đẹp trai năm xưa, nay cũng đã đứng tuổi. Bà đã cố gắng phấn đấu để dấu đi những lúc oán hận cũng như những lúc mềm lòng. Đôi mắt của ông Thanh, đã khác xưa nhiều quá, khi nhìn bà, bà thấy được sức chứa của ăn năn, hối hận.

Bà không biết nữa, giữ được hôm nay mà có giữ được ngày mai không? Mấy chục năm, người ta còn nhớ, vậy sao kỷ niệm mối tình hận của bà lại phai màu được!

Lúc xuống xe, đứng trong sân vườn bên hồ nước nhỏ chờ đứa con dâu mở cửa, bà lại nhớ tới khu vườn sau căn nhà cổ ở Huế. Lu nước mưa với cái gáo nước móc trên gốc cây bên cạnh. Gáo nước cậu chủ múc cho con Bần uống ngày nào, giờ đây nghĩ lại còn mát cả ruột gan. Và lu nước mưa, chẳng phải con Bần ngày xưa đã mơ ước được một lần nữa, soi hai khuôn mặt, mặt mình và mặt cậu chủ trong đó!

Trên đầu bà, một vừng trăng, một cơn gió. Phải, gió vừa lướt trên mặt bà, trên tóc bà, thổi tới một hơi xuân mát dịu.

Không có hạt bụi nào mà mắt bà bà xốn quá, rồi lệ ứa ra hai khóe mắt. Bà kín đáo đưa ngón tay lên quẹt, y như con Bần ngày xưa, khóc thầm và quẹt nước mắt bằng ngón tay trong góc bếp, bên lu nước hay khi trốn sau chuồng heo.

 





Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 02/Apr/2011 lúc 1:49pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.773 seconds.