Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/May/2017 lúc 6:52am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/May/2017 lúc 11:41am

Bão Chiều

Image%20result%20for%20girl%20walk%20in%20the%20rain

  Chiếc máy bay từ từ dừng lại. Người tiếp-đãi viên chào Du lần cuối. Chàng theo đám hành-khách bước ra ngoài. Có tiếng gọi mừng rỡ:
    - Thầy! Em đây.
    Du giơ tay ra bắt:
    - Cám ơn Quý ra đón. Lâu quá chúng mình không gặp nhau!
    - Thầy vẫn như xưa, không thay đổi mấy.
    Du nhìn kỹ người thanh-niên y-phục đơn-giản nhưng có dáng-dấp trí-thức, tự-tin.
    - Em thật khác trước, chỉ có giọng nói thì vẫn thế.
    Quý cười vui:
    - May quá! Một người dự khóa hội-thảo thấy tên thầy trong danh-sách các diễn-giả nên gọi điện-thoại cho em. Mất hai ngày mới bắt liên-lạc được với thầy.
   Du hỏi:
   - Đợi tôi tới hãy tìm có dễ-dàng hơn không?
   - Tính em thầy đã biết. Làm gì thì phải làm ngay. À, lãnh hành-lý lối này thầy.
   - Tôi phải thuê xe đã.
   Người học trò cũ lắc đầu. Giọng anh đầm-ấm:
   -  Thưa thầy, khỏi cần. Em sẽ là tài-xế cho thầy những ngày ở đây.
   -  Cám ơn Quý. Tôi cần xe để đi loanh-quanh.
   -  Để em đưa thầy đi. Em xin nghỉ một tuần rồi.
   Hai người bỏ hành-lý vào xe. Thành-phố đã lên đèn. Du thấy lòng mình trùng xuống. Ba năm qua đi. Những con đường quen thuộc dưới kia vẫn thế nhưng ngày vui thuở đó nay đã không còn.
   Quý hỏi nhỏ:
   - Thầy có điều gì buồn?
   Du trầm-ngâm:
   - Không. Không có gì cả.
   Quý nhìn người thầy cũ ái-ngại:
   - Thầy lúc nào cũng cô-đơn. Thầy đã lập gia-đình chưa?
   - Chưa.
   - Sao vậy thầy?
   Du cười hiền-hòa:
   - Không ai lấy tôi cả.
   - Thầy chắc không? Để em giới-thiệu cô bạn em cho thầy.
   Du nhẹ-nhàng:
   - Cám ơn em. Tôi chỉ có thể lấy được người mà tôi yêu thôi. Còn em thì sao?
   Quý nhìn về phía trước. Bóng tối đã đổ xuống. Giọng chàng xa-xăm:
   - Theo tiêu-chuẩn thầy vừa nói, em sẽ không bao giờ lấy được vợ cả.
   Du ngạc-nhiên nhìn Quý:
   - Sao lại bi-quan tới thế? Cả một tương-lai ở trước mặt em.
   - Cám ơn thầy, em đùa vậy thôi.
   Du nói:
   - Thế chứ. Chẳng lẽ nào.
   Quý vui-vẻ trở lại:
    - Để em kể thầy nghe chuyện hai mối tình đầu của em.
    - Cái gì mà hai mốt tình đầu?
   Quý cười:
    - Cách đây ít lâu, tình-cờ em gặp một cô gái Đại-Hàn bán hoa bên dọc đường. Nàng có nụ cười rât xinh. Vì xe cộ lưu-thông, lần đầu em chỉ kịp trả tiền, nói vài tiếng. Người con gái đó đúng là người em mơ-tưởng.
   Quý im-lặng vài giây rồi tiếp:
   - Mấy ngày sau em vào sở xin nghỉ. Một năm có hai tuần nghỉ hè, em lấy hết để gặp nàng. Nhưng hôm sau … những hôm sau nữa … em chỉ gặp người mẹ. Bà này mảnh-khảnh cũng đẹp.
   - Và em yêu người mẹ?
   - Chưa thầy. Em dậy từ 6 giờ sáng để có mặt tại đó lúc 8 giờ mà không được gặp. Cả ngày quanh đi quẩn lại chỗ bán hoa. Gần hai tuần lễ nghỉ hè trôi qua. Tình-cờ em gặp thằng bạn Đại-Hàn cùng lớp ngày trước. Em rủ nó đi cho vui. Em lái xe. Nó ngồi bên cạnh. May-mắn em gặp nàng. Em bảo nàng là em cần một bó hoa thật đặc-biệt. Nàng không hiểu tiếng Mỹ lắm. Thằng bạn ngồi cạnh thông-dịch hộ em. Nhìn nét mặt mừng-rỡ và kiều-diễm của nàng, em thấy mát lòng. Năm phút sau, nàng sắp-xếp bó hoa mang lại. Thằng bạn bảo em đưa cho nàng hai mươi đồng. Em đưa năm chục. Nàng không đủ tiền trả lại. Em bảo cứ để đó lầ sau sẽ tính.
   Du buột miệng:
   - Khá đấy!
   Quý lắc đầu:
   - Khá gì thầy. Khi em hỏi thằng bạn xem nó đã nói gì? Nó bảo nàng làm một bó hoa thật đặc-biệt cho vợ của em; em yêu vợ lắm! Sau đó nó tán-tỉnh lấy được nàng. Thấy em chưa vợ, nó bảo mẹ nàng đẹp và còn trẻ. Nếu em đồng-ý thì vợ chồng nó hết lòng giới-thiệu.
   Quý nhún vai:
   - Mẹ em còn ở Việt-Nam. Bà mà biết em có thằng con rể lớn đến thế, chắc bà chết rét mất. Thế là mối tình thứ hai tan-vỡ!
   Du gõ nhẹ ngón tay trên cửa kính:
   - Em có óc hài-hước đấy.
   - Em không hài-hước đâu. Chuyện thật. Để em lấy ảnh cho thầy coi.
   Quý loay-hoay mới móc được ví. Chàng đưa cho Du hình một cô gái Á-Đông tóc dài, áo đỏ.
   - Đây thầy. Em không giỡn đâu.
   - Sao em có tấm ảnh này?
   - Thằng chồng nó cho em.
   Du ngạc-nhiên:
   - Em nói gì? Người chồng của cô ta cho em?
   - Vâng. Sau ngày cưới, em xin chồng nó một tấm hình hai vợ chồng chụp chung. Thầy nghĩ em giữ ảnh thằng chồng làm gì? Em lấy kéo cắt hình nó ra vứt vào sọt rác, giữ lại hình của vợ nó thôi.
   Du lắc đầu:
   - Tôi chịu cậu!
   Quý cười thành tiếng:
   - Đời buồn quá! Em giữ cho bớt cô-đơn.
   Hai người im-lặng. Quý vặn máy truyền-thanh. Tiếng nhạc dứt. Chuyên-viên thời-tiết thông-báo sáng sớm thứ hai sẽ có bão lớn.
   Quý lẩm-bẩm:
   - Hôm nay thứ sáu, chỉ còn thứ bẩy, chủ-nhật. Thứ hai lại bão mất mấy ngày. Bão lớn, sao thầy đi chơi được?
   Du trả lời:
   - Không cần. Còn công-việc của em ra sao?
   - Sau khi ra trường, em có việc tại một nhà băng.
   - Em tốt-nghiệp ở đâu?
   - Thưa thầy, Harvard.
   Du hỏi tiếp:
   - Hiện em làm gì?
   - Thưa thầy, senior vice president, phó chủ-tịch.
   - Em học Harvard từ những năm đầu của đại-học?
   - Không, em chỉ bắt đầu ở đó từ nhừng năm cao-học trở đi.
   Du vui-vẻ:
   - Em tiến nhanh đấy.
   Quý cười:
   - Nhanh gì thầy. Ngân-hàng chỉ có hai loại việc chính. Các em bank tellers tay làm, mồm đếm. Các phó chủ-tịch cổ nổi gân vì thuyết-phục khách hàng. Một nhà băng có khoảng vài ngàn tellers, hàng chục phó chủ-tịch, số còn lại là vài người dọn-dẹp. Em không có khả-năng thu tiền, hốt rác thì họ phải cho em làm phó chủ-tịch là đúng rồi.
   Du thấy bản-chất của Quý vẫn thế. Lúc còn là học sinh tuy Quý đứng-đắn, ngoan-ngoãn nhưng trong giờ vui, hễ Quý mở miệng là cả lớp cười.
   Du hỏi:
   - Người Việt vùng này bây giờ ra sao?
   - Nói chung khả-quan. Đa-số những người có uy-tín giữ thái-độ im-lặng. Những nhóm ồn-ào bị tuổi trẻ ở đây chặn họng hoài.
   Ngẫm-nghĩ một lúc, Quý nói tiếp:
   - Khởi đầu có mấy ông già đứng ra lập hội Khổng học. Tội nghiệp! Họ dành-dụm tiền lương già để làm báo. Máy chữ không biết đánh, computer không biết dùng, bài lại không biết viết nên giao cả cho tụi trẻ. Một cô sinh-viên tới xin bài, em viết vội cho mấy bài thơ ngắn. Sau này em mới biết cô ta là cháu cụ chủ-tịch. Báo tiêu-thụ nhanh chóng vì gần như phát không. Chủ-nhiệm, chủ-bút không hề kiểm-soát bài vở. Mấy hôm sau có người đọc bài thơ của em liền mách với hội. Các cụ giận lắm. Em tưởng viết bài cho sinh-viên chứ đâu ngờ viết bài cho tờ báo chính-thức của hội Khổng học.
   Du hỏi:
   - Bài thơ đó như thế nào?
   Quý đọc:

      Gặp ông Khổng-Tử bên đường,
Cầm dây ông kéo: kẻ khùng, người điên.
      Gặp ông Lão-Tử hái sen,
Nghêu-ngao ông hát: kẻ điên, người khùng (*)

   Du khen:
   - Quý làm thơ hay lắm.
   Quý kể tiếp:
   - Cám ơn thầy. Cụ chủ-tịch từ-chức. Cụ phó lên thay. Cụ này cẩn-thận hơn. Lần này, cụ và người con đích-thân coi tờ báo nhưng rồi tai-nạn vẫn xẩy ra.
   - Sao thế?
   Quý trả lời:
   - Một thằng xỏ-lá nó viết cho bài khảo-cứu về Khổng học. Bài trích-dẫn chữ Hán đàng-hoàng. Thằng này thất-tình con ông chủ-bút. Nhiều đoạn thay vì nói “Tử viết” nghĩa là “Khổng-Tử nói rằng”, nó nói “Tử xổm tọa viết”. Có lẽ ý của nó là “Khổng-Tử ngồi xổm mà nói rằng”. Ông cụ chủ-nhiệm và ông con chủ-bút đều không biết chữ Hán.   
   Quý than:
   - Một chủ-tịch nữa từ-chức. Hội Khổng học tan!
   Du hỏi:
   - Không ai thay thế à?
   Quý giải-thích:
   - Thầy thử nghĩ, có năm cụ nhịn ăn để đóng góp. Hai cụ nghỉ, còn lại ba cụ thì làm sao chịu được. Các cụ cũng cần tiền mà sống chứ.
   - Còn chuyện gì nữa không?
   Quý trả lời:
   - Thưa còn chuyện một ông bác-sĩ nói tiếng Việt không rành muốn phát-huy truyền-thống dân-tộc để lấy quỹ. Ông ấy yêu-cầu em kêu gọi sinh-viên tới nghe thuyết-trình. Ông ấy bằng lòng đãi họ một chầu phở. Vài anh sinh-viên bảo ai thuyết-trình thì họ tới, ông bác-sĩ văn-hóa kiếm tiền thì không. Lỡ hứa với ông, em gặp mấy cậu có ảnh-hưởng và các cô đẹp nhất nhờ giúp-đỡ. Kết-quả khá lắm. Chật hai xe “van”.
   Du chậm rãi:
   - Sao họ nghe em như vậy.
   Quý giảng-giải:
   -Thầy tính, mỗi khi các cô, các cậu ấy nộp đơn vay tiền, em dành cho họ nhiều dễ-dãi. Tình đồng-hương mà thầy.
   - Em là người can-đảm.
   Quý giảng-giải:
   - Nói vậy chứ họ rất thẳng-thắn. Ai trục-trặc chuyện gì thường cho em biết trước.
   Quý tiếp-tục câu chuyện:
   - Ai ngờ sau khi ông bác-sĩ thuyết-trình, mấy anh sinh-viên quay ông như chong-chóng. Họ hỏi truyền-thống là gì? Ông ấy lúng-túng nói quanh những chuyện mở lớp tiếng Việt, ăn nước mắm.
Ông kể y-phục "truyền-thống” của phụ-nừ Việt-Nam là hoa tai, áo dài, vòng vàng, giầy dép và áo lót … Các cậu vỗ tay. Các cô đỏ mặt. Ông bác-sĩ hý-hửng đắc-ý. Một cậu sinh-viên đứng lên kết-án ông ấy xâm-phạm thuần-phong, mỹ-tục.
   Du ngạc-nhiên:
   - Thế cơ à?
   Quý cười:
   - Cậu ấy hạch-hỏi: bác-sĩ nói ra tất cả mọi thứ, kể cả áo lót nhưng bác-sĩ không nói gì tới cái quần. Bác-sĩ gián-tiếp bảo người con gái Việt-Nam mặc áo dài mà không mặc quần. Nói như thế  là nói bậy. Ông bác-sĩ bực-tức bỏ phòng hội ra xe. Ông ta kết-án em xúi bẩy họ. Mệt quá! Làm ơn nên oán.
   Du nhìn sang Quý:
   - Em có ảnh-hưởng với giới trẻ nhỉ?
   Quý cười nửa miệng:
   - Cái gì mấy cô, cậu ấy làm, người ta đều cho em đứng phía sau giật dây. Sự thật không phải vậy.
   Du hỏi:
   - Còn chuyện gì nữa không?
   Quý kể:
   - Còn ông trung-tá hắc-ám. Bẩn không chịu được mà đòi thành-lập mặt trận này, mặt trận nọ. Hôm đó, trong một phiên họp, ông tự giới-thiệu và tô bóng mình lên tận mây xanh. Một anh trẻ tuổi ngứa tai đứng dậy tự giới-thiệu, anh cũng là con cháu tướng-tá nhưng là con tá …điền, cháu tướng … cướp. Cả hội-trường vỗ tay tán-thưởng. Lúc giải-tán, anh ta tìm gặp em, một điều thưa anh, hai điều xưng em. Thế là ông trung-tá đổ ngay cho em ngấm-ngầm phá-phách. Ông ấy dọa trừng-trị em.
   - Có sao không?
   Quý lắc đầu cười:
   - Không. Mấy vị đàn anh của ông ấy quý em lắm. Giới nào cũng có người đáng kính.
   Bỗng Quý đập nhẹ vào tay lái:
   - Giống hệt.
   Du hỏi:
   - Gì thế Quý?
   Quý nhìn về phía xa mơ-màng không trả lời ngay, lúc sau mới chậm-rãi nói:
   - Ngày xưa, chuyện gì xẩy ra trong trường các giáo-sư đều nghĩ có bàn tay thầy nhúng vào.  Thầy càng bị oan, không cải chính; chúng em càng thương thầy. Em nhớ khi dậy chúng em, thầy chỉ hơn đứa lớn nhất dăm tuổi là cùng. Lúc đầu, em không phục thầy nhưng tình-cảm em thay đổi mau chóng. Chỉ có thầy không coi chúng em như những con số. Thầy săn-sóc từng đứa dù dậy nhiều lớp. Thầy nhiệt-tâm và chia sẻ. Trong trường chỉ có vài giáo-sư sống theo lời mình nói.
   Du bảo Quý:
   - Đừng đả-động tới các thầy khác. Tôi lúc đó độc-thân và quá trẻ để nghĩ tới mình. Các thầy có gia-đình, con cái. Làm sao họ có giờ như tôi được.
   Quý trả lời:
   - Không phải là thời-giờ mà lòng yêu mến học trò. Nhiều chuyện thầy cao-thượng ngấm-ngầm tưởng không ai biết nhưng chúng em biết cả.
   - Em biết gì? Đừng gán cho tôi những điều mà tôi không làm.
   Quý nhìn Du trìu-mến:
   - Thầy đã yêu-thương chúng em thực-sự. Thầy là cha mẹ, là anh em, là bạn-bè. Cửa nhà thầy luôn luôn mở rộng. Thầy có mặt lúc chúng em cô-đơn, cần giúp-đỡ. Mỗi lần dậy, thầy đều bỏ ra mươi phút chia-sẻ nhừng nhận-định với học trò. Thầy vô-tình đặt một tiêu-chuẩn mới cho các giáo-sư bởi vậy nhiều ông ghét thầy lắm. Họ tấn-công thầy.
   Du ôn-tồn:
   - Quý à, em đang tô đẹp những kỷ-niệm rồi đấy.
   Quý không đồng-ý:
   - Không đâu. Như chuyện của An. An lúc đó nghèo, không đủ tiền đóng tiền học. Chị ấy bực-dọc nên thất-kính với thầy. Thầy giận đến lặng người mà chỉ thở dài. Rồi chị ấy được cha Giám-Đốc cho tiền học hết năm ấy và cả năm tiếp theo. Khi lấy chồng, chị ấy mời giáo-sư khác lại không mời thầy. Sau An mới biết thầy là người đóng tiền học. Thầy yêu-cầu phòng thâu-ngân lấy danh-nghĩa nhà trường. Chị An chẩy nước mắt mỗi lần nhắc tới thầy.
   Du không nói gì. Chàng đang nhớ tới mái trường với hàng phượng đỏ rực-rỡ trong mùa nắng hạ vàng, những buổi trưa vắng nghe người gác cổng kể chuyện quê-hương của ông.
   Quý vẫn thao-thao trong kỷ-niệm:
   - Em còn nhớ thằng Ngạc mang lựu-đạn vào trường tìm giáo-sư Đỉnh. Mọi người chạy hết. Thầy dám chặn nó lại. Khi trái lựu-đạn nằm trong tay thầy, người ta mới đòi báo cảnh-sát. Thầy phản-đối. Em chơi bóng bàn phía sau nên nghe rõ tiếng thầy tranh-luận trong phòng giáo-sư. Tụi em không ngờ thầy che-chở cho Ngạc đến như vậy: "Nó là học trò. Chúng ta không nhờ cảnh-sát trừng-phạt nó … Nó không phải là đứa học trò khó bảo …Trái lựu-đạn đã được lấy đi ngòi nổ từ trước…Tôi nhận trách-nhiệm sửa đổi Ngạc … Tôi sẽ từ-nhiệm nếu nó không tiến-bộ”.  Thằng này về sau ngoan nhất. Không ngoan cũng chả được, nó giở trò gì tụi em đánh nó mềm xương .
   Du nhăn mặt:
   - Chỉ nói bậy. Máy đứa nam sinh các cậu hung-hăng quá.
   - Thầy nhầm rồi. Tụi nữ sinh đưa ra ý-kiến đó. Bọn nam sinh chỉ sẵn-sàng thi-hành. Chúng em đâu có thể mất thầy được.
   Du dấu sự xúc-động. Lòng chàng ấm lại:
   - Không ngờ các học trò nghĩ tới tôi như vậy.
   Quý mỉm cười:
   - Lũ Hướng-Đạo cũng yêu mến thầy lắm chứ
   - Em biết gì về các Hướng-Đạo của tôi? Họ ở cả Sàigòn.
   Quý nheo mắt:
   - Em biết rõ lắm. Biết từng kỷ-niệm của những lần cắm trại. Biết những câu chuyện dưới cờ. Biết thầy đau-đớn bên người thiếu sinh bị nạn, biết liên-đoàn Sông Hồng, biết …
   - Ai nói với em?
   - Tuấn. Lê Xuân Anh-Tuấn. Nó ở chung với em.
   Du mừng rỡ:
   - Sao em không nói với tôi ngay từ đầu?
   - Nếu em nói, thầy đâu thèm nghe những chuyện khác.
   Quý trêu Du:
   - Em còn biết tên một chị Hướng-Đạo có đôi mắt rất đẹp. Người mà thầy chụp cái hình giữa  đám nữ thiếu sinh. Bên dưới cái hình là hai câu thơ của Hàn Mặc Tử:

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

   Thầy mê chị ấy phải không ?
   - Không. Tuấn nó nói gi?
   - Không nói gì. Em đùa thầy đấy. Tuấn bảo thầy không biết tán-tỉnh. Nó sợ không khéo thầy giống ông Lý Thường Kiệt. Tới khi biết thầy có thể bị đi lính, không có giấy miễn-dịch vĩnh-viễn, nó mới yên-tâm.
   Du trách:
   - Các cậu hết chuyện, đem tôi ra riễu phả không?
   Quý vừa cười vừa phân-trần:
   - Đâu có. Thằng Tuấn nó sắp ra bác-sĩ y-khoa phải trực nhà thương lu-bù. Thời-giờ đâu mà nói chuyện bá-láp. Chuyện của thầy mang đầy yêu-thương, huyền-thoại nên tụi em nói hoài không chán. Thỉnh-thoảng em bịa vài chuyện ngược đời như chuyện thầy mê cô Thục-Loan chẳng hạn.
   Du lắc đầu cười:
   - Gì nữa. Tôi có trách-phạt Quý đâu mà em ác đức quá vậy?
   - Em ngán cô ấy kinh-khủng! Em nghĩ mấy giáo-sư khác không ai cao tay hơn cô ta. May ra có thầy.
   Du hỏi:
   - Còn chuyện gì em gán cho tôi nữa không?
   Quý cười:
   - Chuyện khác không quan-trọng. Thằng Tuấn biết chuyện cô Thục-Loan là bịa ngay. Nó hiểu anh của nó lắm.
   - Thế à.
   Quý cười:
   - Em kể cho nó nghe một lần gặp thầy ngó vào nhà cô Thục-Loan như ngây như dại. Nó bảo em sạo. Thầy không bao giờ lộ-liễu như vậy.
   Du hỏi:
   - Tuấn ở đâu bây giờ?
   - Nó đi đám tang người quen ở Michigan. Hy-vọng sẽ về đêm chủ-nhật hoặc muộn nhất đêm thứ ba. Thầy đừng sốt ruột, nó kiếm thầy ngay sau khi biết tin.
   Du vui-vẻ:
   - Mừng quá. Một tuần gặp hai người thân. Nhất là thấy các em thành-công cả.
   - Về khía cạnh học-vấn thì tàm-tạm. Về khía cạnh khác thì không.
   - Khía cạnh nào?
   Lòng Quý chĩu xuống, giọng nói chợt buồn:
   - Tình yêu chẳng hạn.
   - Của em hay của Tuấn?
   - Cả hai.
   - Tôi quá tò-mò khi hỏi vào chi-tiết không?
   Quý lắc-đầu:
   - Không thầy. Để em kể thầy nghe. Tuấn hứa hôn với một người con gái. Nàng đẹp thùy-mị nhưng rất lạnh-lùng. Nàng nhận lời cầu-hôn của Tuấn sau khi mẹ nàng đau tim phải vào nhà thương.
   - Và được Tuấn săn-sóc?
   - Tuấn chưa phải bác-sĩ thực-thụ nhưng có coi hồ-sơ bệnh lý. Điều mà Tuấn dằn-vặt lo-ngại cho tới bây giờ là bà ta chỉ giả vờ đau tim để ép nàng lấy Tuấn. Tuấn biết điều đó mà không nói với người yêu.     
   Duy nhíu mày:
   - Tuấn là người thẳng-thắn. Nó không làm vậy. Liệu có sự ngộ-nhận không?
   - Không. Chính Tuấn kể với em. Tuấn bảo người yêu của nó đã biết chuyện.
   - Cô ta nói gì không?
   - Mỗi khi Tuấn đến thăm, cô ta nói vài câu rồi cáo mệt lên nhà. Tuấn sợ chuyện từ-hôn sẽ xẩy ra.
   - Sao em không góp ý với Tuấn?
   - Theo thầy, em nên khuyên nó thế nào?
   Du nghiêm nét mặt:
   -  Nói sự thật.
   Quý im-lặng nhìn vào quãng không. Người học trò cũ là bức tượng không hồn. Du thở dài:
   - Em yêu nàng phải không?
   Trầm-ngâm một lúc, người thanh-niên tiếp:
   - Em nghĩ nếu vì lời khuyên của em mà nàng từ hôn với Tuấn, em sẽ khó ăn nói. Bởi vậy em giữ im-lặng. Nhưng dù Tuấn thú-thật hay không, nó vẫn mất nàng.
   Du hỏi:
   - Sao em nghĩ như thế?
   Giọng Quý đầy xót-xa:
   - Em ghé qua trường đại-học của nàng. Một lần thấy nàng ngồi trong Cafeteria một mình nâng-niu chiếc vòng ngọc-bích như dại-khờ. Lần khác, nàng vẫn ngồi nơi cái bàn đó, đầu cúi xuống. Chiếc vòng ngọc nằm giữa hai bàn tay chập lại. Nàng đang khóc.
   - Hy-vọng ngày nào đó, người ta nhìn thấy giá-trị của người như các em.
   Quý cười buồn:
   - Không đâu thầy. Nàng là con ngựa hoang mà em không là núi cao, rừng thẳm. Tuấn không là bãi rộng, sông dài.
   Du điềm-đạm:
   - Tuấn biết em yêu nàng không?
   - Không. Chuyện này chỉ có thầy biết. Đời em rất vui, tương-lai rất hồng dưới mắt mọi người. Em không làm gì để hổ-thẹn với Tuấn dù trong ý-nghĩ.
   Du gật đầu đồng-ý:
   - Tôi biết.
   - Đáng lẽ Tuấn phải biết nàng yêu người khác. Vài năm trước nghe đâu nàng hát cho các buổi sinh-hoạt cộng-đồng. Bây giờ, nàng không bao giờ cầm lấy bản nhạc. Cộng-đồng nhờ em mời không được. Họ lại nhờ Tuấn mà vẫn không thành-công.
Quý nhìn sang người thầy cũ. Trên khuôn mặt xa vắng phảng-phất nỗi mất-mát không cùng.
   Du bảo Quý:
   - Ra exit tới nhé.
   - Khách-sạn nào thầy?
   - Marriott
   - Chương-trình những ngày tới như thế nào đây thầy? Mai thầy đi dự văn-nghệ Việt-Nam cho vui.
   - Văn-nghệ gì vậy?
   - Do cộng-đồng tổ-chức. Đủ cả văn võ bá quan.
Du hỏi:
   - Em có chân trong ban tổ-chức không?
   - Thưa thầy có.
   - Các cụ không còn giận em à?
   - Không đâu. Vùng này mọi người đều yêu hòa-bình, kể cả ông bác-sĩ, ông trung-tá kết-án nhầm em. Em theo chủ-nghĩa “dĩ hòa vi quý” của thầy. Coi ai cũng quan-trọng cả, nhất là không đả-kích, cô-lập người nào. Thầy đi dự nhé!
   - Có lẽ …
   Quý tha-thiết:
   - Em rất mong thầy đi dự.
   - Thôi được. Như thế này đi. Tôi cất hành-lý rồi chúng ta đi ăn tối. Sáng mai em đừng tới, hãy lo việc tổ-chức.
   Quý dặn:
   - Mai sáu giờ chiều em tới đón thầy.
   - Thế đi.
   - Ngày chủ-nhật sao thầy?
   Du nói:
   - Tôi đưa một người đi thăm thành phố như đã hẹn trước.
   - Ai đấy thầy?
   - Người phụ-tá của tôi. Sáng thứ hai, chúng tôi muốn coi lại bài thuyết-trình lần chót.
   - Thầy thuyết-trình lúc nào?
   - Lúc hai giờ chiều. Nếu em rảnh, chúng ta gặp nhau ngày thứ ba.
   Quý dừng xe lại. Chàng đưa chìa khóa cho nhân-viên khách-sạn mở thùng xe lấy hành-lý.
   - Thôi để thầy nghỉ-ngơi. Em gặp thầy sau. Em ghé qua chỗ tổ-chức văn-nghệ một chút. Nếu Tuấn về, em sẽ đưa tới gặp người anh mà nó hết lòng kính-trọng.
   - Quý này!
   - Thầy cần gì?
   Tiếng Du thật gần-gũi:
   - Nếu muốn, em có thể gọi tôi là anh.
   Quý cảm-động nhìn Du lắc đầu:
   - Cám ơn thầy. Cho em giữ lối xưng-hô cũ. Bao giờ thầy vẫn là người thầy của em.

***

   Du nhìn lên sân-khấu. Thùy trong chiếc áo vàng tha-thướt đang đắm-chìm trong tiếng hát xa vời. Những âm-thanh đưa Du vào nỗi buồn bất-tận. Bài hát là mưa rơi trên thành phố của một thời yêu-đương …
   Lần này Du trở về tìm lại bóng kỷ-niệm ngày cũ. Du muốn ngồi một mình trong quán xưa tưởng nhớ chút hương tàn quá-khứ của một thuở yên-vui.
   Mọi chuyện bây giờ là vô-vọng. Giữa hai người có giòng sông ngăn cách. Sự hiện-diện của Tuấn như cơn nước lũ chẩy về. Mặt sông đã dâng lên. Du không còn nhìn thấy bờ bên kia. Bài hát ngọt-ngào chỉ dành cho mình Du ngày trước, đêm nay Thùy phung-phí cho tất cả mọi người.
   Trước đây khi quyết-định rời bỏ thành phố này, Du tìm Thùy nhiều lần. Nàng không giải-thích điều gì. Buổi chiều cuối cùng thấy Thùy bơ-vơ ngồi giữa sân cỏ xanh mướt, Du bước tới:
   - Cho anh nói với em một chút.
   Thùy khẽ đáp:
   - Vâng, em cũng muốn nói với anh.
   Ngập-ngừng vài giây, Thùy tiếp-tục:
   - Em muốn xin anh thì đúng hơn.
   Du nhìn sâu vào mắt người con gái đẹp:
   - Em nói đi, không cần phải xin. Anh sẽ làm những điều em muốn.
   Thùy gật đầu:
   - Cám ơn anh. Từ nay xin anh đừng bao giờ gặp em nữa.
   Du sững-sờ. Anh đã làm gì để người yêu nói ra câu đoạn-tuyệt này! Anh đau-đớn hỏi:
   - Tại sao? Cho anh biết lý-do được không?
   Thùy cương-quyết lắc đầu:
   - Không cần-thiết nữa đâu anh.
   Hai người im-lặng. Lúc lâu sau, Du buồn-bã hỏi:
   - Đó thật là điều em muốn phải không?
   Thùy mím môi gật đầu. Du thở dài:
    - Anh chiều theo ý Thùy.
   Du lờ-mờ đoán nhận câu chuyện xẩy ra do mẹ Thùy và Kim-Anh. Kim-Anh là chị của Thùy. Đôi khi sự săn-đón nồng-nàn của Kim-Anh làm chàng ngần-ngại. Du giừ khoảng cách để tránh sự ngộ-nhận. Kim-Anh rất đẹp. Tính-tình nhậy cảm. Nàng yếu-đuối, bệnh-hoạn nên được mẹ săn-sóc nhiều hơn. Du không rung-động trước sắc đẹp bề ngoài đó. Chàng cần một người để yêu-thương, chia-sẻ và có tâm-hồn. Người đó là Thùy. Tình yêu và sự dịu-dàng của Thùy làm nguôi-ngoai những vết đau của roi đời ngày cũ. Du tìm được hạnh-phúc mà chàng mong-mỏi.
   Một lần dự tính tương lai, Thùy nói:
   - Du là mái che. Du là cột chống. Nhưng khi lấy Du, em muốn đóng góp nhiều hơn cho gia-đình.
   Du ôn-tồn:
   - Đừng phân-biệt cái gì của em, cái gì của anh.
   Thùy đồng-ý:
   - Chính vì không phân-biệt nên em mới nói như vậy. Em yêu lý-tưởng của Du. Em muốn Du thực-hiện mộng-ước của anh, của chúng ta. Khi chưa gặp Du, em đã sợ lấy phải người chồng chỉ biết đi làm, về nhà nấu bếp, giặt quần áo, coi máy truyền hình, bảo gì nghe đấy. Em không thích chồng em mềm như sợi bún, chỉ vì vợ mà dẫm lên cả những nguyên-tắc của đời sống.
   Du nghĩ tới những ngày tháng cũ, chàng nói :
   - Muốn bảo-vệ nguyên-tắc của đời sống, người ta thường phải trả giá rất đắt đấy Thùy ạ.
   Thùy âu-yếm:
   - Em biết anh đã từng trả giá để anh còn là anh. Mong anh tiếp-tục giữ điều đó.
   Du cảm-động:
   - Anh chưa bao giờ nhiều hạnh-phúc như lúc này.
   Thấy Du im-lặng, Thùy hỏi:
   - Anh nghĩ gì đấy?
   - Anh thật may-mắn. Đa số những người con gái thích người tình tài-hoa, có lý-tưởng, nhiều nghệ-sĩ tính. Sau khi lập gia-đình, họ lại thích người chồng chỉ biết mình và con cái.
   Thùy nhìn người yêu:
   - Du của em khéo nói. Em cần một người để nâng-tựa tâm-hồn chứ không cần một tên nô-lệ. Thật ra nếu em muốn một tên nô-lệ, em sẽ mất Du trong tâm-tưởng của anh. Em sợ điều đó lắm.
   - Đừng sợ. Tình yêu của anh cho em là tình yêu bền vững.
   - Chắc-chắn thế nhé.
   Du quả-quyết:
   - Anh hứa.
   Một lần Thùy mượn xe Du về nhà. Du chỉ chiếc áo khoác trên chiếc ghế cạnh Thùy. Khi lấy chìa khóa, Thùy thấy ảnh một cô gái trong túi áo. Nàng đứng lên lặng-lẽ bảo:
   - Em đổi ý. Chắc em về luôn.
   - Để anh đưa em về.
   - Thôi, mặc em. Anh cho em tự-do.
   Nhìn vẻ mặt buồn rầu của người yêu, Du lo-lắng:
   - Thùy, sao thế?
   Thùy rung-rưng nước mắt lắc đầu. Nàng ôm sách bỏ đi. Du tần-ngần ngó theo.
   - Thùy!
   Thùy vội-vã như chạy trốn. Du tìm ở nhà, nàng đi vắng. Du tới trường nàng để đón, nàng không đi học. Du gọi điện-thoại, Kim-Anh nói Thùy mệt đã ngủ. Du tìm Thùy khắp các thư-viện. Hôm đó trời mưa lớn, Du nhìn vào quán ăn nơi hai người thường ghé qua. Chàng đứng bất-động thật lâu, người ướt sũng. Không có Thùy ở đó, chàng bước xuống con đường rẽ. Có tiếng chân chạy theo. Bàn tay Thùy níu lấy Du:
   - Em đây, Du.
   - Thùy! Anh tìm kiếm em khắp nơi.
   - Em xin lỗi anh.
   Du lắc đầu:
   - Thùy, sao em trốn anh? Ướt hết rồi. Tìm chỗ trú đi.
   - Không. Anh hãy đi với em dưới mưa. Chiều em một chút. Đằng nào cũng lỡ ướt rồi.
   Hai người thong-thả đi hết phố này đến phố khác. Khi qua  một chỗ ống máng hư, nước mưa từ mái cao đổ xuống. Thùy đẩy Du vào:
   - Để em rửa sạch tội lỗi cho Du.
   Du đứng im theo ý Thùy. Nước đổ xuống đầu chàng mát lạnh. Bỗng nàng đẩy Du ra, đứng thế vào chỗ của chàng.
   - Tới phiên em.
   - Sao vậy?
   Thùy nồng-nàn:
   - Tại em muốn thay đổi quá-khứ của Du, một việc mà anh không thể làm được. Em hư quá!
   - Em nói gì?
   - Tấm hình trong túi áo anh!
   Du cười lớn, ôm lấy Thùy:
   - Ghen bậy rồi, cô bé!
   Thùy ngước mắt lên:
   - Anh nói sao?
   - Tấm hình của vợ anh Trung. Anh ấy nhờ anh mang đi phóng lớn.
   - Em tưởng cô bồ của anh.
   Du lắc đầu:
   - Nếu em nói cho anh biết có phải đỡ ngộ-nhận không?
   - Du à. Em có nhiều khuyết-điểm. Đừng chấp em. Em sẽ cố-gắng sửa đổi.
   Du than:
   - Em làm anh khổ sở quá!
   Thùy cười:
   - Anh tưởng em sung-sướng lắm sao? Em còn hồ-nghi người đó là vợ anh ở Việt-Nam nữa. Nhưng sau khi nghĩ kỹ, em chấp-nhận giải-pháp cuối cùng.
   Du hỏi:
   - Giải-pháp gì?
   - Nếu anh có hạnh-phúc với người đàn bà đó, em không gặp anh nữa. Nếu anh khổ-sở, em sẽ cướp Du trong tay họ. Du phải có hạnh-phúc.
   Du sợ sự liều-lĩnh của Thùy.
   - Thùy!
   Thùy trả lời ngọt-ngào, ngoan-ngoãn:
   - Dạ.
   Du nghiêm-trang:
   - Anh muốn nói điều này với em.
   Thùy lắc đầu:
   - Anh không cần nói điều gì cả. Em yêu Du.
   - Nhỡ anh nói dối em thì sao?
   Thùy lắc đầu:
   - Em không thấy anh nói dối ai bao giờ, dù chỉ một lần.
   Du vuốt tóc người yêu. Tay anh làm lược trên mái tóc mây sũng nước.
   -  Anh không hề yêu một người nào trước em.
  Hai người tung-tăng. Họ ngôi bên chiếc xe bán đồ ăn tầu để trú mưa, nói chuyện tự-do như ông bán hàng không là gì cả. Tới lúc trả tiền, Du hỏi:
   - How much?
   Người đàn ông trả lời bằng tiếng Việt:
   - Anh chị cho mười lăm đồng.
   Thùy che mặt cười khúc-khích:
   - Chết em rồi! Ông biết tiếng Việt!
   Ông bán hàng hóm-hỉnh:
   - Tôi chưa thấy ai yêu nhau như anh chị mà chết bao giờ.
   Du đưa Thùy ngang qua công-viên. Mưa lại giăng đầy trời. Họ ngồi trên hai chiếc đu của trẻ con đong-đưa, cười đùa. Một chiếc taxi dừng lại. Người tài-xế ngó đầu ra la lớn:
   - Are you crazy?
   Du đưa hai tay lên làm loa trả lời:
   - Yes, we’re crazy in love.
   Ông tài-xế mập giơ cao ngón tay cái chúc-tụng:
   - May God bless you!
   Khi về đến nhà, Thùy ngăn Du lại:
   - Không được. Đừng cho mẹ em thấy.
   - Sợ gì.
   Thùy nhẫn-nại:
   - Không sợ gì nhưng để từ từ đã. Mẹ nhắn Du đưa chị Kim-Anh đi bác-sĩ ngày thứ bẩy tới. Sau đó, đưa chị ấy đi Connecticut gặp một người bà con chủ-nhật sau. Anh có rảnh không?
   Du lưỡng-lự:
   - Đi nhà thương thì được. Anh nhờ Dũng đưa Kim-Anh đi Connecticut.
   - Dũng nào?
   - Dũng là người đưa mẹ em đi nhà thờ tháng trước đó. Dũng tử-tế lắm.
   Thùy lắc đầu:
   - Mẹ em chỉ tin-tưởng Du. Còn ai bà ấy cũng nghi-ngờ.
   - Anh đa-nghi giống mẹ. Dũng chở Kim-Anh đi đâu cũng được. Nếu nó chở em, chắc anh bị đau tim mà chết.
   Thùy cười sung-sướng:
   - Đừng chết! Đừng chết! Em mãi mãi là của Du.
   Câu nói đó không bao giờ Du quên nhưng với Thùy có lẽ không còn quan-trọng. Nàng từ-khước tình Du. Nàng nhận lời cầu hôn của Tuấn. Đêm nay Du nhìn Thùy một lần chót. Một lần để nhớ trọn cuộc đời. Rồi mai Du lại tiếp-tục chuỗi ngày lênh-đênh vô-định.
   Chàng toan đứng dậy thì Quý đã lên tiếng:
   - Thầy làm sao vậy?
   - Tôi hơi mệt nên về trước; sẽ gặp em sau.
   - Em đưa thầy về.
   - Em ở trong ban tổ-chức nên ở lại. Tôi đi taxi được.
   - Không, em đưa thầy về.
   Du bước ra ngoài. Đêm đã lạnh. Những vì sao lớn lên giữa khoảng mù sương. Cả bầu trời âm-u như muốn khóc. Người học trò ân-cần:
   - Em đưa thầy đi nhà thương nhé.
   - Cám ơn Quý, không sao đâu. Cứ bỏ tôi tại khách-sạn rồi quay trở lại.
   Quý nhấn ga. Chiếc xe lướt nhanh vào xa-lộ. Tiếng còi tầu từ dưới sông đưa lại như gọi hồn Du tỉnh dây.
   Quý hỏi:
   - Thầy đỡ rồi chứ?
   Giọng Du trầm xuống:
   - Tôi đã bình-thường.
   Quý dò hỏi:
   - Thùy hát hay quá, thầy nhỉ?
   - Hay lắm.
   Quý thở dài:
   - Em chỉ tội-nghiệp.
   - Hát hay mà cũng tội-nghiệp sao?
   - Thầy đã ở đây trước khi em tới. Thầy có biết Thùy không?
   - Biết.
   - Có phải …
   Quý ngập-ngừng một chút rồi nói tiếp:
   - Có phải chiếc vòng bích-ngọc của Thùy do thầy tặng không?
   Du im-lặng. Quý đưa thẳng vào chuyện:
   - Chuyện của thầy đáng lẽ em không nên lạm bàn. Nhưng em sẽ hối-hận nếu không nói. Thầy cho phép được góp ý không?
   - Em cứ nói.
   - Thùy là nạn nhân của gia-đình. Vì người chị yếu-đuối, người ta đã xếp-đặt câu chuyện để Thùy xa thầy. Sau đó để Thùy nhận lời cầu hôn của Tuấn. Kim-Anh nhất-quyết đợi thầy trở về. Mẹ Thùy là người không công-bằng. Bà lấy quyền gì mà lấy hạnh-phúc của đứa con này cho đứa con khác?
   Du hỏi mà hồn còn bay bổng nơi xa:
   - Việc Thùy cắt đứt với tôi là do sự sắp-xếp của gia-đình hay sao?
   - Vâng.
   - Sao em biết?
   - Vì sự tình-cờ, em biết rất rõ.
   Du không hỏi nữa. Qua ánh sáng lờ-mờ, Quý thấy Du vẫn bình-thản.
   - Thầy quyết-định ra sao?
   - Tôi không quyết-định gì cả, chỉ về đây lần cuối trước khi đi xa.
   - Thầy đi đâu?
   - Chưa biết. Tôi đã từ-nhiệm. Công-ty yêu-cầu tôi ở lại thêm một thời-gian ngắn.
   Quý nói:
   - Họ muốn giữ thầy đấy.
   - Điều đó thì đúng. Rất tiếc là tôi có ý-định rời khỏi Hoa-Kỳ này.
   - Tới chỗ mới, thầy sẽ cô-đơn.
   Du cười buồn:
   - Ở đâu thì cũng là nhà và cũng chẳng phải là nhà. Cô-đơn thêm chút nữa có hư-hao gì hơn?
   - Thầy làm như vậy là thầy tự làm khổ mình và nhất là giết cả Thùy.
   Du lấy giọng thản-nhiên:
   - Thùy lấy Tuấn sẽ hạnh-phúc.
   Quý bực-tức:
   - Xin thầy nghe em nói đây. Thầy hãy công-bằng với chính thầy và thương lấy Thùy. Em không tin thầy nghĩ nếu lấy Tuấn thì Thùy sẽ hạnh-phúc nhưng khi phát-biểu, thầy lại nói trái với lòng mình. Tại sao? Tại cái cao-thượng của luân-lý cứng-nhắc chụp lên đầu chúng ta hàng ngàn năm làm thầy không nói khác.
   Quý chậm lại. Chàng thuyết-phục:
   - Ngày xưa thầy dậy chúng em. Thầy bảo con đường mòn chúng ta quen đi chưa chắc đã là con đường tốt nhất. Hãy nghĩ và suy-xét lại những thói-quen mà chúng ta tưởng là chân-lý. Bây giờ …
   Du nhẹ-nhàng hỏi Quý:
   - Em muốn tôi dẫm lên tình anh em với Tuấn hay sao?
   - Em xin lỗi thầy mà nói điều này. Thầy vì tình-nghĩa anh em mà hy-sinh Thùy. Thùy là nạn-nhân của đủ thứ nhân-danh: của chị, của mẹ, của cả thầy nữa. Ai thương xót Thùy đây?
   Quý dịu giọng khi thấy mình hơi quá trớn:
   - Thầy có giận em không?
   - Không. Tôi đang nghe.
   - Tuấn là người bạn mà em hãnh-diện. Thầy đừng coi thường Tuấn. Nó có thể đau-khổ nhất thời nhưng nó yêu kính thầy. Nó bám-víu với Thùy vì chưa hiểu chuyện mà thôi.
   - Cám ơn những nhận-xét của em.
   - Thầy quyết-định ra sao?
   Du thành-thật:
   - Tôi chưa biết phải làm gì.
   -Từ-khước công việc ở ngoại-quốc đi thầy. Mà thầy định đi đâu?
   - Đài-Loan hay Ai-Cập. Tôi chưa ký hợp-đồng.
   - Xin thầy ở lại. Em chuyển tới chỗ gần thầy cho vui.
   Du hỏi:
   - Sao vậy?
   - Em cần thầy.
   - Còn công-việc?
   - Không sao. Em có thể đi nhiều nơi tại Hoa-Kỳ mà vẫn kiếm được việc tốt hơn.
   Du cảm-nhận lòng của Quý:
   - Em thật tốt với tôi.
   - Thầy nghĩ sao?
   - Có lẽ tôi đi xa như dự-tính.
   Quý hỏi lại Du:
   - Có lẽ hay chắc-chắn?
   - Có lẽ chắc-chắn.
   Quý nhìn Duy tha-thiết:
   - Thầy, Tuấn và em đều yêu-thương Thùy. Em chỉ xin thầy một lần cuối cùng rồi không bao giờ xin gì nữa. Thầy hãy quyết-định để làm sao nhiều người trong chúng ta hạnh-phúc, gần-gũi nhau được. Đừng nhân-danh bất cứ điều gì cả. Nếu thật yêu Thùy, mỗi chúng ta phải tìm cách cho nàng hạnh-phúc. Em tin ở sự công-bằng của thầy. Thầy hứa với em không?
   Du thở dài:
   - Để tôi … nghĩ đã.
   Quý thấy đã tới lúc chuyển qua chuyện khác, chàng vui-vẻ:
   - Cô Andi Brody tới lúc mấy giờ ngày mai?
   - Cô ta tới muộn. Sáng nay ra phi-trường lại quên một tập tài-liệu nên phải quay lại.
   Quý hỏi:
   - Em ghé qua ăn sáng với thầy được không?
   - Cám ơn Quý. Được chứ.
   - Nếu em ngủ quên, thầy đừng trách em nhé.
   - Không sao, nếu tiện thì tới.
   Quý dặn:
   - Khoảng 6:30 sáng thầy nhé.
   Quý thả Du xuống. Du vừa bước đi thì Quý gọi:
   - Thầy!
   - Gì thế Quý?
   Giọng Quý khẩn-khoản:
   - Thầy hãy thương lấy Thùy. Có thể Tuấn sẽ tìm thầy để xin điều đó.
   Du nghiêm mặt lắc đầu:
   - Đừng nói gì với Tuấn cả.
   Quý nhìn theo Du bước vào khách-sạn. Chàng đẩy nhẹ chiếc băng nhạc vào máy. Giọng Thái-Thanh nức-nở những nốt nhạc buồn.

***

 Du buông tờ báo xuống. Tiệm ăn lác-đác vài người. Trời còn sớm. Chàng hững-hờ cầm bảng thực-đơn. Một bóng người bước tới. Nghĩ là người hầu bàn nên Du không buồn ngước lên:
   - Chờ tôi vài phút nữa.
   Đột nhiên, có tiếng gọi nhẹ-nhàng từ quá-khứ sâu-thẳm vọng về. Giọng nói quen thuộc làm chàng tê-dại:
   - Anh Du!
   Du trông lên. Thùy đứng đó. Trên khuôn mặt xanh-xao của ngày tháng muộn-phiền là đôi mắt mở lớn.
   Thùy buồn-bã:
   - Anh cho em vài phút được không?
   Niềm đau xô tới trong Du mạnh-mẽ như cơn nước vỡ bờ. Du cố-gắng thản-nhiên:
   - Không sao. Tôi … Anh không bận gì cả.
   - Anh cho em ngồi xuống nhé.
   Du giật mình. Chàng đứng dậy, kéo ghế cho Thùy.
   - Anh thật vô ý quá. Xin lỗi Thùy. Em đưa áo khoác cho anh.
   Thùy từ-chối:
   - Không cần. Em phải đi ngay. Có người đợi em dưới kia.
   Du hăm-hở mà trong lòng vỡ-nát:
   - Tuấn hả? Để anh xuống gọi Tuấn lên.
   Thùy lắc đầu:
    - Không phải Tuấn. Hôm qua em thoáng nhìn thấy anh. Lúc sau, không thấy anh đâu nữa.
   - Anh hơi mệt nên về sớm.
   Thùy lo-ngại:
   - Anh đỡ chưa?
   Du mỉm cười:
   - Không sao đâu. Quen rồi.
   Thùy khuyên:
   - Anh nên giữ-gìn sức khỏe. Bác-sĩ nói sao?
   Du lảng sang chuyện khác:
   - Mẹ và Kim-Anh vẫn mạnh chứ?
   - Cám ơn anh hỏi. Mẹ dạo này nhiều buồn phiền. Còn chị Kim-Anh … Chị Kim-Anh … mới mất.
   Du tần-ngần nhìn Thùy. Những giọt nước mắt từ từ chẩy xuống trên làn da trắng mịn.
   Thùy nghẹn-ngào:
   - Trước khi chết chị thú-thực nhiều điều. Chị ấy xin anh tha-thứ. Tất cả chỉ vì chị ấy quá yêu anh!
   Du định nói nhưng Thùy cản lại:
   - Anh không cần trả lời em. Nếu anh tha-thứ được thì hương hồn chị ấy sẽ biết. Em mong anh rộng lượng.
   Du thở dài:
   - Tội-nghiệp Kim-Anh!  Xin chia buồn cùng em và mẹ.
   Thùy lau nước mắt, nàng tiếp-tục:
   - Cả mẹ nữa. Mẹ gầy đi vì buồn rầu. Mẹ muốn gặp anh. Mẹ quý anh lắm. Nếu anh còn chút gì xót lại cho em, xin anh bỏ qua cho mẹ.
   Du im-lặng một lúc rồi chàng trả lời:
   - Em không trách mẹ em. Coi như số mệnh của anh không tốt. Thế thôi.
  Lời nói của Du như một mũi dao nhọn đâm trong hồn Thùy. Nàng bật khóc.
   - Anh có thể … có thể thăm mẹ một lần không? Mẹ ân-hận lắm. Em xin anh.
   - Anh … cố-gắng.
  Thùy đau-đớn đến tột cùng. Thế là hết. Tình-cảm của Du với nàng hình như không còn gì nữa.
  - Anh phải cố-gắng hay sao? Em đòi-hỏi quá đáng phải không?
   Giọng Du trầm buồn:
   - Không có gì quá đáng đâu. Tại anh vụng-về thôi.
   Thùy hỏi:
   - Những ngày tới mẹ bận, có lẽ thứ sáu này khi kết-thúc chương-trình của anh ở đây thì tiện hơn. Được không anh?
   Du dịu-dàng:
   - Em cũng đã đoán biết được ý-nghĩ của anh rồi mà. Liệu có cần trả lời không?
   Thùy lấy ngón tay gạt vài sợi tóc trên trán. Bàn tay búp măng đó thuở nào thường nằm trong tay Du những lần tung-tăng khắp phố.
   Thấy Du đăm-chiêu, Thùy gọi nhỏ:
   - Anh Du!
   Du nhìn Thùy, nàng tiếp:
   - Em có lỗi với anh rất nhiều. Em không biết làm gì đền-bù hết cho anh được.
   Du xúc-động. Những rào cản chợt đổ xuống. Chàng nhẹ-nhàng bảo Thùy:
   - Anh chưa bao giờ oán-trách em. Em chỉ mong em an-vui. Được thế, anh mãn-nguyện rồi.
   - Em xin Du nói với em một lời. Du hãy nói tha-lỗi cho em. Em van Du.
   - Nếu em muốn, anh nói nhưng vẫn nghĩ em không có lỗi gì cả.
   - Cám ơn anh.
   Người hầu bàn tiến tới. Du ân-cần hỏi Thùy:
   - Em ăn sáng nhé.
   - Cám ơn Du. Anh có thực-tình mời em không?
   - Thùy, sao em hỏi vậy?
   Thùy ngẫm-nghĩ:
   - Xin lỗi anh, em lỡ lời. Thôi để cuối tuần sau khi thăm mẹ, anh đưa em đi ăn tối thì tốt hơn. Du bằng lòng chứ?
   Du nhìn Thùy gật đầu. Thùy cầm ví đứng lên.
   - Em về. Cám ơn Du nhiều. Trước khi tới đây, em nghĩ anh sẽ cay-đắng với em.
   Du buồn-bã:
   - Anh làm gì có cái can-đảm đó.
   Chàng đưa Thùy ra phía thang máy. Từng bậc trắng của chiếc thang trôi xuống phía dưới liên-tục. Chợt Thùy dừng lại. Nàng sửa cái nút cà-vạt cho Du.
   - Cà-vạt ở Le Moulin. Mầu đẹp quá!
   Du mơ-màng nhớ tới những ngày cùng Thùy đi phố chọn áo quần. Chàng khẽ nói:
   - Cám ơn em.
   - Tina còn làm ở đó không anh?
   - Còn
   Thùy thì-thầm nũng-nịu:
   - Coi chừng nàng bắt mất hồn Du đó.
   Du buột miệng:
   - Tina làm sao bắt được cái hồn đã chết của anh?
   Du bàng-hoàng vì câu nói lỡ lời trong khi Thùy lặng người. Mắt nàng rưng-rưng. Hai bàn tay nàng đặt lên vai Du thương xót.
   - Tội-nghiệp Du. Em tệ-hại quá. Em xin lỗi anh.
   Thùy thong-thả bước xuống thang máy. Du tần-ngần trông theo. Bỗng nàng quay lại, giơ tay vẫy Du. Qua cái nhìn say-đắm của Thùy, Du thấy nàng có mùa xuân hạnh-phúc.

***

   Quý gọi Tuấn:
   - Đây rồi! Concourse Ballroom.
   Tuấn chau mày:
   - Đúng không?  Hội-nghị lớn quá, bao nhiêu là phòng hội. Đi mỏi cả chân.
   Quý gật đầu:
   - Chắc rồi.
   Các hàng ghế đã đầy người. Ánh đèn của máy chiếu hình hắt lên tường đề-tài của buổi thuyết-trình. Người con gái tóc vàng bước lên máy vi-âm tự giới-thiệu:
   - Chào quý-vị. Tôi tên là Andi Brody. Đáng lẽ đề-tài hôm nay do Du Nguyễn trình-bầy nhưng vào giờ chót, ông không thể có mặt.
   Tuấn nhăn mặt:
   - Anh ấy làm sao rồi!
   Quý suy-nghĩ một lát rồi nói:
   - Có thể thầy đang đau nằm trong phòng.
   - Mày biết số phòng chứ?
   Quý trả lời:
   - Biết. 2119. Phòng 19 tầng 21. Ông bảo mày phải về. Mày cứ chần-chờ ở lại.
   Tuấn phân-bua:
   - Làm sao tao biết anh Du đến đây?
   Quý kể tội:
   - Ông chuyển bản tin cho thằng cháu của mày. Cái thằng tiếng Mỹ không biết, tiếng Việt không thông. Nó nói gì với mày?
   Tuấn lắc đầu:
   - Nó bảo tao có điện-thoại mà không nhớ tên ai gọi. Tao gọi nhà Thùy, bà cụ cần gặp tao gấp khi về nhưng không phải bà ấy gọi.
   Quý cằn-nhằn:
   - Mày ngu nhất trần đời, thiếu suy-luận, không nhậy cảm. Cháu nào chú đó. Phải hiểu là tao gọi mày chứ!
   Tuấn cười:
   - Đừng mạ-lỵ tao. Mai mốt vợ mày sanh đúng ngày ông trực, ông cho mày đợi hộc hơi ở ngoài.
   Hai người dừng lại trước phòng Du. Quý gõ cửa nhiều lần mà không ai trả lời.
   Tuấn bảo:
   - Để tao gọi nhà thương xem.
   - Khoan. Xuống lầu đã.
   Tuấn theo Quý. Cả hai không còn cười đùa. Quý tiến tới khu-vực tiếp khách chào người tiếp đãi viên:
   - Tôi muốn hỏi ông Nguyễn ỏ phòng 2119.
   Người đàn ông lễ-độ coi giấy tờ:
   -  Xin ông vui lòng đợi một chút. Ông Nguyễn phòng 2119 đã rời khách-sạn sáng nay.
   Tuấn hỏi:
   - Có phải vì ốm đau không?
   - Tôi không nghĩ vậy.
   Quý trầm-ngâm:
   - Ông ấy trả phòng lúc nào?
   - Lúc 8 giờ sáng.
   - Tôi là ông Vũ. Ông Nguyễn có để bản tin gì cho tôi không?
   Người đàn ông coi trong xấp giấy trên bàn rồi nói:
   - Có tin cho ông.
   Tuấn nhìn vẻ mặt băn-khoăn của Quý. Thấy bạn nồng-nhiệt với Du hơn mình, chàng ân-hận:
   - Đã xẩy ra chuyện gì thế Quý?
   Quý lắc đầu. Chàng cầm bức thư mà không biết có nên mở trước mặt Tuấn hay không?
   - Để tao coi thư. Thật tình tao không hiểu nổi thầy tao.
   Quý liếc nhanh trên tờ thư ngắn-ngủi:

Quý thân,
Cám ơn tất cả những gì Quý đã làm cho tôi. Cám ơn nhiều lắm.
Cho gửi lời thăm Tuấn,
Thân ái,
Thầy Du

   Tuấn bồn-chồn:
   - Anh ấy nói gì?
   - Không có gì. Ông ấy gửi lời thăm mày. Lúc nào cũng Tuấn, Tuấn, Tuấn. Mày biết thế không?
   Tuấn nghĩ-ngợi:
   - Hè này tao thăm anh ấy. Mày có đi không?
   - Đợi gần tới hè hãy hay.
   Tuấn tình-cờ quay lại. Thùy trong chiếc áo khoác đen từ thang máy bước ra.
   Trong nỗi vui mừng, Tuấn hớn-hở chạy tới. Thùy giật mình, người hơi lui lại phía sau. Thái-độ lúc đầu như đang đau-đớn rồi chuyển qua cương-quyết lạnh-lùng:
   - Anh đừng lại gần.
   Tuấn sửng-sốt đứng như trời trồng. Thùy tiếp-tục tiến về phía trước. Khi nàng tới cửa, Tuấn gọi với theo:
   - Thùy, trời bão!
   Hình như Thùy không nghe thấy tiếng Tuấn. Nàng thản-nhiên bước vào cơn mưa lớn ngoài trời.

Thiên-Tường

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/May/2017 lúc 8:25am

Người con gái sông Hương


con%20gai%20song%20huongMột thời để yêu

Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm. Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về, em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.

Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc. Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế… và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.


Cô Lan Hương
Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.Lúc đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử.Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi tưởng như trong phim ảnh.Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm nhập vào da thịt.

Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường.Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email.

“Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.”

Tháng Tư, ngày định mệnh
Mặc dù là bạn cùng khóa, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4-1975, tôi có dịp đi cùng người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm trung đoàn tại Bến Cát. Anh của Nguyễn là trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại Tổng Tham Mưu.Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn không có điều kiện.Sáng 30 tháng 4-1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải quân.

Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú quốc, ra Côn sơn theo Hải quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng. Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn.Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc.Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sanh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích.Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn.

Lỡ bước sang ngang
Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc, Lan Hương gặp ông giáo sư dạy chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.Trung tá Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của những đứa con nhưng làm sao trả lời được.Ai mà có thể quyết định Yes hay No.Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô Hương ở vậy làm sao nuôi con thành người .

Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ.Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy quân lục chiến.Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa.Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.

Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh hùng TQLC một thời được trở lại Saigon.Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây.

Anh trở về, dang dở đời em…
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc.Tiếp đến cuộc gặp gỡ đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị.

Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời.

Cay đắng nở hoa…
Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền thống hết sức Hoa Kỳ.Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể bác sĩ Việt Nam đẹp trai độc đáo như tài tử Kong Fu Bruce Lee.Lễ cưới cử hành long trọng tại nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan khách. Nhà trai của bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam từ bốn phương kéo về.Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt Nam là trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại học nói rằng đây là người anh hùng Thủy quân lục chiến Việt Nam, đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản. Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay

Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sanh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay… Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,… và hôm nay, Dr.Việt bỏ người cha Marin Corp Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình…Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình.

Họp khóa mùa Xuân
Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của 1 khóa quân trường. Anh em chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau anh em gặp lại tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất.Cô Lan Hương đến dự đi cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em. Ði cùng gia đình trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức cảm động. Giới thiệu từng trung đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều.

Từ Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện và anh Nguyễn của đại đội 5, cho đến các bạn của đại đội 6 như Lại Thọ, Trần quốc Lịch, Lê xuân Ðịnh.Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn trao vòng hoa cho nhẩy dù Ngô quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến.Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.

Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20.


Nicole Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 21/May/2017 lúc 4:43am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/May/2017 lúc 8:30am

Số Sát Phu


Tuổi nào cũng có buồn vui của tuổi, Người tuổi Dần thì có tội tình gì!, Mà người đời gọi họ “Số sát phu”, Cầm tinh con Cọp sao mà khổ thế!!!

Hiền Lương và Phong cùng ngồi trên chiếc ghế xích đu trong vườn bên cạnh những chậu hoa đủ loại, có hoa màu đỏ, màu tím, màu vàng v..v. và trên đầu họ là giàn hoa TiGon leo buông xuống những chùm hoa màu đỏ hồng thật đẹp. Cảnh vườn yên tĩnh chìm trong hoa lá, nơi đây là chỗ từng chứng kiến những lời yêu lời nhớ của hai người, lần nào đến nhà thăm Hiền Lương, Phong đều thích theo nàng ra vườn.
Chắc đã dự định từ trước Phong cầm bàn tay người yêu ấp ủ và nghiêm trang nói:
- Anh có được phép sẽ đeo chiếc nhẫn cưới vào tay em không?
Như một phản ứng tự nhiên Hiền Lương rụt vội bàn tay về:
- Anh làm em bất ngờ quá…anh ngỏ lời đột ngột quá…
- Anh đã từng chờ mong, em không chờ mong sao?, chúng mình sẽ cưới nhau nhé?
Hiền Lương đứng ngay dậy nét mặt nàng thoáng vẻ lo ngại và buồn buồn: - Anh ơi…em… chưa sẵn sàng…
Phong ngạc nhiên trước thái độ của nàng:
- Em sao thế? chẳng lẽ em không muốn tình yêu của chúng ta đi đến kết thúc tốt đẹp là hôn nhân à?
- Anh vội vàng qúa, anh biết gì về em chứ? Chúng ta chỉ mới quen và yêu nhau chưa đến một năm…
Phong mỉm cười kéo tay nàng ngồi xuống ghế:
- Tưởng gì, anh biết rất rõ rằng em là một cô gái xinh và hiền lành tử tế như cái tên của em. Thời gian dài ngắn không thành vấn đề, có những cặp yêu nhau tìm hiểu nhau cả mấy năm trời mới cưới mà vẫn đùng đùng chia tay y như họ mới quen nhau hôm qua và hôm nay phát giác ra là không hợp nhau.
- Mình khác họ khác anh ạ. Em… em chỉ muốn… anh suy nghĩ kỹ…
Phong không hài lòng, trách móc:
- Bấy lâu em chưa thật lòng yêu thương anh sao? Từ ngày yêu nhau chưa bao giờ anh nghe em nói xa nói gần nhắc nhở đến chuyện cưới hỏi..
Thất vọng và tự ái Phong đứng dậy bỏ ra về mặc cho Hiền Lương ngồi lại một mình với cõi lòng bối rối ngổn ngang.
Nàng vẫn ngồi đây, không dám vào nhà sợ mẹ bắt gặp vẻ mặt buồn bã hoang mang của nàng mẹ lại buồn lây. Nhà chỉ có hai mẹ con buồn vui gì cũng chia hai.
Khi Phong ngỏ lời cầu hôn tâm trạng Hiền Lương vừa mừng vui cuống quýt vừa tràn ngập âu lo, điều mà nàng âu lo ấy trước sau gì cũng đến, thế mà nàng vẫn giật mình và không thể kềm chế được đã thốt nên lời làm cho Phong hờn giận.
Hiền Lương đã trải qua một cuộc tình cũng thương yêu thắm thiết như với Phong bây giờ. Ngày ấy nàng vừa tốt nghiệp đại học còn Phú đang là kỹ sư, họ quen nhau sau một lần gặp gỡ và tình yêu đã nảy nở.
Khi Phú ngỏ lời muốn cưới Hiền Lương gia đình anh đã phản đối quyết liệt chỉ vì Hiền Lương tuổi Dần, có hai gò má cao. Mẹ Phú đã gay gắt và chì chiết phân tích cho con trai hiểu:
- Con gái đã tuổi Dần hai gò má lại cao, chữ “sát phu” hiện rõ trên khuôn mặt nó, con biết chưa?. Tóm lại là cô ta có số “sát phu” con mà lấy nó thì không vong mạng sớm cũng khổ cả đời.
Nhưng Phú đã quyết liệt, hết năn nỉ dịu ngọt đến dọa dẫm đủ điều, cuối cùng mẹ Phú cũng phải miễn cưỡng đồng ý. Hai bên đã định ngày làm đám hỏi.
Phú đã thành thật kể lại cho nàng nghe những điều ấy và cũng để chứng tỏ cho Hiền Lương biết là anh đã vì nàng mà tranh đấu với gia đình như thế nào.
Thế mà trước đám hỏi chỉ 1 ngày Phú đã tử nạn vì tai nạn xe cộ. Anh chở mẹ đi thăm một người họ hàng đang nằm bệnh viện, trên đường về một xe tải đã tông vào xe Phú, anh chết ngay tại hiện trường còn mẹ Phú thì may mắn chỉ bị thương nhẹ.
Ôi, cái tin đến với Hiền Lương thật khủng khiếp, nàng đã chuẩn bị đủ mọi thứ cho ngày đám hỏi với người mình yêu thương, váy áo, nữ trang, kiểu tóc.v..v..vậy mà tất cả đã biến thành ác mộng.
Càng đau đớn hơn khi Hiền Lương đến nhà quàn dự đám ma Phú thì bị mẹ Phú cấm cản thẳng tay, nét mặt bà đầy oán trách giận dữ:
- Cô không thể nhìn mặt nó, tuổi con tôi và tuổi cô không hợp nhau. Cô đừng theo ám nó nữa, hãy để giây phút ra đi của nó được thảnh thơi, cho nó được đầu thai kiếp khác không có bóng hình cô...
Hiền Lương chỉ biết nài nỉ:
- Cháu xin bác cho phép cháu nhìn mặt anh Phú và tiễn đưa anh lần cuối.
Mẹ Phú vẫn giữ nguyên thái độ:
- Con tôi chết vì “dính líu” đến cô, đến tuổi Dần của cô đấy, cô chưa vừa lòng sao?
Hiền Lương biết người mẹ đang đau đớn vì cái chết của con và bà không ưa gì nàng nên bà có thể nói lên những điều tàn nhẫn như thế hoặc hơn nữa.
Nàng đành làm một kẻ không quen hôm đám ma Phú, chỉ đứng ở phía xa tránh mặt mẹ Phú và những người trong gia đình Phú.
Hôm sau nàng đã lặng lẽ mang đến mộ Phú một bó hoa tươi tạ lỗi cùng người chồng không bao giờ cưới.
Sau chuyện hôn nhân không thành ấy Hiền Lương đã bị một cú “sốc” nặng, bị hụt hẫng, nàng xuống tinh thần rất nhiều.
Xưa nay nàng không tin vào những điều tướng số hay dị đoan, chuyện Phú chết không có gì liên quan đến nàng, hai người chưa đám cưới, chưa đám hỏi. Phú chở mẹ đi thăm người thân bên nhà Phú vậy mà người ta cũng quy tội cho nàng.
Nhưng Hiền Lương vẫn hoang mang không thể nào giải thích nổi, nếu Phú không quen biết, không định cưới hỏi nàng thì chuyến xe định mệnh hôm ấy có xảy ra không? Có phải “số sát phu” của nàng như cánh tay ma ám đã vươn ra bao trùm lên cuộc đời Phú và đẩy anh vào con đường tử vong đột ngột không???
Hiền Lương đã luôn đau đớn tự dằn vặt vì tuổi Dần của mình mà đã hại Phú, nàng đã mấy lần hỏi mẹ:
- Mẹ có tin tuổi Dần cao số, sát phu không? Có phải vì con mà anh Phú chết không?
- Khó có thể giải thích được, cái chết và sự sống đều có định mệnh cả rồi. Theo mẹ tuổi nào cũng có thể may mắn hay rủi ro. Với người tuổi Dần, có thể đúng với người này lại không đúng với người khác, mẹ nhớ ngày xưa còn ở Việt Nam có mấy chị tuổi Dần cuộc sống vẫn hạnh phúc êm ả, nhưng có chị cùng xóm tên Nhàn, tuổi Dần, gò má cao, chẳng nhàn hạ gì cả, vất vả trăm chiều. Người chồng đầu chết trận, thôi thì mạng người giữa chốn chiến trường như chiếc lá giữa chốn phong ba rơi rụng sống chết bất cứ lúc nào. Nhưng đến người chồng thứ hai thì chết lãng xẹt, trèo lên cây dừa xiêm hái trái thì bị giây điện giật chết tươi, treo lủng lẳng trên cây dừa. Từ đấy cô Nhàn ở giá luôn, cô không dám lấy ai mà cũng chẳng ai dám lấy cô.
Hiền Lương đau khổ:
- Chắc con cũng ở vậy luôn qúa, lấy chồng chỉ làm khổ người ta, giết người ta.
Mẹ an ủi:
- Mẹ đã nói tùy số mệnh mỗi người mà. Bởi thế khi sinh con vào năm Dần mẹ đã đặt tên con là Hiền Lương cho “giảm nghiệp” kẻo cứ bị mang tiếng ác là số sát phu. Ngay cuộc đời mẹ đây, tuổi con rồng, lấy cha con cũng tuổi rồng, hai con rồng bay bướm lộng lẫy thế mà cuộc đời chẳng huy hoàng gì, rồi cha con mất sớm khi mẹ hãy còn xuân xanh.
- Nhưng con vẫn thấy lo lo làm sao ấy mẹ ạ.
- Coi như Phú chết tại vắn số, con đừng mang mặc cảm tội lỗi tại con cho khổ vào thân.
Sau hai năm nỗi kinh hoàng vì tuổi “sát phu” ám ảnh Hiền Lương cũng nguôi ngoai đi, nàng đã gặp Phong và tình yêu lại bắt đầu…
Nhưng chẳng hiểu sao khi Phong ngỏ lời cầu hôn thì những hình ảnh xưa, kỷ niệm xưa với Phú và mẹ Phú lại lù lù hiện về, nàng cảm thấy mình bị tổn thương và đồng thời cũng e ngại làm tổn thương người khác.
Phong còn đầy đủ cả cha lẫn mẹ, cha mẹ Phong sẽ không đời nào chấp nhận con trai họ cưới một cô dâu tuổi Dần như nàng và thảm kịch kinh hoàng như Phú có thể tái diễn…???
Hiền Lương vẫn lặng người trên ghế sau vườn với bao điều trăn trở, nàng quyết định sẽ nói cho Phong biết nàng tuổi Dần rồi mặc sự đời muốn ra sao.
Bỗng cánh cửa vườn mở ra và Phong trở vào như cơn gío lốc không báo trước:
- Nãy giờ em vẫn còn ngồi ở đây sao?
Nàng thẫn thờ:
- Tại sao anh trở lại? anh có biết là lời cầu hôn của anh làm em buồn hơn vui không?
Phong đứng đối diện Hiền Lương, nét mặt căng thẳng:
- Anh xin lỗi đã nóng nảy bỏ về, anh về nhà trong nỗi bực mình băn khoăn và thất vọng, chẳng hiểu vì sao em lại đối xử với anh như thế? Hai chúng ta đang có tình yêu thật đẹp, thật chân tình nên anh phải trở lại hỏi cho ra lẽ, vậy em nói đi, nói đi…anh cũng đang nóng lòng muốn nghe đây. Có phải em đang bắt đầu chán anh hay em đang hiểu lầm anh điều gì?
Hiền Lương vẫn ngồi và Phong vẫn đứng đối diện nàng. Hiền Lương buồn rầu và chậm rãi kể hết những gì mà nàng vừa nhớ lại, vừa suy nghĩ, kể cả cái cảm giác tủi thân mặc cảm có tội khi bị mẹ Phú kết tội còn ám ảnh nàng không nguôi.
Hiền Lương thêm nụ cười buồn và cay đắng kết luận:
- Bây giờ anh đã hiểu rồi, em tuổi Dần cao số đấy, hai gò má cao đấy, có số “ sát phu” đấy. Anh có giỏi thì cưới em đi…
Nét mặt của Phong nhanh chóng chuyển sang tươi vui, hóm hỉnh:
- Ôi trời ôi, thì ra thế… em làm anh hết hồn suy nghĩ lung tung, may mà lúc nãy anh tức giận trở về nhà không đâm đầu vào xe tự tử vì thất vọng, thất tình. Này em, việc gì mà em phải thách đố, hằn học và bi quan thế… Anh sợ gì mà không dám cưới em chứ?
Giọng nàng vẫn thách thức:
- Anh không sợ tai họa dến với anh à?
- Anh có… kinh nghiệm qua vài câu chuyện hôn nhân với người tuổi Dần rồi, anh quen thằng bạn đã có vợ tuổi Dần.
Hiền Lương sốt ruột ngắt lời:
- Rồi kết cuộc anh ta ra sao?
- Chết ngỏm chứ sao…
- Trời ơi, cũng tại cô vợ tuổi Dần hả anh?
- Em đừng vội thất kinh, bình tĩnh nghe anh kể từ đầu đến cuối hãy kết luận, cô vợ hết sức thương yêu chiều chuộng chồng, không biết chỉ vì tình yêu hay cộng thêm cái mặc cảm tuổi Dần của mình mà hết lòng với chồng như vậy, ai nhìn vào cũng thấy anh ta thật hạnh phúc, may mắn. Nhưng người chồng vốn tính bay bướm trăng hoa chẳng bao lâu thì chán vợ, chán cái cô tuổi Dần mà anh ta đã trầy da tróc vẩy vượt mọi khó khăn rào cản của gia đình của họ hàng mới cưới được cô. Anh ta li dị vợ vì có tình yêu khác, họ chưa có con, nên gia đình anh ta hoàn toàn hài lòng vì anh ta đã thoát khỏi tay cô vợ có số sát phu.
Cưới cô vợ thứ hai không phải tuổi Dần, gia đình coi bói, coi tuổi, coi tử vi đều rất hợp, sẽ sống lâu trăm tuổi. Vậy mà chỉ trong một lần uống rượu về anh ta đi tắm và… trúng gío chết tốt.
Hiền Lương thở phào:
- Đấy, nếu anh ta chết với đời vợ trước thì lại mang tiếng cho người tuổi Dần.
Phong cũng thở phào như vừa trút xong một gánh nặng:
- Vậy mà anh tưởng em có chuyện gì ghê gớm lắm, không ngờ thời đại thế kỷ 21 này, ngay trên đất Mỹ phương tây văn minh này người ta vẫn còn tin vào dị đoan, tướng số. Em là tuổi Dần có cao số đến đâu anh cũng sẽ cưới em.
- Chuyện anh vừa kể là chuyện của người ta, nhưng còn cha mẹ anh, họ sẽ coi tuổi, sẽ xem ngày để làm đám cưới và nảy sinh ra bao nhiêu thứ cản trở khi biết em tuổi Dần, hai gò má cao...
- Anh lại yêu hai gò má cao cao của em nhất, thế mới lạ, nhờ hai gò má mà mặt em có những nét gây ấn tượng khó quên cho người ta khi đối diện, lần đầu tiên gặp em, anh tương tư hai gò má cao trên khuôn mặt thanh tú của em đấy.
Hiền Lương nghi ngờ:
- Anh đang nói an ủi em phải không? Thay vì chê hai gò má em gây ấn tượng sát phu, anh thưởng cho nó món quà tương tư ai mà tin nổi.
- Nhưng đấy là sự thật, nếu anh là đạo diễn nét mặt này nhất định phải vào một vai chính nào đó.
- Thôi anh đừng nịnh, đừng đùa dai và nói lan man với em nữa. Em vẫn đang lo ngại phản ứng của cha mẹ anh đây…
Phong cười cười:
- Không sao…vui qúa đi thôi… thật không ngờ!
Nàng dãy nảy:
- Anh còn vui cười được nữa hả? cười trong lúc em đang lo lắng như thế này, hả? hả?…
Phong nghiêm chỉnh:
- Vậy anh nói để em yên tâm ngay lúc này Anh chắc chắn là cha mẹ anh không bao giờ phản đối chuyện em tuổi Dần hay cao số gì cả. Trái lại biết em tuổi Dần, mẹ anh còn…vui nữa đó, cho nên anh mới vui theo.
Hiền Lương lắc đầu:
- Em không tin, em không tin! anh chỉ bịa ra để trấn an em.
- Bây giờ anh kể thêm một chuyện về tuổi Dần nữa cho em nghe nhé, chuyện này kết cục khác hơn chuyện trước. Nhân vật chính là mẹ anh, người cũng… tuổi Dần...
Hiền Lương giật mình, ngạc nhiên hỏi lại:
- Mẹ anh cũng tuổi Dần?
- Đúng thế, chẳng những tuổi Dần lại sinh vào giờ Dần, hai gò má còn cao hơn em nữa chứ, “hắc ám” thế thử hỏi ai mà không ngán? trừ người đang yêu “mù quáng” là cha anh quyết chí xông vào. Ngày xưa bên nội anh đã chống đối cuộc hôn nhân của cha mẹ anh đến cùng đến nỗi hai người phải bỏ xóm làng ra đi để được chung sống bên nhau cho đến khi sinh 2 đứa con cha mẹ anh mới dám dắt nhau về bên nội trình diện và tạ tội. Đấy, cha mẹ anh vẫn sống bên nhau hạnh phúc đề huề, con đàn cháu đống tới ngày nay, cha anh có gặp nạn hay chết yểu vì cô dâu tuổi Dần đâu?
Hiền Lương vui mừng, tươi ngay nét mặt:
- Thật thế hả anh, vậy là đúng như mẹ em nói tuổi nào cũng có số mệnh của nó, nhiều khi chỉ ngẫu nhiên mà hoạn nạn rơi vào tuổi Dần rồi gây ra ấn tượng và mang tiếng thêm cho người mang tuổi Dần mà thôi. Cha mẹ em tuổi rồng bay phượng múa mà cha em lại chết yểu bỏ mẹ em bơ vơ trên đường đời từ tuổi còn thanh xuân cho đến giờ.
Phong vỗ về người yêu:
- Chẳng cần nhìn đâu xa, cứ nhìn cha mẹ anh và cha mẹ em thì chúng ta cũng thấy đâu là số mệnh rồi.
Chàng thân mật ngồi xuống chiếc ghế xích đu cạnh nàng:
- Bây giờ thì em đã có thể bình tâm mà trả lời câu hỏi lúc nãy của anh chưa?
Phong cầm bàn tay Hiền Lương lên và âu yếm tiếp:
- Cho phép anh nay mai đeo nhẫn cưới vào ngón tay xinh này không hở cô dâu tương lai tuổi Dần và hai gò má cao đáng yêu của anh?
Hiền Lương nũng nịu:
- Không, vì…
- Vì sao nữa? Phong nóng ruột ngắt lời.
- Vì anh cầm lộn bàn tay phải của em rồi, người ta chỉ đeo nhẫn cưới cho hôn thê vào bàn tay trái thôi anh.
Phong cầm bàn tay còn lại của người yêu, nồng nàn tiếp:
- Anh xin cả hai bàn tay em, một tay để anh đeo nhẫn, còn một tay để em đeo nhẫn cho anh nhé.

Nguyễn Thị Thanh Dương


2309202tv2q8adp8c_500

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/May/2017 lúc 3:45pm

Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ 


1.

Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".

Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...

Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".

Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".

Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

Rồi bà ngậm ngùi:

- Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.

Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?

Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

- Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên. Tay Phượng run run khi cầm cây viết. Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam. Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

Phùng Annie Kim


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/May/2017 lúc 4:05pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/May/2017 lúc 11:20am

Trong bóng hoàng hôn


trong%20bong%20hoang%20hon
Chợt nghe tha thiết nhớ thương nhiều
Trong bóng hoàng hôn lạnh hắt hiu
Loáng thoáng qua hồn cơn đau cũ
Ân tình còn đọng giữa tim yêu.

Vào một ngày Chúa Nhật sau khi rời khỏi nhà thờ tôi lang thang đi bộ về nhà vì thời tiết thật đẹp. Nắng trãi dài trên những ngọn cây maple đã chuyển màu vàng, đỏ, rơi lả tả theo từng cơn gió thoảng qua. Mây bồng bềnh trôi trên bầu trời thênh thang rộng, suốt con đường yên tĩnh hắt hiu, vắng bóng người qua lại, êm đềm thơ mộng, trầm mặc như một bức tranh. Giữa khung cảnh tuyệt vời như thế không hiểu vì sao lòng tôi thấy nao nao buồn. Có lẽ ở lứa tuổi vào thu cô đơn chiếc bóng, tâm tư tôi trăn trở nhớ thương một cái gì đó đã nằm ngủ yên trong tiềm thức.Tôi rẽ sang con đường khác, ghé vào một quán cà phê Việt Nam. Tôi gọi một ly cà phê sữa đá và nhìn qua khung cửa kính hình ảnh thân quen của thành phố trong một ngày cuối thu.Tôi thấy cô cashier đang cầm một xấp danh thiếp trao cho vài người khách quen và bảo rằng đó là của bạn cô, tôi đưa tay xin một tấm xem coi là việc gì, thì ra là:
Jason Nguyễn Hàn Đông Vũ. MD…
Tôi nghĩ thầm: “ Cái tên đẹp quá! Anh chàng bác sĩ nầy nếu đẹp trai nữa thì thật tuyệt vời. Nhưng…có điều gì đó làm tôi thấy bâng khuâng, bồi hồi trong dạ. Mắt tôi vẫn không rời khỏi tấm danh thiếp và miên man suy nghĩ như đã từng thấy ở đâu, tôi lẩm bẩm:
Nguyễn Hàn Đông Vũ...Nguyễn Hàn Đông…
A! Phải rồi, tôi nhớ rồi, thì ra là… trùng tên với một người quen cũ của tôi. Cái tên của vị bác sĩ nầy đã khơi lại trong tôi những hình ảnh xa xôi trong quá khứ, trong tuổi thơ hồn nhiên, một thời ngọc ngà hoa bướm đẹp tươi nhưng cũng nhiều đắng cay, đau khổ.
Hơn hai mươi năm rồi, chuyện ngày xưa tưởng đã phôi pha theo năm tháng nhưng sao kỷ niệm bỗng hiện về thật rõ rệt như mới ngày hôm qua…
Lệ Hằng, Mai Lê và tôi chơi thân nhau từ nhỏ cho đến lúc vào Trung học cũng được học chung trường, chung lớp. Mai Lê ở sát cạnh nhà tôi, còn Lệ Hằng đang sống trong một căn biệt thự ở bên kia đường. Ba Hằng là một thương gia danh tiếng, mẹ Hằng là một phụ nữ cởi mở giao tiếp bạn bè rộng rãi, Lệ Hằng là con út trong gia đình, cô có ba người anh trai. Hằng thường sang nhà tôi chơi nhưng ba tôi không thích tôi sang nhà Hằng mặc dù ông rất mến Hằng. Sau nầy tôi mới hiểu lý do ba tôi không muốn tôi qua nhà Hằng vì Hằng có nhiều anh trai.
Khoảng một năm sau ngày chúng tôi vào Trung Học thì mẹ Hằng đột ngột qua đời. Tôi tìm mọi cách để an ủi, chia xẻ nỗi đau xót mất mẹ của Hằng và cũng nhờ vậy mà tôi được biết mẹ Hằng bị ung thư gan. Gia đình Hằng đã biết trước rồi nên để cho bà được vui vẻ sống những ngày tháng còn lại, ba Hằng đã để bà giao tiếp bạn bè tùy tiện. Ba người anh trai của Lệ Hằng đều lớn hơn tôi nhiều. Anh Quốc Gia là bác sĩ đang làm việc tại bệnh viện Đa Khoa, anh Trường Giang là lính Hải Quân, chỉ có anh Hàn Đông còn đi học nhưng anh học trên tôi ba lớp.Tôi thích nhất là anh Hàn Đông, dù ba mẹ anh đặt cho anh cái tên nghe lạnh giá như vậy nhưng con người anh trái ngược lại, anh rất nhiệt tình, ấm áp, thân thiện, bình dị, dễ hoà hợp, rất quan tâm đến người khác. Anh luôn sốt sắng tham gia những sinh hoạt học đường cũng như những công tác xã hội. Mặc dù ba tôi không thích, tôi vẫn lén sang nhà Lệ Hằng chơi mỗi khi rỗi rãnh. Anh Đông có biệt tài thổi harmonica và đàn guitar rất hay nên ở trường anh là một trong những nam sinh nổi tiếng.Hàn Đông thương tôi và chăm sóc tôi như em gái Lệ Hằng, rất chân thật, rất tự nhiên. Những buổi trưa hè tôi sang nhà Hằng cùng Mai Lê và Đông hái xoài, mận ở sau nhà anh, chúng tôi tha hồ chấm muối ớt và uống nước. Sau đó được nghe anh Đông đàn hát một bản nhạc hoặc thổi harmonica, anh thích nhất là những bản nhạc xưa. Tiếng kèn u buồn áo não của anh đã làm con tim non nớt của tôi và Mai Lê bồi hồi xúc động:
“Đêm nay thu sang cùng heo may, đêm nay sương lam mờ chân mây. Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng, như nhớ thương ai chùng tơ lòng. Trông cây hơi thu cùng heo may, vi vu qua muôn cành mơ say…”*
Mùa Thu năm đó khi tôi mới bắt đầu lớp Đệ Tứ thì phải bùi ngùi tiễn Đông lên Sàigòn để vào Đại Học. Lúc nầy tình hình đất nước rối ren, hình ảnh thanh bình của nền Đệ Nhất Cộng Hòa không còn nữa sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, không khí chiến tranh đang khởi sự. Một ngày kia tôi thấy Hàn Đông xách vali về nhà dù chưa hết niên học. Anh sang nhà tìm tôi, Ba tôi không còn ngăn cản anh và tôi nói chuyện nữa. Tôi nghe ba hỏi:
- Sao cháu bỏ học về đây vậy?
Hàn Đông lắc đầu buồn bã:
- Học làm sao vô được hở bác? Cháu đã đăng vào lính, với tình trạng đất nước thế nầy mình còn ngồi đây học yên sao? Ở trên đó sinh viên biểu tình xuống đường hoài, tin đồn lung tung…cháu chẳng biết sao nữa.
Ba tôi vỗ vai anh thở dài:
- Thôi vậy cũng tốt, mong cháu gặp nhiều may mắn.
Ba tôi bỏ đi vào nhà trong, tôi đứng nhìn anh ngơ ngẩn. Tôi vừa nghe anh nói gì? Anh định đi lính thật sao? Biết rằng anh đang muốn sống đúng ý nghĩa của người trai thời loạn nhưng sao tôi lo sợ quá. Anh mỉm cười khi thấy thái độ trẻ con của tôi, anh hỏi:
- Em làm sao vậy? Nghe anh đi lính sợ anh mang súng về dọa em hả?
Tôi hơi bực mình:
- Anh nầy, còn giỡn được nữa sao?
- Em làm gì mà ra vẻ quan trọng dữ vậy? Anh đi lính thôi mà. À, em qua nhà, anh có quà cho em, cả Mai Lê và Lệ Hằng nữa.
Tôi theo anh qua nhà, vào chào ba anh rồi thắp nhang cho mẹ anh. Nhìn anh tôi thấy vui buồn lẫn lộn, anh thật sự đã trưởng thành, trước mắt tôi là một thanh niên chửng chạc, đã ý thức được trách nhiệm, bổn phận với quốc gia, dân tộc trong tình hình đất nước hiện tại…tôi bỗng thấy thông cảm và hiểu anh hơn bao giờ hết.
Anh bảo tôi theo anh ra sân sau nơi có cái bàn dài mà chúng tôi thường ngồi tụ họp chơi với nhau. Anh trao cho tôi một xấp lụa màu tím sen:
- Anh nhớ em rất thích màu tím, anh tặng em xấp vải nầy để em may áo dài và chỉ được mặc khi đi với anh thôi nhé!
- Ơ…tại sao?
- Anh muốn như vậy, không tại sao hết.
Tôi nhìn anh ngạc nhiên, anh nầy độc tài thật, anh là cái gì của tôi mà bắt buộc tôi phải làm thế nầy thế khác. Hay là…tôi không dám nghĩ thêm nữa.
Hàn Đông có lẽ đọc được ý nghĩ của tôi nên dịu dàng lại:
- Em không hiểu ý anh sao? Cái áo nầy thuộc về anh, em cũng thuộc về anh nên chỉ một mình anh được ngắm thôi.
Tôi mở to mắt:
- Em thuộc về anh? Hồi nào? Đừng nói giỡn nghe.
Đông nắm tay tôi:
- Anh nói vậy mà em chưa hiểu sao? Nghĩa là…anh yêu em, em là của anh. Điều nầy đã có trong lòng anh từ lâu rồi nhưng anh chưa tiện nói ra. Giờ đây anh sắp sửa đi xa, chúng ta sẽ phải đối diện với thử thách, với đợi chờ, với nhung nhớ…nên anh không im lặng được nữa. Em không từ chối anh đâu, phải không em?
Tôi ngỡ ngàng xúc động. Thật sự tôi rất mến anh, tôi đã có một cảm tình đặc biệt với anh, trong những ngày xa anh tôi rất nhớ và mong anh sớm quay về. Từng ngày lặng lẽ đi qua lối cũ, ngõ phố thân quen vắng anh như không còn niềm vui nào sót lại, đêm đêm tôi nghe mơ hồ bên tai âm thanh của tiếng kèn harmonica đưa lại. Tôi nhìn anh, những lời tỏ tình của anh đơn giản và chân thật, bao năm bên nhau, những sự lo lắng quan tâm của anh tôi đều hiểu rõ, nhưng bây giờ anh nói được có thế thôi sao? Tôi chỉ biết đáp lại tình anh bằng cái gật đầu trìu mến. Đông mừng rỡ ôm tôi vào lòng, vuốt tóc tôi, mắt nhìn ra ngoài xa, lời anh nói nhẹ như gió:
- Anh cám ơn em. Em là niềm an ủi lớn lao trong đời anh. Anh sẽ có đủ nghị lực để đi tới tương lai. Em hứa phải chờ anh nghe Liên.
Tôi gục đầu vào ngực anh mà thấy như mình đang ôm cả một trời hạnh phúc. Nắng chiều bao trùm trên tóc, trên vai, trên khuôn mặt trầm tư xa vắng của anh, trông anh như một hoàng tử của chiều nào trong huyền thoại. Một cơn gió nhẹ thổi qua, những cánh lá úa vàng rơi bám vào tóc anh, tôi đưa tay gỡ chúng xuống. Nhìn anh tôi thấy lòng dâng ngập một tình yêu dạt dào, bất tận. Đâu đây âm vang tiếng sóng vỗ nhẹ vọng về từ dòng sông quê mẹ êm đềm như một khúc dân ca, thoảng trong gió ngạt ngào hương hoa cau, hoa bưởi, hương khói chiều quê…
Tình yêu chúng tôi bắt đầu chưa được bao lâu thì anh phải lên đường nhập ngũ. Ngày tháng nhớ nhung đằng đẵng chỉ biết tìm an ủi qua những cánh thư gửi về từ quân trường. Cuộc đời anh đã lật qua một trang sử mới, từ đây về sau anh sẽ là người trai của sông núi, của khói súng và máu lửa sa trường. Tôi thấy hãnh diện và thương làm sao người con trai ấy. Mỗi ngày sau giờ học tôi bắt đầu viết nhật ký, kể lể những nỗi nhớ thương, lo lắng về anh. Mỗi đêm khi trời khuya thanh vắng tôi ngồi tập làm thơ, gửi tâm tình mình lên trang giấy trắng.
Lúc nầy có nhiều biến đổi xảy ra. Bên nhà anh, anh Quốc Gia lập gia đình và thuyên chuyển về Sàigòn để gần bên vợ. Anh Trường Giang xin xuống tàu đi biển, ba anh cùng Lệ Hằng cũng lên Sàigòn ở luôn. Kế đến gia đình tôi dời nhà, không ở chỗ cũ nữa. Thế là bộ ba của tôi: Lệ Hằng, Mai Lê và Ngọc Liên đành tan rã.
Hai năm sau anh ra trường chỉ kịp về Sàigòn dự đám tang của ba anh nên anh không xuống thăm tôi được. Sau đó anh đi thẳng ra đơn vị mới trình diện. Tôi buồn bã nhớ thương chỉ biết nuốt lệ thầm và chờ mong định mệnh an bài cho tình duyên hai đứa. Tình yêu chúng tôi chỉ còn là những cánh thư qua lại.
Rồi Mai Lê lên Đà Lạt để vào trường Chính Trị Kinh Doanh, tôi ở lại vào Luật Khoa Cần Thơ. Tôi thật sự bơ vơ lạc lỏng từ đấy, ngày chia tay hai đứa ôm nhau khóc rất nhiều như đôi tình nhân trong giờ ly biệt. Trong lớp tôi cũng có nhiều bạn bè nhưng Mai Lê và Lệ Hằng là người chứng kiến mối tình của tôi và Hàn Đông nên thiếu hai người đó tôi không thể than thở, tâm sự cùng ai khác.
Thời gian thầm lặng trôi qua, hơn một năm sau anh đi phép về thăm tôi cho tình yêu chúng tôi thêm đậm đà gắn bó. Những yêu thương nồng ấm, những kỷ niệm ngọt ngào bên nhau tưởng không bao giờ phai nhạt. Tôi còn nhớ rất rõ ngày đó anh đứng chờ tôi trước cổng trường trong bộ quân phục còn phảng phất nắng gió của miền cao nguyên với huy hiệu Sư Đoàn 1 bên vai nên rất đặc biệt. Anh khác hẳn với những anh lính đến trường đón bạn gái ở đây đa số họ mang huy hiệu Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 7, Sư Đoàn 9… Thấy tôi anh kêu lớn:
- Ngọc Liên, anh Đông đây.
Tôi mừng rỡ chạy đến bên anh, chúng tôi cùng nắm tay nhau đi trên con đường ngập đầy lá thu rơi. Tôi nghe có vài tiếng xầm xì của bạn bè sau lưng:
- Con Ngọc Liên thích làm người yêu của lính. Nó không sợ làm quả phụ sớm hay sao?
- Thôi kệ nó, mỗi người có mộng ước riêng mà. Nó thích người hùng xông pha trận mạc, tụi bây thích mấy chàng mang kính cận mặc áo thụng đen ra giữa Toà Án kết tội người ta thì tùy ý tụi bây.
Tôi không màng bọn họ nói gì chỉ thấy Hàn Đông trước mắt tôi giờ đây oai phong, dũng mãnh vô cùng, đúng là một héro trong lòng tôi hằng mơ ước. Nhưng chinh chiến còn triền miên dai dẵng, máu lửa lan tràn khắp nơi nên những người lính như anh còn đi, đi mãi. Tôi vẫn cam phận đợi chờ, chờ một ngày tàn cơn binh biến để duyên tình chúng tôi được tròn ước tròn mơ.
Rồi lần đi phép kế tiếp Đông đề nghị đính hôn với tôi nhưng tôi chưa chấp nhận vì hoàn cảnh khó khăn của hai đứa. Tôi chưa học xong, không có nghề nghiệp, còn Đông là lính tác chiến, không có nơi, có chỗ ổn định. Tôi chỉ mong một tương lai tốt đẹp cho hai đứa nên chỉ biết cố gắng học và kiên nhẫn đợi chờ một ngày nào đó.
Nhưng có một ngày vào cuối mùa Đông 1974, một ngày đau đớn nhất trong đời tôi, Mai Lê từ Đà Lạt về nhắn tôi lên nhà gặp cô gấp. Tôi vui mừng hớn hở đến gặp cô bạn thân để được hàn huyên tâm sự, được chia xẻ vui buồn trong những ngày xa cách. Lòng tôi nôn nao rạo rực khi bước vào nhà, tôi hết sức ngạc nhiên khi Hàn Đông đang hiện diện ở đó. Trông anh tiều tụy xanh xao, anh thấy tôi liền đứng dậy, ánh mắt lộ vẻ vui mừng nhưng rồi chợt lạnh lùng và buông một câu khách sáo:
- Ngọc Liên tới chơi à? Trông em lớn hơn ngày trước nhiều đó.
Tôi sững sốt trước thái độ của anh:
- Anh…anh về hồi nào? Sao không báo cho em biết? Sao anh có vẻ xa lạ với em như vậy
- Anh cũng vẫn như xưa thôi mà, anh vừa mới về cùng Mai Lê.
Vừa lúc ấy Mai Lê từ sau nhà bước ra ôm tôi:
- Ngọc Liên, gặp mầy tao mừng quá. Mầy có khỏe không? Sao gầy quá vậy? Chắc là “ gạo” dữ lắm phải không cô?
Tôi không đủ can đảm để nghe Mai Lê nói tiếp vì sự có mặt của Đông cùng một lúc với cô làm tim tôi đau nhói. Tôi hỏi Mai Lê:
- Sao anh Đông về cùng với mầy? Ảnh ở Sư Đoàn 1, tận ngoài Trung kia mà, mầy gặp ảnh ở đâu?
- Ảnh hẹn tao trước rồi cùng nhau về đây.
- Hẹn trước?
- Ừ! Xin lỗi nghe Ngọc Liên.
- Xin lỗi việc gì?
Mai Lê ngập ngừng giây lát rồi tiếp:
- Hôm nay tao muốn báo cho mầy một tin, có lẽ sẽ làm mầy buồn lắm và sẽ mất cả tình bạn của chúng ta nhưng bất đắc dĩ tao phải làm vậy. Tao và anh Đông sắp …cưới nhau rồi!
- Trời ơi, mầy nói gì Mai Lê?
Tôi nghe như trời long đất lỡ, đầu óc tôi quay cuồng điên đảo, mắt tôi tối mù. Tôi quay sang Đông:
- Anh Đông, có đúng như vậy không?
Đông nhìn tôi bằng đôi mắt kỳ lạ rồi khẻ gật đầu.
- Tại sao? Tại sao hai người đối với tôi như vậy, tôi chờ, tôi đợi bao năm rồi sao anh chà đạp tình yêu của tôi. Tôi là con bé ngu đã thành trò cười cho các người rồi phải không?
Nước mắt tôi tuôn trào uất nghẹn, tôi gục đầu đau đớn xót xa. Ôi! Người yêu tôi đó, người thanh niên mà tôi dành trọn nhớ thương yêu mến suốt tuổi thơ, người mà tôi quý trọng và tôn thờ như thần như thánh, tôi chưa bao giờ dám ngờ vực lòng chung thủy của anh. Còn người con gái kia là bạn thân thiết nhất của tôi, người đã cùng tôi chia xẻ từng trái xoài, trái mận, đã cùng tôi sống gần nhau suốt quãng đời ngà ngọc của tuổi học trò...Vậy mà bây giờ họ liên kết nhau đưa tôi vào tận cùng ngõ tối âm u không lối thoát. Tôi nhìn hai người và lớn tiếng:
- Từ nay tôi mong hai người đừng gặp tôi nữa. Hãy cố yêu thương nhau mà sống lâu dài. Chúc các người thật nhiều hạnh phúc.
Tôi loạng choạng bước ra cửa, tôi không muốn ngồi thêm một phút một giây nào ở đây nữa, tôi không muốn nhìn những khuôn mặt đã phản bội tôi, đùa giỡn với tình yêu của tôi.
Tôi thờ thẩn một mình đi qua lối cũ, lối mòn kỷ niệm như còn in dấu chân hai đứa đã đi qua, những chiếc lá khô vỡ vụn dưới bước chân tôi như xác của tim tôi đang vỡ tan thành muôn mảnh. Gió thổi nhiều làm tóc tôi tung bay rối bời tơi tả, nước mắt tôi lả chả tuôn giòng.Tiếng chuông từ giáo đường vọng về nghe não nuột, u buồn làm tôi chạnh nhớ tới những chiều xưa hai đứa cùng đi xem lễ, cùng quỳ bên nhau nguyện cầu cho tình yêu bền vững dài lâu.
Bây giờ đã hết, tất cả đã lui vào bóng tối, đã thành dĩ vãng mịt mù không thấy nẽo tương lai. Bóng chiều đỗ xuống thành phố, tôi lang thang hết con đường nầy sang đường khác không biết mình sẽ đi đâu, về đâu khi tâm tư đang ngập tràn bão loạn. Tôi cứ đi, đi mãi trong bóng hoàng hôn đen tối nhất của cuộc đời:
“ Thế là hết nước trôi qua cầu. Đã chìm sâu những tháng ngày đam mê. Thôi đành quên những phút yêu đầu, những lời yêu ấy nay đã quá xa…Ta giờ đây như là chim rã rời cánh biết bay phương trời nào…”**
Đông ơi! Đông ơi! Em sẽ đau khổ trọn đời, em sẽ oán hờn anh suốt kiếp, em không bao giờ tha thứ cho anh đâu!

* * *
Sau ngày đó tôi không gặp lại Mai Lê và Hàn Đông nữa. Tôi cố quên đi những kỷ niệm đẹp về hai người nhưng lòng mãi nghẹn đau thương. Tim tôi như vừa trãi qua một trận “cuồng phong” nên tôi không còn cảm xúc, tôi không còn tin ai và cũng không muốn yêu thương ai cả. Rồi một trận “cuồng phong” thật sự khác ồ ạt kéo đến. Quê hương ngập tràn máu lửa, xác người chồng chất ngổn ngang và đất nước tôi không còn nữa. Tôi đã mất tất cả, tình yêu, nhà cửa, quê hương, thân lạc loài trôi nổi xứ người sống đời lưu vong xa nước non ngàn dặm.
Hơn hai mươi năm sau, khi tôi ổn định được cuộc sống ở xứ tạm dung thì tuổi đời đã đi quá nửa. Gần năm mươi tuổi rồi còn nghĩ chi đến một mái gia đình. Cuộc sống tẻ nhạt đã dần quen thì hôm nay cái tên của anh bác sĩ nào đó đã làm ký ức tôi chợt hồi sinh. Tôi bùi ngùi moi trong trí nhớ, tìm lại những kỷ niệm buồn thương mà tôi tưởng đã nhạt nhoà theo bóng thời gian đi ngoài song cửa.
Không xoá được thắc mắc trong lòng, tôi quyết định tìm đến văn phòng vị bác sĩ có cái tên làm tôi không ngủ yên giấc. Quả đúng như tôi nghĩ, đó là một bác sĩ trẻ khoảng ba mươi tuổi, rất đẹp trai và lịch thiệp, nhã nhặn, phong thái không kém gì người bạn của tôi ngày trước. Thật là một sự bất ngờ không thể tưởng tượng được khi tôi tỏ ý hỏi về tên anh ta, anh cho biết tên đó là do cha nuôi của anh đặt. Cha anh tên Nguyễn Hàn Đông và ông đã lấy tên mình đặt cho anh chỉ thêm chữ Vũ cho khác một chút. Tôi nghẹn lời, cảm thấy lồng ngực mình nghẹt cứng, máu nóng dâng tràn trong cơ thể. Chắc chắn là người ấy rồi, tôi phải tìm gặp anh để hỏi một câu mà hai mươi năm trước tôi đã quên mất lúc ra về. Tôi cho cậu bác sĩ biết rằng cha cậu có lẽ là người bạn cũ của tôi và xin địa chỉ nhà ông ấy để tôi đến thăm.
* * *
Xe tôi ngừng lại trước một căn nhà xinh xắn thuộc vùng WestCovina South Hill dưới chân ngọn đồi. Căn nhà nằm giữa một thảm cỏ xanh, nhiều cây cypress bao bọc quanh rào và nhiều hoa hồng trước ngõ. Tôi run run bấn loạn khi thấy một người đàn ông đứng lặng yên dưới gốc cây thông đang nhìn ráng chiều bên kia con dốc thoai thoải. Vóc dáng nầy, mái tóc nầy đã in sâu vào tâm khảm tôi chưa thể mờ phai dù tôi cố tình chối bỏ. Tôi thật bối rối không biết xử sự ra sao, tôi lên tiếng:
- Thưa ông, cho tôi hỏi thăm đường…
Người đàn ông quay lại, mắt chợt sáng lên và tiến về phía tôi:
- Chị là…ai? Tôi có quen không? Sao giống một người bạn của tôi quá.
Tôi đã biết chắc chắn anh là Hàn Đông rồi vì anh không thay đổi nhiều, chỉ già đi một chút nên lấy lại bình tĩnh nhìn anh:
- Anh nghĩ kỹ xem tôi là ai. Nếu có quen nhau chắc cũng đã xa xôi lắm rồi phải không?
Mặt anh hơi tái xanh và nghẹn lời như muốn khóc:
- Em là… Ngọc Liên phải không?
- Anh còn nhớ đến tôi sao?
- Trời ơi! Tạ ơn Chúa, đúng là em đây rồi Liên ơi! Anh không ngờ có ngày nầy. Mời em vào nhà, chúng ta cần nói nhiều chuyện lắm.
Tôi theo Đông vào nhà, căn phòng khách sạch sẽ, gọn gàng tao nhã. Trong khi Đông lấy nước cho khách tôi nhìn lướt qua gian phòng, vài bức tranh phong cảnh trên tường và một tấm ảnh lớn của Đông chụp chung với cậu con trai, không còn gì khác. Đông trở lại với hai ly nước trên tay, tôi không chờ đợi lâu được nên vội hỏi:
- Mai Lê đâu? Sao cả hình cô ấy cũng không có đây?
Đông nhìn tôi thật buồn:
- Anh sẽ trả lời hết những thắc mắc của em. Anh rất mừng vì còn có dịp nầy nếu không chắc đến chết anh còn ân hận.
- Anh nói nhanh đi sao cứ dài dòng hoài vậy.
Hàn Đông nhìn vệt nắng chiều lung linh, lướt thướt ngoài song cửa, ánh mắt như mờ đi, như đang thả hồn về một khoảng thời gian nào đó, anh bắt đầu kể:
- Anh xin lỗi em, xin lỗi thật nhiều về quyết định của anh ngày trước. Thật ra anh nhờ Mai Lê đóng kịch với anh thôi, chúng tôi không có gì với nhau cả. Ngày đó khi anh bị thương được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà thì phát hiện ra anh bị ung thư gan. Em cũng biết mẹ anh đã chết vì bệnh đó mà, anh biết mình sẽ đi theo mẹ rất nhanh nên muốn em đừng mơ tưởng đến anh nữa, chỉ có một cách làm em từ bỏ anh là nói dối em về việc anh cùng Mai Lê đám cưới. Khi thấy em khóc bỏ đi lòng anh đau đớn hơn lúc bị thương ngoài chiến trận, anh cố gắng chịu đựng chỉ tội nghiệp cho Mai Lê phải mất một người bạn thân. Từ đó anh và Mai Lê cũng không gặp nhau, anh đã tuyệt vọng vì bịnh tình của mình nên không màng gì cả. Một ngày cuối tháng Ba 1975 tình cờ anh gặp một em bé 7,8 tuổi đi lạc, không tìm được mẹ cha nó nên anh giữ bé lại cùng anh. Nó rất thích anh và anh cũng nhờ nó mà đỡ buồn phiền. Cuối tháng Tư dù biết mình không sống được bao lâu nhưng nghĩ đến đứa bé anh ôm nó ra bến tàu và chạy theo đoàn người di tản. Còn gia đình anh Quốc Gia, Lệ Hằng theo Trường Giang chạy chung trên một chiếc tàu nhỏ đã bị bắn chìm chết hết lúc đó rồi.
Riêng anh Chúa còn thương xót nên khi đến Mỹ, thật may mắn nên sau một thời gian bịnh anh đã được chữa trị khỏi hẳn. Lúc nầy anh nhớ đến em thật nhiều, nhớ đến nỗi đớn đau tuyệt vọng vì bị tình phụ của em anh ăn năn vô cùng. Anh tìm mọi cách liên lạc với bạn bè cũ để kiếm em nhưng không ai có tin tức gì về em cả. Anh vừa đi làm vừa đi học cố gắng nuôi bé Đông Vũ lớn khôn và học hành nên người. Cha con nương tựa nhau suốt hơn hai mươi năm trời, nó thương anh lắm nên chưa chịu cưới vợ. Còn em ra sao, đến Mỹ khi nào? Nói cho anh biết về cuộc sống của em đi.
Tôi ngồi lặng yên nghe anh kể, tôi không thể nào ngờ sự việc lại như thế! Bao nhiêu năm nay tôi cứ oán hờn, trách móc hai kẻ bạc tình vô nghĩa có ngờ đâu họ vì thương tôi mà cố tình làm tổn thương tôi. Xin lỗi Mai Lê, không biết bây giờ mầy ra sao, ở đâu? Xin lỗi anh Hàn Đông…Tôi đưa mắt nhìn anh nghẹn ngào ứa lệ:
- Trời ơi! Như một giấc chiêm bao dài, sự hy sinh cả ¼ thế kỷ của anh làm em mang mặc cảm tội lỗi khi em đã đem lòng oán hận Mai Lê và anh. Em xin lỗi anh, ngàn lần xin lỗi anh Hàn Đông ơi!
Hàn Đông bước tới ôm tôi vào lòng như ngày xưa ở sau nhà anh. Tôi giật mình đẩy anh ra, sợ sệt:
- Anh… đừng làm như vậy, nếu vợ anh về bắt gặp không tốt đâu.
Đông cười lắc đầu:
- Anh làm gì có vợ. Anh đã nói với em rằng anh chỉ có thằng con nuôi là Đông Vũ đó thôi.
Tôi ngạc nhiên mở to mắt nhìn anh:
- Anh không đùa chứ? Anh đã khỏe mạnh lại mà vẫn không lập gia đình sao?
- Anh cứ mãi nghĩ đến người xưa và hứa với lòng sẽ chờ đợi người ấy dù bao lâu, dù người ấy có chồng anh cũng sẽ không cưới vợ. Anh muốn đền bù tội lỗi mình cho những giọt nước mắt của em ngày đó, những giọt nước mắt đã làm quặn thắt trái tim anh.
Nước mắt tôi tuôn tràn theo từng lời nói của Đông. Tim tôi chợt hồi sinh, yêu thương ngày ấy bỗng trở về, dạt dào êm ả như dòng sông quê mẹ chảy miên man. Tôi thấy Đông vẫn trẻ trung, oai dũng như ngày nào trong bộ quân phục và ánh mắt anh vẫn đa tình, đam mê quyến rũ, đã một thời làm bao cô gái miền Tây mơ ước. Tôi trả lời Đông rất nhỏ:
- Riêng em từ ngày “thất tình” chàng trai ấy em chẳng còn yêu thương ai được nữa nên vẫn còn một bóng cô đơn. Bây giờ đã thành “gái già” rồi đó anh.
Nét mặt Đông rạng rỡ hẳn lên:
- Có thật không em? Em có thể cho anh cơ hội…tiếp tục những gì dang dở của chúng ta ngày xưa không? Anh cầu xin em đấy!
Tôi không trả lời anh chỉ đưa mắt nhìn về phía vườn sau nhà anh, khu vườn xanh tươi với nhiều cây cối. Đông nhìn theo ánh mắt tôi rồi chợt cười thật tươi:
- À, anh quên mất một việc. Em ra đây với anh.
Đông nắm tay tôi kéo ra vườn.Tôi hết sức ngạc nhiên khi Đông chỉ vào những cây xoài, mận Việt Nam, bưởi Biên Hoà. Đông nói:
- Em nhớ không? Ngày trước ở sau nhà anh có ba thứ cây nầy và tụi mình tha hồ hái trái ăn khi đến mùa. Sang đây anh cố gắng tìm mua để trồng, mỗi lần có trái là anh nhớ nhà và nhớ em nhiều lắm. Anh mong có một ngày được cùng em hái trái, có chén muối ớt đỏ, có những ly nước đá lạnh và anh sẽ thổi harmonica cho em nghe… Điều mơ ước của anh có thể đạt thành không em?
Tôi cảm động vô cùng, những điều Đông làm tuy không lớn lao to tát nhưng chứa đựng cả nỗi niềm nhớ nhung thương mến của Đông với tôi. Lòng tôi chợt chùng xuống, tôi quên hết giận hờn ngày trước chỉ thấy thương Đông thật nhiều, nhiều như ngày mới bắt đầu yêu. Tôi gục đầu vào ngực anh nghẹn lời xúc động:
- Anh, em cảm ơn tình yêu anh đã dành cho em từ bao nhiêu năm nay. Vâng! Em sẽ đền trả ân tình đó cho anh và cũng để cho người con gái cô đơn kia tìm được lẽ sống trong quãng đời còn lại.
Đông ôm tôi vào lòng thật chặt như sợ tôi sẽ biến mất một lần nữa. Hai tâm hồn cô đơn đã tìm về nhau sau hơn hai mươi năm dài xa cách.Tôi nghe tim tôi đang đập mạnh và tim anh reo mừng nhảy múa hân hoan.
Ngoài kia hoàng hôn dần xuống, ráng chiều đỏ ối lan trùm cả ngọn đồi xanh, một sự hoà hợp màu sắc của thiên nhiên kỳ diệu, tuyệt vời. Tôi cảm thấy như mình đang trong cơn mơ, tôi như bồng bềnh trên sóng nước, như lơ lững giữa tầng mây…và tôi nghe mơ hồ trong gió âm thanh của tiếng kèn harmo du dương, réo rắt qua một cung nhạc êm đềm thoát tục :
“ Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ ngày xưa Lưu Nguyễn lạc lối Đào Nguyên. Kìa đường lên Tiên, kìa nguồn hương duyên, theo gió tiếng đàn xao xuyến, phím tơ lưu luyến mấy cung u huyền…” ***
Vi Vân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 29/May/2017 lúc 2:18pm
Viết Cho Người Tình Lỡ


Image%20result%20for%20lonely%20girl

Ngày ... tháng ... năm....


Bao lâu rồi mình không gặp nhau hở anh? Em đã dặn lòng mình không được để trí óc đi lang thang nữa. Em vẫn tiếp tục viết cho anh, hay đúng ra là viết cho em. Chẳng được gì cả chỉ có buồn và khóc nhiều thôi. Nghĩ đến là khóc. Nghĩ lại cũng lạ lùng. Biết là không được gì nhưng cũng cứ để tình cảm làm mưa làm gió. Có ai bảo được là con tim sẽ nghe lời trí óc ? Chưa thấy bao giờ, bởi vậy mới có chuyện đau lòng ...
Em vẫn quý mến anh vô cùng. Lúc nào em cũng cầu mong anh được hạnh phúc trong phần đời còn lại này. Cho tới nay thì chưa biết ra sao, thấy anh vẫn chịu đựng những ngày quạnh hiu, chẳng biết thế nào để giúp anh. Anh đã bảo tìm cho anh một người, mà làm sao em tìm được bây giờ... Anh dư biết đó chỉ là chọc ghẹo em thôi phải không? Lúc nào em cũng chỉ là một đứa em nhỏ mà anh luôn tìm cách bảo bọc che chở... Anh lại mới nhắc hôm nọ trong một cái email... "anh vẫn không yên tâm vì anh biết em..." Thì em cũng biết là đầu óc em lan man lắm, nghĩ ngợi lung tung chẳng khi nào ngừng, nhưng mà em có làm gì cho nên chuyện đâu, anh đừng lo, em đã nói với anh như vậy. Tin em đi. Em sẽ không làm bậy và không làm gì để anh buồn .

Related%20image

Ngày ... tháng ... năm ...

Những buổi sáng ngồi một mình với ly cà phê nóng, trời thật lạnh, em ôm ly cà phê trong tay để hưởng nhờ hơi nóng một chút. Thường thì em đã khóc mỗi khi nghĩ đến anh. Khóc cho cái vô lý của con tim mình. Biết là không thể nào đến với nhau được nhưng vẫn không thể nào xoá bỏ hình bóng anh trong con tim "đa đoan" của em. Anh đã nói, đừng thế này, đừng thế nọ,... anh có biết em vẫn nghĩ đến anh và nước mắt vẫn tự động rơi hoài không hở anh?
Em vẫn biết hàng ngày anh để cái dấu hiệu màu xanh cho em biết anh đang "on line", để em email cho anh và anh sẽ trả lời ngay đó mà.... Những đêm đã khuya, em gởi vài hàng, anh la làng bảo em khuya rồi phải đi ngủ ngay.... Méo mó nghề nghiệp quá đi vì anh là anh lớn ở nhà... Lúc nào anh cũng đòi ký đầu mỗi khi em ngang chướng... Anh chỉ cho em nhiều thứ, anh nói cho em biết tâm trạng đình ông đối với đàn bà con gái như thế nào, anh chỉ cho em phải làm gì với computer của em khi bị virus, khi máy bị hư không chạy..., bất cứ điều gì em hỏi anh cũng sẳn sằng giải thích cho em.....
Lâu lâu anh lại gởi vài hàng khi thấy em bặt tăm bặt tích. Như vậy làm sao em quên được hở anh? Anh vẫn biết em cố tình im lặng để quên anh mà anh lại cứ nhắc nhở mỗi khi vắng tin em.... Anh có mâu thuẫn không? Bao nhiêu năm quen biết anh rồi, em cũng biết tính tình anh chứ....
Lại gần đến sinh nhật anh, em sẽ tặng anh gì đây? Em biết là anh muốn gì nhưng để em nghĩ lại thử xem em có làm được không...

Image%20result%20for%20anh%20dong%20hoa%20hong%20trong%20mua

Ngày ... tháng ... năm ...

Những ngày đầu năm,
Thời gian trôi qua thật nhanh, những ngày lễ tết đã xong và mọi sự lại trở về như cũ. Chỉ có tâm tư em không như cũ, qua mùa lễ này nhiều thứ thay đổi làm em phải suy nghĩ...
Hai ngày nữa đến lễ Tình yêu, xin chúc cho những người đang yêu nhau sẽ yêu nhiều hơn nữa, những người chưa có tình yêu sẽ gặp được tình yêu thật sự. Và những người không còn tin tưởng vào tình yêu nữa sẽ chóng quên đi chuyện không vui. Giống như mình tự chúc cho mình vậy.
Ngày sinh nhật anh cũng là ngày Valentine....

Related%20image

Ngày ... tháng ... năm ...

Rồi em cũng đã cầm phone lên gọi anh để chúc sinh nhật và Valentine ...
Tiếng anh bên đầu dây kia em nghe lạ lắm, và anh cũng ngỡ ngàng một lúc khi nhận ra tiếng em.
Vậy đó, đã bao lâu mình không nói với nhau hả anh? Vui, cả hai người, nhưng em đã cúp máy trước khi những giọt nước mắt rơi ra ngăn chận lời nói em. Em muốn anh vui, và em muốn anh nghĩ là em vui, em không muốn mang những giọt nước mắt và giọng nói nghẹn ngào của em làm phiền lòng anh.
Có được gì đâu phải không anh, khi mình không đến được với nhau mà làm khổ nhau ? Em chỉ muốn mãi hoài trong anh là hình ảnh em vui vẻ, hạnh phúc.... Em không muốn anh thấy và biết em đang buồn và rơi nước mắt vì anh... Em muốn anh yên tâm và mau tìm được hạnh phúc cho riêng anh....
Chỉ vài phút nói với anh, ngắn ngủi quá em không kịp hỏi thăm anh bây giờ ra sao... Anh vẫn vậy, vẫn lo chỉ cho em những gì cần thiết phải làm.... Em cám ơn anh nhiều. Trong cuộc đới, em chỉ cần có một người như anh thôi, nhưng em đã không có được....
Em không dám nói lên chữ ước gì..., mọi sự đã vậy. Chẳng ước ao làm gì, chẳng mong thay đổi làm chi, biết có đẹp hơn hay vui hơn hay hạnh phúc hơn không? hay chỉ là thực tế phủ phàng sẽ làm sụp đổ mọi hình ảnh đẹp đã và đang có trong nhau.
Vậy nhé anh. Đứng xa để mà chiêm ngưỡng. Ở xa để mà qúy mến nhau hơn là lại gần rồi thất vọng. Mãi trong em anh vẫn là thần tượng, mãi trong em anh vẫn là người em qúy mến nhất.

Image%20result%20for%20separation

Ngày ... tháng ... năm ...

.... Anh có biết, em nhớ anh. Nhớ vô cùng. Quay quắt trong nỗi nhớ là nỗi tuyệt vọng vì không có cách nào để đến được với nhau. Định mệnh là gì? hai người mình đều biết là không thể nào thoát ra khỏi sự ràng buộc này mà sao vẫn tiếp tục tiến đến với nhau để bây giờ khó xử đến thế. Phải chăng đó cũng là định mệnh? Mọi việc đã định sẵn. Em nhớ anh nhưng vẫn phải giữ mặt lạnh, muốn nói ra tiếng yêu nhưng vẫn phải giữ kín trong lòng. Đã nhiều lần anh nói ra tình yêu của anh dành cho em, em đã phải ngăn anh lại dù rất muốn nghe những lời ngọt ngào đó.
Mình cố tình trốn tránh sự thật, dù nó vẫn hiển hiện ra. Thôi đành cho tình yêu mình một chỗ thật cao, thật xa để đừng ai với tới. Đành nhìn lên ngắm nghía vậy nhé.
Nơi xa đó anh nhớ em từng ngày từng đêm. Anh đã viết ra và chỉ mình em biết anh viết cho em. Chỉ mình em hay mình nhớ nhau trong nỗi đau tận cùng, nỗi nhớ treo hai đầu thăm thẳm ....
Chỉ vậy thôi, và em sẽ ráng sống và làm tròn bổn phận của em. Em không muốn đi ra ngoài con đường mà em đã chọn. Đã cất bước đầu tiên thì phải đưa chân bước tiếp cho hết con đường. Và sẽ ngậm ngùi mà nhớ mà tiếc người mình thương yêu sao không đến được với nhau... Anh trấn an em bằng câu nói, anh ở một mình được cho đến hết cuộc đới. Ôi nghe sao mà xót xa. Có phải lỗi nơi em? Có phải lỗi tại anh? Không tại ai hết. Tại số kiếp mình như vậy chăng?
Mình từ hai đầu tự nhiên có cái gì đó cuốn hút vào nhau và càng ngày càng hút lại gần hơn. Em tìm cách gỡ ra mà không được. Anh tìm cách quay đi cũng không xong. Có nên lờ đi để nhìn thấy sự oái ăm của định mệnh không anh? Có nên cương quyết quay lưng để rồi ai nấy cũng đều sống trong xót xa tiếc nuối ? Hay là mình cứ để vậy, an ủi nhau bằng nỗi nhớ nhung và thăm hỏi thường tình như những người bạn thiết ?
Bỗng nhiên nhớ anh quá đỗi sáng hôm nay. Anh có vậy không ?

Ngày ... tháng ... năm ...

Đã vào tháng Ba của năm mới rồi. Năm tháng trôi qua vùn vụt và tháng ngày này đã không còn mới nữa.
Mấy ngày cuối tuần bận rộn như thường lệ. Em đã vui vẻ đi đây đi kia với gia đình và làm tròn bổn phận, thanh toán hết những việc cần phải làm của ngày cuối tuần. Như một thông lệ, như một cái record cũ rích cứ phải xoay cho hết vòng.... Nào là giặt giũ, nào là cắt tóc, nào là cơm nước, nào là chợ búa.... Nhưng mà vui, nếu không có những việc phải làm đó thì chắc em chết gục từ lâu vì buồn bã với những ý nghĩ điên khùng trong đầu mình.
Ngày tháng vội vã trôi qua, em cứ do dự mãi thì sẽ không còn thời gian nào chờ đợi mình cả phải không ?

Ngày ... tháng ... năm ...

Cả tháng rồi, em không rảnh để viết nơi đây. Em đã có những trận đau kinh khủng, và nằm trên giường bệnh để nghĩ quẩn, nghĩ bậy, chẳng biết khi nào mới chấm dứt cuộc sống này...
Hôm nọ, vừa đi làm về vào nhà chưa được năm phút thì chuông điện thoại vang lên. Nhìn vào thấy anh gọi. Thắc mắc lắm chẳng biết anh gọi làm gì. Hỏi thì anh nói là gọi hỏi thăm thôi. Tại sao lại thế, mình đã muốn quên nhau mà như vầy thì làm sao mà quên..... Có lẽ anh đang buồn nên nói thật lâu ...
Rồi tuần sau anh lại gọi nữa.... Có điều gì hở anh, em chẳng biết làm gì để giúp anh.... Anh kể chuyện nhà cửa việc làm của anh.... Em chỉ muốn bay đến thăm anh mà chịu thua.....
Cách đây hai ngày anh lại gọi.... Có lẽ gọi cho em lại trở thành một thói quen như cũ rồi hay sao.... Anh có biết là anh đang làm em chao đảo không....

Ngày ... tháng ... năm ...

Đã qua thêm một tháng nữa của năm mới. Nhìn thời gian trôi mà em rùng mình lo sợ. Một ngày bây giờ quá ngắn không đủ cho em làm hết những gì mình muốn. Nhìn quanh quẩn em còn có quá nhiều thứ phải làm và muốn làm....
Tin tức động đất, sóng thần, tai họa khắp nơi.... Em chỉ cầu mong con người mau ăn năn sám hối để cuộc sống có nhân nghĩa và bác ái hơn.... Bao nhiêu lời cầu khấn nguyện xin của những người từ tâm cũng không đủ bù lại những việc làm ác đức tàn khốc trên thế giới này....
Mùa xuân đã về nơi đây, nhưng em chưa thấy hoa nở tươi đẹp như mọi năm mà vẫn còn những cơn mưa bão rơi rớt. Trời vẫn còn nhiều mây mù vần vũ chứ chưa được trong xanh và chưa có nắng vàng rực rỡ.... Ôi thời thế thay đổi ảnh hưởng đến cả đất trời luôn hay sao ?

Ngày ... tháng ... năm ...

Sáng nay trên đường đi làm anh đã gọi nói chuyện thật lâu.... Ôi anh, anh không quên được em phải không? Anh nói cho em biết căn nhà của anh đang làm giấy tờ để bán. Căn nhà kỷ niệm, nơi lần đầu tiên em gặp anh trong buổi Party anh tổ chức. Em nhớ mãi, anh ôm vai em siết nhẹ và vui vẻ giới thiệu với mọi người, đây là cô em nhỏ nhất của chúng ta....
Ngày hôm đó thật vui, chung quanh tràn đầy tình thương mến mọi người dành cho em. Những bước nhảy tango, rumba với anh sao mà khó quên... Anh lựa nhạc thật hay vừa ý em... Những ly cocktail anh pha cho em có lẽ là những ly ngon nhất em đã uống trong đời. Em uống mãi, mềm môi, mặt em đỏ hồng, vừa say từ ánh mắt, lời nói anh, vừa say từ chất rượu mạnh anh pha trong ly cho em..., dù anh đã nói anh chỉ cho một tí xiú rượu cho có vị thôi. Suốt mấy tiếng đồng hồ, lúc nào anh cũng bên em, lo cho em từng món ăn, từng miếng bánh... Mọi người đi về để em ở lại với anh ... Rồi cũng đến lúc mình phải chia tay, dù chả ai muốn rời ai....
Bây giờ anh đang chuẩn bị để rời căn nhà kỷ niệm...

Ngày ... tháng ... năm ...

Dạo sau này việc làm anh nhiều stress quá. Anh phải bay qua mấy nơi khác liên miên và không được biết trước. Hôm nọ, em nhận được vài hàng email anh gởi từ cell phone. "Anh đang trên đường đi ... Sẽ về thứ sáu này...."
Khi anh về, lại email kể chuyện, " Hôm thứ ba anh ra khỏi cuộc họp khẩn cấp lúc 10am, 1pm anh phải lên máy bay đi Colorado Spring. Bên đó lạnh -10 độ và tuyết đến 20ft.... Anh chỉ có một cái leather jacket trên người, phải vội vàng mua áo coat và bao tay ngay tại phi trường..."
Phải chi em được có mặt bên anh để lo hành lý cho anh mỗi chuyến đi xa như thế. Em dặn anh để sẵn trong xe một giỏ hành lý với một hai bộ đồ cho cả hai mùa, nóng và lạnh. Kể cả giày đi mưa, giày đi tuyết nữa nhé anh.

Ngày ... tháng ... năm ...

Tối nay nhận tin nhắn từ anh, " 10pm, anh đang còn ở văn phòng, từ sáng giờ chưa ăn trưa, phải chi có em làm thức ăn cho anh ăn..."
Lâu lâu anh lại phải họp hành cả ngày bỏ ăn như thế. Và lần nào cũng vậy, anh để ra vài phút để gởi text hay email cho em. Làm sao bây giờ hả anh? Chỉ có em để anh kể lể mỗi ngày, mỗi đêm, nhưng em không đến bên anh được... Em chỉ biết gởi đến anh những con chữ của em...

Ngày ... tháng ... năm ...

Anh vừa gởi email cho em, "Anh đã dọn nhà, ở tạm nơi đây. Anh đang đi tìm nhà để mua, hay là anh dọn đến nơi em?" Anh ạ, em sẽ đón anh với hai tay mở rộng nếu anh đến đây. Em sẽ tha hồ nấu những món ăn ngon cho anh hàng ngày bù lại thời gian anh phải tự nấu nướng lấy... Em sẽ sắp xếp hành lý cho mỗi chuyến đi của anh... Em sẽ... Em sẽ...
Chao ơi, chỉ khoảng một giờ lái xe từ nơi em đến nơi anh mà sao thấy xa tít mù khơi...

Ngày ... tháng ... năm ...

Cứ như thế này thì mình lại nói chuyện với nhau hàng ngày như xưa rồi...
Chắc cũng không có gì thay đổi, vì anh đã nói, sẽ ở vậy cả đời ... Anh không đòi hỏi gì hơn, và không bao giờ muốn đời sống em có sự đổi thay. Càng lúc em càng quý mến anh hơn, anh có biết không?
Em chỉ biết tâm sự với chính em những gì em nghĩ về anh. Em không dám nói ra, sợ làm anh xao lòng... Mình giống như những chiếc bè đang trôi lênh đênh trên một giòng sông nhỏ lặng lờ... Thôi thì cứ để vậy, mặc cho giòng nước đẩy đưa đến một bến bờ nào mình không biết trước được có lẽ sẽ hay hơn. Em chỉ biết trong em, hình ảnh anh vẫn có một chỗ riêng biệt và ở trên cao. Sẽ không bao giờ có ai với tới và em sẽ cố gắng để không đụng chạm đến. Những gì mình đã có với nhau mãi mãi sẽ là những kỷ niệm đẹp nhất trong đời em. Trong thâm tâm em luôn cầu mong cho anh mau tìm được niềm hạnh phúc của đời mình. Anh có tin em không?
Ngày hôm nay trời mù mờ, ảm đạm, mưa nhỏ giọt rơi nhẹ ngoài kia. Hơi giống như mùa thu dù trời chỉ mới sang xuân... Em vẫn đang nói chuyện một mình với anh. Nhớ sao mà nhớ những ngày mưa ở nơi phố núi năm xưa, chắc anh cũng như em, lội mưa đi học, đi chơi...Em đã thường đi học ngang nhà anh, và khi ấy anh đi học bằng con đường khác, vì hai trường ở hai đầu thành phố ...
Em sanh ra để sống trong mưa, yêu thích mưa và mưa rơi xuống để thấm ướt đẫm tâm hồn lãng mạn của em. Em và mưa, mưa và em, không bao giờ tách rời. Bây giờ đây, nhìn mưa em đang nhớ phố núi của mình và nhớ anh quá đỗi, anh có thế không?

Nguyệt Hạ


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/May/2017 lúc 2:42pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/May/2017 lúc 7:51am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/May/2017 lúc 8:59am
Quê hương mình

Họ đã  ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc

để lót đường cho con cháu đi tới..  

(Bình Nguyên Lộc)


Image%20result%20for%20sông%20nước%20miền%20tây


 

Ngồi chễm chệ trên cái mui ghe cá dềnh dàng nhứt, nổi bật lên trong đám ghe đậu san sát ngoài sau lưng dãy vựa cá, thằng Đực khoái trá, đánh đòng đưa hai chưn, mặt vát hất ngó trời ngó đất. Bên kia sông lèo tèo mấy cái xuồng nhỏ của những gia đình ở dựa mé, sắm sẵn để đi chợ mà khỏi phải cuốc bộ qua cầu, đậu ơ hờ, rập rình theo sóng. Ống khói hãng thuốc Bastoz bữa nay theo lệ thường hàng tuần phun khói từng bựng, đen kịt. Thằng Đực đánh vần hàng chữ đập vô mắt nó mỗi lần ngó qua bên kia sông: Manufacture des tabacs Indochinoise. Maison fondée en 1887. Chữ đắp nổi được trình bày trong một cái vòng tròn thiệt bự có chữ ký tên J. Bastoz ở chính giữa. Mọi bữa giờ này thầy thợ trong hãng túa ra về đặt nghẹt một khúc đường, nón lá tủa ra mọi ngả, tràn vô mấy đường hẻm gần đó. Mấy thầy cai kha khá hơn, đi làm bằng xe máy, vác xe lên cầu, bước từng bực thang để khỏi đạp một đỗi đường dốc dài. Lần nào thằng Đực ngó cảnh người cõng xe cũng bắt tức cười. Bữa nay Chủ Nhựt, khung cảnh mất đi sự vui nhộn thường ngày. Buồn thiu. Phía dốc ngã đi về cầu Rạch Bần, một chiếc xe-cá chở đầy nhóc ván, con ngựa kéo hổn ha hổn hển nhưng cũng không nhúc nhích được nhiều. Trên cầu, bộ hành qua lại thưa thớt, vội vã. Mấy cây trụ đèn trên lan can cầu vượt lên trên nền trời trong, sừng sững như cột chống trời. Ban trưa cảnh tượng chìm trong không khí im lìm, hoạt cảnh xê dịch thật chậm chạp, chỉ có cảnh tụi bạn đương lặn hụp, rượt bắt ngoài giữa sông là coi mòi hấp dẫn. Thằng Đực nghĩ bụng: Chưa cần. Ngồi chơi một chút đã rồi tính sau.


Gió trưa thổi như muốn lột bỏ lớp hơi nóng hừng hực dán lên mình mẩy nó nãy giờ. Mát rượi, sướng rơn, nó lim dim mắt, gõ nhịp đùng đùng vô mui ghe, tán thưởng nhịp song lang thiệt ngọt phát ra từ cái máy hát trong khoan đương mê hoặc thiên hạ bằng sáu câu vọng cổ 'Đắc Kỷ thọ hình' mùi rệu. Nhớ trực lại ghe cá họ ghét cay ghét đắng chuyện dộng rầm rầm trên ghe, sợ cá giựt mình quẩy mạnh sẽ bị hao hớt, nó lật đật sửa bộ lại tề chỉnh rồi lấm la lấm lét liếc xéo về phía mũi, nhóng chừng coi có ai lên tiếng lên tăm gì không. Được một đỗi hơi lâu, thấy bộ chừng đâu vô đó, nó vững bụng vảnh tai thưởng thức trạng thái vừa sợ sợ vừa khoái khoái của một đứa nhỏ làm điều cấm kỵ mà không bị quở trách rầy la. Một cơn gió thổi phất tạt hơi cá sình đằng sau tới. Nó day lại. Cá phơi nhiều vô kể, con nào con nấy bụng trắng hếu, ngay đơ, nằm chất chồng xếp lớp lên nhau, kín mít gần hết mui. Cha! cá ghe nầy chết bộn ha, hôm qua đâu có dữ tợn như vầy nè. Ham lời chở cho cố, đầy nhóc hầm, cá ngộp hao hớt bộn bàng, vậy mà vẫn cứ chùm nhum trong đó nghe đờn ca xướng hát như thường. Nhà giàu khoái thiệt, của lượm mót thôi cũng thấy mê, bằng cả gia tài người ta chớ ít ỏi gì sao? Nhưng trí thằng Đực không định được lâu để lý luận so đo vòng vo. Nó bốc lên một con, lật ngược lật xuôi, ngắm nghía xăm xoi, như từ trước tới giờ chưa từng thấy con cá nào lạ lùng như vậy. Cá chắc đâu đã được liệng lên mui từ hai ba bữa trước, mình đã hơi khô khô, vảy lưng đã cong queo, vảy khúc đuôi cuốn kèn cứng ngắc. Nó ấn ấn lên mình con cá. Thịt lưng hơi xốp xốp, còn bệu, nhưng chắc chắn sẽ thành khô khi phơi đủ nắng. Coi bậy bạ vậy chớ tiền là tiền. Nhưng mà bây giờ thì khó chịu quá, thúi còn hơn cứt. Thum thủm cái mùi ông Trịn mỗi lần ông ta mở cái chén úp ở chỗ mổ làm độc dưới be sườn non -- để gợi lòng thương thiên hạ. Thằng Đực nhăn mặt khịt khịt mấy cái như để tống lôi tống khứ mùi hôi thúi lẩn quất trong lỗ mũi, cái mùi cá có thiệt trước mặt và cái mùi ông Trịn liên tưởng. Cũng không ăn thua gì ráo trọi, còn nghe khổ lỗ mũi lắm, như thịt thúi, tanh ói thiếu điều muốn mửa.  phải rồi, mùi thằng chõng chết trôi, giống hịt mùi tháng trước khi một thằng chỏng tấp vô sợi dây neo của chiếc ghe trước mặt. Nó xình chương, thịt nở ra thành mập ú, mình mẩy vừa tái mét vừa bầm bầm, hai tay quỳnh ra ngoài sau, mặt ngước cao lên trời đưa cái cổ dài thoàng, mấy cục xương cổ nổi cộm lên thấy mà phát ớn. Chén cơm bữa đó bỏ mứa luôn, nuốt đâu có vô! Khỉa luôn hai ba bữa sau cũng vậy, cứ và vài ba miếng là thấy nhợn, buông đủa ngó mông.

Thằng Đực nín thở nhốm từ từ về phía sau lái. Nhớ tới ông Trịn chỉ hơi ghê ghê, nhưng nhớ tới thằng chỏng chết trôi thiệt tình nó thấy rỡn tóc gáy, như ai lấy búa thầu quơ quơ trên đầu nên ý muốn lội chơi với chúng bạn hay đợi tàu kéo chạy ngang nhảy ùm xuống đu trên sợi dây dòng tự nhiên tiêu tán. Ông già bà cả thường nói hoài, tắm sông mà nghĩ tới hay thấy trong trí hiện ra hình ảnh thằng chỏng chết trôi, chém chết cũng gặp xui xẻo, hỏng bị ma da kéo cẳng nhận cho chết chìm làm ma thế chỗ cho nó đi đầu thai cũng bị vọp bẻ uống nước đầy nhóc bụng. Chắc như ba bó một giạ, hỏng trật được. Chuyện bà Thủy, bà Hỏa mà, đâu có giỡn đâu. Mà cho là người lớn đặt chuyện hù dọa con nít đi nữa cũng hỏng nên thử, nguy quá.  Thôi nhịn thèm một bữa hỏng chết ai. Tắm mà trong bụng đánh-lô-tô thì có sướng ích gì đâu. Nó phát thinh nói thành tiếng, nói một mình như ông ứng bà hành mấy chữ bà nội nó thường rao ở cửa miệng. 'Cẩn tắc vô ưu, cẩn tắc vô ưu.'

Để lòng ham hố của mình thiệt tiêu tan, thằng Đực ngồi thẳng lưng lên ngó ngang ngó dọc, mấy ngón tay nhịp nhịp lên đầu gối, cố gắng tập trung ý nghĩ vô chuyện khác.

Trên không trời trong vắt, chói chang. Ánh nắng giữa sông phản chiếu long lanh. Từng hơi thở nhẹ của không gian làm nhăn mặt tấm kiếng khổng lồ dài ngoằn như con rắn thủy tinh vảy lóng lánh bạc đương uốn mình tới xa mút mắt.

Ngóng ba đồng bảy đổi, chán chê, nó sửa bộ lại, day mặt hóng mỏ lên bờ. Cảnh chợ trưa buồn hiu. Chán phèo. Thưa thớt. Tan loãng. Bạn hàng chạy nhiều người đương sửa soạn ra về. Cặp mắt thằng Đực ngừng lại trên người ăn mày cụt hết hai cẳng, mặt buồn xo, ngồi trên tấm ván thùng sữa có gắn bánh xe lăn đương khan cổ van xin khách qua đường bằng một thứ văn chương bình dân có vần có điệu, có kinh có kệ, nghe rầu thúi  ruột.

'Lạy ông đi qua lạy bà đi lại, thân con đau ốm tật nguyền. Xin ông bà làm ơn làm phước cho xin đồng xu cắc bạc, con mua cơm ăn, tội nghiệp.'

Nó quay đầu thêm một chút nữa. Ông ăn mày gặp mỗi ngày có gì lạ nữa đâu. Dòm càng lâu càng thấy sợ, thấy buồn chứ đâu hứng thú gì? Bài bản xin xỏ nghe mấy lần đầu còn hơi lạ lạ, vui vui, nhưng nhàm quá rồi, thuộc nằm lòng rồi. Chán chê, thằng Đực rảo mắt lục lọi khắp chỗ kiếm chuyện hào hứng hơn. Nó khoái chí khi bắt gặp bộ mặt của thầy phú-lít mũi trâu Năm Mành, điếu thuốc trên môi, đương uể oải đứng dựa cột đèn, tréo ngoãi chưn, đưa mắt ngó bao quát quang cảnh chợ. Điếu thuốc thơm 'nút chuồn' phong lưu của thầy mỗi ngày một gói cả chợ này ai mà hổng biết? Người sành điệu hút thuốc Bastoz / Khách phong lưu hút thuốc nút chuồn (Golden club). Câu thơ quảng cáo mà mấy thằng đánh giày tập tành hút sách thường nghêu ngao hát khi buồn hay đọc lên thiệt lớn để châm chọc thầy Năm - nhảy vô trí nó. Bắt tức cười ghê. Ai đời mũi gì mà như mũi lân, vậy mà còn phì phà phì phèo để khói thuốc bay vô mắt rồi nhăn nhăn hỉn hỉn, trái chanh đỏ bự, gần bằng nắm tay, sần sùi, đo đỏ trên mặt chạy lên chạy xuống, thấy, ai mà nín cười được? Thằng Đực cười trong bụng, để trả thù mấy bữa trước thằng chả đã rượt nó chạy thục mạng, chạy thiếu điều tuột quần khi nó cùng với tụi bạn báo động 'phú lít mũi trâu tới' cho bạn hàng chạy, chạy vuột khỏi tay thầy. Nó còn nhớ rõ, bữa đó mặt thầy Năm đỏ gay như ông già say rượu, thấy mà phát sợ.

Buổi trưa nóng nực thấm mệt, mắt thầy Năm coi tức cười thiệt, nhưng có bộ hiền lành hơn buổi sáng lúc chợ đông thầy còn phải thị uy để đuổi mấy người bạn hàng tràn ra lấn chiếm lề đường. Nó ngó theo ánh mắt của thầy, ngưng lại ở chỗ một đứa con gái trang lứa nó, đương xắp xắp xếp xếp mấy nhúm ớt tỏi, năm ba cọng hành lá, vài ba trái chanh trên cái tràn nhỏ đậy gá ngỡi vào cái rổ tre cạp vành. Con nhỏ mở tròn quây cái miệng, rao lên vài tiếng rời rạc mời mọc hiệp chót trước khi trút hết xuống rổ ra về hay bán đổ bán tháo vớt vát chút nào hay chút nấy bù gỡ bữa chợ ế.  Tiếng rao khàn khàn, rời rạc như than vãn mệt nhọc, buồn như tiếng mèo rượn đực lúc nửa đêm. Nhão nhẹt, lạc lõng, gợi nhớ điệu đờn đám ma đêm tối trời mưa.

Không thấy hứng thú, thêm vô trời cũng đã gần quá ngọ, thằng Đực đứng dậy nhóng thẳng vô phía đường lên bờ. Thinh không nó lật đật bò lom khom tới sau lái, a-thần-phù nhảy cái rột xuống sàn ghe, phóng mau như vượn chuyền nhánh, chuồn thẳng về ghe mình. Nó chun tọt vô mui từ phía sau lái, kéo cái thùng sữa đựng quần áo dưới gầm bàn ra, xốc xổ kiếm cái quần xà lỏn đen, thay vội thay vàng rồi quơ đại một cái áo trồng vô bất kể ngược ngạo. Đâu đó xong xuôi, thấy coi bộ qua mặt bà nội nó được, nó ngồi chò hỏ trong khoang dựa cái cửa lách, ngó mông ra ngoài như nãy giờ nó hiền từ lắm, ngồi ở nhà học bài. May quá, em nó không hay biết trời đất gì hết, cứ mải mê chơi đánh đũa phía đằng đầu mũi.

Trên bờ, dì Tư đương tránh mấy quày dừa ngổn ngang, cố lựa chỗ trống để đi xuống ghe. Mấy người chủ vựa trái cây ngồi trong mát, ngó ra, làm thinh không nói gì. Dì Tư lầm bầm về trời nắng, về sự lấn chiếm của chủ vựa trong khi vẫn quày quả bước. Tấm bửng bắt từ bờ sông xuống cái ghe lu cao lênh khênh ngại ngùng bước. Dì ngừng lại, chuyển giỏ đồ qua tay trái, lật cái khăn đội đầu xuống vai, nhén nhẹ hai ống quần lên, từ từ bước từng bước. Tấm đòn dài, oằn xuống rung rinh. Dì ngó xuống sông, chỗ này gần bờ, vỏ dừa, vỏ mía, rau cải dập thúi thiên hạ đổ dồn ngày này qua ngày khác chất chồng thành ụ, thành đống cao gần bằng bờ, nước kéo đi không kịp nên thiệt khô, thiệt cạn. Trí dì Tư nghĩ thiệt mau về chuyện ông chủ vựa ngày nào đó sẽ kêu thợ lợp một cái mái gie rồi vừng vách, đóng cừ, lót sàn, mở rộng vựa một cách ngon ơ. Con đường băng qua dãy vựa mấy năm trước lúc mới đặt chưn lên đất Sàigòn này, rộng thinh thang vừa đi vừa múa cũng còn dư dật, bây giờ thì chật còn hơn nêm cối, đi phải tránh phải né, bắt mệt! Thiên hạ làm ăn mau khá thiệt, gầy dựng từ từ mà phát lên lúc nào không hay. Nhà mình cựa quậy ngày nào đủ đút vô lỗ miệng ngày đó. Chốn thành thị yên thân thì yên đó nhưng mà không thấy hứng thú chút nào. Tạm bợ thì được, chứ tính kế lâu dài coi bộ khó khăn. Làm đầu tắt mặt tối cốt khỉ cũng quờn cốt khỉ. Nghèo cũng hườn nghèo, không biết chừng nào mới dư dả chút đỉnh để dễ thở hơn. Ở đây mười năm rồi, chán thấy mồ, không thấy một ngày vui. Tình đời lạt nhách. Người quen bèo mây tương hội, lịch sự đãi bôi, ù ơ ví dầu, miệng lưỡi nhiều chơn tình ít. Trông mong cho giặc giã dứt, trở về quê nhà săn sóc miếng ruộng, vườn mía. Khỏe hơn, khỏi lo chạy ăn cầm canh. Khỏi chán ngán lòng người lạt lẽo.

Con Gái đứng đằng mũi ghe tay vịn cây sào, chưn nhón tới ngóng bóng dáng bà nội. Thoáng thấy dạng dì Tư ló đầu lên từ sau cái ghe lu, nó lớn họng réo om xòm bát nhã, giọng con gái trong veo, dễ thương cách gì!

'Nội ơi nội! Nội dìa trễ quá, con đói bụng muốn xỉu luôn.'

Thằng Đực đã lấp ló sau lưng em, nói giọng đàn anh, luôn dịp để khỏa lấp chuyện trời ơi đất hỡi mình làm nãy giờ.

'Gái, mầy đứng xích vô. Coi chừng té chết trôi đó. Bộ mầy muốn làm thằng chỏng hả?' Nó vừa nói vừa  quỳnh hai tay ra phía sau ngửng đầu lên, con mắt trợn dộc, miệng mở tàng hoạt làm bộ tịch thằng chỏng để dọa.

Con nhỏ bị hù sợ quýnh, lật đật bước thụt vô khoang, mắt lấm la lấm lét nhưng cũng còn ngoái cổ về phía bà nội ở ngoài xa cách hai ba chiếc ghe. Dì Tư sau khi bước nhờ nhè nhẹ trên mấy cái ghe thiên hạ, thở hắt ra khi bỏ chưn xuống sàn ghe mình. Thấy cặp mắt nheo nheo vì chói nắng của con Gái, dì nóng ruột quở thương.

'Bây dang cái đầu trần ra nắng chan-chan, nói hoài không được, cứng đầu cứng cổ có bữa nứt đít đó.' Dì rờ đầu nó, chắc lưỡi nói giọng ấm hơn. 'Đầu nóng hổi, nó biết thì bây chịu nghen, đòn bọng cũng đừng kêu réo tao. Tao xin không được đâu. Như bây biết đó, nó nóng như lửa, còn hơn là Trương Phi nữa. Lần nào đánh con cũng đánh như đánh giặc, đâu có bao giờ biết nới tay!'

Nghe rầy, con Gái mặt xụi lơ như bánh bao chiều. Thằng Đực tỉnh queo, chế dầu vô lửa bằng một câu em nó nghe không lọt lổ tai chút nào hết.

'Thuốc cảm 'con cọp cỡi ngựa' uống chua lè chua lét, mà còn dính ở cần cổ sặc muốn nghẹt thở luôn. Cho mầy uống một ngày ba gói cho mầy hết dang nắng. Nó làm bộ quay mặt chỗ khác nói lẽ theo điệu đã đạp cứt người lớn. 'Lớn rồi, nói hoài mỏi miệng quá, như nước đổ lá môn.'

Con Gái bực mình vênh mỏ bêu xấu địch thủ.

'Tao có bịnh, tao biệt cửa cho mầy ăn ké. Lần nào cũng xin, húp hùm hụp như đồ chết đói bảy đời vương. Lại còn ước được bịnh để có cháo thịt bằm ăn mỗi ngày. Hứ! Thứ đồ anh dụ ăn của em. Hỏng biết xấu.'

Dì Tư không bằng bụng về lời nói hỗn hào đó, liếc mắt lườm cháu gái. Thằng Đực mắc cỡ sượng trân. Con nhỏ chu chu vảnh vảnh cái mỏ lông ben thấy phát giận cành hông, ước sức muốn xán một bộp tay cho thấy ông bà ông vãi. Nhưng nó kịp nghĩ lại. Chắc con Gái sùng trong bụng lắm mới đổ quạu lớn tiếng mầy tao nầy nọ. Tốt hơn hết nhịn nhục để khỏi đổ bể chuyện tắm sông. Nó nuốt giận làm lơ, đánh trống lãng bằng cách chào hỏi lăng xăng lích xích rồi nói với dì Tư một câu mua lòng được ớn.

'Nội coi kìa, con Gái bữa nay coi mướt ghê, trổ mã rồi. Có vẻ con gái rồi. Nội thấy nó đẹp hơn mọi bữa không?'

Dì Tư cười xòa. Thằng này nịnh cũng hay. Con nhỏ có khác gì mọi ngày đâu? Tuy vậy dì cũng liếc qua cháu gái với một chút xíu hãnh diện trong lòng. Con Gái mắc cỡ háy anh nó một cái dài sọc rồi tủm tỉm cười.

Dì Tư như một cách giảng hòa, đưa cái giỏ đi chợ cho thằng Đực, đưa mấy gói vụn vặt cho con Gái. Ba người lần lượt bước vô mui. Con Gái đã quên hết giận hờn, chót cha chót chét với anh nó trong khi nội nó lo bày biện đồ ăn ra một cái bàn nhỏ kê sát vách mui, sửa soạn bữa cơm trưa.

'Con Gái lãnh phần vo gạo nấu cơm, một lon rưởi gạo thôi,' Dì, giọng thiệt vui, sai phái giống như chủ tướng truyền lịnh. 'Nhớ đậy khạp kín, vo bằng nước đổi cho sạch rồi đổ vô bốn lon nước. Làm vén khéo nhe con, bung thùa đổ tháo tội trời lắm đó.' Dì quay lại thằng Đực, tiếp. 'Thằng Đực lãnh phần rửa rau, rửa rau bằng nước sông, nước chót mới xài nước ngọt. Coi chừng đó, hụt chưn thì bà Thủy kêu đó, nội già rồi không nhảy xuống vớt được đâu.'

Con Gái làm theo lời dặn. Nó lấy nồi, lui cui dở khạp gạo quơ tay kiếm cái lon sữa bò, đụng nhằm trái mảng cầu xiêm và hai trái vú sữa nội nó dú trong đó, nó rờ rờ bóp bóp nhưng thấy còn sống nên không nói gì. Thằng Đực cũng làm theo lời nội dặn nhưng nó cười hì hì nho nhỏ. Bà nội có tuổi nên lẩm cẩm, sợ bóng sợ gió mất công vô ích, chẳng khác nào lo bò trắng răng. Mình còn dám leo lên chót vót cột đèn trên cầu nhảy xuống, huống hồ... Trọng cải rồi chứ bộ nhỏ nhít gì nữa sao! Có chuyện gì thì chỉ cần sải hai sải là nắm được be liền. Dể ợt! Nghĩ vậy, nhưng nó cũng dạ dạ cho qua chuyện. Nói qua nói lại cù cưa cù nhầy mất công mà có khi còn lòi chành mấy cái tội dàng trời của mình không biết chừng, hổng tắm sông thì mỗi chiều thứ năm bỏ đi ba đồng bảy đỗi chứ không ở nhà học bài. Bả nổi giận mét cha thì bà hú.

Nó ngó lên cái chổi lông gà ba nó giắt trên mui, rồi xách gói rau ra ngoài sau lái chổng mông xuống múc nước rửa rửa lặt lặt, chăm chăm chú chú như một đứa con gái chánh hiệu.

 

                                                                ***

 

Đương xé bỏ mấy chỗ rau úng, thinh không thằng Đực réo lên thiệt lớn, giọng vui thiệt là vui.

'Nội nè!'

Dì Tư ngước lên ngó cháu. Cái thằng! Tánh như con gái, réo nội ơi nội hỡi tối ngày như mình mắc nợ ba bốn đời chưa trả!

'Nội nè, tại sao nhà mình không ở trên đất liền mà ở dưới sông? Mấy đứa bạn nghe mình ở ghe, cười quá mạng. Người ta xài ghe để chở đồ đi bán chứ ai ở dưới ghe năm nầy qua năm khác bao giờ.' Nó ú a ú ớ ngó nội nó một hồi mới rào đón sau. 'Nói nội đừng giận, tụi nó nói nhà mình dị hợm, hổng giống ai. Con hổng biết nói làm sao nữa!'

Dì Tư ngừng tay đánh vảy con cá, ngó cháu một đỗi hèn lâu mới nói thiệt chậm rãi. Giọng không một chút giận hờn nào hết.

'Có nhiều điều mà con nít không biết được đâu con. Người ta nói con nít con nôi là như vậy đó. Chỉ lo ăn, ngủ thôi, chớ biết cái khỉ gì đâu. Xứ mình sông rạch chằng chịt, xe cộ ít ỏi, đường sá lỗ hang, dùng ghe đi đâu cũng tiện. Vài người, một gia đình, hoặc là làm ăn không khá, hoặc là thời thế đẩy đưa, chỗ làng nước khó ở, dắt díu nhau lên ghe, chất theo đủ tam tứ thứ thập vật, từ cái áo rách, cái chén bể, tới cái ông lò, chiếc chiếu, nồi niêu chảo đụn, nương theo con nước, theo lạch theo ngòi, ngừng lại ở một voi một vịnh, một xẻo nào đó, lên bờ coi cuộc đất hơi tốt tốt có thể trồng trọt được thì chặt cây, chầm lá, dựng chòi, cất nhà. Ngoảnh đi ngoảnh lại không bao lâu khoảnh đất trước đây dầu cho hoang vắng cách mấy cũng thành chỗ có người của mình. Ban đầu thì thưa thớt, vài ba gia đình, leo-heo mấy cái nhà, độ chừng vài ba năm thì xum-xuê, rộn-rịp, có làng có xã đàng hoàng. Bây biết hông, xứ mình rộng lớn minh mông, đi già đời cũng hổng hết đất mà đâu đâu cũng thấy người là nhờ ghe đó. Đừng có phụ rãy nó. Ghe là thứ chưn có bùa có phép để đi trên nước đó con.' Dì Tư ngừng nói, bốc một miếng trầu đã têm sẵn để dành trong cái hộp thiếc thuốc con mèo, bỏ vô miệng nhai bỏm bẻm rồi tiếp tục. 'Còn chuyện tụi bạn bây nói nầy nói nọ hơi sức nào bây để ý. Trối kệ chúng, coi như không có. Thói thường người ta ở không thì ưa bươi móc chuyện thiên hạ. Hễ giống họ hay thua họ thì không sao, hễ khác một chút hay hơn họ thì... ối thôi đủ điều. Nhưng mà mỗi người có một hoàn cảnh. Nếu hoàn cảnh ai cũng giống ai thì đời đâu còn người nghèo người giàu.'

Thằng Đực không bằng bụng bà nó xử chìm xuồng về chuyện châm chọc của chúng bạn nhưng nó khoái thiếu điều muốn nhảy dựng lên vì câu ví von của bà. Phải rồi, trong truyện Phong Thần, truyện Tây Du có thiếu gì ông tiên có phép thần thông, ghe cũng là một thứ thần thông chứ bộ! Có tài độn thủy cũng chỉ đi được một mình mình. Có ghe chở được nhiều người mà còn đem theo được đồ đạc vật dụng. Nó ngó dì Tư rồi tủm tỉm cười tán đồng.

Dì được dịp nói rộng hơn ý mình.

'Bây nghe chuyện tàm thực của ông bà mình chưa? Sẵn đây tao nói luôn trót thể, bây học được chút nào hay chút nấy, để nữa tao quên.' Dì Tư trầm ngâm như nói với riêng mình. 'Ngày xưa đất nầy của người đàng thổ, dân mình ở ngoài Trung từ từ nhích lần vô, đâu phải đi bộ thôi đâu, phần lớn đi ghe để tới được những chỗ khó khăn, trong hóc, trong xó, trong xẻo, trong gành. Mình tới ở chung ở lộn với họ một thời gian, họ không ưa chung đụng với dân lạ nên bỏ vô sâu hơn, thét rồi làng nước chỗ đó thuộc về người Việt. Đất đai nước mình rộng lên từ từ. Đó là chánh sách tàm thực do dân mình tự ý thực hiện để mở rộng nước. Công ơn ông bà mình đã lớn, mà công lao của ghe xuồng càng lớn hơn. Bây đừng khi dễ nó.'

'Vậy người đàng thổ chắc ghét người Việt Nam mình lắm phải không nội,' con Gái hỏi một câu nghe được ớn.

'Chuyện đó thì đương nhiên rồi. Đất đai của họ thinh không mình tới ở, chiếm, làm chủ, chuyện ghét thương làm sao tránh khỏi? Cũng như trong lòng mình cảm thấy sao sao đó khó chịu về chuyện mấy người 'cắc chú' có nhà có cửa, có đất đai, có xe cộ vẻn-vang trên đất nước mình. Thí dụ như bây giờ bỗng nhiên mình qua Tây, qua Mỹ, ăn nhờ ở đậu trên đất đai của họ năm nầy qua năm khác chắc chắn là họ ngó mình bằng nửa con mắt thôi.... Hai bên ngấm ngầm xung khắc, đụng chạm là cái chắc. Bịnh bài ngoại dân nào cũng chứa trong máu. Mà tao thấy cũng đúng, không trách ai được!'

'Người ta ghét rồi người ta có chém giết mình không nội? Lúc ban đầu họ đông mình ít mà? Mình đánh đâu có lợi.'

'Chắc là có. Quyền lợi mà! Có lúc tao nghe chuyện thổ dậy, chặt đầu người mình liệng xuống sông lềnh khênh, tôm càng, cá chốt mập ú, no tròn mà đâu có ai dám ăn. Người ta cũng hỏng dám chài vớt bán nữa, sợ người khác ăn mình bị tội. Lâu lâu mấy tay bạt mạng túng tiền làm ẩu đem bán xa xa cũng được nhắm mớ, nhưng mà bị rủa, tội trời lắm!  Trở về chuyện thổ dậy, nói cho đúng ra, tao cũng không thấy tận mắt. Chắc có lẽ ở xa. Đâu miệt dưới. Dầu sao đi nữa có người chết mới có miền đất đai trù phú nầy. Mới có sông rạch cho mình đậu ghe. Nếu không thì dân mình chùm nhum lại ở ngoài kia chật chội ứ hơi chứ đâu có thong thả như bây giờ. Tiên phong lót đường luôn luôn thiệt hại nhưng ích lợi cho công cuộc đường dài. Tao nghĩ nếu ông bà mình ngày xưa mà ngán dao ngán búa thì bây giờ đất mình ước chừng chỉ bằng cái bụm tay thôi, có khi bị Tàu lấy mất tiêu rồi cũng không chừng.'

'Vậy quê mình không phải ở đây sao nội?' thằng Đực không muốn nghe vòng vo tam quốc, nó thắc mắc chuyện dính dấp tới mình hơn. 

'Tứ xứ ở trên đất nước nầy, gần thì Sàigòn, Lục Tỉnh, xa thì Hà Nội, Hải Phòng, đâu đâu cũng là quê hương mình hết thảy. Có điều chỗ chôn nhao cắt rún, chỗ ông bà của dòng họ mình lập cơ ngơi ban đầu không phải ở đây. Mình là lưu dân, đâu phải chánh gốc ở đất Sàigòn nầy.  Người ta gọi xách mé 'trai tứ chiếng, gái giang hồ' là vậy đó. Mà thôi! Bỏ qua chuyện đó đi. Quê thiệt của mình có cái tên hơi 'lạ tai' một chút. Chợ Đệm.'

Dì Tư tự thưởng mình bằng nụ cười khi đã kiếm được một chữ đặc biệt diễn tả quê hương. Lạ tai chớ không phải quê. Dì nhấn mạnh, 'Chợ Đệm cũng gần đây chớ không xa lắm. Xe cộ bây giờ nếu chạy một mạch chỉ cần một buổi thôi, sớm mơi đi trưa đã tới rồi.'

Thinh không dì Tư trầm ngâm ngang. Tên quê nhà lâu không được nghe nhắc, bây giờ lại nghe từ chính miệng mình, gợi trong lòng dì cảm giác bồn chồn xao xuyến. Đường về không xa, nhưng sao bao năm nay đâu dám nghĩ tới! Bà con không còn, người quen phân tán, làng xã khó dàng trời! Nẽo về bị chận nhưng đi về bằng tâm tưởng, bằng trí tưởng tượng vẫn có đủ sức để sụt sùi lòng. Kỷ niệm xưa, không gian và thời gian cũ chập thành hiện tại trước mặt, bào xé ruột gan, nước mắt sống chực hờ rớt xuống theo nỗi bùi ngùi.

Thằng Đực trong lúc đó vẫn cứ ngơ ngơ, đủng đa đủng đỉnh lật qua, lật lại mấy cọng rau sà-lách cố rửa mấy hột đất dính ở bẹ lá. Đối với nó, chợ Đệm, chợ Quán, chợ Rẫy, chợ Đũi, chợ Gạo hay chợ gì đó cũng chỉ là một cái tiếng, cái tên như Thị Nghè, Bà Chiểu, Đất Hộ, Dakao, không ăn nhập gì với nó hết, có lẽ còn thua, còn không gợi cảm, không êm đềm bằng mấy chữ chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối  mà nó nghe hằng ngày, sống ở đó, lớn lên ở đó với kỷ niệm và bạn bè ở đó.

'.....Còn nhớ nhà ông cố bây ở gần sông, bên kia sông cách nhà chưa dập bã trầu có cái chợ nhỏ, mỗi lần tao muốn đi chợ đều phải kêu xuồng của con Thơm, con bác Hương Hào Ngọ, để xin quá giang. Lắm khi phải réo rát bản họng nó mới nghe. Sông không rộng lắm, nhưng hai bên bờ trống trải, lùm buội không nhiều, chỉ le-que mấy cây bần thôi. Tiếng kêu nó huốt đi. Quá giang sướng là khỏi phải chèo chống gì hết, thiên hạ đâu có cho! Mình dầu sao cũng là khách trên xuồng họ. Nhưng lại phải mang ơn thiên hạ. Có nhiều bữa con Thơm nó không vui, mình ngồi cũng phải ké-né. Dì nói một câu không ăn nhằm gì hết với chủ đề buổi nói chuyện. Ở đời nó vậy đó. Nhờ cậy ai thì lúc họ ể mình khó chịu, mình cũng ngại cũng sợ, bởi vậy tao ngán nhờ vả lắm. Cực chẳng đã!'

Tiếng Dì Tư  nghe chua chua xót xót như muốn ám chỉ đứa con dâu vắng mặt. Con Gái ngước mặt lên ngó bà nội, trù trừ một lúc mới hỏi.

'Như con có giang từ cầu tới trường phải không nội? Nhiều bữa ông xe ngựa không muốn rước nói là tụi con xuống gần quá, ổng bị mất mối.'

'Ừ ! Nói có giang, hay quá giang, gì cũng được. Bây giờ xe cộ chạy trên đường, trên đất, có chèo chống gì trên sông đâu mà nói giang, nói hà. Có một điều là bây quá giang xe ngựa là bây đi một đỗi đường thôi, không đi hết lộ trình. Mà quan trọng là bây có trả tiền. Nói quá giang là mình nói cho nó lịch sự vậy mà. Lời nói không mất tiền mua.'

Con Gái khen lấy khen để.

'Nội cắt nghĩa nghe hay quá. Cũng như bữa hỗm nội cắt nghĩa tại sao ghe nước họ bán nước ngọt cho mình mà họ chỉ rao 'đổi nước không'. Hồi trước con cứ lấy làm lạ, mình có đổi gì với họ đâu. Mấy tiếng như vậy - chừng nào con lớn lên, con đi học trường lớn hơn, con mới biết hết phải không nội?'

Dì Tư quậy quậy khứa cá trong cái nồi nước đang đỏ màu máu để rửa lần chót rồi bỏ vô nồi, bắt lên lò. Củi chẻ nhỏ, khô, bắt lửa nãy giờ, nổ lốp bốp văng tàn tùm lum. Mắt dì rưng rưng cảm động. Thằng Đực, con Gái hỏi nhiều câu được ớn, coi cũng có đầu óc lắm chứ đâu thua ai. Tụi nó mà còn ở nhà quê chắc nổi bật lên giữa đám con nít trong làng. Mình cũng nở mặt nở mày. Ở đây ai cũng như ai, anh hùng tứ xứ, chuyện ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, giỏi dở gì cũng như nhau. Thiệt uổng!

'Ừ! Tiếng mình có nhiều chữ mắc mỏ,' dì gật đầu. 'Nhiều người nói thì nói vậy chớ không biết trúng trật. Bây càng ngày càng lớn, để ý sẽ học được từ từ. Mình nói trúng thiên hạ không khi dễ. Cũng như ông Trịn đó. Nít nhỏ chọc ông ta tại vì ông ta nói chữ trật lất trật lơ. Ai đời 'tụi bây ăn ở độc dược với tao, trời đảng mạng tụi bây! hay là 'bà con ăn ở có nhơn duyên thì Trời Phật độ bà con.'

'Nội nói chuyện ông cố nữa đi nội.'

Thằng  Đực lên tiếng, nóng ruột vì đề tài đã đi quá xa. Dì Tư ngó thẳng về trước mặt nhưng trí không thu nhận ngoại cảnh nào, mơ màng, nói thiệt chậm rãi, sống lại quá khứ qua những điều dì nói, một quá khứ thiệt tầm thường, nhưng thời gian không thể làm phai mờ.

'Ừ! Thì nhà mình là dân cố cựu nên cũng đủ ăn đủ để, rân rát. Tao còn nhớ nhà mình bự xộn, bốn năm gian, lại còn có mấy lẫm lúa. Tao là con út, mấy anh chị có gia đình ra riêng hết. Nhiều người theo vợ, theo chồng đi ở xa. Ông cố già rồi. Chừng độ bảy mươi. Trong nhà có chứa cái hàng, kêu là hậu sự, cái hòm đó, mua hờ để có sẵn, khi lỡ theo ông theo bà khỏi phiền nhiễu con cháu. Ông cố bây..... Mà thôi! Nói hoài chuyện xưa thêm rớt nước mắt chứ ích lợi gì.'

Dì kéo khăn chậm nước mắt. Con Gái ngó sững nội. Nội nó cười với nó.

'Đâu để coi, lúc lớn ông cố gả tao cho ông nội bây, cũng là người cùng xứ, gia đình không khá giả nhưng là người chơn chất làm ăn. Ra riêng, cha mẹ hai đàng cho đủ tiền cất nhà cửa, mua sắm ghe cộ. Nội có một cái ghe lớn bộn dùng để đi lên tỉnh bổ hàng về bán. Hàng xén ấy mà. Đâu không được bao lâu, gặp năm giặc giã lung tung, đánh nhau long trời lở đất, thiên hạ bị chặt đầu mổ bụng rần rần. Cả nhà rút lên ghe, chèo thả theo sông kiếm chỗ tản cư. Ở chổ kinh Tàu Hủ một đổi. Ở chỗ kinh Lò Gốm cũng lâu ớn rồi lần hồi mới trôi dạt tới đây. Đổi ghe nhiều lần khi túng ngặt để lấy tiền ăn. Cuối cùng mới tới cái ghe nhỏ nầy đó chớ? Bao nhiêu năm rồi!'

Thằng Đực hỏi chuyện tâm tình.

'Rồi nội nhớ nhà không?'

Con Gái cũng nhao nhao.

'Phải rồi! Nội có nhớ nhà, nhớ chỗ nội sống hồi còn nhỏ không?'

'Nói cho cùng mà nghe, xa quê ban đầu phải nhớ, ai mà hỏng vậy? Tao nghe bây đọc như con két mẹ 'Chỗ quê hương đẹp hơn cả' mà...' Dì trầm ngâm. 'Ban đầu thì cũng nhớ... nhưng năm nầy qua năm nọ, mọi chuyện rồi cũng đâu vô đó. Con người ta ăn theo thuở ở theo thời, ở đó nhớ hoài còn làm ăn gì được.  Tao chỉ buồn là ba bây mọc gốc mọc rễ ở đây. Chỗ nầy nó đã quen nước quen cái cho nên không dám nghĩ tới chuyện trở về quê hương xứ sở. Còn bây thì khỏi nói. Nghe tới hai tiếng Chợ Đệm lạ quắc lạ quơ bây cho là chỗ quê mùa hủ lậu, chó ăn đá gà ăn muối, làm sao bây nghĩ tới chuyện về?'

Dì Tư nhích tới chỗ con Gái ngồi, dở nắp nồi, cơm vừa chín tới thơm mùi nhựa gạo, đưa đũa bếp xới xới. Tay dì quậy mạnh mẽ, thành thạo, nhưng để ý mới thấy Dì cố tránh đụng mạnh mấy cái hột vịt luộc ké trong đó. Xong xuôi dì đập lên vành nồi cho mấy hột cơm dính trên đũa bếp rớt xuống, đậy nắp nồi, xây xây, lựa chỗ cho nắp vung khít khao với miệng nồi để hơi khỏi bay ra.

Con Gái biết ý nội, lấy đôi đũa sắt quậy trong lò, than vụn lọt qua vĩ, rớt xuống phía dưới đỏ au. Nó vói tay dụi mấy cây củi đương cháy đỏ vô thau nước dơ cạnh đó, rồi chất vô đống củi, tiết kiệm đề xài lần sau. Dì Tư ngó cháu mỉm cười bằng bụng, đưa tay xấp xấp xếp xếp mọi thứ gọn gàng, kéo cửa sổ, hất hết rác rến xuống sông rồi đứng dậy đi lấy chén đũa. Cử chỉ của dì Tư thiệt tự nhiên, thiệt bình thường nhưng thằng Đực thấy bà nó cố gắng đè xuống đáy lòng một thứ tình cảm gì đó mà nó lờ mờ  hiểu rằng đó là nỗi buồn nhớ quê của người xa xứ lâu năm không được trở về, giờ đây nghe nhắc tới. Nó ngó theo từng cử chỉ của bà nội. Mường tượng nghe một tiếng thở ra. Thương bà và cũng phục bà. Bà nói trúng phóc, hổng trật một chút nào hết. Hôm qua đây chứ đâu lâu lắc gì, trong lúc chờ con Gái từ trường Tôn Thọ Tường băng qua để đi về chung, nó đã tò mò đứng ngó gần rớt con mắt ba bà nhà quê đương sà xuống mua thuốc Nam của mấy người Chàm bày bán trên lề đường. Nó lấy làm lạ về mấy người Chàm thì ít. Họ nói bằng thứ tiếng líu líu lo lo bổng trầm. Họ bận quần áo màu mè, lòe loẹt thùng thình. Họ đeo  cả chục cái vòng ở mỗi cườm tay. Mấy chuyện này mới gặp lần đầu thì lạ. Nhưng bây giờ thì quá thường rồi, quá quen rồi. Cứ vài ba tuần, thì thế nào cũng có năm bảy người, đàn ông có, đàn bà có, bày thuốc ra bán. Thuốc rễ cây, lá cây khô. Họ còn bày biện ra trên mấy tờ giấy dầu những sản phẩm đặc biệt của rừng núi, rất thu hút người thành thị như là mật gấu, nanh heo rừng, gạc nai, củ sâm, răng cọp, lông đuôi voi. Có bận họ còn chưng nguyên một con khỉ khô, nguyên bộ dạng ngồi chòm hỗm, nhăn răng như khi còn sống, giành ăn khọt khẹt làm cho người ta bu lại coi đen nghẹt, chật hết lề đường. Hôm qua nó cũng lấn vô để hy vọng được coi con khỉ khô lần nữa. Nhưng không có gì hết. Chỉ thấy mấy người đàn bà nhà quê, bận hai ba cái áo một lượt, khi móc tiền ra trả, rụt rà rụt rè vén từ cái lên, tiền ở trong túi cái áo chót. Họ lây quây mở kim tây, lấy từng đồng bạc mới tinh ra, mấy tấm giấy một đồng thẳng thớm vừa thơm mùi giấy, vừa thơm mùi long não, họ đếm tới đếm lui, năm lần bảy lượt mới chịu đưa tiền. Đưa rồi mà họ thiếu điều của hỏng  muốn rút tay về.

Nó đứng ngó trân trân cảnh tượng đó, quên mỏi cẳng, quên con Gái đứng ngoài sau kéo áo nó mấy lần đòi về. Nó như á khẩu, hồn trí bay bổng lên cung Dao Trì, lên vườn Tây Vương Mẫu, mất hút không còn biết gì nữa. Lạ quá, phải ngó, phải dòm. Họ như cha căng chú kiết nào đâu á, không giống ai hết. Họ nói chuyện với nhau thì phải biết. Lạ lùng về tiếng đã đành mà còn lạ về cách nói nữa! mình ên, chời ơi, xấu như ma móc, ếm-cùm-cum, chèn-đéc-ơi, quỷ thần thiên địa ơi, giùm làm. Họ rụt rụt rè rè, lơ ngơ, láo ngáo. Không giống ba nó cười cười nói nói vui vẻ, không giống má nó bận có một cái áo túi năm nầy qua năm khác. Tiền, khi ba nó hỏi, thì đưa liền chứ không tiếc hùi hụi con mắt ngó theo hoài. Cũng không giống mấy người bạn hàng ồn ào, sôi nổi, miệng bằng tay, tay bằng miệng. Không giống mấy chú khiêng hàng, bất kể quân thần trời đất, chạy càn chạy lướt, xô đẩy mấy người chậm chân lóng cóng, hễ ai than phiền thì cự nự, chửi thề, bậm trợn.

Người ở đây vậy đó. Mau lẹ, lanh lợi, dữ dằn, vui vẻ, liếng thoắng. Họ không làm người khác sợ thì thôi, chứ ai mà cà rờ, cà rờ, cà rịch, cà tang, mua có một mớ thuốc mà tốn hết cả buổi trời, khóm ra khóm róm như sắp bị ăn tươi nuốt sống. Chỉ cần gặp một lần thì biết là nhà quê rồi.

Nó ngửng đầu lên khi trí nó đụng nhằm một thắc mắc không giải quyết được.

'Nội nè!  Bộ mấy người dưới quê hết thảy đều quê mùa sao nội?'

'Không vậy, nhưng những người ở quê không nhiều thì ít đều có những cử chỉ mà người ở chợ cho là nhà quê. Cũng có người có ăn có học đến đó chứ. Mấy ông hương chức hội tề, mấy cô cậu tiểu thư công tử con chủ điền, chủ lò đường, lò gạch, chủ chợ, chủ ghe đò... Mấy thầy giáo nữa chi? Đâu phải ai cũng cày sâu cuốc bẩm ù ù, cạc cạc, củi lục hết, có người từng đi học trên tỉnh, thậm chí có người từng lên Sàigòn học nữa! Nhưng mà sống dưới quê, lâu ngày nhiễm cách ăn nói, quen cử chỉ của người chung quanh nên có hơi lạ đối với người ở chợ. Bây thấy đó, khác chớ đâu phải quê, mà cho là quê đi, cũng không có gì xấu hết. Họ coi lẫm rẫm vậy mà xài được ớn chứ hổng chơi đâu. Họ thiệt thà chơn chất, cục mịch nhưng một là một, hai là hai... Nói cho cùng mà nghe, nếu tao còn ở Chợ Đệm tới giờ thì thằng tía bây đã thành nhà quê. Bây là con nít nhà quê. Người ta nói là quê rít quê rang, quê từ đầu tới đít là vậy đó. Quê ba bốn đời.

Con Gái vỗ tay cười, nói một câu thiệt là lạc quẻ.

'Ha! Ha! Mày là đồ nhà quê.'

Thằng Đực mơ màng, nó như không nghe em nó cười ngạo vô lý. Nó thấy mình lớn bộn sau câu chuyện, lên giọng nhận xét tài khôn.

'Như tụi con đây cũng nhà quê phải không nội?'

Tên gì mà thằng Đực, con Gái, mấy cái tên đó để kêu ở nhà mới phải, vô trường phải có tên khác chứ.'

'Thì tao đặt bậy vậy mà. Ba má bây không chịu cũng phải chịu. Có sao kêu vậy. Gái, Đực, Bông, Lành, Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Trâu, Bò. Tao cũng biết đặt đẹp cho cháu vậy. Huỳnh Hoa, Trí Dũng, Hiền Tâm, Thiên Kim. Nhưng mà tên quê có cái dễ thương riêng của nó. Bây không thấy nó đơn giản, mộc mạc thiệt thà đó sao? Tên đẹp mà làm gì, lòng mình đẹp tốt bằng mười... Với lại con nít mà đặt tên đẹp quá ông bà quở, ấm mỏ ác, khóc đêm ọc sữa tối ngày ai chịu cho nỗi. Nhờ tao đặt bậy vậy cho nên bây mới sởn sơ mạnh dạn cho tới bây giờ. Nêu không, nói bậy mà nghe, biết đâu bà hú tụi bây hồi năm rồi. Nhứt là thằng Đực. Đã là con so mà lại xấu háy nên lặc lìa lặc lọi năm nầy qua năm khác, hỏng có tao thì bây đã đi đầu thai mấy kiếp rồi. Một tay tao chạy thầy chạy bà, kiếm thuốc kiếm thang, chớ mẹ mầy còn nhỏ quá có biết cái mốc gì đâu?'

Thằng Đực sợ bà nó nhắc lại những trận đau ngày xưa của tụi nó. Xáp vô chuyện nầy bả xà quần cầu nửa ngày chưa hết. Nó nói vời sự cảm xúc dào dạt trong lòng.

'Như vậy có nghĩa là quê hay không quê tùy thuộc chỗ mình ở. Mà quê cũng không có gì là xấu. Thấy ai quê mùa mình phải thương chớ không được khinh khi phải không nội?'

Dì Tư cúi xuống cắt cắt mấy cọng hành không ngó lên. Dì chần-chờ một đỗi mới trả lời thiệt nhỏ, giọng mơ hồ, xa vắng.

'Xứ quê chứ người không quê.'

Mắt dì Tư ươn ướt. Một giòng nước đọng lại, chỉ chờ một cái chớp mắt là nhiễu xuống. Dì nhớ tới xứ quê mùa hủ lậu của mình. Con sông êm đềm nước chảy, lâu thiệt lâu có khi cả ngày trời mới có một chiếc ghe đi ngang. Cảnh buồn hiu nhưng chứa chan bao thân thiết khi còn nhỏ, nào tập tễnh lội bập dừa, nào chơi đập nước quậy bùn khi mới lớn, nào thẹn thùng tắm dưới trăng lúc nửa đêm nóng nực. Vườn mía Tây mập cùi cụi trước sân, chỉ nghe tiếng lá xào xạc trong gió cũng đủ ngọt miệng huống hồ gì được tự do ngồi trong luống cạp mấy lóng vàng lườm, tươm mật rít tay. Phải biết! Ngậm mà nghe! Cả xứ chỉ có vườn  mía mình là một, căn nhà nữa, lót gạch Tàu lên nước bóng láng từ trước tới đằng sau, buổi trưa nắng đổ lửa mà ngả lưng xuống thì nghe mát rượi hết cả tứ chi. Buổi sớm tiếng chim kêu ríu rít trong bụi quanh quất đâu đó khi trời mới thả vài tia nắng sớm, se sẻ, chào mào, chích chòe đua nhau hòa tấu điệu bình minh. Cái giếng hộc lấp ló sau mấy thân cây chuối lửa bự bằng cột nhà....

'Con phải thương mấy người nhà quê phải không nội?'

Thằng Đực hỏi khôn hỏi khéo, nhắc lại bổn phận tự đặt khi thoáng thấy một thứ tình cảm gì đó lạ lùng lắm, hiện diện trên gương mặt xương xẩu của nội nó. Nó xốn xang vì giọt nước mắt thì ít mà vì sự im lặng đương phũ trùm trong ghe thì nhiều. Nó bỗng nhiên có cảm tưởng mình được nối kết thật chặt chẽ với một khung cảnh mà lâu nay chỉ mường tượng là vắng vẻ, đìu hiu nhưng đã chứa chấp tổ tiên ông bà mấy đời trước đó, với những quần vải áo bô, mặt xương, chưn mốc, tóc hớt cao, những người mà trước đây nó thờ ơ, xa lạ thậm chí còn khi dễ.

'Mà con nói cho nội biết tại sao con nghĩ tới chuyện đó?'

Thằng Đực câm họng, không biết nói sao để diễn ý thành lời. Lớn đại, mười hai, mười ba tuổi đầu, nhưng nó chưa hề suy nghĩ trừu tượng, cũng như diễn tả tình cảm của mình. Nó đứng đực mặt, bậm môi, rặn lắm, nhưng cũng không nói được hết ý:

'Con nghĩ là....là con hên hơn họ...Họ...xui xẻo...chớ không phải ai tài giỏi gì hơn ai?'

Dì Tư không ngờ được có câu trả lời như vậy. Dì tưởng mình sẽ nghe về tình người, tình dân tộc, đồng bào, trái lại đụng nhằm một câu nói trúng ngay thực tế. Phải, người hên người xui nên thành người chợ búa kẻ quê mùa thôi. Không có gì khác hơn chơn lý đó.

'Ừ! Ở đời mỗi người đều có phước có phần riêng. Trời cho ai nầy hưởng. Quê chưa chắc xấu, thành thị chưa chắc hay. Hay là quê mà không ngu dốt, không hủ lậu, thành thị mà không lém lỉnh, gạt người và che đậy một cách tức cười cái gốc gác của ông bà tổ tiên. Tao thấy có người mới tới đây đâu có bao lâu, gặp thời xưng hùng xưng bá, nói láo ngang láo dọc mà không biết mắc cỡ miệng tao bắt tức cười... Với tao thì quê hương tao luôn luôn là hình ảnh sáng chói trong lòng mặc dầu đã xa xứ từ lâu.'

Con Gái bình thường bô bô cái họng hỏi không liền da non, bữa nay cũng thấy khớp trước những điều mới mẻ vừa được nghe. Nó bâng khuâng vừa bồn chồn vừa bùi ngùi. Nó nhớ tới một đứa nhỏ cũng chừng trạc tuổi nó, cặp mắt ngơ ngác, khô cằn, cái kẹp ba lá kẹp sau đuôi tóc, bận cái áo túi bông xanh xanh, cả ngày lúc thúc, lủi thủi trong khoang chiếc ghe chở nồi ơ, cà ràng, ông lò mấy bữa rày đậu kế bên ghe nó mà mỗi lần nó trừng mắt làm bộ bậm trợn để hù nhát thì con nhỏ lấm la lấm lét quay mặt đi hay cúi gầm xuống im thin thít. Nó ước thầm trong bụng. Ưng ai mai mốt ghe đó đậu chỗ này nữa để tôi làm quen với con nhỏ đó, tôi xin lỗi nó. Lúc đó tôi đâu biết giỡn chơi như vậy là bậy. Ưng ai ông địa làm phước!

Nó ngó ngọn lửa đã tàn trong lò, mấy cục than đã cháy gần hết đương bắt đầu phủ một lớp tro trắng xám chung quanh, ánh lửa lâu lâu sáng hực lên, chiếu bóng khói lên vách ghe mỗi khi có cơn gió thổi lòn vào trong mui. Nó nhìn chăm chú ánh lửa, mơ màng thấy mình với con nhỏ có cặp mắt ngác ngơ, nắm tay nhau đi xuống phía chưn cầu, chỗ xác mía chất chồng đầy dẫy, tay trong tay vừa cười nói thân thiết vừa dòm thán phục mấy chị đàn bà đương lanh lẹ róc mía chất lên mấy cái xe ba bánh, và nó đã mạnh dạn nài một khúc ngon ớn bẻ hai chia cho con nhỏ.

Thằng Đực vẫn đeo đuổi ý nghĩ của mình. Quê hay không quê khác nhau chỉ là rời xứ  sớm hay không mà thôi. Không hay ho gì hết trơn hết trọi. Cái hay ho là biết nhớ biết thương xứ nhà quê của mình, hay nói theo cách của bà nội nó 'Quê hương phải là hình ảnh sáng chói trong lòng'.

Lâu lắm dì Tư mới đứng dậy lấy chén đũa dọn cơm. Dì nói lớn một câu vớt vát để phá tan không khí đặc biệt đương trùm phủ không gian.

'Thôi ăn cơm bây, trưa trờ trưa trật rồi. Kiến cắn bụng quá! Nãy giờ mấy bà cháu mình lo nói chuyện tầm-ruồng bá-láp không.'

Bên ghe đậu gần đâu đó, có chị đàn bà buổi trưa nằm nói thơ giải buồn, hứng chí nói lanh lảnh mấy câu thơ Sáu Trọng thiệt ngọt ngào, nhưng lời thơ thiệt thấm thía:

Trọng rằng: 'Buôn bán không lo,

Nói chuyện đưa đò chè cháo lạnh tanh.'

Đẩu rằng :'Lòng khiến thương anh

Cháo chè nguội lạnh cũng đành bụng tôi.'

Thằng Đực vảnh mỏ ra nghe, mỗi lần chị ta nói thơ Sáu Trọng là nó khoái trong bụng. Nghe ngày nầy qua ngày khác nó gần như đã thuộc nằm lòng nguyên cuốn thơ. Nó nhớ tới Sáu Trọng người lưu lạc mà anh hùng, thẳng thắn, gan dạ. Nó thấy bà nội nó coi quê mùa dốt nát mà nói ra những điều thiệt đáng kính phục, những điều nó chưa từng học ở nhà trường, chưa từng nghe ai giảng giải mà tạo được xúc động lớn lao như vậy.

Nó lập lại trong bụng, tầm ruồng, bá láp, đưa đò! Không tầm ruồng bá láp đâu nội, không đưa đò đâu chị. Ích lợi còn hơn uống mười thang thuốc bổ nữa đó nội. Đáng giá còn hơn bạc ngàn đó chị. Nội đã dạy con yêu mến quê hương, thân thiết với người nhà quê tội nghiệp. Chị đã dạy em nghĩa khí can trường, biết phẫn nộ trước những bất công của cuộc đời.

Con Gái đã trở về thực tại sau câu nói của nội nó. Nó tiếc tiếc hình ảnh hồi nãy nhưng cũng nghe lời đứng dậy dọn cơm.

Đương bưng nồi cơm xuống để lên cái rế bỗng nghĩ ra một điều, nó lật đật để xuống, phủi tay lia lịa, hỏi một câu thiệt đáng đồng tiền.

'Chừng nào mình mới về quê thăm quê mình hả nội?'

Dì Tư cảm động ngó cháu.

'Cái đó còn tùy nhiều thứ lắm con!'

Dì không nói thêm gì, nhưng tiếng con được kéo dài thiệt ngọt ngào, thiệt bao la. Thằng Đực và con Gái ngó nhau, lờ mờ trong trí chúng nó đại để chuyện về quê còn tùy thuộc nhiều thứ mà bà nội chưa thể kể ra ngọn ngành nhưng chắc chắn là sẽ về một ngày nào đó. Câu trả lời của bà, người ngu cách mấy cũng cảm thấy ẩn dấu trong đó một tình cảm dạt dào, sâu đậm, một sự ngóng trông, hướng về; một nỗi niềm tiếc nuối... Hai đứa thấy mình đã hiểu bà, hiểu tại sao ánh mắt bà vời vợi, tại sao câu trả lời như một lời than, một cái chép miệng. Và thằng Đực bới một chén cơm thiệt đầy, kính cẩn đưa hai tay mời bà nó. Con Gái lặng lẽ trở mấy chiếc đũa lộn đầu về một phía, so so rồi lựa đôi tốt nhứt kiếng cho nội. Đôi kế tiếp nó đưa cho anh nó. Thằng Đực đưa tay ra nhận mà lòng tràn ngập khoái cảm. Nó ngước lên ngó em bằng ánh mắt thân thiết. Hai anh em cùng mỉm cười, lâng lâng nôn nao, khác với lúc bình thường hằng ngày như được cho một đồng bạc, một gói xôi, hay ổ bánh mì cá hộp. Lạ lắm. Khác lắm.

Bên ghe kia, chị đàn bà đã bỏ thơ Sáu Trọng qua thơ khác, chị ngâm nga nghe đứt ruột đứt gan:

'Mười giờ tàu lại Bến Thành

Xúp lê vội thổi bộ hành xôn xao.'

Thằng Đực và con Gái lại đưa mắt ngó nhau lần nữa. Trong trí hai đứa hiện lên đồng loạt khung cảnh bến tàu đò nhộn nhịp ở đằng đầu kia chợ với những người đàn bà áo quần tươm tất từ dưới bước lên, tay dắt mấy đứa nhỏ, ngơ ngác ngó cảnh vật lạ chung quanh. Hai đứa đều ước ao mình được ngồi trong  tàu đò đi về miền quê hương trong tâm tưởng, một thứ quê hương được cấu tạo trong thần trí bằng tình cảm thiêng liêng chớ không bằng một chút kỷ niệm nhỏ nhoi nào.

Dì Tư ngồi chống đũa. Con sông trống trải hai bên bờ, vườn mía Tây xào xạc, tiếng chim kêu líu lo buổi sớm, và cái giếng hộc ngọt lịm kế bụi chuối sau hè đã che mất thực cảnh trước mặt.

Nguyễn Văn Sâm



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 31/May/2017 lúc 9:24am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.701 seconds.