Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 13/May/2017 lúc 6:52am | |||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 15/May/2017 lúc 11:41am | |||||
Chiếc máy bay từ từ dừng lại. Người
tiếp-đãi viên chào Du lần cuối. Chàng theo đám hành-khách bước ra ngoài.
Có tiếng gọi mừng rỡ: Gặp ông Khổng-Tử bên đường, Du khen: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Thầy mê chị ấy phải không ? *** Du nhìn lên sân-khấu. Thùy trong
chiếc áo vàng tha-thướt đang đắm-chìm trong tiếng hát xa vời. Những
âm-thanh đưa Du vào nỗi buồn bất-tận. Bài hát là mưa rơi trên thành phố
của một thời yêu-đương … *** Du buông tờ báo xuống. Tiệm ăn lác-đác
vài người. Trời còn sớm. Chàng hững-hờ cầm bảng thực-đơn. Một bóng người
bước tới. Nghĩ là người hầu bàn nên Du không buồn ngước lên: *** Quý gọi Tuấn: Quý thân, Tuấn bồn-chồn: Thiên-Tường |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 16/May/2017 lúc 8:25am | |||||
Người con gái sông HươngMột thời để yêu Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm. Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về, em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi. Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc. Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế… và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.
Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường.Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email. “Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.” Tháng Tư, ngày định mệnh Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú quốc, ra Côn sơn theo Hải quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng. Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn.Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc.Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sanh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích.Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn. Lỡ bước sang ngang Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ.Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy quân lục chiến.Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa.Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy. Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh hùng TQLC một thời được trở lại Saigon.Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây. Anh trở về, dang dở đời em… Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời. Cay đắng nở hoa… Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sanh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay… Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,… và hôm nay, Dr.Việt bỏ người cha Marin Corp Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình…Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình. Họp khóa mùa Xuân Từ Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện và anh Nguyễn của đại đội 5, cho đến các bạn của đại đội 6 như Lại Thọ, Trần quốc Lịch, Lê xuân Ðịnh.Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn trao vòng hoa cho nhẩy dù Ngô quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến.Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn. Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20. Nicole Dương |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 21/May/2017 lúc 4:43am | |||||
Mẹ anh và mẹ em <<<<< |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 22/May/2017 lúc 8:30am | |||||
Số Sát PhuTuổi nào cũng có buồn vui của tuổi, Người tuổi Dần thì có tội tình gì!, Mà người đời gọi họ “Số sát phu”, Cầm tinh con Cọp sao mà khổ thế!!! Hiền Lương và Phong cùng ngồi trên chiếc ghế xích đu trong vườn bên
cạnh những chậu hoa đủ loại, có hoa màu đỏ, màu tím, màu vàng v..v. và
trên đầu họ là giàn hoa TiGon leo buông xuống những chùm hoa màu đỏ hồng
thật đẹp. Cảnh vườn yên tĩnh chìm trong hoa lá, nơi đây là chỗ từng
chứng kiến những lời yêu lời nhớ của hai người, lần nào đến nhà thăm
Hiền Lương, Phong đều thích theo nàng ra vườn. Nguyễn Thị Thanh Dương |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 23/May/2017 lúc 3:45pm | |||||
Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ
1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm
ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với
cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới
xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết
liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng
nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng
cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp
lễ Giáng sinh.
Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào.
Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao
mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa
soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.
Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà
cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ
vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ
niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện
xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà
thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và
biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía
trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển,
bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà
không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần
giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi
ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà
còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng
đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn
thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn
vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.
Hơn
mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà
xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc
màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".
Trong
bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua,
bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi
bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của
người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết
dầu thì đèn tắt.
Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị
đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm
nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt
giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói
với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại
thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà
vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ
chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội
đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của
bà cả một mùa xuân.
Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời
khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo
cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con
ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy
sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm,
vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến
tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một
chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà
nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng
thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con
đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng
khốc liệt.
Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe
của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân,
được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa
thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi
lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở
thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu
Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình
này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.
Sáng
ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào,
gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành
đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..
Tin
con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính
thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm
hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là
một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy
bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống
và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng
nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được
đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem
bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy
vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng
mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...
Sau khi mất nước, bà Tư
nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội
thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà
Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ
quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy
quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các
trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải
ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong
các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.
Tin đứa con tử trận chưa
làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu
não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai
anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt
con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa
vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính
đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ
mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công
an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm
vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.
Nếu
bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái
mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao
động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời
đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và
Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng
nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống
trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ
quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ
đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già
được tha về sớm.
Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị
thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong
một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong
Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7
của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị
tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn
được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử
gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư
được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".
Hàng
năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân
đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà
treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ
sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như
thế cho đến ngày bà qua Mỹ.
Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những
giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường,
nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa
lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội
chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà
chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương
trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật
nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn
trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.
Trước
khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh
thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt
át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau
thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi
người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây
cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt
sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một
chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".
Năm một
ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo
lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn
bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:
-Thôi con ơi,
thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở
quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn
gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.
Rồi bà ngậm ngùi:
-
Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một
dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết
được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.
2.
Sau
một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn
phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức
khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô
khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn
nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu.
Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị
vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ
Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về
được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ
Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.
Từ
ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia
đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu
nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ
sống gần bà ngoại từ bé.
Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi
qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở
bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không
quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau.
Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những
bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một
cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào
Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn
súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41,
phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở
đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là
Phượng có thai.
Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một
hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719
Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt,
chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong
chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ,
một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành
đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một
người đều tử trận.
Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ
tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng
bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức
gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ.
Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì
ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một
thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa
cũ.
Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn
sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi
qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo
Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong
bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có
lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ
trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình
yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa
trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì
con.
Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai
chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực
phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã
có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà
ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống
Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người
Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba
ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng
Phượng.
Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi
con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn
liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới
thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh
Mỹ từ chiến trường chuyển về.
Những ngày đầu tiên chứng kiến
những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải
thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng
xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được
nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông
bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc
quan tài phủ lá cờ Mỹ?
Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?
Phượng
quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng
thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi,
Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và
dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc
biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông.
Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp
kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời
tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ
giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi,
ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp
đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp
ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.
Vào một đêm trực
chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì
cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã
để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca
mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương
binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà
thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô
chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim
nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng
cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải
Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương
này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô
thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương
cuộc đời bất hạnh của mình.
Phượng chấp nhận lời cầu hôn của
Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn
cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ
ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian,
sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học
lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm
việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel.
Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng
con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố
dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa
mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc
của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian
nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng
đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm
đềm và hạnh phúc.
Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:
-
Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao
vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi
xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má
thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần
tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt
cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài
dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai
mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho
thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.
Suốt đêm qua
Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu
điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng
ký tên. Tay Phượng run run khi cầm cây viết. Cầm tờ báo trong tay, Phượng
lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi
tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong
bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi
tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề
gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington
D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.
Phượng
nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn
gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên,
cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ
chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi
năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một
đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua
trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của
mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi
còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra
trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng
viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một,
bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc
dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên
gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới
thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về
Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội
3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.
Tôi
tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious
". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe
giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp,
"Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ
là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy
đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi
theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề
này để sau này chữa tim cho mọi người.
Sau chuyến đi Cali thăm dì
Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt
ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in
action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt
nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay,
chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài
báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi
phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc
nhiều về cái chết của ba tôi.
Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài
liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm
dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân
Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất
tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng
Newseum.
Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và
những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những
đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm
đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh
những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được
nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức
buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ
xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ
thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và
ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?
Sau
khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở
Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký
giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được
gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam
War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh
những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành
nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê
nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi
nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý
nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến
những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy
tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ
và thầm lặng này.
Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể
về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không
ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con
trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng
cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang
học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn
lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.
Điều
gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương
với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ?
Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi
nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến
tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở
xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước
mơ.
Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ
quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín
năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi
mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng
làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về
chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ
giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm.
Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên
kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà
là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trải
qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là
"chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968)
"Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một
chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào
tay Cộng sản.
"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc
chiến của người Việt nam. Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và
đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự.
Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến
đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và
lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm
nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.
Vào thời điểm
đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu
sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn
công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng
hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1
Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc
thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ
thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị
sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng
giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của
địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.
Năm
1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm
những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm
1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung
cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở
Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy
chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc
những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo
Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy
sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó
thuộc về lịch sử của nước Mỹ.
Món quà tôi mang về cho bà nội lần
này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội
ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi
nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành
lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy
yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi
danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất
cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và
trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có
một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc
biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày
không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự
buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và
mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.
Tôi
sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh
lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là
tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai
người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ
vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên
chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người
lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba
tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu
vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.
Năm
nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng
cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc
mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ
Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng
liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc
biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ
giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì
theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong
ngày tang lễ.
Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã
chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành.
Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng
ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ
những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ
những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ
tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng
lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.
Từ
trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ
của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua.
Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm
nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.
Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.
Hơn
bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người
cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi
trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà
nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn
tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống
dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh
ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.
Tôi
rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu
hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam
mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là
hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết
trẻ.
Phùng Annie Kim
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/May/2017 lúc 4:05pm |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 24/May/2017 lúc 11:20am | |||||
Trong bóng hoàng hôn
Vào một ngày Chúa Nhật sau khi rời khỏi nhà thờ tôi lang thang đi bộ
về nhà vì thời tiết thật đẹp. Nắng trãi dài trên những ngọn cây maple đã
chuyển màu vàng, đỏ, rơi lả tả theo từng cơn gió thoảng qua. Mây bồng
bềnh trôi trên bầu trời thênh thang rộng, suốt con đường yên tĩnh hắt
hiu, vắng bóng người qua lại, êm đềm thơ mộng, trầm mặc như một bức
tranh. Giữa khung cảnh tuyệt vời như thế không hiểu vì sao lòng tôi thấy
nao nao buồn. Có lẽ ở lứa tuổi vào thu cô đơn chiếc bóng, tâm tư tôi
trăn trở nhớ thương một cái gì đó đã nằm ngủ yên trong tiềm thức.Tôi rẽ
sang con đường khác, ghé vào một quán cà phê Việt Nam. Tôi gọi một ly cà
phê sữa đá và nhìn qua khung cửa kính hình ảnh thân quen của thành phố
trong một ngày cuối thu.Tôi thấy cô cashier đang cầm một xấp danh thiếp
trao cho vài người khách quen và bảo rằng đó là của bạn cô, tôi đưa tay
xin một tấm xem coi là việc gì, thì ra là: Sau ngày đó tôi không gặp lại Mai Lê và Hàn Đông nữa. Tôi cố quên đi những kỷ niệm đẹp về hai người nhưng lòng mãi nghẹn đau thương. Tim tôi như vừa trãi qua một trận “cuồng phong” nên tôi không còn cảm xúc, tôi không còn tin ai và cũng không muốn yêu thương ai cả. Rồi một trận “cuồng phong” thật sự khác ồ ạt kéo đến. Quê hương ngập tràn máu lửa, xác người chồng chất ngổn ngang và đất nước tôi không còn nữa. Tôi đã mất tất cả, tình yêu, nhà cửa, quê hương, thân lạc loài trôi nổi xứ người sống đời lưu vong xa nước non ngàn dặm. Hơn hai mươi năm sau, khi tôi ổn định được cuộc sống ở xứ tạm dung thì tuổi đời đã đi quá nửa. Gần năm mươi tuổi rồi còn nghĩ chi đến một mái gia đình. Cuộc sống tẻ nhạt đã dần quen thì hôm nay cái tên của anh bác sĩ nào đó đã làm ký ức tôi chợt hồi sinh. Tôi bùi ngùi moi trong trí nhớ, tìm lại những kỷ niệm buồn thương mà tôi tưởng đã nhạt nhoà theo bóng thời gian đi ngoài song cửa. Không xoá được thắc mắc trong lòng, tôi quyết định tìm đến văn phòng vị bác sĩ có cái tên làm tôi không ngủ yên giấc. Quả đúng như tôi nghĩ, đó là một bác sĩ trẻ khoảng ba mươi tuổi, rất đẹp trai và lịch thiệp, nhã nhặn, phong thái không kém gì người bạn của tôi ngày trước. Thật là một sự bất ngờ không thể tưởng tượng được khi tôi tỏ ý hỏi về tên anh ta, anh cho biết tên đó là do cha nuôi của anh đặt. Cha anh tên Nguyễn Hàn Đông và ông đã lấy tên mình đặt cho anh chỉ thêm chữ Vũ cho khác một chút. Tôi nghẹn lời, cảm thấy lồng ngực mình nghẹt cứng, máu nóng dâng tràn trong cơ thể. Chắc chắn là người ấy rồi, tôi phải tìm gặp anh để hỏi một câu mà hai mươi năm trước tôi đã quên mất lúc ra về. Tôi cho cậu bác sĩ biết rằng cha cậu có lẽ là người bạn cũ của tôi và xin địa chỉ nhà ông ấy để tôi đến thăm. * * * Xe tôi ngừng lại trước một căn nhà xinh xắn thuộc vùng WestCovina South Hill dưới chân ngọn đồi. Căn nhà nằm giữa một thảm cỏ xanh, nhiều cây cypress bao bọc quanh rào và nhiều hoa hồng trước ngõ. Tôi run run bấn loạn khi thấy một người đàn ông đứng lặng yên dưới gốc cây thông đang nhìn ráng chiều bên kia con dốc thoai thoải. Vóc dáng nầy, mái tóc nầy đã in sâu vào tâm khảm tôi chưa thể mờ phai dù tôi cố tình chối bỏ. Tôi thật bối rối không biết xử sự ra sao, tôi lên tiếng: - Thưa ông, cho tôi hỏi thăm đường… Người đàn ông quay lại, mắt chợt sáng lên và tiến về phía tôi: - Chị là…ai? Tôi có quen không? Sao giống một người bạn của tôi quá. Tôi đã biết chắc chắn anh là Hàn Đông rồi vì anh không thay đổi nhiều, chỉ già đi một chút nên lấy lại bình tĩnh nhìn anh: - Anh nghĩ kỹ xem tôi là ai. Nếu có quen nhau chắc cũng đã xa xôi lắm rồi phải không? Mặt anh hơi tái xanh và nghẹn lời như muốn khóc: - Em là… Ngọc Liên phải không? - Anh còn nhớ đến tôi sao? - Trời ơi! Tạ ơn Chúa, đúng là em đây rồi Liên ơi! Anh không ngờ có ngày nầy. Mời em vào nhà, chúng ta cần nói nhiều chuyện lắm. Tôi theo Đông vào nhà, căn phòng khách sạch sẽ, gọn gàng tao nhã. Trong khi Đông lấy nước cho khách tôi nhìn lướt qua gian phòng, vài bức tranh phong cảnh trên tường và một tấm ảnh lớn của Đông chụp chung với cậu con trai, không còn gì khác. Đông trở lại với hai ly nước trên tay, tôi không chờ đợi lâu được nên vội hỏi: - Mai Lê đâu? Sao cả hình cô ấy cũng không có đây? Đông nhìn tôi thật buồn: - Anh sẽ trả lời hết những thắc mắc của em. Anh rất mừng vì còn có dịp nầy nếu không chắc đến chết anh còn ân hận. - Anh nói nhanh đi sao cứ dài dòng hoài vậy. Hàn Đông nhìn vệt nắng chiều lung linh, lướt thướt ngoài song cửa, ánh mắt như mờ đi, như đang thả hồn về một khoảng thời gian nào đó, anh bắt đầu kể: - Anh xin lỗi em, xin lỗi thật nhiều về quyết định của anh ngày trước. Thật ra anh nhờ Mai Lê đóng kịch với anh thôi, chúng tôi không có gì với nhau cả. Ngày đó khi anh bị thương được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà thì phát hiện ra anh bị ung thư gan. Em cũng biết mẹ anh đã chết vì bệnh đó mà, anh biết mình sẽ đi theo mẹ rất nhanh nên muốn em đừng mơ tưởng đến anh nữa, chỉ có một cách làm em từ bỏ anh là nói dối em về việc anh cùng Mai Lê đám cưới. Khi thấy em khóc bỏ đi lòng anh đau đớn hơn lúc bị thương ngoài chiến trận, anh cố gắng chịu đựng chỉ tội nghiệp cho Mai Lê phải mất một người bạn thân. Từ đó anh và Mai Lê cũng không gặp nhau, anh đã tuyệt vọng vì bịnh tình của mình nên không màng gì cả. Một ngày cuối tháng Ba 1975 tình cờ anh gặp một em bé 7,8 tuổi đi lạc, không tìm được mẹ cha nó nên anh giữ bé lại cùng anh. Nó rất thích anh và anh cũng nhờ nó mà đỡ buồn phiền. Cuối tháng Tư dù biết mình không sống được bao lâu nhưng nghĩ đến đứa bé anh ôm nó ra bến tàu và chạy theo đoàn người di tản. Còn gia đình anh Quốc Gia, Lệ Hằng theo Trường Giang chạy chung trên một chiếc tàu nhỏ đã bị bắn chìm chết hết lúc đó rồi. Riêng anh Chúa còn thương xót nên khi đến Mỹ, thật may mắn nên sau một thời gian bịnh anh đã được chữa trị khỏi hẳn. Lúc nầy anh nhớ đến em thật nhiều, nhớ đến nỗi đớn đau tuyệt vọng vì bị tình phụ của em anh ăn năn vô cùng. Anh tìm mọi cách liên lạc với bạn bè cũ để kiếm em nhưng không ai có tin tức gì về em cả. Anh vừa đi làm vừa đi học cố gắng nuôi bé Đông Vũ lớn khôn và học hành nên người. Cha con nương tựa nhau suốt hơn hai mươi năm trời, nó thương anh lắm nên chưa chịu cưới vợ. Còn em ra sao, đến Mỹ khi nào? Nói cho anh biết về cuộc sống của em đi. Tôi ngồi lặng yên nghe anh kể, tôi không thể nào ngờ sự việc lại như thế! Bao nhiêu năm nay tôi cứ oán hờn, trách móc hai kẻ bạc tình vô nghĩa có ngờ đâu họ vì thương tôi mà cố tình làm tổn thương tôi. Xin lỗi Mai Lê, không biết bây giờ mầy ra sao, ở đâu? Xin lỗi anh Hàn Đông…Tôi đưa mắt nhìn anh nghẹn ngào ứa lệ: - Trời ơi! Như một giấc chiêm bao dài, sự hy sinh cả ¼ thế kỷ của anh làm em mang mặc cảm tội lỗi khi em đã đem lòng oán hận Mai Lê và anh. Em xin lỗi anh, ngàn lần xin lỗi anh Hàn Đông ơi! Hàn Đông bước tới ôm tôi vào lòng như ngày xưa ở sau nhà anh. Tôi giật mình đẩy anh ra, sợ sệt: - Anh… đừng làm như vậy, nếu vợ anh về bắt gặp không tốt đâu. Đông cười lắc đầu: - Anh làm gì có vợ. Anh đã nói với em rằng anh chỉ có thằng con nuôi là Đông Vũ đó thôi. Tôi ngạc nhiên mở to mắt nhìn anh: - Anh không đùa chứ? Anh đã khỏe mạnh lại mà vẫn không lập gia đình sao? - Anh cứ mãi nghĩ đến người xưa và hứa với lòng sẽ chờ đợi người ấy dù bao lâu, dù người ấy có chồng anh cũng sẽ không cưới vợ. Anh muốn đền bù tội lỗi mình cho những giọt nước mắt của em ngày đó, những giọt nước mắt đã làm quặn thắt trái tim anh. Nước mắt tôi tuôn tràn theo từng lời nói của Đông. Tim tôi chợt hồi sinh, yêu thương ngày ấy bỗng trở về, dạt dào êm ả như dòng sông quê mẹ chảy miên man. Tôi thấy Đông vẫn trẻ trung, oai dũng như ngày nào trong bộ quân phục và ánh mắt anh vẫn đa tình, đam mê quyến rũ, đã một thời làm bao cô gái miền Tây mơ ước. Tôi trả lời Đông rất nhỏ: - Riêng em từ ngày “thất tình” chàng trai ấy em chẳng còn yêu thương ai được nữa nên vẫn còn một bóng cô đơn. Bây giờ đã thành “gái già” rồi đó anh. Nét mặt Đông rạng rỡ hẳn lên: - Có thật không em? Em có thể cho anh cơ hội…tiếp tục những gì dang dở của chúng ta ngày xưa không? Anh cầu xin em đấy! Tôi không trả lời anh chỉ đưa mắt nhìn về phía vườn sau nhà anh, khu vườn xanh tươi với nhiều cây cối. Đông nhìn theo ánh mắt tôi rồi chợt cười thật tươi: - À, anh quên mất một việc. Em ra đây với anh. Đông nắm tay tôi kéo ra vườn.Tôi hết sức ngạc nhiên khi Đông chỉ vào những cây xoài, mận Việt Nam, bưởi Biên Hoà. Đông nói: - Em nhớ không? Ngày trước ở sau nhà anh có ba thứ cây nầy và tụi mình tha hồ hái trái ăn khi đến mùa. Sang đây anh cố gắng tìm mua để trồng, mỗi lần có trái là anh nhớ nhà và nhớ em nhiều lắm. Anh mong có một ngày được cùng em hái trái, có chén muối ớt đỏ, có những ly nước đá lạnh và anh sẽ thổi harmonica cho em nghe… Điều mơ ước của anh có thể đạt thành không em? Tôi cảm động vô cùng, những điều Đông làm tuy không lớn lao to tát nhưng chứa đựng cả nỗi niềm nhớ nhung thương mến của Đông với tôi. Lòng tôi chợt chùng xuống, tôi quên hết giận hờn ngày trước chỉ thấy thương Đông thật nhiều, nhiều như ngày mới bắt đầu yêu. Tôi gục đầu vào ngực anh nghẹn lời xúc động: - Anh, em cảm ơn tình yêu anh đã dành cho em từ bao nhiêu năm nay. Vâng! Em sẽ đền trả ân tình đó cho anh và cũng để cho người con gái cô đơn kia tìm được lẽ sống trong quãng đời còn lại. Đông ôm tôi vào lòng thật chặt như sợ tôi sẽ biến mất một lần nữa. Hai tâm hồn cô đơn đã tìm về nhau sau hơn hai mươi năm dài xa cách.Tôi nghe tim tôi đang đập mạnh và tim anh reo mừng nhảy múa hân hoan. Ngoài kia hoàng hôn dần xuống, ráng chiều đỏ ối lan trùm cả ngọn đồi xanh, một sự hoà hợp màu sắc của thiên nhiên kỳ diệu, tuyệt vời. Tôi cảm thấy như mình đang trong cơn mơ, tôi như bồng bềnh trên sóng nước, như lơ lững giữa tầng mây…và tôi nghe mơ hồ trong gió âm thanh của tiếng kèn harmo du dương, réo rắt qua một cung nhạc êm đềm thoát tục : “ Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ ngày xưa Lưu Nguyễn lạc lối Đào Nguyên. Kìa đường lên Tiên, kìa nguồn hương duyên, theo gió tiếng đàn xao xuyến, phím tơ lưu luyến mấy cung u huyền…” *** Vi Vân |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/May/2017 lúc 2:18pm | |||||
Viết Cho Người Tình Lỡ
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/May/2017 lúc 2:42pm |
||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 30/May/2017 lúc 7:51am | |||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 31/May/2017 lúc 8:59am | |||||
Quê hương mình
Ngồi
chễm chệ trên cái mui ghe cá dềnh dàng nhứt, nổi
bật lên trong đám ghe đậu san sát ngoài sau lưng dãy
vựa cá, thằng Đực khoái trá, đánh đòng
đưa hai chưn, mặt vát hất ngó trời ngó
đất. Bên kia sông lèo tèo mấy cái xuồng nhỏ
của những gia đình ở dựa mé, sắm sẵn
để đi chợ mà khỏi phải cuốc bộ
qua cầu, đậu ơ hờ, rập rình theo sóng. Ống
khói hãng thuốc Bastoz bữa nay theo lệ thường hàng
tuần phun khói từng bựng, đen kịt. Thằng
Đực đánh vần hàng chữ đập vô mắt
nó mỗi lần ngó qua bên kia sông: Manufacture des tabacs
Indochinoise. Maison fondée en 1887. Chữ đắp nổi
được trình bày trong một cái vòng tròn thiệt
bự có chữ ký tên J. Bastoz ở chính giữa. Mọi
bữa giờ này thầy thợ trong hãng túa ra về
đặt nghẹt một khúc đường, nón lá
tủa ra mọi ngả, tràn vô mấy đường
hẻm gần đó. Mấy thầy cai kha khá hơn, đi
làm bằng xe máy, vác xe lên cầu, bước từng
bực thang để khỏi đạp một
đỗi đường dốc dài. Lần nào thằng
Đực ngó cảnh người cõng xe cũng bắt
tức cười. Bữa nay Chủ Nhựt, khung cảnh
mất đi sự vui nhộn thường ngày. Buồn
thiu. Phía dốc ngã đi về cầu Rạch Bần,
một chiếc xe-cá chở đầy nhóc ván, con ngựa
kéo hổn ha hổn hển nhưng cũng không nhúc nhích
được nhiều. Trên cầu, bộ hành qua lại
thưa thớt, vội vã. Mấy cây trụ đèn trên lan
can cầu vượt lên trên nền trời trong, sừng
sững như cột chống trời. Ban trưa cảnh
tượng chìm trong không khí im lìm, hoạt cảnh xê
dịch thật chậm chạp, chỉ có cảnh tụi
bạn đương lặn hụp, rượt bắt
ngoài giữa sông là coi mòi hấp dẫn. Thằng
Đực nghĩ bụng: Chưa cần. Ngồi chơi
một chút đã rồi tính sau. Gió trưa thổi như muốn lột bỏ lớp hơi nóng hừng hực dán lên mình mẩy nó nãy giờ. Mát rượi, sướng rơn, nó lim dim mắt, gõ nhịp đùng đùng vô mui ghe, tán thưởng nhịp song lang thiệt ngọt phát ra từ cái máy hát trong khoan đương mê hoặc thiên hạ bằng sáu câu vọng cổ 'Đắc Kỷ thọ hình' mùi rệu. Nhớ trực lại ghe cá họ ghét cay ghét đắng chuyện dộng rầm rầm trên ghe, sợ cá giựt mình quẩy mạnh sẽ bị hao hớt, nó lật đật sửa bộ lại tề chỉnh rồi lấm la lấm lét liếc xéo về phía mũi, nhóng chừng coi có ai lên tiếng lên tăm gì không. Được một đỗi hơi lâu, thấy bộ chừng đâu vô đó, nó vững bụng vảnh tai thưởng thức trạng thái vừa sợ sợ vừa khoái khoái của một đứa nhỏ làm điều cấm kỵ mà không bị quở trách rầy la. Một cơn gió thổi phất tạt hơi cá sình đằng sau tới. Nó day lại. Cá phơi nhiều vô kể, con nào con nấy bụng trắng hếu, ngay đơ, nằm chất chồng xếp lớp lên nhau, kín mít gần hết mui. Cha! cá ghe nầy chết bộn ha, hôm qua đâu có dữ tợn như vầy nè. Ham lời chở cho cố, đầy nhóc hầm, cá ngộp hao hớt bộn bàng, vậy mà vẫn cứ chùm nhum trong đó nghe đờn ca xướng hát như thường. Nhà giàu khoái thiệt, của lượm mót thôi cũng thấy mê, bằng cả gia tài người ta chớ ít ỏi gì sao? Nhưng trí thằng Đực không định được lâu để lý luận so đo vòng vo. Nó bốc lên một con, lật ngược lật xuôi, ngắm nghía xăm xoi, như từ trước tới giờ chưa từng thấy con cá nào lạ lùng như vậy. Cá chắc đâu đã được liệng lên mui từ hai ba bữa trước, mình đã hơi khô khô, vảy lưng đã cong queo, vảy khúc đuôi cuốn kèn cứng ngắc. Nó ấn ấn lên mình con cá. Thịt lưng hơi xốp xốp, còn bệu, nhưng chắc chắn sẽ thành khô khi phơi đủ nắng. Coi bậy bạ vậy chớ tiền là tiền. Nhưng mà bây giờ thì khó chịu quá, thúi còn hơn cứt. Thum thủm cái mùi ông Trịn mỗi lần ông ta mở cái chén úp ở chỗ mổ làm độc dưới be sườn non -- để gợi lòng thương thiên hạ. Thằng Đực nhăn mặt khịt khịt mấy cái như để tống lôi tống khứ mùi hôi thúi lẩn quất trong lỗ mũi, cái mùi cá có thiệt trước mặt và cái mùi ông Trịn liên tưởng. Cũng không ăn thua gì ráo trọi, còn nghe khổ lỗ mũi lắm, như thịt thúi, tanh ói thiếu điều muốn mửa. phải rồi, mùi thằng chõng chết trôi, giống hịt mùi tháng trước khi một thằng chỏng tấp vô sợi dây neo của chiếc ghe trước mặt. Nó xình chương, thịt nở ra thành mập ú, mình mẩy vừa tái mét vừa bầm bầm, hai tay quỳnh ra ngoài sau, mặt ngước cao lên trời đưa cái cổ dài thoàng, mấy cục xương cổ nổi cộm lên thấy mà phát ớn. Chén cơm bữa đó bỏ mứa luôn, nuốt đâu có vô! Khỉa luôn hai ba bữa sau cũng vậy, cứ và vài ba miếng là thấy nhợn, buông đủa ngó mông. Thằng Đực nín thở nhốm từ từ về phía sau lái. Nhớ tới ông Trịn chỉ hơi ghê ghê, nhưng nhớ tới thằng chỏng chết trôi thiệt tình nó thấy rỡn tóc gáy, như ai lấy búa thầu quơ quơ trên đầu nên ý muốn lội chơi với chúng bạn hay đợi tàu kéo chạy ngang nhảy ùm xuống đu trên sợi dây dòng tự nhiên tiêu tán. Ông già bà cả thường nói hoài, tắm sông mà nghĩ tới hay thấy trong trí hiện ra hình ảnh thằng chỏng chết trôi, chém chết cũng gặp xui xẻo, hỏng bị ma da kéo cẳng nhận cho chết chìm làm ma thế chỗ cho nó đi đầu thai cũng bị vọp bẻ uống nước đầy nhóc bụng. Chắc như ba bó một giạ, hỏng trật được. Chuyện bà Thủy, bà Hỏa mà, đâu có giỡn đâu. Mà cho là người lớn đặt chuyện hù dọa con nít đi nữa cũng hỏng nên thử, nguy quá. Thôi nhịn thèm một bữa hỏng chết ai. Tắm mà trong bụng đánh-lô-tô thì có sướng ích gì đâu. Nó phát thinh nói thành tiếng, nói một mình như ông ứng bà hành mấy chữ bà nội nó thường rao ở cửa miệng. 'Cẩn tắc vô ưu, cẩn tắc vô ưu.' Để lòng ham hố của mình thiệt tiêu tan, thằng Đực ngồi thẳng lưng lên ngó ngang ngó dọc, mấy ngón tay nhịp nhịp lên đầu gối, cố gắng tập trung ý nghĩ vô chuyện khác. Trên không trời trong vắt, chói chang. Ánh nắng giữa sông phản chiếu long lanh. Từng hơi thở nhẹ của không gian làm nhăn mặt tấm kiếng khổng lồ dài ngoằn như con rắn thủy tinh vảy lóng lánh bạc đương uốn mình tới xa mút mắt. Ngóng ba đồng bảy đổi, chán chê, nó sửa bộ lại, day mặt hóng mỏ lên bờ. Cảnh chợ trưa buồn hiu. Chán phèo. Thưa thớt. Tan loãng. Bạn hàng chạy nhiều người đương sửa soạn ra về. Cặp mắt thằng Đực ngừng lại trên người ăn mày cụt hết hai cẳng, mặt buồn xo, ngồi trên tấm ván thùng sữa có gắn bánh xe lăn đương khan cổ van xin khách qua đường bằng một thứ văn chương bình dân có vần có điệu, có kinh có kệ, nghe rầu thúi ruột. 'Lạy ông đi qua lạy bà đi lại, thân con đau ốm tật nguyền. Xin ông bà làm ơn làm phước cho xin đồng xu cắc bạc, con mua cơm ăn, tội nghiệp.' Nó quay đầu thêm một chút nữa. Ông ăn mày gặp mỗi ngày có gì lạ nữa đâu. Dòm càng lâu càng thấy sợ, thấy buồn chứ đâu hứng thú gì? Bài bản xin xỏ nghe mấy lần đầu còn hơi lạ lạ, vui vui, nhưng nhàm quá rồi, thuộc nằm lòng rồi. Chán chê, thằng Đực rảo mắt lục lọi khắp chỗ kiếm chuyện hào hứng hơn. Nó khoái chí khi bắt gặp bộ mặt của thầy phú-lít mũi trâu Năm Mành, điếu thuốc trên môi, đương uể oải đứng dựa cột đèn, tréo ngoãi chưn, đưa mắt ngó bao quát quang cảnh chợ. Điếu thuốc thơm 'nút chuồn' phong lưu của thầy mỗi ngày một gói cả chợ này ai mà hổng biết? Người sành điệu hút thuốc Bastoz / Khách phong lưu hút thuốc nút chuồn (Golden club). Câu thơ quảng cáo mà mấy thằng đánh giày tập tành hút sách thường nghêu ngao hát khi buồn hay đọc lên thiệt lớn để châm chọc thầy Năm - nhảy vô trí nó. Bắt tức cười ghê. Ai đời mũi gì mà như mũi lân, vậy mà còn phì phà phì phèo để khói thuốc bay vô mắt rồi nhăn nhăn hỉn hỉn, trái chanh đỏ bự, gần bằng nắm tay, sần sùi, đo đỏ trên mặt chạy lên chạy xuống, thấy, ai mà nín cười được? Thằng Đực cười trong bụng, để trả thù mấy bữa trước thằng chả đã rượt nó chạy thục mạng, chạy thiếu điều tuột quần khi nó cùng với tụi bạn báo động 'phú lít mũi trâu tới' cho bạn hàng chạy, chạy vuột khỏi tay thầy. Nó còn nhớ rõ, bữa đó mặt thầy Năm đỏ gay như ông già say rượu, thấy mà phát sợ. Buổi trưa nóng nực thấm mệt, mắt thầy Năm coi tức cười thiệt, nhưng có bộ hiền lành hơn buổi sáng lúc chợ đông thầy còn phải thị uy để đuổi mấy người bạn hàng tràn ra lấn chiếm lề đường. Nó ngó theo ánh mắt của thầy, ngưng lại ở chỗ một đứa con gái trang lứa nó, đương xắp xắp xếp xếp mấy nhúm ớt tỏi, năm ba cọng hành lá, vài ba trái chanh trên cái tràn nhỏ đậy gá ngỡi vào cái rổ tre cạp vành. Con nhỏ mở tròn quây cái miệng, rao lên vài tiếng rời rạc mời mọc hiệp chót trước khi trút hết xuống rổ ra về hay bán đổ bán tháo vớt vát chút nào hay chút nấy bù gỡ bữa chợ ế. Tiếng rao khàn khàn, rời rạc như than vãn mệt nhọc, buồn như tiếng mèo rượn đực lúc nửa đêm. Nhão nhẹt, lạc lõng, gợi nhớ điệu đờn đám ma đêm tối trời mưa. Không thấy hứng thú, thêm vô trời cũng đã gần quá ngọ, thằng Đực đứng dậy nhóng thẳng vô phía đường lên bờ. Thinh không nó lật đật bò lom khom tới sau lái, a-thần-phù nhảy cái rột xuống sàn ghe, phóng mau như vượn chuyền nhánh, chuồn thẳng về ghe mình. Nó chun tọt vô mui từ phía sau lái, kéo cái thùng sữa đựng quần áo dưới gầm bàn ra, xốc xổ kiếm cái quần xà lỏn đen, thay vội thay vàng rồi quơ đại một cái áo trồng vô bất kể ngược ngạo. Đâu đó xong xuôi, thấy coi bộ qua mặt bà nội nó được, nó ngồi chò hỏ trong khoang dựa cái cửa lách, ngó mông ra ngoài như nãy giờ nó hiền từ lắm, ngồi ở nhà học bài. May quá, em nó không hay biết trời đất gì hết, cứ mải mê chơi đánh đũa phía đằng đầu mũi. Trên bờ, dì Tư đương tránh mấy quày dừa ngổn ngang, cố lựa chỗ trống để đi xuống ghe. Mấy người chủ vựa trái cây ngồi trong mát, ngó ra, làm thinh không nói gì. Dì Tư lầm bầm về trời nắng, về sự lấn chiếm của chủ vựa trong khi vẫn quày quả bước. Tấm bửng bắt từ bờ sông xuống cái ghe lu cao lênh khênh ngại ngùng bước. Dì ngừng lại, chuyển giỏ đồ qua tay trái, lật cái khăn đội đầu xuống vai, nhén nhẹ hai ống quần lên, từ từ bước từng bước. Tấm đòn dài, oằn xuống rung rinh. Dì ngó xuống sông, chỗ này gần bờ, vỏ dừa, vỏ mía, rau cải dập thúi thiên hạ đổ dồn ngày này qua ngày khác chất chồng thành ụ, thành đống cao gần bằng bờ, nước kéo đi không kịp nên thiệt khô, thiệt cạn. Trí dì Tư nghĩ thiệt mau về chuyện ông chủ vựa ngày nào đó sẽ kêu thợ lợp một cái mái gie rồi vừng vách, đóng cừ, lót sàn, mở rộng vựa một cách ngon ơ. Con đường băng qua dãy vựa mấy năm trước lúc mới đặt chưn lên đất Sàigòn này, rộng thinh thang vừa đi vừa múa cũng còn dư dật, bây giờ thì chật còn hơn nêm cối, đi phải tránh phải né, bắt mệt! Thiên hạ làm ăn mau khá thiệt, gầy dựng từ từ mà phát lên lúc nào không hay. Nhà mình cựa quậy ngày nào đủ đút vô lỗ miệng ngày đó. Chốn thành thị yên thân thì yên đó nhưng mà không thấy hứng thú chút nào. Tạm bợ thì được, chứ tính kế lâu dài coi bộ khó khăn. Làm đầu tắt mặt tối cốt khỉ cũng quờn cốt khỉ. Nghèo cũng hườn nghèo, không biết chừng nào mới dư dả chút đỉnh để dễ thở hơn. Ở đây mười năm rồi, chán thấy mồ, không thấy một ngày vui. Tình đời lạt nhách. Người quen bèo mây tương hội, lịch sự đãi bôi, ù ơ ví dầu, miệng lưỡi nhiều chơn tình ít. Trông mong cho giặc giã dứt, trở về quê nhà săn sóc miếng ruộng, vườn mía. Khỏe hơn, khỏi lo chạy ăn cầm canh. Khỏi chán ngán lòng người lạt lẽo. Con Gái đứng đằng mũi ghe tay vịn cây sào, chưn nhón tới ngóng bóng dáng bà nội. Thoáng thấy dạng dì Tư ló đầu lên từ sau cái ghe lu, nó lớn họng réo om xòm bát nhã, giọng con gái trong veo, dễ thương cách gì! 'Nội ơi nội! Nội dìa trễ quá, con đói bụng muốn xỉu luôn.' Thằng Đực đã lấp ló sau lưng em, nói giọng đàn anh, luôn dịp để khỏa lấp chuyện trời ơi đất hỡi mình làm nãy giờ. 'Gái, mầy đứng xích vô. Coi chừng té chết trôi đó. Bộ mầy muốn làm thằng chỏng hả?' Nó vừa nói vừa quỳnh hai tay ra phía sau ngửng đầu lên, con mắt trợn dộc, miệng mở tàng hoạt làm bộ tịch thằng chỏng để dọa. Con nhỏ bị hù sợ quýnh, lật đật bước thụt vô khoang, mắt lấm la lấm lét nhưng cũng còn ngoái cổ về phía bà nội ở ngoài xa cách hai ba chiếc ghe. Dì Tư sau khi bước nhờ nhè nhẹ trên mấy cái ghe thiên hạ, thở hắt ra khi bỏ chưn xuống sàn ghe mình. Thấy cặp mắt nheo nheo vì chói nắng của con Gái, dì nóng ruột quở thương. 'Bây dang cái đầu trần ra nắng chan-chan, nói hoài không được, cứng đầu cứng cổ có bữa nứt đít đó.' Dì rờ đầu nó, chắc lưỡi nói giọng ấm hơn. 'Đầu nóng hổi, nó biết thì bây chịu nghen, đòn bọng cũng đừng kêu réo tao. Tao xin không được đâu. Như bây biết đó, nó nóng như lửa, còn hơn là Trương Phi nữa. Lần nào đánh con cũng đánh như đánh giặc, đâu có bao giờ biết nới tay!' Nghe rầy, con Gái mặt xụi lơ như bánh bao chiều. Thằng Đực tỉnh queo, chế dầu vô lửa bằng một câu em nó nghe không lọt lổ tai chút nào hết. 'Thuốc cảm 'con cọp cỡi ngựa' uống chua lè chua lét, mà còn dính ở cần cổ sặc muốn nghẹt thở luôn. Cho mầy uống một ngày ba gói cho mầy hết dang nắng. Nó làm bộ quay mặt chỗ khác nói lẽ theo điệu đã đạp cứt người lớn. 'Lớn rồi, nói hoài mỏi miệng quá, như nước đổ lá môn.' Con Gái bực mình vênh mỏ bêu xấu địch thủ. 'Tao có bịnh, tao biệt cửa cho mầy ăn ké. Lần nào cũng xin, húp hùm hụp như đồ chết đói bảy đời vương. Lại còn ước được bịnh để có cháo thịt bằm ăn mỗi ngày. Hứ! Thứ đồ anh dụ ăn của em. Hỏng biết xấu.' Dì Tư không bằng bụng về lời nói hỗn hào đó, liếc mắt lườm cháu gái. Thằng Đực mắc cỡ sượng trân. Con nhỏ chu chu vảnh vảnh cái mỏ lông ben thấy phát giận cành hông, ước sức muốn xán một bộp tay cho thấy ông bà ông vãi. Nhưng nó kịp nghĩ lại. Chắc con Gái sùng trong bụng lắm mới đổ quạu lớn tiếng mầy tao nầy nọ. Tốt hơn hết nhịn nhục để khỏi đổ bể chuyện tắm sông. Nó nuốt giận làm lơ, đánh trống lãng bằng cách chào hỏi lăng xăng lích xích rồi nói với dì Tư một câu mua lòng được ớn. 'Nội coi kìa, con Gái bữa nay coi mướt ghê, trổ mã rồi. Có vẻ con gái rồi. Nội thấy nó đẹp hơn mọi bữa không?' Dì Tư cười xòa. Thằng này nịnh cũng hay. Con nhỏ có khác gì mọi ngày đâu? Tuy vậy dì cũng liếc qua cháu gái với một chút xíu hãnh diện trong lòng. Con Gái mắc cỡ háy anh nó một cái dài sọc rồi tủm tỉm cười. Dì Tư như một cách giảng hòa, đưa cái giỏ đi chợ cho thằng Đực, đưa mấy gói vụn vặt cho con Gái. Ba người lần lượt bước vô mui. Con Gái đã quên hết giận hờn, chót cha chót chét với anh nó trong khi nội nó lo bày biện đồ ăn ra một cái bàn nhỏ kê sát vách mui, sửa soạn bữa cơm trưa. 'Con Gái lãnh phần vo gạo nấu cơm, một lon rưởi gạo thôi,' Dì, giọng thiệt vui, sai phái giống như chủ tướng truyền lịnh. 'Nhớ đậy khạp kín, vo bằng nước đổi cho sạch rồi đổ vô bốn lon nước. Làm vén khéo nhe con, bung thùa đổ tháo tội trời lắm đó.' Dì quay lại thằng Đực, tiếp. 'Thằng Đực lãnh phần rửa rau, rửa rau bằng nước sông, nước chót mới xài nước ngọt. Coi chừng đó, hụt chưn thì bà Thủy kêu đó, nội già rồi không nhảy xuống vớt được đâu.' Con Gái làm theo lời dặn. Nó lấy nồi, lui cui dở khạp gạo quơ tay kiếm cái lon sữa bò, đụng nhằm trái mảng cầu xiêm và hai trái vú sữa nội nó dú trong đó, nó rờ rờ bóp bóp nhưng thấy còn sống nên không nói gì. Thằng Đực cũng làm theo lời nội dặn nhưng nó cười hì hì nho nhỏ. Bà nội có tuổi nên lẩm cẩm, sợ bóng sợ gió mất công vô ích, chẳng khác nào lo bò trắng răng. Mình còn dám leo lên chót vót cột đèn trên cầu nhảy xuống, huống hồ... Trọng cải rồi chứ bộ nhỏ nhít gì nữa sao! Có chuyện gì thì chỉ cần sải hai sải là nắm được be liền. Dể ợt! Nghĩ vậy, nhưng nó cũng dạ dạ cho qua chuyện. Nói qua nói lại cù cưa cù nhầy mất công mà có khi còn lòi chành mấy cái tội dàng trời của mình không biết chừng, hổng tắm sông thì mỗi chiều thứ năm bỏ đi ba đồng bảy đỗi chứ không ở nhà học bài. Bả nổi giận mét cha thì bà hú. Nó ngó lên cái chổi lông gà ba nó giắt trên mui, rồi xách gói rau ra ngoài sau lái chổng mông xuống múc nước rửa rửa lặt lặt, chăm chăm chú chú như một đứa con gái chánh hiệu.
***
Đương xé bỏ mấy chỗ rau úng, thinh không thằng Đực réo lên thiệt lớn, giọng vui thiệt là vui. 'Nội nè!' Dì Tư ngước lên ngó cháu. Cái thằng! Tánh như con gái, réo nội ơi nội hỡi tối ngày như mình mắc nợ ba bốn đời chưa trả! 'Nội nè, tại sao nhà mình không ở trên đất liền mà ở dưới sông? Mấy đứa bạn nghe mình ở ghe, cười quá mạng. Người ta xài ghe để chở đồ đi bán chứ ai ở dưới ghe năm nầy qua năm khác bao giờ.' Nó ú a ú ớ ngó nội nó một hồi mới rào đón sau. 'Nói nội đừng giận, tụi nó nói nhà mình dị hợm, hổng giống ai. Con hổng biết nói làm sao nữa!' Dì Tư ngừng tay đánh vảy con cá, ngó cháu một đỗi hèn lâu mới nói thiệt chậm rãi. Giọng không một chút giận hờn nào hết. 'Có nhiều điều mà con nít không biết được đâu con. Người ta nói con nít con nôi là như vậy đó. Chỉ lo ăn, ngủ thôi, chớ biết cái khỉ gì đâu. Xứ mình sông rạch chằng chịt, xe cộ ít ỏi, đường sá lỗ hang, dùng ghe đi đâu cũng tiện. Vài người, một gia đình, hoặc là làm ăn không khá, hoặc là thời thế đẩy đưa, chỗ làng nước khó ở, dắt díu nhau lên ghe, chất theo đủ tam tứ thứ thập vật, từ cái áo rách, cái chén bể, tới cái ông lò, chiếc chiếu, nồi niêu chảo đụn, nương theo con nước, theo lạch theo ngòi, ngừng lại ở một voi một vịnh, một xẻo nào đó, lên bờ coi cuộc đất hơi tốt tốt có thể trồng trọt được thì chặt cây, chầm lá, dựng chòi, cất nhà. Ngoảnh đi ngoảnh lại không bao lâu khoảnh đất trước đây dầu cho hoang vắng cách mấy cũng thành chỗ có người của mình. Ban đầu thì thưa thớt, vài ba gia đình, leo-heo mấy cái nhà, độ chừng vài ba năm thì xum-xuê, rộn-rịp, có làng có xã đàng hoàng. Bây biết hông, xứ mình rộng lớn minh mông, đi già đời cũng hổng hết đất mà đâu đâu cũng thấy người là nhờ ghe đó. Đừng có phụ rãy nó. Ghe là thứ chưn có bùa có phép để đi trên nước đó con.' Dì Tư ngừng nói, bốc một miếng trầu đã têm sẵn để dành trong cái hộp thiếc thuốc con mèo, bỏ vô miệng nhai bỏm bẻm rồi tiếp tục. 'Còn chuyện tụi bạn bây nói nầy nói nọ hơi sức nào bây để ý. Trối kệ chúng, coi như không có. Thói thường người ta ở không thì ưa bươi móc chuyện thiên hạ. Hễ giống họ hay thua họ thì không sao, hễ khác một chút hay hơn họ thì... ối thôi đủ điều. Nhưng mà mỗi người có một hoàn cảnh. Nếu hoàn cảnh ai cũng giống ai thì đời đâu còn người nghèo người giàu.' Thằng Đực không bằng bụng bà nó xử chìm xuồng về chuyện châm chọc của chúng bạn nhưng nó khoái thiếu điều muốn nhảy dựng lên vì câu ví von của bà. Phải rồi, trong truyện Phong Thần, truyện Tây Du có thiếu gì ông tiên có phép thần thông, ghe cũng là một thứ thần thông chứ bộ! Có tài độn thủy cũng chỉ đi được một mình mình. Có ghe chở được nhiều người mà còn đem theo được đồ đạc vật dụng. Nó ngó dì Tư rồi tủm tỉm cười tán đồng. Dì được dịp nói rộng hơn ý mình. 'Bây nghe chuyện tàm thực của ông bà mình chưa? Sẵn đây tao nói luôn trót thể, bây học được chút nào hay chút nấy, để nữa tao quên.' Dì Tư trầm ngâm như nói với riêng mình. 'Ngày xưa đất nầy của người đàng thổ, dân mình ở ngoài Trung từ từ nhích lần vô, đâu phải đi bộ thôi đâu, phần lớn đi ghe để tới được những chỗ khó khăn, trong hóc, trong xó, trong xẻo, trong gành. Mình tới ở chung ở lộn với họ một thời gian, họ không ưa chung đụng với dân lạ nên bỏ vô sâu hơn, thét rồi làng nước chỗ đó thuộc về người Việt. Đất đai nước mình rộng lên từ từ. Đó là chánh sách tàm thực do dân mình tự ý thực hiện để mở rộng nước. Công ơn ông bà mình đã lớn, mà công lao của ghe xuồng càng lớn hơn. Bây đừng khi dễ nó.' 'Vậy người đàng thổ chắc ghét người Việt Nam mình lắm phải không nội,' con Gái hỏi một câu nghe được ớn. 'Chuyện đó thì đương nhiên rồi. Đất đai của họ thinh không mình tới ở, chiếm, làm chủ, chuyện ghét thương làm sao tránh khỏi? Cũng như trong lòng mình cảm thấy sao sao đó khó chịu về chuyện mấy người 'cắc chú' có nhà có cửa, có đất đai, có xe cộ vẻn-vang trên đất nước mình. Thí dụ như bây giờ bỗng nhiên mình qua Tây, qua Mỹ, ăn nhờ ở đậu trên đất đai của họ năm nầy qua năm khác chắc chắn là họ ngó mình bằng nửa con mắt thôi.... Hai bên ngấm ngầm xung khắc, đụng chạm là cái chắc. Bịnh bài ngoại dân nào cũng chứa trong máu. Mà tao thấy cũng đúng, không trách ai được!' 'Người ta ghét rồi người ta có chém giết mình không nội? Lúc ban đầu họ đông mình ít mà? Mình đánh đâu có lợi.' 'Chắc là có. Quyền lợi mà! Có lúc tao nghe chuyện thổ dậy, chặt đầu người mình liệng xuống sông lềnh khênh, tôm càng, cá chốt mập ú, no tròn mà đâu có ai dám ăn. Người ta cũng hỏng dám chài vớt bán nữa, sợ người khác ăn mình bị tội. Lâu lâu mấy tay bạt mạng túng tiền làm ẩu đem bán xa xa cũng được nhắm mớ, nhưng mà bị rủa, tội trời lắm! Trở về chuyện thổ dậy, nói cho đúng ra, tao cũng không thấy tận mắt. Chắc có lẽ ở xa. Đâu miệt dưới. Dầu sao đi nữa có người chết mới có miền đất đai trù phú nầy. Mới có sông rạch cho mình đậu ghe. Nếu không thì dân mình chùm nhum lại ở ngoài kia chật chội ứ hơi chứ đâu có thong thả như bây giờ. Tiên phong lót đường luôn luôn thiệt hại nhưng ích lợi cho công cuộc đường dài. Tao nghĩ nếu ông bà mình ngày xưa mà ngán dao ngán búa thì bây giờ đất mình ước chừng chỉ bằng cái bụm tay thôi, có khi bị Tàu lấy mất tiêu rồi cũng không chừng.' 'Vậy quê mình không phải ở đây sao nội?' thằng Đực không muốn nghe vòng vo tam quốc, nó thắc mắc chuyện dính dấp tới mình hơn. 'Tứ xứ ở trên đất nước nầy, gần thì Sàigòn, Lục Tỉnh, xa thì Hà Nội, Hải Phòng, đâu đâu cũng là quê hương mình hết thảy. Có điều chỗ chôn nhao cắt rún, chỗ ông bà của dòng họ mình lập cơ ngơi ban đầu không phải ở đây. Mình là lưu dân, đâu phải chánh gốc ở đất Sàigòn nầy. Người ta gọi xách mé 'trai tứ chiếng, gái giang hồ' là vậy đó. Mà thôi! Bỏ qua chuyện đó đi. Quê thiệt của mình có cái tên hơi 'lạ tai' một chút. Chợ Đệm.' Dì Tư tự thưởng mình bằng nụ cười khi đã kiếm được một chữ đặc biệt diễn tả quê hương. Lạ tai chớ không phải quê. Dì nhấn mạnh, 'Chợ Đệm cũng gần đây chớ không xa lắm. Xe cộ bây giờ nếu chạy một mạch chỉ cần một buổi thôi, sớm mơi đi trưa đã tới rồi.' Thinh không dì Tư trầm ngâm ngang. Tên quê nhà lâu không được nghe nhắc, bây giờ lại nghe từ chính miệng mình, gợi trong lòng dì cảm giác bồn chồn xao xuyến. Đường về không xa, nhưng sao bao năm nay đâu dám nghĩ tới! Bà con không còn, người quen phân tán, làng xã khó dàng trời! Nẽo về bị chận nhưng đi về bằng tâm tưởng, bằng trí tưởng tượng vẫn có đủ sức để sụt sùi lòng. Kỷ niệm xưa, không gian và thời gian cũ chập thành hiện tại trước mặt, bào xé ruột gan, nước mắt sống chực hờ rớt xuống theo nỗi bùi ngùi. Thằng Đực trong lúc đó vẫn cứ ngơ ngơ, đủng đa đủng đỉnh lật qua, lật lại mấy cọng rau sà-lách cố rửa mấy hột đất dính ở bẹ lá. Đối với nó, chợ Đệm, chợ Quán, chợ Rẫy, chợ Đũi, chợ Gạo hay chợ gì đó cũng chỉ là một cái tiếng, cái tên như Thị Nghè, Bà Chiểu, Đất Hộ, Dakao, không ăn nhập gì với nó hết, có lẽ còn thua, còn không gợi cảm, không êm đềm bằng mấy chữ chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối mà nó nghe hằng ngày, sống ở đó, lớn lên ở đó với kỷ niệm và bạn bè ở đó. '.....Còn nhớ nhà ông cố bây ở gần sông, bên kia sông cách nhà chưa dập bã trầu có cái chợ nhỏ, mỗi lần tao muốn đi chợ đều phải kêu xuồng của con Thơm, con bác Hương Hào Ngọ, để xin quá giang. Lắm khi phải réo rát bản họng nó mới nghe. Sông không rộng lắm, nhưng hai bên bờ trống trải, lùm buội không nhiều, chỉ le-que mấy cây bần thôi. Tiếng kêu nó huốt đi. Quá giang sướng là khỏi phải chèo chống gì hết, thiên hạ đâu có cho! Mình dầu sao cũng là khách trên xuồng họ. Nhưng lại phải mang ơn thiên hạ. Có nhiều bữa con Thơm nó không vui, mình ngồi cũng phải ké-né. Dì nói một câu không ăn nhằm gì hết với chủ đề buổi nói chuyện. Ở đời nó vậy đó. Nhờ cậy ai thì lúc họ ể mình khó chịu, mình cũng ngại cũng sợ, bởi vậy tao ngán nhờ vả lắm. Cực chẳng đã!' Tiếng Dì Tư nghe chua chua xót xót như muốn ám chỉ đứa con dâu vắng mặt. Con Gái ngước mặt lên ngó bà nội, trù trừ một lúc mới hỏi. 'Như con có giang từ cầu tới trường phải không nội? Nhiều bữa ông xe ngựa không muốn rước nói là tụi con xuống gần quá, ổng bị mất mối.' 'Ừ ! Nói có giang, hay quá giang, gì cũng được. Bây giờ xe cộ chạy trên đường, trên đất, có chèo chống gì trên sông đâu mà nói giang, nói hà. Có một điều là bây quá giang xe ngựa là bây đi một đỗi đường thôi, không đi hết lộ trình. Mà quan trọng là bây có trả tiền. Nói quá giang là mình nói cho nó lịch sự vậy mà. Lời nói không mất tiền mua.' Con Gái khen lấy khen để. 'Nội cắt nghĩa nghe hay quá. Cũng như bữa hỗm nội cắt nghĩa tại sao ghe nước họ bán nước ngọt cho mình mà họ chỉ rao 'đổi nước không'. Hồi trước con cứ lấy làm lạ, mình có đổi gì với họ đâu. Mấy tiếng như vậy - chừng nào con lớn lên, con đi học trường lớn hơn, con mới biết hết phải không nội?' Dì Tư quậy quậy khứa cá trong cái nồi nước đang đỏ màu máu để rửa lần chót rồi bỏ vô nồi, bắt lên lò. Củi chẻ nhỏ, khô, bắt lửa nãy giờ, nổ lốp bốp văng tàn tùm lum. Mắt dì rưng rưng cảm động. Thằng Đực, con Gái hỏi nhiều câu được ớn, coi cũng có đầu óc lắm chứ đâu thua ai. Tụi nó mà còn ở nhà quê chắc nổi bật lên giữa đám con nít trong làng. Mình cũng nở mặt nở mày. Ở đây ai cũng như ai, anh hùng tứ xứ, chuyện ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, giỏi dở gì cũng như nhau. Thiệt uổng! 'Ừ! Tiếng mình có nhiều chữ mắc mỏ,' dì gật đầu. 'Nhiều người nói thì nói vậy chớ không biết trúng trật. Bây càng ngày càng lớn, để ý sẽ học được từ từ. Mình nói trúng thiên hạ không khi dễ. Cũng như ông Trịn đó. Nít nhỏ chọc ông ta tại vì ông ta nói chữ trật lất trật lơ. Ai đời 'tụi bây ăn ở độc dược với tao, trời đảng mạng tụi bây! hay là 'bà con ăn ở có nhơn duyên thì Trời Phật độ bà con.' 'Nội nói chuyện ông cố nữa đi nội.' Thằng Đực lên tiếng, nóng ruột vì đề tài đã đi quá xa. Dì Tư ngó thẳng về trước mặt nhưng trí không thu nhận ngoại cảnh nào, mơ màng, nói thiệt chậm rãi, sống lại quá khứ qua những điều dì nói, một quá khứ thiệt tầm thường, nhưng thời gian không thể làm phai mờ. 'Ừ! Thì nhà mình là dân cố cựu nên cũng đủ ăn đủ để, rân rát. Tao còn nhớ nhà mình bự xộn, bốn năm gian, lại còn có mấy lẫm lúa. Tao là con út, mấy anh chị có gia đình ra riêng hết. Nhiều người theo vợ, theo chồng đi ở xa. Ông cố già rồi. Chừng độ bảy mươi. Trong nhà có chứa cái hàng, kêu là hậu sự, cái hòm đó, mua hờ để có sẵn, khi lỡ theo ông theo bà khỏi phiền nhiễu con cháu. Ông cố bây..... Mà thôi! Nói hoài chuyện xưa thêm rớt nước mắt chứ ích lợi gì.' Dì kéo khăn chậm nước mắt. Con Gái ngó sững nội. Nội nó cười với nó. 'Đâu để coi, lúc lớn ông cố gả tao cho ông nội bây, cũng là người cùng xứ, gia đình không khá giả nhưng là người chơn chất làm ăn. Ra riêng, cha mẹ hai đàng cho đủ tiền cất nhà cửa, mua sắm ghe cộ. Nội có một cái ghe lớn bộn dùng để đi lên tỉnh bổ hàng về bán. Hàng xén ấy mà. Đâu không được bao lâu, gặp năm giặc giã lung tung, đánh nhau long trời lở đất, thiên hạ bị chặt đầu mổ bụng rần rần. Cả nhà rút lên ghe, chèo thả theo sông kiếm chỗ tản cư. Ở chổ kinh Tàu Hủ một đổi. Ở chỗ kinh Lò Gốm cũng lâu ớn rồi lần hồi mới trôi dạt tới đây. Đổi ghe nhiều lần khi túng ngặt để lấy tiền ăn. Cuối cùng mới tới cái ghe nhỏ nầy đó chớ? Bao nhiêu năm rồi!' Thằng Đực hỏi chuyện tâm tình. 'Rồi nội nhớ nhà không?' Con Gái cũng nhao nhao. 'Phải rồi! Nội có nhớ nhà, nhớ chỗ nội sống hồi còn nhỏ không?' 'Nói cho cùng mà nghe, xa quê ban đầu phải nhớ, ai mà hỏng vậy? Tao nghe bây đọc như con két mẹ 'Chỗ quê hương đẹp hơn cả' mà...' Dì trầm ngâm. 'Ban đầu thì cũng nhớ... nhưng năm nầy qua năm nọ, mọi chuyện rồi cũng đâu vô đó. Con người ta ăn theo thuở ở theo thời, ở đó nhớ hoài còn làm ăn gì được. Tao chỉ buồn là ba bây mọc gốc mọc rễ ở đây. Chỗ nầy nó đã quen nước quen cái cho nên không dám nghĩ tới chuyện trở về quê hương xứ sở. Còn bây thì khỏi nói. Nghe tới hai tiếng Chợ Đệm lạ quắc lạ quơ bây cho là chỗ quê mùa hủ lậu, chó ăn đá gà ăn muối, làm sao bây nghĩ tới chuyện về?' Dì Tư nhích tới chỗ con Gái ngồi, dở nắp nồi, cơm vừa chín tới thơm mùi nhựa gạo, đưa đũa bếp xới xới. Tay dì quậy mạnh mẽ, thành thạo, nhưng để ý mới thấy Dì cố tránh đụng mạnh mấy cái hột vịt luộc ké trong đó. Xong xuôi dì đập lên vành nồi cho mấy hột cơm dính trên đũa bếp rớt xuống, đậy nắp nồi, xây xây, lựa chỗ cho nắp vung khít khao với miệng nồi để hơi khỏi bay ra. Con Gái biết ý nội, lấy đôi đũa sắt quậy trong lò, than vụn lọt qua vĩ, rớt xuống phía dưới đỏ au. Nó vói tay dụi mấy cây củi đương cháy đỏ vô thau nước dơ cạnh đó, rồi chất vô đống củi, tiết kiệm đề xài lần sau. Dì Tư ngó cháu mỉm cười bằng bụng, đưa tay xấp xấp xếp xếp mọi thứ gọn gàng, kéo cửa sổ, hất hết rác rến xuống sông rồi đứng dậy đi lấy chén đũa. Cử chỉ của dì Tư thiệt tự nhiên, thiệt bình thường nhưng thằng Đực thấy bà nó cố gắng đè xuống đáy lòng một thứ tình cảm gì đó mà nó lờ mờ hiểu rằng đó là nỗi buồn nhớ quê của người xa xứ lâu năm không được trở về, giờ đây nghe nhắc tới. Nó ngó theo từng cử chỉ của bà nội. Mường tượng nghe một tiếng thở ra. Thương bà và cũng phục bà. Bà nói trúng phóc, hổng trật một chút nào hết. Hôm qua đây chứ đâu lâu lắc gì, trong lúc chờ con Gái từ trường Tôn Thọ Tường băng qua để đi về chung, nó đã tò mò đứng ngó gần rớt con mắt ba bà nhà quê đương sà xuống mua thuốc Nam của mấy người Chàm bày bán trên lề đường. Nó lấy làm lạ về mấy người Chàm thì ít. Họ nói bằng thứ tiếng líu líu lo lo bổng trầm. Họ bận quần áo màu mè, lòe loẹt thùng thình. Họ đeo cả chục cái vòng ở mỗi cườm tay. Mấy chuyện này mới gặp lần đầu thì lạ. Nhưng bây giờ thì quá thường rồi, quá quen rồi. Cứ vài ba tuần, thì thế nào cũng có năm bảy người, đàn ông có, đàn bà có, bày thuốc ra bán. Thuốc rễ cây, lá cây khô. Họ còn bày biện ra trên mấy tờ giấy dầu những sản phẩm đặc biệt của rừng núi, rất thu hút người thành thị như là mật gấu, nanh heo rừng, gạc nai, củ sâm, răng cọp, lông đuôi voi. Có bận họ còn chưng nguyên một con khỉ khô, nguyên bộ dạng ngồi chòm hỗm, nhăn răng như khi còn sống, giành ăn khọt khẹt làm cho người ta bu lại coi đen nghẹt, chật hết lề đường. Hôm qua nó cũng lấn vô để hy vọng được coi con khỉ khô lần nữa. Nhưng không có gì hết. Chỉ thấy mấy người đàn bà nhà quê, bận hai ba cái áo một lượt, khi móc tiền ra trả, rụt rà rụt rè vén từ cái lên, tiền ở trong túi cái áo chót. Họ lây quây mở kim tây, lấy từng đồng bạc mới tinh ra, mấy tấm giấy một đồng thẳng thớm vừa thơm mùi giấy, vừa thơm mùi long não, họ đếm tới đếm lui, năm lần bảy lượt mới chịu đưa tiền. Đưa rồi mà họ thiếu điều của hỏng muốn rút tay về. Nó đứng ngó trân trân cảnh tượng đó, quên mỏi cẳng, quên con Gái đứng ngoài sau kéo áo nó mấy lần đòi về. Nó như á khẩu, hồn trí bay bổng lên cung Dao Trì, lên vườn Tây Vương Mẫu, mất hút không còn biết gì nữa. Lạ quá, phải ngó, phải dòm. Họ như cha căng chú kiết nào đâu á, không giống ai hết. Họ nói chuyện với nhau thì phải biết. Lạ lùng về tiếng đã đành mà còn lạ về cách nói nữa! mình ên, chời ơi, xấu như ma móc, ếm-cùm-cum, chèn-đéc-ơi, quỷ thần thiên địa ơi, giùm làm. Họ rụt rụt rè rè, lơ ngơ, láo ngáo. Không giống ba nó cười cười nói nói vui vẻ, không giống má nó bận có một cái áo túi năm nầy qua năm khác. Tiền, khi ba nó hỏi, thì đưa liền chứ không tiếc hùi hụi con mắt ngó theo hoài. Cũng không giống mấy người bạn hàng ồn ào, sôi nổi, miệng bằng tay, tay bằng miệng. Không giống mấy chú khiêng hàng, bất kể quân thần trời đất, chạy càn chạy lướt, xô đẩy mấy người chậm chân lóng cóng, hễ ai than phiền thì cự nự, chửi thề, bậm trợn. Người ở đây vậy đó. Mau lẹ, lanh lợi, dữ dằn, vui vẻ, liếng thoắng. Họ không làm người khác sợ thì thôi, chứ ai mà cà rờ, cà rờ, cà rịch, cà tang, mua có một mớ thuốc mà tốn hết cả buổi trời, khóm ra khóm róm như sắp bị ăn tươi nuốt sống. Chỉ cần gặp một lần thì biết là nhà quê rồi. Nó ngửng đầu lên khi trí nó đụng nhằm một thắc mắc không giải quyết được. 'Nội nè! Bộ mấy người dưới quê hết thảy đều quê mùa sao nội?' 'Không vậy, nhưng những người ở quê không nhiều thì ít đều có những cử chỉ mà người ở chợ cho là nhà quê. Cũng có người có ăn có học đến đó chứ. Mấy ông hương chức hội tề, mấy cô cậu tiểu thư công tử con chủ điền, chủ lò đường, lò gạch, chủ chợ, chủ ghe đò... Mấy thầy giáo nữa chi? Đâu phải ai cũng cày sâu cuốc bẩm ù ù, cạc cạc, củi lục hết, có người từng đi học trên tỉnh, thậm chí có người từng lên Sàigòn học nữa! Nhưng mà sống dưới quê, lâu ngày nhiễm cách ăn nói, quen cử chỉ của người chung quanh nên có hơi lạ đối với người ở chợ. Bây thấy đó, khác chớ đâu phải quê, mà cho là quê đi, cũng không có gì xấu hết. Họ coi lẫm rẫm vậy mà xài được ớn chứ hổng chơi đâu. Họ thiệt thà chơn chất, cục mịch nhưng một là một, hai là hai... Nói cho cùng mà nghe, nếu tao còn ở Chợ Đệm tới giờ thì thằng tía bây đã thành nhà quê. Bây là con nít nhà quê. Người ta nói là quê rít quê rang, quê từ đầu tới đít là vậy đó. Quê ba bốn đời. Con Gái vỗ tay cười, nói một câu thiệt là lạc quẻ. 'Ha! Ha! Mày là đồ nhà quê.' Thằng Đực mơ màng, nó như không nghe em nó cười ngạo vô lý. Nó thấy mình lớn bộn sau câu chuyện, lên giọng nhận xét tài khôn. 'Như tụi con đây cũng nhà quê phải không nội?' Tên gì mà thằng Đực, con Gái, mấy cái tên đó để kêu ở nhà mới phải, vô trường phải có tên khác chứ.' 'Thì tao đặt bậy vậy mà. Ba má bây không chịu cũng phải chịu. Có sao kêu vậy. Gái, Đực, Bông, Lành, Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Trâu, Bò. Tao cũng biết đặt đẹp cho cháu vậy. Huỳnh Hoa, Trí Dũng, Hiền Tâm, Thiên Kim. Nhưng mà tên quê có cái dễ thương riêng của nó. Bây không thấy nó đơn giản, mộc mạc thiệt thà đó sao? Tên đẹp mà làm gì, lòng mình đẹp tốt bằng mười... Với lại con nít mà đặt tên đẹp quá ông bà quở, ấm mỏ ác, khóc đêm ọc sữa tối ngày ai chịu cho nỗi. Nhờ tao đặt bậy vậy cho nên bây mới sởn sơ mạnh dạn cho tới bây giờ. Nêu không, nói bậy mà nghe, biết đâu bà hú tụi bây hồi năm rồi. Nhứt là thằng Đực. Đã là con so mà lại xấu háy nên lặc lìa lặc lọi năm nầy qua năm khác, hỏng có tao thì bây đã đi đầu thai mấy kiếp rồi. Một tay tao chạy thầy chạy bà, kiếm thuốc kiếm thang, chớ mẹ mầy còn nhỏ quá có biết cái mốc gì đâu?' Thằng Đực sợ bà nó nhắc lại những trận đau ngày xưa của tụi nó. Xáp vô chuyện nầy bả xà quần cầu nửa ngày chưa hết. Nó nói vời sự cảm xúc dào dạt trong lòng. 'Như vậy có nghĩa là quê hay không quê tùy thuộc chỗ mình ở. Mà quê cũng không có gì là xấu. Thấy ai quê mùa mình phải thương chớ không được khinh khi phải không nội?' Dì Tư cúi xuống cắt cắt mấy cọng hành không ngó lên. Dì chần-chờ một đỗi mới trả lời thiệt nhỏ, giọng mơ hồ, xa vắng. 'Xứ quê chứ người không quê.' Mắt dì Tư ươn ướt. Một giòng nước đọng lại, chỉ chờ một cái chớp mắt là nhiễu xuống. Dì nhớ tới xứ quê mùa hủ lậu của mình. Con sông êm đềm nước chảy, lâu thiệt lâu có khi cả ngày trời mới có một chiếc ghe đi ngang. Cảnh buồn hiu nhưng chứa chan bao thân thiết khi còn nhỏ, nào tập tễnh lội bập dừa, nào chơi đập nước quậy bùn khi mới lớn, nào thẹn thùng tắm dưới trăng lúc nửa đêm nóng nực. Vườn mía Tây mập cùi cụi trước sân, chỉ nghe tiếng lá xào xạc trong gió cũng đủ ngọt miệng huống hồ gì được tự do ngồi trong luống cạp mấy lóng vàng lườm, tươm mật rít tay. Phải biết! Ngậm mà nghe! Cả xứ chỉ có vườn mía mình là một, căn nhà nữa, lót gạch Tàu lên nước bóng láng từ trước tới đằng sau, buổi trưa nắng đổ lửa mà ngả lưng xuống thì nghe mát rượi hết cả tứ chi. Buổi sớm tiếng chim kêu ríu rít trong bụi quanh quất đâu đó khi trời mới thả vài tia nắng sớm, se sẻ, chào mào, chích chòe đua nhau hòa tấu điệu bình minh. Cái giếng hộc lấp ló sau mấy thân cây chuối lửa bự bằng cột nhà.... 'Con phải thương mấy người nhà quê phải không nội?' Thằng Đực hỏi khôn hỏi khéo, nhắc lại bổn phận tự đặt khi thoáng thấy một thứ tình cảm gì đó lạ lùng lắm, hiện diện trên gương mặt xương xẩu của nội nó. Nó xốn xang vì giọt nước mắt thì ít mà vì sự im lặng đương phũ trùm trong ghe thì nhiều. Nó bỗng nhiên có cảm tưởng mình được nối kết thật chặt chẽ với một khung cảnh mà lâu nay chỉ mường tượng là vắng vẻ, đìu hiu nhưng đã chứa chấp tổ tiên ông bà mấy đời trước đó, với những quần vải áo bô, mặt xương, chưn mốc, tóc hớt cao, những người mà trước đây nó thờ ơ, xa lạ thậm chí còn khi dễ. 'Mà con nói cho nội biết tại sao con nghĩ tới chuyện đó?' Thằng Đực câm họng, không biết nói sao để diễn ý thành lời. Lớn đại, mười hai, mười ba tuổi đầu, nhưng nó chưa hề suy nghĩ trừu tượng, cũng như diễn tả tình cảm của mình. Nó đứng đực mặt, bậm môi, rặn lắm, nhưng cũng không nói được hết ý: 'Con nghĩ là....là con hên hơn họ...Họ...xui xẻo...chớ không phải ai tài giỏi gì hơn ai?' Dì Tư không ngờ được có câu trả lời như vậy. Dì tưởng mình sẽ nghe về tình người, tình dân tộc, đồng bào, trái lại đụng nhằm một câu nói trúng ngay thực tế. Phải, người hên người xui nên thành người chợ búa kẻ quê mùa thôi. Không có gì khác hơn chơn lý đó. 'Ừ! Ở đời mỗi người đều có phước có phần riêng. Trời cho ai nầy hưởng. Quê chưa chắc xấu, thành thị chưa chắc hay. Hay là quê mà không ngu dốt, không hủ lậu, thành thị mà không lém lỉnh, gạt người và che đậy một cách tức cười cái gốc gác của ông bà tổ tiên. Tao thấy có người mới tới đây đâu có bao lâu, gặp thời xưng hùng xưng bá, nói láo ngang láo dọc mà không biết mắc cỡ miệng tao bắt tức cười... Với tao thì quê hương tao luôn luôn là hình ảnh sáng chói trong lòng mặc dầu đã xa xứ từ lâu.' Con Gái bình thường bô bô cái họng hỏi không liền da non, bữa nay cũng thấy khớp trước những điều mới mẻ vừa được nghe. Nó bâng khuâng vừa bồn chồn vừa bùi ngùi. Nó nhớ tới một đứa nhỏ cũng chừng trạc tuổi nó, cặp mắt ngơ ngác, khô cằn, cái kẹp ba lá kẹp sau đuôi tóc, bận cái áo túi bông xanh xanh, cả ngày lúc thúc, lủi thủi trong khoang chiếc ghe chở nồi ơ, cà ràng, ông lò mấy bữa rày đậu kế bên ghe nó mà mỗi lần nó trừng mắt làm bộ bậm trợn để hù nhát thì con nhỏ lấm la lấm lét quay mặt đi hay cúi gầm xuống im thin thít. Nó ước thầm trong bụng. Ưng ai mai mốt ghe đó đậu chỗ này nữa để tôi làm quen với con nhỏ đó, tôi xin lỗi nó. Lúc đó tôi đâu biết giỡn chơi như vậy là bậy. Ưng ai ông địa làm phước! Nó ngó ngọn lửa đã tàn trong lò, mấy cục than đã cháy gần hết đương bắt đầu phủ một lớp tro trắng xám chung quanh, ánh lửa lâu lâu sáng hực lên, chiếu bóng khói lên vách ghe mỗi khi có cơn gió thổi lòn vào trong mui. Nó nhìn chăm chú ánh lửa, mơ màng thấy mình với con nhỏ có cặp mắt ngác ngơ, nắm tay nhau đi xuống phía chưn cầu, chỗ xác mía chất chồng đầy dẫy, tay trong tay vừa cười nói thân thiết vừa dòm thán phục mấy chị đàn bà đương lanh lẹ róc mía chất lên mấy cái xe ba bánh, và nó đã mạnh dạn nài một khúc ngon ớn bẻ hai chia cho con nhỏ. Thằng Đực vẫn đeo đuổi ý nghĩ của mình. Quê hay không quê khác nhau chỉ là rời xứ sớm hay không mà thôi. Không hay ho gì hết trơn hết trọi. Cái hay ho là biết nhớ biết thương xứ nhà quê của mình, hay nói theo cách của bà nội nó 'Quê hương phải là hình ảnh sáng chói trong lòng'. Lâu lắm dì Tư mới đứng dậy lấy chén đũa dọn cơm. Dì nói lớn một câu vớt vát để phá tan không khí đặc biệt đương trùm phủ không gian. 'Thôi ăn cơm bây, trưa trờ trưa trật rồi. Kiến cắn bụng quá! Nãy giờ mấy bà cháu mình lo nói chuyện tầm-ruồng bá-láp không.' Bên ghe đậu gần đâu đó, có chị đàn bà buổi trưa nằm nói thơ giải buồn, hứng chí nói lanh lảnh mấy câu thơ Sáu Trọng thiệt ngọt ngào, nhưng lời thơ thiệt thấm thía: Trọng rằng: 'Buôn bán không lo, Nói chuyện đưa đò chè cháo lạnh tanh.' Đẩu rằng :'Lòng khiến thương anh Cháo chè nguội lạnh cũng đành bụng tôi.' Thằng Đực vảnh mỏ ra nghe, mỗi lần chị ta nói thơ Sáu Trọng là nó khoái trong bụng. Nghe ngày nầy qua ngày khác nó gần như đã thuộc nằm lòng nguyên cuốn thơ. Nó nhớ tới Sáu Trọng người lưu lạc mà anh hùng, thẳng thắn, gan dạ. Nó thấy bà nội nó coi quê mùa dốt nát mà nói ra những điều thiệt đáng kính phục, những điều nó chưa từng học ở nhà trường, chưa từng nghe ai giảng giải mà tạo được xúc động lớn lao như vậy. Nó lập lại trong bụng, tầm ruồng, bá láp, đưa đò! Không tầm ruồng bá láp đâu nội, không đưa đò đâu chị. Ích lợi còn hơn uống mười thang thuốc bổ nữa đó nội. Đáng giá còn hơn bạc ngàn đó chị. Nội đã dạy con yêu mến quê hương, thân thiết với người nhà quê tội nghiệp. Chị đã dạy em nghĩa khí can trường, biết phẫn nộ trước những bất công của cuộc đời. Con Gái đã trở về thực tại sau câu nói của nội nó. Nó tiếc tiếc hình ảnh hồi nãy nhưng cũng nghe lời đứng dậy dọn cơm. Đương bưng nồi cơm xuống để lên cái rế bỗng nghĩ ra một điều, nó lật đật để xuống, phủi tay lia lịa, hỏi một câu thiệt đáng đồng tiền. 'Chừng nào mình mới về quê thăm quê mình hả nội?' Dì Tư cảm động ngó cháu. 'Cái đó còn tùy nhiều thứ lắm con!' Dì không nói thêm gì, nhưng tiếng con được kéo dài thiệt ngọt ngào, thiệt bao la. Thằng Đực và con Gái ngó nhau, lờ mờ trong trí chúng nó đại để chuyện về quê còn tùy thuộc nhiều thứ mà bà nội chưa thể kể ra ngọn ngành nhưng chắc chắn là sẽ về một ngày nào đó. Câu trả lời của bà, người ngu cách mấy cũng cảm thấy ẩn dấu trong đó một tình cảm dạt dào, sâu đậm, một sự ngóng trông, hướng về; một nỗi niềm tiếc nuối... Hai đứa thấy mình đã hiểu bà, hiểu tại sao ánh mắt bà vời vợi, tại sao câu trả lời như một lời than, một cái chép miệng. Và thằng Đực bới một chén cơm thiệt đầy, kính cẩn đưa hai tay mời bà nó. Con Gái lặng lẽ trở mấy chiếc đũa lộn đầu về một phía, so so rồi lựa đôi tốt nhứt kiếng cho nội. Đôi kế tiếp nó đưa cho anh nó. Thằng Đực đưa tay ra nhận mà lòng tràn ngập khoái cảm. Nó ngước lên ngó em bằng ánh mắt thân thiết. Hai anh em cùng mỉm cười, lâng lâng nôn nao, khác với lúc bình thường hằng ngày như được cho một đồng bạc, một gói xôi, hay ổ bánh mì cá hộp. Lạ lắm. Khác lắm. Bên ghe kia, chị đàn bà đã bỏ thơ Sáu Trọng qua thơ khác, chị ngâm nga nghe đứt ruột đứt gan: 'Mười giờ tàu lại Bến Thành Xúp lê vội thổi bộ hành xôn xao.' Thằng Đực và con Gái lại đưa mắt ngó nhau lần nữa. Trong trí hai đứa hiện lên đồng loạt khung cảnh bến tàu đò nhộn nhịp ở đằng đầu kia chợ với những người đàn bà áo quần tươm tất từ dưới bước lên, tay dắt mấy đứa nhỏ, ngơ ngác ngó cảnh vật lạ chung quanh. Hai đứa đều ước ao mình được ngồi trong tàu đò đi về miền quê hương trong tâm tưởng, một thứ quê hương được cấu tạo trong thần trí bằng tình cảm thiêng liêng chớ không bằng một chút kỷ niệm nhỏ nhoi nào. Dì Tư ngồi chống đũa. Con sông trống trải hai bên bờ, vườn mía Tây xào xạc, tiếng chim kêu líu lo buổi sớm, và cái giếng hộc ngọt lịm kế bụi chuối sau hè đã che mất thực cảnh trước mặt. Nguyễn Văn Sâm Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 31/May/2017 lúc 9:24am |
||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||
IP Logged | ||||||
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |