Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/May/2023 lúc 7:24pm

Người Khách Đi Xe 

(Hình minh họa)

Trung chạy xích lô cũng hơn ba năm nay. Thời buổi khó khăn, gốc là lính Quốc Gia nên chỉ có chạy xích lô là dễ dàng cho Trung kiếm tiền phụ giúp gia đình nhất. Trung cũng không đủ tiền vốn để mua một chiếc xích lô mà phải mướn xe chạy từng ngày. Thường Trung chạy từ sáng sớm đến tối mịt mới đem trả xe. Hôm nay cuốc xe cuối của Trung là đưa một người khách về một con hẻm ở gần cổng xe lửa số 6. Con hẻm khá hẹp mà một bên là dãy nhà gạch còn một bên là khu nghĩa trang hoang vắng. Khi quay trở ra thì có một người đàn ông đứng ở ven đường vẫy tay gọi xe. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày chạy bao nhiêu cuốc xe rồi nhưng sẵn có khách gọi nên Trung cũng ghé lại hỏi:

- Đi về đâu vậy anh?

Người thanh niên cũng cỡ trạc tuổi Trung có gương mặt khắc khổ và hơi xanh xao dưới ánh đèn yếu ớt từ các ngôi nhà gần đó chiếu ra không đủ soi rõ mặt. Người thanh niên cất tiếng.

- Anh chở tôi ra xa cảng miền Tây được không?

Từ đây đến đó khá xa nhưng dù sao cũng tiện hướng đi về nhà Trung nên anh nhận lời. Sau khi hai bên đồng ý giá cả thì người thanh niên lên xe cho Trung chở. Trung ngạc nhiên vì người thanh niên tướng tá cũng cao ráo tuy có hơi gầy nhưng không ngờ lại nhẹ như vậy. Mặc dù đã là cuối ngày nhưng Trung vẫn đạp xe băng băng như không hề chở ai đằng trước. Suốt thời gian lên xe người khách không hề lên tiếng và cứ ngồi yên lặng gần như không cử động. Lúc này Trung cũng mệt nên cảm thấy như thế cũng may khỏi phải bắt chuyện với khách. Thật sự khi chạy những cuốc đường dài gặp khách vui vẻ nói chuyện rôm rả cũng khiến Trung cảm thấy con đường được rút ngắn đi nhiều. Tuy nhiên đôi khi gặp khách nhiều chuyện nói huyên thuyên nhiều quá thì Trung cũng không thích lắm.

Đến nơi người khách xuống xe trả tiền rồi bỏ đi. Đến lúc này Trung tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Anh nghĩ có lẽ mình lao lực quá sức nên muốn cảm nên cố gắng đạp xe thật nhanh về trả xe cho chủ rồi về nhà ăn uống qua loa, tắm rửa rồi đi nằm. Ngày hôm sau, sau khi ngủ qua một giấc thì Trung cảm thấy khỏe khoắn như bình thường. Trước khi rời nhà để đi lấy xe, anh sực nhớ nên móc ví đưa gần hết số tiền chạy được ngày hôm qua cho mẹ để làm tiền chợ. Trung chỉ giữ lại một ít để dằn túi cũng như để phòng xa phải thối tiền lại cho khách.

Sáng chạy vài vòng các đường phố trên Sài Gòn Trung mới gặp được người khách mở hàng kêu anh chở vào Phú Nhuận. Khi móc tiền ra để thối lại cho khách Trung mới chợt nhận thấy trong mớ tiền trong ví của mình có một tờ tiền vàng mã. Trung ngạc nhiên lắm. Tối đó khi về nhà anh hỏi mẹ xem trong mớ tiền mình đưa ban sáng có thêm tờ tiền vàng mã nào không. Bao lâu nay tiền Trung đưa về thỉnh thoảng có ngày mẹ anh vẫn cất để dành chứ không đụng đến nếu trong nhà không thiếu hụt. Mỗi ngày mẹ Trung vẫn ngồi lê la vài tiếng ngoài chợ bán quần áo cũ để kiếm thêm chút đỉnh. Hơn nữa em gái Trung làm công nhân dệt nên cũng ít nhiều phụ giúp được gia đình. Tiền Trung chạy xích lô mẹ anh thường hay cất giữ để dành sau này có việc gì trọng đại, như cưới vợ cho anh chẳng hạn, thì còn có món để chi tiêu.

Khi nghe Trung hỏi lúc đó mẹ anh mới mở tủ ra kiểm lại chỗ tiền anh đưa hồi sáng. Bên trong mớ tiền đó cũng có vài tờ tiền vàng mã. Hai mẹ con thẫn thờ chưa hiểu chuyện gì thì Trung đã lên tiếng.

- Vậy là hôm qua có đứa nào nó lừa đưa tiền vàng mã cho con rồi. Thiệt tình cái thời buổi gì mà cứ lừa lọc người ta tùm lum. Riết rồi không ai dám tin ai nữa.

Mấy hôm sau trong một cuốc xe cuối ngày chở khách về xa cảng miền Tây, Trung gặp lại người khách hôm trước. Lúc đó Trung đang trên đường dự tính về trả xe thì có người thanh niên đứng dưới gốc cây sao lớn bên vệ đường vẫy. Trung tắp xe vô lề hỏi:

- Đi về đâu anh Hai?

- Cho tôi về đường Thiệu Trị khúc cổng xe lửa số 6.

Đến lúc này thì Trung mới nhận ra người khách mà anh chở cách đây mấy hôm từ khu cổng xe lửa số 6 về đây. Một phần người thanh niên ban đầu đứng dưới gốc cây lớn nên ánh đèn đường không chiếu tới. Mãi khi người thanh niên lên tiếng anh mới nhận ra cái giọng khàn khàn nhất là cũng vẫn bộ quần áo lính cũ sờn rách mà rất ít người dám mặc nguyên bộ vào thời đó. Như Trung cũng vẫn còn giữ vài bộ đồ lính ngày xưa của mình nhưng thường trong lúc đạp xích lô anh chỉ mặc hoặc quần hoặc áo chứ ít khi mặc nguyên bộ.

Cũng vẫn như lần trước khi lên xe người thanh niên cứ yên lặng không nói năng gì. Và cũng từa tựa lần trước, chở người khách này Trung cảm thấy nhẹ tênh như chở một đứa nhỏ. Đạp được một quãng Trung lên tiếng hỏi:

- Thấy bộ đồ anh mặc tui đoán anh cũng là lính mình ngày xưa. Tui cũng vậy. Dân sư đoàn 18 nè. Còn anh đơn vị nào?

Mãi vài giây sau người thanh niên mới cất giọng khàn khàn:

- Tôi cũng sư đoàn 18 thuộc trung đoàn 43 của đại tá Hiếu.

Trung mừng quá nói huyên thuyên.

- Tui thuộc trung đoàn 52 nè. Trời vậy là gặp chiến hữu mà không hay. À quên xin lỗi không hỏi anh cấp bậc gì để dễ xưng hô. Tui chỉ là hạ sĩ quèn thôi nên nhờ vậy giờ mới đạp xích lô chứ không thôi cũng đang mút mùa ở trại tù nào rồi.

Người thanh niên ậm ừ một lát rồi nói bâng quơ.

- Thôi chuyện qua rồi đừng nhắc nữa anh.

Trung bỗng cụt hứng không muốn hỏi han gì thêm nữa. Vừa đạp xe Trung vừa ngẫm nghĩ, “có khi nào anh chàng này ba xạo nói bừa không ta”, “hay cũng có thể anh ta sợ không tin tưởng mình”. Nghĩ như vậy Trung đỡ cảm thấy bực bội trong lòng như trước đây vài giây. Anh nghĩ thêm, “chắc không phải xạo rồi vì nếu không làm sao anh ta biết được trung đoàn 43 của đại tá Hiếu chứ?”. Mặc dù không nằm dưới đơn vị của đại tá Hiếu nhưng anh cũng biết tên các vị chỉ huy khác của sư đoàn.

Cả hai im lặng cho đến khi xe rẽ vô con hẻm nhỏ mà một bên là nhà và bên kia là nghĩa trang. Người thanh niên dơ tay làm hiệu cho Trung dừng lại. Anh bước xuống và dúi vào tay Trung một nắm tiền giấy. Trung tính trả lại vì anh muốn giúp đỡ cho người chiến hữu sát cánh trong lửa đạn cùng đơn vị với mình ngày xưa nhưng người thanh niên đã đi băng băng vào hướng nghĩa trang. Trung nhét tiền vô túi và hơi ngạc nhiên vì trước giờ cứ ngỡ nhà anh ta phải ở phía bên này thay vì đi sâu vô khu nghĩa trang tăm tối đó.

Về đến nhà, như mọi bữa Trung lấy tiền trong ví ra đưa cho mẹ. Khi mẹ anh chìa tay ra đón thì cả hai bỗng giật mình vì trong mớ tiền đó lại có vài tờ tiền vàng mã. Đến lúc này thì Trung bỗng cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ ngay đến người thanh niên vừa rồi. Hèn gì mà lần nào chở anh ta cũng nhẹ tênh. Trung kể đầu đuôi cho mẹ mình nghe về người khách mà anh đã chở hai lần giữa nghĩa trang và Xa cảng miền Tây. Mẹ anh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

- Mẹ nghĩ hồn anh ta còn có điều gì khúc mắc nên chưa siêu thoát. Hơn nữa có thể anh ta và con cũng có một chút duyên nên mới hai lần cho con gặp mặt. Mẹ nghĩ có lẽ mộ anh ta nằm ở nghĩa trang đó. Khi nào rảnh mẹ con mình ghé đó xem sao. Con có nhớ mặt anh ta chứ.

- Hy vọng xem hình trên bia mộ thì con sẽ nhận ra chứ giờ bảo nhớ thì con cũng không dám chắc vì cả hai lần anh ta đều đón xe trong bóng tối và sau đó thì đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, sau khi chạy được vài cuốc xe kiếm đủ sở hụi tiền mướn xe Trung quay về nhà chở mẹ đến khu nghĩa trang ở khu cổng xe lửa số 6 để tìm môt cách hú họa. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng đi tìm kiếm ở từng ngôi mộ thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa có những chỗ chật hẹp xe xích lô không vào được, Trung phải chờ bên ngoài để một mình mẹ anh đi vào tìm kiếm. Sau hơn một tiếng rà soát, hai mẹ con tính bỏ cuộc quay ra thì bỗng dưng ngay trước mặt Trung là một tấm bia không hình ảnh. Đó là lý do tại sao ban đầu hai mẹ con không để ý tới. Trên tấm bia ghi rõ:

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc

Mất ngày 30-4-1975

Tấm bia không ghi ngày sinh mà chỉ có ngày mất. Tự dưng Trung có linh tính đây chính là người lính cùng sư đoàn mà anh đã chở hai lần trước đây. Anh đón lấy bó nhang mẹ anh đem theo và đốt lên cắm xuống ngôi mộ và bắt đầu khấn.

- Xin lỗi thiếu úy. Hai lần chạm mặt mà không biết thiếu úy là cấp trên của em. Lòng thành chỉ có nén nhang này thắp cho thiếu úy. Xin thiếu úy cho phép em gọi thiếu úy là ông thầy cho thân mật. Ông thầy có sống khôn thác thiêng xin báo cho thằng em này biết để có điều gì có thể làm được thì thằng em này sẽ làm cho ông thầy.

Trước khi ra về, Trung đốt một điếu thuốc và cắm xuống bát nhang của ngôi mộ rồi đứng nghiêm chào đúng phong cách một người lính chào cấp trên của mình. Mấy hôm sau đó Trung cố tình né không chạy xe về khu cổng xe lửa số 6 cũng như Xa cảng miền Tây vào những khi tối trời vì cứ nghĩ nếu ông thiếu úy đó ra đón xe nữa thì không biết Trung sẽ sử xự ra sao. Một mặt đã khấn trước mộ người ta là có điều gì thì sẵn sàng làm giúp. Một mặt cứ nghĩ đến nếu giáp mặt với hồn ma lần nữa thì Trung cứ thấy lạnh xương sống.

Chả mấy chốc mà Tết đã gần kề. Mặc dù khi ấy ai nấy đều nhem nhuốc khổ sở nhưng vẫn cố gắng tạo nên một cái không khí Tết cho vui vẻ. Chợ búa cũng nhộn nhịp hơn bình thuờng. Nhìn những bó hoa vạn thọ bày bán khắp nơi Trung bỗng nhớ đến ngôi mộ của thiếu úy Ngọc. Anh ghé vào mua một bó cúc vạn thọ và bó nhang rồi đạp xe đến nghĩa trang. Từ xa Trung đã ngạc nhiên khi thấy trên mộ của thiếu úy Ngọc có ba nén hương còn nghi ngút khói và có cả đĩa trái cây. Nhìn quanh gần đó chỉ có một người đàn bà trạc tuổi mẹ Trung đang lom khom cắm nhang vào các ngôi mộ xung quanh. Trung lên tiếng hỏi.

- Thím Hai ơi. Có phải thím là người nhà của thiếu úy Ngọc nằm ở đây không?

Người đàn bà đang chăm chú cắm nhang bỗng giật mình ngẩng lên nhìn Trung rồi trả lời:

- Không phải.

Rồi bà ta đổi qua nét mặt có vẻ mừng rỡ và hỏi lại Trung:

- Vậy cậu là người nhà của người nằm nơi đây hả?

- Dạ không phải.

Đến đây thì cả hai cùng chưng hửng ngượng ngập không biết nói gì thêm. Một lát sau Trung hỏi:

- Vậy có phải đĩa trái cây này của thím Hai không? Thím Hai không quen biết mà sao đem trái cây đến ngôi mộ này cúng vậy?

Người đàn bà nhìn bó cúc vạn thọ và bó nhang trên tay Trung rồi hỏi ngược lại:

- Còn cậu hình như cũng đem hương hoa đến viếng ngôi mộ này đúng không? Cậu quen biết ra sao với người mất mà lại làm vậy?

Đến đây Trung quyết định kể cho người đàn bà nghe về câu chuyện của mình mặc dù không biết người ta sẽ tin hay không. Người đàn bà trầm ngâm một lát rồi nói với Trung.

- Chuyện dài dòng lắm. Nhà tôi cũng gần đây thôi, cậu nếu rảnh ghé qua tôi sẽ kể đầu đuôi cho nghe.

Trung dạ rồi đốt vội ba nén hương, cắm bó vạn thọ xuống ngôi mộ rồi lễ cẩn thận. Trước khi đi anh cũng không quên đốt một điếu thuốc mời người thiếu úy dưới mồ.

Sẵn xe xích lô Trung chở người đàn bà về nhà chỉ cách đó chừng trăm thước. Tại đây anh được người đàn bà đưa cho tấm thẻ bài mang tên Nguyễn Văn Ngọc và kể cho nghe câu chuyện bi tráng của những giây phút cuối đời của người lính này. Theo người đàn bà thì trưa ngày 30 tháng 4 thiếu úy Ngọc theo dòng người chạy loạn đi ngang qua khu nhà bà. Đến đây có lẽ do quá mệt mỏi và thất vọng khi nghe tin đã có lệnh buông súng đầu hàng, thiếu úy Ngọc đã tự sát bằng một phát đạn vào thái dương. Giấy tờ tùy thân trên người không có nên không ai có thể biết để liên lạc với gia đình của người mất. Trong lúc hỗn loạn đó, vợ chồng bà cùng vài người hàng xóm đã đứng ra chôn cất cho anh ta ở ngay khu nghĩa trang gần nhà. Bia mộ thì viết dựa theo tên trên tấm thẻ bài và cấp bậc căn cứ vào bông mai trên cổ áo của bộ quân phục anh mặc lúc đó. Từ đó vợ chồng bà cùng những người hàng xóm năm xưa vẫn thuờng xuyên ghé thăm và chăm sóc cho ngôi mộ này. Sau cùng người đàn bà nói:

- Tôi nghĩ cậu và anh ta có duyên với nhau nên anh ta mới xui khiến để cậu gặp hai lần. Thôi tôi giao cho cậu tấm thẻ bài này. Cậu ráng giúp tìm xem gia đình anh ta ở đâu để báo tin cho người ta biết.

Trung nhận tấm thẻ bài từ tay người đàn bà và tự nhủ trong lòng sẽ cố gắng giúp người thiếu úy quá cố tìm ra người thân của anh ta để báo tin. Dựa vào hai lần đón xe, một đi từ nghĩa trang đến xa cảng miền Tây và một đi theo hướng ngược lại Trung đoán có lẽ anh ta có người thân ở quanh khu đó. Khổ nỗi xa cảng miền Tây thì rộng mênh mông bát ngát biết đâu mà tìm. Suy nghĩ một lát Trung bỗng nhớ ra cả hai lần đưa và đón người khách đi xe luôn đứng ở dưới gốc cây sao lớn trước một ngõ hẻm. Như thế có lẽ nhà người thân anh ta chỉ ở quanh quẩn đâu đó. Trung đạp xe ngay đến đó và bắt đầu gõ cửa từng căn nhà trong con hẻm để hỏi thăm về tung tích người thiếu úy tên Ngọc. Những căn nhà đầu tiên anh hỏi thăm đều là những gia đình mới dọn về sau này nên không ai có thể cho anh thêm thông tin gì. Đến căn nhà ở quãng giữa con hẻm có một người thiếu nữ trạc tuổi Trung đã cho anh một chi tiết quan trọng.

- Anh hỏi thăm thử căn nhà có trồng cây bông giấy trước sân đó xem. Ngày xưa tôi biết gia đình đó có một người con trai cũng cỡ tuổi tôi làm sĩ quan nhưng sau ngày 30 tháng 4 thì không thấy nữa. Hàng xóm đoán là có thể anh ta đã di tản hoặc trốn cải tạo ở đâu đó nên không ai dám hỏi.

Trung cám ơn cô ta rồi đến thẳng căn nhà có cây bông giấy bấm chuông. Một người đàn bà lớn tuổi đi ra. Trung cất tiếng:

- Dạ chào bác. Con kiếm nhà anh Nguyễn Văn Ngọc.

Trung tính nói thêm “ngày xưa là sĩ quan sư đoàn 18” nhưng anh chợt dừng lại vì vào thời điểm đó ai cũng sợ liên lụy, Trung không muốn chủ nhà nghi ngại. Người đàn bà ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:

- Cậu quen sao với thằng Ngọc nhà tôi?

Đến đây thì Trung không còn lo ngại nữa nên trả lời người đàn bà.

- Dạ cháu là lính cùng sư đoàn 18 với ảnh.

- Cậu vào nhà chơi uống miếng nước cái đã.

style="background: white; line-height: 21.6pt; margin: 0cm 0cm 21.6pt; text-align: justify;">Trung bước vào nhà và để ý ngay đến cái bàn thờ ở nhà trong mà trên đó có treo bức hình chân dung một người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ. Không thể lẫn vào đâu được, chính là người khách đi xe của anh trước đây. Người đàn bà rót nước trà mời Trung rồi lên tiếng.

- Cậu có tin tức gì của con tôi không? Cậu thấy đó, tôi lập bàn thờ cho nó vì tin rằng nó đã mất. Lần cuối tôi được biết tin tức về nó là khi đơn vị của nó đóng ở Xuân Lộc. Lúc ấy qua tin tức thì trận đánh ở đó khốc liệt lắm. Sau đó không còn tin tức gì. Vợ chồng tôi không biết nó bị bắt, bị tử trận, hay đã trốn thoát được ở nơi nào đó. Đến đêm ngày 30 tháng 4 tôi bỗng nằm mơ thấy nó mặt mũi bê bết máu. Giấc mơ chỉ thoáng qua thật nhanh và tôi chưa kịp hỏi han thì đã giật mình tỉnh dậy. Sau đó không có tin tức gì của nó nữa và tôi cũng không còn mơ thấy nó lần nào. Vợ chồng tôi cũng đi dò hỏi ở nhà những người bạn cũ của nó thì không ai hay biết gì. Bạn thân trong đơn vị của nó thì không ai ở Sài Gòn. Sau một thời gian bặt tin tức và căn cứ theo giấc mơ ngắn ngủi, chúng tôi đã lập bàn thờ cho nó và lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ. Tôi mong là cậu có thể cho chúng tôi biết được tin tức của nó.

Đến đây thì Trung lần lượt kể cho người đàn bà nghe về hai lần có duyên được gặp mặt thiếu úy Ngọc. Anh kể cho bà ta nghe về những người tốt bụng đã chôn cất thiếu úy Ngọc tử tế và vẫn thường xuyên chăm sóc mộ phần anh cho đến tận bây giờ. Cuối cùng anh móc trong túi ra tấm thẻ bài như một kỷ vật để trao lại cho người mẹ đau khổ nhưng hạnh phúc vì cuối cùng cũng biết được con mình bấy lâu nay vẫn được hương khói và mồ yên mả đẹp. Sau đó Trung đạp xe chở mẹ Ngọc đến mộ phần của anh và sau đó ghé thăm nhà của những người ngày xưa đã chôn cất Ngọc. Những cuộc gặp gỡ tràn ngập nước mắt nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc cho một cái kết phần nào có hậu. Trung đã đứng trước mộ phần thiếu úy Ngọc và khấn thầm trong miệng. “Em đã làm được việc tìm ra gia đình của ông thầy. Từ đây mong ông thầy yên nghỉ”.

Khi Trung chở mẹ Ngọc về, người đàn bà đã giữ anh ở lại ăn bữa tối. Hôm đó cũng là ngày tiễn ông Táo về trời. Ở nhà người chị gái của thiếu úy Ngọc đã chuẩn bị mâm cơm cúng tươm tất. Sau bữa cơm Trung cám ơn và cáo từ gia đình Ngọc để ra về. Khi đạp xe ra khỏi cổng con hẻm bên gốc cây sao, Trung bỗng giật mình khi thấy người đón xe xích lô hôm trước, thiếu úy Ngọc, đang đứng giơ tay lên chào mình. Đang đà xe chạy nên Trung không kịp dừng, anh chỉ kịp ngoái đầu lại thì chỉ còn thấy gốc cây sao trống trơn. Lật đật thắng xe lại, Trung đứng vội xuống đất sửa quần áo cho chỉnh tề rồi đứng nghiêm hướng về gốc cây sao chào theo đúng phong cách cấp dưới chào cấp trên trước khi leo lại lên xe để đạp về nhà.

 

Thảo Lan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/May/2023 lúc 11:03am

[Audio] Chị Hai Cua Đồng - Yến Linh đọc   <<<<<<

Những%20câu%20nói%20hay%20về%20con%20trai%20của%20mẹ,%20câu%20nói%20mẹ%20dành%20cho%20con%20trai


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/May/2023 lúc 11:06am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/May/2023 lúc 10:05am

Ngày Hiền Mẫu: Tóc trắng bay trong gió

 BM

Mẹ tôi có mái tóc rất dày. Tôi nhớ khi còn nhỏ, được ngồi sát vào lưng của mẹ, cầm chiếc lược nhỏ bằng gỗ màu vàng sữa, chải tóc cho mẹ, chia rồi tết, rồi gỡ ra, chải lại, rồi tết thành kiểu tóc khác… Sau lưng người mẹ bao dung là chiếc nôi tuổi thơ của tôi. Thời gian cứ vậy trôi qua tựa như con sông dài. Hình ảnh bé nhỏ dần lớn lên khỏi nôi, hòa chung với nụ cười hiền hậu của mẹ… Đó là tất cả ký ức của tôi về mẹ.


BM


Khi mẹ tôi mất, tóc bà bị rụng hết, là do uống thuốc hay hóa trị, tôi cũng không rõ nữa. Trên đầu mẹ được quấn một chiếc khăn lụa màu xanh, trông như đang ngủ thiếp đi mãi mãi.


Vào cái ngày mùa đông ấy, họ hàng đều đến dự buổi tiễn biệt cuối cùng. Tất cả những tiếng gào khóc đau lòng xé ruột đột ngột im bặt khi cánh cửa sắt của lò hỏa thiêu nặng nề rơi xuống. Tôi nhìn qua cửa sổ, trông lên ống khói lớn, tôi thầm biết làn khói xám đang bay dần khỏi ống khói kia là gì. Bầu trời đã cướp đi mẹ tôi, cướp đi tuổi thơ của tôi. Một bàn tay tôi mặc cho cha nắm chặt, nhưng bàn tay còn lại tôi giữ chặt túi áo. Tôi giấu cặp kính của mẹ trong túi áo bông, còn có cả chiếc lược gỗ nhỏ. Chúng rất cứng, khi tôi giữ mạnh, khiến lòng bàn tay đau nhức. Cảm giác đau đớn ấy khắc sâu trong lòng, từ đó không ngừng hiện lên trong cuộc đời tôi.


BM


Vào một ngày của năm 2004, tôi đi bộ trên đường phố Roppongi, Tokyo. Xe cộ tấp nập, những tòa nhà cao chót vót, những đường cong, đường thẳng của TV Asahi khiến mắt tôi như bị thôi miên. Thời thế đang đổi thay, một số việc tôi cần làm cũng thực tế như tất cả những người hiện đại khác: Tôi phải đến một cửa hàng tiện lợi để sao chép ba bản tài liệu, xin giấy phép cửa hàng trực tuyến; Cần gọi điện cho bạn hỏi xem cuối tuần này nên ăn lẩu hay thịt nướng, chi phí của mọi người không nên quá cao, nguyên liệu được mua với số lượng lớn tại cửa hàng thực phẩm, tiền đồ uống được tính chia đều cho mọi người…


BM


Tầm nhìn lúc cao lúc thấp, đế giày của phụ nữ thời trang khiến bước chân họ giống như đang bám trên đế nhọn của chiếc ly, lúc lên lúc xuống. Những chiếc ô che nắng xanh xanh đỏ đỏ của người qua đường như chiếu tia sáng vào dòng suy nghĩ đang phân tán của tôi.

 

Đúng lúc đó, hình ảnh một người phụ nữ lớn tuổi xuất hiện ở ngã tư trước mặt tôi. Dòng người đủ màu sắc như tách ra làm hai trước mặt, còn bà đứng lặng lẽ như một tảng đá giữa dòng sông. Thân hình bà ấy thon gầy, mặc một chiếc áo sơ mi cotton trắng và chiếc quần vải màu xanh lam. Kiểu trang phục này, không hiểu vì sao, đã mở ra một không gian khác bị phong ấn từ lâu trong tâm trí tôi: quê hương, bầu trời, tuổi thơ…


BM


Tôi quan sát, thấy bà ấy một tay cầm xấp tài liệu in, tay kia cầm một tờ tài liệu đưa ra ngoài để tặng mọi người. Những người đi đường vội vã không tiếp nhận, thậm chí không thèm dừng lại để nhìn. Bà vẫn đứng kiên nhẫn ở đó, thỉnh thoảng xoay người nghiêng theo theo bước chân của những người xung quanh, lưng hơi khom xuống, trong mắt thoáng hiện lên một tia hy vọng.


Tôi chầm chậm bước đến gần bà ấy và dừng lại. Khi bà nhìn thấy tôi, trên khuôn mặt nở nụ cười, khiêm tốn và bình tĩnh. “Xin chào,” bà ấy nói. Trong phút chốc, sự giao hòa va chạm của hai ánh mắt khiến chúng tôi như thấu hiểu lẫn nhau, không cần nói thêm lời nào nữa. “Chào bà,” tôi nhận lấy tờ giấy bà đưa, hơi ấm của bàn tay vẫn còn lưu lại trên đó.


BM


Tôi thầm nghĩ, bất kể ấn phẩm tiếng Hoa ấy có nội dung gì, tôi đều có thể tin tưởng bà ấy, cảm giác tựa như chúng tôi đã từng quen biết nhau. Sự thân thiết khi gặp gỡ những người bạn đồng hương khiến tôi cảm thấy mình có thể làm được điều gì đó cho bà ấy. Có thể ủng hộ nhà hàng Trung cộng của bà ấy, có thể quyên góp cho trại trẻ mồ côi của bà ấy, thậm chí có thể giúp bà ấy đi tìm con mèo bị lạc, v.v. Tôi nghĩ tờ giấy mà bà ấy đưa cho tôi chẳng có gì khác ngoài những nội dung này. Bất kể nội dung gì, trên đường phố Tokyo này, mọi lời kêu gọi nhỏ bé nhất của con người đều được phép, miễn là nó không vi phạm pháp luật.


Tôi gật đầu với bà rồi tiếp tục bước đi. Đúng lúc tôi sang đường, một cơn gió thổi mạnh, mái tóc bạc phơ của bà chầm chậm tung bay lên, làm hiện rõ từng đường nét thanh chiết trên toàn bộ khuôn mặt. Đường nét ấy là phác họa của thời gian, nhưng lại không hề có một tia đau khổ. Ngược lại, toàn bộ khuôn mặt bà tỏa ra ánh sáng kiên định và bình yên, mà nguồn gốc của ánh sáng đó dường như thật xa xôi, xuyên qua tầng tầng lớp lớp, là thứ mà tôi không cách nào có thể hình dung được. Tôi sững sờ, lưu giữ khoảnh khắc ấy trong tim.


BM


Bất tri bất giác, tôi đã bước đi một đoạn đường khá xa. Và mái tóc bạc trắng bay trong gió kia lại gợi lên trong lòng tôi rất nhiều kỷ niệm. Mẹ tôi nếu còn sống đến tuổi này, bà cũng sẽ có mái tóc bạc trắng như vậy. Bao nhiêu năm trôi qua, có lúc vội vã, có lúc thất vọng, có lúc bối rối, tôi đã đi qua biết bao con đường xa lạ ở nước ngoài, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy ánh mắt dõi theo vô hình trên đám mây kia là sự quan tâm vô hạn của mẹ, là tình yêu thương vô bờ bến. Cuối cùng, nó có nhẹ nhàng rơi xuống và biến thành cuộn tranh như hình ảnh vừa xong trước mắt tôi hay không? Bởi vì người phụ nữ lớn tuổi kia dường như có hàng ngàn lời muốn nói với những người chưa từng gặp như tôi.


Trong mơ màng, tôi không biết tại sao mình lại cảm thấy như vậy. Khi định thần lại, tôi nhìn xuống tờ tài liệu đang cầm trên tay, đột nhiên, trên tờ giấy xuất hiện một dòng chữ lấp lánh “Pháp Luân Đại Pháp hảo”.


BM


Mười năm đã trôi qua, trong mười năm này, tôi đã thay đổi từ một người bình thường không có mục đích sống, trở thành một học viên Pháp Luân Công đang đi trên con đường phản bổn quy chân. Tôi cũng phát tờ tài liệu trên đường phố lạnh giá, cũng giương biểu ngữ và tham gia đoàn diễn hành dẫu trời mưa gió… Bởi vì tôi cũng giống như hàng triệu học viên Pháp Luân Công khác, chỉ mong muốn mọi người trên thế giới này có thể minh tỏ sự thật. Mười năm trước, nhận trên tay tờ tài liệu mỏng manh, tôi như được kết nối với cơ duyên từ vạn cổ. Tôi đã từng hỏi, người phụ nữ lớn tuổi đã đợi tôi trên phố mười năm trước là ai? Tôi rất muốn nói lời cảm ơn với cô ấy, nhưng thật không ngờ rằng, tôi không thể tìm thấy cô. Tôi đã đến ngã tư đó nhiều lần, nhưng chưa bao giờ gặp lại mái tóc trắng bay trong gió kia một lần nữa. Nhưng mà hiện tại tôi biết rằng, điều này cũng không còn quan trọng.


Có lẽ rằng trong cõi u minh, có một loại tình yêu, một loại quan tâm sẽ tiếp thêm cho bạn sức mạnh vào thời khắc nguy nan nhất của cuộc đời. Trong thế giới phàm trần, chúng ta thường cho rằng loại sức mạnh này đến từ tình mẫu tử chí cao vô thượng nơi nhân thế. Vâng, mười năm trước tôi cũng nghĩ như vậy.


Có thể nói, tình mẹ là ngọn lửa ấm áp, là thanh âm đẹp đẽ nhất trên đời. Hôm nay, tôi muốn nói rằng: Tình mẹ là biểu hiện của thiện niệm, của lòng vị tha vô tư vô ngã, là cụ thể hóa, nhân tính hóa Phật tính của sinh mệnh trong các mối nhân duyên.


BM


Tình yêu lớn nhất của một người đến từ người mẹ, vậy tình yêu và từ bi cho toàn nhân loại và vạn sự vạn vật là đến từ đâu?


Khi chúng ta tìm kiếm trong chiều sâu của tình mẫu tử, vượt qua sinh tử trong thế gian, cho đến vĩnh hằng, cho đến nhỏ bé nhất, chúng ta sẽ tìm thấy một loại sức mạnh từ bi, đó là ngọn nguồn của mọi ánh sáng yêu thương. Hãy để ánh sáng từ bi này ngày càng lan tỏa rộng khắp thế gian. Đó là lý do tại sao cô ấy, anh ấy và tôi, tất cả chúng tôi mỗi ngày đều đang kiên trì đứng trên đường phố, với những tờ tài liệu chân tướng về Pháp Luân Công ở trên tay.


BM




Vân Thư Hòa  _  Thiên Lý

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/May/2023 lúc 10:21am

Tiếng Chim 


Một buổi mai màu xám tro âm thầm đậu nơi cửa sổ. Tôi thức dậy sau giấc ngủ chập chờn đầy mộng mị. Bỗng đâu có tiếng chim vang lên. Tôi lắng nghe, một lúc sau nhận ra ấy là tiếng sơn ca, quê tôi thường gọi là chim chiền chiện. Một loài chim sắc lông nâu nhạt có sọc nâu đậm. Ấy là một phối sắc màu đất, chỉ tốt cho việc ẩn mình trốn tránh, không sặc sỡ quyến rũ gì cả. Tiếng hót loài sơn ca lảnh lót vang vọng, tiếng chim tuy nhỏ lại vang vọng trong một vùng rộng lớn là vì nó lan tỏa từ trên cao xuống cánh đồng. Chim sơn ca thường đẻ trứng trong những luống cày ải sau mùa gặt, và khi những luống đất đã bắt đầu đâm cỏ non cũng là lúc trứng nở, đó là mùa lũ trẻ con chúng tôi đi bắt đến, bắt chim con. Chim sơn ca luôn luôn cất tiếng hót vào lúc bình minh và hoàng hôn. Tôi tưởng tượng quanh đây có con sơn ca bay vút lên gieo tiếng hót trong như những hạt pha lê xuống cánh đồng lúa xanh mơn mởn.


Tôi nằm trên giường uể oải nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy xa xa thấp thoáng ngọn cây dầu cổ thụ cả trăm năm, rất cao trồng ở ven những con đường lớn trong thành phố đông đúc này. Những ngọn cây cao còn chìm trong một nền trời mù mù khói xe đọng lại sau một đêm, sáng nay hóa thành thứ sương đục ngầu dơ bẩn. Không một tia nắng, không một đám mây. Tôi chợt nhớ ra chỗ tôi nằm đây là 1 căn phòng trên lầu 4 của một chung cư 5 tầng. Tôi ngẫm nghĩ mãi không hiểu nổi trong khung cảnh u ám của một buổi ban mai tồi tệ trong thành phố làm sao có tiếng hót của loài chim đồng nội thế này? Giữa một thành phố nhộn nhịp ồn ào bao nhiêu xe cộ đủ loại, tiếng máy nổ đinh tai nhức óc, khói đầy trời, lúc nào nhìn lên cũng thấy mờ mịt, cả năm chẳng trông thấy được trời xanh mây trắng, người còn chịu không nổi bầu không khí ấy huống gì là loài chim sơn ca chỉ chuyên sống và ca hát trong cảnh đồng không mông quạnh, mặt trời lên xuống, bãi cỏ xanh rờn, không khí trong veo. Con chim đồng nội nào lại lạc loài đến đây gieo tiếng hót cao vút trong veo làm mát rợi cả lòng người? Tôi định đến trưa trong khi ngồi ăn với anh Thức chủ nhà sẽ hỏi chuyện về con sơn ca thành phố và tiếng hót trong một trời đầy bụi khói sáng hôm nay.


Trời sáng hẳn, tôi mệt nhọc ngồi dậy rửa mặt cạo râu. Buổi tiệc hồi đầu hôm toàn rượu, thịt mỡ, thuốc lá và cuộc cãi vã căng thẳng lúc gần cuối làm tôi mất ngủ. Tôi là một luật sư rất thành công, nghĩa là kiếm được tiền nhiều. Tôi thao thức suy nghĩ mãi về vụ kiện, đến 2,3 giờ sáng chưa nhắm mắt được. Tôi nhỏm dậy lấy 2 viên thuốc ngủ. Khuya như thế này rồi mà phố phường vẫn chưa lắng tiếng người tiếng xe cộ. Tuy sống trên rất cao nhưng tiếng động thành phố vẫn cứ xô đến đây như những đợt sóng. Cả ngôi chung cư là một khối bê tông khổng lồ bị nung nóng suốt ngày giờ đây để thoát ra hơi nóng. Bụi bặm, với mồ hôi bê bết khắp người. Chiếc quạt trần thổi một thứ không khí cũ và nóng từ trên cao xuống rồi vần vũ trong phòng, chẳng có gì tươi mát cả. Gần sáng tôi mới chợp mắt kế đó là tiếng chim vui tươi mát rượi đánh thức. Nhìn mặt mình trong gương thật vô cùng ngao ngán, cặp mắt đỏ và nhọc nhằn như người thiếu ngủ lâu ngày, lưỡi trắng, miệng đắng, đầu óc choáng váng như say rượu, tay chân bải hoải. Tôi nhắm mắt lại lắng nghe, cả thân xác là một sự mệt nhọc. Cái gì đã làm cho thân thể và tinh thần tôi suy sụp nhanh như thế này? Mới đó mà tôi đã hóa thành người đàn ông béo phệ, nặng nề, chậm chạp, buồn bã. Hình bóng tôi xa lạ với cả tôi. Mới hơn 40 mà tôi đã phải nhuộm tóc, mang răng giả, bụng thì ngày cứ càng to ra.


Sự căng thẳng quá tải của nghề nghiệp, cộng với lối sống lúc nào cũng như chạy đua trong cái thành phố được gọi là tiện nghi này, cũng là 1 nơi đầy sự ô nhiễm đã dần dần lấy đi bao nhiêu tuổi thanh xuân, sức sống, cạnh tranh nghề nghiệp lấy đi sự thanh tịnh bình an trong tâm hồn. Đổi lại, tôi nhận được nhiều thứ, một địa vị cao, giàu có, vợ đẹp con khôn... Đây là một cuộc trao đổi sòng phẳng, thành phố cho nhiều thứ và nó cũng lấy đi nhiều thứ. Chính tôi đã chọn cuộc đổi chác này và tôi phải trả giá, dĩ nhiên...


Trong khi tôi đứng trước gương nghĩ về cái lẽ được mất của cuộc sống thì con sơn ca vẫn hát. Tiếng hát càng nghe càng thấy vui. Tôi tò mò muốn biết con chim hiện ở nơi đâu? Cuối cùng tôi định hướng được tiếng chim. Nó phát ra từ căn phòng phía trên chỗ tôi đang đứng. Tôi đang ở lầu bốn vậy con chim này ai nuối ở lầu năm. Tôi ra hiên nhìn lên. Căn phòng nhốt con chim đó đóng cửa. Vậy ra đây là chú chim siêng năng đứng hót trong chính căn phòng còn đang đóng cửa tràn ngập bóng tối. Thật đúng là một chú sơn ca lạ lùng. Chú chẳng cần trời xanh, bình minh, trên cánh đồng cỏ xuân mơn mởn. Nó chịu khó hát trong chốn chật chội tối tăm.


Trước căn phòng có nhiều chậu cây cảnh. Người chủ trồng loại cây cảnh gì không biết thấy nở ra những bông hoa đỏ rực màu tiết gà, và cái nhụy màu vàng dài như con sâu, lá cây rất to, hình lá môn, màu rắn lục trông hoa đỏ lá xanh phát rùng mình. Lá hoa đều đẹp song vẫn có gì bất thường, lạ đến mức khiến người nhìn sờ sợ. Song dù sao hoa lá và tiếng chim vẫn làm cho cả khu nhà êm đềm dịu mát. Tôi nghĩ chủ nhà chắc là người rất yêu mến thiên nhiên.

Nhân buổi ăn trưa tôi hỏi anh Thức về tiếng chim. Thức nói:

- Đó là tiếng hót con sơn ca của ông lão ở lầu trên. Ông cụ sống có một mình trong căn phòng nhỏ. Ông trồng cây và nuôi chim. Ông già lắm, chắc cũng ngoài 80, suốt ngày ông ở mãi trong phòng, rất ít khi xuất hiện bên ngoài. Mỗi khi trời tốt mới thấy cụ ra hiên phơi nắng.


Là nông dân thuần túy song ông cũng biết nhìn xa trông rộng, Ông cho con cái học hành cao đỗ đạt cao, có người làm lớn, có người làm giàu, nay con cháu ông quen với tiện nghi ở thành phố rồi, chẳng có đứa nào chịu về quê sinh sống. Chúng bàn đem cụ về thành phố. Ông không chịu, nhất quyết ở lại trông coi nhà từ đường kị giỗ tế tự. Chúng bán hết ruộng nương, bán luôn nhà từ đường, ông cụ ngăn cản các con không được đành chịu. Ông đốn tre cắt tranh về dựng cái chòi ngay trên mảnh đất cũ để ở. Về sau bọn con cháu lừa ông lên xe chở tuốt về thành phố đem nhốt trong căn phòng mãi tận lầu 5. Thế là ông lão hết đường quay lại ruộng đồng. Có lần ông cụ xách cái tay nải gõ cửa phòng tôi nhờ tôi dẫn ra bến xe tìm đường về quê. Tôi phải nói dối chẳng biết bến xe ở đâu. Hôm sau tôi đem chuyện này ra bàn với anh con và cô dâu trưởng, Anh ta cười:

- Ông già tôi chướng lắm. Chắc thời gian sau sẽ quen. Lúc đã mê thành phố thì có cho tiền cũng không chịu trở về nhà quê.


Tôi bàn việc tạo cho ông già một chốn thiên nhiên có cây cỏ tiếng chim. Ông con và cô dâu đồng ý. Hồi ấy tôi rất khâm phục người con và cô vợ anh ta, họ đúng là những người tháo vát, tiêu biểu cho hạng thị dân, thành thạo mọi việc, nói năng lịch sự, đáng khen ngợi hơn cả là chỉ trong có một buổi mai họ đã tạo ra cả một khung cảnh điền dã ngay giữa lòng thành phố. Tôi đã thấy cây lá xanh và lần đầu tiên khu chung cư khô khốc vang lên tiếng chim làm mát cả lòng ngưòi!


Từ đó ông già như con chim bị nhốt trong chiếc lồng xi măng trên lầu 5, ông hết đường cựa quậy. Anh con trai tin cụ sẽ quen và sẽ mê cuộc sống thị thành. Song theo chỗ tôi nhận xét thấy cụ ngày càng sầu thảm. Có nhiều khi ông già lần xuống tầng dưới than vản với tôi. Cụ nói chán ăn cơm tháng, thèm mắm ba khía, cá đồng, thịt chuột. Ông than phiền thức ăn nấu theo kiểu thành phố mặn không ra mặn, nhạt không ra nhạt, rất khó nuốt. Ông than phiền gió từ chiếc quạt máy khó chịu, đường trắng quá, ăn không ngon. Gạo nhạt quá, đèn sáng quá. Ông đúng là một lão nông Nam bộ. Tuy anh con có may cho cha mấy bộ quần áo sang trọng song không thấy ông dùng. Cái cốt cách nông dân nơi ông không giấu vào đâu được. Mấy ngón chân ông lão to bè, loại bàn chân đặc biệt của người chuyên đi chân trần, trên đất, gánh nặng. Ông chỉ còn lại vài chiếc răng cửa rất to. Miệng luôn luôn ngậm điếu thuốc rê to tướng ướt và tắt tự lúc nào.


Tôi thắc mắc về việc những người con tại sao không để ông sống chung với họ. Một ông lão 80 làm sao sống một mình. Nhưng tôi không dám đặt câu hỏi này với họ, nghe đâu người con là 1 cán bộ cao cấp. Hàng ngày họ cho đầy tớ mang cơm đến. Tội nghiệp ông lão rất thương các cháu, chẳng mấy khi chúng đến thăm. Mấy đứa cháu con nhà giàu, sang trọng ăn mặc theo kiểu tây đầm chỉ dám đứng bên ngoài nhìn vào phòng xem ông chúng nó với cặp mắt tò mò như đến sở thú xem con gấu nằm trong hang tối.


Nghe chuyện đến đây tôi đã phần nào tưởng tượng được tình cảnh ông lão trong những ngày cuối đời bị tách hẳn ra cái thế giới quen thuộc đầy màu xanh đồng nội của mình để bị giam hãm trong căn phòng nhỏ giống như giữa khu rừng bạt ngàn xi măng. Lần ấy tôi ở lại Sài gòn 5 ngày. Sáng nào tôi cũng được thức dậy với tiếng chim vui. Sau đó tôi trở về Nha Trang, rồi bận bịu công việc nên quên mất chuyện ông già nuôi chim trồng hoa.


Thuở niên thiếu tôi cũng từng sống ở nhà quê. Đến bây giờ sau rất nhiều năm ở thành thị tôi vẫn còn nuối cái mộng vui thú điền viên thôn dã. Tôi không thể nào quên được tiếng sơn ca từ cánh đồng cỏ xuân mơn mởn vút lên gieo một tràng tiếng óng ánh dài lóng lánh như sương mai. Tiếng chim làm cho cánh đồng bớt trống trải. Kể từ khi lên trung học tôi phải rời thôn quê về thành phố, rồi nhiều năm đại học. Học hành xong thì đi làm, có vợ, mua nhà rồi ở luôn thành phố. Từ ấy mất hút màu xanh đồng nội. Giờ đây mỗi khi có dịp ra khỏi thành phố, đứng trước màu xanh những thuở ruộng mạ tôi luôn luôn cảm thấy tâm hồn êm ả. Những cuộc chạy trốn cái náo nhiệt thành phố cũng chẳng thể kéo dài được lâu. Tôi lại phải quay về hòa vào dòng xe cộ bất tận trên đường, trở về cảnh đời thường đầy đủ tiện nghi chán ngấy. Tôi mà còn thế huống gì ông già. Tội nghiệp ông giống như cái cây bị nhổ trốc gốc từ ruộng rẫy về cắm trong chiếc lọ nhỏ.


Mấy năm sau tôi gặp lại anh Thức. Thức trách tôi vì sao về Sàigòn nhiều lần chỉ đến ở khách sạn không đến sống với anh, chê thiếu tiện nghi sao? Tôi nói, không phải, chỉ vì nhà ông cao quá lại không có thang máy. Trước leo nổi, bây giờ thì chịu, chân ngày càng yếu còn người thì càng nặng... Rồi tôi hỏi chuyện ông lão nuôi chim trồng hoa. Tôi hỏi con sơn ca của tôi mỗi buổi mai còn hót không ? Thức ngậm ngùi:

- Bây giờ ông tới nhà tôi không còn được nghe tiếng chim sáng nữa.

Tôi hỏi, vì sao? Thức kéo tôi vào hiệu nước kể tôi nghe câu chuyện cảm động và đầy sự phẩn nộ sau đây: 

"Năm ngoái cũng vào khoảng tháng này, trời nóng lắm. Một buổi chiều tôi thấy người con trai lớn của ông cụ xách chiếc giỏ lưới đựng nhiều đồ hộp đến thăm ông cụ. Toàn những thứ thức ăn nước uống đắt tiền. Thời đó những loại thực phẩm cao cấp như thế này có tiền cũng chẳng mua được. Người con có vẻ tự hào về việc mình chăm sóc cha bằng mấy thứ đồ hộp cao cấp như thế này. Anh nói dù nhà giàu cũng chẳng mua được. Anh ta ngầm bảo chỉ với vị trí quan trọng trong ngành ngoại thương như anh mới có. Anh ta cầm lên một hộp, và dù không có sự yêu cầu anh vẫn đọc cái nhãn in rất đẹp toàn chữ nước ngoài rồi giảng giải:" Người già cần những loại thực phẩm vô cùng đặc biệt tinh khiết, đầy đủ như thế này mới có lợi cho việc tiêu hóa dinh dưỡng. Theo anh chỉ có mấy nước có nền công nghệ tiên tiến mới có thể sản xuất được... ". Kế đó anh ta kể với tôi về chuyến du lịch dài ngày của cả gia đình anh lên Đà Lạt. Không chỉ tránh cái nóng Sài gòn mà anh cần chữa bệnh biếng ăn, vợ anh bệnh khó ngủ, các con bệnh dị ứng... Nói xong anh lên tầng trên với ông già. Tôi chắc anh vào phòng cha đưa chiếc giỏ rồi đi ngay không dặn dò gì cả vì chỉ vài phút sau đã thấy anh quay xuống. Tội nghiệp ông lão suốt ngày chờ đợi con đến chuyện trò mà con lại bỏ đi ngay. Phải chi hôm đó anh nói với tôi vài lời. Lần trở xuống anh ta dừng lại nói chuyện lâu hơn. Anh cho tôi biết vài tin tức thuộc loại quan trọng đặc biệt mà chỉ có hạng cán bộ cao như anh mới độc quyền biết. Anh làm như ban bố cho tôi ân huệ đặc biệt. Anh tỏ ra khoái trá về những hiểu biết này. Ôi phải chi lúc đó người đàn ông này đừng đem chuyện thời sự viễn vông ra nói mà chỉ cần gởi gắm nhờ tôi chăm sóc cha anh thì đã chẳng xảy ra nông nỗi. Sau này tôi cứ ân hận mãi, tôi trách anh ta ít trách mình thì nhiều. Tại sao tôi phải đợi đứa con như anh ta gởi thì mới để tâm chăm sóc ông già?


Mấy ngày sau cửa phòng ông lão đóng im ỉm, nhưng bên trong tiếng sơn ca vẫn hót. Hàng cây trước cửa phòng lá vẫn xanh rì màu rắn lục. Và những bông hoa cứ đỏ rực một màu máu. Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao tôi chưa bao giờ thấy ông lão tưới nước bón phân cho hoa mà chúng vẫn tươi tốt? Tối đến trong phòng tối om. Tôi tưởng người già ngủ sớm. Không thấy ông xuất hiện. Có nhiều buổi sáng trời trong, nắng vàng thực đẹp cũng chẳng thấy ông cụ ra hiên sưởi nắng. Chúng tôi, những người hàng xóm lâu ngày hiểu cách sống âm thầm của ông nên cũng chẳng để tâm. Vả lại là thị dân ai cũng bận, cuộc sống là thế đấy nó xô con người vào vòng quay tối mày tối mặt, chẳng còn thời gian và hơi sức đâu để ý cuộc sống người chung quanh. Thực là một cách sống hời hợt của đám thị dân.


Cho đến một hôm cả khu cư xá dậy lên nạn ruồi xanh, ban đầu ruồi xuất hiện ít, sau nhiều dần. Những con ruồi no tròn, mình ánh lên sắc xanh kim lọai, hai mắt đỏ choán hết cả đầu. Chúng vo ve suốt ngày, đậu mọi nơi, để dấu phân rất bẩn lên cửa kính. Sau nạn ruồi đến mùi lạ. Ban đầu chưa rõ mùi gì, dần dần chuyển sang hôi thối mùi chuột chết. Nơi nào cũng phảng phất cái mùi đáng tởm lợm này. Chúng tôi kéo nhau đi tìm. Có người la:

- Trời ơi! Lại đây mà coi, ruồi đậu đầy cửa nhà ông lão!

Chúng tôi phá cửa xông vào. Cả bầy chuột cống túa ra. Nhiều người hét lên, chết khiếp. Ông nằm sóng soài trên nền. Ông chết đã nhiều ngày. Mấy ngón tay ngón chân bị chuột gặm nham nhở cụt gần hết!


Ông lão nhà quê chết đói ngay trên một đống thực phẩm sang trọng đắt tiền. Mấy hộp thịt, hộp cá, hộp nước trái cây xanh đỏ lăn lóc đầy nhà! Ông già quá, quê mùa quá, quê mùa đến nỗi không biết những thứ đẹp đẽ kia là thức ăn đồ uống. Mà dù có biết thì ông cũng chẳng biết cách gì mở chúng ra ăn uống. Đối với người nông dân chất phát quanh năm đồng chua nước mặn thức ăn thức uống đâu có giống mấy thứ xa lạ này?


Người ta còn kinh ngạc hơn khi phát hiện ra hàng cây cảnh người con trai và cô con dâu mua về cho ông tạo khung cảnh thôn dã điền viên cũng là thứ cây cảnh nhân tạo làm bằng chất nhựa tổng hợp. Những hoa lá không cần chăm sóc tưới bón vẫn xanh rờn rắn lục, đỏ lòm máu.

Và trời ơi!!! Mọi người còn sửng sốt hơn nữa, khi thấy trên bàn, chiếc máy cát xét đời mới nhất chốc chốc vang lên tiếng chim sơn ca!"

 

Quý Thể
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/May/2023 lúc 7:04am

Người Vợ Bị Bỏ Quên 

(Hình minh họa) 

Cú điện thoại đến bất ngờ giữa lúc chị đang ngồi chờ chồng bên mâm cơm. Chị đã lưỡng lự không muốn đi bởi vì chị nghĩ làm thế chẳng khác nào bản thân mình thiếu lòng tin với chồng. Nhưng rồi chị lại thấy mình cần phải đi một lần cho rõ ràng, dù thế nào, sau lần này chị cũng không bao giờ phải hoài nghi thêm nữa. Vậy là chị vẫn đi nguyên đôi dép lê lao ra khỏi nhà… Chị đi tìm chồng. Người chồng mà theo bạn bè chị nói là “gái gú đầy bên ngoài”.

Chị đến địa chỉ như đã được thông báo, chị không mất nhiều thời gian để nhận ra xe của anh ở ngoài khách sạn đó. Chị run run, chị muốn cố gắng xóa đi cái suy nghĩ anh không phải là kẻ phản bội, có thể anh vào đó có việc gì và anh sẽ không giấu chị. Chị gọi cho anh, đầu dây bên kia bắt máy bằng giọng đầy khó chịu:
- “Có chuyện gì thế?”
- “Anh đang ở đâu đấy, bao giờ anh về ăn cơm?”
- “Đang ở công ty chứ ở đâu. Mà em ăn trước đi, anh ăn rồi. Thế nhé”.

Vậy là đã rõ tất cả. Anh đi ngoại tình, anh đi ngủ với gái và anh nói dối chị. Vậy mà bấy lâu nay chị tôn thờ anh như tôn thờ một vị thánh sống.

Chị không vào khách sạn. Chị quay về. Tối hôm đó chị không ăn cơm, chị để mâm cơm nguội ngắt rồi vào phòng nằm ngủ.

Sáng hôm sau chị dậy sớm ra khỏi nhà khi mà anh đang ngủ. Chị đi dạo phố, rồi chị ghé vào một hàng hoa, mua ít hoa hồng vàng về cắm. Khi chị đang đi đường, anh gọi qua điện thoại:
- “Sao sáng nay em không nấu đồ ăn sáng, cũng không gọi anh dậy. Em có biết là anh đi làm muộn rồi không?”
- “Em không nắm được lịch trình của anh. Sáng nay em phải đi mua hoa và làm tóc nữa. Em bận, anh tự ăn bên ngoài đi nhé”.
Rồi chị cúp máy. Lần đầu tiên sau gần 10 năm làm vợ anh, chị là người tắt điện thoại trước. Chị có thể cảm nhận được sự chưng hửng và hụt hẫng của anh đầu dây bên kia bởi vì đó là cảm giác mà chị vẫn thường trải qua khi anh đột ngột cắt điện thoại.

Chị đi sắm cho mình những chiếc váy, chị cắt tóc ngắn và nhuộm màu nâu đỏ. Chị đi làm móng, trông chị thật sành điệu. Mọi người bị sốc khi nhìn thấy ngoại hình của chị. Ngay cả anh cũng ngạc nhiên khi thấy vợ đột nhiên thay đổi. Nhưng anh cũng chẳng đoái hoài, anh không khen ngợi cũng chẳng chê bai. Vì anh có một mối quan tâm khác, mối quan tâm trẻ hơn bên ngoài.

9h tối anh không thấy vợ điện thoại. Ở trong vòng tay người tình anh bắt đầu thấy nóng ruột. Thường vào giờ này chị sẽ gọi cho anh bằng cái giọng rụt rè: “Anh ơi, sắp xong việc chưa? Bao giờ anh về, em vẫn đang đợi cơm anh”. Nhưng cả tháng trời nay, chị không bao giờ điện thoại cho anh. Thi thoảng, anh bật điện thoại lên và thấy hụt hẫng khi không có một dòng tin nhắn hay một cuộc gọi nhỡ của chị.

Anh gọi cho vợ, nhưng chị không bắt máy. Anh quyết định về nhà sớm hơn dù cô nhân tình tìm cách giữ lại. Về nhà, anh không thấy có mâm cơm trên bàn như bao lần. Căn nhà tối thui không có bóng người. Anh gọi điện cho chị, lần này chị nghe máy:

- “Đang ở đâu vậy?”
- “Em đang đi ăn tối với một người bạn. Có việc gì vậy?”
- “Mấy giờ rồi có biết không? Mà cơm nước sao không có?”
- “Hôm nay, anh lại ăn ở nhà à? Vậy anh nấu tạm đồ trong bếp nhé. Em bận rồi”

Chị lại cúp máy. Anh không thể biết chị ở đâu.

Chị đẹp lên từng ngày. Chị không còn giống là người vợ ngày ngày ở trong bếp nấu nướng và chờ anh. Chị thay đổi, chị lột xác nhưng chị quá xa xôi so với anh. Anh bắt đầu thấy nhớ… thấy thèm một sự hiền hòa và cam chịu của chị. Nhưng giờ chị dửng dưng với mọi điều. Anh say khướt về nhà chị không hề lo lắng. Anh đi tới tận khuya chị không hề điện thoại. Anh không về, điện thoại báo chị cũng nhẹ nhàng đồng ý… Sự tự do mà chị mang lại cho anh khiến anh sung sướng lúc ban đầu nhưng lại mang lại cảm giác khó chịu và tức tối về sau…

Chị đã từng là một người con gái đẹp nhưng vì yêu anh, vì muốn là hậu phương vững chắc cho anh nên sau khi cưới chị tình nguyện ở nhà chăm sóc chồng con. Chị nghĩ sự hi sinh của mình là cần thiết và chồng sẽ trân trọng. Chị đánh đổi sự nghiệp và những cơ hội của mình để nhận được một lời chê bai: “Em nhạt và nhàm chán quá” của anh.

Anh ngủ dậy không thấy chị nằm bên. Anh hốt hoảng vì điều đó. Đã gần 1 tháng nữa qua đi, chị vẫn tự do và thoải mái cho anh như vậy. Nhưng anh thì đã không còn thiết đến chỗ người tình. Anh nôn nóng muốn biết xem chị đi đâu, làm gì, vì sao chị thay đổi… Những thứ đó còn khiến anh quan tâm hơn nhiều so với sự hờn dỗi của cô người tình.

Trên bàn chị để lại một mẩu giấy nhỏ: “Em đi du lịch một mình 3 ngày cho khuây khỏa. Anh tự lo cho cuộc sống của mình nhé. Con em gửi về bên ngoại”. Anh thấy tim mình đau khi chị bỏ lại anh thoải mái như vậy. Chị muốn trải nghiệm cảm giác không có anh, điều đó làm anh thấy buồn. Hình như chị đang chuẩn bị tâm lí cho việc không cần anh trong cuộc đời.

Anh muốn đợi vợ về để thú nhận với vợ rằng anh đã ngoại tình và xin chị tha thứ. Anh muốn chị đẹp như bây giờ nhưng xin chị hãy gần anh như xưa, đừng xa cách nữa. Anh nóng ruột điện thoại cho vợ nhưng chị tắt máy. Tới tận đêm, khi anh gọi điện chị mới nghe:
- “Em đang ở đâu”

Chị nói địa chỉ và rồi trong đêm ấy anh lao đến tìm chị, tìm người vợ mà bấy lâu nay anh bỏ quên. Còn chị, chị yên tâm chờ đợi vì chị tin chắc là anh sẽ đến…

Di Linh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/May/2023 lúc 1:16pm

Cô Cái Bè

Cái Bè

Bài viết này nằm ở dạng nửa truyện ngắn, nửa tuỳ bút, chỉ nhằm mục đích nói với một người mà tôi biết dù đã đi xa khuất ngàn vào trong cõi vô cùng, người đó vẫn hiện diện trong tôi, vẫn dõi trông từng bước tôi đi trên đường chinh chiến rồi sau đó bước đường lưu vong không bao giờ trở lại quê hương. Những dòng chữ tôi viết lên đây như một lời phân trần với người đã lỡ đi cái hẹn trăm năm mà nguyên nhân không phải do người đó, cũng không phải lỗi ở tôi mà do hoàn cảnh xô đẩy hay số mệnh khắc nghiệt của con người trong thời buổi chiến tranh.


Đọc lại lá thư của Tư lần thứ nhì xong tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây dừa nhìn ra bờ sông. Nắng tháng 6 vàng hực. Trời hầm như muốn mưa. Khóm dừa nước mọc kề bên hàng rào kẽm gai đung đưa trong cơn gió nhẹ. Trời trong xanh thật cao. Nhìn ra mặt sông Vàm Cỏ Tây, tôi như thấy được vóc dáng của Tư, thằng bạn cùng khoá, cùng phòng với lại cùng gốc dân lục tỉnh với nhau. Nằm cách nhau một khoảng trống đủ cho hai đứa qua lại không đụng nhau, xuyên qua lời chào hỏi, Tư cho tôi biết nó quê ở Cái Bè. Dù nó không tự khai lý lịch tôi cũng có thể đoán được nó là thằng con trai chân còn đóng phèn. Cái vóc dáng quê mùa, lời ăn tiếng nói thô kệch, tính tình thực thà và chất phát đủ nói lên cái gốc lục tỉnh của nó. Cao hơn 1m7, thân hình nở nang và rắn chắc, điều đó khiến cho tôi và các bạn cùng phòng phải e dè không dám chọc ghẹo Tư. Trái với Tư, tôi là thằng nhỏ con, ốm yếu, ít nói tới độ được nó và đám bạn cùng phòng đặt cho cái biệt danh ” Chu câm ”. Không biết vì lý do nào mà tôi với Tư thân nhau. Chỉ biết gần 1 năm dài tôi với Tư chia xẻ với nhau đủ gian khổ, mồ hôi và nước mắt của quân trường. Những buổi chiều rảnh rổi, hai đứa kéo nhau ra ngồi nhìn núi non chập chùng của miền trung rồi lan man nhắc về quê của mình. Sau khi được biết tôi gốc ở Bến Tre, Tư cười khà khà phán một câu: ” vậy là mày cũng có gốc phèn như tao…”. Tôi cười cười chữa: ” nhưng tao ở Sài Gòn gần 10 năm nên phèn trôi đi hết trơn rồi. Mày thì phèn dính từ đít lên tới đầu…”. Tư cười ha hả. Dường như nó không có chút mặc cảm mình là dân quê, dân ruộng, dân phèn như bao thằng trong khoá học mà còn tỏ ra hãnh diện vì sinh ra từ cái quận Cái Bè. ” Con gái Cái Bè đẹp nhất miền Nam nghen mậy…”. Tư phán như thế. Khi thấy ánh mắt nghi ngờ của tôi, nó cười hắc hắc tiếp luôn: ” Như con em của tao đó… Tao bảo đảm mày mà thấy mặt nó là mày mê bỏ ăn bỏ ngủ luôn. Mai mốt mày tới nhà tao chơi thì mày biết liền…”. Không biết sau này gặp em gái của Tư, tôi có mê tới bỏ ăn bỏ ngủ không, nhưng ở trong quân trường dù chưa gặp mặt cô em gái của Tư để biết mình có mê tới độ bỏ ăn bỏ ngủ không thì tôi vẫn ngủ tì tì. Đối với tôi, cái khoái nhất trong thời gian ở quân trường là ngủ. Do thể chất ốm yếu, dinh dưỡng không đủ kèm thêm sự nhọc nhằn của khoá học nên tôi ngủ nhiều hơn ăn và chơi. Đứng tôi cũng ngủ được. Đi tôi cũng ngủ được. Bước thao diễn mà hai con mắt của tôi nhắm lại. Ngồi uống cà phê trong câu lạc bộ tôi cũng ngủ. Ở đâu tôi cũng ngủ được. Đón xe từ quân trường xuống phố Nha Trang tôi ngủ ngáy khò khò khiến cho Tư bực mình mà không làm gì được. Nó bèn tặng cho tôi hổn danh ”Chu ngủ ”. Ngày mãn khoá học, hai đứa buồn rầu khi biết phải xa nhau và có thể còn lâu lắm mới gặp lại hoặc chẳng bao giờ gặp lại. Dù không muốn nhưng tôi lại được về tiểu khu Long An. Phần Tư nhắm hướng Cà Mau trực chỉ. Nó kêu nài quá xá mà cũng không làm gì được. Cuối cùng tôi bàn với nó là hai đứa lên văn phòng của trường xin hoán chuyển đơn vị với nhau. Tôi thì đi đâu cũng được, còn nó nếu được đổi về tiểu khu Long An vẫn gần nhà hơn Cà Mau. Tuy nhiên văn phòng nói lệnh thuyên chuyển đã ra rồi không rút lại được. Thế là Tư đành phải khăn gói đi Cà Mau. Dù không được như ý nguyện về tiểu khu Định Tường song nó cũng vui còn hơn ra miền trung xa lắc xa lơ.


Từ khi ra trường tới giờ đã hơn năm hai đứa tuy có viết thư cho nhau dù không thường xuyên lắm. Trong thư Tư viết ngắn gọn và rũ tôi về nhà nó chơi. Trong thư nó năn nỉ tôi về gặp nó tại nhà ở Cái Bè. Sợ tôi từ chối nó còn viết câu: ” Tao ở Cà Mau xa hơn mày gấp mấy lần mà tao còn về nhà được thì mày ở Tân Trụ gần xịt với Cái Bè mà mày không tới được là tao nghỉ chơi mày luôn. Đi nghen Chu Ngủ… Tao nhớ mày…”. Tôi không thể nín được cười vì câu đó. Tôi biết dĩ nhiên Tư cũng phải đổi thay sau khi ở lính được hơn hai năm, song cái chất quê của nó vẫn còn rất nhiều. Nhẫm tính tôi biết tôi phải quyết định nhanh vì hôm nay 15 mà ngày hẹn với Tư là 25. Tôi chỉ có 10 ngày để thu xếp. 10 ngày quá ngắn để tôi xin được sự chấp thuận ở chi khu. Cho nên tôi chỉ nói riêng với ông thượng sĩ phụ tá là tôi sẽ vắng mặt ba ngày thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật để về Sài Gòn thăm nhà và tôi sẽ trở lại chiều thứ hai.


Sáng ngày 25, tôi ngồi đò từ Tân Trụ đi Long An. Sau khi dằn bụng bằng tô hủ tiếu cộng thêm mấy cái chào chá quảy, tôi ngồi xe lôi ra quốc lộ 4 rồi đón xe đi về Cái Bè. Quận lỵ nhỏ bé song lại nổi tiếng này tôi đã nghe Tư nói nhiều và nói hoài suốt năm học. Nào là con gái Cái Bè, trong số đó có em gái của nó đẹp nhất xứ( hổng biết xứ nào ). Cam Cái Bè ngon nhất xứ( xứ nào cũng hổng biết luôn ). Dân Cái Bè hiền nhất xứ( có lẽ là xứ Cái Bè của nó ). Dù chưa bao giờ ghé Cái Bè song nhờ nhiều lần xuôi ngược từ Sài Gòn xuống Hậu Giang nên tôi biết Cái Bè ở đâu. Quốc lộ 4 sau khi đụng Trung Lương thì chia ra làm 2 nhánh. Nhánh phụ đi về tỉnh lỵ Mỹ Tho. Còn con lộ chính là quốc lộ 4 đi về Bắc Mỹ Thuận. Xe chạy một đổi sẽ có con lộ nhỏ bên phải đi Cai Lậy và Mộc Hóa. Chạy một đổi sẽ có một con lộ nằm bên tay trái. Đó là đường đi về quận Cái Bè hay có một cái tên khác là quận Sùng Hiếu dưới thời của Việt Nam Cộng Hoà rồi sau đó đổi lại thành quận Cái Bè. Xuống xe tại ngã ba tôi nhìn tấm bảng bằng xi măng ghi hai chữ Cái Bè với mũi tên chỉ. Phải đợi khá lâu mới có chiếc xe lam từ miệt Trung Lương chạy về rồi quẹo vào và ngừng lại ngay chỗ tôi đứng. Bác tài xế ló đầu ra hỏi.

– Chú em dìa Cái Bè hả?

– Dạ…

– Tôi còn một chỗ trống ở đằng sau…

Thấy tôi mặc đồ thường dân, một người đàn bà trẻ trẻ cười hỏi.

– Em ở đâu dìa dậy?

– Dạ tôi ở Long An. Tôi tới thăm một người bạn ở Cái Bè…

– Bạn em tên gì?

– Dạ Tư… Nguyễn Văn Tư… Tư đi lính với tôi…

Người tài xế ngồi đằng trước đang lái xe vội quay lại.

– Ở Cái Bè có tới hai thằng cũng tên Nguyễn Văn Tư lận. Chú em tìm thằng Tư nào?

Tôi lúng túng. Tư không hề nói với tôi là Cái Bè có tới hai thằng Tư cùng họ và chữ lót.

– Dạ… Tư bạn của tôi người cao lớn và ăn to nói lớn lắm bác… Nó nói thì đầu trên xóm dưới đều nghe…

Mọi người trong xe đều bật cười cái rần. Bác tài xế nói trong tiếng cười.

– Vậy là thằng Tư rộng họng, cháu của bà Bảy Bông. Nhà nó không phải ở tại chợ quận mà ở trong xã Hoà Khánh…


Tôi làm thinh suy nghĩ. Tôi không biết Tư đã có ở nhà chưa. Mặc dù nó viết thư có nói rõ ngày 25 sẽ về nhà. Nhưng đời lính có nhiều bất trắc cũng như trở ngại vào phút chót. Nếu tôi tới mà nó chưa về thì cũng hơi phiền. Dù sao cũng lỡ rồi nên tôi phải tới luôn. Xe dừng tại chợ. Bác tài xế rất tử tế bèn gọi đứa con trai út của bác lấy xe gắn máy chở tôi tới nhà Tư ở Hoà Khánh. Cho thằng bé 200 đồng, đợi nó chạy đi tôi mới lửng thửng đi vào nhà của Tư. Sân trước rộng trồng nhiều cây ăn trái mà tôi nhận ra có cam, xoài, mít và mận. Con chó cò thấy người lạ sủa gâu gâu. Từ trong nhà một đứa con gái bước ra. Nó chỉ vào tuổi mười ba mười bốn thôi. Quần đen, áo bà ba trắng, đi chân trần, mái tóc dài được kẹp lại. Đó là hình ảnh của cô gái mà tôi đoán là em của Tư.

– Dạ… Anh kiếm ai?

Nụ cười phô ra chiếc răng lòi xỉ làm cho khuôn mặt của đứa con gái có chút nhí nhảnh và tinh nghịch.

– Anh kiếm Tư. Anh là bạn của Tư…

Đứa con gái nhìn tôi lom lom. Ánh mắt của cô ta sáng lên vẻ gì thật lạ.

– Anh có phải là anh Chu Ngủ hông?

Hỏi xong con nhỏ bụm miệng cười sằng sặc. Chắc nó cười vì cái tên Chu Ngủ của tôi. Nhìn con nhỏ giây lát tôi cũng đành gượng cười nói.

– Đúng rồi đó. Anh Tư của em về chưa. Mà em tên gì dậy?

– Dạ em tên Ngoan. Anh Tư chưa dìa… Mời anh vào nhà…

Vào trong nhà ngồi trên bộ tràng kỹ nói chuyện giây lát tôi mới biết ra Tư đã viết thư nói cho ba má và mấy cô em gái biết về cuộc hẹn gặp với tôi. Nhờ đó Ngoan mới biết tôi tên là Chu Ngủ.

– Ba má em có nhà không?

Tôi hỏi Ngoan trong lúc uống ly nước lạnh.

– Dạ ba má với chị tư đang làm cỏ ngoài vườn…

– Em mấy tuổi rồi?

– Dạ 14…

– Em có đi học không?

– Dạ có… em học lớp đệ lục…

Tôi tiếp tục cuộc chuyện trò với Ngoan bằng cách hỏi về anh chị em. Tôi muốn biết về cô em gái mà Tư thường hay khen là đẹp nhất xứ, hể gặp mặt là tôi mê liền.

– Em có mấy anh chị?

– Dạ ba… Anh Tư lớn nhất, kế đó chị ba, chị tư rồi tới em…

– Hai chị em có chồng chưa?

– Dạ chị ba mới lấy chồng hồi năm ngoái còn chị tư chưa…

Tôi nghĩ thầm. Ạ… Thế là cô em gái mà Tư hay nói phải là cô em gái thứ tư của nó. Cô ta chắc chưa có chồng nên nó mới năn nỉ tôi về coi mắt em gái nó.

– Chị tư của em mấy tuổi?

– Dạ 18…

– Chỉ đẹp không?

– Xấu ỉn…

Trả lời xong Ngoan bụm miệng cười. Điều đó làm tôi nghĩ con nhỏ nói giỡn.

– Chỉ tên gì?

– Dạ tên Diệp…

– Chị Diệp có đi học như em không?

– Dạ có… Chỉ học giỏi lắm anh…

– Chỉ học lớp mấy?

– Dạ lớp đệ tam… Chỉ học ở ngoài tỉnh lận anh…

– Như vậy là chị Diệp của em học trường Nguyễn Đình Chiểu ở ngoài Mỹ Tho…

– Sao anh biết? Bộ anh học ở trường đó hả?

Tôi lắc đầu cười.

– Không. Anh ở Sài Gòn nên không có học trưởng đó. Nhưng anh có bạn ở Mỹ Tho…

Ngoan tròn hai con mắt mà tròng đen bóng ngời như hai hột nhãn. Giọng của nó như tiếng reo.

– Anh ở Sài Gòn thiệt hả anh? Sài Gòn chắc vui lắm hả anh?

– Ừ vui lắm… Sài Gòn bán đủ thứ. Em có ăn kem chưa?

Ngoan lắc đầu cười rồi chép miệng.

– Dạ chưa… Cà lem cây thì em có ăn còn kem thì chưa bao giờ. Chắc ngon lắm hả anh?

– Ngon… ngon hơn cà lem cây nhiều… Mình ngậm cục kem trong miệng rồi để nó từ từ tan ra… Nó bùi, nó béo, nó ngọt, nó thơm… nó tê tê cái lưỡi của mình…

Thấy Ngoan nuốt nước miếng vì cách diễn tả của mình, tôi cười nói tiếp.

– Mai mốt em lên Sài Gòn anh dẫn em đi ăn kem, khô bò, bún riêu, phở, bún bò Huế, hủ tiếu Nam Vang, mì Cây Nhãn, thạch chè Hiển Khánh…

Tôi mỉm cười khi thấy Ngoan ngơ ngơ ngác ngác vì tên thức ăn lạ hoắc chắc nó chưa bao giờ nghe.

– Anh nhớ nghen… ủa mà em đâu có đi một mình được…

Tôi cười uống ngụm nước lạnh.

– Thì em rủ chị Diệp đi với em…

– Rồi tụi em ở đâu?

– Ở nhà anh chứ ở đâu…

– Nhà anh rộng lắm hả?

Tôi liếc nhanh ngôi nhà ngói ba gian hai chái của ba má Ngoan rồi cười cười.

– Nhỏ hơn nhà em nhưng cũng có chỗ cho chị Diệp và em ở vài bữa… Em chịu đi hông?

– Chịu liền… Anh Tư nói anh là bạn thân nhất của ảnh… Anh tốt với ảnh lắm bởi vậy ảnh mới tính…

Nói tới đó Ngoan ngưng lại rồi bụm miệng nhìn tôi cười. Lờ mờ suy đoán ra Ngoan nói cái gì song tôi chỉ cười mà không hỏi tiếp vì nghĩ thế nào con nhỏ cũng làm tà lanh nói cho tôi biết. Ngay lúc đó có tiếng xe gắn máy ngừng ở ngoài lộ.

– Anh Tư dìa…

Con Ngoan vọt ra cửa trước tôi. Con gái nhà quê có khác. Nó chạy nhanh còn hơn con chó cò nữa. Vừa bước ra sân, tôi thấy Tư, một tay xách cái túi quân trang nặng còn tay kia treo tòn ten con Ngoan. Buông cái túi quân trang, Tư bắt tay tôi thật chặt. Hai đứa nhìn nhau mà chẳng có tiếng nào nói ra. Cuối cùng thả tay cho con Ngoan đứng xuống đất, nó mới cười lên tiếng.

– Mày tới lâu chưa?

– Mới tới…

Vò đầu đứa em gái út, Tư nói với nó.

– Em đem cái túi vào nhà cho anh…

Quay qua tôi, Tư nói nhanh.

– Đi… Tao với mày ra vườn chơi… Gặp con Diệp và ba má tao luôn…

Vườn trái cây của nhà Tư khá rộng. Cây được trồng rất ngay hàng thẳng lối và chắc được chăm sóc cẩn thận nên cành lá xum xê đầy trái xanh. Vừa đi tôi với Tư tía lia chuyện trò. Cũng chỉ là chuyện lính. Tư khoe đã có bạn gái ở tại tỉnh lỵ Cà Mau, làm cô giáo dạy ở trường tiểu học.

– Vậy là mày ngon hơn tao rồi. Chừng nào cưới?

Tư lắc đầu cười.

– Chưa biết… Quen thôi chứ chưa có tình cảm sâu đậm lắm… Mày chịu xuống nhà tao vậy là mày kết con em tao rồi hả…

Tôi bật cười hắc hắc.

– Có thấy mặt mũi con em mày đâu mà kết. Rủi nó mắt lé, mặt rổ sao mậy…

Tư nhìn tôi chăm chăm.

– Giỡn mậy… Mày mà thấy nó là mày mê liền…

– Thiệt hả?

Thấy tôi cười hỏi Tư nói bằng giọng chắc nịch.

– Tao bảo đảm…

Hai đứa nín lặng khi nghe tiếng bước chân và tiếng nói của phụ nữ vang lên mà tôi đoán chắc là má của Tư vì cái giọng già và hơi khàn khàn.

– Hổng biết giờ này thằng Tư nó dìa chưa vậy Diệp?

– Dạ con đoán ảnh dìa rồi má…

– Còn bạn của nó. Thằng đó tên gì dậy con?

– Dạ… Anh Tư nói với con bạn của ảnh tên Chu mà vì anh này hay ngủ nên có tên Chu Ngủ…

Tôi nghe có tiếng cười vang lên sau câu nói. Nghe cái giọng thanh thanh và tiếng cười ấm dịu tôi biết đó là Diệp, cô em gái mà Tư định mai mối cho tôi. Quay sang tôi thấy Tư cũng đang nhìn tôi mỉm cười.

– Mày nghe giọng của nó được hông?

Dù đã khoái cái giọng nói cười của Diệp song khi Tư hỏi thì tôi làm bộ nhún vai ậm ừ không trả lời. Tôi với nó đứng lại chờ ba má và Diệp đi tới.

– Con dìa rồi má…

Tư nói lớn. Má của Tư cười tươi hỏi han khi thấy mặt con trai. Tôi chào ba má Tư và mỉm cười với Diệp. Cô ta một tay cầm cái nón lá đưa lên cao đủ để cho tôi thấy khuôn mặt và nụ cười nở ra trên đôi môi son và câu nói thật nhỏ.

– Chào anh…

Rồi sau đó Diệp lại kéo vành nón lá lên che khuôn mặt. Ba của Tư đi trước, kế đó Tư với má đi kế. Còn tôi với Diệp đi sau cùng. Tôi nhát gái còn Diệp thì ít nói và có vẻ không được tự nhiên lắm nên hai đứa im lặng đi bên nhau.

– Cô Diệp khác hơn Tư kể cho tôi nghe về cô…

Vừa nói tôi vừa quay nhìn mong thấy được khuôn mặt. Nhưng tôi thất vọng vì khuôn mặt của Diệp đã bị che khuất bởi vành nón lá nghiêng nghiêng. Khá lâu Diệp mới lên tiếng. Giọng nói chậm, thanh thoát, dịu dàng hầu như bị át bởi tiếng gió lùa cành lá rì rào khiến tôi chú ý lắm mới nghe rõ được.

– Khác như thế nào hả anh Chu?

– Tôi nghĩ tôi sẽ gặp một cô gái quê nhưng Diệp làm cho tôi có chút ngạc nhiên…

– Anh Chu ngạc nhiên điều gì?

Tôi ngước nhìn lên tàng cây xanh. Nắng lổ chổ trên nền đất sạch không có cỏ dại.

– Cái vẻ nửa quê nửa tỉnh của cô học trò trường Nguyễn Đình Chiểu… mà có khi lại nhiều tỉnh hơn quê…

– Sao anh Chu biết tôi học ở ngoài tỉnh?

– Tôi tới nhà lúc Tư chưa về nên tôi có dịp nói chuyện với Ngoan. Cô ấy đúng là ngoan, tôi không hỏi cũng nói… nhiều khi chưa hỏi cũng nói…

Tôi nghe giọng cười của Diệp vang lên sau vành nón lá. Lúc còn ở quân trường, Tư thường hay khoe với tôi giọng cười của cô em gái tên Diệp ngọt lịm như cam Cái Bè. Hồi đó vì chưa được nghe giọng cười cũng như chưa được ăn cam Cái Bè nên tôi nghi ngờ về lời khoe của Tư. Bây giờ được nghe Diệp cười tôi nghĩ lời Tư khoe rất đúng.

– Cô Diệp… tôi có một yêu cầu?

– Dạ…

– Tôi muốn ăn cam Cái Bè…

Không cần nhìn tôi cũng biết Diệp thắc mắc về câu nói của mình nên cười thong thả giải thích.

– Hồi mới quen nhau Tư thường hay khoe với tôi về cô em gái thứ tư của mình. Tư nói cô có giọng nói cười ngọt lịm như cam Cái Bè. Bây giờ nghe cô cười nói tôi muốn được ăn cam Cái Bè để biết Tư nói có đúng không…

Làm thinh giây lát Diệp mới thỏ thẻ.

– Dạ… Anh Tư có nói với tôi anh Chu ăn nói hay lắm. Anh còn khoe anh viết văn nữa. Bây giờ gặp tôi mới tin lời của anh Tư…

Tôi bật cười vì hiểu cái ẩn ý của Diệp.

– Vậy thì Diệp có chịu cho tôi ăn cam Cái Bè hông. Mà phải là cam của nhà Diệp trồng mới ngon ngọt…

Tôi nghe tiếng cười trong trẻo của Diệp vang trong vành nón lá. Dường như muốn để cho tôi với Diệp tự do trò chuyện nên Tư và ba má đi thật nhanh bỏ chúng tôi một quãng khá xa.

– Mát quá…

Tôi lên tiếng. Diệp cũng thỏ thẻ.

– Dạ… Mùa này tuy nắng nóng nhưng cũng mát nhờ vườn của ba má nằm sát bờ sông với lại cây lá nhiều nên nắng không xuyên qua được. Đi trong vườn mà nhiều khi tôi có cảm tưởng mình đi dưới vòm lá…

– Thấy chưa… Diệp ăn nói còn văn hoa hơn tôi nữa… Đi dưới vòm lá mát rượi mà sao Diệp còn đội nón…

Diệp bật lên tiếng cười ngắn. Cô hiểu được cái ý của tôi muốn cô bỏ nón lá xuống để nhìn mặt. Lát sau Diệp mới chịu lấy nón lá ra song lại làm bộ đưa nón lá lên quạt quạt mấy cái cho mát. Bây giờ tôi mới nhìn thấy rõ ràng cô em gái của Tư. Khuôn mặt trái soan. Mũi hơi cao thẳng với chót mũi hơi nhọn. Cặp chân mày gọn, dài và không rậm đen lắm. Đôi mắt dài to sâu thêm hàng lông mi dài khiến cho ánh mắt nhìn thật thu hút, quyến rũ cũng như có nhiều trầm lắng. Cái miệng nhìn rất cân xứng với khuôn mặt. Nó không rộng lắm để người ta nghĩ ” làm tan hoang cửa nhà ”. Làn môi son thắm đỏ. Lớp da mặt mịn màng và rám nắng. Nhìn chung, Diệp đẹp một cách đằm thắm và dịu dàng song thấp thoáng chút gì tinh nghịch và lãng mạn.

– Anh Chu đi lẹ lên… gần tới nhà rồi…

Diệp nhắc khi thấy tôi đi chậm lại vì muốn dài thời gian đi bên cạnh cô.

– Gần tới nhà thì mình đâu cần phải đi lẹ…

Diệp hứ tiếng nhỏ khi nghe câu nói của tôi.

– Anh Chu đúng là người ở Sài Gòn… nói sao cũng được…

Dứt lời Diệp bước vượt qua mặt tôi. Đi sau tôi có đủ thời giờ nhìn ngắm vẻ đẹp ở phía sau lưng của cô gái Cái Bè. Chiếc quần vải màu đen tuy hơi rộng song cũng cho tôi cảm nhận được bờ mông thon gọn xuôi xuống đôi chân dài. Bàn chân trần trắng dẫm lên nền đất đen tạo thành nét dễ nhìn. Chiếc áo bà ba trắng hơi ngã màu bó gọn thân hình thon gọn của cô gái phải làm lụng nhiều. Mái tóc đen dài được kẹp bằng chiếc kẹp màu ngà ngà xỏa tới lưng. Có lẽ biết tôi đang nhìn ngắm phía sau lưng của mình do đó bước chân của Diệp có vẻ gì luống cuống và dáng điệu cũng không được bình thường. Vì vậy mà cô bước chậm lại để cho tôi bắt kịp. Đi song song tôi cười hỏi.

– Diệp cao mấy thước?

– Dạ Diệp thì ” vai năm tấc rộng lưng mười thước cao ”…

Trả lời xong Diệp bật lên cười còn tôi không nhịn được cũng bật cười lớn khi nghe cô gái dùng Kiều để ví von về chiều cao của mình.

– Tôi thấy Diệp có khiếu làm thơ đó…

Diệp mỉm cười vì lời khen của tôi.

– Dạ… Tôi mà làm thơ gì… thơ con cóc hả… Anh Chu đừng có ngạo tôi…

Hơi mỉm cười tôi lái câu chuyện sang hướng khác.

– Trong các môn học, Diệp thích môn gì nhất?

Hơi ngần ngừ giây lát Diệp mới ngập ngừng.

– Dạ… Việt Văn, Sử Địa và Sinh Ngữ…

– Diệp học ban nào?

– Dạ ban A… Diệp thích ban C mà trường lại không có nên phải chọn ban A…

– Tôi biết Diệp có khiếu về văn thơ…

– Sao anh Chu biết?

Tôi quay qua nhìn thẳng vào mặt Diệp. Cô ta cũng im lặng nhìn tôi với đôi môi hơi mím lại.

– Chuyện Diệp dùng một câu thơ trong Kiều để ví von về chiều cao của mình làm cho tôi nghĩ Diệp có cái mẫn tiệp, cái nhạy cảm với thơ. Thơ là sự tự bộc phát ngôn ngữ từ tâm linh của chúng ta, không như văn phải qua một chặng đường của suy tư và lý luận…

Diệp cười bằng mắt. Cái cười đó biểu lộ sự đồng tình và hiểu được những gì tôi nói.

– Diệp rất vui khi được nói chuyện với anh Chu. Phải nói là Diệp học được từ anh Chu nhiều điều lý thú lắm…

– Tôi ở nhà Diệp ba ngày…

Hiểu ý của tôi, Diệp cười nói nhỏ.

– Dạ… Diệp sẽ cố gắng nói chuyện với anh Chu nhiều hơn… Bây giờ thì Diệp mời anh Chu ăn cam ” Diệp Cái Bè ” để anh Chu so sánh… 

Cái%20Bè%20|%20“Đặc%20sản”%20trái%20cây%20vùng%20đất%20Cái%20BèCái%20Bè%20|%20“Đặc%20sản”%20trái%20cây%20vùng%20đất%20Cái%20Bè
Cái%20Bè%20|%20“Đặc%20sản”%20trái%20cây%20vùng%20đất%20Cái%20Bè

8 giờ tối. Diệp và tôi ngồi trước hàng hiên. Chút ánh trăng thượng tuần soi mờ mờ cảnh vật. Ba má của Tư đã đi ngủ. Phần Tư, như muốn tôi được tự do trò chuyện với em gái của mình nên rủ Ngoan ra chợ chơi. Diệp ăn mặc khác hơn hồi xế chiều lúc đi làm vườn về. Cũng vẫn là áo bà ba trắng và quần vải đen song mới hơn. Thêm vào đó cô lại mang đôi giép cao su. Tôi ngửi được hương thơm toả ra từ mái tóc mới vừa khô của Diệp. Dường như đó là hương của bông bưởi.

– Cám ơn Diệp đã ngồi nói chuyện với tôi…

Diệp cười nhỏ.

– Dạ… Mặc dù có anh Tư bảo kê song ba má cho phép Diệp mới dám ngồi nói chuyện với anh Chu…

Ngập ngừng giây lát Diệp quay nhìn tôi bằng ánh mắt thật dịu dàng.

– Với lại Diệp cũng thích được nói chuyện với anh Chu…

– Diệp thích nói chuyện gì?

– Dạ… chuyện văn chương… chuyện đời lính… chuyện tình của anh Chu…

– Chuyện tình của tôi?

– Dạ… Diệp nghĩ đi lính như anh Chu thì quen biết nhiều người lắm…

– Quen thì nhiều lắm nhưng quen chưa hẳn là thương, là yêu…

– Thì trước lạ sau quen rồi từ quen tới thương mấy hồi…

Diệp cười sau câu nói. Tôi nhận thấy Diệp có giọng cười thật ấm dịu.

– Cũng có người mà mình quen lâu song lại không thương… cũng có người mình mới gặp mà lại thấy gần gụi…

Tôi thấy Diệp quay qua nhìn vào mặt tôi thật lâu song lại không nói gì hết. Trong bóng đêm thâm u của vùng Hoà Khánh tôi chỉ thấy đôi mắt sâu thẳm.

– Lúc còn ở trung tâm huấn luyện, Tư thường hay nói với tôi về cô em gái thứ tư của mình. Nó khen em gái đẹp nhất xứ Cái Bè, mà con gái Cái Bè đẹp nhất miền nam thành ra cô em gái của Tư đẹp nhất miền nam. Đó là cái lý sự cùn của Tư mỗi khi bị tôi nhạo là nó xạo…

Lần này Diệp lại bật lên tràng cười hắc hắc rất lâu.

– Nó nói mày hổng tin thì dìa nhà thấy mặt em gái tao thì mày biết liền. Tao dám cá mày mà gặp nó là mày mê nó liền… mê bỏ ăn bỏ ngủ luôn…

Diệp cười. Tôi có cảm tưởng Diệp sung sướng khi được tôi, dùng những lời của anh mình để khen tặng mình.

– Rồi khi gặp mặt Diệp anh Chu thấy gì?

Tôi quay qua nhìn và thấy Diệp cũng đang nhìn mình. Tia nhìn của cô thật dịu dàng và đằm thắm.

– Tôi thấy Diệp còn có nhiều điểm hơn Tư nói nữa… Diệp dịu dàng, thông minh, hiếu thảo và xinh xắn…

– Anh Tư còn nói gì nữa hả anh Chu?

– Ngày mãn khoá, Tư có nói với tôi là nếu tôi chịu thì nó sẽ xin với ba má gã em gái cho tôi…

Diệp hứ tiếng nhỏ khiến cho tôi phải bật lên tiếng cười.

– Rủi Diệp hổng chịu thì sao?

Tôi cười lặng lẽ với tôi. Dĩ nhiên tôi cũng nghĩ tới điều này. Chính tôi cũng không muốn có sự gượng ép hay gã bán trong hôn nhân. Với tôi hôn nhân phải đi sau tình cảm. Trai gái phải thương yêu nhau trước thì hôn nhân mới bền vững. Khi thương yêu thật tình, người ta mới lo lắng, mới hy sinh, mới tha thứ và mới chịu tựa nương vào nhau để sống đời với nhau.

– Nếu Diệp hổng chịu thì thôi. Đừng ép mình phải thương yêu người khác…

Tôi thấy Diệp cười nhỏ gật đầu như đồng ý về lời tôi nói.

– Anh Chu chịu hông?

– Chịu cái gì?

Diệp hứ tiếng nhỏ vì bị hỏi khó và phải trả lời câu hỏi.

– Thì chịu cái gì anh chịu…

Nói xong Diệp phá ra cười một cách vui vẻ.

– Còn Diệp chịu hông?

– Chịu cái gì?

– Thì chịu cái gì Diệp chịu…

Tới đây thì Diệp và tôi lại phá ra cười.

– Mình cười lớn quá ba má nghe…

Diệp thì thầm. Tôi và Diệp nói lan man đủ chuyện cho tới khi Tư cõng con Ngoan đã ngủ khò trên lưng dìa tới nhà. Có Tư, câu chuyện đổi hướng khác đầy cởi mở và thân tình hơn.

– Em chịu Chu Ngủ hông Diệp?

Diệp làm thinh thật lâu mới lên tiếng.

– Dạ… mà em còn đi học mà anh…

Quay sang nhìn tôi, Diệp cười bằng mắt.

– Mình quen nhau trước nghen anh…

Câu nói của Diệp kết thúc buổi trò chuyện. Hai ngày sau tôi bắt tay từ giã Tư và gia đình nó. Tôi hứa với nó là sẽ cố gắng về Cái Bè hoặc tới Mỹ Tho gặp Diệp thường xuyên hơn.

Về lại đơn vị, tình hình chiến sự có đôi chút sôi động hơn khiến cho tôi không thể làm tròn lời hứa với Tư mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ tới cô em gái của nó. Ba tháng sau tôi nhận được thư của Diệp.

Anh Chu thân,

Mặc dù trước khi đi anh Tư có nhắc nhở cho Diệp là nên thường viết thư thăm hỏi anh nhưng Diệp lại không làm được chuyện đó. Diệp xin lỗi anh. Không viết thư không có nghĩa là Diệp quên anh. Dù chúng ta chỉ gặp nhau có một lần nhưng Diệp rất thích và mến anh. Anh là một người con trai mà Diệp có hân hạnh được chuyện trò nhiều. Từ đó Diệp khám phá ra anh có cá tính mà Diệp rất thích và kính phục. Đó là sự hiểu biết trong chuyện tình cảm của trai gái. Dù sinh ra ở vùng quê Cái Bè nhưng Diệp có được cái may mắn được ba má cho ra tỉnh học hành. Nhờ đó Diệp hấp thụ được cái lối suy nghĩ của thị thành, hiểu được thế nào là tự do suy nghĩ và chọn lựa trong chuyện tình cảm và cách thế sống của mình. Chính ba má của Diệp cũng đã nhiều lần nói bóng gió xa xôi về chuyện gã chồng cho con gái của mình. Diệp kính trọng ý kiến cũng như biết ơn công dưỡng dục của ba má nhưng Diệp lại muốn được dự phần trong quyết định có ảnh hưởng rất nhiều tới mình. Chính anh Tư, người có uy tín và ảnh hưởng rất nhiều tới các quyết định của ba má, đã ủng hộ và bênh vực Diệp khi biết ba má định gã Diệp cho một anh trong xóm từ lúc Diệp mới có 17 tuổi. Diệp nghĩ, anh Tư muốn đưa anh về gặp Diệp là để Diệp có dịp quen biết anh. Dĩ nhiên anh Tư là bạn thân của anh, sau 1 năm ở bên nhau sẽ hiểu biết tính tình của anh nhiều hơn Diệp. Ảnh nói về anh, khen anh lắm, bảo anh rất hợp tính tình và sở thích với Diệp. Tựu chung là ảnh khuyến khích Diệp làm quen với anh. Sau khi trò chuyện với anh nhiều lần, rồi anh đi xa, Diệp có thời giờ suy nghĩ để cuối cùng thấy mình có nhiều cái tương đồng hơn tương phản. Vì thế Diệp mới viết thư cho anh, tiếp tục mối giao hảo mà Diệp nghĩ là anh và Diệp đều muốn. Chuyện tình cảm mai sau và mối lương duyên của chúng ta thì Diệp có nghĩ đến nhưng chưa muốn xảy ra bây giờ. Diệp còn trẻ ( nếu anh nghĩ 18 tuổi là trẻ ), còn muốn được tiếp tục đi học, trau dồi kiến thức của mình để sau này làm cái gì giúp đỡ cho cha mẹ già và cho đất nước. Anh là lính, đang dự phần trong cuộc chiến đấu để cho những người thân yêu trong đó có Diệp được sống an lành trong không khí tự do cho nên Diệp cũng muốn chia xẻ với anh gian nan, cực khổ và nguy hiểm. Diệp, thành thực trong lòng mà nói, được coi anh như là người bạn tình, cảm mến và lo lắng cho anh. Nếu anh bằng lòng như thế thì anh có thể viết thư cho Diệp bất cứ lúc nào, tới gặp Diệp bất cứ lúc nào anh muốn. Diệp vui mừng đón tiếp anh, lắng nghe anh kể chuyện lính của anh cũng như nói cho anh nghe về những gì xảy ra trong đời học sinh của Diệp.

Cuối thư, Diệp xin nhắc anh cố giữ gìn sức khoẻ và có dịp về thăm Diệp ở Cái Bè cũng được mà ở ngoài tỉnh cũng được. Anh Tư nhắc anh hoài khiến cho Diệp hổng thích anh cũng hổng được. Hi vọng khi quen biết nhau nhiều thì Diệp sẽ thích anh nhiều hơn.

Kính thư

Cô Cái Bè của anh


Tôi gấp lá thư lại. Dòng sông Vàm Cỏ Tây lưa thưa vài chiếc ghe có người đứng chèo từ bờ bên này băng ngang con sông rộng và nước chảy khá mạnh vì ảnh hưởng của nước ròng nước lớn khá mạnh. Mở lá thư ra nhìn năm chữ ” Cô Cái Bè của anh “, tôi mỉm cười hình dung ra vóc dáng của Diệp. Buổi sáng tôi từ giã Cái Bè, Tư chở tôi trên chiếc xe đạp cũ, còn Diệp đèo Ngoan bằng chiếc xe đạp mới hơn chạy ra chợ quận. Bốn đứa ngồi ăn xôi, bánh bèo. Tôi với Tư uống cà phê nói chuyện lung tung. Diệp im lặng, thỉnh thoảng cười thôi. Khi tôi ngồi vào lòng chiếc xe lam, Diệp cũng im lặng nhìn tôi cười như thay cho lời chào từ giã. Dù được đi học ở tỉnh thành, dù hấp thụ ít nhiều văn minh của thành thị, Diệp cũng còn sót lại nét đặc thù của một cô gái quê. Đó là sự thành thực, e thẹn, ngây thơ và chất phác. Tôi biết Diệp có rất nhiều điều muốn nói mà chưa nói hết được vì ngại ngùng, mắc cỡ và con nhà gia giáo. Diệp thố lộ là nhờ có sự bảo kê của Tư nên mới được ba má cho phép tự do ngồi nói chuyện với tôi. Đọc lại lần nữa những gì Diệp viết, tôi nhận thấy lời Diệp phân trần rất thích hợp. Chính tôi cũng chưa muốn lập gia đình khi còn trẻ và nhất là với đời lính nhiều bấp bênh không có chỗ ở nhất định và không nói tới chuyện sống chết. Với lại tôi chưa có tình cảm sâu đậm tới độ phải buộc mình với một cô gái khác. Cứ quen nhau, khi nào thích gặp nhau đi chơi rồi đời ai nấy sống như vậy dễ dàng và thoải mái hơn. ” Tại sao mình không đi Mỹ Tho gặp Diệp ”. Tôi là người có tật xấu là muốn cái gì thì phải làm cho được. Sáng thứ sáu, sau khi dặn dò ông thượng sĩ, tôi ngồi đò qua Long An rồi bắt chuyến xe đi Mỹ Tho. 4 giờ chiều. Diệp ngỡ ngàng khi thấy tôi xuất hiện nơi nhà dì năm của Diệp. Lúng túng vì bị dì dượng và mấy đứa em bà con quan sát, Diệp chỉ cười mà không nói được lời chào. Cái may là tôi mặc quân phục, mà dượng năm của Diệp cũng là lính tòng sự ở tiểu khu do đó rất thông cảm về sự có mặt bất ngờ của tôi. Trong bữa ăn tối, tôi trả lời những câu hỏi của dì dượng năm về đời lính cũng như gia thế của mình. Sau khi ăn xong tôi xin phép ông bà mời Diệp đi chơi và hứa sẽ đưa Diệp trở lại nhà đúng 10 giờ đêm.

– Diệp sợ anh ghê…

Đó là câu nói của Diệp khi hai đứa bước ra khỏi cổng.

– Diệp sợ cái gì?

– Tự nhiên là ló cái mặt ra ở nhà người ta. Sao anh Chu không viết thư nói trước…

Tôi cười nhìn Diệp.

– Viết thư thì lâu lắm. Đọc thư của Diệp xong là tôi muốn gặp Diệp liền. Với lại viết thư báo trước rủi Diệp trốn mất tiêu thì biết đâu mà tìm…

Diệp bật lên tiếng cười. Giọng cười của cô thật ấm.

– Diệp hứa với anh Chu là Diệp sẽ không trốn mất tiêu…

– Lấy gì làm tin…

– Cái này nè…

Diệp cong ngón tay mềm mại ra và tôi móc ngón tay chai cứng của mình vào như một ước hẹn.

– Diệp không nghĩ là anh Chu sẽ đi tìm gặp Diệp…

Quay nhìn tôi sau khi nói, Diệp cười bằng mắt.

– Tuy bất ngờ nhưng Diệp vui mừng và sung sướng được gặp anh Chu…

Tôi thở ra một hơi thật dài.

– Khi nhìn thấy Diệp, tôi cảm thấy có cái gì khác lạ trong tâm hồn của tôi. Lần trước khi xa Diệp tôi chỉ hơi buồn. Lần này gặp lại Diệp, trong lòng tôi đã có sự thay đổi…

Diệp bước chậm khi ra tới đường lớn. Chiều bảy giờ nhưng vẫn còn chút nắng trên cây trứng cá. Xe cộ chạy ồn ào.

– Tôi không tán Diệp đâu. Lính như tôi không có thì giờ để làm chuyện đó. Tôi nói thực lòng mình…

Diệp nhìn tôi im lặng song tia nhìn sáng chút hạnh phúc nhỏ nhoi. Thấy Diệp cười, tôi đùa.

– Tôi chưa có thương Diệp đâu… đừng có ham và đừng có mừng vội…

Trề môi ra Diệp nói trong tiếng cười.

– Ai mà mừng… Diệp hổng ham anh thương đâu… anh đừng có mừng vội…

– Đừng có dối lòng mình. Ít nhiều tôi cũng thấy được Diệp mừng hay Diệp ham…

Diệp cười hăng hắc như để khoả lấp câu nói thực của tôi.

– Mình đi đâu hả anh Chu?

– Chỗ nào Diệp thích nhất…

Diệp ngoắc chiếc xích lô đang đậu dưới gốc cây. Cô Cái Bè không được thoải mái lắm khi ngồi chung xe với tôi. Lòng xe hẹp nên dĩ nhiên hai đứa phải ngồi sát nhau. Liếc qua tôi thấy mặt của Diệp đỏ dần lên và hai môi mím chặt lại như cố che đi mắc cỡ cũng như cảm xúc của lần đầu va chạm với người khác phái. Hai đứa nín thinh trong lòng xe và suốt chuyến đi ngắn. Khi xe ngừng trước một cái quán ăn nhỏ nằm dọc theo bờ rạch, Diệp mới thở phào ra. Tôi bước ra trước rồi đưa tay cho Diệp cầm để lấy thăng bằng bước ra. Đưa hai trăm cho bác xích lô, tôi cười thì thầm vào tai Diệp.

– Lần sau kêu xích lô nữa nghen…

Hiểu ý đùa giỡn của tôi, Diệp hứ tiếng nhỏ.

– Hông… lần sau Diệp đi bộ…

Ngừng lại nhìn tôi giây lát Diệp mới nói tiếp.

– Lần đầu tiên Diệp mới ngồi chung xe với người lạ…

còn tiếp....


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/May/2023 lúc 1:20pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/May/2023 lúc 1:17pm

Cô Cái Bè....

– Tôi đâu phải người lạ…

– Anh Chu không phải người lạ song cũng chưa quen nhiều lắm…

Cười cười tôi nhìn Diệp.

– Diệp phải tập ngồi chung cho quen dần đi. Biết đâu mai mốt mình lại ngồi chung xe, rồi đi chung lối, ở chung nhà…

Nghe tới đó Diệp mặt đỏ au nhìn thật tội và thật thương.

– Anh Chu kỳ ghê…

Nói xong Diệp ngoe nguẩy bước lẹ vào trong quán. Cười cười tôi không đi mà đứng im thưởng thức dáng đi uyển chuyển của Cô Cái Bè và ước mong ngay tại phút này, đất nước dứt chiến tranh để tôi có lý do mà mạnh dạn thương yêu và sống đời với người mình thương yêu. Ngồi xuống chiếc bàn nhìn ra dòng kinh nước đục, Diệp cười với tôi.

– Anh Chu uống nước dừa xiêm nghen… Nước dừa ở đây ngon lắm anh…

Tôi thương vô cùng tiếng ” anh ” ngọt ngào chan chứa tình của Diệp.

– Cám ơn Diệp…

– Anh cám ơn cái gì?

Tôi nhận thấy Diệp thay đổi trong cách xưng hô. Không biết đó là sự vô tình hay cố ý, nhưng điều này có lợi cho tôi vì thế tôi cũng nhân dịp đổi cách xưng hô.

– Anh cám ơn Diệp về tiếng ” anh ”… Nó làm anh mừng muốn nhảy xuống kinh Chợ Gạo…

Cười thánh thót khi thấy tôi đưa tay chỉ ra ngoài dòng nước cuồn cuộn chảy, Diệp đùa một câu.

– Diệp thành thực can anh đừng có nhảy. Diệp sẽ mất đi một người bạn tốt tìm hoài bây giờ mới gặp…

– Bạn tốt hay bạn tình. Anh nhớ Diệp có nói mình là bạn tình mà. Đó cũng là lý do chính anh muốn gặp lại Diệp…

– Phải hông… chắc lúc đó Diệp viết lộn hay là cầm lòng không đặng…

Nói xong Diệp nín liền khi thấy đứa bé gái bưng hai ly nước dừa tới. Đón lấy hai ly nước, một đặt trước mặt cho Diệp còn một trước mặt mình, tôi cười cười.

– Một người có ăn học, học tới lớp đệ nhị nghen, thông minh và khôn ngoan như Diệp thì anh chắc không có viết lộn đâu. Còn chuyện Diệp cầm lòng không đặng thì ” văn tức là người ”…

Diệp bật tiếng cười vì lý lẽ của tôi. Cuối cùng, sau khi uống một hớp nhỏ nước dừa Diệp lên tiếng.

– Anh Chu dìa chừng nào đi?

Tôi nhăn mặt.

– Đừng có đánh trống lãng… Anh chưa chịu đi cho tới khi Diệp trả lời câu hỏi của anh…

– Nói chuyện với anh giống như đánh cờ tướng… Anh ví Diệp giống như anh xua xe pháo mã ví ông tướng…

Cười hì hì tôi hỏi.

– Diệp biết đánh cờ tướng hả?

Vênh cái mặt lên Diệp nhìn tôi cười.

– Cỡ như anh Diệp dám chấp con ngựa…

Uống một ngụm nước dừa tôi cười nhẹ lắc đầu. Tôi về đây để làm mối giao tình giữa tôi và Diệp càng thêm thân mật nên không muốn lãng phí giây phút nào.

– Chuyện đó hậu xét… Chút nữa mình ra bờ sông ngắm cảnh rồi sau đó mình đi bộ về nhà. Hay là Diệp muốn ngồi xe…

Mặt của Diệp đỏ lên vì mắc cỡ khi nghe tôi nhắc lại chuyện ngồi chung xe. Khoảng 8 giờ rưởi tối, hai đứa rời quán nước đi bộ ra công viên Lạc Hồng nằm cạnh bờ sông Mỹ Tho. Dưới ánh đèn điện vàng mờ mờ, Cô Cái Bè của tôi đẹp dơn sơ và mộc mạc. Không phấn son, trang điểm, không dầu thơm nước hoa gì hết; Diệp thật bình dị với áo bà ba trắng, quần luạ đen và đôi guốc làm bằng cây. Mái tóc đen dài bay trong gió từ mặt sông bốc lên.

– Gió mát hả anh…

Diệp cười nói. Không có ai ở bên cạnh, Diệp cảm thấy tự nhiên và thân mật với tôi hơn.

– Anh cảm thấy lòng thật bình yên và thanh thản khi ở bên Diệp… Chiến tranh như bỏ rơi anh…

Tôi nói nhỏ. Dường như cảm thông được suy tư của tôi, Diệp nói chậm và buồn.

– Diệp cũng vậy… Khi anh đi rồi Diệp có thời giờ nhớ lại và rất quí những phút giây của chúng ta ở Cái Bè… Diệp cảm thấy gần gụi với anh nhiều hơn. Đó cũng là lý do khiến Diệp viết thư cho anh…


Tôi đưa tay ra nắm lấy bàn tay của Diệp. Không có cử chỉ phản kháng nào mà chỉ có cái xiết tay nhè nhẹ. Trên đường đi bộ về nhà, hai đứa im lìm suy nghĩ và chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau cười. Sáng hôm sau, Diệp đi bộ với tôi ra bến xe để tôi đón xe về Long An. Không lời từ giã cũng như hẹn gặp lại mà Diệp chỉ nói câu: ” Anh ráng giữ gìn sức khỏe. Diệp là một trong nhiều người quan tâm tới anh…”. Ngồi trong lòng chiếc xe chật hẹp tôi nghĩ hoài về một điều: ” Tình cảm giữa tôi với Diệp rồi sẽ đi tới đâu…”. Không có lời giải đáp thỏa đáng. Sau hai lần gặp nhau tôi biết ở bên cạnh cô gái tính tình hồn nhiên và đôn hậu như Diệp, tôi có được sự bình yên để làm dịu bớt nỗi ưu tư thời cuộc của một người lính. Từ đó tôi quyết định tôi sẽ thăm Diệp thường xuyên hơn. Tuy nhiên đời lính bận bịu không cho phép tôi làm chuyện đó. Mãi cho tới tháng 10, nhân chuyến công tác ở tại tỉnh, tôi được phép miệng của cấp chỉ huy về Mỹ Tho ba ngày. Tới nhà dì năm của Diệp tôi mới biết Diệp đã về thăm nhà. Không muốn mất thì giờ tôi bao chiếc xe ôm chở tôi về tận nhà Diệp ở Cái Bè. Nhà vắng không có ai kể cả con chó cò và Ngoan thường hay coi nhà. Đoán nguyên gia đình ra vườn tôi cũng đi ra. Chừng vài chục thước tôi nghe tiếng con Ngoan cười hắc hắc rồi sau đó tiếng Diệp cười nói vang vang hòa lẫn với tiếng lội bì bỏm dưới cái mương rộng.

– Hai chị em làm gì đó?

Diệp với Ngoan trố mắt nhìn khi thấy tôi đứng trên bờ. La tiếng nhỏ Diệp hụp đầu xuống nước rồi lát sau lại trồi lên chỉ ló cái đầu. Con Ngoan cười hắc hắc lặn một hơi thật xa chỗ tôi đứng xong hối hả trèo lên bờ chạy một hơi dìa nhà. Đứng dưới nước Diệp lí nhí.

– Anh dìa hồi nào vậy?

– Mới dìa. Diệp tắm xong chưa?

– Dạ xong rồi…

– Lên bờ đi anh có nhiều chuyện muốn nói với Diệp…

– Anh nhắm mắt lại đi…

– Chi vậy?

– Cho Diệp lên bờ…

Cười hi hì tôi đùa.

– Diệp tắm xong thì cứ việc lên bờ chứ sao bắt anh phải nhắm mắt lại…

– Diệp không muốn anh thấy… Kỳ lắm… Mắc cỡ lắm…

Thấy tôi vẫn chưa chịu nhắm mắt lại mà còn nhìn chăm chăm xuống chỗ mình đứng, Diệp năn nỉ.

– Nghen anh… Nhắm mắt lại đi…

– Quay lưng được hông?

Tôi nghe Diệp thở khì ra.

– Cũng được… mà anh hổng được quay lại à nghen…

Cười hì hì tôi quay lưng. Dù không nhìn tôi cũng đoán Diệp hấp tấp trèo lên bờ.

– Xong chưa…

– Chút nữa…

Tôi nghe có tiếng quần áo kêu sột soạt rồi sau đó Diệp lên tiếng.

– Xong rồi…

Tôi quay lại. Đỏ mặt, Diệp im lặng mím môi chịu đựng cái nhìn soi mói của tôi. Bây giờ tôi mới nhận ra cô nàng đi làm vườn mặc hai lớp áo bà ba, khi tắm sông thì cởi bớt lớp bên ngoài nên mắc cỡ không muốn tôi nhìn thấy.

– Anh đi trước đi…

Cười hì hì tôi bước đi trước. Thỉnh thoảng quay đầu lại tôi thấy Diệp lấy nón lá che ngực mình.

– Sao anh biết Diệp ở đây?

– Ghé nhà dì năm mới biết… Anh được ba ngày phép nên đi thăm em…

Cười hắc hắc Diệp lên lớp tôi bằng câu nói.

– Sao anh hổng về thăm má anh mà lại đi thăm Diệp…

Tôi nói trong tiếng cười.

– Má anh còn sống nhăn nên lúc nào thăm cũng được…

– Thì Diệp cũng sống nhăn chứ có chết đâu…

– Anh mà không đi gặp em thì em vẫn sống nhăn răng ra nhưng anh thì lại chết trong lòng một ít…

Diệp bật cười vui khi nghe tôi kể khổ.

– Anh lính xạo thấy mồ Diệp hổng tin anh đâu…

Tôi cười ha hả.

– Anh Tư của Diệp nói sở dĩ chơi với anh vì ảnh nói anh là người lính ít xạo nhất trong triệu người lính của nước VNCH mình…

Diệp hứ tiếng nhỏ.

– Người vậy mà tui lại thương…

– A… Vậy là Diệp thú nhận Diệp thương anh…

– Diệp nói hồi nào đâu…

– Mới nói đó…

– Diệp xạo…

Diệp cười hắc hắc như chọc tôi.

– Anh có ăn gì chưa?

– Chưa… Ba má Diệp đi đâu rồi?

– Ổng bả đi ăn đám giỗ… Diệp nấu cơm anh ăn nghen…

– Thôi mình ra chợ ăn đi… Rủ con Ngoan đi nữa…

Về tới nhà, thay quần áo xong tôi đạp xe đạp còn Diệp đèo Ngoan ra chợ ăn hủ tiếu rồi mua thêm kẹo bánh đem về nhà. Con Ngoan nằm đọc sách trên võng còn tôi với Diệp ngồi nơi hàng hiên nói chuyện. Không như mọi khi, lần này Diệp ít nói và có vẻ gì ưu tư.

– Diệp có chuyện gì?

Tôi lên tiếng hỏi. Đắn đo chốc lát Diệp mới thố lộ. Ba má Diệp đi ăn đám giỗ ở nhà người nào đó mà họ tính làm xuôi gia. Diệp đã viết thư năn nỉ anh hai của mình về nhà phân giải với ba má vì biết ba má rất nể nang anh hai. Liếc tôi mấy lần xong Diệp mới nhỏ nhẹ thốt.

– Nếu anh vẫn còn nhớ lời anh nói ” Biết đâu mai mốt mình lại ngồi chung xe, rồi đi chung lối, ở chung nhà… ” thì Diệp xin anh hãy thưa với ba má của Diệp để ổng bả bỏ ý định gã Diệp cho người khác…

Nói tới đó Diệp ngưng lại. Tôi thấy ngay sự bối rối, ngượng ngùng và khẩn trương của Diệp. Ở thời buổi này rất khó cho một cô gái nói chuyện yêu đương hoặc vợ chồng trước mặt người con trai. Huống chi Diệp hầu như năn nỉ tôi mở lời cưới cô nàng. Tuy nhiên điều đó khiến tôi cảm động vì biết phải có sự thành thực và tình cảm sâu đậm Diệp mới dám nói ra chuyện khó nói này.

– Anh về đây cũng vì chuyện đó… Anh cũng đã nghĩ tới thế kẹt của Diệp nên tối nay anh sẽ thưa chuyện với ba má của Diệp về chuyện hôn ước của mình… Không có ai giành giật được Cô Cái Bè của anh đâu…

Tôi thấy Diệp ứa nước mắt vì cảm động và sung sướng. Cầm lấy tay tôi, Diệp xiết mạnh.

– Diệp cám ơn anh… Em cám ơn anh…

Cười nhận lãnh lời cám ơn đó, tôi nói thêm để an lòng Diệp.

– Tuy mình có hôn ước với nhau nhưng mình không cần phải hấp tấp cưới nhau. Diệp vẫn tiếp tục học để thi đậu tú tài rồi vào trường sư phạm để đạt mong ước làm cô giáo của Diệp. Lúc còn cắp sách anh mong được làm thầy giáo nhưng ước mong của anh bị tan vỡ vì chiến tranh. Bây giờ anh vui sướng khi có người mà anh thương yêu thực hiện mơ ước của anh. Anh phải cám ơn em mới đúng…

Tôi thấy hai giọt nước mắt ứa ra rồi lăn trên má của Diệp. Trong đôi mắt long lanh chứa đựng một thứ rất hiếm quí: hạnh phúc. Tối hôm đó, chắc đã được Tư dặn dò trước, ba má Diệp vui mừng và chấp thuận liền khi nghe tôi thưa chuyện muốn hỏi Diệp làm vợ đồng thời sẽ về nhà trong dịp tết để nói lại với mẹ tôi.

Trưa ngày chủ nhật, tôi với Diệp rời Cái Bè. Ngừng ở ngã ba Trung Lương, hai đứa bịn rịn chia tay. Dù Diệp không hỏi hay năn nỉ, tôi cũng nói tết sẽ về nhà gặp mẹ tôi rồi sau đó xuống nhà gặp Diệp để báo tin mừng.

 

Trưa ngày 27, tôi tập họp lính để báo cho họ biết lịch trình nghỉ tết của đơn vị. Theo thông lệ, mà thông lệ này tùy thuộc vào lệnh hưu chiến được cả hai phe ngầm chấp thuận, thì phân nửa quân số sẽ được nghỉ tết từ ngày 29, 30 và mồng một. Nửa còn lại sẽ nghỉ ngày mồng 2, 3 và 4. Độc thân lại là cấp chỉ huy nên tôi nhường cho ông thượng sĩ về ăn tết trước với vợ con. Đại đội có quân số trăm rưởi mà đi phép phân nửa nên sự hao hụt thấy rõ trong chuyện canh gác, tuần tiễu và chuyện lo cho lính ăn tết tại chỗ. Đêm 30 rạng ngày mồng 1 Tết, đang ngủ tôi giật mình khi nghe tiếng súng nổ rền bên kia sông hướng tỉnh lỵ Long An rồi sau đó súng nổ rải rác khắp nơi trong quận. Mở máy liên lạc tôi mới biết phe bên kia đã bất thình lình hủy bỏ lệnh hưu chiến để mở cuộc tấn công vào các vị trí thuộc tỉnh Long An. Sau đó lính trong đồn mở máy thu thanh mới biết địch quân đã mở cuộc tổng công kích trên toàn lãnh thổ của nước VNCH. Thủ đô Sài Gòn cũng bị đánh phá dữ dội. Ngày Tết, ngày thiêng liêng của mọi người đã trở thành ngày tang thương. Lịnh cấm trại 100% được ban hành. Dù rất muốn gặp Diệp, tôi cũng không thể làm gì khác hơn là chết dí trong cái đồn chỉ có nửa quân số. Ngày qua ngày, súng trên tay, ăn ngủ với chiếc máy truyền tin; tôi mệt lã vì mất ngủ, lo âu và chờ đợi những gì không biết trước sẽ xảy ra cho mình. Tình hình chiến sự tưởng lắng đọng để tôi có thể đi phép tết muộn thì lại sôi sục thêm với tổng công kích đợt 2 của địch. Tôi hầu như mất liên lạc với bên ngoài. Sài Gòn và Cái Bè chỉ cách nơi tôi ở không quá 50 cây số mà lại xa xôi cách trở vô cùng. Những khi có chút nhàn rổi, nhìn ra dòng sông rộng, nhớ tới Diệp và lời hứa gặp nhau dịp tết tôi chỉ còn biết thì thầm lời xin lỗi.


Sau khi trình diện và nghe lời dặn dò của cấp chỉ huy rồi cầm tờ sự vụ lệnh trong tay tôi mới chắc mình được đi phép 7 ngày. Lệnh cấm trại 100% vẫn còn hiệu lực nên lính như tôi chỉ có cách đi phép bằng sự vụ lệnh. Ngồi tại ngã ba gần cầu Long An, tôi phân vân không biết về Sài Gòn thăm gia đình trước hay đi Cái Bè gặp Diệp trước. Cuối cùng thì cái cân tình cảm của tôi vẫn nghiêng về phía Cái Bè. Mẹ tôi sẽ thông cảm với hành động của tôi như bà đã nhiều lần thông cảm cho cái tật ” mê gái ” của con trai.

Xế chiều tôi bước vào sân trước của nhà Diệp. Con chó cò sủa gâu gâu. Con Ngoan hiện ra. Thấy tôi nó khóc hu hu. Điều đó báo cho tôi có cái gì không bình thường. Vào tới nhà, má của Diệp mếu máo.

– Con Diệp chết rồi con ơi…

Tôi cứng người lại. Đi linh chưa lâu nhưng tôi cũng nhiều lần nghe tin bạn bè chết, chứng kiến những người lính dưới quyền tử trận hay vợ con họ bị chết vì bom đạn. Nhưng tin Diệp chết là cả sự thảng thốt và bàng hoàng. Lính như tôi cầm súng chết đã đành song ở đây lại là cô gái trẻ còn đi học. Diệp là một cô gái vô tội trong chiến tranh. Nhìn nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo và gầy trơ xương của ba của Diệp, tự nhiên tôi cảm thấy mắt mình cay cay rồi nước mắt ứa ra không cầm giữ được. Không phải tôi khóc cho tôi mà tôi khóc cho ba kẻ còn sống trong ngôi nhà quạnh hiu này. Không phải tôi khóc cho tôi mà tôi khóc vì xót thương cho Diệp, người có ước mơ thật bình yên và hèn mọn song lại không thể hiện thực ước mơ của mình. Nhìn bức hình Diệp chụp trên bàn thờ, với khuôn mặt lung linh theo ánh đèn và mùi khói nhang lãng đãng, tôi thở dài thầm lặng. Có gì để nói đâu. Có gì để nói nữa. Em giận anh thất hứa nên bỏ đi vào vùng trời miên viễn để anh ngồi đây xót cuộc tình chưa trọn.


Dù muốn rời xa Cái Bè nhưng thấy cảnh nhà ủ dột của ba má Diệp, tôi không đành lòng nên nấn ná lại gọi như là chia xẻ và xoa dịu niềm thống khổ của ông bà dù trong lòng tôi cũng đau xót không kém. Mất chị gái, con Ngoan ủ rủ và bơ vơ. Tôi không biết làm gì ngoài chuyện đi đứng lanh quanh rồi ra ngồi bên ngôi mộ của Diệp. Cỏ xanh mới lú. Chút hương thừa của nhang đèn và vàng bạc còn sót lại vương vải trên nền đất lạnh. Cái chết của Diệp dẫn tới một điều tôi đã biết song cố tình chối bỏ: sự tàn nhẫn của chiến tranh cũng như kẻ gây ra chiến tranh thật độc ác.Theo lời ba của Diệp kể, rạng ngày mồng 1 tết phe mặt trận đã tấn công quận lỵ Cái Bè song lại không chiếm được đồn. Sau ba ngày chiếm đóng, họ bị lính trong quận phản công đẩy bật ra khỏi vòng đai an ninh của quận. Đường rút lui của họ băng qua Hoà Khánh. Súng nổ khắp nơi. Diệp chết vì lạc đạn. Không biết ai bắn cũng như bên này hay bên kia, phe quốc gia hay phe mặt trận. Ai bắn cũng vậy thôi. Đạn của ai cũng là viên đạn vô tình song tàn nhẫn. Nó giết chết Diệp mà còn gây thương tích và sự tàn tật của nhiều người trong số đó có tôi. Ngồi trên nền mộ, nhìn xuống con rạch đầy nước, tôi như thấy được Diệp đang đứng dưới đó nhìn tôi với ánh mắt buồn thẳm sâu. Tóc Diệp ướt, chảy xuống khuôn mặt ràn rụa nước mà tôi tưởng như những giọt nước mắt khóc thương tôi, người ở lại mang mối u tình nặng chĩu lòng.


Chu Sa Lan

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/May/2023 lúc 10:18am

Triết Lý Củ Khoai 

 

Năm học lớp Đệ Ngũ bậc trung học, tương đương với lớp tám bây giờ, một hôm thằng bạn nhỏ ngồi cạnh tôi thì thầm:

“Tại sao trong tiểu thuyết, mỗi khi có hai người ôm nhau, thì tác giả có đề cập đến hạnh phúc? Hạnh phúc là cái gì mầy có biết không?”.

Tôi liền tay dong tay rụt rè hỏi giáo sư đang dạy môn nghị luận luân lý:

“Thưa thầy, hạnh phúc là cái gì?”.

Hỏi mà run lắm, vì lỡ ra hạnh phúc là chuyện bậy bạ, thì e lãnh phạt đủ .

Thầy liền ra cho cả lớp một bài luận văn, bình giải câu: “May thay, ngoài hạnh phúc ra, đời còn có cái gì khác nữa.” Thầy còn ghi chú thêm câu viết bằng nguyên văn tiếng Pháp để học trò có thể hiểu rõ hơn. Thầy giảng rằng, hạnh phúc như là cái bóng, mà mọi người trên thế gian nầy đều luôn luôn theo đuổi, cố chạy theo nhưng không bao giờ bắt gặp được cả. Bởi vậy, cho nên may mắn quá, cuộc đời nầy còn có nhiều thứ khác nữa, để bù đắp vào cái thiếu thốn hạnh phúc, mà con người như chẵng bao giờ tìm thấy, không bao giờ nắm được.


Chúng tôi hiểu mập mờ rằng, hạnh phúc là cái gì đó xa lắm, là như thứ ảo ảnh, mà con người thế gian ai cũng mơ ước, quay quắt đi tìm, và chẵng bao giờ tìm thấy. Tôi thầm nghĩ, thầy bắt chúng tôi bình luận làm chi cái thứ không có và khó khăn, để thêm tốn giấy mực, tốn thì giờ. Thế là cả đám học trò nhi nhô đầu còn cắt tóc trọc, đau khổ nhăn nhó, nặn óc bình giải về hạnh phúc, cái thứ mà chúng mù mờ, chưa ý thức, chưa hiểu nổi vài ba phần trăm ý nghĩa. Thằng bạn ngồi sau lưng, thụi tôi hai cái đau điếng, để phạt cái tội hỏi thầy câu hỏi cắc cớ, làm cho cả lớp phải nhức đầu. Tôi biết tội, ngồi yên. Tôi cứ yên chí là hạnh phúc không có thật trên đời nầy, và không tội gì uổng công tìm kiếm. Dù sách vở, thơ văn, có nói nhiều đến hạnh phúc, tôi e rằng đó là chuyện mơ mộng ao ước hão huyền, chuyện bánh vẽ của những người chuyên làm thơ văn.


Nhưng khi lớn lên, được đọc kinh Phật, kinh Thánh, và nhiều sách triết lý Âu Á như Khổng, Lảo,Chu… và luôn cả kinh Koran và kinh đạo Bahai nửa, thì tôi tìm cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết Lý Củ Khoai”. Vì nó đơn sơ như củ khoai, rẻ tiền, mộc mạc, và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời nầy. Triết lý đó được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi: “Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp”. Ý nghĩa của câu đó cũ mèm, hình như ai cũng biết, và có nhiều câu nói tương tự. Cái triết lý đơn giản nầy giúp tôi thấy được rằng, hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gủi, bất cứ ai, và bất cứ lúc nào, cũng có thể tìm dược hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng hạnh phúc là cái xa vời, thì vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý khác, hoặc chưa từng nghe một phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác cũng có nói đến, nhưng người đọc vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ nhưng chẳng bao giờ thực hành.


Năm 1975 tôi mang cái “triết lý củ khoai” vào nhà tù cộng sản. Cộng sản gạt rằng, đi học tập chính trị trong vòng một tháng, cho “thông suốt đường lối của cách mạng” rồi về. Nghe dễ quá, nên bà con miền Nam mắc bẫy. Trong tù, ai cũng nôn nóng, chờ “học tập” cho xong, mà về với vợ với con, vì việc nhà còn trăm chuyện lu bu lắm, cả tháng trời ai mà lo cho. Lo nhất là hai ba tuần đã qua rồi, mà chưa thấy bài vở, chưa thấy học tập chi cả. Không lẽ khóa học phải kéo dài thêm vài tuần? Trong tù, ngoài đau khổ vì thiếu tự do, còn bị cái đói hành hạ, cái lạnh cắt da thịt từng đêm và nỗi khó nhọc hàng ngày khi làm lao động tay chân không quen mà tình trạng sức khỏe thì quá suy yếu. Còn phải đau khổ tinh thần vì làm đi làm lại bản tự khai tự thú, phải tự bịa đặt tỗi lỗi gán cho mình, để được cái gọi là “thành tâm cải tạo”. Nhưng nỗi mong chờ làm cho đám tù nhân phờ phạc mau hơn các nguyên nhân khác. Một hôm đi lao động bên ngoài vòng trại, có anh lượm được bản nháp bức thư của một lính cộng sản, trong đó viết cho cha mẹ ngoài Bắc rằng, dạo nầy con canh gác tù rất nhàn nhã, bọn chúng toàn cả cán bộ cao cấp ngụy quyền. Anh tái mặt và đem lá thư về cho vài người bạn xem, có người xem xong phát khóc vì biết mình đang ở tù chứ không phải học tập chi cả.

Phần tôi, sau một tháng chưa được về, tôi lờ mờ hiểu rằng “có cái gì không ổn đây”. Tôi chuẩn bị tinh thần để đón nhận những gì không thể tránh được. Một hôm, sau buổi cơm chiều, tôi chỉ ngọn đồi bên kia nói với người bạn tù:

“Cứ xem như đó là nơi chôn chúng ta khi tóc bạc lìa đời, và xem đây như là nơi chúng ta phải sống trọn đời còn lại. Hãy tìm và tạo những niềm vui nhỏ nhoi nhất mà chúng ta có được ở nơi nầy. Ráng tìm vui, buồn bã cũng vô ích, mà còn có hại cho sức khỏe.”

Nghe thế, người bạn tù của tôi gần khóc vì sợ. Tôi đem triết lý củ khoai ra giảng giải.


Về sau, nhiều người bạn tù khác gai mắt bực tức vì thấy chúng tôi vẫn tỉnh khô, vẫn thản nhiên vui vẻ cười đùa như không phải đang ở tù, như không phải đang cực nhọc, thiếu thốn, đói khát. Mặc dầu sức khỏe của chúng tôi sút kém rất mau, gầy gò, mắt sâu. Chúng tôi cứ xem những bữa ăn thiếu thốn kham khổ kia là cao lương mỹ vị, tận hưởng từng miếng nhai nuốt. Khi chúng tôi bắt được con nhái bén nhỏ, ướp chút muối, nướng cho thơm ngậy, tổ chức một bửa tiệc thưởng trăng, xé con nhái làm ba. Ba anh em tù bí mật ăn trong đêm tối bên hè nhà, nhìn trăng chênh chếch, cười với nhau sung sướng và ngâm nhỏ vài đoạn cổ thi. Ngoài những sinh hoạt công khai trong tù, chúng tôi còn tổ chức được các buổi văn nghệ bỏ túi, cấp tốc. Ba bốn tù nhân hẹn nhau ở đám cỏ cao bên cầu tiêu, một người canh chừng, mấy người kia hát “nhạc cũ” cho nhau nghe đỡ ghiền, sửa lại lời hát các bản nhạc của cộng sản, để châm biếm cười chơi. Anh nào làm được bài thơ đắc ý, đem ngâm nga cho bạn tù chia sẻ, thưởng thức. Những khi đi lao dộng khổ sai như cuốc rẫy, khiêng đất, tôi và anh bạn, hai đứa hai đầu gánh nặng, vừa làm việc vừa đánh cờ tướng không bàn: “Pháo hai bình năm, mã bảy tấn sáu, mã hai tấn ba, xa một tấn một…” Mãi suy nghĩ để chuyển quân trong bàn cờ, chúng tôi quên cả nhọc nhằn, cả hôi hám, cả nắng cháy, và quên luôn thời gian. Buổi lao động nhọc nhằn qua đi lúc nào mà không hay.


Chúng tôi chơi cờ không cao, nhưng chơi mãi rồi thành quen, không cần bàn, mà vẫn quần nhau từ sáng đến khuya. Cả những đêm học tập chính trị chán ngắt, chúng tôi ngồi như chăm chú lắm, không ai biết chúng tôi đang chơi cờ không bàn, đang dàn trận, bắt quân, dứ, chiếu, đang chống đỡ cho khỏi bị chiếu bí. Chúng tôi say sưa với trò chơi, chấp cán bộ cộng sản nói dai, nói dài, nói dở, nói đến khuya. Chúng tôi còn tổ chức các cuộc đua kiến, dấu dế. Bắt dế bỏ vào hộp cho chúng “học tập cải tạo”, cho chúng cắn nhau. Những con ngất ngư sắp chết, chúng tôi thả ra và nói: “Nhờ học tập tốt và thành tâm cải tạo, nhờ ý thức giác ngộ cách mạng cao, và nhờ chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, nay cho về đoàn tụ với gia đình,” Chúng tôi nháy mắt cười với nhau. Chúng tôi tạo những cuộc giải trí nho nhỏ, những buổi văn nghệ bí mật để quên ngày tháng, và thấy lo buồn tan biến đâu cả.


Phương châm của chúng tôi là “không”, không mong ước, không hy vọng gì cả. Không hy vọng thì khỏi thất vọng. Không mong ước thì không bồn chồn nôn nao. Khi thấy vài người bạn tù được thả – theo lối làm kiểng của cộng sản – các anh khác buồn tủi, đau đớn thất vọng cho thân phận của mình, thì chúng tôi vẫn bình tỉnh ngồi đánh cờ, chẳng xôn xao, chẳng bàn tán chi cả. Chúng tôi biết, chưa đến phiên mình, thì có bàn tán xôn xao, đoán mò, suy diễn lạc quan hay bi quan, thì chỉ thêm buồn khổ mà thôi. Gạt hết ra ngoài tai cho yên lòng. Chúng tôi tập bình thản tâm trí, và luôn tìm cơ hội tận hưởng những thứ hạnh phúc nhỏ nhặt nhất mà chúng tôi có thể có được. Những khi có được một chậu nước nhỏ để tắm, chúng tôi cử hành cái lễ tắm, tận hưởng niềm sung sướng khi cảm giác của nước mát chảy trên da thịt, trên mình mẩy, trên tóc tai, và hạnh phúc đến rên lên thành tiếng. Nước tắm trong tù quý như nước cam lồ. Chúng tôi chia cho nhau vài cọng rau hái được, và cảm được sâu xa nỗi hạnh phúc có thêm một miếng ăn trong tù, tận hưởng cái khoái khẩu, an ủi với cái tình bạn chân tình, vì ai cũng đói. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi nghe nhiều tiếng bạn tù thở dài não lòng ngao ngán. Có lẽ họ đang lo cho vợ con bên ngoài, giờ nầy không biết làm sao mà sinh sống, mà tồn tại trong một xã hội đổi thay từ gốc rễ. Tôi biết rõ, ở trong tù lo ra cho bên ngoài, ở bên ngoài lo vào cho trong tù. Không có ích chi, cũng không giải quyết được việc gì. Không lo cho vợ con bên ngoài, không phải là vô tình bạc nghĩa, mà chỉ là không làm cái việc vô ích mà thôi. Để tránh suy nghĩ và lo âu, mỗi khi vào giường, tôi tìm cách giải một bàn cờ thế, hay làm vài ba câu thơ, cũng có khi ôn lại những kỷ niện đẹp đẻ êm đềm trong quá khứ mà thấy lâng lâng, hoặc ôn lại các chuyện tiếu lâm mà cười một mình trong bóng tối. Nhờ thế mà ngủ thiếp đi rất mau.

Chúng tôi tập coi thường những nhọc nhằn, khó khăn và đau dớn thể xác. Chấp nhận định mệnh khắt khe mà không cần than van. Tinh thần chúng tôi vững mạnh, sáng suốt. Chúng tôi cố gắng ý thức và hưởng thụ những hạnh phúc rất nhỏ từng ngày, từng giờ, từng phút, mà ít người cảm nhận. Triết lý củ khoai đã giúp tôi qua được những tháng ngày tù đày không quá nặng nề, khó chịu từ tinh thần đến vật chất.


Khi ra khỏi tù, sống trong chế độ cộng sản, người người cơ cực, thiếu thốn, sầu thảm, tinh thần bị đe dọa, sinh hoạt bị dòm ngó, rình mò. Trong cái dòng xã hội đó, chúng tôi cùng chung thân phận. Thân phận chúng tôi còn bạc bẽo, yếu kém hơn, thứ phó thường dân bên lề “xã hội chủ nghĩa tiên tiến”. Nhưng nhờ triết lý củ khoai, tôi vẫn tìm được hạnh phúc từng ngày. Hạnh phúc của mỗi sáng dậy sớm, pha một chén trà nóng, uống vào lòng ấm áp, ngâm vài câu thơ, vặn đài phát thanh BBC, VOA nghe nho nhỏ. Để biết biến chuyển quốc tế, tin tức quốc nội mà cộng sản cố tình bưng bít, ngăn chặn, che giấu. Hạnh phúc khi trao đổi tin tức quốc tế, quốc nội với bạn bè, bà con và ước đoán tình hình. Hạnh phúc nhất là cởi trần nằm phơi gió hây hây ngoài công trường, có khi ngủ tới hai ba giờ chiều mới thức dậy. Tôi đem cái triết lý thô sơ đó truyền bá cho vài anh em thân thiết, và khen xã hội cộng sản đã đem đến cho con người sự làm biếng vô cùng tận. Làm biếng cũng là một hình thức hạnh phúc nho nhỏ. Thật lạ lùng, nhà nước cho đến cán bộ to nhỏ, miệng ai cũng lớn lối đại ngôn ca ngợi lao động siêng năng cần mẫn, mà tất cả mọi người đều biếng nhác, tà tà. Đúng là cha chung không ai khóc.


Trong xã hội cộng sản, con người không được sống yên ổn, nay chính sách nầy, mai chính sách khác, thay đổi lung tung, chẳng ai hoạch dịnh cho đời sống riêng mình dược cả. Chúng tôi vẫn tìm được nhiều hạnh phúc trong châm ngôn “không ước mơ, không hy vọng”. Phải dập tắt mọi ước mơ, mọi hy vọng để mà sống, nghe thì như vô lý, nhưng thực vậy. Cứ thuận theo giòng khổ đau mà trôi nổi với tinh thần sáng suốt. Không than van, không kể lể, không bi ai. Khi có cơ hội bắt được niềm vui thì cứ tận hưởng hết mình chút hạnh phúc đang có. Chấp nhận nhưng không buông xuôi cho số mệnh. Tìm lối thoát với tinh thần nhẹ nhàng, lạc quan, sáng suốt. Khi leo lên chiếc thuyền nhỏ bé để tìm đường đào thoát ra khỏi vòng tay cộng sản, chúng tôi cứ tự nghĩ như mình đang đi du lịch. Đề phòng tối đa, nhưng không quá nhiều lo âu sợ sệt. Cũng có sợ, nhưng sợ ở một mức độ nhẹ nhàng, đến nỗi đôi lúc còn cảm thấy thản nhiên và sung sướng, vì biết mình đang trên con đường đào thoát. Có gì mà lo? Nếu bị bắt thì ở tù lại, mà ở tù lâu thì tìm cách vượt ngục. Chiếc thuyền nhỏ đi từ bến sông Sài Gòn về miền Tây, ra cửa Ghềnh Hào. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều trạm kiểm soát bắn súng kêu vào xét hỏi giấy tờ. Thấy chúng tôi vui vẻ, bình tĩnh quá, công an cộng sản không ngờ chúng tôi đi vượt biên . Như những kẻ ham chơi, chúng tôi thoát ra được hải phận quốc tế. Thuyền chết máy giữa biển mênh mông nhiều ngày, nhưng sao trong lòng chúng tôi vẫn thấy vui, và còn cảm ơn Trời Phật đã giúp chúng tôi thoát được bàn tay cộng sản độc ác. Có chết cũng vui, thỏa nguyện. Được chết giữa biển trời tự do. Chúng tôi vẫn kể chuyện tiếu lâm, cười đùa và có khi còn cùng nhau ca hát.


Khi may mắn đến được trại tỵ nạn, thiên hạ ai cũng nóng lòng, ăn không yên, ở không yên, mong được đi định cư sớm. Họ cứ đưa ra giả thuyết nầy, giả thuyết kia để tự gây nên nỗi lo lắng cho chính họ và cho bà con chung quanh. Lo lắng về một bệnh dịch có thể phát ra, và phái đoàn Liên Hiệp Quốc sẽ không dám dến phỏng vấn. Lo lắng quốc tế thay đổi chính sách tị nạn. Họ lo để mà lo, không có đường lối và phương sách giải quyết các mối lo âu đó.


Tôi bảo họ: “Hãy xem những ngày tháng nầy như đi cắm trại nghỉ hè dài hạn bên bờ biển, cơm nước có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc nuôi báo cô, chỉ cần cái xà lỏn thôi là đủ lịch sự như mọi người, cứ vui vẻ nhẫn nại chờ ngày đi định cư”. Không ai nghe lời tôi, ngày ngày họ họp nhau bàn tán, uyên bác suy diễn, bày đặt đủ tin đồn dễ gây cho nhau lo âu thêm, rồi đêm về mất ngủ thở dài thở ngắn. Phần tôi, thì lên đồi mắc võng nằm ngủ mơ màng trong gió hiu hiu, thưởng thức tiếng chim ca, nhìn đám mây mỏng lơ lửng bay qua bầu trời xanh, khi nóng thì nhào xuống biển nô giỡn với sóng nước mát rượi, rồi nằm dài trên cát. Chán thì chơi vài ván cờ tướng, nằm nghe nhạc “chùa” vẳng từ các lều lân cận có máy hát. Buổi chiều về chòi, ăn một bụng no, uống ly trà, họp bạn bè, kể chuyện tiếu lâm, vui cười vang rân. Đêm nhóm vài cành thông khô đốt lửa ngồi quanh nhắc chuyện Việt Nam, chuyện cổ tích, chuyện vui lạ trong đời mỗi người. Nhiều người ngứa cổ, ca hát, ngâm thơ, cuộc vui kéo dài mãi đến khuya như một thời thanh bình nào đó ngồi bên lửa trại. Tôi thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng thanh thản. Không bận tâm lo âu sinh kế, thì giờ tự do không ai bó buộc, không có chuyện khẩn cấp phải làm, không ưu tư về tiền bạc, trong túi không có một xu, không bị công an dòm ngó, đe dọa, khủng bố, và không có bổn phận, trách nhiệm gì cả. Thảnh thơi, vui thú. Cuộc đời có lẻ chưa bao giờ có được những ngày tháng thần tiên như vậy. Sẵn đó, mà có mấy ai cảm nhận được?


Một anh bạn trẻ đã nghe lọt tai cái triết lý củ khoai, đã cùng tôi gọi cái đảo tỵ nạn là miền đất thần tiên vô ưu. Nhưng với đa số, thì họ gọi dảo nầy là “Buồn Lo Bi Đát” đọc trại ra từ tên đảo là Pulau Bidong, họ cho là nơi chật chội, thiếu thốn, nóng nực, chờ mong, khổ sở, lo lắng. Tôi khó truyền bá cái triết lý củ khoai ra rộng rãi, vì người nghe sẽ cho tôi là thằng khùng. Không ai tin câu nói của tôi rằng: “Dù có nóng lòng lo âu đến mấy, cũng không thể đi định cư sớm hơn một phút, mà dù tà tà vô lo đến đâu, cũng không chậm đi định cư hơn nửa giờ.” Tôi xem thời gian tại trại tị nạn như nửa năm đi cắm trại, còn sướng hơn là đi cắm trại. Trở về với thiên nhiên, quần xà lỏn, ở trần, đi chân đất, ngủ gốc cây, nằm trên cát biển, không lo âu sinh kế, và trong túi không có một đồng xu, mà cũng chẳng cần tiền bạc làm chi. Tôi chắc chắn trăm phần rằng, tôi là người sung sướng nhất đảo, vì tôi nhìn thấy được điều sung sướng, tôi cảm nhận được cái hạnh phúc to lớn thực sự tôi đang có. Còn đa số thì không thấy, không cảm được.


Tôi đến Mỹ, lang thang đi tìm việc, lội tuyết ngập nửa ống chân, rả cẳng, gió buốt lạnh cắt da thịt. Trong lòng vẫn vui, vẫn sung sướng, vì biết mình là kẻ may mắn, đang sống đời tự do. Đa số bà con bạn bè giờ nầy đang khắc khoải sống trong áp bức, xiềng xích gông cùm của cộng sản. Nhiều bạn bè đã ra đi, nhưng không đến, đã chết giữa biển khơi, chết trong rừng sâu, bị bắt bớ tù đày, hành hạ. Biết bao nhiêu triệu kẻ mong được lội bão tuyết đi tìm việc như tôi mà không được. Tôi may mắn thế nầy, thế thì sao mà lòng không rộn rã niềm vui, ca hát cùng gió, cùng tuyết, cùng đất trời trắng phau phau .


Nhờ xông xáo, chỉ hơn mười ngày sau khi đến Mỹ, tôi tìm được một chân phụ bếp trong tiệm ăn Tàu. Làm việc hơn 15 tiếng mỗi ngày, làm không ngơi nghỉ. Cắt rau, gọt khoai, chặt thịt, xẻ cá, lạng tôm, chùi nồi, rửa bát, lau nhà, liền tay liền chân suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya mịt. Di chuyển, nhảy nhót trong cái khu bếp sực nức mùi dầu ăn, tôi nghĩ có lẽ những cao thủ võ lâm khổ luyện bí kíp chờ ngày xuống núi tranh hùng trong các tiểu thuyết kiếm hiệp, cũng chuyên cần đến thế mà thôi. Trong lòng tôi cũng tràn ngập vui sướng, hạnh phúc, vì mới đến miền đất lạ chưa được bao lâu, mà đã tự lập và sinh sống được. Tôi cũng tự phục mình, suốt đời ngồi văn phòng, mà thích nghi được việc lao động rất dễ dàng. Ông chủ tiệm rất bằng lòng cái vui vẻ, yêu đời, chăm chỉ của tôi. Một khuya trên đường về, tuyết phủ mênh mông, băng qua công viên tối, tôi trượt chân té ngửa nằm dài. Nhìn lên trời thấy trăng vằng vặc sáng với ngàn sao long lanh. Tôi thấy trời đất đẹp quá, cuộc đời đáng yêu vô cùng, và thân thể khoan khoái vì cái xương sống được nằm trong thế nghỉ ngơi sau hơn mười mấy giờ lao động tay chân. Bao nhiêu mệt nhọc trong thân thể như chảy loảng tan biến, chạy thấm vào nền tuyết sau lưng. Tôi nằm yên rất lâu ngắm trăng, và ngâm vài câu cổ thi ca ngợi trăng sao. Giá như có ai thấy được cảnh nầy, chắc họ tưởng tôi điên khùng. Cái lần té nầy, làm tôi bong gân, không đi được, phải nghỉ làm, nhờ đó mà tôi có thì giờ, tìm ra được một công việc trong nghề cũ.


Khi đi làm việc, đôi khi gặp những cấp chỉ huy dốt nát, hoặc đồng sự kém cỏi mà lương cao hơn mình, tôi không lấy đó làm điều bất mãn, thắc mắc như nhiều người khác. Vì công ty thì của tư nhân, họ muốn thuê ai, giỏi dốt, trả lương cao thấp là quyền của họ. Mình chấp nhận làm việc, thì ráng làm tròn bổn phận của mình, làm tốt tối đa. Nếu không bằng lòng với đồng lương, thì cứ tìm nơi khác khá hơn. Vả lại, đất nước của họ, thì ưu tiên chút đỉnh dành cho họ là phải. Mình ganh tị thì hóa ra là kẻ không biết điều. Tổ tiên họ đã đổ xương máu ra khai phá, để bị đâm chết, lột da đầu, bệnh hoạn. Biết bao nhiêu thế hệ đã đóng thuế, xây dựng nên những tiện nghi ngày hôm nay. Mình là kẻ may mắn nhảy xổm vào chia phần. Thì cũng cứ vui mà hưởng cái phần chưa được hoàn toàn bình đẳng đang có.


Qua những cảm nhận, so sánh hàng ngày, tôi dễ dàng tìm được cho mình cái hạnh phúc của tâm hồn yên ổn. Ở sở, tôi gắng tạo cho mình một môi trường vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Để cảm thấy tám giờ trong ngày là thời gian dễ chịu, vui, hạnh phúc, chứ không phải là thời gian “đi cày” khổ nhọc như nhiều người quan niệm. Mình chấp nhận công việc để được lãnh lương, thì dể trả lại, ráng sức làm việc. Tập yêu thích công việc, làm việc với tinh thần vui vẻ, dù công việc có lập đi lập lại nhàm chán, thì cứ nghĩ rằng sướng quá, công việc quen tay, dễ dàng, khỏi phải suy nghĩ nhiều, khỏi phải lo âu sợ làm sai, khỏi phải năn nỉ hỏi ai. Cứ yên tâm mà làm tới. Thế thì không phải sung sướng, hạnh phúc sao? Biến cái văn phòng của sở làm, thành một nơi ấm cúng, vui vẻ, yêu thích, thì đời mình có giá trị, hạnh phúc phong phú hơn nhiều. Những khi gặp khó khăn trắc trở, gặp những thay đổi bất thuận lợi, tôi cứ bình tĩnh chấp nhận chuyện không may, và tự bảo rằng, cuộc đời nầy như một chuỗi kết hợp giửa cái may mắn và xui xẻo, giửa hạnh phúc và đau khổ, giửa thuận lợi và trắc trở. Thì cứ từ từ mà giải quyết, sẵn sàng chấp nhận cái kết quả xấu nhất. Thế là yên tâm, và đôi khi cũng nhờ cái yên tâm, mà công việc được thuận buồm xuôi mái hơn.

Sống ở đất nước lạ, lòng hoài hương làm nhiều người thương nhớ không nguôi, làm đau nhức con tim. Tôi biến tình cảm đó thành một thứ an ủi dịu dàng, một thứ hạnh phúc êm đềm khi nhận được thơ nhà, thơ bạn bè. Những giúp đỡ nho nhỏ cho người cùng khổ bên quê nhà là một thứ an ủi cho những giây phút mệt nhọc khó khăn trong công việc nơi quê người.


Những buổi sáng, khi chuông đồng hồ rền rĩ đánh thức dậy đi làm, nhất là những sáng thứ hai ngày mùa đông rét mướt tối tăm, nhiều người cảm thấy quá mệt nhọc, quá khó chịu, và họ “giả như” hôm nay được nghỉ thì sướng vô cùng. Còn tôi, thì mỗi sáng thức dậy với tràn ngập niềm vui, biết hôm nay ta sống thêm một ngày trong thế giới tự do, hôm nay ta còn công ăn việc làm, chưa thất nghiệp. Thế thì lòng đã phơi phới, sá chi đông giá lạnh lẽo tối tăm. Con đường đi đến sở, nhạc trong xe dịu dàng rải rắc khắp không gian. Có lần tôi bị thất nghiệp, buổi sáng thức dậy, tận sâu thẳm trong lòng tôi vẫn lâng lâng niềm hạnh phúc lạ kỳ, với ý nghĩ rằng, nhờ thất nghiệp mà còn được ngủ nướng, muộn màng, nằm dã dượi, nhìn nắng ấm dịu dàng len qua song, trải lên chiếu giường. Chốc nửa, sẽ nằm đọc truyện, uống trà, nghe nhạc cổ điển êm dịu. Chiều đi câu bên hồ. Tối nay thức khuya xem phim muộn về đêm, khỏi phải sợ ngủ gục trong sở. Việc chi mà quá lo âu về kinh tế gia đình, khéo co dãn nhu cầu theo hoàn cảnh, thì không việc gì phải lo. Vả lại, công việc làm, thì cửa nầy đóng, cửa kia sẽ mở, đâu đến nỗi chết đói mà sợ.


Nhiều người hỏi tôi sao không mua nhà để được trừ thuế mà cứ sống trong nhà thuê chật chội. Tôi trả lời là tôi đang mua hạnh phúc. Hạnh phúc mua được rẻ hơn tiền đóng thuế. Mua cái nhà khi chưa vững chắc về tài chánh là mua cả khối lo lắng lớn lao vào thân, làm mất đi cái an bình quý báu của cuộc sống. Nhiều người, vì mua nhà, sợ mất việc, cho nên hèn cả con người. Khi tôi đủ sức mua nhà mà không phải lo âu vì nợ nần, thì cũng có nhiều bạn bè bà con hỏi, sao dư khả năng để mua những căn nhà lớn hơn, khu sang trọng hơn, mà lại mua căn nhà nhỏ. Tôi nói với họ là tôi không có nhu cầu sang trọng, căn nhà nhỏ cũng đủ cho gia đình tôi trú ngụ yên ấm. Nhà càng lớn, càng phải chăm sóc quét tước, chùi dọn nhiều, sửa chửa nhiều, mất thì giờ hưởng thụ những thú vui khác của cuộc đời. Lại nợ nần nhiều thêm lo lắng, có hại đến hạnh phúc bình thường. Căn nhà nhỏ của chúng tôi, nếu chẳng may cả hai vợ chồng thất nghiệp, cũng chẳng có chút bối rối nào. Có thể, tôi không khôn ngoan trên nhãn quan kinh tế, nhưng tôi chắc chắn không sai lầm chút nào trên quan điểm hạnh phúc nhân sinh. Vợ chồng chúng tôi thường nói với nhau, nếu bây giờ có thêm vài triệu đồng tiền mặt, thì có lẽ đời sống chúng tôi cũng chẳng thay đổi gì hơn. Cũng không ăn được nhiều hơn một miếng, cũng khong ngủ được một lúc hai giường. Thức ăn thì bò, heo, gà, tôm, cua, cá, rau cải, bất cứ thứ nào cũng thừa khả năng mua. Không cần phải giàu lắm mới mua được. Ngồi ăn trong nhà hàng sang trọng đắt tiền, chắc chi ngon miệng hơn ngồi chồm hổm bên góc đường húp riêu.


Vợ tôi thường trách tôi bạn bè quá đông, bạn tốt cũng đông mà bạn xấu cũng đông. Tôi thì thấy không ai hoàn toàn tốt, mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Đã là con người thì có xấu tốt lẫn lộn. Chơi với bạn thì chỉ nên nhìn vào cái tốt bạn có, đừng để ý đến cái xấu. Ngay cả bản thân mình, cũng đầy cả nết hư tật xấu mà chưa chừa được. Chắc chắn, cũng không ít người chê bai sau lưng mình, nhạo báng mình, mà mình không biết đó thôi. Nếu họ có chê trách mình, thì họ cũng đúng phần nào dưới nhãn quan của họ. Bởi vậy, tôi thường để vài giờ tự chế diễu mình, ghi lên giấy những lố lăng, những kỳ cục, những khả ố của mình. Để mình thấy rõ mà tha thứ cho cho mình, tha thứ cho người khác dễ dàng hơn.


Thế mà người gần gũi tôi nhất, thân thiết nhất, là vợ tôi, thường chống báng cái triết lý củ khoai nhiều nhất. Nhưng nàng đâu hiểu, những hạnh phúc bình thường tràn đầy mà gia đình tôi thực sự có được, cũng nhờ cái triết lý củ khoai ấy. Thường thường ít ai thấy và cảm được những hạnh phúc mà họ đang có, chỉ khi mất đi rồi, mới nhận chân ra, và chép miệng tiếc thương. Nhiều khi vợ tôi làm những điều không phải, nói những lời khinh bạc, tôi không nổi giận la hét làm dữ như những người khác. Tôi thầm bảo, nhiều người đàn bà còn tệ hơn vợ mình cả trăm lần, mình phải chấp nhận cái tương đối để vui sống. Và lại, mình có hoàn toàn đâu mà buộc người phối ngẫu của mình phải hoàn toàn. Thế là mọi sự đều qua.


Điều tôi thường hay nghĩ đến là nếu. Nếu tất cả sự thực hôm nay là giấc mộng, sáng mai thức giấc, thấy mình đang còn nằm trong nhà tù cộng sản, thì thật có nhiều điều đáng ân hận và tiếc. Và nếu đời là một giấc mơ, thì sao chúng ta không mơ cho thật đẹp.


Tràm Cà Mau




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/May/2023 lúc 11:49am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/May/2023 lúc 6:08am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22128
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/May/2023 lúc 2:17pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.450 seconds.