Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Jan/2020 lúc 8:35am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Jan/2020 lúc 11:37am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jan/2020 lúc 11:12am

BẾN BỜ TỰ DO Ký ức một đêm vượt biên


Related%20image

Ghe chúng tôi có tất cả là 22 người, gồm 2 phụ nữ, 8 trẻ em từ một đến năm sáu tuổi, và 12 người còn lại là đàn ông thanh niên trong đó có tôi, khởi hành từ Rạch Giá, ven theo vịnh Thái Lan dự định trong 2 hay 3 ngày sẽ băng qua Cam Bốt và cặp bờ biển Thái…nhưng đã đến ngày thứ 10 rồi mà vẫn còn loanh quanh trong vùng vịnh, tứ bề chỉ nước và nước. Ghe đã chết máy, hết dầu, hết nước, hết thức ăn. Chúng tôi thả nổi ghe trôi dạt giữa biển khơi, phó mặc cho số mệnh .
Giữa lúc đang tuyệt vọng nằm chờ chết thì cứu tinh xuất hiện. Một tàu đánh cá Thaí Lan rất lớn tấp lại. Họ tiếp nước uống và thức ăn cứu sống cả bọn. Trên tàu Thái Lan, một thanh niên nói tiếng Anh khá sành sỏi. Hắn tự giới thiệu là sinh viên ở Bang Kok, nhưng đánh cá là nghề truyền thống của gia đình. Cha hắn là thuyền trưởng chiếc tầu đánh cá tối tân và hiện đại này. Đang dịp nghỉ học, hắn về thăm nhà và nhân tiện theo tàu của cha ra biển học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp của gia đình.
Sau khi đã tỉnh táo phục hồi sức khoẻ phần nào, chúng tôi nhờ hắn kéo vào bờ. Hắn lắc đầu từ chối nói không được. Thái Lan lúc đó đang bị làn sóng người tỵ nạn Việt Nam làm điên đầu vì phải cưu mang. Chính quyền Thái ra thông báo nếu gặp tầu vượt biên Việt Nam, vì lý do nhân đạo, có thể cứu, tiếp tế thực phẩm, xăng dầu cho họ …đi tiếp qua Mã Lai, hay Nam Dương Indonesia, những nước khác. Tuyệt đối không được cứu mang vô đất liền Thái. Vi phạm sẽ bị phạt rất nặng. Thuyền trưởng này không dám kéo chúng tôi vô là vì vậy.
Nhưng chúng tôi cứ nằn nì cầu khẩn mãi, thuyền trưởng Thái nghĩ ra một cách :
Tầu đánh cá Thái bằng lòng kéo chúng tôi khoảng một tiếng thì đã thấy xa xa núi non đất Thái trùng điệp ẩn hiện. Chắc khoảng chừng vài cây số nữa là tới, nhưng họ dừng lại. Thuyền trưởng cho thợ máy xuống châm dầu nhớt, sửa chữa cho ghe chúng tôi máy nổ trở lại, xong xuôi ông ta từ giả và nói rằng.:
-Đợi trời gần tối mở máy cho ghe vô gần tới bờ, nhưng đừng tới gần bờ quá, lấy búa đục lủng thuyền cho nước tràn vào chìm luôn, xong rồi mọi người cùng bơi vào bờ. Như vậy thì chính quyền Thái không còn lý do gì đẩy chúng tôi ra khơi vì ghe đã chìm xuống biển rồi. Ông dặn dò kỷ lưỡng cũng đừng vào trong nhiều quá ghe mắc cạn trên bãi không chìm được thì chính quyền Thái sẽ sửa giùm, cho nước uống, lương thực, và…tống chúng tôi ra biển trở lại.

Trời chạng vạng tối chúng tôi băt đầu hành động. Khi đã tới nơi mực nước khoảng chừng chỉ 2 hay 3 mét và thấy đất liền rõ ràng trước mặt, chúng tôi đồng ý đục lủng thuyền cho chìm. Lúc này mới sinh ra vấn đề. Hấu hết dân trên ghe đều là dân Sàigòn vượt biên và…không biết bơi. Thôi thì cũng được, ai không biết bơi thì nắm cái thùng hay miếng ván nào đó cũng có thể cầm cự đạp tới bờ, nhưng còn 6 đứa con nít mới là vấn đề nan giải. Bàn qua tính lại, hai đứa nhỏ nhất được ba nó bỏ trong cái thúng hay cái nồi gì đó. Ông vừa bơi đỡ đần cho bà vợ và đẩy cái nồi có hai đứa con của ông. Bốn đứa kia thì ba đứa có 3 người khác trên ghe biết bơi rành và nhận cõng một đứa trên cổ. Còn đứa cuối cùng vẫn chưa ai nhận. Thiệt tình thì ai cũng đuối lắm rồi. Đây là vấn đề sống chết. Mỗi người tự lo cho mình còn chưa biết số mạng ra sao, làm sao có thể đèo bồng thêm một người nữa ! Con bé này khoảng 2, 3 tuổi. Ba nó đã cõng chị nó 5,6 tuổi và còn thêm bà vợ yếu rủ rượi phải cưu mang nên không thể kham nỗi đứa thứ hai. Ông cầu khẩn từng người một để có ai cõng con ông vô bờ. Cuối cùng thì tôi là thằng ngu, ỷ mình biết bơi nên nhận cõng con bé.
Mọi người đều xuống nước sẵn sàng. Ai có ván cầm ván, ai có thùng nắm thùng... người tài công dùng búa bổ chỉ mấy nhát là tấm ván ở đáy bong ra dễ dàng. Chiếc ghe chìm dần xuống biển.
Giờ phút sống chết là đây. Ghe đã chìm, không còn đường lui, chỉ có giải đất trước mặt. Bến bờ tự do chỉ khoảng một trăm thước nữa mà thôi.
Tôi cõng con bé trên vai nên nó bao giờ cũng ở trên mặt nước. Mới chỉ chục cái khoát tay đã bắt đầu thấm. Mọi người ai cũng bị sóng biển đánh dạt mỗi người một nơi. Mạng ai nấy giữ. Bây giờ có ai đuối sức chìm bên cạnh cũng đành chịu. Không ai có thể cứu được ai. Lúc này trời bắt đầu tối, bên trong bờ đã lấp lánh ánh đèn nên chúng tôi cứ nhắm ánh đèn mà tới. Tự do đang ở trong tầm tay, cố lên… cố lên…
Nhưng tôi đã mệt và hối hận đã nhận cõng con bé này. Lúc nãy tôi tự nhắm sức bơi của mình và nghĩ rằng có thể vào bờ dễ dàng nên không cần miếng ván nào cả. Chỗ này cũng không sâu lắm nếu không bơi được chắc cũng có thể từ từ đi vào. Nhưng tôi đã tính lầm. Tôi tính là tính sức bơi trong mấy cái hồ tắm ở SàiGòn. Còn đây là biển cả mông lung, sóng biển đong đưa khó lường. Mình bơi hai mét, sóng lại kéo mình về… một mét rưởi. Chân thả lỏng thấy chạm đáy nhưng toàn là đá ngầm sắc bén đã cắt chân tôi đau thấu xương. Tôi nghe có tiếng khóc la của ai đó chắc là cũng bị đá cắt chân. Không thể đi được. Phải bơi mà thôi!
Đang cố gắng đạp nước, con bé trên vai tôi không biết tại sao lại buông tay ra không ôm cổ nữa làm tôi hoảng hồn, phải vội vàng dùng một tay vòng ra phía sau giữ nó lại chứ không nó tuột đi mất. Thành ra tôi còn bơi có một tay.
Mới một chút, tôi đã cảm thấy mình không chịu được nữa. Con bé trên vai ốm tong mà sao nặng chình chịch.Mười ngày trên biển đói khát chập chùng không sao, không lẽ thấy bờ tự do trước mắt lại chết lãng xẹt vậy sao?
Nhưng tôi biết nếu cứ như vậy cả tôi lẫn nó sẽ bị sóng cuốn đi mà thôi!
Không được. Tôi đâu có thể chết dễ dàng như vậy? Tôi còn có cha mẹ, anh chị em đang trông ngóng tin tức từng ngày từng giờ…Nếu mà định mệnh cay nghiệt bắt tôi phải buông tay giữ con bé ra thì…cũng đành mà thôi. Tôi đã hết sức rồi. Một mình tôi còn có hy vọng sống còn. Tôi khấn thầm “Trời Phật Ông Bà có linh thiêng xin hãy thông cảm và tha tội cho con. Con đã hết sức rồi. Con phải lo cho mạng sống của con thôi!”
Và giữa lúc tôi sắp sửa buông tay con bé để có thể tự bơi cả hai tay vào bờ thì …không biết có ai phù hộ mà nó bỗng nhiên như mới ngủ dậy, quàng cả hai tay qua cổ tôi ôm cứng .
Tôi mừng quá, như có ai tiếp sức, bỗng nhiên cảm thấy thiệt khoẻ mạnh và đạp nước bơi luôn một mạch vào bờ.


***
Những tháng ngày trong trại tỵ nạn, anh P. ba của bé Khuê tôi cõng hôm đó nhờ có thân nhân ở nước ngoài gởi tiền tiếp tế nên gia đình sống rất thoải mái và đầy đủ. Anh thỉnh thoảng rủ tôi tới nhà ăn nhậu để cám ơn.
Dĩ nhiên anh không biết là đã có lúc chỉ một chút xíu nữa thôi, anh có thể đã mất một đứa con, và ngay người đang cụng ly với anh cũng có thể đã không còn
Chỉ vài tích tắc thôi, mọi sự có thể khác đi một cách khốc liệt không ai ngờ.
Cô bé Khuê năm xưa nay cũng ngoài 40 ... Một nơi nào đó trên xứ Úc Đại Lợi xa xôi kia chắc cô còn nhỏ quá, không có một chút ký ức nào về buổi chiều vượt biển đó cả.
Nhưng tôi thì làm sao quên được!

Truyện Ngắn Thai NC


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Jan/2020 lúc 11:31am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 13/Jan/2020 lúc 8:53am
Mùi Tết



Image%20result%20for%20Mùi%20Tết


(Kính tặng thầy Lê Khắc Dòng, người đã mang vườn Huế đến tận Sydney )
Tôi quyết định ở lại làm thêm không về Tết. Những ngày này tiền công cả trăm đô Úc. Vả lại cuộc điện thoại của mẹ tuần trước báo tin người yêu tôi lấy vợ còn làm tôi đau đớn. Anh ta cưới con gái giám đốc...
Ngày cuối, tôi nghỉ làm, ngồi uống cà phê ở Saigon palace, nhấm nháp nỗi buồn trong xôn xao tiếng Việt quanh mình. Hôm nay bên nhà 29 Tết.
Trước mắt tôi dòng người đầu đen vẫn đổ về chợ Việt tấp nập mua sắm. Những cành mai giả, đào giả trong không khí hầm hập nóng cuối hạ Úc vẫn mang mùa Xuân đến trong tâm thức người Việt.
Tôi gặp ông ở Bankstown, nơi nhiều Việt kiều Úc tập trung làm ăn sinh sống. Bankstown có khu chợ người Việt, tiếng Việt nằm trên tiếng Anh, chính quyền đặt tên “Saigon place”. Saigon place cuối tuần trước Tết sực nức mùi tết Việt bởi người mình đi đâu mang Tết theo đó. Dù không được nghỉ họ vẫn sắm Tết. Chợ tràn ngập bánh chưng, bánh tét, các loại mứt, bao lì xì, câu đối đỏ và hoa. Người ta xúm quanh các quầy cắm hoa nghệ thuật, gói bánh chưng tại chỗ... Mai đào thật hiếm thì mai đào giả. Vạn thọ quê mình không thể thì vạn thọ giống Pháp, hoa to bằng miệng bát vàng rực chợ. Hiếm hoi mới có chậu hoàng mai còi cọc cành thật cắm hoa giả, những bông hoa mùa xuân không hương, hắt thứ nắng tháng chạp quê nhà xa xăm nhung nhớ. Người mua bê nâng niu hãnh diện như mời được chúa Xuân Việt về nhà.
Trông ông khá nhạt bên sắc màu rực rỡ của chợ Tết, bên những chiếc áo tứ thân phất phơ yếm dãi hay những tà áo dài thướt tha nhưng đi qua không thể không dừng. Bộ quần áo bà ba nâu có miếng vá làm điệu. Rồi cả thứ ông bán. Tết người ta bán hoa còn ông bán cỏ. Năm chậu sành lơ thơ nhúm cỏ mọn ghi tên Việt – Thạch Xương Bồ. Tôi đưa điện thoại chụp. Ông khoe:
“ Quí lắm đó. Gốc gác hắn tận đầu nguồn sông Hương, mọc trong khe đá. Đoạn sông có thứ cỏ này nước thơm ngọt lạ thường, uống một ngụm chết liền vì sướng. Không phải ai mua cũng bán.”
“ Rứa răng bác mời cháu?”
“ Vì cô biết dừng trước cỏ. Cỏ quí chứ không phải cỏ độc dân Rơm trồng mô nghe. Nhưng cô phải nhân thành ba chậu cho ba người. Cứ thế chẳng mấy chốc Sydney thơm cỏ Thạch Xương Bồ.”– ông cười khoái trá.
“ Hết thứ yêu lại đi yêu cỏ.” – anh nhăn mặt khi tôi đòi chụp ảnh bên đám cỏ cao quá đầu người.
“Đố vài năm nữa tìm mô ra khoảng hoang sơ hiếm hoi này. Đô thị hóa hết.” – tôi chun mũi cãi.
“ Tìm chi cỏ dại...”
“ Cháu thấy thơm chi mô, bác tưởng thì có!” – Xua hồi tưởng, tôi trêu ông già.
“ Thì... thì... rời nguồn sông Hương, lênh đênh qua bao dâu bể, đến Úc nhân bao nhiêu giống mùi cũng nhạt phai. Chưa tuyệt chủng là may rồi.”
“ Mần răng mà bác đem được qua đây?”
“ Mần răng mà...”- ông già ngẩn ngơ lập lại mấy tiếng tôi vừa thốt – Hì...hì nghe lại tiếng quê mình thiệt đã! Răng mà đem qua được hử? Vì yêu chứ răng! Mươi lăm năm trước tui về thăm Huế, ghé nhà người bạn thấy trên bàn chưng một chậu cỏ. Giống cỏ ấy bạn kể được một người Pháp lấy từ đầu nguồn sông Hương vì nghe kể tên sông bắt nguồn từ cỏ ấy. Nước sông có mùi hương vì chảy qua một lớp cỏ thơm từ đầu nguồn tên Thach Xương Bồ. Tò mò ông ta thuê đò dọc ngược sông Hương tìm và quả thật có một loài cỏ mọc chen ở khe, ghềnh đá có mùi thơm, hoa trắng nở về xuân. Tui xin ít rễ từ bạn đem qua đây, lén lút như giấu bồ nhí. Nhưng nhân giống, rồi xa nguồn, Thạch Xương Bồ không còn thơm lạ lùng như trước nữa. Có hề chi, mùi hương vẫn thoảng trong tâm tưởng... Mà cháu qua chơi hay qua học?”
“ Cháu học sắp xong rồi. Tết đi tìm hơi nhà.”
“ Du học sinh Việt dịp nghỉ này về nhiều.”
“ Năm ngoái cháu về rồi. Mà Tết bên mình dạo này cũng chán, mùi Tết nhạt dần...”
“ Mùi Tết à? ”
“ Dạ. Mạ cháu nói Tết có mùi. Nó tỏa từ bếp ra nhà, ra sân, ra đường. Chính mùi ấy tạo nên hương vị, không khí Tết.”
“ Nè cháu, về nhà tui đi! Cháu đi kiếm hơi nhà. Còn bà nhà tui lại ưa tìm mùi Tết. Tui mời!”- ông hấp háy mắt.
*
Nhà ông ở Lidcombe. Tết Việt vào cuối hạ Úc nên thời tiết oi bức, nắng chói chang. Nhưng bước vào vườn ông, tôi ngỡ như lạc bước vào một khu vườn xanh như ngọc ở Vĩ Dạ.
Lối dẫn vào vườn không trồng cỏ cũng không lát đá. Ông bỏ dép đi chân trần, mặt tí tởn như đứa trẻ già. “Tui thèm đi trên đường đất.”
Tôi cũng tuột giày để cảm nhận sự mát lạnh dịu dàng của mẹ đất thấu tới ruột gan.
“ Đi chân đất sướng thiệt.”- Tôi phụ họa.
“ Rứa mà tụi con tui bảo mất vệ sinh. Bà nó ơi tui mang mùi Tết về cho bà nì! Đi chợ rồi hở?”- ông dáo dác nhìn rồi tự trả lời.
“ Răng bác rinh cái vườn Huế qua Úc được ri?”- tôi reo lên khi thấy cây cỏ quê nhà vượt nghìn trùng quây quần trong mảnh vườn nhỏ tận xứ Úc.
“ Yêu thấu ruột gan là khó mấy mần cũng đặng.”
Hai ông cháu mô tê răng rứa như pháo nổ quên khoảng cách tuổi tác. Ông già vui vì gặp đồng hương có thứ để khoe, để kể.
Ông đưa tay chỉ ngôi nhà trắng trên bãi cỏ có cái cửa thông qua vườn:
“ Bên nớ là nhà con tui. Vợ chồng con cái hắn Úc hóa hết nên tui lập vườn riêng ở cho thoải mái. Nhà hắn chỉ trồng cỏ theo kiểu Úc. Còn những thứ lôm côm khác tui trồng bên tui. Năm trăm mét vuông đất, quây quần đủ loại hoa cỏ quê nhà. Tui gom yêu thương về góc ở.”
“ Rứa bác gái?”.
“ Bà ấy ở bên ni nhưng vẫn qua lại bên nớ chăm cháu, nấu ăn. Chút nữa bà ấy sẽ đãi cô món vả trộn xúc bánh tráng, đặc sản Huế. Cây nhà lá vườn.”- ông đưa tay chỉ cây vả lúc lỉu quả gần đó – “Xứ lạ mà sống ngon ơ, cành chật thì sà xuống đất, chen chúc sinh sôi, trái ăn không ngạ (1) Hết hầm giò heo qua chấm ruốc, trộn xúc bánh tráng. Bà nhà tui làm mấy món đó ngon tuyệt.”
“ Vườn nhà cháu cũng có một cây. Mạ cháu cũng làm các món vả ngon tuyệt. Bác nhắc làm cháu chảy nước miếng.”
“ Rồi tui hái cho bọc. Mà có biết biến chát thành ngon, biến dân dã thành tinh tế không đó? Con gái chừ hư lắm, ăn hàng, ăn tiệm, lười nấu nướng.”
“ Mạ cháu nói lấy chồng mà để bếp lạnh sớm muộn gì nhà cũng tan nên bắt cháu vô bếp. Giữ chồng là phải giữ lửa.”
Vợ ông là một bà già Huế giản dị. Giản dị như việc chúng tôi cùng làm bữa trưa với nhau. Tôi ngắt những traí vả mơn mởn, ruột hồng như môi con gái. Ông hái rau răm. Bà trộn. Thêm bát canh tập tàng từ những thứ rau linh tinh lang tang ông trồng trong vườn, đĩa muối sả làm sẵn trong thẩu là đủ bữa cơm Huế nơi đất khách. Đối với đứa xa nhà, bữa cơm “ hương vị mạ” làm tôi quên làm khách. Ông hể hả nhìn bà xới cơm cho tôi ba lần:
“ Con ni ăn thiệt tình. Rứa tau thích.”- ông đổi xưng hô.
“ Mạ cháu nói cháu con gái mà ăn như thúng lủng khu. Lâu rồi mới được bữa cơm ngon dễ sợ!”
“ Cho mi ăn, nhặt mấy tiếng Huế đặc đủ lời. Ăn nữa đi!”
“ Dạ cháu bưa rồi.”
“ Bạc trốt (2) mới nghe lại tiếng “bưa” nghe bà. Đố bà bưa (3 )là chi?”
“ Là như tui bưa ông rứa đó.”
Ông cười hể hả còn bà kể mấy năm trước còn bày nấu bánh tét nhưng cũng chẳng thấy mùi tết vì tụi con cháu chẳng hợp tác. Mùi Tết đến từ việc cùng gói, cùng nấu, cùng thức, cùng ngủ gật bên bếp lửa đỏ. Nhưng chúng bảo bày thêm phiền, ra hội chợ mua khỏe hơn...- giọng bà buồn buồn.
“ Bên cháu chừ cũng rứa thôi. Mỗi thời mỗi khác. Cứ Tết đến là mạ cháu ca bài hoài niệm. Nào thời mạ, khoảng nửa tháng chạp là bếp dậy mùi hương – hương mứt, hương bánh. Giao thừa là khoảnh khắc thiêng liêng, đêm ngát hương trầm. Mồng một Tết hồi hộp coi ai xông đất. Ba ngày Tết không được quét nhà, mở tủ tránh tiền bạc đi ra. Trong nhà leng keng tiếng đổ cá ngựa, tiếng hô bài tới, tiếng nói cười sum họp... Chừ Tết quần là áo lượt vi vu ra đường ăn hàng ăn quán, ghé hội chợ, xem phim. Giàu đóng cửa đi du lịch tránh Tết. Người ta cũng chẳng mấy ai đến thăm nhau. Thăm rồi đáp lễ thăm lại thêm phiền. Trước Tết tưng bừng mua sắm ở siêu thị. Hết Tết xe rác chở đầy đồ ăn ngán, bánh chưng tét mốc meo... Cháu thấy Tết Việt phí phạm. Chuồng trại vét sạch. Rau củ nhổ sạch. Chết la liệt. Từng giỏ, từng xe, từng đống. Vịt chúc đầu kêu cạp cạp. Tiếng kêu lần cuối sao vang to đến thế! Gà trống trong rọ còn vỗ cánh gáy. Tiếng gáy dài, rợn buồn. Những con heo sữa hồng hào mũm mĩm chưa sống hết đời heo đã bị quay lên mâm. Những trái tim hồng nhỏ xíu. Những lá gan xinh mướt như lá trầu non...”
“ Cháu có trái tim nhậy cảm. Nghe cháu tả tui cũng bưa Tết luôn.”
“ Em nhậy cảm phát mệt. Chúng sinh ra là để giết thịt. Mất con chó mà khóc hu hu làm như mất người thân...”
“ Cháu nhạy cảm quá phải không bác?”
“ Ừ. Rứa là khổ.”
“ Dạ... bởi rứa cháu sợ đi chợ Tết. Mùa Tết gắn liền với mùa chết của cây cỏ, gia súc. Từ 20 tháng chạp đến 30 Tết bao buổi chợ phải đi qua Chết để đến Tết. Đưa ông Táo, cúng tất niên, rước ông bà, đưa ông bà, cúng đầu năm. Một nhà, nghìn nhà, mấy chục triệu nhà. Mỗi nhà vài con gà, năm bảy ký thịt, cá, tôm, mực... Sức tiêu thụ mấy ngày tết thật kinh khủng. Phố chợ, siêu thị đông nghìn nghịt, nóng từng giờ. Cứ nhìn nhau mà mua, chở về nhà chất đầy tủ lạnh ăn không hết đổ. Các nhà khoa học tính để sản xuất 1 kg thịt sẽ thải một lượng khí CO2 bằng khí thải của một xe hơi chạy 155km. Để cung cấp nhu cầu tiêu thụ thịt tết cho cả nước, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính ấy khủng khiếp biết dường nào!”
“ Thời hiện đại con người hối hả theo nhịp điệu phát triển, bỏ quên những giá trị cũ. Những nét văn hóa truyền thống đẹp hao mòn còn lại ăn và chơi...”- ông thở dài.
“ Cháu thấy ở đây còn mùi Tết Việt hơn cả quê nhà vì một số người Việt trong nước Tây hơn cả Tây. Bác tới Cabramatta mà coi. Ngôn ngữ chính là Việt. Khách hàng chính là người Việt. Họ nô nức mua sắm phả ra mùi Tết Việt ở xứ người. Làng văn hóa Việt Nam tái hiện đủ ba miền Bắc Trung Nam. Từ ông già Nam bộ đầu quấn khăn rằn quần ống cao ông thấp, ông già Trung bộ khăn đóng áo dài đến cô Bắc kỳ yếm thắm nón quai thao. Rồi hát chèo, hát sẩm, múa lân, đàn bầu, thầy đồ cho chữ, thầy bói xem vận, gánh hàng rong, gánh hàng hoa...”
“ Thì báo Úc gọi nơi này là Vietnamatta mà! Nhưng đó là kiểu trình diễn, tái hiện. Làm chi có cảnh vác cành mai vàng chạy bộ mang mùa xuân xuống phố. Nhánh mai vàng cắm trong bàn tay lam lũ chai sạn đứng đợi người mua trong giá lạnh Tết đến nao lòng...”
“ Chừ người ta không chơi mai cành mà chơi mai cảnh uốn thế trong chậu bác ạ! Hoa mai lai tạo vài chục cánh là thường. Chỉ tiền là đắt. Mạ cháu kể cắm mai cành có thú riêng. Đó là những cành mai chặt từ cội mai vàng trước ngõ hay bên sườn núi mang hồn cốt mùa Xuân. Giống mai mọc phóng khoáng trong trời đất mang vẻ đẹp tự nhiên, không gò bó. Bông lớn, sắc vàng tươi và thường là 5 cánh. Mua một cành mai về còn thú bói mai. Cành nào nhiều nụ chắc mẫm, xanh như ngọc, nở rộ chiều ba mươi, sáng mồng một là điềm lành. Được vài đóa 6 cánh càng hên. “Chó chạy vào nhà, mai nở 6 cánh.”- mẹ cháu nói rứa đó.”
“ Cháu cũng là đóa mai 6 cánh. Cháu được nuôi lớn bằng tâm hồn đa cảm đầy hoài niệm của mẹ, tra (4) ơi là tra!”- ông trêu.
“ Cháu bị bồ đá vì rứa... Bồ cháu nói cháu về thế kỷ 19 mà sống... thời nào sống thời đó mắc chi mà hoài...” – tôi òa khóc với ông già xa lạ khi chạm vào nỗi đau.
“ Hơn nhau ở chỗ nhìn thấy sự khác biệt mà trân trọng. Thằng nớ coi thường giá trị của cháu thì mắc chi tiếc. Được đá nên mừng mới phải. Thế mạ cháu có nói cháu mu khóc (5) không? ”
“ Dạ có”- tôi chùi nước mắt -“ Nì, tiếng Huế bác hơn cả cháu nữa tề...”
                                       *
Trong cái nóng hừng hực, màu xanh mát trong vườn Huế ở Sydney giúp tôi vơi nỗi đau.
Theo chân ông, tôi xuýt xoa theo cây trái Việt chen nhau trong vườn Úc - thanh long, thanh trà, ổi, xoài, mít, mãng cầu, măng cụt... Cả thứ chua chát như bồ quân, gần như chỉ còn trong hoài niệm cũng có mặt. Ông ngứt (6) cho tôi trái ổi:
“ Hắn là giống ổi sẻ, nhỏ mà ngon. Cắn vào lớp vỏ ngòn ngọt chan chát là trở về thời thơ ấu...”
“ Vườn cháu có một cây mạ cháu không cho chặt dù bây giờ người ta ăn toàn ổi lê, ổi xa lị, ổi nữ hoàng... Mạ cháu nói vị ngọt chát và thơm của nó các giống ổi kia không có. Cầm theo gói muối ớt ăn luôn trên cây mới tuyệt bác à!” Thấy tôi ngẩn người ngắm búp sen xanh bằng ngón chân cái đang ngoi lên trong chậu sành hẹp, ông già tự hào khoe:
“ Giống Tịnh Đế đó nghe. Loài sen thanh tao, thuần khiết, cực quí hiếm. Không biết thì gọi là sen dị biến vì hai đóa nở trên một cuống. Người biết thì gọi đó là sen Tịnh Đế biểu thị điềm lành. Lần về nước vừa rồi, tui gặp may phát hiện trong bó hoa mua dọc đường có đóa sen Tịnh Đế mới lấy hạt giấu trong ví. Nhưng rồi chỉ nở một đóa như cháu thấy đó. Hy vọng sẽ có ngày thấy hai hoa trên một cuống. Sen Tịnh Đế còn gọi là sen phu thê, hiện thân cho tình yêu chung thủy, tựa vào nhau, cùng nở, cùng tàn. 
Bao giờ cho được thành đôi.
 Như sen Tịnh Đế một chồi hai bông.”- ông ngâm nga.
“ Mạ cháu gọi hoa sinh đôi. Khi nào về bên nớ, gặp hoa sinh đôi cháu gửi hạt giống qua đường bưu điện cho bác.”
“ Ai cho mà gửi. Đem giống cây Việt qua Úc cũng như cây vượt biên, bị phát hiện là mệt. Tui đem chui. Nhưng dù không phải sen đôi, tui vẫn quí lắm. Từ khi đem hạt qua gieo, hai năm sau mới nở hoa. Đó là đóa sen Huế đầu tiên ở Sydney.”- ông già nâng niu bằng mắt.
“ Khó rứa mà sao bác tha đủ loại cây Việt qua đây được?”
“ Thì tha dần mỗi lần về. Mỗi giống hai, ba hạt như cam sành, ổi, thanh trà, khế...Có giống đem một hạt như bàng, phượng đỏ...Có lần ngồi uống cà phê trước nhà người bạn thấy cây mưng buông từng chuỗi hoa đỏ đẹp quá, nảy ý đem qua Úc bèn cắt một khúc bằng chiếc đủa, cắt ra nhiều đoạn ngâm trong ly nước, một tuần sau thấy nó có triệu chứng ra rễ. Tui lấy một khúc dưới cùng bọc trong khăn ẩm bỏ trong ví. Tiếc là không sống... Vườn Huế là mảnh đất bao dung cứ chen nhau mà sống nên tui trồng linh tinh lang tang. Hương chanh, hương bưởi, hương nhu cho bà nhà gội đầu. Gừng, sả, ớt trong góc. Mồng tơi, rau ngót ở hàng rào. Rau thơm, lá lốt, rau dền, rau muống... giành nhau từng tấc đất rồi “hợp tấu” trong bát canh rau tập tàng. Cách đây mười mấy năm vườn tui được làm nền để đài truyền hình quốc gia Nhật quay một cảnh cộng đồng Việt sinh hoạt. Họ muốn tìm hiểu sinh hoạt các sắc tộc ngoại quốc ở Úc. Sydney có nhiều sắc tộc sinh sống.”
“ Mạ cháu nghe kể có vườn Huế ở Sydney ngạc nhiên lắm đây! Lần sau bác về, mời bác ghé nhà cháu. Mạ cháu sẽ cho bác thêm giống.”
“ Ừ.“ 
Cố hương là nơi ngươi không thể rời xa.
Cố hương là nơi ngươi không thể không trở về”. (*) Bên cây cỏ thân thuộc, tui thấy gần nhà...”
“ Mình vô bếp đi bác. Cháu nghe mùi mứt gừng thoang thoảng rồi.”
Mùi Tết tỏa ra từ căn bếp sạch đẹp của bà. Trên kệ thẩu nối thẩu- dưa món, dưa kiệu, vả dầm, thịt dầm. Quật vàng óng gối đầu lên nhau. Mứt dừa khoe vẻ đẹp nõn nường trong hình hài cúc trắng...
“ Bà ấy lụi cụi từ hai mươi tết đến chừ. Tui chỉ phụ. Bà ấy bảo không làm không có mùi Tết từ bếp.” – ông tự hào khoe.
“ Bác khiến cháu nhớ mạ cháu quá. Bên nhà mốt mứt đã tàn lụi, món nhắm lên ngôi mà mà mạ cháu vẫn làm mứt. Nhờ đó cháu cũng học được đôi chút. Bác để cháu đảo gừng cho.” - tôi sà xuống bên chảo mứt gần khô.
“ Tết không thể thiếu mứt gừng. Uống chén trà ăn lát mứt gừng trong tiết trời se lạnh thật tuyệt. Dù bên này Tết Việt nóng chảy mỡ, bác vẫn làm để ra vườn nhâm nhi.”.
“ Mạ cháu còn tìm mua cho được gừng Tuần trồng ở thượng nguồn sông Hương nữa kìa. Gừng Tuần củ nhỏ, lép, khó xắt nhưng mùi thơm, vị cay rất tuyệt.. Cháu thích nhất là ăn mứt vét. Tinh túy đọng đáy thau.”
Tôi giúp bà đảo gừng, trải gừng ra nia rồi cạo mứt vét. Chúng tôi, hai già, một trẻ uống trà nóng, nhấm nháp vụn gừng trong vườn. Ngồi trong nắng, dưới bóng cây nhãn mà thấy trong tâm thức mình mưa bụi giăng giăng, lòng se se lạnh. Bên nhà hôm nay 29 Tết.
Ông phá im lặng:
“ Mai cháu có muốn đến đón giao thừa với bác không?”
“ Để hai bác sum họp cùng con cháu. Khoảnh khắc thiêng liêng ấy là của gia đình. Mai sinh viên tụi cháu tham gia Tết cộng đồng do đại sứ quán Việt tổ chức. Cháu vẫn còn ham chơi lắm. Sau đó về... chợ hoa tàn.”- tôi hạ giọng.
“ Chợ hoa tàn ở mô?”- ông ngạc nhiên.
“ Dạ bên mình. Đó là lúc cận giao thừa, người nghèo đi mua hoa vét. Hoa loại ba loại bốn. Người loại năm, loại sáu. Giá nào cũng bán. Bán đổ bán tháo để về nhà kịp đón năm mới. Người mua hể hả vì chỉ cần mấy chục bạc là rước xuân về trước ngõ. Người bán nhẹ lòng vì không mang tội quẳng hoa đem chậu về. Ngắm cảnh ấy thấy bùi ngùi lắm.”
Tôi từ biệt họ với quà Tết trong tay – gói mứt, thẩu vả dầm, chậu Thạch Xương Bồ. Xa nguồn, hương cỏ đã phai. Tết, mỗi thời mỗi khác nhưng hề chi, có mùi hương, giá trị vẫn còn trong tâm tưởng.
Xuống tàu, tôi thả nỗi buồn đã cũ xuống sân ga. Về khoe với mạ một ngày ấm áp hơi nhà.
Quế Hương
Chú thích:
Những tiếng Huế sau đây có nghĩa là
(1) ăn không ngạ : ăn không hết được
(2) bưa : ngán
(3) trốt: đầu
(4) tra: già
(5) mu khóc: mau khóc
(6) ngứt : ngắt

(*) Thơ Hàn quốc - Nguyễn Quang Thiều dịch


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 13/Jan/2020 lúc 8:59am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2020 lúc 9:12am

HAI BÊN SÔNG

Thái Lãng

co%20gai%20thuo%20xuaTôi hẹn Thư bốn giờ ở bến đò sang bên kia sông, bốn giờ hơn Thư lại. Bầu trời lúc đó cao và trong, không có nắng, gió thổi mạnh. Thư đứng ở bên kia đường đợi cho những xe đi qua. Quần áo và tóc nàng thổi lật ra sau. Trông Thư như đang đứng trên một cái bè ngược gió. Xe vẫn còn đông, Thư vẫn còn đứng đấy, những người đàn ông ngồi trên xe khi qua mặt nàng đều quay đầu lại. Một lúc sau Thư sang, dáng đi còn trẻ. Tôi nghĩ, Thư còn trẻ lắm.

– Anh đợi lâu chưa? Em có thể đến đúng giờ hay sớm hơn nhưng em vẫn muốn đến thật trễ để anh đợi.

– …….

– Có phải lúc chờ đợi như thế anh đã nghĩ trọn vẹn đến em không?

– ……..

Tôi lấy thuốc ra hút, Thư không nói gì thêm. Nàng đứng cạnh tôi, nắm một tay tôi, chúng tôi nhìn thẳng sang bên kia sông đợi chuyến phà. Nước sông đục và bẩn hình như đang rút đi. Những chiếc thuyền nan và những ngọn sóng nhỏ, những tàu chiến và những con chim, tất cả xa lạ nhau và tất cả làm tôi không thích.

Phà đến, tôi đỡ một tay để Thư bước lên, rồi dắt nàng ra đứng ở lan can phía cuối. Thư tỳ tay nhìn ra ngoài sông. Nàng bắt đầu nói đến những kỷ niệm có thuyền bè sông nước mà nàng cho là đẹp. Tôi nghe lơ đãng và không trả lời. Em đâu phải chạy loạn, em đâu phải tản cư, còn tôi, mới ba tuổi đã phải bám chặt lấy đầu gối mẹ ngồi chen chúc trên một cái bè, nước chảy cuộn như thác đổ và chúng nó ở trên đê bắn xuống như điên. Những tràng liên thanh, những tiếng rú, mẹ tôi run cầm cập còn tôi khóc thét lên. Em đâu biết súng “tắc-boọp” là gì, em hơn tuổi tôi nhưng em còn trẻ lắm. Những tiếng súng đâu có đến tai em hồi nhỏ, những kỳ thi đâu có dằn vặt em khi lớn lên và bây giờ, cuộc sống vẫn chiều đãi em. Còn tôi, chiến tranh thi cử học hành và cuộc sống lúc nào cũng vây lấy tôi, phủ kín tôi, bóp nghẹt tôi… làm tôi khổ. Thư nắm chặt tay tôi lắc nhẹ.
– Nghĩ gì thế anh?

Tôi hất đầu ra trước, nàng nhìn theo về phía người đàn ông đang há mồm nghe vọng cổ từ cái radio cắp ở tay. Thư nhìn thật lâu rồi không hiểu sao nàng cười thành tiếng. Người đàn ông cũng quay lại phía chúng tôi toác miệng cười theo, rồi Thư cười to hơn nữa. Tôi không thấy gì lạ, mồm hắn méo mó đầy răng vàng thế thôi. Họ sung sướng nên dễ cười thật.

Phà ghé bến, tôi dắt Thư bước lên cầu, những người phu xe chạy đến mời chào rối rít. Thư mở ví lấy tiền cho ăn mày, tôi không nói gì. Ngày trước tôi ghét kẻ ăn xin và ghét luôn cả những người cho tiền họ, tôi theo sách vở để nói cho ăn mày là sỉ nhục họ. Sỉ nhục cái gì? Bây giờ tôi nghĩ khác. Họ nghèo khổ quá, tàn tật quá, cuộc sống lại xô đẩy và thờ ơ với họ như thế, biết làm sao?

Chúng tôi đi thẳng vào con đường lớn. Khung cảnh này, những căn nhà lá xiêu vẹo, những cây dừa ngả nghiêng, những đứa trẻ rách rưới, những chiếc xe lôi và những bãi cứt trâu cùng những cặp mắt giương to làm tôi thấy mình bị lạc. Quần áo và khuôn mặt chúng tôi không hòa được vào đây. Chúng tôi cứ đi, đi mãi qua một cổng lớn có chòi canh và người lính áo đen ôm súng gác. Cánh cổng mở rộng. Tôi đưa Thư vào con đường mòn nhỏ hẹp, hai bên là ruộng. Gió thổi mạnh, mùi lúa non đưa lên, tất cả đều êm ả.

Thư ngồi xuống bãi cỏ nhìn ra ngoài sông. Tôi lấy thuốc hút và đi thật chậm xung quanh nàng. Những cây xấu hổ nằm rạp dưới chân, có tiếng Thư gọi lướt đi trong gió.

– Lại đây, lại đây với em.

Tôi chống một tay nằm xuống cạnh Thư. Gió thổi từ phía nàng sang tôi, mùi thơm da thịt lẫn vào cỏ làm tôi ngây ngất. Thư nói một câu gì thật nhỏ. Tôi nhìn sát mặt nàng, môi hở ra và răng sáng lấp lánh ở trong, gió thổi tóc bay dạt một bên. Tự nhiên tôi thấy yêu khuôn mặt đó. Tôi ngồi dậy gỡ nhẹ tóc nàng, tôi ôm chặt đầu nàng. Chúng tôi hôn nhau. Thư choàng tay qua vai tôi, những ngón mềm vuốt nhẹ vào gáy vào tóc vào lưng. Tất cả nhột nhạt thôi thúc. Sức nặng tôi đổ dồn về phía trước, thân thể nàng ngả theo, toàn thân tôi trườn mãi trên hơi thở dồn dập của Thư. Rồi Thư ghì chặt lấy tôi, cả hai rùng mình. Tôi thấy môi nàng chợt lạnh và dọc theo lưng tôi cũng lạnh toát rồi tan dần. Tôi rời khỏi môi Thư, úp mặt xuống tóc nàng. Thư vẫn nằm yên, hình như mắt nàng mở lớn nhưng không nhìn gì cả. Thư nói:

– Như vừa ngủ dậy, phải không anh?

– Ừ, như vừa ngủ dậy.

Tôi quay lại chống một tay qua người Thư, mắt nàng vẫn mở lớn nhưng không nhìn gì cả. Trời không nắng, mây xuống thấp dần, gió thổi mạnh hơn, khuôn mặt Thư bằng phẳng yên lặng. Tôi nhìn thật kỹ vào môi vào mắt, vào những chuyển động lên xuống trên ngực nàng. Hình như Thư nói một câu gì thật nhỏ và hình như đã có hạt mưa. Tôi cúi vội xuống, chúng tôi lại hôn nhau, hôn nhau mãi trong cơn mưa.

Tôi dắt Thư chạy theo bờ ruộng, nhảy qua mấy cái lạch nhỏ để vào một ngôi nhà chòi chất đầy rơm. Hơi ẩm mốc xông lên hăng hắc. Tôi lấy thuốc hút và Thư lấy lược chải đầu. Tôi quay sang thổi khói thuốc vào đầy tóc nàng. Thư lắc đầu cười. Mưa vẫn lớn, trời tối dần. Một ông lão vác cuốc chạy vào chòi, theo sau là đứa nhỏ. Họ rét run. Ðứa bé hai tay ôm ngực đứng chúi vào đống rơm như một con gà ướt. Ông lão vứt cuốc xuống chân moi thuốc ra cuốn. Thuốc ướt, giấy ẩm, tay run cuốn không được. Tôi không còn điếu nào để biếu ông ta. Tôi nhìn qua vai Thư để thấy hai bàn tay run cầm cập, những ngón tay khô cằn vụng dại, chiếc quần cụt sũng nước, hai cẳng chân gầy, hai đầu gối nhăn nheo đập vào nhau. Tôi thấy họ khổ, tôi thấy cuộc sống này khổ, sắp hết cuộc đời còn phải vác cuốc ra đồng, vẫn phải lội ruộng vẫn phải dầm mưa. Những công lao ông đã làm từ hồi còn trẻ còn khỏe bây giờ để đâu? Hay suốt mấy chục năm qua cuộc sống kéo dài, ngày nào làm đủ ăn ngày đó, không bao giờ thừa để bây giờ vẫn thế. Những buổi họp, những hoan hô, những đả đảo có giúp được gì cho cuộc sống này không? Tôi không biết, thật tôi không biết. Và tôi nghĩ lại những ngày học qua, những triết thuyết, những chứng minh giải thích, những con số, những danh từ thật quả chẳng ăn nhằm gì đến cuộc sống này, hay có chăng, còn xa lắm. Bao nhiêu năm nay không thay đổi và có thể còn tiếp tục kéo dài mãi nữa. Ðói và khổ. Mỗi người chỉ đủ lo cho mình, lo suốt đời. Tôi cũng thế, thật nản. Ông lão đã cuốn xong điếu thuốc từ lúc nào, hơi khói ấm và khét tạt sang phía chúng tôi. Tôi thấy Thư thở dài.

Trời tối hẳn, mưa dứt, chúng tôi trở về con đường cũ, không ai nói với ai. Hết cánh đồng, qua cổng lớn. Những căn nhà lá hai bên lại hiện ra với ánh đèn dầu yếu ớt. Cuộc sống nhuộm toàn đen nham nhở. Buổi tối hết phà, tôi thuê một thuyền máy sang sông. Bên kia đèn sáng quá, những ống néon xanh đỏ lập lòe trên nóc nhà cao, những mui xe bóng loáng lướt đều. Lên đến bến tôi chợt nghe tiếng hát rú lên cuồng dại cùng tiếng nhạc trong phòng trà góc bên kia. Tôi vẫy một taxi mở cửa cho Thư vào. Nàng có vẻ buồn. Xe chạy tới nhưng ngừng lại ngay. Thư nói vọng ra:

– Vào đây ngồi với em một quãng.

Tôi vào, xe chạy qua khu phố đông. Tôi thấy nhiều quán rượu có tiếng nhạc ồn ào, có tiếng cười tiếng nói ngoại quốc và tiếng rú con gái Việt Nam.

– Tại sao anh chẳng nói gì với em?

Tôi cũng thấy nhiều bích chương biểu ngữ hoan hô đả đảo, những bích chương dán bên tường quán rượu, và biểu ngữ giăng ngang đường xe đi!

– Suốt buổi đi chơi anh chỉ nói với em vài tiếng. Em không chịu nổi đâu, chiều hôm nay chẳng thấy vui gì cả.

Tôi quàng tay qua vai Thư, đếm nhẩm những biểu ngữ trên đầu.

– Tại sao thế anh? Tại sao anh chẳng nói, anh đổi khác làm em sợ.

– Có gì đâu, có gì để nói nữa đâu. Tại sao em thấy anh đổi khác?

Tôi quay sang hôn nhẹ môi nàng và bảo người tài xế ngừng, Thư như muốn nói điều gì nhưng không kịp nữa. Tôi mở cửa xe rồi xuống thật nhanh

Buổi tối vừa tạnh mưa, phố đông và sạch. Tôi ra bến đợi xe buýt về nhà. Như thế là hết một buổi chiều rồi đấy, còn buổi tối thì sao? Ðã bao lâu nay, tôi sống dật dờ trống loãng. Tôi không thể học nhưng cũng không thể lao đầu vào bất cứ việc gì. Tôi chỉ có được những ý nghĩ suông, đúng thế, trong bao năm học hành chỉ cho tôi những ý nghĩ suông. Và rồi những ngày lại cứ qua đi trống loãng. Xe buýt tới, tôi định lên nhưng đã thấy Tiến bước xuống gọi tôi.

Chúng tôi lại vào một quán nước có nhạc. Bóng tối và nhạc twist buồn thê thảm. Tôi gọi bia và muốn uống thật say.

– Tao về phép được tám ngày, còn mày thì sao?

– Vẫn thế.

– Phải đi xa mới thấy nhớ thành phố này.

– . . . . . . . . . . . .

– Trông mày xìu quá, chán bỏ mẹ.

– Tao nản.

– Thi trượt à?

– Không.

– Trường Luật độ này ra sao?

– Cũng thế!

– Có đi lính mới nhớ thời rong chơi.

– Tao rong chơi quá nên ngán quá rồi.

– Thì chui vào lính.

– Chui vào lính thì quá dễ rồi, nhưng tao muốn một cái gì khác.

– Thì ra ngoài kia.

– Chỉ có hai cách đó thôi sao?

– Ðúng rồi, chỉ có hai cách đó.

– Tao không tin.

– Mày không tin nên mày cứ xìu mãi, chán bỏ mẹ. Với tao thì giản dị lắm, tao dễ tin những cái gì có thật, mà hiện thời chiến tranh có thật, nên chỉ có một cách là chui vào đấy, hoặc cho bên này hay bên kia, còn ngoài ra vô ích cả.

– Thôi uống đi, mày nói nhiều bỏ mẹ.

– Còn mày trông xìu bỏ mẹ.

Vỏ chai đã xếp đầy bàn. Chất đắng thấm vào người, hơi nóng bốc lên. Một lúc sau tôi thấy đầu nặng, những mạch máu hai bên thái dương căng lên giựt mạnh. Hình như Tiến lại nói về những chuyến trực thăng, những đụng độ và đàn bà. Tôi không còn nghe rõ được gì nữa, đầu tôi nặng như muốn rơi xuống mặt bàn, tôi cố giữ nhưng không được. Nó cứ rơi. Tôi thấy Tiến kéo tôi dậy, lôi tôi đi. Rồi những giòng nước lạnh dội xuống đầu xuống gáy xuống lưng. Tiến lại lôi tôi ra và có tiếng hắn gọi nước chanh. Tôi dựa lưng vào thành ghế duỗi thẳng tay chân. Mệt quá, mọi vật lơ mơ quá. Tôi ngủ thiếp đi. Rồi Tiến lại lay người tôi dậy, hắn cười bằng một giọng khàn. Tôi thấy tỉnh dần.

– Cậu xìu quá, chán bỏ mẹ.

Tôi theo Tiến ra khỏi quán, hắn gọi một xích lô và nhét tôi vào đấy. Chiếc xe lăn đi mệt nhọc. Tôi đã tỉnh hẳn rồi. Ông già đạp xe và ông lão trú mưa cũng chẳng khác gì nhau. Tuổi gầy sức yếu, thân thể còm mà kế sinh nhai chỉ có hai bàn chân với bắp thịt nhão. Tôi không thể nhìn ông ta lâu, không thể nghe mãi ông phàn nàn. Cho tôi xuống, xuống ngay tại đây. Tôi phải trốn, trốn vào đâu cho quên cảnh nghèo, quên đói khổ ở xung quanh.

Tôi rẽ sang một con đường vắng. Những bóng cây đổ xuống mặt đường như những lỗ huyệt. Tôi đi lần vào từng lỗ huyệt một. Tôi muốn nghĩ đến Thư, đến một cuốn phim, hay đến bất cứ truyện nào nhưng đừng có cảnh nghèo đừng có tiếng súng đừng có bom nổ đừng có tản cư. Tôi cố gắng nhưng không được, chỉ có Thư nhòa vào ông lão trú mưa, Tiến hiện ra trong tiếng súng, tiếng mìn và Mẹ tôi với cái bè vượt nước. Rồi xe hơi, đèn dầu, cứt trâu, biểu ngữ, tiếng hát, tiếng cười, tiếng máy trực thăng, những cái hôn, những cái chết. Tất cả hiện ra lộn xộn đằng sau mắt tôi. Tôi nhìn xuống mặt đường, bóng tôi đổ dài mãi ra rồi ngắn lại mất hút. Tôi đi vào ngõ tối, tôi đi vào xóm nghèo mà ngay đầu ngõ có biểu ngữ hoan hô, mà ngay vách lá cũng có bích chương đả đảo.

Tất cả như thế và tất cả cứ như thế mãi sao?

                                              TL, 1965

Trần Vũ đánh máy lại tháng 11-2019 từ bản in trong Tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta,

NXB Sóng, Sàigòn 1974

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 17/Jan/2020 lúc 3:53pm

TẢN MẠN ĐẦU XUÂN



 Trời đất! bên Canada tui đang sửa soạn đón tuyết rơi, đông về nè, thế mà bên nhà tác giả HH đã "Tản mạn đầu xuân". Theo yêu cầu của tác giả bài được post song  bạn đọc nào  muốn ăn Tết sớm cùng tác giả HH SG  thì  hãy đọc .....
TH
Image%20result%20for%20tết%20nguyên%20đán%202020


         TẢN MẠN ĐẦU XUÂN
                            *
               ( Hai Hùng SG)

 Tết này năm Canh Tý (2020) là năm con Chuột lên ngôi, được đứng đầu trong danh sách mười hai con giáp của người xưa sắp đặt, tuy nhỏ con so với các loài khác, nhưng cũng đã chứng minh cho thiên hạ thấy dòng họ nhà Chuột có thể thống trị các con vật khác trong tương lai.
 Chuột có bộ não nhỏ bé nhưng trí khôn của nó cũng loại "Giàn trời mây" vì có những chuyện không ngờ chúng biết được "Tai họa" đang chờ mình để đề phòng, do vậy Chuột nhà ta né tránh một cách tài tình.

  Năm nọ khi cúng tất niên vào trưa ngày ba mươi Tết, khi bà Nội tui chặt xong con Gà xếp vô cái dĩa bàng thật bự đem lên cúng, lúc bà quay lưng lại thò tay vô "Gạc măng rê" lấy ít cọng ngò rí để rãi lên trang trí dĩa Gà cho bắt mắt, khi bỏ mấy cọng ngò vô dĩa thì Nội thấy thiếu hết hai miếng thịt đùi, thấy tui đứng sớ rớ gần đó Nội tui "Phán" liền:

 - Phương nè, con lấy hai miếng Gà phải không? chưa cúng kiếng ai cho con lấy vậy?

 Tự dưng tui bị "Nỗi oan ông địa" tui lên tiếng phân trần với Nội:

 - Chèn ơi, con mới bước vô bếp thất thì, đâu có lấy Gà lấy Vịt gì đâu Nội ơi.

 Chung quanh bếp chẳng còn ai ngoài tui với Nội, mà lại bị mất hai miếng thịt Gà làm Nội tui nỗi sùng trong bụng cho là tui chối tội, nên Nội nói:

  - Có con với Nội ở trong bếp vậy con không lấy hổng lẽ là ma vô đây lấy, cho con suy nghĩ kỹ rồi trả lại hai miếng Gà thì Nội tha tội, còn như ương ngạnh Nội méc tía bây nó "Mần" cho một trận thì đừng có la làng nghe chưa.

 Nghe Nội nhắc tới Ba tui làm tui ớn xương sống, vì mỗi lần phạm lỗi là Ba tui "Dợt" xanh xương luôn, nhưng bị hàm oan nên tui cố cãi lại: 

 -Con không có lấy mà Nội, con nói thiệt đó, coi chừng có Chó Mèo vô ăn vụng không, chứ con thì không có rồi, má con thường dặn dò, đồ gì ăn thì ăn, đồ gì cúng thì để cúng, ăn vụng ông bà quở chết.

 Nội nghe tui nói vậy bà cũng xuôi lòng, vì thấy tui trả lời rành rọt như trên nên Nội nói:

 -Cha cha bây thuộc bài dữ vậy ta, thôi lo dọn phụ đồ cúng để lên bàn thờ cho Nội đi, có nhiều khi ba con quỷ Chuột nó tha hai  miếng thịt Gà cũng hổng chừng.

 Thấy Nội đem sự nghi ngờ qua cái đám Chuột trong nhà làm tui mừng hết lớn, tui nói theo luôn:

 - Chắc đúng đó Nội, mấy ngày nay ngoài sân nhà ai cũng dọn dẹp sạch sẽ để đón Tết, ba cái đồ ăn thừa đâu còn bỏ lung tung nữa, chắc kiếm chác không được khiến tụi nó đói lắm nên làm ẩu đó Nội.

 Rồi như muốn lập công để Nội thương mình hơn, biết đâu Tết Nội sẽ cho cái bao lì xì đỏ nhiều tiền, tui nói :

 - Thôi để chút nữa con lấy cái bẫy, con đặt mồi vô thế nào cũng tóm cổ được đám Chuột mắc dịch này cho Nội coi.

Nghe tui nói vậy, Nội lắc đầu và chắc lưỡi :

 - Con mà nói vậy thì còn khuya tụi nó mới dính bẫy, tụi nó coi vậy chứ "Tinh quái" lắm, làm như nó nghe được tiếng người nên ai bẫy Chuột mà oang oang cái miệng như con thì "Tết Ma rốc" cũng không dính con nào.

 Tui nghĩ chắc Nội ghẹo mình thôi nên tui quyết định bẫy cho bằng được mấy "Ông Tí" trong nhà, sẵn mấy con Tép bạc còn trong cái rỗ tre, tui lấy vài con nhỏ nướng trên lửa than đỏ hồng trong bếp, mùi Tép nướng thơm phức khiến tui còn phát thèm huống hồ gì mấy "Ông Tí".

 Gắn con Tép vô cái bẫy xong tui đặt vô góc kẹt dưới "Gạc Măng rê" nơi đám Chuột thường đi lại, tưởng đâu "Ngon ăn" lắm thế nào cũng  có con "Dính chấu", ai dè qua hết mùng ba Tết mà con Tép bạc còn y nguyên, lúc này tui mới thấy lời nói của Nội đúng " Y như trong kinh".

 Dòng họ nhà Chuột cũng phân ra làm nhiều loại, có thứ hôi hám như Chuột cống, Chuột chù. Gặp cái đám chuột này thì gớm ghiếc vô cùng, nhờ sống nơi cống rãnh, nhất là những khu chợ búa thì chúng mập tròn, vì nơi chợ buôn bán họ thải ra cống đủ thứ "Thức ăn" khoái khẩu của chúng, ở thành phố sau này có những người đi săn bắt Chuột cống ban đêm, không biết bắt về họ dùng để làm gì, có lời đồn đãi họ làm thịt xong chở về các chợ vùng ven giả làm Chuột đồng bán cho các tay "Bợm nhậu", mấy tay này thấy con nào cũng to béo nên ưng bụng lắm, mua về làm đủ các món như Chuột khìa nước dừa, Chuột rô ti, Chuột nướng lửa hồng, xào lăn , dĩa nào cũng thơm phức, cứ vậy là chén thù chén tạc với nhau, ăn no nứt bụng mà vẫn còn thèm vì món "Chuột đồng" đểu giả này, chắc cũng có tay "Hui nhị tỳ" do ăn phải loại Chuột này mà họ đâu có biết nguồn gốc nó ở đâu, giá mà họ biết được chắc ói ra mật vàng mật xanh đến ngất ngư luôn, cũng có lời đồn họ thu mua đem về trộn với loại thịt khác xay nhuyễn ra làm bò vò viên bỏ mối cho những người bán hủ tíu dạo, trắng đen vụ này thế nào thì thiệt tình tui cũng không biết, có điều tin đồn này cũng làm khốn đốn cho những người làm ăn thật thà, họ bị vạ lây vì bị bà con tẩy chay món bò vò viên khoái khẩu này.

 Chuột đồng chánh hiệu nói chung thì nhiều vô số kể, khi lúa ngoài đồng trĩu bông, cả,đám Chuột đồng bắt đầu hoạt động dữ dội, chúng kéo ra từng đàn đông nghịt, Chuột ông, bà, cháu, chắt rủ nhau đi phá lúa, tội nghiệp cho người nông dân một nắng hai sương, bán lưng cho đất, bán mặt cho trời để làm ra hạt lúa nuôi sống con người, khi thu hoạch giá bán rất rẻ, không đủ chi phí bỏ ra (Do đầu nậu ép giá), đã vậy lủ Chuột còn phá hoại mùa màng khiến họ buồn lòng, nhưng ở đời khi mất cái này thì họ được cái khác, tuy mất mùa lúa nhưng bù lại khi gặt hái xong họ đi dỡ chà, quây lưới để bắt Chuột, trên cánh đồng lớn họ dỡ mấy đống chà có Chuột trốn trong đó, họ hun khói vô những cái hang quanh bờ đê khiến toàn bộ Chuột có trong thửa ruộng chạy lòng vòng quanh lưới bủa vây sẵn, cứ thế họ bắt sạch không còn một con, phần ăn phần bán cũng được số tiền kha khá bù lại tiền thất thu của ruộng lúa.

 Chuột xạ là loại Chuột tưởng hiền, nhưng thật ra nó cũng khá hung dữ, tui chứng kiến một con Chuột xạ bự nó chống cự lại con Mèo già của người hàng xóm nơi tui ở, con Mèo đang nằm phơi nắng ở sân nhà lim dim mắt ngủ, anh Chuột xạ từ trong đống lá dừa nước mục cũ chui ra , nó giương hai hàng râu dài như định hướng và tìm mùi thức ăn, thấy Mèo già nằm cản đường nó chạy nhanh đến "Đớp" vào đuôi con Mèo già khiến Mèo ta cụp đuôi nhẩy dựng lên như bị điện giật, hoàn hồn lại tưởng rằng con Mèo sẽ xơi tái con Chuột Xạ kia, nhưng không , con Mèo chưa có phản ứng thì Chuột xạ thừa thắng xông lên chạy đến định cắn Mèo ta phát tiếp theo, Mèo nhanh chân phóng lên bậc cửa sổ nhà nọ khiến Chuột xạ quê cơ lẳng lặng tìm kẻ khác quấy nhiễu tiếp .

 Ngộ lắm nha, nhà tui mỗi lần khi nghe Chuột kêu ríu rít  là y như rằng, hôm sau có khách từ xa đến thăm nhà, cứ như vậy riết rồi nghe Chuột xạ trong nhà kêu là biết có khách đến, Ba tui ổng đặt cho đám Chuột xạ là "Chuột điện tín" , vì dường như nó thay cho các bức "Điện tín" của người thân báo tin đến thăm nhà .

 Tui ghét nhất là đám Chuột lắt loại mới đẻ ra, khi lông đen mọc đầy đủ là lúc nó bắt đầu chạy nhảy tìm tòi, nó cắn phá đủ thứ từ sách báo, thực phẩm, cây trái vãi vóc không từ nan thứ nào, có lần dọn nhà tui chộp nguyên ổ, tuy biết chúng phá phách dữ dội, nhưng vì thấy chúng nhỏ có đôi mắt thật tinh anh tui không nỡ "Ra tay" với chúng, nên tui đem ra sau hè phóng sanh ráo trọi khiến ông Hai nhổ răng ở cạnh bên nhà biết chuyện ổng rầy tui quá cỡ:

- Cái thằng Phương này bậy quá bây, bây thả tụi nó ít bữa tụi nó vô nhà chú Hai nó phá "Banh ta long" nhà chú hết sao?

 Chẳng qua thấy chúng nhỏ xíu nên tui không nỡ sát sanh, hơn nữa thì  mấy lúc vô Thanh Minh Thiền Viện ở quận Phú Nhuận để dự lễ cúng thất khi Nội tui qua đời, tui nghe mấy sư thầy kêu gọi "Làm lành lánh dữ", tránh sát sanh nên tui phải thả chúng ra, gặp tay khác thì đám Chuột lắt kia "Tiêu diêu miền cực nhọc" tức thì, mấy lúc gần đây khi lên Chanel Youtube, tui thấy mấy "Trự bợm nhậu" chia sẻ Clip Chuột con mới đẻ còn trắng hếu, có con còn chưa mở mắt, họ bỏ nó vào chén nước mắm loại ngon, đám Chuột bất ngờ bị ngập chìm trong nước mắm, chúng bơi lội kêu chí chóe, sau một hồi ngụp lặn trong chén nước mắm cả đám Chuột con "Ngủm cù đèo" hết ráo, tay bợm nọ dùng đũa gắp một con lên, hắn để cho con Chuột ráo nước mắm rồi bỏ vô miệng nhai rao ráo thấy rợn tóc gáy, mấy tay trong bàn nhậu còn e dè không dám đụng đũa, tay nọ thấy "Chiến hữu " cổ vũ quá chừng, hắn hứng chí ăn tiếp con thứ hai,  theo ý tui đây là món nhậu kinh dị nhất thế kỷ hăm mốt, nếu có món này trong menu của các quán nhậu sau này, tui sẽ đặt nó tên "Chuột con ngâm nước mắm"...

 Trong dòng họ nhà Chuột có loại Chuột Bạch là được khoa học "Vinh danh" , bởi Chuột Bạch nhà ta có công đóng góp thân mình cho khoa học trong phòng thí nghiệm để họ tìm ra các loại "Vắc xin" chủng ngừa bệnh cho nhân loại, Chuột cũng được đi vào văn chương nước nhà, trong dân gian có bài vè nổi tiếng mà đứa con nít nào cũng biết :

 "Con Mèo trèo lên cây cau.
Hỏi thăm chú Chuột đi đâu vắng nhà.
Chú Chuột đi chợ đàng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú Mèo."

 Hoặc :

"Chuột kêu rút rít trong rương.
Anh đi cho khéo, đụng giường má hay".

 Khi anh em ruột thịt trong nhà không hòa thuận đến mức không thèm nhìn mặt nhau, thì trong nhà cô bác lớn tuổi hay khuyên bảo :

-Tui bây cùng một "Lổ" chui ra thương nhau không hết, vậy mà tối ngày bây như Mèo với Chuột.

 Nhớ ngày xưa, còn con nít tui rất khoái đốt pháo, nhưng những viên pháo trung nổ rất lớn nên tui sợ sệt, thời may các lò pháo họ sản xuất ra loại pháo nhỏ xíu nổ nghe lẹt đẹt cũng vui tai mà ít nguy hiểm, đó là những phong pháo Chuột nhỏ nhỏ xinh xắn vô cùng, ngoài việc cho con nít chơi đỡ nguy hiểm, nó còn được treo tòn ten trên nhánh Mai để trang trí trông thật Tết vô cùng.

Chuột là loại đẻ rất sai, có khi gần cả chục con một lứa, phải chăng vì đặt tính này nên các ông Họa sĩ ngày xưa đã sáng tác nên bức tranh đám cưới Chuột thật đẹp và vui mắt với ngụ ý chúc cho đôi uyên ương đầu năm sinh trai, cuối năm sinh gái hay chăng?.

 Là loài gậm nhấm hay ăn tạp, thứ gì Chuột cũng ăn, ăn không chừa thứ gì miễn để hở là Chuột đớp liền không kiêng dè.

 Có một loại "Chuột" tuổi thọ và trí khôn hơn hẳn loại Chuột bình thường, nó ăn tàn phá hại rất kinh khủng, đám "Chuột" này nó ăn cũng không chừa thứ gì, nó hiện diện khắp nơi, nó rất tinh ma khó tiêu diệt vì nó "Ăn có tổ chức", trước khi nó muốn ăn món gì đám "Chuột" này bày binh bố trận cẩn thận nên chúng "Ra tay" là phần thắng về chúng với tỷ lệ thật cao, chúng hay ở chỗ nó đoán được "Hậu quả" và biết cách lo lót chạy chọt cho lủ "Mèo, Chó" để khỏi bị phanh thây xé xác, nhưng "Trời cao có mắt" tuy đám "Chuột" gian manh vô cùng nhưng với lòng tham không đáy nên có lúc chúng bị trừng trị thẳng tay, có người nói phải chi chúng ăn vài ba giạ lúa, năm ba con khô con Cá chắc thiên hạ cũng lơ lơ cho chúng, đàng này Sắt, thép, Ciment, đất đai, nhà cửa, rừng, V.v... Chúng ăn hết ráo khiến dân tình điêu đứng, quốc khố ngày càng suy kiệt...

                        ***

 Tóm lại, "Chuột" vừa có công vừa có tội, nếu lấy công để chuộc tội không biết có thể bù trừ được không.

 Trước thềm năm mới năm Chuột cầm tinh, nên chăng dòng họ nhà "Chuột" nên xem lại hành động của mình, đức Phật nói:

"Trước khi làm việc gì cũng nên nghĩ đến hậu quả".

 Dân gian mình nói:

 "Quay đầu là bờ".

"Chuột" nên nêu gương mình là kẻ đứng đầu trong mười hai con giáp, sống và làm việc sao cho muôn loài khắp nơi noi theo, bằng không thì vị thế đầu tiên trong mười hai con giáp của mình sẽ bị hạ bệ trong tương lai thật gần. Mong thay, mong thay.


Hai Hùng SG


Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jan/2020 lúc 3:33pm

Xuân Về Nơi Xứ Người                 

 

Khá vất-vả Thủy mới tìm được chỗ đậu xe trong một khu chợ Việt-Nam. Hôm nay đã là 28 Tết. Mọi người đang bận-rộn, náo-nức đón thêm một cái Tết Việt trên đất Mỹ. Người ta đi chợ đông như đi trẩy-hội. Ngày mai chợ-búa bớt đông người hơn, vì người ta còn để thì giờ lo chuẩn-bị đón giao-thừa, và cũng vì đã mua đủ mọi thứ cần dùng trong nhà vào những ngày trước rồi.

Thủy đã định sắm-sửa từ mấy hôm trước để hôm nay được rảnh-rang ở nhà, nhưng rồi những công-việc không tên ở sở cứ nhè những ngày cuối-cùng của năm hết Tết đến ùa tới, khiến ngày nào Thủy cũng phải làm thêm giờ để cho xong. Trong sở, mấy người Việt-Nam xì-xào to nhỏ là lão giám-đốc Gordon định bày trò “đì” người Việt-Nam và người Tàu, vì lão biết Tết là ngày lễ truyền-thống rất quan- trọng đối với những người này, “đì” chơi cho bõ ghét. Họ còn bảo là lão Gordon kỳ-thị chủng-tộc. Chỉ có Thủy là không nghĩ như thế. Thủy không nghĩ là lão Gordon lại tệ như vậy. Nếu thực-sự ghét người Việt-Nam và người Tàu, với tư-cách và quyền-hành giám-đốc, lão đâu cần phải làm như vậy. Ngược lại, lão có nhiều cách khác, êm-ái hơn và có thể còn ghê-gớm hơn đối với những người bên dưới lão, mà chẳng ai làm gì được. Tuy trong lòng bênh-vực lão giám-đốc nhưng phải làm bù đầu bù cổ vào mấy ngày cận Tết, Thủy cũng thấy khổ thật. Lẽ dĩ-nhiên làm thêm giờ là sẽ lãnh thêm tiền. Nhưng ai cũng biết là tiền-bạc đôi lúc chẳng có giá-trị gì.

Sau khi đã khóa xe, Thủy bước vào trong chợ. Đây là một ngôi chợ do người Việt-Nam làm chủ. Ngôi chợ khá lớn, bán gần như đầy-đủ mọi mặt hàng cần-thiết cho đời sống hàng ngày của mọi người. Hôm nay, Thủy sẽ có dịp nói tiếng Việt mệt nghỉ, bù lại những tháng qua, ngày nào cũng 8-9 tiếng Thủy phải nói hay đọc tài-liệu bằng tiếng Anh, chán chết. Đợi lúc lão Gordon vui-vẻ, Thủy xin nghỉ một ngày để đi lễ chùa. Đã lâu Thủy không có thì-giờ bén-mảng tới các cửa chùa. Ở quận này bây-giờ có những ngôi chùa rất lớn làm Phật “phân-vân” không biết vô chùa nào. Thủy chỉ đi lễ 1-2 chùa thôi, chùa nhỏ cũng được, và không cần phải đi cả 10 chùa như người ta. Vậy là ngày mùng một Thủy sẽ đi chùa. Lúc đầu lão Gordon có vẻ không bằng lòng. Thủy phải nói mãi, lão mới chịu. Thủy định bụng, nếu lão Gordon không chịu, Thủy cứ nghỉ “đại” rồi “ra sao thì ra”, một năm mới có 1 lần mà, nhưng may quá, sau cùng, lão đã chịu-thua “con Việt-Nam” bé-nhỏ này.

Sự bề-thế của ngôi chợ cũng đủ cho thấy sự thành-công của chủ nhân. Sau tháng tư 1975, hàng triệu người Việt ra đi, tản-mác khắp thế-giới. Trong số này có những người trẻ thành-đạt trên đường học-vấn, nắm giữ những vai-trò quan-trọng trong guồng-máy xã-hội, kể cả chính-trị, và có những người thành-công về mặt kinh-tế, trở thành chủ-nhân nhiều cơ-sở thương-mại. Rất nhiều người bản xứ đã phải khâm-phục và kính-trọng người Việt-Nam. Chỉ tiếc rằng cộng-đồng người Việt chưa có được sự đoàn-kết đúng mức, nên còn có những điểm tiêu-cực hoặc thất-bại đáng tiếc. Có một số ít còn có tinh-thần bè-phái và tham-quyền cố-vị. Đã có một thời-gian dài, cộng-đồng người Việt ở Nam Cali có tới ba tổ-chức đại-diện. Tổ-chức nào cũng tự cho mình là đại-diện chính-thức của cộng-đồng. Nhưng khi gặp chuyện thì chẳng thấy anh-hùng hảo-kiệt nào cả. Bây giờ nói tới, người ta vẫn còn lắc đầu ngao-ngán.

Qua mấy kệ hàng, Thủy thấy có những thứ rất đặc biệt dành cho ngày Tết như bánh chưng, bánh tét, mứt, hạt dưa, trái cây, có cả củ kiệu và hành ngâm trong những hũ nhỏ xinh-xinh bằng thủy-tinh đậy kín.  

Quầy thịt cá cũng là nơi thu-hút các bà nội-trợ mạnh-mẽ vào những ngày cuối năm. Người ta chỉ chỏ, chọn-lựa, khen-chê, nhộn-nhịp cả một góc chợ. Thủy ở cách đây hơn một giờ lái xe. Bình-thường Thủy đi chợ Mỹ ở gần nhà, mua những món ăn gần giống như người Mỹ và có cuộc sống cũng gần giống như người Mỹ bản-xứ. Mỗi tháng một lần, có khi lâu hơn, vì nhà xa, vì bận-rộn gia-đình và công- việc, Thủy mới lái xe tới đây, đi chợ Việt-Nam để mua những món ăn thuần-túy quê-hương. Hai đứa con của Thủy, đứa bốn tuổi, đứa sáu tuổi, không đứa nào thích ăn cơm Việt-Nam cả, nhất là khi phải ăn những món có mùi vị lạ, khó ngửi như nước mắm, mắm ruốc…

Dù vậy, hai vợ chồng Thủy vẫn dạy cho hai con nói tiếng Việt, tập cho chúng cách cầm đũa và ăn những món hợp với khẩu-vị của người Việt như cá-kho, canh mùng-tơi, bầu, bí hay khổ-qua…

Vợ chồng Thủy vẫn thỉnh-thoảng kể chuyện cho các con nghe về Việt-Nam, về thành-phố Sài-Gòn nơi Thủy đã ra đời, về những vùng đất quê-hương Thủy đã được bố mẹ đưa đi chơi vào những ngày còn nhỏ. Thực ra, sự hiểu biết của Thủy về Việt-Nam không bao nhiêu, vì ngày bố mẹ đưa Thủy lên thuyền vượt biên, Thủy mới chỉ là cô bé 14, 15 tuổi. Sau này qua tới Mỹ, nhờ đi học những lớp đặc-biệt, đọc thêm sách báo, xem phim ảnh, và nghe kể chuyện, Thủy có thêm những hiểu biết mới về quê-hương của mình. Thủy đọc nhiều sách về lịch-sử, địa-lý, văn-học…để bù-đắp cho những thiếu-sót của mình. Thủy cảm thấy tội-nghiệp cho một vài người bạn cùng sở. Họ có rất ít khiến-thức về Việt-Nam, có người nói tiếng Việt cũng chưa rành. Hỏi họ về Nguyễn-Du, Cao-Bá-Quát, Tú-Xương, Nguyễn-Khuyến… họ chỉ cười trừ “ù ù cạc cạc”cho xong chuyện.

Thủy đứng khá lâu ở quầy thịt cá. Ở đây mọi thứ đều sạch-sẽ. Hồi còn ở Việt Nam, Thủy được mẹ dẫn đi chợ. Thủy đã thấy những khu bán thịt cá hôi-tanh, dơ-bẩn. Còn các bà bán hàng thì máu thịt cá văng dính đầy tay, đầy áo, có khi văng cả lên mặt mũi, nhìn thấy mà sợ. Điều đặc-biệt ở Mỹ, những người bán ở quầy thịt cá thường là nam-giới. Họ phục-vụ rất nhiệt-tình và vui-vẻ. Nhìn những miếng thịt sạch-sẽ xếp trong quầy kính, Thủy chợt nhớ tới nồi thịt heo mẹ nấu ở quê nhà vào những dịp Tết đến. Cái nồi thật to, bên trong óng-ánh mỡ với những miếng thịt xắt lớn chen với những quả trứng vịt no căng. Chỉ nhìn thôi cũng đã thấy thèm. Ở Mỹ, những nồi thịt heo to, béo-ngậy như thế ít có người dám nấu. Nếu nấu, cũng chẳng ai dám ăn. Người ta sợ ăn vào sẽ bị bệnh, phải vô nhà thương nằm, khổ thêm. Nghĩ thật lẩm-cẩm. Ở quê xưa đói ăn, nên ăn gì cũng thấy ngon, chẳng sợ bệnh-tật gì cả. Có ăn là may rồi. Còn ở Mỹ, thực-phẩm rẻ ê-hề, người ta lại sợ ăn vào mắc bệnh, nào là bệnh có mỡ trong máu, tiểu đường, nhồi máu cơ tim, tắc nghẽn mạch máu não, đau gan, đau thận. Thôi thì tùm lum đủ thứ bệnh trên đời.

Hơn một tiếng đồng-hồ đi qua, Thủy vẫn chưa mua đủ những món cần-thiết. Ngày hôm qua Thủy đã cẩn-thận làm một cái list dài, kê ra những món cần mua để cho khỏi quên. Nhìn cái list của Thủy, Bình cười, nói ghẹo vợ: “Em định 23 tháng chạp này lên chầu Ngọc-Hoàng, trình sớ táo-quân hả?” Thủy cười, đáp lời chồng: “Em đã lên thiên-đình trình sớ tuần trước rồi. Mua cả trăm thứ, em sợ lu-bu rồi quên món này món nọ.” Ở trong chợ, Thủy cứ đi qua đi lại mấy dãy hàng. Hết quầy thịt cá lại tới quầy bán thực-phẩm khô, tới chỗ bán trái cây, bánh mứt, rồi trở lại quầy thịt cá. Thủy nghĩ là không phải riêng mình, mà hầu hết các bà nội-trợ đều như vậy. Cuối năm, hình như ai cũng có vẻ tíu-tít, bận-rộn.

Trở lại chỗ bán trái cây, Thủy nhận thấy giá cả hơi cao một chút so với ngày thường. Không sao cả. Tết-nhất mà. Thủy lựa một trái măng-cầu, nâng lên ướm thử. Có lẽ cũng đến hơn 3 pounds. Rồi Thủy lại lựa một trái đu-đủ xanh, vừa lựa vừa ngẫm-nghĩ. Theo tục-lệ của người Việt-Nam, đặc-biệt là người miền Nam theo đạo Phật, ngày Tết người ta phải bày-biện trên bàn-thờ những trái cây như măng-cầu, đu-đủ, dừa, thơm và xoài cho đủ mâm ngũ quả. Người Việt hiền-hòa, dễ-thương, họ chỉ cầu mong vừa đủ xài thôi. Lúc đầu Thủy không hiểu, sau nghe mẹ giải-thích, Thủy mới vỡ-lẽ. Người miền Nam phát-âm chữ vừadừa gần như nhau. Còn chữ xoài thì đọc chệch ra là xài. Cũng vậy, vào dịp Tết có người còn kiêng không bày chuối trên bàn-thờ, vì không muốn bị trượt vỏ chuối hoặc là té chúi trong năm. Ngoài ra, cũng có nhà không muốn bầy cam, vì không muốn đành cam phận đói-nghèo, khổ-sầu quanh năm.

Nghe mẹ giải-thích như thế, Thủy đã cười lớn, tỏ vẻ không tin. Mẹ nói: “Đó là tín-ngưỡng và cũng là văn-hoá rất đặc-thù của người Việt-Nam mình. Tin hay không là tùy ở mỗi người. Không biết đó có phải là mê-tín dị-đoan không, nhưng theo mẹ thì…có kiêng có lành, con à.”

Thủy lựa một cặp bánh chưng. Cận ngày Tết quá rồi không thể đặt được. À, sao không mua bánh tét nhỉ? Không được, ăn bánh tét coi-chừng cả năm téc việc ra. Ngẫm-nghĩ, Thủy cười một mình. Thủy còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn người, ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ đi, nhưng vẫn phải mua cho đầy-đủ.

Chợt nhớ ra, Thủy mua thêm một ít giấy vàng bạc. Chiều mai phải rước ông Táo về nhà theo đúng nghi-thức tập-tục. Rước cả ông bà về nữa chứ. Thủy định bụng sẽ đốt giấy vàng bạc ở trong bếp. Không được. Đốt như thế khói sẽ bay mù lên, rồi cái máy smoke detector sẽ kêu um-lên. Có thể bà Susan bên hàng-xóm tưởng là nhà có hỏa-hoạn, sẽ hớt-hải chạy qua, gọi 911 hay Cảnh-sát thì khổ. Thôi được, Thủy sẽ đốt ở ngoài vườn sau. Chuẩn-bị một cái thùng sắt và vòi nước là được rồi.

Thủy còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn người, ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ vào thùng rác, nhưng vẫn phải mua cho đầy-đủ.

 Thủy không quên mua một bó nhang, mấy cây đèn cầy và một hộp kẹo thèo lèo cứt chuột để cúng ông bà. Ờ, sao người ta không nghĩ ra một cái tên gì cho hay-hay và thơm-tho hơn cái tên “thèo- lèo cứt chuột” nhỉ? Cái tên này nghe thiệt là “quái-đản” và không “thanh-nhã” lắm.

Ngày xưa khi còn nhỏ, mỗi lần theo mẹ đi chợ Tết ở Việt-Nam, Thủy nhớ mẹ mua cả pháo nữa. Mẹ nói là Tết mà không có pháo không phải là Tết. Đêm giao thừa Thủy buồn ngủ rũ người, nhưng vẫn cố banh mắt ra, đợi ba đốt cho hết bánh pháo. Tiếng nổ lách tách đùng làm Thủy phải bịt tai lại, vừa sợ vừa thích-thú. Trong tràng pháo thế nào cũng có vài trái pháo đùng, nổ to đến nỗi Thủy phải chạy vào trong bếp để trốn. Ở Mỹ không chỗ nào bán pháo nổ to như thế, vì rất nguy-hiểm. Ngày July 4, người ta chỉ được phép chơi pháo bông. Còn ở những đám cưới chỉ có loại pháo nhỏ, nổ lẹt-đẹt cho vui một chút vậy thôi.

Nhẩm tính lại một lần nữa, Thủy thấy là mình đã mua đầy-đủ mọi thứ cần-thiết. Chiếc xe đầy ắp. Thủy thấy lòng mình reo lên một niềm vui. Vậy là năm nay gia-đình Thủy ăn một cái Tết khá to và khá đẩy-đủ, chẳng thua gì Tết ở Việt-Nam. Đúng như nhiều người đã nói, chúng ta ra đi mang theo quê- hương. Chúng ta ra đi mang theo cả tình người và tình-tự dân-tộc. Chỉ tiếc là thiếu không-khí thực-sự Việt-Nam ở đây. Nhưng không sao cả. Cám ơn ngôi chợ này đã bán đầy-đủ các mặt hàng cần-thiết cho đời sống hàng-ngày của mọi người. Cám ơn tất-cả mọi người Việt-Nam đã đến bằng những nụ-cười và bằng sự can-trường để tạo nơi đây thành một góc quê-hương. Cám ơn tình-người vẫn còn bao-la, tốt-đẹp. Cám ơn mùa xuân vẫn còn rộn-rã tiếng chim.       

Sau khi trả tiền, Thủy đẩy xe ra ngoài. Mặt trời đang tỏa ánh nắng ấm-áp. Có những quầy bán hoa dọc theo hành-lang, bầy nhiều loại hoa rất đẹp, khoe màu-sắc tươi-thắm. Thủy dừng chân. Những chậu hoa vạn-thọ, hoa cúc, và những cành mai vàng chi-chít nụ đã làm Thủy nhớ quê-hương da-diết.

           Tưởng là Xuân chẳng về đây nữa
           Buổi sáng bừng lên những tiếng chim
           Ríu- rít trên cành mai mới nở
           Lòng ta thôi nhé hết im lìm…

-Mua hoa đi, cô. Hoa này nhà trồng, mới hái sáng nay. Bà bán hoa đon-đả mời Thủy.

Thủy chỉ chậu hoa cúc đại-đóa. Hoa chưa nở hết. Những cánh hoa khép-nép bên nhau, đẹp lạ-lùng.

-Chậu này lớn, cô cho 9 đồng.

-Thế còn chậu kia? Thủy hỏi.

-Chậu đó lớn hơn, 11 đồng.

 Thủy ngần-ngừ, nửa muốn mua, nửa không. “Bác có nói thách không vậy? Nói đúng giá đi, cháu mua.”

 Bà bán hoa lắc đầu.

-Giá-cả như vậy là đúng rồi, cô à. Không mắc đâu.

Cuối cùng, Thủy mua được hai chậu cúc với giá phải-chăng sau khi “cò kè bớt một thêm hai” với bà bán hoa. Người Việt mình có điểm “đáng yêu” là buôn-bán ưa nói thách. Các món hàng thường không ghi giá tiền. Có khi họ nói giá trên trời dưới đất làm cho người mua không biết đâu mà trả giá, nhất là ở Việt-Nam. Thủy nghe dì Giang kể, có lần bà bị bà bán trái cây ở chợ An-Đông chửi te-tua vì đã trả giá thấp. “Chúng ta ra đi mang theo quê hương”. Cách buôn bán chua-ngoa, nói thách giá như vậy đã được một số người mang theo ra nước ngoài. Bình-thường Thủy rất ngại mua những mặt-hàng không ghi giá bán, vì như vậy sẽ phải mặc cả, và chuyện này thì Thủy lại rất dở. Thủy thích mua sắm ở tiệm Mỹ vì giá cả rõ-ràng hơn và sự phục-vụ cũng tận-tình, ân-cần hơn. Ở tiệm Mỹ, tùy theo món hàng, sau khi mua rồi, nếu không ưng ý, có thể trả lại trong vòng một thời-hạn nào đó, có khi tới 90 ngày.

-Còn phải mua một cành mai nữa chứ. Thủy vừa đi về phía hàng hoa, vửa nhắc mình. Tết dù ở đâu mà thiếu một cành mai đều không phải là Tết. Thủy có trồng một cây mai Nhật-Bản. Cây lớn lên, cuốn quanh hàng rào. Gần Tết, mai nở hoa vàng phủ xuống tới đất, cũng đẹp lắm. Nhưng có một cây mai Việt vẫn thích hơn. À, phải rồi, còn phải mua một cuốn lịch “giả” Tam-Tông-Miếu, nữa chứ. Mỗi buổi tối hay sáng hôm sau, Bình sẽ bóc một tờ để đánh dấu một ngày cũ đã qua đi, hay bắt đầu một ngày mới sắp tới. Và, sau cùng, thế nào cũng phải có một tờ Báo Xuân. Thế mới là…Tết chứ. Bình sẽ phụ-trách đọc mỗi đêm một bài cho đến khi không còn gì để đọc mới thôi. Lẽ dĩ-nhiên phải bỏ qua phần quảng-cáo“đông trùng hạ thảo” trị bá-bệnh. Báo Xuân bán 8 đồng một cuốn, lại còn tặng một cái thẻ điện-thoại 2 đồng. Vậy là Giai-Phẩm Xuân chỉ có 6 đồng với gần trăm bài, chắc là hay, chỉ có 6 đồng một cuốn. đọc cả năm. Quá rẻ. Rẻ hơn tô phở Kobé nữa. Ăn xong là hết.

Lái xe về đến nhà vào lúc 3 giờ chiều. Thủy nhìn thấy bà Susan đang ở ngoài vườn. Thấy Thủy, bà vẫy tay. Thủy chào lại.

Thủy đã ở đây gần mười lăm năm. Con đường có chữ Circle phía sau chỉ vọn vẹn có tám căn nhà, nên mọi người đều quen biết nhau. Thậm chí Thủy còn nhớ tên từng người một. Chỉ có gia-đình Thủy là người Việt-Nam duy-nhất ở đây. Có một nhà người Tàu, hai nhà người Mễ, còn lại đều là người Mỹ trắng. Mọi người đều vui-vẻ và thân-thiện với nhau như ruột-thịt, không phân-biệt gì cả.

Ông già Norman xuề-xòa, vui-tính, đã về hưu. Ông nói là trước năm 1970 ông đã từng sang Việt Nam. Ông kể về những địa-danh như Khe-Sanh, Đồng-Xoài, Bình-Giả, rồi là Chương-Thiện, Cần-Thơ một cách say-mê và rành-rọt. Những địa-danh đối với Thủy còn xa-lạ, chưa từng đặt chân tới. Ông còn kể cả những món ăn độc-đáo mà ông đã có dịp nhấm-nháp, kể cả thịt rắn, thịt chó và thịt chuột với nụ cười hóm-hỉnh, thích- chí. Ông nói với vợ chồng Thủy: “Tụi mày biết không, tao khoái món thịt chó lắm. Từ ngày ở Việt Nam về Mỹ, tao không còn được ăn cái món đó nữa. Nhưng tao cứ nhớ hoài. Hết sẩy. Tao nhớ, lần đầu khi người bạn Việt-Nam cho tao ăn món đó, tao hơi ớn. Mãi vài lần sau tao mới quen. Nó ngon hơn món beefsteak cả trăm lần.Ăn vào là quên chết”. Nghe ông Norman nói, Thủy đã không nín được cười và thấy mắc thèm, dù chưa bao giờ được nếm cái món đó. Nhưng Thủy chắc cái món đó phải là độc đáo ghê gớm lắm nên mới hấp-dẫn được một ông Mỹ da trắng văn-minh như vậy. Có lần vui miệng, ông  Norman nói: “Trong cuộc sống có nhiều người Mỹ cảm thấy rất cô-đơn, nên họ thường nuôi chó, nuôi mèo. Họ xem chó mèo như bạn. Vì lẽ đó, họ không ăn thịt chó, thịt mèo. Họ xem những người ăn thịt chó, thịt mèo là tàn-ác, không có nhân-tính, mọi-rợ. Vậy mà khi con chó, con mèo họ nuôi bị chết, họ sẵn-sàng quăng chúng ra đường vào ban đêm cho xe cán, không thấy ân-hận gì cả.”

Ông già Norman trông vậy mà nói rất đúng. Đã có nhiều lần Thủy thấy xác những con chó hay mèo nằm ngoài đường, trên lằn xe chạy. Có những con chết rồi còn bị bánh xe nghiến qua nghiến lại không biết bao nhiêu lần, cho đến khi tan xác, máu và da thịt quyện dính vào mặt nhựa đường. Thế là hết. Không thấy ai phàn-nàn, kêu-ca gì cả. Nếu có ai hỏi, họ chỉ cần trả-lời đơn-giản là “tai-nạn”. Thế là xong. Người được tiếng “yêu súc-vật”, vẫn được tiếng.

Bình giúp vợ mang đồ vào trong bếp. Thủy vào nhà thay quần áo, xong ra ngoài nói chuyện với bà Susan. Thủy thấy bà đang chăm-sóc mấy cây hoa tulip ở ngoài vườn. Bà ta có ngôi vườn thật đẹp.

-Cô Thủy đi chợ mới về hả? Nghe bà Susan hỏi, Thủy gật đầu.

-Đi chợ Việt-Nam à?

-Dạ. Hôm nay cháu cần mua những món đặc-biệt ở chợ Việt-Nam để ăn Tết.

Bà Susan nói như reo:

-À, Tết. Chinese Lunar New Year. Thế cô mua quần áo mới chưa?

Thủy lắc đầu:

-Dạ, chưa. Nhưng chuyện đó ở Mỹ, cũng không cần-thiết, bác à.

Thủy muốn giải-thích cho bà Susan biết là Tết của người Việt-Nam và Tết của người Tàu không hoàn-toàn giống nhau, mặc dù tập-tục này người Việt-Nam theo người Tàu. Thủy không thích người ta thêm chữ Chinese khi nói đến Tết Việt-Nam, không biết đó có phải là “tự-ái dân-tộc” không. Trong những ngày Tết, người Việt-Nam thường có những tập-quán, những cuộc vui chơi, hay đình-đám khác với người Tàu.

Bà Suzan trông có vẻ rảnh-rang, nhàn-hạ mấy ngày này. Bà đã sửa-soạn và mua-sắm cho những ngày lễ lớn, như Thanksgiving (Tạ-ơn), Christmas (Giáng-sinh), New Year (Năm Mới), và bây-giờ những ngày đó đã chấm-dứt từ mấy tuần qua.

 Bà Susan chợt quay sang nhìn Thủy, hỏi:

-Cô Thủy này, tôi còn nhớ Tết năm ngoái cô cho tôi ăn cái bánh gì dinh-dính ấy. Người Việt Nam có nhiều loại bánh ngộ thật. Cô nói lại đi. Cái bánh ấy tên là gì vậy, tôi quên mất tiêu.

Thủy cố nhớ lại, cười trả lời:

-À, đấy là bánh chưng. Bác nhớ dai thật. Thế bác có thích bánh chưng không? Cháu có mua một cặp đấy. Để ngày mùng một Tết cháu sẽ mời bác. Người Việt chúng cháu còn thích ăn bánh chưng chiên nữa.

Bà Susan cũng cười, đôi mắt nhấp-nháy:

-Cám ơn cô. Bánh chưng chiên à? Ồ, được ăn bánh chưng thì còn gì bằng nữa. Tết Việt Nam phải có bánh chưng chứ. Như thế mới đúng ý nghĩa. À, bánh chưng phải ăn với củ kiệu mới là đúng mốt, phải không cô Thủy?

 Thủy không ngờ bà Susan lại rành-rọt như thế. Không biết ai đã nói với bà ta những chuyện như vậy.

Bánh chưng mua ở chợ hẳn là không bằng nhà nấu. Ngày xưa khi Thủy còn nhỏ, mỗi lần Tết đến, Thủy thường thấy bà ngoại nấu bánh chưng.  Bà ngoại chuẩn-bị thật chu-đáo. Trước Tết độ một tuần, mẹ Thủy đi chợ mua gạo nếp, đậu xanh, thịt heo, lá dong và nhiều thứ linh-tinh khác nữa. Thủy không nhớ là bà ngoại đã gói bánh như thế nào. Thủy thích nhất là lúc được ngồi cạnh bếp lửa, có những khúc củi-tạ cháy hừng-hực, bên trên kê nồi bánh thật to đang sôi ùng ục. Ngồi bên cạnh nồi bánh, miệng vui vui hát nhỏ bài Xuân Này Con Không Về của Nhạc-Sĩ Trịnh-Lâm-Ngân: “...Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng. Trông bánh chưng chờ trời sáng. Đỏ hây hây những đôi má đào...” Lúc đó, dù là nghèo, vẫn thấy đời tươi đẹp và ấm cúng biết bao.

Bắt chước mẹ ngày xưa, Thủy chuẩn-bị rất kỹ-lưỡng để cúng và đón giao-thừa.  Đồng-hồ mới chỉ 11 giờ đêm, Thủy đã nhờ Bình bày sẵn một cái bàn nhỏ ở ngoài sân. Thủy đặt một bình hoa vạn thọ ở giữa, một đĩa trái cây, một đĩa kẹo thèo lèo cứt chuột. Thủy không quên trái dừa, đèn cầy và ly nước lạnh. Thủy cắm sẵn ba cây nhang vào một cái ly thấp bên trong có gạo để giữ cho cây nhang không bị ngả. Thế này cũng tươm-tất lắm rồi.

Hồi gia-đình Thủy mới qua Mỹ, số người Việt sinh-sống ở đây còn ít. Nhà hàng ăn uống chỉ lưa-thưa vài nơi. Còn chợ Việt-Nam hoàn-toàn không có. Khi thèm ăn một tô phở, không biết đi đâu. Muốn nấu ở nhà thì không có đủ gia-vị. Cho tới bây giờ không phải ở tiểu-bang nào cũng tiện-lợi như ở Cali. Và, ngay cả ở Cali, không phải ở vùng nào cũng tiện-lợi và đầy-đủ như ở Quận Cam. Thật may-mắn, Thủy chỉ ở cách Quận Cam hơn một tiếng lái xe. Quận Cam có khu Bolsa, thủ-đô của người Việt. Chính người Việt đã tạo ra sự sầm-uất cho Quận Cam nói chung và khu Bolsa nói riêng. Các bảng hiệu dần-dần được viết hoàn-toàn bằng tiếng Việt, không cần người bản-xứ hoặc các cộng-đồng khác có hiểu hay không. Ở đây có nhiều ngôi chợ bán đầy-đủ các sản-phẩm dành cho người Việt, và đặc-biệt là có rất nhiều nhà-hàng bán những món-ăn thuần-túy Việt-Nam. Thủy có một cô bạn thân hiện đang ở Sacramento, thủ-đô của tiểu-bang California. Sau đôi lần đến Quận Cam (Orange County) chơi, cô bạn này đã nói: “Nếu tao sống ở Quận Cam, tao sẽ không nấu cơm ở nhà nữa, mà sẽ đi ăn tiệm. Nhà-hàng ở đây nhiều quá, nấu lại ngon nữa, nhiều món quá. Đi ăn cơm tiệm cho sướng. Nấu nướng ở nhà làm gì cho khổ cái thân.” Thủy ngẫm nghĩ, thấy cô bạn này nói đúng. Từ mọi nơi, người Việt đã quy-tụ về đây để biến thủ-đô này thành một góc quê-hương. Bây giờ, ở đây, khi cần ăn một tô phở Bắc nóng hổi, một tô bún bò Huế cay-cay, một đĩa bánh xèo beo-béo, hoặc một đĩa cơm tấm bì, chả hay thịt nướng thơm-thơm… đều dễ-dàng, tiện-lợi như ở Việt-Nam vậy.

Khi Thủy chuẩn-bị xong mâm trái cây cúng giao-thừa, kim đồng-hồ chỉ 11 giờ 45.

Bình đem mấy bao rác đi đổ. Thủy nhớ đã dặn Bình chỉ đổ rác vào chiều tối ba mươi thôi. Ngày mai là mùng một Tết không được đổ rác nữa, vì sợ tiền bạc sẽ cắp nón ra đi. Thủy cũng còn cẩn-thận dặn Bình không được quét nhà, không được hút bụi nữa. Thôi kệ, cứ để dơ mấy ngày rồi quét dọn sau. Có kiêng có lành mà. Đã chết ai. Nghe Thủy dặn nhiều quá, Bình khôi-hài:

-Thế có phải kiêng tắm không, em?

Thủy cũng cười:

-Nếu anh kiêng tắm được thì càng tốt. Tắm nhiều hại da lắm.

Những tập-tục ngày Tết của người Việt-Nam và người Tàu có nhiều điểm giống nhau và đôi khi có vẻ mê-tín dị-đoan nữa. Tuy nhiên, nếu mê-tín dị-đoan không đem lại sự nguy-hại, người ta không cần  phải bãi-bỏ, nhất là những tập-tục đã có từ rất lâu đời.

Mấy bữa trước Thủy chuẩn-bị cả tiền lì-xì nữa. Thủy đã tới ngân-hàng đổi một ít tiền mới, mua một xấp phong-bì mầu đỏ, bỏ vào mỗi phong-bì một tờ năm đồng mới-tinh còn thơm mùi giấy và mực in. Thủy định sẽ mừng tuổi cho hai con vào sáng mùng một, rồi tới con của mấy người bạn làm cùng sở. Mừng tuổi để lấy hên vậy thôi, chứ trẻ con ở Mỹ không thích có tiền nhiều, vì chúng đã có đầy-đủ mọi thứ rồi, không thiếu-thốn như trẻ-con ở Việt Nam.  Còn người lớn không phải lì-xì gì cả. Đỡ hao.

Tới trưa ngày mùng một, hai vợ chồng sẽ đưa hai con đi chơi hội chợ Tết. Hai đứa nhỏ thích lắm, mấy hôm nay cứ nhắc ba mẹ hoài. Gần như năm nào Tổng-Hội Sinh-Viên Việt-Nam cũng đều tổ-chức hội-chợ Tết. Ngày xưa, hội-chợ Tết này do Cộng-Đồng Việt-nam tổ-chức, nhưng làm-việc “lem-nhem” sao đó, nhất là tiền-bạc, phải giải-tán. Tổng hội sinh-viên mới đứng ra tổ-chức. Các “em” làm được. Mỗi năm, trừ chi-phí, lời cả 5 trăm ngàn đô. Thấy các “em” làm được, có uy-tín, cộng-đồng để làm luôn. Ở hội-chợ có rất nhiều trò vui-chơi lành-mạnh. Thủy thích đi hội-chợ để tìm lại không-khí ngày Tết ở Việt-Nam, với những sinh-hoạt đặc-thù như múa lân, đánh vật. Quán thả thơ trong hội-chợ cũng là nơi thu-hút mọi người. Thủy thầm mong những hoạt-động tốt-đẹp như thế mãi-mãi được duy-trì và phát-triển. Những năm sau này, từ nỗi nhớ quê-hương và từ lòng bao dung nhân-ái, người Việt đã thành -lập nhiều hội-đoàn để có dịp ngồi lại gần nhau và giúp-đỡ nhau thiết-thực hơn, như các hội đồng-hương và hội ái-hữu. Đó là những dấu-hiệu tốt của một cộng-đồng đang phát-triển về mọi mặt.

Hồi còn nhỏ, Thủy thích nhất là những dịp Tết đến. Trước hết là được mặc quần áo mới, mang giầy đẹp, được ba mẹ đưa đi chơi chỗ này chỗ nọ, sau là được ăn bánh chưng, cắn hột dưa, và nhất là có nhiều tiền lì-xì. Trong mấy ngày Tết, lại còn được chơi “bầu-cua-cá-cọp”nữa. Đây là một trò chơi ăn tiền rất phổ-biến. Nhà cái trải một tấm giấy hay một tấm bià chia đều sáu phần, mỗi phần có in hay vẽ hình một con vật như nai, bầu, gà, cá, cua và tôm. Không thấy hình cọp. Ba con xúc-xắc được bỏ vào một cái điã che kín bằng một cái tô. Mỗi con xúc-xắc có sáu mặt, mỗi mặt đều có hình của một con vật giống như trên tấm bià. Nhà cái lắc cái điã vài lần rồi mở tô ra. Sau khi cả ba con xúc-xắc đã đứng im, nếu ai đặt tiền vào ô nào có hình giống con vật trên mặt xúc-xắc thì sẽ được nhà cái chung tiền. Còn ai đặt không giống thì bị thua. Trò chơi này rất vui vì được nhiều người hưởng-ứng, bất kể già trẻ lớn bé.  

Chiếc đồng-hồ quả lắc bắt-đầu gõ-nhịp, âm-thanh ngân-nga trong-trẻo. Khi tiếng gõ thứ mười hai vừa chấm-dứt, Thủy ra ngoài thắp đèn cầy, rồi đốt ba cây nhang đã cắm sẵn trong cái ly. Hương khói tỏa ra thơm-phức. Nếu là ở Việt-Nam, giây-phút này sẽ linh-thiêng và long-trọng biết bao. Giờ giao-thừa. Cả một không-gian rông lớn sẽ rền-vang tiếng pháo và mịt-mù trong màn khói để tống cựu nghinh tân (tống khứ cái cũ, đón rước cái mới). Pháo sẽ thi nhau nổ suốt đêm ba mươi, qua ba ngày Tết và những ngày kế-tiếp. Tết ở Việt-Nam ngày xưa thật tưng-bừng, vui-vẻ.

Bây giờ, chỉ có một mình Thủy cúng giao-thừa ở ngoài trời. Căn nhà của bà Tầu Wuan Yang cách đó vài căn, đang lặng-lẽ, im-lìm trong màn sương mỏng.

Thủy lâm-râm khấn-vái. Thời-gian như ngừng lại. Trời hơi se-lạnh. Những căn-nhà chung-quanh hoàn-toàn chìm trong bóng đêm. Con đường nhỏ vắng-tanh không một bóng người, ngoại trừ vài chiếc xe hơi đậu sát lề đang im-lìm trong giấc ngủ. Hình như có những đóa hoa đang bắt-đầu nở-rộ, hương-thơm tỏa ra nhẹ-nhàng.

 Hà Việt Hùng
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jan/2020 lúc 8:00am

Chuyến Du lịch lạ kỳ


Image%20result%20for%20long%20hải
__________________
             (Hai Hùng SG)

                      ***
 Còn chừng hơn một tuần nữa là Tết Canh Tý 2020 rồi, người buôn bán tất bật lo chứa hàng hóa để chuẩn bị hốt bạc dịp cuối năm, vì qua Tết thì mọi chuyện khác đi, mãi lực sẽ kém vì bà con "dốc hết tình này" vào mọi nhu cầu trong nhà thì còn tiền đâu mà mua sắm tất bật như trong năm nữa.

 Lần này nhân dịp có một số bạn bè từ "Nửa  vòng trái đất" về thăm quê hương, tụi tui làm một chuyến đi nghỉ mát ngắn ngày vài nơi miền biển để cho thân xác và đầu óc được thư giản sau suốt một năm "Chạy đua" với cuộc sống hàng ngày.

 Vào buổi sáng nọ xe đưa tụi tui ra Long Hải trong những ngày giáp Tết, khi xe chạy gần mép biển tui nói với "Anh tài xế" hạ kiếng xe xuống và tắt máy lạnh để tận hưởng những ngọn gió mát rượi từ biển cả thổi vào, mùi của biển vẫn nồng nàn như thuở nào, tuy xa biển không bao lâu vì tui mới ra Phú Quốc đảo ngọc nghỉ dưỡng ba ngày, đã hòa mình vào dòng nước biển mát lạnh trong veo nhìn thấy tận đáy của miền biển Tây, vậy mà gió biển Long Hải cũng đã làm cho tui có cảm giác ngất ngây như trở về thăm lại căn nhà xưa cũ của mình sau bao năm dài xa cách.

 Cũng biển Long Hải này, cách nay hơn bốn mươi năm tui có chuyến "Du lịch" không giống con giáp nào ra đây, mãi đến bây giờ nó vẫn còn in đậm trong tâm trí tui khó mà xóa nhòa...
                      ***

 Chiều cuối tuần của năm nọ (Cách nay gần bốn mươi măm), cũng là tuần cuối của năm âm lịch, không khí Tết xưa thật rộn ràng, bà con lúc đó ai cũng nghèo mà chứa chan tình cảm xóm giềng.

 Sau khi được nhận hàng nhu yếu phẩm do ban đời sống mua về phân phối lại cho mọi người, do trong thời bao cấp mà Tết được mua ít thịt ít mỡ Heo là quý lắm, dự định sẽ nấu món này món nọ cho ba ngày Tết lần lượt manh nha trong đầu, nhưng khi chị Huê ban đời sống báo một tin quá bất ngờ khiến cả xí nghiệp (Hơn chục móng) reo lên vui sướng khi nghe chị Huê thông báo:

- Ngày mơi ban giám đốc quyết định trích ra cho tụi mình một số tiền để tổ chức đi Long Hải tắm biển, chỉ cho phép vợ chồng dẫn theo một đứa con thôi, vì không đủ xe cộ để di chuyển, mấy anh chị về sắp xếp sáng mơi năm giờ có mặt ở xí nghiệp để khởi hành.

 Chị Huê chưa nói xong thì thằng Đẹp làm chung bộ phận công trường khai thác lâm sản với tui nó lên tiếng hỏi:

-Chị Huê cho tui hỏi vậy chứ tụi mình đi bằng cái giống gì ra Long Hải, đừng nói đi bằng (xe Than) nghe chị, ngồi xe đó ra tới Long Hải chắc ai cũng thành ông Táo hết á.

Cả đám trong phòng  họp nghe thằng Đẹp phán như vậy đều cười rần lên, chị Huê cũng cười rồi chị nói :

-Chèn ơi ! Mình dân làm Lâm sản mà em, đi (Xe than) coi sao đặng, anh Hai Giám đốc quyết định rồi, cho chiếc GMC của anh Trần Phước lái đưa mình đi nghỉ mát.

 Nghe vậy nhiều tiếng nhao nhao lên thắc mắc:

- Trời ơi, xe đó chở củi chở gỗ mà lấy chỗ đâu chở tụi mình hả chị, hổng lẽ đứng suốt từ đây ra Long Hải chịu đời sao thấu.

Chị Huê cũng lường được trước tình huống này nên chị "đớp" lại liền:

- Ái chà tui chưa nói hết mà, tuy GMC của mình không còn hai dãy băng ghế để ngồi ( do tháo ra lấy chỗ rộng rãi để chở củi) nhưng mình mượn cài băng ghế gỗ ở hội trường bỏ lên phía sau ngồi chán tốt, còn ai không khỏe thì lót chiếu đệm nằm xuống thùng xe nghỉ cũng đặng mà.

 Thế là cả đám Công nhân viên tụi tui đi Long Hải du lịch kiểu con nhà nghèo như vậy đó.( so ra những năm đó mà được du lịch kiểu này cũng là hàng quý tộc nha các bạn, bởi vì đời sống lúc này rất khó khăn thì mấy ai được cái diễm phúc này).

 Đúng năm giờ sáng mọi người có mặt, ai nấy ăn mặc có phần "sang trọng" khác hẳn ngày thường, các bà các cô diện đủ kiểu, có những bộ đồ xếp xó lâu ngày nay có dịp "chường" ra cho thiên hạ lé mắt chơi , nếu ngày thường mà mặc những y phục này thì e rằng không hợp vì hàng ngày ai nấy ăn mặc giản dị nếu không muốn nói quần áo cũ kỹ vô cùng.

 Hành lý mọi người mang theo thật cồng kềnh, ngoài quần áo thực phẩm ai nấy tự túc, nào là nồi niêu chén bát.v.v... Có người chiên cơm mang theo, có người nấu nướng cầu kỳ như gà chiên, hoặc cơm vắt muối đậu, có tay độc thân chơi lon guigoz đựng cơm và mắm ruốc.. Vậy đó mà ai cũng mừng vui ra mặt vì chuyến du lịch đặc biệt này...

 Anh Trần Phước vốn là tài xế hiền lành và có trách nhiệm, trước ngày đi anh lo châm dầu thay nhớt và bơm căng mấy bánh xe, anh cũng không quên đem theo hai cái bánh sơ cua cho chiếc GMC già nua phòng khi bất trắc. 

 Khi chiếc GMC được nổ máy một cụm khói đen ngòm từ cái ống pô đang chĩa lên trời nó phun ra đen kịt, mấy bà mấy cô vội lấy tay bụm mũi rồi nhắm mắt để tránh làn khói phà xuống sau thùng xe nơi mọi người đang ngồi, thằng Viên (Tài xế lái máy cày chuyên vận xuất gỗ) la lên:

 - Chèn ơi ! Ngửi  khói kiểu này ra tới Long Hải chắc nám phổi cả đám hết quá.

Ông Tám Ích Là chỉ huy trưởng công trường khai thác gỗ vốn người hay uống rượu, (sáng sớm ở công trường khai thác gỗ, khi vừa thòng chân xỏ vô đôi dép lúc vừa thức dậy ông đã vội quơ cái bi đông đựng "Nước mắt quê hương" (rượu đế) tu một hơi dài thay thế cho buổi điểm tâm) khi nghe thằng Viên nói vậy ông bèn trả lời:

-Thiệt luôn đó bây, đi nghỉ mát kiểu này "Bầm giập" dữ lắm, mà không đi thì biết bao giờ mới có dịp, thôi kệ "Thí mạng cùi" đi nha mấy đứa..

Sau một thời gian gần hai giờ đồng hồ, ngồi trên thùng xe GMC nó dằn sốc muối "ói cơm" thì đoàn tụi tui cũng đến được Long Hải, lúc đi thì mọi người đem theo chiếu, tấm nylon, hoặc Poncho của lính còn sót lại sau chiến tranh để trải xuống bờ biển ngủ qua đêm.

   Trời chiều biển êm dịu sóng lăn tăn vỗ bờ, nhìn phía xa ngoài khơi tui thấy những cánh chim Hải âu đang bay về tổ, trên bờ biển cạnh những bụi dứa dại chúng tôi trải tấm lót dưới cát trắng để làm nơi qua đêm, đang loay hoay "Lót ổ", bổng đâu có ba anh Lính Biên phòng mang súng AK xuất hiện, một anh ra vẻ là cấp chỉ huy đã lên tiếng hỏi tụi tui:

 -Mấy ông bà từ đâu đến đây, chắc chờ "Cá" đưa ra ghe lớn chứ gì, ở đây khu vực cấp tụ tập.

Thì ra mấy anh Biên phòng nghĩ đám tụi tui là dân "Vượt biên" nằm trên bờ chờ đêm hôm ra "Biển lớn", nghe anh ta đặt nghi vấn và định đuổi tụi tui ra khỏi khu vực này, chị Huê vội đến bên anh chàng Biên Phòng nọ thỏ thẻ:

- Anh gì đó ơi! Tụi tui là công nhân viên nhà nước đi nghỉ mát chứ nào có phải dân vượt biên gì đâu.

Nói xong chị rút ra tờ giấy đi đường do Giám đốc xí nghiệp ký với con dấu đỏ chét, bên trên là danh sách của thành viên trong đoàn, anh Biên Phòng lướt mắt trên tờ giấy đi đường, rồi anh đếm số người hiện diện trên bờ có khớp như trong tờ giấy này không, dường như muốn chứng minh mình là công nhân thứ thiệt, chị Huê trình thêm cho họ xem thẻ công nhân viên có hình của chị trong đó, lúc này anh lính Biên phòng mới chịu nở nụ cười với chị, rồi anh ta nói:

-Chèn ơi! Nào giờ tui mới thấy đoàn đi nghỉ mát mà đi "Bụi đời" như vầy, ngoài đây ban đêm gió lớn lắm, các anh chị sẽ không thể nào chịu được đâu, bây giờ anh chị thu dọn hành lý, chạy ngược ra hướng Bà rịa trên đường có những nhà nghỉ của công nhân tỉnh Bà rịa Vũng tàu, nên vào đó thuê chỗ ở cho đàng hoàng .

 Nghe vậy ai nấy phát rầu, vì tiền bạc đem theo rất ít, lương bổng đâu bao nhiêu đi chơi kiểu này mà "dốc hầu bao"  thì xong chuyến này về có khi ăn cơm với nước mắm cả tháng thì chịu đời sao thấu, nhưng có ông nhạc sỹ nào đã viết lời cho đầu bản nhạc "Cho tôi được một lần", ổng viết :"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm", nên cả đám đồng ý góp tiền để thuê nhà nghỉ .

  Cả đám leo lên xe xong, anh Trần Phước "Đề ma rưa" con trâu già GMC, sau vài lần đề máy chiếc GMC rú lên rồi nín bặt, cả đám tụi tui xanh mặt vì lo sợ, thằng Lên phụ xế càu nhàu:

-Mẹ tổ nó, cái bình mới thay tuần rồi ở ga ra ông Tư Ca vậy mà hôm nay nó dở chứng rồi, nếu nó không nổ máy tụi mình xúm lại đẩy nó nghe anh em.

Nghe thằng Lên nói vậy ông Tám Ích nỗi sùng la lên:

- Đẩy cái con khỉ khô họ chứ đẩy cái giống gì, bây coi ở đây cát không hà, đẩy thấy mụ nội cũng không nổi nữa, tao già rồi đẩy lọi xương sống thì cuộc đời tao "Bầm giập" tới chết luôn á.

Nghe cả đám cãi cọ anh Trần Phước trấn an:

-Thôi anh chị em xuống xe nghỉ ngơi đi, tui coi lại máy móc chắc nổ máy thôi, không sao đâu.

 Trời bắt đầu tối, những con sóng cuồng nọ bắt đầu xô bờ dữ dội, cái lạnh cắt da bắt đầu xuất hiện, tội mấy đứa nhỏ và ông bà già, còn đám thanh niên như tui thì cái lạnh này coi như đồ lẻ, bởi nó lạnh sao bằng cái lạnh vùng Tây nguyên nơi tui đếm nhịp quân hành khi xưa, mò mẫm một hồi thì anh Trần Phước cũng bắt chiếc GMC nổ máy, khi ra đến nhà nghỉ của công đoàn tỉnh thì gần nửa đêm, đèn quanh nhà nghỉ cháy sáng trưng, vì gần Tết thiên hạ lo Tết nhất chẳng mấy ai đi du lịch như tụi tui vào thời gian này, vì vậy nhà nghỉ vắng hoe như chùa "Bà Đanh", thấy chiếc GMC quẹo vô cổng nhà nghỉ, ông bảo vệ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng chạy đến rồi cất tiếng hỏi:

-Đoàn mình đâu đến, có hợp đồng thuê chỗ chưa?

Chị Huê và ông Tám Ích bước xuống xe đưa tay "Bông rua" ông bảo vệ, chị Huê trình bày hoàn cảnh trớ trêu mà tụi tui gặp phải, cảm thông với những kẻ lỡ đường, ông bảo vệ "Vẽ đường cho Hươu chạy ", ông ta chỉ tụi tui đến căn phòng cuối dãy dưới tầng trệt nơi ông sếp của nhà nghỉ ở, sau một hồi nghe hoàn cảnh đáng thương của tụi tui, sếp bèn ra hiệu cho bảo vệ báo với người có trách nhiệm trao chìa khóa phòng cho cả đoàn vào nghỉ, buồn ngủ mà gặp chiếu manh tụi tui cảm ơn sếp nhà nghỉ rối rít, chú Tám Ích lẹ tay cầm gói 555 tặng cho sếp nhà ta để tỏ lòng quý mến, lạ thay ông ta chỉ nhận duy nhất một điếu với vẻ mặt vui vẻ, vậy mà có người hiểu lầm, ông ta không nhận và sợ ngày mai tính tiền phòng khó "Chặt chém" đám khách "Ngu ngơ" tụi tui.

 Đêm đó được ngã lưng trên giường nệm trắng tinh thơm tho mát rượi, tụi tui như sống lại giây phút hạnh phút nhất trong đời của mình kể từ sau ngày miền nam gãy súng.
                    ***
Qua sáng hôm sau khi tắm biển hóng gió, vui đùa đến chiều phải trả phòng để quay về Sài gòn đón tết, sau khi kiểm phòng xong, chú Tám và chị Huê lên văn phòng nhà nghỉ để thanh toán tiền, bước vô văn phòng ông sếp nhà nghỉ ngồi đó tự bao giờ, ông tươi cười mời mọi người ngồi, rồi ông gọi cô kế toán đem hóa đơn (Bill) đến cho chị Huê ký nhận và thanh toán, quá bất ngờ với dòng chữ trong hóa đơn, vì biết hoàn cảnh khó của đoàn tụi tui ông sếp đã cho miễn phí toàn bộ với hóa đơn không đồng, lý do tiếp đoàn khách Sài gòn đến giao lưu và tham quan, khi biết được điều này cả đoàn ai nấy đều nghẹn ngào không thốt nên lời, vì trong thời buổi gạo châu cuối quế sao lại có xuất hiện "Ông Tiên" giữa đời thường như thế.

 Chừng như ái ngại, chị Huê xin gửi "Bồi dưỡng" cho ê kíp trực coi như lòng thành của tụi tui. Nhưng sếp nhà nghỉ và anh chị em ca trực nhất quyết không nhận , lại một lần nữa tụi tui muốn khóc cho tấm chân tình của họ....

                          ***
 Trở lại Long Hải lần này, tui cố tìm lại khu nhà nghỉ Công đoàn tỉnh năm xưa nhưng hoàn toàn vô vọng, khu vực này hiện nay không còn dấu tích của ngày xưa, từng khách sạn, resort mọc lên như nấm, tui cố tìm đến bãi biển nơi có bụi dứa dại ngày xưa để ôn lại một thời khốn khó, kỷ niệm xưa đã nhòa đi theo năm tháng, hỏi thăm mãi chẳng ai còn biết bụi dứa dại khổng lồ trên bờ biển Long Hải tọa lạc ở đâu, và cái đồn biên phòng ngày xưa cũng dời đâu mất, vật đổi sao vời cách xa gần bốn mươi năm dễ gì gặp lại, dẫu sao đây là kỷ niệm đẹp, tình người với người ngày ấy sao thấm đẫm, với thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay, để tìm gặp những con người chân tình như ông sếp nhà nghỉ Công đoàn tỉnh Bà rịa Vũng tàu ngày xưa chắc như "Mò kim đáy biển"

 Đêm 28 tết Xuân Canh Tý 2020
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Jan/2020 lúc 1:00pm

Câu Chuyện ngày 30 Tết



_______________
                 Image%20result%20for%20xuân%20về%20mai%20nở         


Hai Hùng SG

 Mới năm giờ sáng mà quán cà phê của ông bà Tư đã đầy nhóc khách, thì ra hôm nay là sáng ba mươi Tết Canh Tý rồi, phần đông các tiệm đều đóng cửa để chuẩn bị đón cái Tết cổ truyền của dân tộc mình, những người từ các nơi đến Sài gòn làm ăn đã lục đục kéo nhau về từ hai mươi ba Tết rồi, năm nay thiên hạ lo quy cố hương cho sớm, nấn ná một hai hôm ở lại Sài gòn để ráng kiếm thêm chút đỉnh thì cận ngày Tết đường sá đi lại khó khăn vô cùng, vì các quốc lộ hướng về miền Tây hoặc ra Trung ra Bắc xe cộ chật như niêm, nhờ vậy mà quán cà phê ông bà Tư "vô mánh" hôm nay.
                      ***
 Dĩ nhiên cái băng thợ hồ của thằng Dũng cũng có mặt trong quán, với gương mặt vui vui thằng Dũng cất tiếng hỏi đám thợ hồ ngồi chung bàn:

- Sao tụi bây, hôm nay tiễn năm cũ nè trưa nay có mục gì không, tụi mình dầm mưa dãi nắng suốt cả năm rồi, hôm nay mình "quánh một trận" cho đã một bữa nghe mấy đứa.

Thằng Tú Cháu bà Chín Cháo đậu nghe "Thầu Dũng" đưa ra cái ý kiến hay hay nên nó hưởng ứng tức thì:

-Anh Dũng nói phải đa, Tết năm nay ngày càng chán nếu không lai rai thì cũng chẳng biết làm gì, hông lẽ chui vô mùng ngủ hoài.

Thằng Hiền anh cột chèo của thằng Tú cũng ô kê cái rụp, bởi năm nay làm ăn thất bát nên Hiền để vợ ẳm con về thăm nội ngoại một mình, nó sợ kéo cả đám về quê mà không có quà bánh gì cho gia đình thì kỳ quá nên nó đành trụ lại xóm cây Điệp này, chờ ra giêng đi làm luôn một thể.

 Mấy đứa còn lại bàn ra tán vô cách tổ chức buổi họp ở đâu , rồi tiền 'Ha ta xa" ( Hợp tác xã - ý nói góp tiền nhậu chung, không ai bao ai) là bi nhiêu một đứa, bàn tới tính lui mấy đứa vô hỏi ông bà Tư chủ quán, ông bà Tư cho tụi nó mượn đỡ cái Chái bên hông quán làm nơi họp mặt nên cả đám vui mừng vô cùng.

                         ***

 Tiền chung đậu góp vô nằm trên tay "Thầu Dũng" hơn triệu bạc, với tài chỉ huy của toán thờ hồ đã quen nên mọi việc chuẩn bị cho buổi ăn nhậu này Dũng nhà ta quyết định hết, nó giao cho đứa này đi đong rượu, đứa khác thì mua mồi, thằng thì mua nước đá, đứa thì lo chén đũa...

 Tấm Nylon lớn được trải rộng ra dưới nền đất, cái dĩa Vịt quay của tiệm Đắc Hùng bán ở gần chợ An nhơn được bày chính giữa, từng miếng thịt được cắt vuông thành sắc cạnh, với cái da giòn màu nâu vàng bóng lưỡng bởi lớp mỡ mỏng bao quanh, nước con Vịt quay được bỏ riêng trong cái tô nhỏ, kim châm nấm mèo quyện với nhau bốc mùi thơm lừng trong tô nước này khiến ai nấy thèm thuồng vô cùng. Những ổ bánh mì vàng óng giòn tan cũng được bày trí kế bên, tưởng chừng nhiêu đó cũng đủ cho mọi người có được buổi họp mặt cuối năm ấm cúng, nhưng thằng Đàng một tay làm sơn nước kỳ cựu trong đám thợ hồ đã về nhà bưng một tô "Rắn hầm sả" đem qua góp vốn...

 Cuộc họp mặt bắt đầu, thầu Dũng cũng không quên mời ông Tư tham dự.

Ông Tư chủ quán là người hớp ly rượu đầu tiên của mâm nhậu này, ông Tư lấy làm vinh dự ông nói:

-Mấy chú quý tui mới vậy, tui chúc mấy chú năm mới được nhiều sức khỏe, công việc làm ổn định nha.

Cả đám vỗ tay mừng sau câu chúc của ông Tư, chưa bỏ cái ly mắt trâu xuống, ông Tư nhắc khéo:

- Nè nè mấy chú, tui nhắc cái này không có thừa đâu nha, mấy chú uống rượu ở đây xong thì về nhà nghỉ, đừng có xách xe ra đường đi đây đi đó nha, mấy chú biết rồi đó lóng rày mấy tay Cảnh sát giao thông họ bắt mấy tay nhậu mà còn lái xe dữ lắm, tui nghe đâu phạt nặng, giam xe và tịch thu bằng lái hai ba năm gì đó.

 Thầu Dũng nghe vậy lập tức lên tiếng:

-Vụ này mấy đứa ở đây tụi nó biết ráo rồi bác Tư, chèn ơi lóng rày tụi nó thèm nhậu dữ lắm mà đâu dám léng phéng đến quán của bà Hai nhỏ, uống xong xách xe ra khỏi quán thì bị chộp đầu liền, mấy cha nội cảnh sát bây giờ canh me dữ lắm, bác coi thợ hồ đi chiếc xe có hai ba triệu, mà phạt tội uống rượu lái xe gắn máy mà "dớt" tới Sáu bảy triệu chịu đời sao thấu, có thằng nó say quá cãi lại cảnh sát rồi bỏ xe luôn đó bác Tư.

Thằng Tú hớp xong ly rượu, nghe nói vậy nó chêm vô :

- Thằng nào nhậu xong để bắt xe là dở ẹc, gặp tui còn lâu à, thấy mấy ổng từ xa tui dẫn bộ thì lấy cái gì mà bắt, trong quy định không có vụ bắt xe khi người say rượu dẫn bộ, còn không nữa thì kiếm hẻm lủi vô ai biểu đi đại lộ chi cho bị "Dính chấu".

Sau một hồi ai nấy uống ngà ngà say, thằng Hiếu nhớ lại câu nói khi nãy của thằng Tú, nó bèn lật lại:

-Tú mầy nói vậy là không được rồi, bữa nào lỡ nhậu thì kêu xe ôm chở dìa, đừng có ráng chạy nguy hiểm cho mình và cho người khác nữa.

 Ông Tư nghe vậy bèn khen:

- Cái thằng Hiếu nói chí phải đa, vậy đi cho nó yên tâm bây ơi.

Tranh thủ lúc mọi người tranh luận về đề tài phạt vạ uống rượu lái xe, Thằng Đàng nó múc vô chén khúc rắn hầm sả bự, rồi chan nước vô húp nghe rồn rột, tưởng chừng không ai để ý ai dè khi nó đặt cái chén xuống thì nghe ông Tư phán liền:

-Cha chả, nay mai bây bớt ăn ba cái món mấy con vật hoang dã này đi, mới đây bên thành phố Vũ Hán của bên Tàu nghe nói có dịch bệnh viêm phổi hô hấp gì đó, mà nguồn gỗ Virus gây bệnh là do ba cái con giống vậy đó, gà Vịt tôm cá ê hề sao không ăn, ăn chi thứ bất nhơn đó chi cho mang bệnh.

Chứng tỏ là tay theo dõi thời sự sát nút, thầu Dũng góp lời:

-Đúng rồi đó Bác Tư, con mới lên mạng hồi sáng này thấy một bản tin có kèm theo Video một phụ nữ ăn món canh soup 🦇(Dơi), chèn ơi con Dơi nguyên si đen ngòm mà bà ta cắn xé ra ăn thiệt là gớm, nghe đâu loại Virus ...
là xuất phát từ loài động vật có vú biết bay này đó.

Ông Tư nghe nói ông kêu lên thảng thốt :

-Thiệt luôn hả chú Dũng, trời ơi thấy con Dơi là muốn bịnh rồi gớm chết đi vậy mà dám thồn vô họng, hồi trước coi phim ác Quỷ Dacula thấy mấy con Dơi bay bay hút máu là ghét lắm, đâu chú có hình ảnh gì hông cho tui coi ké với.

Thầu Dũng mở điện thoại ra cho ông Tư coi hình người phụ nữ đang thưởng thức món canh soup Dơi, coi xong bác Tư ói mật xanh mật vàng , làm cho mấy cục thịt vịt quay cũng theo đó mà ra ngoài.

Dường như chưa tin lắm cái Video này, thằng Đàng phản bác lại:

-Coi chừng họ quay để câu Like gì đó chứ ai mà ăn như vậy.

Thầu Dũng không thèm nói gì, đưa tay quẹt quẹt màn hình điện thoại lôi ra Video khác dí vô mặt thằng Đàng rồi nói:

-Mầy không tin thì xem thêm cái này nè, mấy thằng nó nhậu chuột con còn sống nhăn răng, nó ngâm nước mắm rồi gắp bỏ vô miệng nhai rao ráo ớn thấy tía luôn.

Thằng Đàng vốn dân cũng lì lợm nhưng thấy cảnh mấy bợm nhậu bằng chuột con ngâm nước mắm nó sợ xanh mặt rồi phán một câu xanh dờn:

-Đám này sống không thọ đâu, ba con chuột tuy còn nhỏ nhiều khi nó mang mầm bịnh dịch hạch hoặc bịnh gì đó ăn vô về thăm ông bà sớm nói sao xui.

Ông Tư đế vô thêm:

-Biết sợ rồi hả con, từ đây về sau bây đừng ăn cái giống gì kêu là đặc sản lạ lạ nữa nghe. Riết rồi con gì nhút nhích cũng bỏ vô miệng hết, chết có ngày đó con, nội ba cái hóa chất trong đồ ăn mình ăn hàng ngày đã độc hại rồi, bây còn thồn vô ba cái giống ôn đó thì "Đai" sớm nghe bây.

 Mâm nhậu chưa hết mồi hết rượu mà dường như muốn "pan" lại, ngán ngẩm với mùi ói của ông Tư, sợ cảnh sát giao thông chụp đầu khi chút nữa phải ra đường, sợ dịch bịnh viêm phổi nên cả mâm nhậu tuyên bố nghỉ sớm để giữ sức khỏe cho đêm nay đón giao thừa. Người thích nhất khi đám nhậu giải tán là bà Tư, khi ông vô nhà trong bà véo  vô hông ông một cái và kèm theo câu trách yêu'

-Ông này, giữ sức để tối nay mình đón giao thừa đó nhe.

Hiểu ý ông Tư nói :

-Biết rồi mình ơi!

Bất chợt ông ôm bà Tư vào lòng và đặt nụ hôn lên đôi má của bà, lúc này thằng Đàng quên cái dĩa đựng rắn nó quay lại để mang về, vô tình nó thấy hết cảnh trên nó bèn ca lên :

- Anh cho em mùa xuân. Mùa xuân.....

Nhà nhà đang cúng đón ông bà, mùa xuân đã thật sự quay về trên quê hương rồi các bạn .

 Viết xong 30 tết .9h30

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Jan/2020 lúc 7:18am

 

Bà Mẹ Quê



 

(Câu chuyện về Thiếu Tá Tô Văn Cấp, Khóa 19 Trường VBQGVN, TQLC) .

Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì con gọi bố mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai từ ngữ này mở đầu cho bài viết về mẹ tôi, một bà mẹ quê.

 

Thầy tôi qua đời ngày 15 Tháng Giêng, năm 1947, hưởng dương 41 tuổi! Ông cụ mất đi khoảng sau 2 tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn” (?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không còn nhớ gì nữa!

 

Kỷ niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn: Đang nhai cỏ mà khi đến bên bờ hồ trước cửa nhà thờ, nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò. Còn tôi, một thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên đành buông dây thừng, đứng trên bờ khóc vì sợ con trâu sẽ chết đuối…

 

Với bu tôi, một bà mẹ quê thì tôi nhớ nhiều, nhưng chưa một lần có dịp nhắc đến những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu. Khi thầy tôi mất, bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con, tất cả cùng sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai chái, một mảnh vườn, dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An, thành phố Hải Phòng, chỉ cách hai nơi này chừng hơn 3 cây số.

 

Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi, tôi vẫn còn như đang thấy trước mắt. Đó là cảnh hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc vườn, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc, sau lkhi đã chôn cất thầy tôi.

 

Bu tôi cả ngày chân lấm tay bùn với ruộng lúa vườn rau. Mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn (heo) xong thì mặt trời đã lặn, giữa lúc tranh tối tranh sáng, bà lẳng lặng ra góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè mà thút thít khóc. Các con không hề hay biết.

 

Đã rình rập từ lâu, rồi một buổi tối, chim đã về tổ, tôi leo lên cây cau ở góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con kêu “chíp chíp.” Và tôi thất kinh, suýt rơi xuống đất vì bất chợt thấy bóng đen đứng khóc góc vườn… Tuy nhiên tôi kịp hoàn hồn ngay khi nhận ra dải khăn tang trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của bu tôi. Vội tụt xuống định chạy vào nhà… nhưng rồi khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì tôi nghe tiếng bu khóc: “Ối ông ơi! Trời đã tối rồi! Ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống nước với các con ông ơi!”

 

Ở tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không biết sợ ma nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các con nghe được: Chắc bà muốn cam chịu thương nhớ một mình, không đành lòng chia nỗi buồn với các con.

 

Anh chị em chúng tôi không ai hay biết. Sau một ngày quần quật với ruộng lúa vồng khoai, ai cũng đã mệt nhoài, đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.

 

Riêng mình tôi biết bu tôi khóc, tôi chẳng nói cho ai hay… Nhưng tiếng khóc của bà xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau hè mà nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè" rồi sức nặng của khổ đau kéo luôn cành chè gẫy xuống!… Rồi một tối, tôi nghe tiếng nói bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang: “Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế! Hãy để cho Quán nó yên nghỉ.”

 

Đó là tiếng cụ Dưỡng, chú của thầy tôi. Chắc cụ cũng xót ruột vì tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu rất vâng lời chú chồng, từ đó bu tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu chồng chất trên nấm mồ chồng chưa xanh cỏ làm sao vơi, nước mắt bu tôi vẫn âm thầm rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong xó góc bếp giữa đêm khuya…

 

Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê, căn nhà lá nhiều khe hở để gió lùa vào, anh em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò đầu. Cái lạnh đêm khuya lại thêm dạ dày trống đúng với câu “bụng đói cật rét” nên giấc ngủ chúng tôi chập chờn.

 

Nửa đêm về sáng, gà vừa gáy, thức giấc thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy mon men tới sưởi ấm thì thấy bu tôi đã ngồi nấu cám heo, một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa cháy. Bóng bà in lên vách bếp, chập chờn theo ánh lửa bập bùng. Thấy con thức dậy bò xuống bếp, bà biết ngay là con đang thiếu cái gì: Vừa trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, nói: “Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi đi. Bu nướng cho con củ khoai.”

 

Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ, tiếng nổ lép-bép bắn ra những tia lửa tựa pháo bông, kéo theo tro bụi phủ lên người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro trên tấm khăn tang trắng rồi lấy củ khoai lang ở thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu rau”…

 

Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro” là gì, mùi vị nó ra sao. Ngay như con cháu nội ngoại của bu tôi hiện nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng thể không biết được. Nhưng với tôi, củ khoai lang vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho thì không có gì so sánh bằng.

 

Người ta thường dùng chữ “ban” để nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế, Chúa, Phật ban cho con chiên, Phật tử. Còn bu tôi đã “ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ con. Bà khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm rơm chà lên vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy rồi đưa cho con: “Khoai còn nóng lắm… Ăn từ từ.”

 

Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon với trẻ em miền quê, nhưng nếu háu đói mà vội ngoạm ăn, quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù.” Cũng như ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang, dễ bị nghẹn.

 

Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm được củ khoai nướng nóng thì thích lắm… Không hiểu sao cái tật tham ăn biến đi đâu mất, tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ củ khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời! Nếu văn hoa chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói cũng bằng thừa, là sáo ngữ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya, tôi thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng nhường miếng ăn cho con, như tất cả các bà mẹ nào khác.

 

Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi không nói gì… nhưng rồi bà choàng tay qua kéo tôi vào lòng. Tôi biết bu tôi đang thổn thức… Rồi nghe bà khẽ nói: “Con lên nhà đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để còn kịp ra đồng.”

 

Hai chữ “ra đồng” là chỉ việc ngoài đồng ruộng như cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng bắp (ngô), v.v… Những công việc của nhà nông làm ra thực phẩm. Người “thành phố,” nhất là các bạn trẻ ngày nay, không bao giờ có thể hình dung ra được sự thể lam lũ vất vả như thế nào.

 

Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre, rồi chạy loạn chiến tranh! Khi hồi cư, làng cũ chỉ còn hoang tàn đổ nát, mẹ con lại chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con đi, mà không biết đi về đâu và làm gì! Những lúc gian nan khốn khổ như thế, chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi, mong chồng chỉ lối đưa đường cho lũ vợ góa con côi được bình an…

 

Cuối cùng, gia đình tôi thành dân di cư trôi dạt vào Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương, năm 1954. Người nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ dại,” vất đâu cũng sống được với đất: Mẹ con chúng tôi ra đi, chỉ có hai bàn tay trắng, phải xoay sở ngược xuôi: Anh chị tôi lúc ấy đã trưởng thành nên phiêu bạt về thành phố, gia đình tôi lại di chuyển về số 172/41 đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, quận Bốn, Sài Gòn.

 

Bu tôi, một bà mẹ quê “lạc” về thành phố, bỏ lại sau lưng xa tít mù khơi cái mái tranh, lũy tre, ruộng vườn… và mồ mả chồng mà không biết bao giờ được nhìn lại, bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh khi nghe được tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác: Thương cháu, chăm sóc cháu hơn cả thương con.

 

Vẫn tưởng được vui hưởng thái bình với cháo rau đạm bạc bên con cháu cho tới lúc bu tôi đầu bạc răng long thì chiến tranh lại tràn về, các con trai con rể của cụ lên đường tòng quân: Thằng cao nguyên, đứa Đông Hà, con trai út ở núi Sơn Trà thì con trai áp út ở mãi tận mũi Cà Mau. Đâu đâu cũng đều vang tiếng súng nổ! “Đại bác đêm đêm vọng về thành phố,” bà mẹ quê vẫn khốn khổ thức giấc ngồi tựa, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc thầm chuỗi Mân-Côi, cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con đang xông pha nơi lửa đạn.

 

Hằng ngày bu tôi vẫn nhói tim, nhìn những xe nhà binh GMC chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa! Nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của lính chết trận,… bu tôi lại vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp…

 

Rồi sáng ngày N Tháng Sáu, 1966, một xe GMC chạy vào xóm, từ từ dừng lại khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống… Nhưng người lính TQLC tìm vào nhà bà Châu hàng xóm, cũng là người cùng quê, để báo tin con trai bà, thằng Mão đã tử trận! Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng muốn xỉu theo: Mão và tôi là bạn cùng tình nguyện vào TQLC. Mão Tiểu Đoàn 1, tôi Tiểu Đoàn 2, cả hai vừa đụng trận ở ngã ba sông Định, thuộc Bích La Thôn Quảng Trị. Nó tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên bảo hậu trạm đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo thủ tục báo tin nên hai ngày sau lại một xe nhà binh đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả chúng tôi. Người báo tin chưa kịp nói gì thì bu tôi đã ngất xỉu, không còn biết gì nữa!

 

Chỉ bị thương nhẹ, tôi xuất viện ngay để đi phép… Đang nằm bệnh, thấy tôi về, bu tôi ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con lắc lắc như muốn biết đây là thực hay chiêm bao! Bu tôi không nói gì mà chỉ khóc, khóc mừng rỡ là còn cầm được tay con vừa từ mặt trận trở về. Những bà mẹ của lính chiến thấy mặt con lúc nào thì hạnh phúc lúc đó. Tôi xin mượn ý bài thơ Màu Tím Hoa Sim: “không chết người con lính chiến mà chết người mẹ hậu phương”… Người lính chiến nếu có chết, chỉ chết một lần; nhưng bà mẹ hậu phương thì chết giấc vì con, chết dần chết mòn!

 

Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa con, đứa cháu trong họ hàng và cùng ở TQLC lần hồi tử trận như Tô Chiêu, Tô Sơn, Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh, v.v… Cuối cùng, ngày 19 Tháng Sáu, 1969, trên con kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã loại tôi ra khỏi vòng chiến, nhưng vẫn may mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v…, tôi còn nặng nợ, nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh bệnh viện, toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu tôi đang lấy tay cạy vết máu bầm, vết sình đã khô trên mặt tôi. Qua hơi thở của bình dưỡng khí, tôi mấp máy đôi môi: “Mẹ”…

 

Tiếng “Mẹ” phát âm dễ thương là thế nên tôi quen với chữ “Mẹ” từ đó.

 

Tôi trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến thì cũng là lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu: Thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ kẹp nách, mẹ lại mỉm cười: “Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo.”

 

Chưa trả hết nợ, tôi được hạnh phúc quanh quẩn một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không biết đọc mà chỉ biết khóc vì con…

 

Thế rồi đất bằng lại dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tục vất vả vì các con. Lần sau cùng nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh nhìn mẹ rồi vất đôi dép làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để vào túi xách cho tôi lên đường đi “học tập cải tạo”: Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, ba anh em trai tôi cùng hai người anh rể đều lên đường để “được” cải tạo làm con người! Chẳng cần nói thêm, ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”! Nghe hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho các con, với mong ước là chúng sớm được về đoàn tụ!

 

Quá khứ lính chiến đời tôi đã khiến mẹ lo âu sợ hãi nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này: Tôi lôi đôi dép râu ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà. Mẹ nhìn sững tôi… Chắc bà tự hỏi tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con sớm được về với mẹ mà… Làm sao tôi hiểu thấu được tình thương mênh mông của bà mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang chín từng khúc ruột. Tôi lẳng lặng cầm túi xách với bộ quần áo lên đường, không lời từ giã mẹ già đang ngồi tựa vách, mắt nhìn theo gót chân con!

 

“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ thấy mẹ, linh tính cho biết có điều chẳng lành. Tôi hỏi người nhà mỗi khi đến thăm nuôi thì được biết mẹ tôi vẫn bình thường… Mà sao vẫn thấy mẹ trong giấc mơ. Tôi đem chuyện hỏi lại, lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách ra một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo nhưng vẫn muốn giấu kín. Tôi không còn nước mắt để khóc: tôi đã không có mặt khi mẹ ra đi… Nhưng chính tôi cũng đã không biết là ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi đã khóc vì các con phải đi xa, khiến mẹ mù lòa! Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi vẫn chưa quay về!

 

“Lòng mẹ thương con như biển Thái Bình dạt dào.” Lòng mẹ như bị dao chém mỗi khi nghe tin con trở về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa”! Lời nào nói cho đủ, chữ nào viết cho hết trong vài trang giấy! Những bà mẹ dù quê hay thành phố, dù bên này hay bên kia đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ Việt Nam thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui khi các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính chiến luôn canh cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu: “Lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống lấp đầy quê ta!”

 

Những ai đó còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, xin chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đã phạm đối với “Bà Mẹ Quê” để sau đấy khỏi phải ân hận khôn nguôi.

 

 

Cap Van To K19



%20%20
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.539 seconds.