Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Jan/2023 lúc 11:13am

Người Đóng Hụi Chết Khả Kính 


Tết tây rồi tết ta tới nơi! Trời hôm nay lạnh căm căm, lất phất mưa thêm não lòng những người đa cảm, luôn cả những người đang cảm thời tiết. Ai cũng dán mắt lên cái đồng hồ treo tường vì trông giờ về.

Thế mà bà sếp thân thương lại đến nhờ tôi với chị Hường ở lại, làm cho xong việc mới về vì hãng cần gởi hàng đi cho khách hàng ngay trong hôm nay.

Chị Hường lười nói tiếng Anh nên hất hàm ra lệnh cho tôi trả lời.
Biết nói gì đây? Khi hãng cần hàng gấp thì sếp năn nỉ lính. Nhưng khi lính cần sếp quan hoài lúc hãng ít việc thì… sếp đàn bà ưa để bụng! Nên tôi nói láo lòng mình: “Không có gì. Thưa bà. Tôi với bà Hường sẽ ở lại, và cố gắng làm xong sớm nhất cho bà.”
Sếp cảm ơn tử tế hơn cần thiết vì là sếp đàn bà mà. Chỉ khi sếp đi rồi, chị Hường mới nói: 
“Mẹ ơi! Mùa này ra hãng 5 giờ rưỡi đã tối hù. Làm xong mớ hàng này cho mẻ thì sớm nhất cũng 7 giờ. Ra hãng chắc tưởng nửa đêm…”
Tôi nói với chị:
“Em không cần giải thích nhiều với chị đâu, vì chị em mình biết nhau quá mà! Em cũng không ngại giờ về, thời tiết con khỉ khô gì hết. Nhưng em đói quá rồi, mới là chuyện  đáng lo! Bây giờ chị để em làm một mình, chắc chắn là nhanh hơn làm chung với chị vì em rành việc này hơn chị. Còn chị chỉ kiểm tra lại dùm em là mình vừa được nhanh để về, vừa an toàn hậu sự…”
Chị em tôi cắm cúi làm cho nhanh, nhưng cơn đói làm mờ mắt. Tôi nói với chị Hường:
“Chị. Giờ này về. Trời thì lạnh. Người thì mệt. Em đang tưởng tượng tới cháo gà, dĩa gỏi xé phay… Trời ơi! Chị Hường ơi…!”
Cầu được ước thấy. Đâu ngờ chị trả lời:
“Cầu được ước thấy hen. Sao biết tui nấu cháo gà, làm gỏi xé phay hay vậy?”
“Má ơi! Chị nấu gì ở nhà chị thì ông Táo biết chứ làm sao em biết!”
Chị nói:
“Thôi làm nhanh đi. Ra khỏi hãng thì tui kêu con gái tui hâm cháo gà. Mình về tới nhà là có ăn liền cho bớt đói…”
“Chị mời em thiệt không đó? Chuyện đói bụng là chuyện sanh tử đó à nha…!”
“Làm đi…!”

**********

Tôi lái theo xe chị Hường về nhà chị. Bước vô nhà đã thơm lừng mùi cháo gà. Chị bảo cháu ngoại: 

“Thưa ông đi con.” 

Tôi hết đói với suy tư… mình lên hàng ông thật rồi sao? Nhưng đến con gái chị khoanh tay “Thưa chú” thì tôi hết muộn phiền tuổi tác vì đói quá sức rồi!

Thôi thì nỗi buồn nào cũng không hơn nỗi buồn khi cái bao tử rỗng. Bỗng nhớ nhà văn quân đội Lâm Chương hết sức, vì anh ấy viết một câu từ trong tù cải tạo như kinh điển: “Khi đói. Bộ óc người ta tuột xuống dưới bao tử để chỉ nghĩ đến cái ăn…”

Nhưng khi tôi đã phá tan dĩa gỏi gà, tung hoành xạch bách tô cháo nóng và vài món cúng khác nữa, tôi mới thấy trên bệ lò sưởi có bình bông cúng, cái ly kiểu cách đến chỉ để cắm nhang thì nhang còn mới tới như nhang vừa tàn… Tôi hỏi chị Hường:
“Hôm nay nhà chị có đám giỗ hả?”
Chị trả lời: 
“Giỗ ba chồng tui hôm qua. Tui đi chợ. Về làm mấy món cúng mà ba tui ưa thích hồi còn sống. Rồi mệt quá nên tui đi nằm. Con gái tui gọi hoài mà má không bắt điện thoại nên nó chở con về nhà ngoại vì lo tui chết thúi trong nhà…”
“Vậy…! Anh nhà đâu? Em đói quá nên quên hỏi thăm anh…”
“Trời mẹ ơi! Ổng bỏ tui từ hồi con nhỏ này (tay chỉ con gái chị) mới 9, 10 tuổi. Nay nó 30 mấy rồi! Con nó đi lớp 1 rồi!...”
“Nhưng…?”
“Tui nghe nhiều rồi, nên đừng hỏi nữa!”
“Dạ chị.”
“Con Hiền. Lấy chai rượu cúng hôm qua ra đây cho má!”

*******
Chị tôi say, nên tôi tin là phước phần có thật. Bởi chị có người con gái quá hiếu thảo với mẹ, khi từ cô kể ra: 

“Má con đã 65 tuổi rồi, con 36 tuổi. Ba con bỏ nhà đi khi con mới 10 tuổi. Hồi đó con tức giận ba con, vì thấy má con ban ngày đã cực khổ quá, đêm tới cứ khóc thầm hoài… Nhưng lớn hơn lên thì con khuyên má con đi bước nữa. Tại bác… (đó) là người làm chung hãng với má con. Bác thường tới nhà giúp cho má con những việc đàn bà không làm được như cưa bớt nhánh cây ngoài sân trước, sân sau. Bác sửa vòi nước bị rỉ trong nhà tắm, thay bóng đèn tuốt trên trần nhà, vô dầu mỡ cho cửa garage hết kêu kót két; bác sửa xe, thay thắng, thay nhớt ở nhà cho má con đỡ tốn tiền… Bác giỏi lắm, cái gì cũng biết làm. Còn nấu ăn ngon nữa. Bác mời mà má con không qua nhà bác ăn thì bác bưng luôn nguyên nồi sang nhà con ăn cơm chung cho vui… Con lớn rồi nên con hiểu được bác có tình cảm với má con. Trong khi vợ của bác thì chết bệnh cũng lâu rồi. Bác ấy hiền, đối xử tốt với má con và con. Nên con khuyên má con ưng bác đi cho con có ba.

Không biết má con nghĩ gì, kể ra cũng lạ lùng lắm chú! Vì mắc gì mà cứ cúng giỗ ông nội với bà nội của con khi cha con đã đối xử với má con và con như vậy? Nhưng má con suy nghĩ lâu tới bác đó chết già luôn cũng không chịu đi bước nữa, vì tao còn mặt mũi nào để nhìn ông bà nội mày! Ai già cũng phải chết. Rồi xuống dưới gặp lại nhau, làm sao nhìn mặt mà không xấu hổ?”

********

Tôi về. Con gái chị Hường tiễn tôi ra cửa vì má đã ngủ ngồi với cháu ngoại của bà trên sofa. Con rể của chị cũng vừa đến. Vì, “tối nay em với con ngủ bên nhà ngoại thì anh ngủ nhà với ai…?”
Người trẻ thật dễ thương với đối đáp, nhưng người già thương dễ nhau hơn bởi đã không ít thì nhiều bị đời làm tổn thương nên mới biết tới tình nghĩa.
Tôi nhớ những lời say của người chị:
 “Ở đời, đâu có ai bắt mình quỳ lạy ai đâu! Nên khi đã tự ý quỳ lạy cha mẹ chồng cho mình được làm con dâu, thì họ sống, mình phải phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Họ chết rồi, mình phải giỗ quảy tới hết đời mình. Còn chuyện vợ chồng với nhau thì phước phần, duyên nợ, là chuyện riêng của hai vợ chồng. Đâu bất hiếu với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ mình được. Cái thời của tui nó như vậy, không giống bây giờ.

Để tui kể cho nghe: Bà bạn tui, cũng cỡ tuổi tui. Nhưng bà ấy ốm đau bệnh hoạn rề rề… Sống với con trai thì con dâu than thở tốn kém, hầu hạ… mệt quá! Thằng con trai ráng nhịn vợ cho mẹ mình được ở nhà. Thì vợ nó đem con về ở nhà mẹ đẻ của nó. Có khác nào bỏ chồng?
Tới thằng con trai hết đường, năn nỉ thằng em rể cho đem mẹ qua ở với con gái. Thì cũng không được bao lâu, thằng rể than phiền tốn kém, nhà có người già, bệnh hoạn… Nó sống không nổi đâu vì không khí trong nhà u ám quá!

Thành thử hôm đưa bả vô nhà già, tui đến tiễn chân. Bả khóc thảm thiết như con nít đi học ngày đầu. Cứ níu áo hết con gái tới con trai, hết cháu nội tới cháu ngoại nhờ nói cho bà một tiếng! Nhưng người ta bây giờ lạnh lòng tới dửng dưng vậy đó! Ruột thịt mà coi như người dưng…

Rồi thì thời gian đầu ở nhà già, con cháu còn tới thăm. Từ từ tụi nó quên luôn là có mẹ ở nhà già. Đám cháu nội, cháu ngoại thì sợ bà như sợ bà phù thủy. Lần nào tui tới nhà già thăm bả, tui cũng khóc lúc đi về. Tự bả cứ níu áo tui ở lại với bả thêm chút nữa… thấy tội nghiệp lắm!

Nên bả chết hồi năm rồi! Tui đi đưa đám ma bạn mà trang điểm, mặc quần áo như đi đám cưới. Con gái tui nói ‘má kỳ vậy má’. Tui kệ. Tự tui mừng cho bà bạn tui đã hết buồn. Tui buồn cho con trai, con gái của bạn tui khóc lóc thảm thiết với cái xác không hồn… Thời buổi này, tới chừng đi làm hết nổi, tui cầu cho trời phật kêu tui cái một cho khoẻ thân. Tui chỉ van vái trời phật đừng cho tui bệnh. Còn chết thì đâu ai khỏi. Đúng không?”

*******
Tôi ấn tượng với căn nhà quá sức đơn giản của chị Hường. Dường như chẳng có thứ gì để có thể gọi là đồ trang trí trong nhà. Nhớ những hôm thấy chị không vui, hỏi thăm thì y như rằng: Con gái với thằng rể mua sắm gì đó cho chị thì chị bắt đem trả. Nếu không phải chuyện đó thì là ngược lại, chị mới vừa cho bớt đồ gia dụng đã quá ít trong nhà, nên con cái cự nự…

Từ đó tôi hiểu ra những suy nghĩ đằng sau, bên trong những lời nói ra, hay những hành vi khác thường của chị trong hãng. Như sếp hỏi: “Tôi cần một người ở lại làm trễ để hoàn tất việc này. Ai có thể giúp?” Thì hàng chục cánh giơ lên! Trong khi chị cũng ngưng làm, nhưng không để giơ tay lên mà là… giấu hai tay xuống gầm bàn.

Nên tôi hết lạ với những điều chị nói cũng khác thường. Mấy người đàn bà rủ chị chơi hụi. Chị trả lời: Tui đóng hụi chết hết hơi rồi. Tiền đâu nữa mà chơi hụi với mấy bà. Hụi chết của chị là cho từ thiện đều đặn, cúng chùa mỗi rằm…
Người đàn bà phi thường trong đời thường, vẫn lặng lẽ đi làm để nuôi thân khi đã 65 tuổi đời; nuôi cả chút văn hóa dân tộc còn sót lại qua lòng hiếu thảo với tứ thân phụ mẫu. Thật khả kính.


Phan


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Jan/2023 lúc 2:36pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jan/2023 lúc 9:45am

TÂM SỰ ĐẦU NĂM

Hoa%20Mai%20-%20Thông%20Báo%20Nghỉ%20Tết%20Nguyên%20Đán%202019%20PNG%20Image%20|%20Transparent%20PNG%20%20Free%20Download%20on%20SeekPNG
Lúc nhỏ đi học từ tiểu học lên đến trung học, tôi cũng có chút năng khiếu về văn chương, vẽ vời. Học cấp nào tôi cũng thường đứng đầu lớp môn Việt văn. Thời trung học tôi thường xuyên làm bích báo, báo giấy cho trường. Hồi 15 tuổi tôi cũng đã được giải thưởng trong một cuộc thi về thơ tình của thành phố. Tuy vậy tôi muốn sau này khi lớn lên, tôi sẽ chọn nghề báo. Đậu Tú tài hai, vì học trường Kỹ Thuật nên phần lớn bạn bè tôi đều thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ hoặc trường Kiến trúc thì tôi lại ghi danh học Báo chí Đại Học Vạn Hạnh. Nhưng rồi vì thời đó học khoa ghi danh thì không được hoãn dịch vì đã đến tuổi nên tôi phải đành thi tuyển vào Khoa Giáo Dục Ban Việt Hán để được thêm một tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn. Tôi ghi danh thêm trường Đại học Văn Khoa cũng vì ham vui với bạn bè và mong học thêm ít chữ. Thôi thì không học được khoa mình thích thì học ban văn chương, hy vọng ra trường thay vì đi dạy học thì kiếm toà báo nào đấy xin làm phóng viên cũng được. Thời sinh viên, vì đi học mà không có viện trợ, chẳng có chu cấp nên cũng tham gia viết cho vài tờ báo kiếm cơm. Chủ yếu cũng để sống tạm kiếm vài cái chữ.
Nhưng rồi thời thế đổi thay, lý lịch đen ngòm không xin được làm báo đành phải chọn nghề giáo. Nghề giáo chọn tôi chứ tôi chẳng chọn nghề. Nhưng rồi sau hai mươi năm dạy học tôi buộc phải rời bục giảng bởi những quan điểm lạc hậu, cực đoan và ác ý của những người lãnh đạo.
Suốt một thời gian dài làm nghề dạy học, để kiếm đồng lương nuôi vợ con, tôi chẳng viết được gì. Hơn nữa thời đó tôi hèn, thấy bất công, nhìn tình trạng nghèo thảm thương, khó khăn và những cuộc vượt biển sinh tử của đồng bào và bạn bè mình mà câm miệng, chứng kiến cảnh những người bị đuổi ra khỏi nhà bắt đi kinh tế mới bị cái đói cái chết đe doạ mà không dám viết vì sợ mất việc nên đành im lặng. Thỉnh thoảng viết đôi ba truyện ngắn, vài bài thơ, đôi dòng nhật ký, nhưng viết chỉ mình mình đọc, chẳng dám cho ai xem.
Tới thời mở cửa, tình hình bớt khắt khe hơn, xã hội nháo nhào, người ta sống tàn nhẫn hơn, cái ác lên ngôi, đồng tiền ngự trị, tôi viết nhiều nhưng cũng chẳng dám gởi đăng đâu. Tôi viết vì nhu cầu của tự thân, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, những ký ức còn đọng lại của một thời đã không còn nữa. Tới thời nở rộ của Internet, của các mạng xã hội, tôi mới rụt rè viết và đăng lên trang Yahoo 360 rồi Facebook. Cũng có vài bài được báo đăng nhưng tôi cảm thấy mình viết chưa hay, trong khi đó đọc sách báo thấy nhiều nhà văn, nhà báo viết ngợi ca giỏi quá nên tôi không gởi bài cho báo nữa. Tuy vậy tôi vẫn viết nhiều truyện ngắn, đôi ba bài thơ nhưng vẫn thấy mình viết tầm thường quá, đâm ra mắc cỡ với chính mình. Nhất là khi đọc lại mấy bài thơ trong tập thơ được giải hồi 15 tuổi tôi càng thấy mình viết quá tệ. Dù nhiều bài đăng trên Facebook cũng được một số lời khen, tôi vẫn không tin lắm về khả năng viết lách của mình. Cho nên tôi rất cám ơn và rất trân trọng những lời động viên, khích lệ của nhiều người đọc.
Trong năm vừa qua nhờ nhiều lời đốc thúc của bè bạn, tôi làm liều in năm cuốn sách. Đó là một tập truyện ngắn Bước không qua số phận, một tập tạp bút Ăn mà không chơi, ba tập thơ Cũng đành, Hoá thân và Tàn phai. Tập truyện ngắn đa phần tôi kể lại chuyện của những người bạn một thời của tôi, những kỷ niệm tôi đã trải qua trong nhiều quãng đời tôi đã sống. Tập tạp bút Ăn mà không chơi ghi lại những ký ức về những món ăn, những hàng quán tôi đã từng nếm qua. Nó cũng ghi lại những cảm xúc về những món ăn Mạ tôi từng nấu để nhớ về người mẹ đã mất của tôi. Những tập thơ là ghi chép những mối tình dang dở, những rung động của tôi về tình yêu trai gái, về tình yêu thiên nhiên và cuộc đời. Đó chỉ là nỗi niềm riêng của cá nhân mình. Tất cả đều là những ghi chép để giữ lại kẻo sợ nó sẽ trôi đi không tìm được nữa. Tôi nghĩ tôi không làm văn chương, bởi cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ mình viết còn kém hơn nhiều người lắm.
Do vậy xin mọi người đừng gọi tôi là nhà văn, nhà thơ, nhà báo gì cả. Tôi không có tham vọng đó. Tôi cũng như một nhà thơ nổi tiếng nào đó đã viết chỉ là con chim ngứa cổ hót chơi. Viết và in sách cũng là chơi. Mua vài món đồ cổ cũng là chơi, vẽ những bức tranh theo ý của mình cũng là chơi thôi, chẳng có chi quan trọng.
Tôi không có khát khao để thành nhà văn, nhà thơ như nhiều người ham muốn. Tôi cũng chẳng thích tham gia vào hội này, nhóm nọ. Tôi viết vì thích viết, thế thôi. Nhiều khi trước đám đông hay giữa hội hè người ta hay giới thiệu tôi là nhà này nhà nọ, tôi chỉ xin gọi tôi là anh nhà quê. Tôi thích làm nhà quê dù từ lúc sinh ra cho đến giờ là một lão già tôi chưa từng một ngày ở nhà quê với ruộng đồng, ao cá.
Tôi chỉ ở tỉnh rồi đi học và định cư ở thành phố này. Suốt cả thời gian từ lúc cắp sách học vỡ lòng cho đến khi học Đại học, tôi cũng chỉ học trong những ngôi trường to lớn và đẹp đẽ, chưa một giờ học ở trường làng. Nhưng tôi vẫn ước mình được sống ở nhà quê và làm anh nhà quê có chữ. Tôi thích những ngôi nhà cổ, những ao làng, những hồ sen, những khóm tre rì rào trong gió. Tôi khoái nghe những loài chim bình thường hót líu lo chào ánh mặt trời hay tiễn ngày đi, chiều tới cùng nhau về tổ. Tôi muốn nằm trên bãi cỏ nhìn mây bay về núi, nhìn sóng vỗ mạn bờ và nghe tiếng nước chảy từ suối nguồn. Tôi thích nghe những bài hát xưa ru con thôn dã, những bài hát đang dần mất đi. Tôi thèm nghe hát xẩm, thưởng thức điệu Quan họ, sáu câu vọng cổ rất mùi từ bãi nứa nương dâu, từ những con thuyền trôi lẻ loi trên sông vắng giữa hoàng hôn. Tôi thích ăn những món ăn dân dã, những con cá lòng tong, những con cá bống thệ kho quắt cay xé lưỡi chứ chẳng bao giờ thích những miếng steak nhạt nhẽo trong những nhà hàng sang trọng. Tôi ước ao được trở về tuổi nhỏ để ăn được những món ăn Mạ nấu, những món ăn với khẩu vị giờ không tìm thấy nữa.
Tôi không thích làm nhà văn nên xin đừng gọi tôi là nhà văn. Tôi có làm thơ nhưng đừng gọi tôi là nhà thơ. Tôi thích chụp những tấm ảnh đẹp nhưng cũng đừng gọi tôi là nhà nhiếp ảnh. Tất cả chỉ là những thú vui cho cuộc đời tôi thêm gia vị để thấy mình được trải lòng chứ không phải là nơi tôi đi tìm danh vọng, những thứ phù du. Tôi vẫn viết như những lời tâm sự mong có người nghe.
Tôi viết về những bất công, những điều đã và đang diễn ra trong xã hội này. Nhưng thật tình tôi chẳng muốn chống ai, không muốn kêu gọi ai để nhằm đập đổ cái gì. Tôi chỉ muốn nói lên những điều uất ức mà dân tình đói khổ đang phải chịu đựng. Tôi phản đối những kẻ có quyền ức hiếp, bóc lột xương máu của dân. Tôi viết khách quan, không định kiến, xấu thì lên án, tốt thì khen. Do vậy cũng đừng gọi tôi là nhà gì cả trong lãnh vực này. Đó chỉ là tiếng nói của người có chút tri thức và tấm lòng trước những vấn nạn của thời thế không thể đành tâm bịt mắt làm ngơ. Những bài viết đó chắc chắn chẳng có báo nào trong nước dám đăng. Trong đại dịch Covid ở thành phố này, hàng ngày tôi viết nhật ký về cơn dịch. Cuốn sách có tên Nhật ký Sài Gòn lockdown, nhưng chẳng có nhà xuất bản nào cấp giấy phép, đành giữ đó làm tư liệu cho mai sau về cơn đại dịch hãi hùng ở thành phố Sài Gòn. Có người xúi tôi đem in ở nước ngoài nhưng tôi không muốn làm thế.
Tôi chỉ muốn được bình yên, được sống hạnh phúc với người mình yêu thích, được an lành với cháu con khi tuổi đã cổ lai hy, được ăn những món ăn hợp khẩu vị của mình, được gặp cười vui với bè bạn, được có người để tâm sự buồn vui chứ chưa lúc nào tôi muốn trở thành nhà này nhà nọ bởi tôi biết mình vẫn còn nhiều hạn chế.
Nghề chính mà tôi được học nghiêm chỉnh là nghề vẽ học từ một xứ sở xa xôi. Tôi vẽ để kiếm sống chứ chẳng phải kiếm danh nên cũng chẳng tranh đua với bất cứ ai. Tôi thiết kế rất nhiều bìa sách nhưng tôi cũng rất chọn lựa khách hàng của mình. Nhiều người bây giờ rất muốn được gọi là nhà thơ, nhà văn sau khi đã có chức quyền, có lắm bạc tiền nhưng sách của họ chẳng có chút gì văn chương ngoài chuyện khoe thành tích hay những bài vè có vần điệu. Những người đó tôi thường từ chối không bao giờ nhận vẽ bìa cho họ dù có người trả gấp đôi giá bình thường. Có kẻ cho tôi là chảnh, nhưng đó là nguyên tắc của tôi. Tôi vẽ tranh theo ý thích của mình, cố không giống ai và cũng chẳng thích theo thời thượng hay phong trào để dễ bán kiếm tiền.
Tôi vẫn nghĩ rằng tôi chẳng là gì cả so với cộng đồng các nhà thơ nhà văn chuyên viết đúng đường lối đã vạch của Hội Nhà Văn nên tôi chưa bao giờ có suy nghĩ tham gia tổ chức này. Mà Hội này cũng chẳng cần biết tôi là ai. Đó là điều tốt đối với tôi khi tôi không có tên trong hàng ngũ của họ.
Đầu năm có đôi lời tâm sự. Được giải bày cũng là một niềm vui mở đầu cho năm mới. Chúc mọi người an lành và hạnh phúc.
Sài Gòn. 05.01.2023
DODUYNGOC




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jan/2023 lúc 9:46am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Jan/2023 lúc 9:38am

Hương Xuân | Truyện ngắn rất hay của tác giả Tiểu Thu  <<<<<<


THONG%20KE%20SACH%20.:%20.:TRUONG%20TRUNG%20HOC%20PHO



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 09/Jan/2023 lúc 9:42am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jan/2023 lúc 7:08pm


Gởi chiếc xe và bốn bánh chạy trên tuyết cho tiệm xong, trong khi chờ mấy cậu thợ trẻ giúp thay bánh xe, tôi tản bộ quanh khu phố. Sắp đi ngang đám đông tại trạm xe công cộng, tôi lấy miếng mặt nạ vải trong túi ra, đeo lên mặt mình cho đúng luật. Trời chưa có tuyết, nhưng sáng này thời tiết lạnh buốt. Hơi thở của mình bị miếng vải che bít mũi, không có lối thoát ra bên ngoài một cách thoải mái tự nhiên, và dưỡng khí hít vào cũng bị ngăn chận bớt. Từng chập, hơi thở của mình bị lớp vải mặt nạ bịt ngang mũi, phát thành những tiếng nghe như phì phò mệt mỏi. Luồng hơi nóng từ mũi thoát ra lại bị cái mặt nạ lùa lên phía trên mắt, bám vào tròng kính đang lạnh giá, tạo thành đôi vòng sương mù, làm cảnh vật quanh mình tự dưng mờ mờ, ảo ảo; khung cảnh quanh tôi như trời mùa đông đang có dày đặc sương mù.

Chợt thấy phía trước mình có bóng dáng ai đó đi ngược chiều đến. Cả hai chúng tôi đi cùng một bên lề đường. Theo luật của Bộ Y Tế, trong cơn dịch cúm lạ còn tràn lan này, tôi ép sang một bên cho trống đường. Người đàn ông phía trước tôi cũng lịch sự né sát qua phía bên kia. Vậy là chúng tôi cách ra khá xa, một khoảng cách đủ cho chiếc xe nhà loại nhỏ chạy qua. Từ cả năm nay, gặp nhau ngoài đường phố, khó thấy nụ cười thân thiện như bình thường; nếu có chăng, nó cũng đã bị khuất mất bên dưới miếng mặt nạ. Khác với những nơi người ta đã phải bịt mũi, che miệng, chỉ vì không khí bị ô nhiễm; cái mặt nạ nơi đây nó là hiện diện của những … lo ngại bệnh hoạn, sợ sệt lây nhiễm, cần tránh né nhau!

Người đàn ông chắc từ đám đông mới xuống xe ở trạm phía trước, đang đi đến gần tôi. Trông thì cũng có nét quen quen, nhưng ai nấy bây giờ phải bịt mặt, lại thêm cái nón mùa đông trùm kín, chỉ trông thấy cặp mắt; tôi không dám đoán bừa. Còn chừng năm ba bước phía trước, tôi ngó nhanh sang người đối diện thì thấy ông ấy cũng đang tò mò nhìn tôi. Hình ảnh người đối diện tuy không rõ, nhưng tôi chợt nhận ra ánh mắt có vẻ quen và có vẻ … cũng có tình cảm với mình lắm. Tôi đứng lại, lấy cái kính đeo mắt nhuộm sương mù ra. Thà là nhìn không kính như thế này, thấy còn rõ hơn là mang cặp tròng kính bị lờ mờ hơi thở của mình. Giờ thì, rõ ràng là ông ấy trông quen lắm. Tôi bèn lột miếng mặt nạ, bày trọn khuôn mặt mình và lên tiếng hỏi thăm bằng tiếng Việt; không quên kèm theo nụ cười xã giao, phòng hờ … mình đoán lầm người:

- Anh Vy đấy phải không?

Người đàn ông cũng đã dừng lại theo tôi, nghe gọi tên, bèn lột cái miếng vải trên mặt như tôi và cười thật tươi:

- Thì tui đây!... Thấy ông quen quen mà không chắc nên đâu có dám gọi …

- Tui cũng vậy… Thấy anh quen quá, nhưng không nhìn rõ mặt nên cũng không dám chào anh sớm! Đi đâu … mà đi bộ vậy anh Vy?

- Xe nằm trong tiệm từ hôm qua. Xong rồi, đi lấy xe đây … Anh đi đâu đó?

- Tui đem xe thay bánh chạy mùa đông, chắc cùng tiệm với anh, tiệm của người Việt mình.

Ông bạn già gật gù:

- Ừ, cùng tiệm rồi! Có mỗi tiệm Việt Nam trên đường này thôi… Thiệt tình! … bây giờ che mặt khó nhìn ra nhau, mà nhìn lâu thì lại ngại!

- Thì vậy! Lại thêm đã già rồi, mình cũng nên tránh … để mắt vào người khác, phải không anh!

Chúng tôi cùng cười vui, thông cảm nhau. Đứng cách xa để nói chuyện theo luật, xe cộ ồn ào quá nên nói như la hét với nhau. Để ông bạn già đi lấy xe cho xong, chúng tôi chia tay, quơ quơ bàn tay và nói chia tay khơi khơi thôi; từ lâu rồi, cái bắt tay thân mật như thời còn an lành, thời chưa có con vi trùng lạ, tự dưng trở thành kiểu cách xa xưa, hết còn hợp thời buổi rồi. Hình như, kiểu mới, hợp thời, là cạ cạ… cùi chỏ với nhau.

Đi một lúc thấy có quán cà phê, tôi qua bên kia đường và ghé vào. Quán này cẩn thận lắm, không cho khách vào bên trong, dù là khách mua để mang đi; họ chỉ bán hàng qua chỗ dành cho xe chạy ngang. Tôi đứng sắp hàng xa xa, sau chiếc xe. Khi xe phía trước mình chạy đi, tôi bước tới, lom khom nhìn qua khung cửa nhỏ, để nhìn cô bán hàng theo thói quen khi nói chuyện, dù ai cũng đang bịt mặt. Tôi mua cho mình ly cà phê và tiếp tục đi lanh quanh, cho hết giờ hẹn của tiệm sửa xe. Có ly cà phê ấm lòng và ấm bàn tay. Tôi rẽ vào con đường nhỏ vắng người, để khỏi mang cái mặt nạ bịt cả mũi và miệng, hít thở thiếu sảng khoái và không thưởng thức hương vị cà phê cho trọn vẹn được.

Cơn dịch cúm lạ làm mọi thứ bình thường trở thành lạ thường!

Rồi đến một ngày nào đó, được trở lại bình thường, không biết mình có thấy đó là bình thường hay không?

Đã là mùa đông. Qua Lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch thì Tết mình gần kề. Hồi còn nhỏ, Ba tôi dạy học nên được nghỉ Tết sớm như học trò, thường chạy xe về chăm sóc mộ cha mẹ mình trước Tết. Hồi ông Nội tôi mất, Ba tôi phải bỏ học, rời trường Petrus Ký, ở Sài Gòn, về quê nhà để chăm sóc mẹ già và ruộng vườn. Sau đó, quê hương ruộng vườn nơi Ba và bà Nội ở, về đêm hết còn yên bình. Đêm nghe tiếng chó sủa, biết là quân du kích lẻn về làng. Sáng ra, lại thấy người trong xóm bị giết, xác trôi trên sông hay thây bị bỏ ngoài phố chợ; kèm với tờ giấy ghi bản án dành cho “kẻ thù của nhân dân”, cột theo thi hài không toàn vẹn của người bất hạnh. Ba tôi đành phải bỏ ruộng vườn, đem mẹ mình trốn ra thành phố sinh sống và làm nghề dạy học. Thỉnh thoảng, Ba chạy xe về thăm viếng mộ cha mình và chăm sóc ruộng vườn, trong ban ngày mà thôi. Rồi bà Nội cũng rời phố phường nhộn nhịp, về thôn xóm nằm an nghỉ nghìn thu bên ông Nội. Mỗi năm hai lần, mẹ tôi thay Ba, dẫn anh em chúng tôi về thăm vườn nhà. Chúng tôi quét dọn cỏ hoang và mẹ dạy cho chúng tôi thắp nhang nơi mộ ông bà Nội, theo nghi lễ ngày Giáp Tết. Với tuổi thơ, đấy là kỷ niệm vui nhất; được về thôn quê thì mùa nghỉ hè hay nghỉ Tết, đều vui như Tết!

Chuyến đi về thôn xóm thời đó rất xa đối với tuổi thơ, thật vui và lại thêm rất thú vị, vì chúng tôi được đi bằng tàu đò và xe đò. Phương tiện chở người bằng đường bộ ở Việt Nam ngày xưa có nhiều loại xe, nên có nhiều tên gọi khác nhau theo địa phương. Nói chung, xe loại lớn có khoảng 50 chỗ ngồi, với người miền Trung đó là “xe đò”, với người miền Bắc là “xe hàng” hoặc “xe khách”. Loại xe nhỏ hơn, nhưng chèn nhét chở chen chúc từ 15 chỗ trở xuống, thì dân chúng miền Trung cho là “xe lô”, dân ở miền Bắc có chỗ kêu là “xe lô-ca-xông”, có chỗ kêu là “xe ca”. Trước ngày Sài Gòn bị mất tên, người từ miền Bắc vào miền Nam đã lâu, cũng như người ở miền Trung, sau này cùng dùng theo tên gọi của dân miền Nam, cũng thường gọi là “xe đò”. Rời thành phố, xe cộ thưa vắng hơn. Khung cảnh hai bên đường mở rộng ra với đồng quê yên bình, tươi mát, ruộng đồng mênh mông, các rặng cây xanh nối nhau như bất tận. Đường chạy ra ngoại ô càng lúc trống trải hơn. Tài xế tăng tốc độ, cho xe chạy vun vút. Hai lơ xe đứng bên hong và sau xe, thêm tai và thêm mắt cho tài xế. Họ tiếp tài xế ngó chừng đường xá cùng người và xe bên lề, cùng trông chừng hành khách trong xe. Họ rất linh hoạt, khi thì rút người vào, khi đứng một chân trên xe ma tung người ra. Lúc xe sắp qua cầu hay xe qua mặt nhau thì lơ xe vỗ thùng xe thình thịch, rồi hô lên báo tin và nhắc chừng hành khách nhớ rút tay, rút đầu vào bên trong xe để tránh nguy hiểm. Lơ xe chỉ rút vào bên trong xe khi hai xe qua mặt nhau trong đoạn đường hẹp, hoặc khi xe qua cầu mà thôi; hầu như lúc nào thân người của họ cũng đứng đu đưa, dang tay, bung chân và miệng thì oang oang các thứ diển biến cho hành khách và tài xế biết, hay chỉ chào đùa hoặc chọc ghẹo người bên đường cho vui. Thấy có người đón xe thì lơ xe báo cho tài xế chậm lại để rao mời kiếm thêm khách, nếu xe còn chỗ trống. Hai lơ xe lanh lẹ và tậm tâm lắm; phụ nhau đưa giúp người lên xe hay xuống xe được nhanh chóng và an toàn; nhất là khách với hành lý cồng kềnh, có dẫn theo trẻ con, hoặc người lớn tuổi … Chừng như ai cũng có bà con, thân thuộc với lơ xe; từ anh rể, chị dâu, bác, chú, ông ngoại, bà ngoại, khách có con gái trẻ đẹp đi theo thì thường sẽ được gọi là “Ba”, “Má”. Hoạt cảnh trên xe, trên đường, cùng tiếng động cơ, kèn xe, tiếng hô la, kêu gọi … đối với trẻ con chúng tôi thật là vui mắt và vui tai; không hề chán và quên mất những tù túng chật chội trong xe. Tuy ồn ào như thế, nhiều hành khách vẫn ngồi ngủ ngon lành; chắc có một số người lớn cũng thấy thú vị, nhưng thú vị một cách khác, có khi lại tình tứ và nhớ thương như tác giả Lê Duy Đoàn trong bài thơ “Ngày xưa, xe đò”:

Hồi xưa đi học xe đò,
Ngó lui anh đã lò dò theo sau.
Lên xe chẳng biết ngồi đâu,
Đành ngồi xuống ghế gần nhau vai kề,
Hương thầm người ấy lạ ghê,
Thoáng hương người ấy mà mê mẫn người,
Xa nhau mấy chục năm trời,
Tưởng chừng như vẫn còn ngồi gần nhau.

Xe đến bến, chúng tôi phải lấy một chuyến đò đi tiếp. Không phải là đò ngang, chỉ bơi chèo đưa người ngang qua bến sông bên kia; mà là một chuyến đò dọc, chở khách chạy dọc theo dòng sông một đoạn khá xa, mới tới đất vườn của gia đình. Trong khi chiếc tàu đò chờ đủ khách, chúng tôi được ăn quà vặt. Tôi thích nhất là món nước mía. Nước mía tươi thật thơm ngon, ngọt lịm, mát rượi với đá lạnh và thoang thoáng hương vị của trái hạnh. Đi tàu đò cũng thú vị không kém xe đò. Đối với trẻ con thành phố, được đi tàu đò thì thích lắm. Thời trước năm 1960, sông nước miền Nam mình chưa có “vỏ lãi”; loại ghe tàu hình dáng dài và hẹp, nên luồn lách và lướt vùn vụt trên mặt sông. Tàu đò lúc bấy giờ sâu và rộng nên vững vàng, nhưng chạy chậm hơn nhiều. Tuy vậy, những người từ thành phố về làng, mà không biết bơi như mẹ tôi thì nét mặt căng thẳng, lo cho mình cùng đám con trẻ trên sông nước. Mấy đứa em của tôi thì bị mẹ tôi nắm giữ tay chằng chằng. Mẹ không lo cho tôi lắm vì tôi biết bơi rồi, không bắt tôi phải nắm tay bà như mấy đứa em, nhưng mỗi khi tôi lảng vảng quá gần mé sông là nghe mẹ tôi gọi giật lại. Trẻ con chúng tôi chưa biết lo lắng, chỉ thấy vui và nôn nao mong cho mau được xuống tàu. Hành khách ngồi trên băng ghế gỗ, đóng dọc theo hai bên thành tàu. Chính giữa dành cho lối đi. Khung mui tàu thấp, người lớn phải đi lom khom. Hàng hóa cồng kềnh được chất trên mui. Máy đặt bên trong khoang tàu. Tài công ngồi ghế đầu, gần mũi tàu, có tay lái trông giống như lái xe đò, nhưng phía bên phải. Tốc độ tàu đò chậm hơn xe đò, sông rộng dễ tránh né nhau, nên người làm lơ tàu đò có vẻ nhàn hạ, không phải đeo bên hong tàu mà hô la như lơ xe; nhưng cũng rất tận tình giúp hành khách rời tàu hay lên tàu, vì những cây cầu gát lên bờ hẹp và khó đi hơn bước đi trên mặt đường. Khi tàu chạy, sóng cuộn rào rạt; ngồi thò tay ra cửa sổ, vói xuống sông đùa với sóng, sóng lướt qua kẽ ngón tay mát lạnh...

Khung cảnh thôn làng hiền hòa, thân ái, khác hẳn với chốn thành thị. Chuyến về thấp nhang mộ ông bà nội, thường là năm ba ngày trước Tết. Dù chưa hẳn là Tết, chúng tôi thấy mùa Xuân đã đến trên cánh hoa, trái cây tươi mọng, trong nụ cười, ánh mắt của mọi người quanh mình. Chỉ có những năm xưa ấy, khi còn cùng ba về thăm mộ phần ông bà, tôi mới thấy ba tôi thật tươi vui trong ngày Tết. Nhưng chỉ được vài ba năm, thì làng nhà bị đánh chiếm. Quân chiếm đóng làng mình xếp ba vào loại kẻ thù số một, vì ông là “công chức” và là “trí thức”. Do đó, mẹ và anh em tôi cũng thuộc thành phần “có tội với nhân dân”. Năm ấy, mẹ cũng dẫn chúng tôi về thăm viếng và thấp nhang mộ ông bà Nội vào dịp Tết, nhưng chỉ ở mới vài giờ, thì phải theo dân làng xuống ghe chạy giặc, ào ạt bơi chèo chạy ra ngoài chợ và về tỉnh thành ngay. Hè đến, ba tôi đạp xe chở tôi về làng, định đột ngột lẽn về thăm mộ cha mẹ. Như trong câu chuyện “Khi Tôi Về”, chỉ mới vừa qua chợ đầu làng thì gặp đoàn ghe xuồng của dân làng chạy tản cư ra chợ; nơi có đồn bót của quân đội mình bảo vệ. Tôi nghe bà con trong xóm nói với ba tôi, phía trước là hầm chông và mìn bẫy; đã lâu lắm rồi, không ai dám dùng đường bộ, chỉ chèo chống xuồng đi lại trên sông mà thôi. Thật vậy, con đường mòn phía trước trông âm u quá; cỏ dại, cây hoang mọc um tùm, chỉ còn chừng hai bàn chân người bước đi. Ba thẫn thờ, quay chiếc xe đạp về hướng chợ. Tôi leo lên yên xe ngồi. Ba tôi chậm chậm đạp xe, như luyến tiếc xa rời thôn xóm của mình. Tôi chưa hiểu hết ngọn ngành, chỉ thấy Ba tôi buồn lắm, nên ngồi yên lặng, không dám nói hay hỏi han chi thêm.

Thế rồi, từ mùa hè đó, mộ phần ông bà nội tôi không may lọt vào vùng bên kia chiến tuyến, gia đình chúng tôi không còn về thôm xóm như trước. Từ đó, gia đình tôi chỉ làm lấy có ngày Tết, theo vài nghi thức cần có trong ngày Tết tại thành phố. Ba tôi không còn tha thiết đón Xuân cho lắm. Tết đến, nhà không có nhiều khách. Hàng xóm, đồng nghiệp và ba qua lại, gọi là chúc Xuân. Về “Mừng Tuổi” bà ngoại thì nhà bà cũng vắng, hai cậu của tôi trong quân đội, xa xôi nơi đóng quân, không được về phép. Tôi cũng không còn cảm thấy Tết là vui hay đặc biệt cho lắm, như trong thời miền Nam còn yên bình và mình được về trong làng. Có tiền, cùng bạn bè đi xem phim, đi ăn uống lặt vặt… cho hết mấy ngày Tết. Nhưng, những thứ ấy ngày thường trong năm cũng có, không phải chờ đến Tết. Không có gì thay thế được cho niềm vui của tuổi thơ, nơi thôn xóm có mộ phần ông bà, nay đã bị chiếm đoạt mất rồi. Và rồi sau Tết Mậu Thân năm 1968; cái Tết tang tóc, kinh hoàng…

Từ đó, ngày Tết lại càng thêm khác!

Khác nhiều lắm!

Tết đã không còn là Tết của miền Nam, với niềm vui trong an lành hạnh phúc, như trước đây. Tết trở về nhắc nhớ lắm tang thương. Đến sau tháng Tư năm 1975, chốn tù đày đã không có mùa xuân, đó là điều hiển nhiên. Khi về xã hội bên ngoài nhà tù thì cũng vẫn thế. Quanh tôi, cũng vẫn các thứ giống như trong trại tù. Cũng lá cờ đỏ. Cũng các băng đỏ. Cũng tiếng loa từ khóm phường với các âm thanh nheo nhéo xa lạ, nối nhau châm chích vào tai và xuyên xéo tận óc, suốt ngày dài đến khuya tối. Nghe như trong tù, cùng một kiểu cách nói với chữ nghĩa khác thường, kỳ dị …

Tôi vẫn còn nhớ mùa Xuân!

Nhưng Sài Gòn đã mất tên và đất nước mình đã tuần tự bị nhà cầm quyền đem dâng hiến cho quan thầy nơi phương Bắc. Trên quê hương Việt Nam bây giờ, Xuân chỉ còn là các thứ “mừng đảng mừng xuân”, “đại thắng mùa xuân” … Những câu tuyên truyền được chế độ cầm quyền lập đi lập lại từ năm này sang năm khác; người ta viết vẻ, sơn phết chúng trên nền màu đỏ, treo trên căn phố, cơ quan, cột ngang qua đường, qua hẻm. Chúng nó trông giống như những lớp băng nhuốm ướt máu, trên các vết thương chưa hề lành của hàng triệu người dân Việt Nam bất hạnh.

Từ đó, Tết đã không còn là Tết!

. . .

Trời mùa đông lạnh, cà phê trong ly bị lạnh theo nhanh lắm. Thành phố nơi đây đang là mùa đông và rồi mùa xuân cũng sẽ đến. Mùa xuân cũng sẽ trở về trên vạn vật. Nhưng Tết đã vẫn không còn là Tết trên quê hương Việt Nam mình, mà là … “nhiều niềm đau thương bi hận tràn đầy”, như nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã ghi lại trong dòng nhạc “Em Còn Nhớ Mùa Xuân”, được sáng tác tại Sài Gòn sau năm 1975:

“Trời Sài Gòn chiều hôm nay còn nhiều mưa bay
Nhiều niềm đau thương bi hận tràn đầy
Gượng nụ cười giọt lệ trên môi
Nhìn đất nước tơi bời một thời em có hay …”

Tết. Sài Gòn. Có đâu bằng Sài Gòn hôm qua.

Sài Gòn đã mất!

Tết!

Bùi Đức Tính

 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jan/2023 lúc 9:51am



Đôi lời của người viết:
Một mùa Xuân, tôi có ý định đem vứt đi cây Quất già trồng trước cửa,nhưng lần lữa nửa muốn nửa không. Tôi nói điều đó với chị tôi, chị bảo: “Hoa không phụ người sao người lại phụ hoa”. Vì câu nói ấy tôi vẫn giữ cây lại. Lạ lùng thay, buổi sáng mùng một Tết, tôi bước ra hiên và xung quanh tôi thoang thoảng hương thơm từ những chiếc hoa xinh xinh màu trắng, với những chiếc lộc non trên cành quất xác xơ. Đó là lý do tại sao tôi đã viết câu chuyện “Giấc Mộng Đêm Xuân”.

Hoa%20Mai%20-%20Banner%20Mai%20Vàng%20PNG%20Image%20|%20Transparent%20PNG%20Free%20Download%20on%20%20SeekPNG

Năm nay Xuân về, Tết đến muộn, sắp bước qua tháng hai Dương lịch nên tiết trời thật là ấm áp. Mùa Xuân đã trải những vạt nắng hồng trên sân cỏ còn ướt sương, bầy chim cũng thức dậy hót líu lo trước hiên nhà mỗi buổi bình minh.

Trước Tết độ nửa tháng, Nguyễn, chủ nhân căn chung cư hai phòng ngủ, nhưng hàng hiên rất thoáng và rộng, đã dọn dẹp mớ cây cảnh trong những chiếc chậu sành tráng men trước cửa nhà. Tuy chưa đến tuổi điền viên, nhưng mỗi ngày đi làm về, chăm chút mấy cây kiểng cũng là thú vui của Nguyễn, đỡ phải nghĩ ngợi chuyện đời vốn vui ít, buồn nhiều. 

Sống cảnh đời cô độc, không vợ không con, không họ hàng thân thích, Nguyễn đã quen dần với cái cô độc, tĩnh mịch của tâm hồn. Có lúc chàng cũng nghĩ đến chuyện ở chung với một người bạn nào đó, chia nhau chút tiền điện, tiền nước hằng tháng, nhưng chàng lại vội thôi ngay, vì chỉ sợ sẽ đánh mất cái tự do được yên tĩnh sống một mình. Có khi chàng tự chế giễu mình, “lòng mình còn không hiểu nổi huống chi lòng người”. Đây chỉ là lối an ủi của người sống mà không biết rằng mình đang sống, đau mà cố quên rằng lòng mình đang đau.

Năm nay tự nhiên Nguyễn có ý định cần phải thay đổi một cái gì, khi nhìn những chậu cây chàng trồng trước cửa. Hai cây thông đất khỏe mạnh tươi tốt, bất chấp sự thay đổi của thời tiết, mấy giò phong lan đang trổ hoa rất đẹp dù không được tưới tắm bao nhiêu. Giống này rất lạ, không ưa nước.

Nguyễn tưởng sự chăm sóc sơ sài của mình thì chẳng hoa nào sống được, vậy mà giờ này nó vẫn đơm hoa. Riêng cây quất nom có vẻ cỗi, cách đây bốn năm cũng vào dịp Xuân về, vợ chồng người bạn đã mang tặng chàng, với nhã ý đem cái sung túc, xum xuê, tươi thắm của cây cỏ để chàng khỏa lấp phần nào nỗi hiu quạnh. Hai năm đầu chàng còn chăm tưới bón, nhưng đến mùa Xuân thứ ba chỉ còn lác đác dăm quả vàng óng trên cành cây xơ xác cằn cỗi, nhìn rõ mà phát chán. Nắng hè hừng hực rồi mùa đông giá rét đã cướp dần sinh lực của cây, như người con gái chỉ vui có một mùa cưới, rồi thì cũng quắt quay với những tất bật của đời.

Dạo này tự nhiên Nguyễn hay có những nỗi buồn vô cớ, đến nỗi chểnh mảng cả việc săn sóc cây cỏ. Mỗi độ Xuân về, Nguyễn lại nghe lòng mình chìm ngập trong một nỗi buồn không đâu. Lắm khi chàng nhìn đăm đăm vào một chiếc lá xanh, nhìn để mà nhìn chứ hồn chàng dường như đã gửi vào một nơi chốn rất xa xăm, có thể là một khoảnh đời trong dĩ vãng. Ở đấy biết bao kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, muốn thoát ra rồi lại muốn quay về, khi con người đến lúc sống bằng những hồi tưởng dĩ vãng. Nhìn hoa, nhìn lá, lắm khi Nguyễn đã ngậm ngùi nhìn rõ mối tương quan giữa con người và cây cỏ, mới ngày nào tóc còn xanh mà nay đã sợi đen sợi trắng, mắt đã bớt phần tinh anh, đuôi mắt thì hệt như  chiếc lá héo. Không có gì chống chỏi nổi với thời gian, sự luân chuyển của vũ trụ vẫn quay đều, Nguyễn nghe như đời dần dần ngắn lại.

Đêm nay, đêm cuối năm. Dù chỉ có một mình, Nguyễn vẫn có thói quen bày biện chút bánh trái để cúng Ông Bà. Trên chiếc bàn con là tấm ảnh của cha mẹ chàng đã ố vàng với thời gian, tấm hình duy nhất còn lại mà chàng nâng niu gìn giữ. Trong cái đêm ngày cùng tháng tận, mùi nhang khói lãng đãng trong không gian, lòng chàng lại chập chùng với biết bao kỷ niệm buồn vui, rất nhiều lần Nguyễn nghe như có tiếng sụt sùi của những giọt nước mắt, chảy ngược vào tim khiến chàng xúc động đến run rẩy.

Nguyễn mở hé cánh cửa kính, một làn hơi mát lạnh từ bên ngoài ùa vào căn phòng vắng, không phải thứ gió lạnh giữa đêm Xuân, mà nếu nghĩ ngợi thêm chàng cứ ngỡ đó là cái dịu dàng của dáng Xuân, đang rón rén bước vào, quấn lấy chàng trong một cảm giác kỳ thú. Đêm dịu dàng vô cùng, ngoài sân cây đào cũng đang rung rinh những nụ hoa mới nở dưới đêm sương, Nguyễn hình dung ra cây cỏ cũng đang nín thở để tận hưởng chút êm ái của đêm giao mùa.


Tự nhiên Nguyễn lại muốn nghe một vài bản nhạc Xuân quen thuộc trong một đêm tuyệt vời như đêm nay. Lâu lắm rồi, năm nào cũng đón Tết một mình, chàng có bao giờ lại có được cái êm ả như vậy. Chàng mở nhạc rồi lười biếng thả mình trên chiếc “sofa” ngoài phòng khách, nhắm mắt lại để tận hưởng những âm thanh dặt dìu trong đêm vắng. Trong lúc mơ màng thả hồn với suối nhạc êm đềm, Nguyễn mơ hồ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng lá hoa rì rào từ mấy chậu hoa, rồi giọng ngọt ngào của ai đó gọi tên mình, ngay khi ấy bóng một phụ nữ đã xuất hiện trước khung cửa...

Nàng mặc chiếc áo vàng, màu vàng tươi thắm làm cho khuôn mặt ửng hồng, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi phơn phớt màu hoa đào và từ nơi nàng toát ra hương của hoa cỏ, rất thanh khiết. Chưa bao giờ Nguyễn thấy một vẻ đẹp nào thanh lịch hơn, không phải nét ngây thơ nũng nịu của cô gái mới lớn, cũng không son phấn lả lơi mời gọi của một ả giang hồ. Từ nơi nàng toát ra một vẻ là lạ khiến chàng phải kính nể. Nàng lên tiếng, âm thanh cao và trong trẻo:

“Đêm Xuân, đến thăm chủ nhân lúc này thật là đường đột, mong ông vui lòng thứ lỗi. Gần gũi đây mà mấy độ Xuân về, không chia xẻ được nỗi niềm với người cùng quê lòng thật là áy náy. Thôi thì mỗi năm có một mùa, một mùa có một ngày như đêm nay, ông cho phép thì tôi xin được vào đàm đạo mấy lời.”

Nguyễn thấy thật là lạ lùng, tuy vậy chàng cũng vẫn giơ tay lịch sự mời khách, cố moi óc để nhớ xem quanh đây có ai giống nàng, mà nếu có thì chàng cũng chẳng biết, vì ngày nào cũng đi làm từ sáng tinh mơ, chiều về tưới cây qua quýt rồi lại chúi đầu vào đọc sách. Khu chung cư lẫn lộn dân tứ xứ, lâu nay cũng thấy có nhiều người Việt dọn đến rồi dọn đi, Nguyễn cũng chẳng quan tâm. Sự xuất hiện của người thiếu phụ áo vàng trong đêm nay làm chàng ngạc nhiên, vừa ngạc nhiên lại vừa thích thú. Hay nàng chỉ là một hồn ma, sự gặp gỡ một bóng ma đẹp trong đêm nay chẳng thích thú lắm sao!

Nguyễn rót trà mời khách, bình trà cúng giao thừa vẫn còn ấm, chủ khách nhìn nhau bỡ ngỡ. Chàng khách sáo mở lời:

“Thật quý hóa quá! Mấy năm nhà cửa vắng vẻ vì chỉ có một mình, nay có khách đến thăm, lại là một giai nhân, năm nay chắc may nhiều hơn rủi.”

Thiếu phụ cũng cười, trông nàng thật có duyên, sắc áo vàng như rạng rỡ theo nụ cười của giai nhân, khiến nàng bội phần kiều diễm, tuy vậy người đối diện lại vẫn không dám buông lời bất nhã.

“Cám ơn ông đã quá khen. Trong phòng này ấm quá, nào nhang thơm, nào trà ngon, chủ nhân thật là tươm tất. Mùa Đông đã qua, năm nay Xuân về tiết trời ấm áp, người người cây cỏ cùng rạo rực đón Xuân sang. Riêng chủ nhân, sang năm mới phải tìm một bóng hồng cho vui nhà, vui cửa.”

Nói xong, nàng nhìn Nguyễn ý nhị khiến chàng bỗng dưng nghe lòng mình xao xuyến. Chàng thở nhẹ:

“Không giấu gì cô, từ ngày sang đây đời sất bất xang bang nên chưa dám nghĩ đến chuyện vợ con. Bây giờ đã qua đi tuổi ấy, ngoảnh lại thấy mình đã già lại càng không dám nghĩ. Thôi thì “lần lữa ngày qua tháng lại qua”, riêng tôi lại có nỗi niềm riêng, biết ai là người tri kỷ?”

Thiếu phụ nâng tách trà nhấp giọng, thanh âm lắng xuống bùi ngùi:

“Biết ông đã mấy năm mà không chia xẻ được thật là đáng tiếc. Chúng ta cùng gốc gác trời Nam, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau nhưng cũng đồng cảnh ngộ, lưu lạc nơi xứ lạ quê người. Qua xứ này, khác biệt từ văn hóa cho tới phong thổ, cây cỏ còn héo hắt huống chi con người. Sẵn đây cũng kể ông nghe, tôi được một người Việt Nam khi ra đi mang theo làm bạn cho đỡ nhớ quê cha đất tổ. Đất nước quê người khác đất nước quê mình, chí lớn không thành, sống một đời cô quạnh, chủ nhân tôi buồn rầu sinh ốm đau, bịnh tật rồi chết, thân tôi lưu lạc bốn phương. Dù sao, vì vận nước mà phải nổi trôi đến nơi này, nhưng có sao chăng nữa thì vẫn giữ nguyên cái tình chung thủy với nước non, cốt cho xứng là người dân nước Việt.”

Nguyễn nghe lòng dạt dào xúc cảm. Tâm sự của người phụ nữ áo vàng cũng giống như tâm sự của chàng, ngoài chuyện tình cảm riêng tư thì vẫn mang một nỗi niềm chung, mang kiếp sống tha hương nơi xứ lạ. Nguyễn thổ lộ, tự nhiên sao đêm nay chàng lại đem nỗi lòng của mình kể cho người khác nghe, trong khi tính chàng vô cùng kín đáo:

“Cũng chẳng ai muốn bỏ quê hương mà đi, thưa cô, dù có phải vất vả vì miếng cơm manh áo. Sang bên này, tôi lại cũng mất mát khá nhiều. Tuổi thanh xuân và tình yêu của tôi đã mất theo năm tháng, tôi như bị ngột ngạt trong cái không khí nặng nề của sự nghi kỵ. Hơn nữa vợ tôi…”

Nguyễn im lặng thở dài. Chàng tự hỏi không biết có nên nói ra những điều này không? Người phụ nữ vẫn im lặng nhìn chàng chờ đợi. Nguyễn tiếp:

“Nàng gần giống như cô, cũng hay mặc màu áo lụa vàng mỗi độ Xuân về. Xin lỗi cô nhé! Đây chỉ là sự trùng hợp khi đêm nay cô đến đây với màu áo vàng của nàng năm xưa, thuở tôi còn là một người lính. Nay coi như đã hết, có lẽ nàng đã thay mấy lần áo như hoa nở mấy lần hoa, nàng còn trẻ quá làm sao chờ đợi được. Tôi không hề trách nàng dù từ đấy đời tôi không còn có mùa Xuân, sống lêu bêu như cây cỏ, có lẽ cái số của mình đã vậy, không thay đổi được. Đời lại không lối thoát, tôi muốn hòa nhập vào xã hội để sống như một người bình thường, nhưng xã hội lại không chấp nhận mình, vì thế chỉ có một cách là thoát ra thôi cô ạ.”

Thiếu phụ cúi đầu lặng lẽ, nhưng trong mắt nàng đã rưng rưng hai hạt lệ:

“Tội nghiệp ông, sao đời buồn thế ông nhỉ? Bao nhiêu năm nhìn ông thui thủi trong căn nhà này, tôi cũng nghĩ ông có tâm sự gì đó nhưng không tiện hỏi. . .”

Nguyễn gật đầu. Chàng rót thêm trà vào tách để nén xúc động:

“Thế là tôi vượt biên. Bao nhiêu ngày sóng gió, đói khát trên biển, cuối cùng cũng đến được nơi đây. Xã hội này mở cửa cho tôi bước vào, mười năm qua mà cũng chẳng làm được gì. Cuộc đời thì vẫn những con người bon chen, đố kỵ, tâm hồn nhiều mất mát khiến tôi chả thiết tha gì nữa, co rút lại trong cái vỏ ốc cô đơn của mình, mãi rồi không muốn hòa nhập với bên ngoài, dù biết là mình vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở. Đêm nay cô đến đây, có lòng chia xẻ cái vui của ngày đầu Xuân, tôi vô cùng cảm kích. Sẵn đây cũng xin được hỏi, chắc là cô cũng ở gần đâu đây?”

Thiếu phụ áo vàng nở nụ cười kín đáo, vẻ bí mật:

“Vâng, thưa ông, rất gần nữa là khác. Ông có biết mà dường như không biết, vì tâm hồn ông đã gửi tận đâu đâu. Tôi có cảm tưởng ông nhìn mà không nhìn, thờ ơ với tất cả, ông làm cho có chuyện chứ chẳng thiết tha gì, bởi vậy dù có muốn chia xẻ điều gì cũng ngại ngần không tỏ được.”

Giọng nàng ra chiều hờn giỗi, còn Nguyễn lại ngạc nhiên quá sức:

“Thực thế hở cô? Lâu nay tôi cứ tưởng chẳng ai chú ý đến mình nữa, không ngờ đã phụ một tấm lòng, cô bỏ qua nhé!”

Giọng nàng thật dịu dàng, nửa như trách móc, nửa như ủi an:

“Bởi vậy có những việc ông làm cho người khác ông cũng không để ý làm như thế để làm gì, ông không lắng nghe lời thì thầm giao cảm giữa đôi bên, thì làm sao thấy được niềm vui giữa người cho kẻ nhận. Lắm khi ông lại tạo cho mình rất nhiều ngộ nhận, ích kỷ, vô tình, lãnh đạm, hay có khi người ta cho ông là một kẻ kiêu căng, khối người đã nghĩ về ông như thế. Riêng tôi thì tôi hiểu, bản thân ông là thiện, không hề làm hại ai, nhưng sao không mở tấm lòng mình ra cho đời bớt khổ, cứ phong tỏa lấy mình để rồi chán ngán một mình, cửa cứ đóng thì làm sao ai mở được.”

Nghe những lời nàng nói, những nhận xét của nàng chính xác đến nỗi Nguyễn phải giật mình. Quái lạ! Người đàn bà này là ai sao có thể hiểu chàng thấu đáo, cặn kẽ đến thế. Tự nhiên chàng ao ước, giá mình có một người bạn đường đáng yêu như vậy thì dẫu chết cũng cam lòng. Có tới hai mươi năm rồi, từ lúc vợ chàng bỏ đi, mới đầu Nguyễn thấy lòng đau đớn, tái tê rồi lạnh lẽo hẳn, đối với chàng từ lúc ấy, đàn bà chỉ là sự đùa cợt, thoáng chút vui cho đời bớt phần tẻ lạnh, không thể biểu hiện cho điều gì cao cả. Sự xuất hiện đột ngột của người thiếu phụ áovàng đêm nay, khiến chàng hiểu mình đã khép kín lòng mình trong hoang tàn, đổ nát, tối tăm. Thiếu phụ lại nói:

“Ông Nguyễn ạ, có lẽ ông phải dẹp bỏ mọi thành kiến với phụ nữ và cả với cuộc đời nữa. Tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, mỗi người là một đơn vị trong muôn ngàn đơn vị mà Thượng Đế đã tạo nên, ta chẳng nên tự tôn mặc cảm hay tự ty mặc cảm. Nếu không có số 0 làm sao 1 lại trở nên 10, cái này bổ khuyết cho cái kia là vậy. Ông Nguyễn nghĩ xem, nếu không có người đổ rác, làm gì có sự sạch sẽ để có một môi sinh tốt đẹp cho người khác hưởng. Ngay cả các triết thuyết của các bậc cao nhân, cũng trở thành số 0 nếu nó không được cái đám đông của số 0 kia hưởng ứng. Chúng ta cứ lòng vòng ở những cái tầm thường nhất, để thấy rằng chẳng có gì là tầm thường cả, phải không ông Nguyễn?”

Nguyễn chỉ im lặng lắng nghe, khẽ liếc nhìn nàng chờ đợi. Dáng vẻ của nàng trang trọng tuyệt vời, mà mỗi lời nói lại vô cùng khúc triết:

“Tôi hiểu ông vì giữa ông và tôi có những cảm nhận giống nhau, tâm cảm thì dường như đồng nhất, nhưng quan niệm sống của mỗi người lại hơi khác. Cây cỏ mọc ở phương Nam đem trồng trên đất Bắc, làm sao mà tươi tốt cho được. Con người cũng thế, nhưng nếu biết thích nghi với hoàn cảnh, biết vượt qua những khó khăn nhất thời, giản dị tìm cái tương đối của nó thì cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa. Chúng ta vẫn phải làm một điều gì có thể, dâng hiến cho đời , chia cái Ta có cho Người thì mới hoàn toàn hạnh phúc, ông có đồng ý vậy không?”

Nguyễn ngạc nhiên đến thán phục. Những lời người phụ nữ vừa nói ra có một sức thuyết phục mạnh mẽ, khiến chàng cũng thấy mình cần thay đổi cái nhìn, cũng như những thành kiến về cuộc sống xung quanh. Chàng tỏ vẻ bối rối:

“Vậy mà bấy lâu nay tôi đã khổ sở với nỗi cô đơn của mình, nếu không có cuộc gặp gỡ đêm nay, biết bao giờ tôi mới tìm lại được niềm vui của tâm hồn. Không biết thì thôi, biết rồi thỉnh thoảng mời cô tới đây cùng đàm đạo chuyện văn chương, sách vở. . . “

Nguyễn nói với tất cả tấm lòng thành thật của mình khiến người phụ nữ áo vàng cũng bùi ngùi xúc động:

“Tôi không biết nói với ông thế nào, nếu cơ duyên còn gặp lại thì đó là một điều vui, nhưng nếu không còn gặp nhau nữa thì tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ông. Còn phải cảm ơn ông nữa là khác, như mặc chiếc áo đẹp phải cảm ơn người thợ dệt, người này mang hạnh phúc đến cho người kia, đó là chân lý của lẽ sống. Ngày nào mình còn làm được điều gì tốt đẹp ta cứ làm, không mặc cảm mình là người hèn kém hay thừa thãi trong xã hội. Giống như đêm nay, coi như chúng ta chưa biết nhau, vậy mà tôi vẫn đến đây, để chúng ta cùng có một đêm Xuân đầy ý nghĩa.”

Nguyễn chỉ thấy ngỡ ngàng mà không hiểu nàng nói gì. Người thiếu phụ áo vàng đứng dậy, khoát một cử chỉ tạ từ, giọng nàng lại cất lên trong vắt, âm thanh tươi vui như tiếng hót của một loài chim:

“Xuân về, mong ông tìm được niềm vui cho tâm hồn, nhớ chia lại niềm vui ấy cho mọi người và mọi loài ông Nguyễn nhé!”

Nguyễn chưa kịp nói gì thì bóng nàng đã thoắt ra cửa, tan dần trong màn sương trắng đục như sữa. Trời đã ưng ửng sáng, tiếng chim hót líu lo ngoài hiên làm chàng tỉnh giấc, thì ra chàng vừa trải qua một giấc mộng. Nguyễn thấy tiếc ngẩn ngơ, dường như hương thơm của người phụ nữ áo vàng còn vướng vít đâu đây.

Nguyễn pha một bình trà ngon cho buổi sáng đầu Xuân, tách trà thơm như càng ý vị với hình ảnh giai nhân trong giấc chiêm bao. Chàng mở cửa bước ra hiên, cây cỏ sau một đêm Xuân bừng bừng sức sống, nắng vàng đã lóng lánh trên những giọt sương đêm. Lạ thay! Nguyễn chợt nhìn thấy những lộc non đơm đầy trên cành quất xác xơ, bao nhiêu nụ trắng đang nở hoa, tỏa mùi thơm bát ngát. Chàng nâng nhẹ một nhánh cây, trên ấy còn sót lại một quả quất vàng từ mùa năm trước. Bỗng một làn gió Xuân làm run nhẹ những chiếc lá non trên tay chàng, trong một thoáng bâng khuâng, Nguyễn có cảm tưởng người thiếu phụ áo vàng chính là hồn cây quất trời Nam, đã đến với chàng trong giấc mộng đêm Xuân.

 

Nguyên Nhung



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Jan/2023 lúc 9:57am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Jan/2023 lúc 7:11am

Truyện ma : BỮA CƠM CUỐI CÙNG - Rơi nước mắt trước phận đời tha hương    <<<<<<

Truyện%20Ma%20Bữa%20Cơm%20Ngày%20Cuối%20Năm%20Mp3%20-%20Truyện%20Ma%20Nguyễn%20Huy


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Jan/2023 lúc 7:27am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2023 lúc 9:04am

Mùa Xuân Chim Én Bay Về





                                                 

                    Ngọc Nga ở nội trú trong cư xá Thanh Quan, riêng phòng của nàng có   bốn nữ sinh viên, trừ Nga ra người nào cũng có bạn trai, lúc rảnh họ thường nói về cuộc sống tình tứ lãng mãn , họ kể cho nhau nghe các buổi đi chơi ngoại cảnh kỳ thú trong những ngày hè. Nga tư nghĩ, nàng không phải là người hình dáng xấu, gương mặt nàng cũng có nét ưa nhìn. Sánh với Cúc và Mẫn thì nàng hơn nhiều: Cúc  có đôi mắt le lé, ngó gà có thể thành ra cuốc, Mẫn thì có mái tóc như rơm cháy. Thế mà hai cô cứ hao háo khoe mình là có duyên., có khi buông lời bóng gió diễu nàng Nga chiếc bóng!

          Thực ra cũng có nhiều bạn trai  theo đuổi và cầu thân với nàng, nhưng sao nàng không có cái cảm giác đồng thuận với người ta. Có lúc Nga thầm  hỏi : hay là mình khó tính,  hay là mình bất thường!? Những ý nghĩ như vậy chỉ bất chợt thoáng hiện  rồi vụt tắt, nàng trở lại bình thường chăm học, ngăn nắp, không làm phiền lòng ai.

          Trong một lần trường tổ chức ca nhạc, các bạn cùng lớp với Nga ngồi quay quần dưới góc cây phượng, bất chợt con nhỏ Trường nó hỏi:- Ê Nga sao không tìm một bạn trai nói chuyện chơi cho vui?

          -Ủa sao mi cũng ngồi ở đây một mình vậy? Nga đáp chỏi lại.

          - Trường trả lời rất hãnh diện:-có chứ , ảnh đang chơi bóng rổ sân sau kìa.

          -À tôi cũng dễ và đơn giản thôi: Ai mà xếp cho tôi 2000 con én trong  ba ngày thì tôi nhận làm chồng!

          -Trời ơi thật sao? Hạnh ngồi kế bên hỏi to.

          Nga nghiêm giọng :tôi nói thật và chính xác như vây!

          Cả bọn vỗ tay cười lớn.

          Ngay sau đó, Nga cúi nhìn xuống đất, hơi hối hận vì mình dường như đùa giởn với hạnh phúc của mình!

.Sau đó trở về phòng trọ, thời gian lặng lẻ trôi, các bạn cũng im lặng không ai hỏi đền vụ Nga hứa dưới sân trường. Đầu tuần lễ sau buổi chiều đi học về, vừa bước vào phòng Cúc gọi Nga và nói :- Có một chàng trai gửi cho chị cái hộp để trên bàn đó.

Nga nhe nhàng nói:- cám ơn chị. Nàng tiếp tục vào buồng thay áo và cất sách mới trở ra mở chiếc hộp, cả phòng nóng lòng muốn biết, nhưng tất cả im lặng nhìn xem. Chiếc hộp được mở toạt ra có người ồ lên một tiếng ngạc nhiên thích  thú: những con én nhiều màu rất đẹp được xếp thành lớp trong hộp!

Tim nàng đập mạnh rất ngột ngạt…lại nhận được một bức thư:” Nga, tôi là người đặt nhiều cảm tình nơi bạn. Tôi nghe câu nói đùa của bạn nên tôi hết sức cố gắng xếp những con chim én nầy để tặng bạn. Mong bạn vui nhận. Ngày thứ bảy lúc bảy giờ chiều mong gặp bạn đối diện cư xá bên kia đường”  Đọc xong thư nàng vội xếp bức thư bỏ vào học bàn. Nàng nói lầm thầm: -chết rồi, lại rắc rối!

Mấy bạn xúm bên Nga bàn tán, người thì nói anh chàng nầy thật khéo tay, người thì nói :- anh chàng nầy cũng lạ kỳ nha! Có người  đính chính không hề tiết lộ lời của Nga.

Nga nói:- không , không liên quan gì đến các chị, nhưng Nga thầm nghĩ: rồi sẽ thành chuyện lớn! Những ngày kế tiếp nàng như mất hồn, ăn kém, học hành lôi thôi! Các bạn thấy thế  cố an ủi Nga…Thời gian cứ lặng lẻ đến chiều ngày thứ bảy…Trong chiếc áo dài màu kem, nàng vén khéo lại mái tóc, các bạn nhìn Nga , tất cả im lặng nhưng  đều đoán biết nàng đi đâu rồi. Bước ra sân cư xá nàng  thấy chàng đứng bên kia đường ngó sang, y phục rất chỉnh tề: ao sơ mi dài tay , quần màu sậm , tóc hớt ngắn. Nàng vừa ra tới ngõ thì chàng băng vội qua đường đến giáp mặt Nga.và nói:-chào bạn tôi là Minh Triết

Nàng im lặng và bước xéo qua đi dọc theo lề đường, chẳng mấy chốc họ bước vào một công viên nhỏ,Triết chỉ một băng đá và nói:- mời bạn ngồi

Và nói tiếp mấy con én đó tôi xếp đúng ba ngày  đến phồng tay!

          Nga đáp hơi cộc:- nhưng mục đích anh đã đạt được rồi mà. Sao anh không hỏi tôi trước  Anh có biết anh bất lịch sự vì nghe lén câu chuyện của chúng tôi!

          -Tôi tình cờ nghe được, thật tình tôi muốn làm quen với bạn thôi, Triết ôn tồn nói.

          Sao anh không dùng cách khác, Nga nói.

          -Triết kiên nhẫn:-tôi cũng không muốn bạn hứa gì đâu!

          -Nghĩa là lý gì ,Nga bước vội đi rớm nước mắt.

          -Triết bước theo và nói vói theo:-Bạn về đếm kỹ các con én xem sao, tuần sau cũng giờ nầy ta gặp lại cho biết ý nha, tôi đợi đó!

          Về đến phòng trọ Nga vội đem hôp đựng én ra đếm ngay, lần đầu đếm chỉ được 1999 con, nàng nghĩ mình đếm sai, đếm lại lấn hai cũng chỉ 1999 , lần thứ ba thứ tư cũng chí 1999, mắt nàng thật mõi. Nàng nói thầm đúng là thiếu một con chim én, nàng nghĩ :anh chàng nầy thật cố ý cho ta hiểu quan trong là con én thứ 2000 đó. Nàng đi ngủ trằn trọc, không còn giận dỗi nhưng nhiều cảm xúc!

          Mấy hôm sau khi từ dưới phòng ăn lên Cúc hỏi nàng:-sao mấy hôm nay thấy chị có vẻ tư lự lo ra quá chị , nhất là từ hôm nhận cái hộp quà.

-Nga đáp:- không phải quà đâu , chị có nhớ hôm ở sân trường tôi nói: -ai xếp cho tôì 2000 con én thì tôi nhận làm chồng, hộp đó là đáp lời tôi đó, nhưng  tôi đếm nhiều lần chỉ có 1999 con én thôi!

À kỳ nhỉ! Cúc nói tiếp:- hôm anh đó vào để cái hộp trên bàn tôi thấy rõ là anh Triết, Chị Nga mới vào học năm thứ Nhất không biết rõ, hè nầy anh ấy ra trường.  .Anh là một sinh viên giỏi, tờ đặc san của trường là do Minh Triết chủ biên. Mấy tờ bích báo đẹp trưng bày ở thư viện chính anh thực hiện , vẽ hay lắm

chữ viết bay bướm tuyệt. Nhìn kỹ  anh khá đẹp trai, cường tráng!

          Hôm sau  Nga vào thư viện  xem kỹ mấy tờ bích báo, các hình vẽ tuyệt đẹp góc dưới ký tắt (mt),trong các đặc san Minh Triết viết nhiều thể loại như :truyện ngắn, khảo luân ,thơ…Nga thầm nói : Đúng như lời Cúc nói. Nàng thầm nghĩ:- người như vậy thiếu gì bạn gái, cớ gì muốn  làm quen với mình!

          Cuối tuần nàng gặp Triết. Chàng mau lẹ mở lời:-Tôi xin lỗi bạn, thật sự hôm đó tính cờ nghe các bạn nói chuyện với nhau, tôi định đùa , có chi lần gặp rồi bạn mau giận thật dễ thương làm sao!

          Nàng nhìn thẳng Triết , thấy rõ chàng trai thật khôi ngô với ánh mắt dịu hiền, hoàn toàn thu hút Nga!

          Cả hai người đều mĩm cười thân thiện.Tháí độ thoải mái dịu dàng của Triết làm cho Nga xao xuyến. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau.Tháng ngày sau đó, họ bên nhau, đường nhỏ công viên, bãi cỏ sân trường, bờ sông… đâu đâu cũng có đấu vết tình yêu của hai người. Nga không mong đựợc Triết tặng một món quà nào dù qúy giá đến đâu chỉ mong chàng trao cho nàng con én thứ 2000 . Có lúc nàng hỏi bóng gió về con én thứ 2000 thì chàng nắm tay nàng âu yếm và nói nhẹ nhàng tha thiết :- Én sẽ về khi mùa xuân của hai chúng ta đến! Bây giờ em còn phải học vài năm, anh chỉ sắp ra trường. Hanh phúc sẽ đến với ai biết chờ đợi. Nàng tin lời đó là chân tình…qua tháng ngày gần nhau càng lúc nàng yêu Triết tha thiết. Chàng là thanh niên luôn nghiêm túc với bản thân, thường quan tâm đến tha nhân. Chàng thường khuyên Nga luôn giữ tình yêu nhưng luôn chăm học, vì không phải học chỉ cho mình còn giúp cho người khác…Có mấy lần chàng tổ chức đoàn sinh viên đi thăm thương binh ở bệnh viện Cộng Hoà, đi thăm các Cô Nhi Viện , lúc nào Nga cũng bên chàng., . Nàng rất thích theo Triết viếng những phòng tranh, tham dự các buổi sinh hoạt văn học. Nhờ đi theo chàng mà Nga có cái nhìn ra xã hội, biết xúc động với nỗi đau thương của đời, thực tình nàng là con nhà giàu sống trong lá ngọc, ít nhìn xa ra cuộc đời. Với Triết nét nhân sinh của Nga thay đổi thật nhiều, các bạn gần Nga hơn, có người vui miệng nói Nga :-“Chi Nga ơi Chị ngồi lâu câu con cá lớn nha”. Có bạn lại thốt lời tị hiềm:-có bồ đẹp trai mà tài hoa như

Triết thì khổ lắm nha!.Tiếng bấc tiềng chì nhiều lắm nhưng nàng phát lờ chỉ tin tưởng vào tinh yêu của Triết. Những giờ phút gặp nhau là hạnh phúc tuyệt vời.

Triết thường đưa nàng về nhà gặp chị Thuận,là một goá phụ, chồng chị là một chiến binh tử trận ở miền Trung, để lại chị một đứa con gái  năm tuổi . Chị Thuận sống bằng nghề dệt áo ấm tại nhà, cuộc sống tạm ổn không bận rộn lắm. Hai chị em không còn cha mẹ nên thương nhau và luôn gíup đỡ nhau. Gặp được Nga , là người yêu của em trai qúy của mình nên chị Thuận rất mến Nga và mau thân thiện nhau.

          Sau khi ra trường, Khiết được dạy tại một trường lớn ở đô thành, còn Nga mới lên học năm thứ hai, nhưng họ rất vui và thấy thuận lợi trong cuộc sống. Ngôi nhà chị Thuân nay thường có bốn người thật đầm ấm , luôn có tiếng cười.

          Nhưng cuộc đời là vô thường, Triết dạy học chừng  sáu tháng thì có lệnh tổng động viên, lại một cuộc chia ly buồn. Nga khóc thật nhiều, Triết chỉ biết ôm nàng an uỉ, gạt lệ vào quân trường , rồi mang ba lô vào chiến trận miền Cao nguyên, để lại nơi thị thành người yêu bé nhỏ và người chị cô đơn!

          Tinh thần Nga suy sụp, nhờ chị Thuận hết lòng an ủi và khuyến khích, nàng cũng nhớ những lời dặn dò của Triết nên lấy lại niềm tin tiếp tục học năm thứ hai. Niềm vui của nàng giờ đây là những cánh thư nhỏ của Triết từ miền xa gửi về! Lúc nào đọc thư là rưng rưng nước mắt , ôm thư vào ngực nàng luôn nguyện cầu cho người thưong được bình an!

          Sau năm thứ 2 nàng đổ với số điểm thấp, nhân vào hè nàng trở về MỹTho thăm nhà như hằng năm, lần nầy nàng thấy lạ, nhà cửa được sửa soạn khang trang như chuẩn bị đón người khách qúy. Mấy giờ sau nàng biết chủ nhật tới có người đến coi mắt nàng, đêm đó ba má Nga  cố thuyết phục nàng

ưng lấy chồng cho ba mẹ yên lòng , chứ đi học xa ba má lo lắm, vì cảnh thân gái dặm trường!

          Nàng ôn tồn thưa lại rằng:-Con học chưa xong sao bỏ nửa chừng được, phải một năm nữa con mới đủ cử nhân, vả lại chồng của con phải là người con yêu , ba má để cho con chọn thì con mới có hạnh phúc.

          Ba nàng nổi giận mắng nàng một trận!

          Nàng im lặng lón lén vào buồn!

          Rồi sáng hôm sau khách cũng đến, không xa lạ , đó là ông bà chủ tiệm cầm đồ M T và cậu công tử Hai Bề.

          Nhìn thấy  Hai Bề lòng Nga thật ngao ngán, ở cái thị xã nầy cậu quen mặt với những người nghèo khó thường đi cầm đồ. Cậụ rất tỉ mỉ tính lời kỹ, không mất đi một xu của cậu. Mặt lúc nào cũng phề phệ , với cái tuổi nầy mà câu đâu có đi lính , nhưng có thẻ nghĩa quân ma  do cha mẹ chạy cho!

          Mấy người lớn ngồi quanh chiếc bàn rộng, riêng cậu Hai ngồi bên chiếc bàn vuông sát tường.

          Thình lình ba của Nga gọi:- Nga ơi lên ngồi tiếp chuyên cậu Bề đi con.

          Nàng nghe như vậy thật bực mình, nhưng người chị cả khuyên Nga ra , nếu không thì ba sẽ mất mặt.

          Nàng bước với vẽ mặt không vui,  cúi đầu nhẹ

          Câu Hai lên tiếng :- cô Nga khỏe không?

-        Dạ khoẻ mà không vui đâu cậu. Câu sang đây cùng gia đình chắc có chuyện gì quan trọng, cứ nói mau đi cậu!

-        Thật tình cùng ở chung tại tỉnh nhà, biết cô từ nhỏ, tôi thương cô. Hôm nay tôi nhờ ba mẹ tôi thưa chuyện với ba má của cô Nga. Thật sự đời sống kinh tế của tui nay rất ổn định. Ba má tui già rồi giao mọi tài sản cho tôi giữ. Mệt lắm: một tiệm cầm đồ  đang đông khách, hai dãy phố quanh chợ. Thật tình thì mệt lắm. Tui mong có người vơ như cô về phụ giúp tui!

-        Trời ơi! thật ông xui quá, tôi đã có người yêu rồi, thời gian nữa chung tôi làm lễ cưới đó. Thật sự với tài sản như vậy ông dễ tìm vợ lắm , cần gì phải trông nơi tôi!

-        Vậy người của cô làm cái gì vậy?

-        Anh ấy chỉ là người lính trận miền xa , nghèo nhưng giàu tấm lòng yêu nước!

-        Bây giờ chiến tranh quá xá lính tráng nay sống mai chết rồi khổ thôi!

Nghe như vậy Nga nóng đầu xổ luôn một tràng:- Nè cậu, thương gia triệu phú nhiều tiền, nhưng tôi nào có yêu riêng bạc vàng, vàng với bạc ngàn ngàn cũng hết, tiếng hùng anh đến chết vẫn còn!. Vậy xin chấm dứt tôi không nói chuyện nữa. Nàng đứng vậy đi vội vào buồng.

          Bên bàn người lớn có lẽ nghe lời Nga nói và hiểu câu chuyện nên cha mẹ Hai Bề chưa uống hết cốc nước vội đứng vậy kiếu từ ra về.

          Ngay sau đó bão tố đổ lên hồn của Nga, anh chị không một người nào đứng về Nga để giải thích cho người cha tỉnh thức, trái lại họ lấy sự giàu có mà khuyến dụ nàng. Đêm đó nàng không chợp mắt, luôn nghĩ về Triết rất thương chàng đang cô lẻ ngoài chiến trường xa. Nàng thầm thì: Bao giờ con én thứ 2000 con én đem lại Mùa Xuân cho chúng ta anh ơi!

          Sáng hôm sau, trời vừa rưng sáng ,  chỉ một túi xách tay nàng ra bến xe đò đi thẳng về nhà Chị Thuận ( chị của Triết) và nàng hết lời tâm sự cùng chị. Chị Thuận nhìn nàng thương xót nỗi cô đơn của Nga, ôm nàng an ủi và đề nghị:

          -Bây giờ coi như Nga là em ruột của chị nha, gia đình có lý do của gia đình, mình phải lo phần mình cho yên, để học hành , làm việc , chờ Triết về hai em sum họp hạnh phúc là chị vui lắm. Nhưng chuyện đầu tiên là em rời bỏ nội trú dọn về đây ở với chi, trên lầu có 2 phòng , Triết ở một , em ở một phòng trên đó. Chị nghĩ nếu em còn ở nội trú, gia đình em biết sẽ đến thuyết phục em hoặc Tư Bề bị em từ hồn hắn sẽ phá em đó. Ở đây thì không cho ai biết ngay cả những bạn trước kia chung phòng trong nội trú với em!.

          -Chị ơi! Em thật cám ơn Chị có hướng giải quyết cho em. Em sẽ dọn về đây ở với chị, bây giờ em còn 2 tín chỉ mới đủ cử nhân. Năm tới có thể em nghỉ học hoặc chỉ học một tín chỉ để có thì giờ đi dạy học tự lo sinh kế, khỏi nhờ đến sự trợ cấp của gia đình!

          - Nếu như vậy Chị sẽ nhờ chú ruột của chị là giáo sư Thành hiện là hiệu trưởng trường trung học tư thục TV  cũng ở trên đương Thanh Quan nầy

          - Thầy Thành cũng là thầy dạy triết của em đó lúc em học đệ nhất.

          - Như vậy là may quá, em đừng lo lắng nhiều sanh bệnh, cậu Triết sẽ buồn lắm!

          Thế rồi từ cô sinh viên vô tư, vui dưới sân trường, nay thành cô giáo nhiều âu lo cho học trò, âu lo cho mình, âu lo cho người thương ngoài xa khói lửa. Học trò nhiều đứa thương cô giáo trẻ hiền  mà buồn, cô giảng bài rất hay. Có lúc cô giảng tác phẩm Chinh Phụ Ngâm  cô nói rất say sưa về người đi chinh chiến , người chinh phụ đợi chờ, rồi như nhập vai cô ngâm cả một đoạn thơ:

                                                  “Chàng thì đi cõi xa mưa gió

                                                  “Thiếp thì về buồn cũ chiếu chăn

                                                  “Đoái trông theo đã cách ngăn

“Tuôn màu mây biếc , trải ngần núi xanh

“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

‘Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

“Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

“ Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

“Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

“Ngàn dâu xanh ngắt một màu

“Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Những lúc đó lớp thật im lặng , học sinh nhìn thấy rõ nhự hạt lệ rưng rưng trên khóe mắt cô. Các em rất phục cô mến cô giáo hơn và thích giờ học Việt Văn. Các em có biết đâu trong hồn cô hiển hiện một người chinh phu đang chiến đấu thực sự cho tổ quốc Việt Nam.

Chẳng bao lâu thời gian trôi đã hai năm, hai mùa Tết đã đến, hai mùa Xuân hiu quạnh của nàng. Không biết bao lần đi lại trên con đường Thanh Quan, mấy năm về trước Nga và Triết thường qua lại con đường nầy. Bây giờ chỉ một mình nàng bước đi lầm lũi âm thầm tìm dấu chân xưa!

Trưa nay trên đường đến trường, lòng nàng thật lo âu, vì hơn ba tuần rồi nàng không được thư của Triết…Thời chinh chiến sự bất trắc tai nạn vây quanh người lính trận, nên người đợi chờ đầy nỗi lo âu! Hôm nay vào lớp dạy nàng không một chút phấn khởi, suy nghĩ vớ vẩn lung tung…Hôm nay ngày cuối , trường sẽ nghỉ để ăn Tết. Nàng trông tiếng chuông reo tan học, không phaỉ để đi du xuân, nhưng mau trở về nhà đón thư Triết. Rồi chuông reo, nàng hối các học sinh rời lớp mau , nàng bước vội khỏi cổng trường, bất chợt thấy Triết trong bộ đồ trận đứng tần ngần dưới góc cây dầu cổ thụ, nàng cất giọng gọi nhưng nghẹn giọng, nhìn trân trân Triết, chân muốn khuỵu xuống. Triết vội bước mau đến ôm vai nàng và kề sát tai:- Nga anh về với em nè.

Giây phút sau nàng hoàn hồn, nhìn Triết nói gọn:-anh về hả!

Hai người sát nhau băng qua con đường nhỏ đi dọc đường Thanh Quan, ngang qua chùa Xá Lợi nàng kéo tay Triết và nói:- Ta vào chùa cầu nguyện tạ ơn đi. Em thường vào chùa mỗi chiều đi dạy về.

Triết đáp :- Ừa ta vào chùa đi em , tốt lắm.

Hai người bước vào chính điện, Nga chọn nhang , đốt và chia cho Triết ba cây. Họ qùy xuống trọn lòng dâng lên đức Phật tạ ơn Ngài giúp cho qua những ngày khốn khó! Khi xuống đến sân chùa, Triết kéo sát Nga vào mình và hôn nhẹ lên trán nàng và nói :-từ miền xa về  cũng là đem về cho em con én thứ 2000 mà bao năm em chờ đợi. Con én nầy đem lại mùa xuân cho hai tạ! Nga với tay cầm lấy con én giấy ấp vào hai bàn tay và nói trong hơi thở:

-Niềm hy vọng của em nay đã thành hoa trong mùa xuân và chim én đã về!

Quanh chùa hoa nở rất nhiều, những cây mai vàng đã nhoẻn nụ. Hai người sát vào nhau  Triết nói:-Bây giờ có lệnh chánh phủ cho các giáo sư được biệt phái trở về trường, anh cũng được hưởng ân huệ đó; mình vui mấy ngày Tết đi, cỡ mồng bốn anh em và chị Thuận xuống Mỹ Tho xin ba má em cho mình đám cưới.

Nga ôm chặt tay chàng ngước lên nhìn Triết cười nhẹ, nói khe khẻ:- em mừng lắm anh ơi-

Những cây nhạc ngưạ dọc đường  Thanh Quan theo gió rì rào bản nhạc “gió mùa xuân tới”!

 

-Mùa Xuân Tha hương

Hàn Thiên Lương

 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jan/2023 lúc 6:53am



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Jan/2023 lúc 6:57am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jan/2023 lúc 9:46am

Tết Tha Hương 


Câu%20chuyện%20có%20thật%20về%20cậu%20bé%20đánh%20giày%20lương%20thiện%20trở%20thành%20diễn%20viên%20nổi%20%20tiếng%20-%20Vnwriter.net
 

“Chú ơi, đánh giày đi chú.”

Tôi quay lại. Trời ơi, chú bé ốm như con mèo ướt.  “Trời mưa. Ai lại đánh giày?”

Chú bé nói giữa hai hàm răng run cầm cập: “Thế nên từ sáng đến giờ cháu chưa đánh được đôi nào cả.”

Tôi kéo chiếc ghế ra. Thân thiện nói: “Cháu ngồi xuống đây cho đỡ lạnh.”  
Chú bé ôm hộp đánh giày khúm núm. Tôi giục hai ba lần chú mới dám khẽ kê mông, ngồi xuống. “Cháu uống sữa đậu nành nóng nghe?”  
Chú bé sáng mắt lên. Nhưng chú lại lắc đầu. Tôi biết chú đang đói. Cố ép: “Cháu uống sữa đậu nành, ăn xong cái bánh pâté chaud là chú sẽ để cho cháu đánh giày.”   
Chú bé mở đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như không tin, lắc đầu:   “Cháu không dám đâu.”  
Tôi cười: “Chú đãi cháu mà.”
Chú bé vẫn ngần ngại. Tôi vẫy tay kêu người hầu bàn. Chú bé khẽ dò hỏi: “Thế chú có cho cháu đánh giày không?” 
Tôi đùa: “Cháu đánh xong, chú ra ngoài mưa, bùn bắn. Lại như không!”  
Mặt chú bé lại tái đi. Nỗi thất vọng chực tràn những giọt nước mắt quanh khoé. Tôi vội trấn an: “Chú đùa thôi.”

Chú bé hăng hái ngồi thụp xuống đất cởi giày tôi ra. Tôi cản: “Từ từ. Chú không chạy đâu.”   

Trong lúc đó, người hầu bàn bưng ly sữa đậu nành bốc khói cùng đĩa bánh đến. Tôi nghe chú bé nén nước bọt đánh ực trong cuống họng. Tôi kéo tay chú: “Cháu ngồi lên ghế, ăn đi.”  

Chú bé tự nhiên ăn uống một cách ngon lành. Tôi châm thuốc nhìn ra bầu trời trước mặt.

Khám%20phá%20Chợ%20Đà%20Lạt%20có%20gì%20đặc%20biệt%20mà%20hấp%20dẫn%20đến%20vậy%20-%20Vntrip.vn

Bên kia đường là chợ Đà- Lạt, người người co ro trong những chiếc áo mưa tơi. Những cô bán hoa ngồi héo mặt trong góc khuất chờ mưa tạnh. Những bà bán trái cây buồn rầu nhìn ông đi qua, bà đi lại; có bà tỉ mỉ lau bóng những trái táo nhập cảng như sợ nước mưa sẽ làm mẹt trái cây chóng thối. Bà bán bún ngồi ủ rũ khều mấy cục than trong lò ra, vì sợ lửa lớn sẽ chóng làm cạn nồi nước lèo. Những người bán rau tranh thủ ngồi nhặt những chiếc lá héo bên ngoài. 

Trời Đà Lạt buồn rầu đón thêm một cái Tết lạnh lùng. Không khí như đặc lại bởi cơn mưa cứ nhỏ hạt lê thê. Chợ búa như khép kín với nỗi buồn muôn thuở. Tôi đã nghe những người chung quanh than vãn suốt hai ngày qua. Lạ, Tết đến rồi sao ông trời chẳng cười giùm cho một chút, ông khóc sụt sùi hoài thì dân chúng làm sao mà dám cười?

Em%20ơi,%20Đà%20Lạt%20đã%20vào%20thu%20|%20VIETRAVEL

Tôi nhìn qua khu Hòa Bình. Xe cộ thưa thớt, đường phố đắm chìm trong mưa. Phố Đà Lạt nhỏ, trời mưa khiến những con đường chảy nước ràn rụa, làm tăng vẻ rét mướt. Tôi nhìn lại, chú bé đã uống cạn ly sữa nóng. 

Gợi chuyện:  

“Ba mẹ cháu đâu? Sao để cháu ra làm thế này?”   

“Bố mẹ cháu ngoài Bắc.”

“Như vậy cháu ở với ai?”   

“Cháu ở với chúng bạn.”   

“Cháu không có bà con gì trong Nam sao?’

“Không. Ngoài Bắc đói lắm, chúng cháu mới rủ nhau vào đây kiếm ăn!”   

“Cháu bao nhiêu tuổi rồi hả?’   

“Mười hai.”   

“Mười hai? Nhìn cháu như mới lên bảy, tám là cùng.”   

“Đói quá làm sao mà nhớn được chú?”   

Chú bé cười sau câu nói, nhe hàm răng cáu vàng. À, thì ra chú bé cũng biết đùa. 

Tôi hỏi tiếp:  

“Cháu vào đây bao lâu rồi?”   
“Hai năm.”   
“Vậy cháu bỏ nhà vào Nam lúc cháu mới mười tuổi?”   
Chú bé cãi:  “Cháu không bỏ nhà đi. Bố mẹ cháu cho phép.”   
Tôi cười thành tiếng:  “Ừ, thì ba mẹ cháu cho phép. Cháu đi một mình?”   
“Không. Cháu đi cùng chúng bạn.”   
“Vậy mấy bạn đâu rồi?”   
 “Chúng cháu chia nhau đi làm. Đêm đến mới gặp.”   
“Tối về cháu ở đâu?”   
Đứa bé đưa tay chỉ. Tôi bật lên âm thanh hơi lớn, khiến một vài cái đầu trong quán quay lại nhìn:  “Trong chợ?”   
Đứa bé gật đầu. Tôi nghĩ, trời lạnh như thế này, rồi chặc lưỡi:  “Tại sao ba mẹ cháu lại để cho tụi cháu đi như vậy?”   
“Bố mẹ chúng cháu nuôi chúng cháu không nổi.”  Chú bé thản nhiên trả lời. 

Tôi bần thần nhìn đứa bé còi cọc trong chiếc áo “sida” bằng nỉ rộng thùng thình. Chiếc áo vượt không biết bao nhiêu đất trời, từ những người hảo tâm bên Tây, bên Mỹ, về Việt-Nam được hân hạnh khoe mình trên những sạp đồ cũ ngoài chợ trời, với cái tên đầy vẻ“thời thượng” - sida - Tôi biết nếu chủ nhân cũ của nó nghe được chắc chẳng bao giờ dám mang áo quần đi cho. 

Lạ, đầu óc tôi khi không lại đảo một vòng quanh thế giới. Tôi nhìn lại mình, nhìn lại chú bé bên cạnh đang kín đáo thè chiếc lưỡi nhỏ liếm vành môi còn đọng lại chút sữa. 

Tôi hỏi. Cháu uống thêm ly nữa nhé. Trong khi bàn tay như thói quen kêu người chạy bàn thêm một lần nữa, không để ý đến sự phản đối yếu ớt của chú bé. 

Tôi bỗng buồn. Tại sao tôi lại trở về Việt-Nam để thấy lòng mình buồn hơn bao giờ hết? Tôi chợt nghĩ đến những đứa cháu tôi bên Mỹ. Những đứa con nít ở Mỹ mới sung sướng làm sao! Buổi sáng, mẹ chúng phải năn nỉ chúng uống từng hớp sữa trước khi đến trường. Chiều về, lại dán mắt vào TV, hoặc những chiếc máy vi tính. Những trò chơi điện tử, chúng chơi chưa qua một ngày, đã chán!!!

Chú bé rụt rè đặt ly sữa thứ hai xuống bàn. Xong, hăng hái ngồi xuống đất gỡ dây giày tôi ra. Tôi lại kéo chú ngồi dậy, cười:  “Chú có một đề nghị.”   
“Gì cơ?”   
“Trời mưa, chú đi chơi không được. Cháu làm việc cũng không được. Bây giờ, cháu ngồi nói chuyện với chú, coi như là làm việc với chú. Được không?”   
“Thế đôi giày của chú?”  
“Chú không cần cháu đánh giày cho chú đâu.”   
“Sao cơ?”   Chú bé có vẻ hốt hoảng. 

Tôi trấn an:  “Chú trả tiền cho cháu đàng hoàng mà. Đừng lo!”   

Tôi hỏi thăm về chú bé, về công việc mưu sinh hàng ngày. Chú bé nói mới thông thạo làm sao. Tôi yêu quá tiếng Việt được nói ra lưu loát từ cửa miệng của một em bé. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp nghe em bé Việt-Nam nói chuyện một cách mạch lạc. Ở Mỹ, tôi đã quen với những tràng tiếng Mỹ xen với những câu tiếng Việt ngô nghê của mấy đứa cháu khi bị ba mẹ lườm mắt, ý không được nói tiếng Mỹ ở nhà. 

Chú bé quay qua hỏi tôi:  “Chú về thăm gia đình hở?”   
“Chú có đi đâu mà về?”  Tôi nheo mắt trêu. 
Chú bé cười, ra vẻ hiểu biết:  "Nhìn chú, cháu biết chú là người nước ngoài rồi.”  
“Sao biết?”  
Chú bé thân thiện hơn:  “Không sao cả. Biết là biết.”  
“Chú cũng là người Việt mình mà?”   
“Chú khác với những người Việt ở đây. Chú là Việt kiều!”   
“Chú thấy có khác gì đâu?”   
“Tại chú không thấy. Nhưng cháu thấy!”   
Tôi đổi sang chuyện khác, nói vu vơ:  “Tết năm nay hoa anh đào bị tàn hết vì mưa?”   
“Vâng!”  Chú bé vội vã nói tiếp:  “Nhưng cháu thấy hoa đào ở ngoài cháu đẹp hơn nhiều.”   
“Phải!”   
Chú bé reo lên: “Chú cũng thấy nữa sao?”   
“Chú chưa ra Bắc lần nào, nhưng chú thấy trên phim ảnh.”   
"Ở ngoải cũng có phim ngoài Bắc nữa sao?”   
Tôi bật cười vì khi không chú bé lại nói giọng Nam:  "Phải, ở ngoải cũng có. Chú thấy những cành hoa đào thật đẹp ngoài Bắc.”   
“Đẹp mà làm gì hở chú? Nhà cháu không bao giờ ăn Tết bằng hoa đào.”   
“Ai lại ăn Tết bằng hoa đào?”   
Chú bé không hiểu tôi đùa. Nghiêm giọng:  "Thật đấy chú. Đắt lắm chú ạ. Có cành cả bạc triệu cơ đấy. Chỉ có nhà giàu mới sắm hoa đào ăn Tết!” 
“Thế Tết cháu không về, ba mẹ có mong không?”  
“Tiền đâu mà về chú. Cháu để dành tiền vé xe lửa gửi về cho bố mẹ còn hơn!”   
“Cháu nhớ nhà không?”   
“Cháu nhớ lắm chú. Cháu nhớ cái Hà nữa cơ. Cái Hà em cháu còn bé mà ngoan lắm, giúp được việc cho mẹ cháu lắm!”   
Tôi cao giọng, vui lây với chú bé đôi mắt cứ nhấp nháy khi nhắc đến đứa em gái:   
"Cái Hà giúp được việc gì nào?”   
"Cái Hà giúp mẹ cháu đi nhặt lúa rơi.”   
“Thế ba mẹ cháu làm gì?”   
“Bố mẹ cháu làm nông. Nhưng bây giờ cũng ít ruộng để làm rồi.”   
“Sao vậy?”   
“Người ta lấy ruộng để xây nhà hết.”   
“Thế hả?”  Rồi tôi trầm ngâm. 
Chú bé hỏi:  “Chú cũng về quê ăn Tết à?”   
Tôi thở dài:  “Chú không có quê. Chú không còn ai thân ở Việt-Nam cả!”   
      “Thế chú về làm gì? Ở ngoải sướng hơn. Cháu nghe nói bển cũng có bánh tét, bánh chưng, có... đủ thứ. Đâu cần phải về!”   
Tôi cười xòa:  “Chú đâu thèm bánh tét, bánh chưng,... Thế cháu thèm bánh tét, bánh chưng lắm phải không?”
Tôi bật cười hồn nhiên. Khi không, nói chuyện với chú bé một hồi, chú bé lại giả giọng Nam, tôi lại lái qua giọng Bắc. 
Chú bé le lưỡi:  “Cháu thèm bánh chưng. Mà đắt lắm chú ơi. Nhưng cháu nhất định sẽ ăn nó vào Tết năm nay!"   
Chú bé nói chữ  “nhất định” nghe ra thật cương quyết. Tôi thấy bồi hồi. Ước mơ và mục tiêu của em bé nghèo Việt- Nam chỉ đơn giản như thế sao?" 
Tôi khỏa lấp:  “Tại sao lại nhất định?”   
Chú bé cắt nghĩa:  “Này nhé. Chúng cháu gửi tiền về nhà. Còn dư, chúng cháu góp lại mua được những hai chiếc bánh chưng lận!”    
Tôi cười: “Mấy đứa mà những hai chiếc lận?”   
“Lẽ ra là mười đứa. Nhưng hai đứa xuống Phan-Rang nhảy tàu về quê, còn lại tám đứa. Cháu tính rồi, mỗi đứa được một phần tư cái. Cháu mong cái Hà năm nay cũng được ăn bánh chưng như cháu!”   
Tôi quay mặt nhìn xuống lòng đường. Nước cuồn cuộn dưới chân. Vài chiếc xe hơi đời mới chạy ngạo nghễ bắn bùn vào khách bên đường, để lại những tiếng chửi rủa tục tằn. Chú bé tò mò nhìn tôi. Chắc chú chẳng hiểu tại sao mắt tôi lại ngầu đục?

Trở về Đà Lạt lần này, tôi muốn ăn Tết với gia đình người bạn thân thời trung học một cách bất ngờ. Nhưng dự định của tôi tiêu tan! Bao nhiêu năm rồi, nếu lòng tôi không thay đổi, chưa chắc người khác đã không đổi thay như tôi. Bây giờ tôi mới biết, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau đã khiến con người ta khó thể gần gũi nhau được. Bạn bè ngày xưa từng mặc áo lẫn nhau, bây giờ nhìn lại mới thấy thời gian đã làm thay đổi nhiều quá! Không có gì tồn tại mãi!

Tôi lần mò đến con dốc cũ, chẳng buồn biết nó có bị thay tên hay chưa? Đà Lạt không có những thay đổi lớn lao, ngoài khí trời hình như không còn lạnh như năm nào. 

Căn nhà cũng như xưa,  không được sửa sang, trông già nua quá thể, giàn hoa giấy cũ đã bị chết khô tự bao giờ! Và, cánh cửa gỗ nứt nẻ không buồn sơn phết lại. Tôi gõ cửa. Người đàn ông yếu đuối, tóc lưa thưa bạc phếch, mở cửa nhìn tôi bằng đôi mắt mệt mỏi. 

Tôi lễ phép:  “Thưa bác có Thuần ở nhà không ạ?”   
Người đàn ông ngạc nhiên, cau mày nhìn tôi một thoáng rồi bảo tôi vào nhà ngồi chờ. 
Một lúc khá lâu, cũng người đàn ông ấy chậm rãi bước ra, vỗ vào vai tôi:   “Thằng Thuần không có ở nhà con à.”   
Chưa kịp che giấu nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt tôi, thì người đàn ông lại đánh đét vào đầu tôi, la lớn, giọng Huế đặc sệt:  Tuân ‘tồ’!! 'Mi không nhận ra tau hỉ?”   
Bây giờ thì đến phiên tôi ngạc nhiên:  “Sao bác lại biết tên tục của cháu?”  
Người đàn ông đấm mạnh vào vai tôi: “Bác cái mả cha mi! Tau là Thuần đây, khỉ à!!!”   
Tôi há hốc miệng:  “Trời ơi! Mày... mày giống ba mày quá!”  
“Mi lại nói móc tau đó hỉ? Con khỉ, nói tau già thì nói đại đi! Bày đặt!!!”  
Tôi ngượng ngùng:  “Mấy chục năm rồi mày à. Nói thật, tao không nhận ra mày! Chỉ thấy có nét giống ông cụ nên tao tưởng là bác trai chứ???”   
Thuần cười móm mém:  “Tau hiểu. Đời sống khó khăn. Mau già lắm!”   
Tôi nheo mắt cười. Thuần đổi giọng:  “Về hồi nào vậy?”   
“Một tuần rồi. Tao mới lên Đà Lạt ngày hôm qua! Ở Mỹ hàng năm có tổ chức sinh hoạt cựu học sinh, anh em vẫn thường nhắc tới mày!!!”
Thuần lơ đãng: “Thế à!”   
Tôi nhìn vào mắt Thuần, đục ngầu màu khói thuốc. Thuần già đến nỗi tôi không thể nào tưởng tượng ra được! Ngày còn đi học, Thuần chăm chút hình hài lắm! Sau một cuộc thất tình, Thuần bỏ ngang năm thứ hai Luật khoa, đi lính!!! 

Sau đó chúng tôi ít gặp nhau, nhưng vẫn thường xuyên liên lạc. Năm 1979, tôi vượt biên, nghe đâu Thuần vẫn còn bị học tập cải tạo. 

Thuần mang đầy mặc cảm, tự ái! Thuần ăn nói nhiều khi rất cay độc với người, và cả chính mình! 

Tôi thân với Thuần vì học cùng lớp thời trung học, lớn lên trong một thành phố. Xong tú tài hai, chúng tôi cùng xuống Sài-Gòn ghi danh vào trường Luật, ở chung phòng trọ. 

Khi ra đi, tôi mang theo rất nhiều kỷ niệm thời thơ trẻ cùng Thuần. Trở về, tôi có rất nhiều điều muốn nói với anh, nhưng khuôn mặt Thuần lạnh căm, không bày tỏ một chút xúc cảm, làm tôi thấy thất lạc! 

Thuần hất hàm:  

“Ở khách sạn hả? Đúng rồi, Việt kiều phải vậy chứ? Ở nhà rách chắc không quen!”   

Tôi nhăn nhó:  “Mày nói nghe nhột quá!”   
Thuần đổi đề tài:   “Hai bác và mấy đứa em mi bên đó vẫn khỏe chứ?”    
“Ba mẹ tao đã qua đời. Mấy đứa em vẫn khoẻ.”   
Thuần chặc lưỡi:  “Ba mạ tau cũng vậy. À! Ngôi nhà của gia đình mi nhà nước cấp cho cán bộ cao cấp, họ sửa lại thành biệt thự đẹp lắm. Mi tới đó chưa?”   
“Tao định thăm mày xong tao qua đó coi cho biết.”   
“Ừ ngôi biệt thự đó bây giờ không rẻ đâu. Phải rồi, nghe nói mi vừa ly dị?”   
Tôi thở nhẹ:  “Năm năm rồi.”   
   
Thuần đùa:  “Tin tức đi chậm, nhưng chính xác! Mấy cháu?”   
“Một. Ở với mẹ nó.”   
“Về đây kiếm vợ hả?”  
“Mẹ. Mày đừng có đùa. Tao già rồi!”  
“Mi còn “sữa” chán. Lúc xưa ai cũng kêu mi là “tồ” vì lớn con nhất đám. Không ngờ bây giờ trông mi “sữa” nhất đám!”   
Tôi đùa: “Bộ mấy cô thích “sữa ông già” như tao lắm sao?”  
“Sữa gì cũng thích. Sữa Hà-Lan, sữa Con Chim, sữa Ông Già, sữa quá đát (date)... miễn là hàng ngoại!”   
Tôi cười lớn:  “Ông cũng còn giễu như lúc xưa!”
Thuần cũng há miệng cười thành tiếng, không thèm che đậy chiếc răng cửa đã rụng:  “Giễu để mà sống chứ!”   
“Bộ liệt tao vào thứ hàng ngoại thiệt sao?”   
Thuần nhìn tôi từ đầu đến chân:  “Mi là hàng ngoại một trăm phần trăm!”  
Tôi chưa kịp mở miệng. Thuần lại tiếp:  “Áo da của Mỹ, áo thun của Mỹ quần bò của Mỹ. Cả đôi giày cũng Made in USA tuốt! Thế mà không phải là hàng ngoại một trăm phần trăm à???”   
Tôi thấp giọng:  “Đừng giễu nữa. Tao là người Việt-Nam một trăm phần trăm!”   
“À! Điều này chỉ có mi biết! Ra đường ai nói mi là người Việt-Nam đâu. Họ bảo mi là Việt.... kiều!!!”
Tôi xua tay đổi đề tài: “Mày càng nói càng đi xa vấn đề. Bà xã đâu? Con mày ra sao?”   
Thuần thở dài:  “Tau cứ bịnh lên bịnh xuống, nên bả phải lo chạy gạo! Tụi con tau lớn hết trơn rồi. Chúng nó cũng sống trôi nổi lềnh bềnh như tau! Chỉ có đứa út là dính vào vợ chồng tau, trôi được khúc nào hay khúc đó.”    
Tôi nén tiếng thở dài.
Tôi đứng dậy cáo từ. Thuận tay, tôi xoa đầu cậu bé đang khép nép bên khung cửa, tôi nghĩ là con út của Thuần.  Tôi khéo léo nhét vào túi áo cháu ít tiền. Rồi đi! 

Nhìn gia cảnh Thuần, tôi hiểu nó túng thiếu lắm! Năm cùng tháng tận!!! Không có một bình hoa trên bàn thờ. Ngay cả ly nước trà cháu mang cho tôi uống cũng rất loãng. Tôi hiểu bạn tôi lắm. Nhưng tôi không biết chia sẻ bằng cách nào. Bạn tôi tự ái rất cao!!!

Thành phố bắt đầu lên đèn. Cơn mưa còn chút bụi nước bay lất phất qua những ngọn đèn đường trên cao. 

Chú bé níu áo tôi:  “Chú thật không muốn đánh giày hả?”  
Tôi giật mình nhìn chú bé, thương hại:  “Chú không đánh. Hôm nay là bao nhiêu rồi nhỉ?”   
“Hai chín Tết!”   
“Sao không thấy chợ Tết hả cháu?”   
“Mưa quá. Người ta nhóm chợ bên trong!!!”   
“Thế làm sao cháu ngủ?”   
“Đợi đêm đến chúng cháu mới lẻn vào!”   
Tôi xoa đầu đứa bé:   “Chúng ta kiếm cái gì ăn không?”  
"Cháu không dám đâu!!!”   
Tôi đùa:  “Dám một chút đi mà!”   
Đứa bé cương quyết:  “Cháu thật không dám!”  
Tôi móc tiền cho chú bé. Số tiền nhỏ lắm đối với tôi, nhưng có thể là cả ước mơ của chú bé! Cho chú bé và các bạn tha hồ ăn bánh chưng năm nay. 

Chú bé tròn mắt nhìn tôi, ngần ngại. Tôi dúi tiền vào tay chú. Chú cầm lấy, miệng lí nhí cảm ơn - hình như hai tiếng cảm ơn rất khó nói đối với chú - rồi, chú vùng chạy. Hộp đồ nghề đánh giày lắc lư một bên. Cứ chạy dăm ba bước, là chú bé dừng lại, ngoái đầu nhìn tôi. Có thể chú đang sợ tôi đổi ý, đòi tiền lại chăng? 

Tôi đưa bàn tay lên vẫy, bỗng thấy hụt hẫng vô cùng. Tôi nhìn theo cho đến khi chiếc bóng nhỏ bé kia lẫn trong màn sương. 

Đêm hai chín Tết. Không biết đêm mai tôi đón giao thừa ở đâu? Ngay trong khách sạn, một mình? Không biết Tết năm nay đến với tôi là năm thứ mấy mươi tha hương? Riêng chú bé thì hẳn tôi đã biết mấy năm chú tha hương rồi!!!

Hoài%20niệm%20Pháo%20|%20Gia%20Đình%20Phật%20Tử%20Việt%20Nam%20Trên%20Thế%20Giới


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Jan/2023 lúc 10:08am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jan/2023 lúc 9:19am

Ánh Lửa Đêm Đông 

 

Bé Nga đi học về nhằm lúc chị Liễu đang ngồi sửa áo quần. Bé tò mò đứng lại nhìn: chỉ toàn là đồ cũ. Chắc ai mới cho mệ ngoại đây _ bé vừa ngẫm nghĩ vừa bước lại lục mớ đồ bà đã sửa xong. Thấy có tới hai bộ nhỏ cỡ thân hình mình, bé tỏ ra thất vọng:

-Mệ nói Tết ni mệ may đồ mới cho con chừ mệ không may nữa à?

Nhìn đứa cháu ngoại với bộ đồ thô kệch trên thân, chị Liễu không khỏi chạnh lòng. Chị cảm thấy mình có lỗi vì đã nhiều lần hứa suông với cháu. Lần mới đây chị lại hứa sẽ nhín nhín việc tiêu pha để may cho bé một bộ đồ bận Tết. Thương cháu mà hứa vậy nhưng suy nghĩ lại chị thấy khó quá. Cái nhà cũ của chị hư đâu chèn đó không kịp, lúc nào mà dư tiền? Tình cờ một người quen lại cho chị một số đồ cũ. Tiếc của đời, chị lại thay đổi ý định. Giờ thấy vẻ mặt tiu nghỉu của đứa cháu, chị đâm ra áy náy nói đỡ:

-Áo quần ni còn tốt, mệ sửa lại thấy cũng đẹp lắm. Mình nghèo bỏ phí cũng uổng. Thôi năm tới chắc chắn mệ sắm đồ mới cho con.

Bé Nga lặng lẽ đi cất sách vở. Chị Liễu nhìn theo cháu thở dài:

-Tội nghiệp cháu tôi, từ đẻ ra tới chừ chưa khi mô có được một bộ đồ ra hồn!

*

Trước kia chồng chị Liễu phục vụ trong một đơn vị địa phương quân. Cưới nhau chưa tròn một năm thì anh bị tử trận. Anh chỉ để lại cho chị một ngôi lều cũ kỹ với một bà mẹ già và một cái bầu tám tháng. Họa vô đơn chí, đứa con gái của chị ra đời chưa được nửa năm thì xảy ra biến cố 1975. Mớ tiền tử tuất của chồng chị lãnh được không mấy chốc đã hết sạch. Hằng ngày chị phải tham gia làm việc với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để nuôi ba miệng ăn...

Cái thôn An Lộng của chị nhỏ bé quá, một người ở đầu thôn bị đứt tay không mấy chốc người ở cuối thôn đã biết. Đất cát trong thôn có giới hạn mà dân cư thì mỗi ngày mỗi đông. Một mảnh vườn nhỏ có thể chứa đến ba bốn ngôi nhà: nhà ông bác, nhà ông chú, nhà ông anh, nhà chú em... Mỗi khi xảy chuyện nội bộ lủng củng, có gia đình không có lối để đi ra đường. Ruộng nương cũng vậy, chung quanh các thôn, các xã khác đã khai thác hết nên thôn An Lộng chẳng thể nào nới thêm được một phân, một tấc. Trước 1975, dân An Lộng có một số tập kết ra Bắc, một số khác đi lính Cộng Hòa hoặc làm công chức, ruộng nương trong thôn còn tạm đủ cho số dân còn lại làm ăn, cuộc sống tương đối còn đỡ. Sau ngày thống nhất, một số dân đã tập kết ra Bắc hồi hương, một số quân nhân công chức miền Nam cũng qui điền nên ruộng đất thành ra thiếu hụt, cuộc sống nông dân trở nên khó khăn thấy rõ.

Chính quyền đã tổ chức lại lề lối làm ăn tập thể như lên đội, lên tập đoàn, cao hơn hết là hợp tác xã. Công việc làm ăn có chỉ đạo, có cải tiến, có phương pháp hơn, được sự hỗ trợ nhiều mặt của chính quyền, tất nhiên thành quả cũng tốt đẹp hơn trước nhiều. Theo báo cáo thành tích của chính quyền là vậy, nhưng thực tế đời sống của dân địa phương lại tồi tệ hơn trước rất xa. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Trong tổ chức hợp tác xã, những viên chức như chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác xã, thư ký thống kê, trưởng ban kế hoạch, trưởng ban kiểm soát... đều chỉ là những người lao động gián tiếp, tức là chỉ huy, kiểm soát, lo việc giấy tờ mà không hề cày cuốc... Ở tập đoàn lại có tập đoàn trưởng, tập đoàn phó, thư ký... đều là những người chỉ lao động bán phần. Thế nhưng những viên chức này lại được hưởng chế độ công điểm cao nhất trong tổ chức. Ngoài ra lại còn có những bữa tiệc bồi dưỡng cho cán bộ và những “cá nhân xuất sắc” vào những dịp lễ lạt, liên hoan trúng mùa... Những phí khoản đó đều rút từ ngân quỹ của hợp tác xã ra cả. Tất nhiên, những người dân mạt hạng như chị Liễu không làm sao tránh khỏi cảnh “ăn lưng đọi làm lọi lưng!”. Dù hằng ngày họ có trút bao nhiêu mồ hôi của mình xuống cánh đồng cũng không thể nào no được! Huống chi riêng chị Liễu còn phải nuôi thêm bà mẹ chồng đã già và một đứa con dại! Gia đình chị phải lây lất sống cầm hơi qua ngày tháng...

Chị chỉ giảm bớt được phần nào cảnh sống đầu tắt mặt tối khi con Mẹt, đứa con chị bắt đầu hiểu biết và có thể giúp đỡ chị những công việc lặt vặt. Nhiều khi chị nghĩ đến Mẹt mà tủi cho con mình! Cũng là cô nhi con tử sĩ vị quốc vong thân cả, nhưng cảnh đời lại trái ngược hẳn nhau! Con người ta - thuộc phe chiến thắng - được bán cửa hàng, được làm cán bộ này cán bộ nọ ngồi mát ăn bát vàng, huênh hoang dạy đời, còn con chị chưa ráo máu đầu đã phải lo kiếm sống, lam lũ như một tên nô lệ thuở xa xưa.

Dòng đời cứ trôi, rồi mẹ chồng chị qua đời, rồi con gái của chị cũng đi lấy chồng. Việc chi tiêu giảm, cuộc sống đỡ chật vật hơn, nhưng chị lại buồn vì nỗi cô đơn trống vắng.

Sau này vì lối làm ăn tập thể đã thất bại nên nhà nước đổi sang chính sách khoán sản phẩm cho nông dân. Ruộng đất ít oi không thể nào đủ sống, vợ chồng Mẹt làm thêm nghề vét cát sạn ở lòng sông An Lộng. Chúng cũng chịu cảnh làm việc đầu tắt mặt tối và cũng thiếu thốn quanh năm. Nhưng dù đói thiếu, chúng cũng phải sinh con đẻ cái. Một đứa, rồi hai đứa, rồi lại có bầu...

Để đỡ đần bớt nỗi vất vả nhọc nhằn cho con gái, và cũng để giảm bớt nỗi cô đơn trống vắng của mình, chị Liễu tình nguyện đem con Nga, đứa con đầu của chúng về nuôi. Dù bữa no bữa đói, chị vẫn cố gắng thu xếp cho bé Nga cắp sách đến trường...

*

Giờ đây, từ ngoài nhìn vào, người ta thấy thôn An Lộng như đã đổi lốt. Nhờ vào những chương trình viện trợ quốc tế, chính quyền đã cho xây đắp lại một số đường sá, cầu cống khiến việc đi lại trong thôn trở nên tiện lợi, thoải mái hơn trước. Đồng thời, những cán bộ cách mạng có máu mặt, một số người địa phương có thân nhân di tản ra nước ngoài, cộng thêm một số ít dân giỏi xoay xở cơ hội cũng góp phần làm cho bộ mặt của thôn An Lộng sáng sủa hơn... Số người này đã xây dựng được cho mình một số nhà cửa khang trang, đẹp đẽ. Họ cũng mở được những gian hàng, những quán tiệm với những dịch vụ kinh doanh đáng kể.

Nhưng đằng sau cái bộ mặt có vẻ thay đổi đó, đa số dân thôn An Lộng, nhất là thành phần có liên hệ với chế độ cũ, vẫn sống một cuộc sống tối tăm, chật vật. Đời họ gần như thiếu hẳn mùa xuân. Không hẹn nhau mà những ngày lễ tiết quanh năm người ta gần như cùng giả lơ hết. Thậm chí ngày tết Nguyên Đán truyền thống của dân tộc nhiều nhà cũng giả lơ luôn! Trong nhà không có một đòn bánh tét, một dĩa mứt trên bàn thờ. Trẻ con không mấy đứa có áo mới. Nhà chị Liễu cũng ở vào trường hợp đó...

Một hôm khi đi làm về, chị Liễu gặp một chị hàng xóm cùng cảnh ngộ cầm mấy tờ giấy đang lật đật rảo bước, chị chận lại hỏi:

-Chị Hoàng đi mô mà gấp rứa? Bộ đi kiện ông trời à?

Chị Hoàng dừng lại nói nhỏ:

-Con Miên bên Mỹ mới về thăm nhà chị biết chưa? Nghe nói bên đó người ta có tổ chức lạc quyên để giúp các thương phế binh và cô nhi quả phụ như bọn mình. Quí thiệt, người ta cũng còn nghĩ tới mình đó chứ! Ai có giấy tờ chứng minh được mình trong diện ấy cứ gởi cho nó đem qua Mỹ may ra được hưởng chút gì hay chút đó! Tôi mới đi phô tô giấy tờ về để gởi đây! Chị còn giấy tờ chi của anh cứ đem gởi thử cho con Miên đi. Còn mấy ngày nữa nó mới trở lại Mỹ!

-Thiệt rứa à? Bên đó người ta cũng còn nghĩ tới bọn mình à? Để tôi về tìm còn giấy tờ chi không gởi thử coi!

Chị Liễu về nhà lục lọi một hồi may cũng kiếm được một ít giấy tờ cũ. Thật tình chị cũng chẳng mừng hay tin tưởng mấy. Thời buổi này mấy khi người ta thật lòng giúp đỡ nhau? Nhưng chẳng tốn kém bao lăm, mắc chi không gởi? Thế rồi chị đem mớ giấy tờ ấy đến trao cho cô Miên. Hôm sau cô Miên đem trả lại mấy bản gốc cùng mấy bản sao cho chị rồi dặn:

-Chị cứ giữ giấy tờ này lại. Biết đâu lại còn có lúc cần!

Chị cám ơn cô Miên rồi đem mớ giấy tờ ấy cất lại. Chỉ năm bảy ngày sau chị Liễu đã quên hẳn cái chuyện đó. Thời gian sau này ngoài việc chăm sóc phần ruộng ít oi được khoán, chị phải lo trồng trọt ngọn rau, cây ớt trong vườn hoặc đi làm mướn. Nghĩa là chị vẫn phải quần quật với công việc để nuôi hai bà cháu…

*

Một buổi trưa cuối đông, lúc đang vói tay cắt mấy tàu lá chuối để bán cho người ta gói bánh tét, chị Liễu bỗng nghe ai đó hỏi lớn:

-Mụ Liễu mô rồi ra lãnh tiền ăn Tết tề!

Chị Liễu vội ngừng tay nhìn ra ngõ. Chị định nói đùa một câu ý nhị nhưng liền khựng lại. Một người đàn ông lạ dắt chiếc xe honda đang tiến vào sân…

-Bà có phải là Nguyễn Thị Liễu không?

-Dạ phải, ông hỏi có chuyện chi?

-Có tiền bên Mỹ gởi cho bà. Xin lỗi, chồng bà tên gì?

Chị nói tên chồng. Người khách hỏi tiếp:

-Xin bà vui lòng cho mượn giấy “chứng minh nhân dân”!

Chị Liễu mừng rỡ vội đi tìm giấy tờ. Hóa ra chị có tiền ăn Tết thật!

-Bây giờ bà muốn lấy tiền đô hay tiền Việt?

-Dạ, tiền đô hay tiền Việt cũng được!

-Vậy lấy tiền Việt khỏi mất công đi đổi nhé!

Người khách đưa tờ biên nhận bảo chị ký. Chị lẩm nhẩm đọc: Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ… Bất giác chị thở dài, nước mắt chị bỗng tuôn trào. Hình như mấy dòng chữ đã làm chị xúc động. Người khách trao cho chị 32 tờ bạc mệnh giá 50.000 đồng Việt Nam:

-Đây là một triệu sáu trăm ngàn tức một trăm đô la. Bà đếm lại đi!

Chị run run cầm xấp tiền, lí nhí nói lời cám ơn không được rõ. Khi người khách vừa đi khỏi, chị Liễu đếm xấp tiền lại một lần nữa. Vừa lúc đó bé Nga bước vào nhà. Chị Liễu nhìn cháu rồi mỉm cười:

-Rửa chân tay mau lên để đi chơi với mệ!

-Đi chơi mô mệ?

-Tao bảo đi thì cứ đi chứ hỏi chi?

Chị lấy ra một cái thúng rồi dùng lá chuối khô lau sạch bụi cả trong lẫn ngoài. Xong, chị bỏ vào thúng một cái dĩa nhôm, giục cháu:

-Xong chưa? Đi!

Bé Nga sung sướng lộ hẳn ra mặt, lót thót bước theo chân bà nó. Mặt nó càng rạng rỡ hơn khi thấy bà nó tiến vào chợ. Mỗi lần theo bà vào nơi này ít nhất nó cũng được cái kẹo cái bánh… Nhưng lần này bà nó dẫn nó vào thẳng hàng vải:

-Con thích màu mô cho lựa đi!

Bé Nga ngạc nhiên trố mắt nhìn mệ nó:

-Lựa mần chi mệ?

Chị Liễu nguýt yêu cháu:

-May áo quần chứ mần chi nữa! Chưa may được thì chục bục cái mặt ra, bộ chừ không muốn nữa à?

Bé Nga say mê nhìn những tấm vải. Hình như màu nào cũng tươi sáng, cũng hấp dẫn đối với nó. Chị Liễu chỉ từng tấm hỏi cháu nhưng tấm nào bé Nga cũng gật đầu cả. Sau cùng chị Liễu đành tự chọn lấy – hai loại khác nhau nhưng đều là vải bông.

Xong xuôi, chị dẫn bé Nga đến ngay tiệm may gần đó. Bé Nga rất bỡ ngỡ khi thấy người thợ may dùng cái thước dây để đo vai, đo lưng nó. Người thợ hỏi đùa:

-May một lần hai bộ à? Nghèo mà chơi sang dữ vậy!

-Chừ có chút lộc ngoại may cho luôn chứ biết khi khác biết có tiền mà may không? Chú biết đây là lần đầu cháu được may áo quần mới đó. Tội nghiệp từ trước tới chừ cháu chỉ toàn mặc đồ nính. Gắng may cho cháu kịp mặc trước Tết nghe!

Người thợ đo xong chị Liễu lại dẫn cháu đi mua hai hộp mứt, hai hộp trà, một gói đường phèn và cho bé Nga một hộp bánh qui. Bé Nga ngạc nhiên hỏi:

-Tiền mô mà mệ mua nhiều rứa? Bữa ni mệ giàu rồi à?

-Tiền mệ mới ăn trộm, bữa ni mệ giàu rồi!

-Rứa khi mô mệ cho cháu ăn mứt?

-Không được nói bậy! Mứt trà ni để mệ lo việc trên đầu trên cổ đã.

Thế rồi chị Liễu dẫn bé Nga đến nhà cô Miên. Hai bà cháu vừa bước vào ngõ thì bà Huấn mẹ cô Miên đứng trong nhà đon đả chào:

-Hai mệ cháu le te nách thúng đi mô đó?

-Dạ, đến chị có chút việc. Lâu ni cô Miên có gởi thư về không?

-Có. Tôi cũng mới nhận ít quà Tết của nó hôm rồi. Có việc chi rứa?

Chị Liễu để cái thúng xuống. Chị sắp một gói trà, một hộp mứt và gói đường phèn vào chiếc dĩa nhôm rồi trịnh trọng bưng lại nói với bà Huấn:

-Có chút quà mọn gọi là chút lòng thành xin chị nhận lấy thảo!

Bà Huấn trố mắt ngạc nhiên:

-Có việc chi mà cô làm lát lát vậy?

-Dạ, nhờ cô Miên nên hồi trưa ni tôi có nhận được một số tiền!

-À, tôi biết rồi, chắc tiền cứu trợ cô nhi quả phụ chứ gì! Được bao nhiêu?

-Dạ, không dám giấu chị, được một triệu sáu.

-Được rồi, cô có lòng tôi xin cám ơn cô. Nhưng tôi cũng mới nhận quà của cháu Miên. Thôi cô cứ đem về mà dùng.

-Vẫn biết rứa nhưng đây là chút lòng thảo của mệ cháu tôi, xin chị đừng từ chối!

-Cô có lòng như rứa là quí rồi. Cô đem về mà dùng đi, tôi không nhận mô!

Bà Huấn hết lòng từ chối nhưng chị Liễu vẫn nhất định không chịu. Cuối cùng bà Huấn vói tay cầm lấy gói trà:

-Cô cứ nhất định như vậy thôi tôi xin nhận một gói trà lấy thảo đủ rồi.

Chị Liễu bất đắc dĩ chào bà Huấn rồi dắt bé Nga về. Vẻ mặt chị không mấy vui. Nhưng đi được một đoạn đường chị bỗng quay ngoắt trở lại chợ. Chị lại vào hàng vải mua một xấp khác. Bé Nga ngạc nhiên hỏi:

-Mệ mua vải mần chi nữa mệ?

Chị Liễu cười:

-Mi bận đồ mới được cũng cho hai đứa em mi bận với chứ!

Tiếp đó chị lại mua cả nửa thúng nếp, một ít đậu đen, đậu phộng cùng một số đồ lặt vặt chất gần đầy một thúng. Chị phải nhờ người ta đỡ lên đầu để chị đội mang về.

*

Vợ chồng Mẹt dắt hai đứa nhỏ đến nhà chị Liễu vào chiều hăm tám. Nhìn hai đứa nhỏ xúng xính trong hai bộ đồ mới, chị Liễu cười sung sướng hỏi:

-Chà, hai cháu của mệ bận áo quần mới đẹp dữ hả? Đứa mô cho mệ mượn bận một bữa đi!

Chị ôm từng đứa hôn hít rồi quay vào bên trong gọi:

-Con Nga mau dậy ra chơi với em nì. Ngủ chi mà ngủ lắm rứa không biết!

Chị lại quay sang vợ chồng Mẹt:

-Hai đứa bây vô phụ với mạ lo cúng sớm rồi còn nấu bánh tét nữa chứ!

Mẹt nhìn mẹ cười:

-Năm nay mạ bảnh quá, có cúng tất niên lại có nấu bánh tét nữa chứ! E mạ tiêu gần hết số tiền người ta cho rồi?

-Thì tiền người ta cho mình để tiêu chứ để mần chi? Tiền nớ cũng nhờ ba mi mà có đó! Phải cho mấy đứa nhỏ nó biết ăn Tết là răng một lần chứ! Lâu nay cả ba đứa con tụi bây thật tình đã biết Tết là chi mô? À, cả mi cũng rứa nữa đó chứ Mẹt! Ừ, phải rồi! Cả ba chục năm từ ngày giải phóng tới chừ tao mới có dịp cúng tất niên, cúng giao thừa lại một lần đây chứ! Lâu ni hàng ngày chưa có bữa mô no bụng lấy chi mà lo Tết?

Chồng Mẹt - thằng Thực cũng xen vào:

-Chính con cũng chưa biết Tết thật sự ra răng huống chi tụi nó. Gần đây còn đỡ, hồi làm hợp tác xã ngày ba mươi còn ở ngoài ruộng, ngày mồng một lo đi trồng cây nhớ bác. Có hề được nghỉ Tết mô! Cực hết chỗ nói!

-Chừ mạ nhờ thằng Thực lo việc trên bàn thờ. Trái cây, bánh cộ, giấy áo mạ đã để sẵn, sắp xếp răng cho khéo thì sắp. Còn con Mẹt phụ nấu nướng với mạ!

Mẹt rất ngạc nhiên khi thấy mẹ kho nấu nhiều món quá. Thịt gà bóp, thịt heo phay, thịt heo kho tàu, thịt vịt chắm nước mắm gừng, chả trứng, canh cá, cá thu kho, tôm rằn kho, các loại đậu giá chiên xào… Không món nào nhiều lắm nhưng tương đối đủ vị cho một bữa cỗ của hạng nhà giàu. Mùi thức ăn nóng thơm lựng khiến ai nấy đều nuốt nước bọt… Mấy đứa nhỏ có lẽ thèm quá, đều chạy vào chơi quanh quẩn trong nhà để chờ đợi.

Mẹt tuy cũng thèm nhưng tiếc của, cô hỏi mẹ:

-Thức ăn chi mà nhiều dữ ri? Mạ không nhớ mấy lần Tết mình phải ăn cháo khoai bụng sôi rột rột cả đêm à?

-Răng không nhớ được? Nhưng mình đói cũng đói rồi, khổ cũng khổ rồi, chừ may có được chút lộc ngoại, không cho mấy đứa nó thỏa mãn một bữa còn đợi khi mô?

Tội nghiệp ba đứa nhỏ đứa nào cũng chăm chú theo dõi từ việc đơm múc thức cúng ra chén dĩa đến việc bưng đặt thức ăn lên bàn thờ, đến việc thắp hương, việc vái lạy của bà ngoại và cha mẹ chúng.

-Khi mô thì cúng xong mệ?

Chị Liễu lẫn vợ chồng Mẹt đều tức cười khi nghe cậu bé út hỏi. Mẹt cười nói:

-Mày buồn ngủ cứ đi ngủ đi đã, sáng mai mới xong.

Nghe Mẹt nói cả ba đứa nhỏ đều lộ vẻ tiu nghỉu. Chị Liễu không nhịn cười được

-Chốc nữa thôi, khi mô hương gần tàn mệ rót nước lên là xong!

Một lát sau bé Nga nhắc:

-Hương gần tàn hết rồi mệ ơi!

Chị Liễu lại cười:

-Ừ, mệ đi rót nước đây!

Chị Liễu tự đi rót nước cúng đặt lên bàn thờ rồi “bái tất”. Bọn nhỏ có vẻ nôn nóng nhìn theo từng động tác của chị Liễu khiến cha mẹ chúng không khỏi xúc động. Một lát sau cả nhà đã ngồi quanh mâm cỗ. Bọn trẻ hoạt động đôi đũa hăng hái quá khiến Mẹt phải ngăn cản chúng:

-Từ từ mà nhai, coi chừng mắc cổ!

Chị Liễu cảm động nhìn các cháu:

-Ôn ngoại bây đãi đó. Bây cứ ăn một bữa cho bưa đi. Biết ôn ngoại không? Áo quần mới bây bận đó cũng là của ôn ngoại cho cả. Nếu ôn ngoại bây còn sống chắc nhà mình không đến nỗi khổ thế ni mô!

Đồ ăn tuy nhiều nhưng chị Liễu chỉ ăn nếm nếm mỗi thứ một chút rồi buông đũa trước ai hết. Chị đứng dậy nói:

-Tao rứa là rồi đó. Bây cứ ăn đi và canh chừng đừng để tụi nó ăn nhiều quá không tốt. Còn thì đậy đó tối ăn lại nữa. Chừ tao phải lo chuẩn bị cho xong bánh tét để nấu.

*

Trời về đêm mùa đông vẫn thường lạnh nhưng chị Liễu vẫn kê bếp nấu bánh trước sân. Chị đặt một cái đòn ngồi bên bếp để ngồi canh lửa. Củi đun toàn là những gốc tre, gốc sắn thô kệch và một ít gỗ tạp. Ngọn lửa bị nồi bánh ngăn cản không bốc cao được, cứ xoắn quanh đáy nồi bập bùng trông khá đẹp mắt. Hơi lửa ấm áp đã dần lôi cuốn cả nhà đến ngồi quanh nồi bánh. Chị Liễu than:

-Việc nấu bánh bữa ni hơi bất ngờ nên mạ không chuẩn bị củi được. Chừ phải nấu củi tạp ni mất công canh chừng lắm. Vì rứa mạ phải kêu bây qua giúp một tay. Nhưng thôi, bây vô dọn cho tụi nó ăn lại đi mà về ngủ. Mạ canh chừng một mình cũng được.

-Khoảng khi mô bánh mới chín mạ?

-Sáng mai.

-Rứa chừ mạ phải thức cả đêm à?

-Chứ răng nữa!

-Vất vả như rứa mạ bày đặt ra nấu bánh mần chi?

-Lâu ni mắc ơn nghĩa xóm giềng quá nhiều chừ may có một chút lộc ngoại cũng nên trả bớt cho người ta một chút chứ! Mụ Huấn một đòn nì, mụ Hoàng một đòn nì, o Lý một đòn nì…

-Mạ nì, chừ cứ để tụi nó ngồi chơi rồi chốc nữa dọn ăn luôn. Ăn xong cho tụi nó ngủ lại đây cũng được. Còn ba mẹ con mình thay nhau canh nồi bánh.

-Ừ, bây tính rứa cũng được. Tao cũng đỡ mệt. Có lẽ giờ ni hàng xóm ngó đến nhà mình họ sẽ ngạc nhiên lắm.

-Ngạc nhiên cái chi?

-Hơn ba chục năm ni có đêm đông mô mà nhà mình có ánh lửa? Có khi mô đủ cả nhà ngồi quanh bếp lửa như chừ? Lửa ni là lửa ba mi đem từ đất Mỹ về đó! Thấy cảnh ni hàng xóm không ngạc nhiên răng được?

Mẹt nghe mẹ nói bất giác cất giọng hát lên một câu hát cũ: “Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng, trông bánh chưng chờ trời sáng, đỏ hây hây những đôi má đào…”. Nhưng Mẹt chợt khựng lại khi nghe mấy tiếng sụt sịt của mẹ. Cô ngạc nhiên quay mặt lại nhìn. Dưới ánh lửa bập bùng Mẹt thấy rõ mấy giọt lệ đang lăn trên má chị Liễu. Không biết chị bị xúc động vì câu hát của con mình hay do ngọn khói nào đó làm chị cay mắt.

 

Ngô Viết Trọng   
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.734 seconds.