Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 191 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 03/Jan/2023 lúc 11:13am |
Người Đóng Hụi Chết Khả KínhTết tây rồi tết ta tới nơi! Trời hôm nay lạnh căm căm, lất phất mưa thêm não lòng những người đa cảm, luôn cả những người đang cảm thời tiết. Ai cũng dán mắt lên cái đồng hồ treo tường vì trông giờ về. Thế mà bà sếp thân thương lại đến nhờ tôi với chị Hường ở lại,
làm cho xong việc mới về vì hãng cần gởi hàng đi cho khách hàng ngay trong hôm
nay. Chị Hường lười nói tiếng Anh nên hất hàm ra lệnh cho tôi trả lời. Biết nói gì đây? Khi hãng cần hàng gấp thì sếp năn nỉ lính. Nhưng khi lính cần
sếp quan hoài lúc hãng ít việc thì… sếp đàn bà ưa để bụng! Nên tôi nói láo lòng
mình: “Không có gì. Thưa bà. Tôi với bà Hường sẽ ở lại, và cố gắng làm xong sớm
nhất cho bà.” Sếp cảm ơn tử tế hơn cần thiết vì là sếp đàn bà mà. Chỉ khi sếp đi rồi, chị Hường
mới nói:
“Mẹ ơi! Mùa này ra hãng 5 giờ rưỡi đã tối hù. Làm xong mớ hàng
này cho mẻ thì sớm nhất cũng 7 giờ. Ra hãng chắc tưởng nửa đêm…” Tôi nói với chị:
“Em không cần giải thích nhiều với chị đâu, vì chị em mình biết
nhau quá mà! Em cũng không ngại giờ về, thời tiết con khỉ khô gì hết. Nhưng em
đói quá rồi, mới là chuyện đáng lo! Bây giờ chị để em làm một mình, chắc
chắn là nhanh hơn làm chung với chị vì em rành việc này hơn chị. Còn chị chỉ kiểm
tra lại dùm em là mình vừa được nhanh để về, vừa an toàn hậu sự…” Chị em tôi cắm cúi làm cho nhanh, nhưng cơn đói làm mờ mắt. Tôi nói với chị Hường:
“Chị. Giờ này về. Trời thì lạnh. Người thì mệt. Em đang tưởng tượng
tới cháo gà, dĩa gỏi xé phay… Trời ơi! Chị Hường ơi…!” Cầu được ước thấy. Đâu ngờ chị trả lời:
“Cầu được ước thấy hen. Sao biết tui nấu cháo gà, làm gỏi xé
phay hay vậy?” “Má ơi! Chị nấu gì ở nhà chị thì ông Táo biết chứ làm sao em biết!” Chị nói:
“Thôi làm nhanh đi. Ra khỏi hãng thì tui kêu con gái tui hâm
cháo gà. Mình về tới nhà là có ăn liền cho bớt đói…” “Chị mời em thiệt không đó? Chuyện đói bụng là chuyện sanh tử đó à nha…!” “Làm đi…!”
********** Tôi lái theo xe chị Hường về nhà chị. Bước vô nhà đã thơm lừng mùi cháo gà. Chị bảo cháu ngoại: “Thưa ông đi con.” Tôi hết đói với suy tư… mình lên hàng ông thật rồi sao? Nhưng đến con gái chị khoanh tay “Thưa chú” thì tôi hết muộn phiền tuổi tác vì đói quá sức rồi! Thôi thì nỗi buồn nào cũng không hơn nỗi buồn khi cái bao tử rỗng.
Bỗng nhớ nhà văn quân đội Lâm Chương hết sức, vì anh ấy viết một câu từ trong
tù cải tạo như kinh điển: “Khi đói. Bộ óc người ta tuột xuống dưới bao tử để chỉ
nghĩ đến cái ăn…” Nhưng khi tôi đã phá tan dĩa gỏi gà, tung hoành xạch bách tô cháo nóng và vài
món cúng khác nữa, tôi mới thấy trên bệ lò sưởi có bình bông cúng, cái ly kiểu
cách đến chỉ để cắm nhang thì nhang còn mới tới như nhang vừa tàn… Tôi hỏi chị
Hường: “Hôm nay nhà chị có đám giỗ hả?” Chị trả lời:
“Giỗ ba chồng tui hôm qua. Tui đi chợ. Về làm mấy món cúng mà ba
tui ưa thích hồi còn sống. Rồi mệt quá nên tui đi nằm. Con gái tui gọi hoài mà
má không bắt điện thoại nên nó chở con về nhà ngoại vì lo tui chết thúi trong
nhà…” “Vậy…! Anh nhà đâu? Em đói quá nên quên hỏi thăm anh…” “Trời mẹ ơi! Ổng bỏ tui từ hồi con nhỏ này (tay chỉ con gái chị) mới 9, 10 tuổi.
Nay nó 30 mấy rồi! Con nó đi lớp 1 rồi!...” “Nhưng…?” “Tui nghe nhiều rồi, nên đừng hỏi nữa!” “Dạ chị.” “Con Hiền. Lấy chai rượu cúng hôm qua ra đây cho má!” ******* Chị tôi say, nên tôi tin là phước phần có thật. Bởi chị có người con gái quá hiếu
thảo với mẹ, khi từ cô kể ra:
“Má con đã 65 tuổi rồi, con 36 tuổi. Ba con bỏ nhà đi khi con mới 10 tuổi. Hồi đó con tức giận ba con, vì thấy má con ban ngày đã cực khổ quá, đêm tới cứ khóc thầm hoài… Nhưng lớn hơn lên thì con khuyên má con đi bước nữa. Tại bác… (đó) là người làm chung hãng với má con. Bác thường tới nhà giúp cho má con những việc đàn bà không làm được như cưa bớt nhánh cây ngoài sân trước, sân sau. Bác sửa vòi nước bị rỉ trong nhà tắm, thay bóng đèn tuốt trên trần nhà, vô dầu mỡ cho cửa garage hết kêu kót két; bác sửa xe, thay thắng, thay nhớt ở nhà cho má con đỡ tốn tiền… Bác giỏi lắm, cái gì cũng biết làm. Còn nấu ăn ngon nữa. Bác mời mà má con không qua nhà bác ăn thì bác bưng luôn nguyên nồi sang nhà con ăn cơm chung cho vui… Con lớn rồi nên con hiểu được bác có tình cảm với má con. Trong khi vợ của bác thì chết bệnh cũng lâu rồi. Bác ấy hiền, đối xử tốt với má con và con. Nên con khuyên má con ưng bác đi cho con có ba. Không biết má con nghĩ gì, kể ra cũng lạ lùng lắm chú! Vì mắc gì
mà cứ cúng giỗ ông nội với bà nội của con khi cha con đã đối xử với má con và
con như vậy? Nhưng má con suy nghĩ lâu tới bác đó chết già luôn cũng không chịu
đi bước nữa, vì tao còn mặt mũi nào để nhìn ông bà nội mày! Ai già cũng phải chết.
Rồi xuống dưới gặp lại nhau, làm sao nhìn mặt mà không xấu hổ?” ********
Tôi về. Con gái chị Hường tiễn tôi ra cửa vì má đã ngủ ngồi với cháu ngoại
của bà trên sofa. Con rể của chị cũng vừa đến. Vì, “tối nay em với con ngủ bên
nhà ngoại thì anh ngủ nhà với ai…?” Người trẻ thật dễ thương với đối đáp, nhưng người già thương dễ nhau hơn bởi đã
không ít thì nhiều bị đời làm tổn thương nên mới biết tới tình nghĩa. Tôi nhớ những lời say của người chị:
“Ở đời, đâu có ai bắt mình quỳ lạy ai đâu! Nên khi đã tự ý
quỳ lạy cha mẹ chồng cho mình được làm con dâu, thì họ sống, mình phải phụng dưỡng
như cha mẹ đẻ của mình. Họ chết rồi, mình phải giỗ quảy tới hết đời mình. Còn
chuyện vợ chồng với nhau thì phước phần, duyên nợ, là chuyện riêng của hai vợ
chồng. Đâu bất hiếu với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ mình được. Cái thời của tui nó
như vậy, không giống bây giờ. Để tui kể cho nghe: Bà bạn tui, cũng cỡ tuổi tui. Nhưng bà ấy ốm đau bệnh hoạn
rề rề… Sống với con trai thì con dâu than thở tốn kém, hầu hạ… mệt quá! Thằng
con trai ráng nhịn vợ cho mẹ mình được ở nhà. Thì vợ nó đem con về ở nhà mẹ đẻ
của nó. Có khác nào bỏ chồng? Tới thằng con trai hết đường, năn nỉ thằng em rể cho đem mẹ qua ở với con gái.
Thì cũng không được bao lâu, thằng rể than phiền tốn kém, nhà có người già, bệnh
hoạn… Nó sống không nổi đâu vì không khí trong nhà u ám quá! Thành thử hôm đưa bả vô nhà già, tui đến tiễn chân. Bả khóc thảm thiết như con
nít đi học ngày đầu. Cứ níu áo hết con gái tới con trai, hết cháu nội tới cháu
ngoại nhờ nói cho bà một tiếng! Nhưng người ta bây giờ lạnh lòng tới dửng dưng
vậy đó! Ruột thịt mà coi như người dưng… Rồi thì thời gian đầu ở nhà già, con cháu còn tới thăm. Từ từ tụi nó quên luôn
là có mẹ ở nhà già. Đám cháu nội, cháu ngoại thì sợ bà như sợ bà phù thủy. Lần
nào tui tới nhà già thăm bả, tui cũng khóc lúc đi về. Tự bả cứ níu áo tui ở lại
với bả thêm chút nữa… thấy tội nghiệp lắm! Nên bả chết hồi năm rồi! Tui đi đưa đám ma bạn mà trang điểm, mặc quần áo như
đi đám cưới. Con gái tui nói ‘má kỳ vậy má’. Tui kệ. Tự tui mừng cho bà bạn tui
đã hết buồn. Tui buồn cho con trai, con gái của bạn tui khóc lóc thảm thiết với
cái xác không hồn… Thời buổi này, tới chừng đi làm hết nổi, tui cầu cho trời phật
kêu tui cái một cho khoẻ thân. Tui chỉ van vái trời phật đừng cho tui bệnh. Còn
chết thì đâu ai khỏi. Đúng không?” ******* Tôi ấn tượng với căn nhà quá sức đơn giản của chị Hường. Dường như chẳng có thứ
gì để có thể gọi là đồ trang trí trong nhà. Nhớ những hôm thấy chị không vui, hỏi
thăm thì y như rằng: Con gái với thằng rể mua sắm gì đó cho chị thì chị bắt đem
trả. Nếu không phải chuyện đó thì là ngược lại, chị mới vừa cho bớt đồ gia dụng
đã quá ít trong nhà, nên con cái cự nự… Từ đó tôi hiểu ra những suy nghĩ đằng sau, bên trong những lời nói ra, hay những
hành vi khác thường của chị trong hãng. Như sếp hỏi: “Tôi cần một người ở lại
làm trễ để hoàn tất việc này. Ai có thể giúp?” Thì hàng chục cánh giơ lên!
Trong khi chị cũng ngưng làm, nhưng không để giơ tay lên mà là… giấu hai tay xuống
gầm bàn. Nên tôi hết lạ với những điều chị nói cũng khác thường. Mấy người đàn bà rủ chị
chơi hụi. Chị trả lời: Tui đóng hụi chết hết hơi rồi. Tiền đâu nữa mà chơi hụi
với mấy bà. Hụi chết của chị là cho từ thiện đều đặn, cúng chùa mỗi rằm… Người đàn bà phi thường trong đời thường, vẫn lặng lẽ đi làm để nuôi thân khi
đã 65 tuổi đời; nuôi cả chút văn hóa dân tộc còn sót lại qua lòng hiếu thảo với
tứ thân phụ mẫu. Thật khả kính. Phan
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Jan/2023 lúc 2:36pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 06/Jan/2023 lúc 9:45am |
TÂM SỰ ĐẦU NĂMLúc nhỏ đi học từ tiểu học lên đến trung học, tôi cũng có chút năng khiếu về văn chương, vẽ vời. Học cấp nào tôi cũng thường đứng đầu lớp môn Việt văn. Thời trung học tôi thường xuyên làm bích báo, báo giấy cho trường. Hồi 15 tuổi tôi cũng đã được giải thưởng trong một cuộc thi về thơ tình của thành phố. Tuy vậy tôi muốn sau này khi lớn lên, tôi sẽ chọn nghề báo. Đậu Tú tài hai, vì học trường Kỹ Thuật nên phần lớn bạn bè tôi đều thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ hoặc trường Kiến trúc thì tôi lại ghi danh học Báo chí Đại Học Vạn Hạnh. Nhưng rồi vì thời đó học khoa ghi danh thì không được hoãn dịch vì đã đến tuổi nên tôi phải đành thi tuyển vào Khoa Giáo Dục Ban Việt Hán để được thêm một tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn. Tôi ghi danh thêm trường Đại học Văn Khoa cũng vì ham vui với bạn bè và mong học thêm ít chữ. Thôi thì không học được khoa mình thích thì học ban văn chương, hy vọng ra trường thay vì đi dạy học thì kiếm toà báo nào đấy xin làm phóng viên cũng được. Thời sinh viên, vì đi học mà không có viện trợ, chẳng có chu cấp nên cũng tham gia viết cho vài tờ báo kiếm cơm. Chủ yếu cũng để sống tạm kiếm vài cái chữ. Nhưng rồi thời thế đổi thay, lý lịch đen ngòm không xin được làm báo đành phải chọn nghề giáo. Nghề giáo chọn tôi chứ tôi chẳng chọn nghề. Nhưng rồi sau hai mươi năm dạy học tôi buộc phải rời bục giảng bởi những quan điểm lạc hậu, cực đoan và ác ý của những người lãnh đạo. Suốt một thời gian dài làm nghề dạy học, để kiếm đồng lương nuôi vợ con, tôi chẳng viết được gì. Hơn nữa thời đó tôi hèn, thấy bất công, nhìn tình trạng nghèo thảm thương, khó khăn và những cuộc vượt biển sinh tử của đồng bào và bạn bè mình mà câm miệng, chứng kiến cảnh những người bị đuổi ra khỏi nhà bắt đi kinh tế mới bị cái đói cái chết đe doạ mà không dám viết vì sợ mất việc nên đành im lặng. Thỉnh thoảng viết đôi ba truyện ngắn, vài bài thơ, đôi dòng nhật ký, nhưng viết chỉ mình mình đọc, chẳng dám cho ai xem. Tới thời mở cửa, tình hình bớt khắt khe hơn, xã hội nháo nhào, người ta sống tàn nhẫn hơn, cái ác lên ngôi, đồng tiền ngự trị, tôi viết nhiều nhưng cũng chẳng dám gởi đăng đâu. Tôi viết vì nhu cầu của tự thân, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, những ký ức còn đọng lại của một thời đã không còn nữa. Tới thời nở rộ của Internet, của các mạng xã hội, tôi mới rụt rè viết và đăng lên trang Yahoo 360 rồi Facebook. Cũng có vài bài được báo đăng nhưng tôi cảm thấy mình viết chưa hay, trong khi đó đọc sách báo thấy nhiều nhà văn, nhà báo viết ngợi ca giỏi quá nên tôi không gởi bài cho báo nữa. Tuy vậy tôi vẫn viết nhiều truyện ngắn, đôi ba bài thơ nhưng vẫn thấy mình viết tầm thường quá, đâm ra mắc cỡ với chính mình. Nhất là khi đọc lại mấy bài thơ trong tập thơ được giải hồi 15 tuổi tôi càng thấy mình viết quá tệ. Dù nhiều bài đăng trên Facebook cũng được một số lời khen, tôi vẫn không tin lắm về khả năng viết lách của mình. Cho nên tôi rất cám ơn và rất trân trọng những lời động viên, khích lệ của nhiều người đọc. Trong năm vừa qua nhờ nhiều lời đốc thúc của bè bạn, tôi làm liều in năm cuốn sách. Đó là một tập truyện ngắn Bước không qua số phận, một tập tạp bút Ăn mà không chơi, ba tập thơ Cũng đành, Hoá thân và Tàn phai. Tập truyện ngắn đa phần tôi kể lại chuyện của những người bạn một thời của tôi, những kỷ niệm tôi đã trải qua trong nhiều quãng đời tôi đã sống. Tập tạp bút Ăn mà không chơi ghi lại những ký ức về những món ăn, những hàng quán tôi đã từng nếm qua. Nó cũng ghi lại những cảm xúc về những món ăn Mạ tôi từng nấu để nhớ về người mẹ đã mất của tôi. Những tập thơ là ghi chép những mối tình dang dở, những rung động của tôi về tình yêu trai gái, về tình yêu thiên nhiên và cuộc đời. Đó chỉ là nỗi niềm riêng của cá nhân mình. Tất cả đều là những ghi chép để giữ lại kẻo sợ nó sẽ trôi đi không tìm được nữa. Tôi nghĩ tôi không làm văn chương, bởi cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ mình viết còn kém hơn nhiều người lắm. Do vậy xin mọi người đừng gọi tôi là nhà văn, nhà thơ, nhà báo gì cả. Tôi không có tham vọng đó. Tôi cũng như một nhà thơ nổi tiếng nào đó đã viết chỉ là con chim ngứa cổ hót chơi. Viết và in sách cũng là chơi. Mua vài món đồ cổ cũng là chơi, vẽ những bức tranh theo ý của mình cũng là chơi thôi, chẳng có chi quan trọng. Tôi không có khát khao để thành nhà văn, nhà thơ như nhiều người ham muốn. Tôi cũng chẳng thích tham gia vào hội này, nhóm nọ. Tôi viết vì thích viết, thế thôi. Nhiều khi trước đám đông hay giữa hội hè người ta hay giới thiệu tôi là nhà này nhà nọ, tôi chỉ xin gọi tôi là anh nhà quê. Tôi thích làm nhà quê dù từ lúc sinh ra cho đến giờ là một lão già tôi chưa từng một ngày ở nhà quê với ruộng đồng, ao cá. Tôi chỉ ở tỉnh rồi đi học và định cư ở thành phố này. Suốt cả thời gian từ lúc cắp sách học vỡ lòng cho đến khi học Đại học, tôi cũng chỉ học trong những ngôi trường to lớn và đẹp đẽ, chưa một giờ học ở trường làng. Nhưng tôi vẫn ước mình được sống ở nhà quê và làm anh nhà quê có chữ. Tôi thích những ngôi nhà cổ, những ao làng, những hồ sen, những khóm tre rì rào trong gió. Tôi khoái nghe những loài chim bình thường hót líu lo chào ánh mặt trời hay tiễn ngày đi, chiều tới cùng nhau về tổ. Tôi muốn nằm trên bãi cỏ nhìn mây bay về núi, nhìn sóng vỗ mạn bờ và nghe tiếng nước chảy từ suối nguồn. Tôi thích nghe những bài hát xưa ru con thôn dã, những bài hát đang dần mất đi. Tôi thèm nghe hát xẩm, thưởng thức điệu Quan họ, sáu câu vọng cổ rất mùi từ bãi nứa nương dâu, từ những con thuyền trôi lẻ loi trên sông vắng giữa hoàng hôn. Tôi thích ăn những món ăn dân dã, những con cá lòng tong, những con cá bống thệ kho quắt cay xé lưỡi chứ chẳng bao giờ thích những miếng steak nhạt nhẽo trong những nhà hàng sang trọng. Tôi ước ao được trở về tuổi nhỏ để ăn được những món ăn Mạ nấu, những món ăn với khẩu vị giờ không tìm thấy nữa. Tôi không thích làm nhà văn nên xin đừng gọi tôi là nhà văn. Tôi có làm thơ nhưng đừng gọi tôi là nhà thơ. Tôi thích chụp những tấm ảnh đẹp nhưng cũng đừng gọi tôi là nhà nhiếp ảnh. Tất cả chỉ là những thú vui cho cuộc đời tôi thêm gia vị để thấy mình được trải lòng chứ không phải là nơi tôi đi tìm danh vọng, những thứ phù du. Tôi vẫn viết như những lời tâm sự mong có người nghe. Tôi viết về những bất công, những điều đã và đang diễn ra trong xã hội này. Nhưng thật tình tôi chẳng muốn chống ai, không muốn kêu gọi ai để nhằm đập đổ cái gì. Tôi chỉ muốn nói lên những điều uất ức mà dân tình đói khổ đang phải chịu đựng. Tôi phản đối những kẻ có quyền ức hiếp, bóc lột xương máu của dân. Tôi viết khách quan, không định kiến, xấu thì lên án, tốt thì khen. Do vậy cũng đừng gọi tôi là nhà gì cả trong lãnh vực này. Đó chỉ là tiếng nói của người có chút tri thức và tấm lòng trước những vấn nạn của thời thế không thể đành tâm bịt mắt làm ngơ. Những bài viết đó chắc chắn chẳng có báo nào trong nước dám đăng. Trong đại dịch Covid ở thành phố này, hàng ngày tôi viết nhật ký về cơn dịch. Cuốn sách có tên Nhật ký Sài Gòn lockdown, nhưng chẳng có nhà xuất bản nào cấp giấy phép, đành giữ đó làm tư liệu cho mai sau về cơn đại dịch hãi hùng ở thành phố Sài Gòn. Có người xúi tôi đem in ở nước ngoài nhưng tôi không muốn làm thế. Tôi chỉ muốn được bình yên, được sống hạnh phúc với người mình yêu thích, được an lành với cháu con khi tuổi đã cổ lai hy, được ăn những món ăn hợp khẩu vị của mình, được gặp cười vui với bè bạn, được có người để tâm sự buồn vui chứ chưa lúc nào tôi muốn trở thành nhà này nhà nọ bởi tôi biết mình vẫn còn nhiều hạn chế. Nghề chính mà tôi được học nghiêm chỉnh là nghề vẽ học từ một xứ sở xa xôi. Tôi vẽ để kiếm sống chứ chẳng phải kiếm danh nên cũng chẳng tranh đua với bất cứ ai. Tôi thiết kế rất nhiều bìa sách nhưng tôi cũng rất chọn lựa khách hàng của mình. Nhiều người bây giờ rất muốn được gọi là nhà thơ, nhà văn sau khi đã có chức quyền, có lắm bạc tiền nhưng sách của họ chẳng có chút gì văn chương ngoài chuyện khoe thành tích hay những bài vè có vần điệu. Những người đó tôi thường từ chối không bao giờ nhận vẽ bìa cho họ dù có người trả gấp đôi giá bình thường. Có kẻ cho tôi là chảnh, nhưng đó là nguyên tắc của tôi. Tôi vẽ tranh theo ý thích của mình, cố không giống ai và cũng chẳng thích theo thời thượng hay phong trào để dễ bán kiếm tiền. Tôi vẫn nghĩ rằng tôi chẳng là gì cả so với cộng đồng các nhà thơ nhà văn chuyên viết đúng đường lối đã vạch của Hội Nhà Văn nên tôi chưa bao giờ có suy nghĩ tham gia tổ chức này. Mà Hội này cũng chẳng cần biết tôi là ai. Đó là điều tốt đối với tôi khi tôi không có tên trong hàng ngũ của họ. Đầu năm có đôi lời tâm sự. Được giải bày cũng là một niềm vui mở đầu cho năm mới. Chúc mọi người an lành và hạnh phúc. Sài Gòn. 05.01.2023 DODUYNGOC Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jan/2023 lúc 9:46am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 09/Jan/2023 lúc 9:38am |
Hương Xuân | Truyện ngắn rất hay của tác giả Tiểu Thu <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 09/Jan/2023 lúc 9:42am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 10/Jan/2023 lúc 7:08pm |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 11/Jan/2023 lúc 9:51am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 12/Jan/2023 lúc 7:11am |
Truyện ma : BỮA CƠM CUỐI CÙNG - Rơi nước mắt trước phận đời tha hương <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Jan/2023 lúc 7:27am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 16/Jan/2023 lúc 9:04am |
Mùa Xuân Chim Én Bay Về
Ngọc Nga ở nội trú trong cư xá Thanh Quan, riêng phòng của nàng có bốn nữ sinh viên, trừ Nga ra người nào cũng có bạn trai, lúc rảnh họ thường nói về cuộc sống tình tứ lãng mãn , họ kể cho nhau nghe các buổi đi chơi ngoại cảnh kỳ thú trong những ngày hè. Nga tư nghĩ, nàng không phải là người hình dáng xấu, gương mặt nàng cũng có nét ưa nhìn. Sánh với Cúc và Mẫn thì nàng hơn nhiều: Cúc có đôi mắt le lé, ngó gà có thể thành ra cuốc, Mẫn thì có mái tóc như rơm cháy. Thế mà hai cô cứ hao háo khoe mình là có duyên., có khi buông lời bóng gió diễu nàng Nga chiếc bóng! Thực ra cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và cầu thân với nàng, nhưng sao nàng không có cái cảm giác đồng thuận với người ta. Có lúc Nga thầm hỏi : hay là mình khó tính, hay là mình bất thường!? Những ý nghĩ như vậy chỉ bất chợt thoáng hiện rồi vụt tắt, nàng trở lại bình thường chăm học, ngăn nắp, không làm phiền lòng ai. Trong một lần trường tổ chức ca nhạc, các bạn cùng lớp với Nga ngồi quay quần dưới góc cây phượng, bất chợt con nhỏ Trường nó hỏi:- Ê Nga sao không tìm một bạn trai nói chuyện chơi cho vui? -Ủa sao mi cũng ngồi ở đây một mình vậy? Nga đáp chỏi lại. - Trường trả lời rất hãnh diện:-có chứ , ảnh đang chơi bóng rổ sân sau kìa. -À tôi cũng dễ và đơn giản thôi: Ai mà xếp cho tôi 2000 con én trong ba ngày thì tôi nhận làm chồng! -Trời ơi thật sao? Hạnh ngồi kế bên hỏi to. Nga nghiêm giọng :tôi nói thật và chính xác như vây! Cả bọn vỗ tay cười lớn. Ngay sau đó, Nga cúi nhìn xuống đất, hơi hối hận vì mình dường như đùa giởn với hạnh phúc của mình! .Sau đó trở về phòng trọ, thời gian lặng lẻ trôi, các bạn cũng im lặng không ai hỏi đền vụ Nga hứa dưới sân trường. Đầu tuần lễ sau buổi chiều đi học về, vừa bước vào phòng Cúc gọi Nga và nói :- Có một chàng trai gửi cho chị cái hộp để trên bàn đó. Nga nhe nhàng nói:- cám ơn chị. Nàng tiếp tục vào buồng thay áo và cất sách mới trở ra mở chiếc hộp, cả phòng nóng lòng muốn biết, nhưng tất cả im lặng nhìn xem. Chiếc hộp được mở toạt ra có người ồ lên một tiếng ngạc nhiên thích thú: những con én nhiều màu rất đẹp được xếp thành lớp trong hộp! Tim nàng đập mạnh rất ngột ngạt…lại nhận được một bức thư:” Nga, tôi là người đặt nhiều cảm tình nơi bạn. Tôi nghe câu nói đùa của bạn nên tôi hết sức cố gắng xếp những con chim én nầy để tặng bạn. Mong bạn vui nhận. Ngày thứ bảy lúc bảy giờ chiều mong gặp bạn đối diện cư xá bên kia đường” Đọc xong thư nàng vội xếp bức thư bỏ vào học bàn. Nàng nói lầm thầm: -chết rồi, lại rắc rối! Mấy bạn xúm bên Nga bàn tán, người thì nói anh chàng nầy thật khéo tay, người thì nói :- anh chàng nầy cũng lạ kỳ nha! Có người đính chính không hề tiết lộ lời của Nga. Nga nói:- không , không liên quan gì đến các chị, nhưng Nga thầm nghĩ: rồi sẽ thành chuyện lớn! Những ngày kế tiếp nàng như mất hồn, ăn kém, học hành lôi thôi! Các bạn thấy thế cố an ủi Nga…Thời gian cứ lặng lẻ đến chiều ngày thứ bảy…Trong chiếc áo dài màu kem, nàng vén khéo lại mái tóc, các bạn nhìn Nga , tất cả im lặng nhưng đều đoán biết nàng đi đâu rồi. Bước ra sân cư xá nàng thấy chàng đứng bên kia đường ngó sang, y phục rất chỉnh tề: ao sơ mi dài tay , quần màu sậm , tóc hớt ngắn. Nàng vừa ra tới ngõ thì chàng băng vội qua đường đến giáp mặt Nga.và nói:-chào bạn tôi là Minh Triết Nàng im lặng và bước xéo qua đi dọc theo lề đường, chẳng mấy chốc họ bước vào một công viên nhỏ,Triết chỉ một băng đá và nói:- mời bạn ngồi Và nói tiếp mấy con én đó tôi xếp đúng ba ngày đến phồng tay! Nga đáp hơi cộc:- nhưng mục đích anh đã đạt được rồi mà. Sao anh không hỏi tôi trước Anh có biết anh bất lịch sự vì nghe lén câu chuyện của chúng tôi! -Tôi tình cờ nghe được, thật tình tôi muốn làm quen với bạn thôi, Triết ôn tồn nói. Sao anh không dùng cách khác, Nga nói. -Triết kiên nhẫn:-tôi cũng không muốn bạn hứa gì đâu! -Nghĩa là lý gì ,Nga bước vội đi rớm nước mắt. -Triết bước theo và nói vói theo:-Bạn về đếm kỹ các con én xem sao, tuần sau cũng giờ nầy ta gặp lại cho biết ý nha, tôi đợi đó! Về đến phòng trọ Nga vội đem hôp đựng én ra đếm ngay, lần đầu đếm chỉ được 1999 con, nàng nghĩ mình đếm sai, đếm lại lấn hai cũng chỉ 1999 , lần thứ ba thứ tư cũng chí 1999, mắt nàng thật mõi. Nàng nói thầm đúng là thiếu một con chim én, nàng nghĩ :anh chàng nầy thật cố ý cho ta hiểu quan trong là con én thứ 2000 đó. Nàng đi ngủ trằn trọc, không còn giận dỗi nhưng nhiều cảm xúc! Mấy hôm sau khi từ dưới phòng ăn lên Cúc hỏi nàng:-sao mấy hôm nay thấy chị có vẻ tư lự lo ra quá chị , nhất là từ hôm nhận cái hộp quà. -Nga đáp:- không phải quà đâu , chị có nhớ hôm ở sân trường tôi nói: -ai xếp cho tôì 2000 con én thì tôi nhận làm chồng, hộp đó là đáp lời tôi đó, nhưng tôi đếm nhiều lần chỉ có 1999 con én thôi! À kỳ nhỉ! Cúc nói tiếp:- hôm anh đó vào để cái hộp trên bàn tôi thấy rõ là anh Triết, Chị Nga mới vào học năm thứ Nhất không biết rõ, hè nầy anh ấy ra trường. .Anh là một sinh viên giỏi, tờ đặc san của trường là do Minh Triết chủ biên. Mấy tờ bích báo đẹp trưng bày ở thư viện chính anh thực hiện , vẽ hay lắm chữ viết bay bướm tuyệt. Nhìn kỹ anh khá đẹp trai, cường tráng! Hôm sau Nga vào thư viện xem kỹ mấy tờ bích báo, các hình vẽ tuyệt đẹp góc dưới ký tắt (mt),trong các đặc san Minh Triết viết nhiều thể loại như :truyện ngắn, khảo luân ,thơ…Nga thầm nói : Đúng như lời Cúc nói. Nàng thầm nghĩ:- người như vậy thiếu gì bạn gái, cớ gì muốn làm quen với mình! Cuối tuần nàng gặp Triết. Chàng mau lẹ mở lời:-Tôi xin lỗi bạn, thật sự hôm đó tính cờ nghe các bạn nói chuyện với nhau, tôi định đùa , có chi lần gặp rồi bạn mau giận thật dễ thương làm sao! Nàng nhìn thẳng Triết , thấy rõ chàng trai thật khôi ngô với ánh mắt dịu hiền, hoàn toàn thu hút Nga! Cả hai người đều mĩm cười thân thiện.Tháí độ thoải mái dịu dàng của Triết làm cho Nga xao xuyến. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau.Tháng ngày sau đó, họ bên nhau, đường nhỏ công viên, bãi cỏ sân trường, bờ sông… đâu đâu cũng có đấu vết tình yêu của hai người. Nga không mong đựợc Triết tặng một món quà nào dù qúy giá đến đâu chỉ mong chàng trao cho nàng con én thứ 2000 . Có lúc nàng hỏi bóng gió về con én thứ 2000 thì chàng nắm tay nàng âu yếm và nói nhẹ nhàng tha thiết :- Én sẽ về khi mùa xuân của hai chúng ta đến! Bây giờ em còn phải học vài năm, anh chỉ sắp ra trường. Hanh phúc sẽ đến với ai biết chờ đợi. Nàng tin lời đó là chân tình…qua tháng ngày gần nhau càng lúc nàng yêu Triết tha thiết. Chàng là thanh niên luôn nghiêm túc với bản thân, thường quan tâm đến tha nhân. Chàng thường khuyên Nga luôn giữ tình yêu nhưng luôn chăm học, vì không phải học chỉ cho mình còn giúp cho người khác…Có mấy lần chàng tổ chức đoàn sinh viên đi thăm thương binh ở bệnh viện Cộng Hoà, đi thăm các Cô Nhi Viện , lúc nào Nga cũng bên chàng., . Nàng rất thích theo Triết viếng những phòng tranh, tham dự các buổi sinh hoạt văn học. Nhờ đi theo chàng mà Nga có cái nhìn ra xã hội, biết xúc động với nỗi đau thương của đời, thực tình nàng là con nhà giàu sống trong lá ngọc, ít nhìn xa ra cuộc đời. Với Triết nét nhân sinh của Nga thay đổi thật nhiều, các bạn gần Nga hơn, có người vui miệng nói Nga :-“Chi Nga ơi Chị ngồi lâu câu con cá lớn nha”. Có bạn lại thốt lời tị hiềm:-có bồ đẹp trai mà tài hoa như Triết thì khổ lắm nha!.Tiếng bấc tiềng chì nhiều lắm nhưng nàng phát lờ chỉ tin tưởng vào tinh yêu của Triết. Những giờ phút gặp nhau là hạnh phúc tuyệt vời. Triết thường đưa nàng về nhà gặp chị Thuận,là một goá phụ, chồng chị là một chiến binh tử trận ở miền Trung, để lại chị một đứa con gái năm tuổi . Chị Thuận sống bằng nghề dệt áo ấm tại nhà, cuộc sống tạm ổn không bận rộn lắm. Hai chị em không còn cha mẹ nên thương nhau và luôn gíup đỡ nhau. Gặp được Nga , là người yêu của em trai qúy của mình nên chị Thuận rất mến Nga và mau thân thiện nhau. Sau khi ra trường, Khiết được dạy tại một trường lớn ở đô thành, còn Nga mới lên học năm thứ hai, nhưng họ rất vui và thấy thuận lợi trong cuộc sống. Ngôi nhà chị Thuân nay thường có bốn người thật đầm ấm , luôn có tiếng cười. Nhưng cuộc đời là vô thường, Triết dạy học chừng sáu tháng thì có lệnh tổng động viên, lại một cuộc chia ly buồn. Nga khóc thật nhiều, Triết chỉ biết ôm nàng an uỉ, gạt lệ vào quân trường , rồi mang ba lô vào chiến trận miền Cao nguyên, để lại nơi thị thành người yêu bé nhỏ và người chị cô đơn! Tinh thần Nga suy sụp, nhờ chị Thuận hết lòng an ủi và khuyến khích, nàng cũng nhớ những lời dặn dò của Triết nên lấy lại niềm tin tiếp tục học năm thứ hai. Niềm vui của nàng giờ đây là những cánh thư nhỏ của Triết từ miền xa gửi về! Lúc nào đọc thư là rưng rưng nước mắt , ôm thư vào ngực nàng luôn nguyện cầu cho người thưong được bình an! Sau năm thứ 2 nàng đổ với số điểm thấp, nhân vào hè nàng trở về MỹTho thăm nhà như hằng năm, lần nầy nàng thấy lạ, nhà cửa được sửa soạn khang trang như chuẩn bị đón người khách qúy. Mấy giờ sau nàng biết chủ nhật tới có người đến coi mắt nàng, đêm đó ba má Nga cố thuyết phục nàng ưng lấy chồng cho ba mẹ yên lòng , chứ đi học xa ba má lo lắm, vì cảnh thân gái dặm trường! Nàng ôn tồn thưa lại rằng:-Con học chưa xong sao bỏ nửa chừng được, phải một năm nữa con mới đủ cử nhân, vả lại chồng của con phải là người con yêu , ba má để cho con chọn thì con mới có hạnh phúc. Ba nàng nổi giận mắng nàng một trận! Nàng im lặng lón lén vào buồn! Rồi sáng hôm sau khách cũng đến, không xa lạ , đó là ông bà chủ tiệm cầm đồ M T và cậu công tử Hai Bề. Nhìn thấy Hai Bề lòng Nga thật ngao ngán, ở cái thị xã nầy cậu quen mặt với những người nghèo khó thường đi cầm đồ. Cậụ rất tỉ mỉ tính lời kỹ, không mất đi một xu của cậu. Mặt lúc nào cũng phề phệ , với cái tuổi nầy mà câu đâu có đi lính , nhưng có thẻ nghĩa quân ma do cha mẹ chạy cho! Mấy người lớn ngồi quanh chiếc bàn rộng, riêng cậu Hai ngồi bên chiếc bàn vuông sát tường. Thình lình ba của Nga gọi:- Nga ơi lên ngồi tiếp chuyên cậu Bề đi con. Nàng nghe như vậy thật bực mình, nhưng người chị cả khuyên Nga ra , nếu không thì ba sẽ mất mặt. Nàng bước với vẽ mặt không vui, cúi đầu nhẹ Câu Hai lên tiếng :- cô Nga khỏe không? - Dạ khoẻ mà không vui đâu cậu. Câu sang đây cùng gia đình chắc có chuyện gì quan trọng, cứ nói mau đi cậu! - Thật tình cùng ở chung tại tỉnh nhà, biết cô từ nhỏ, tôi thương cô. Hôm nay tôi nhờ ba mẹ tôi thưa chuyện với ba má của cô Nga. Thật sự đời sống kinh tế của tui nay rất ổn định. Ba má tui già rồi giao mọi tài sản cho tôi giữ. Mệt lắm: một tiệm cầm đồ đang đông khách, hai dãy phố quanh chợ. Thật tình thì mệt lắm. Tui mong có người vơ như cô về phụ giúp tui! - Trời ơi! thật ông xui quá, tôi đã có người yêu rồi, thời gian nữa chung tôi làm lễ cưới đó. Thật sự với tài sản như vậy ông dễ tìm vợ lắm , cần gì phải trông nơi tôi! - Vậy người của cô làm cái gì vậy? - Anh ấy chỉ là người lính trận miền xa , nghèo nhưng giàu tấm lòng yêu nước! - Bây giờ chiến tranh quá xá lính tráng nay sống mai chết rồi khổ thôi! Nghe như vậy Nga nóng đầu xổ luôn một tràng:- Nè cậu, thương gia triệu phú nhiều tiền, nhưng tôi nào có yêu riêng bạc vàng, vàng với bạc ngàn ngàn cũng hết, tiếng hùng anh đến chết vẫn còn!. Vậy xin chấm dứt tôi không nói chuyện nữa. Nàng đứng vậy đi vội vào buồng. Bên bàn người lớn có lẽ nghe lời Nga nói và hiểu câu chuyện nên cha mẹ Hai Bề chưa uống hết cốc nước vội đứng vậy kiếu từ ra về. Ngay sau đó bão tố đổ lên hồn của Nga, anh chị không một người nào đứng về Nga để giải thích cho người cha tỉnh thức, trái lại họ lấy sự giàu có mà khuyến dụ nàng. Đêm đó nàng không chợp mắt, luôn nghĩ về Triết rất thương chàng đang cô lẻ ngoài chiến trường xa. Nàng thầm thì: Bao giờ con én thứ 2000 con én đem lại Mùa Xuân cho chúng ta anh ơi! Sáng hôm sau, trời vừa rưng sáng , chỉ một túi xách tay nàng ra bến xe đò đi thẳng về nhà Chị Thuận ( chị của Triết) và nàng hết lời tâm sự cùng chị. Chị Thuận nhìn nàng thương xót nỗi cô đơn của Nga, ôm nàng an ủi và đề nghị: -Bây giờ coi như Nga là em ruột của chị nha, gia đình có lý do của gia đình, mình phải lo phần mình cho yên, để học hành , làm việc , chờ Triết về hai em sum họp hạnh phúc là chị vui lắm. Nhưng chuyện đầu tiên là em rời bỏ nội trú dọn về đây ở với chi, trên lầu có 2 phòng , Triết ở một , em ở một phòng trên đó. Chị nghĩ nếu em còn ở nội trú, gia đình em biết sẽ đến thuyết phục em hoặc Tư Bề bị em từ hồn hắn sẽ phá em đó. Ở đây thì không cho ai biết ngay cả những bạn trước kia chung phòng trong nội trú với em!. -Chị ơi! Em thật cám ơn Chị có hướng giải quyết cho em. Em sẽ dọn về đây ở với chị, bây giờ em còn 2 tín chỉ mới đủ cử nhân. Năm tới có thể em nghỉ học hoặc chỉ học một tín chỉ để có thì giờ đi dạy học tự lo sinh kế, khỏi nhờ đến sự trợ cấp của gia đình! - Nếu như vậy Chị sẽ nhờ chú ruột của chị là giáo sư Thành hiện là hiệu trưởng trường trung học tư thục TV cũng ở trên đương Thanh Quan nầy - Thầy Thành cũng là thầy dạy triết của em đó lúc em học đệ nhất. - Như vậy là may quá, em đừng lo lắng nhiều sanh bệnh, cậu Triết sẽ buồn lắm! Thế rồi từ cô sinh viên vô tư, vui dưới sân trường, nay thành cô giáo nhiều âu lo cho học trò, âu lo cho mình, âu lo cho người thương ngoài xa khói lửa. Học trò nhiều đứa thương cô giáo trẻ hiền mà buồn, cô giảng bài rất hay. Có lúc cô giảng tác phẩm Chinh Phụ Ngâm cô nói rất say sưa về người đi chinh chiến , người chinh phụ đợi chờ, rồi như nhập vai cô ngâm cả một đoạn thơ: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió “Thiếp thì về buồn cũ chiếu chăn “Đoái trông theo đã cách ngăn “Tuôn màu mây biếc , trải ngần núi xanh “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại ‘Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang “Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương “ Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy “Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu “Ngàn dâu xanh ngắt một màu “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai” … Những lúc đó lớp thật im lặng , học sinh nhìn thấy rõ nhự hạt lệ rưng rưng trên khóe mắt cô. Các em rất phục cô mến cô giáo hơn và thích giờ học Việt Văn. Các em có biết đâu trong hồn cô hiển hiện một người chinh phu đang chiến đấu thực sự cho tổ quốc Việt Nam. Chẳng bao lâu thời gian trôi đã hai năm, hai mùa Tết đã đến, hai mùa Xuân hiu quạnh của nàng. Không biết bao lần đi lại trên con đường Thanh Quan, mấy năm về trước Nga và Triết thường qua lại con đường nầy. Bây giờ chỉ một mình nàng bước đi lầm lũi âm thầm tìm dấu chân xưa! Trưa nay trên đường đến trường, lòng nàng thật lo âu, vì hơn ba tuần rồi nàng không được thư của Triết…Thời chinh chiến sự bất trắc tai nạn vây quanh người lính trận, nên người đợi chờ đầy nỗi lo âu! Hôm nay vào lớp dạy nàng không một chút phấn khởi, suy nghĩ vớ vẩn lung tung…Hôm nay ngày cuối , trường sẽ nghỉ để ăn Tết. Nàng trông tiếng chuông reo tan học, không phaỉ để đi du xuân, nhưng mau trở về nhà đón thư Triết. Rồi chuông reo, nàng hối các học sinh rời lớp mau , nàng bước vội khỏi cổng trường, bất chợt thấy Triết trong bộ đồ trận đứng tần ngần dưới góc cây dầu cổ thụ, nàng cất giọng gọi nhưng nghẹn giọng, nhìn trân trân Triết, chân muốn khuỵu xuống. Triết vội bước mau đến ôm vai nàng và kề sát tai:- Nga anh về với em nè. Giây phút sau nàng hoàn hồn, nhìn Triết nói gọn:-anh về hả! Hai người sát nhau băng qua con đường nhỏ đi dọc đường Thanh Quan, ngang qua chùa Xá Lợi nàng kéo tay Triết và nói:- Ta vào chùa cầu nguyện tạ ơn đi. Em thường vào chùa mỗi chiều đi dạy về. Triết đáp :- Ừa ta vào chùa đi em , tốt lắm. Hai người bước vào chính điện, Nga chọn nhang , đốt và chia cho Triết ba cây. Họ qùy xuống trọn lòng dâng lên đức Phật tạ ơn Ngài giúp cho qua những ngày khốn khó! Khi xuống đến sân chùa, Triết kéo sát Nga vào mình và hôn nhẹ lên trán nàng và nói :-từ miền xa về cũng là đem về cho em con én thứ 2000 mà bao năm em chờ đợi. Con én nầy đem lại mùa xuân cho hai tạ! Nga với tay cầm lấy con én giấy ấp vào hai bàn tay và nói trong hơi thở: -Niềm hy vọng của em nay đã thành hoa trong mùa xuân và chim én đã về! Quanh chùa hoa nở rất nhiều, những cây mai vàng đã nhoẻn nụ. Hai người sát vào nhau Triết nói:-Bây giờ có lệnh chánh phủ cho các giáo sư được biệt phái trở về trường, anh cũng được hưởng ân huệ đó; mình vui mấy ngày Tết đi, cỡ mồng bốn anh em và chị Thuận xuống Mỹ Tho xin ba má em cho mình đám cưới. Nga ôm chặt tay chàng ngước lên nhìn Triết cười nhẹ, nói khe khẻ:- em mừng lắm anh ơi- Những cây nhạc ngưạ dọc đường Thanh Quan theo gió rì rào bản nhạc “gió mùa xuân tới”!
-Mùa Xuân Tha hương Hàn Thiên Lương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 18/Jan/2023 lúc 6:53am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Jan/2023 lúc 6:57am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 21/Jan/2023 lúc 9:46am |
Tết Tha Hương“Chú ơi, đánh giày đi chú.” Tôi quay lại. Trời ơi, chú bé ốm như con mèo ướt. “Trời mưa. Ai lại đánh giày?” Chú bé nói giữa hai hàm răng run cầm cập: “Thế nên từ sáng đến giờ cháu chưa đánh được đôi nào cả.” Tôi kéo chiếc ghế ra. Thân thiện nói: “Cháu
ngồi xuống đây cho đỡ lạnh.” Chú bé ôm hộp đánh giày khúm núm. Tôi giục hai ba lần chú mới dám khẽ kê mông,
ngồi xuống. “Cháu uống sữa đậu nành nóng nghe?” Chú bé sáng mắt lên. Nhưng chú lại lắc đầu. Tôi biết chú đang đói. Cố
ép: “Cháu uống sữa đậu nành, ăn xong cái bánh pâté chaud là chú sẽ để cho
cháu đánh giày.” Chú bé mở đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như không tin, lắc đầu: “Cháu
không dám đâu.” Tôi cười: “Chú đãi cháu mà.” Chú bé vẫn ngần ngại. Tôi vẫy tay kêu người hầu bàn. Chú bé khẽ dò
hỏi: “Thế chú có cho cháu đánh giày không?” Tôi đùa: “Cháu đánh xong, chú ra ngoài mưa, bùn bắn. Lại như không!” Mặt chú bé lại tái đi. Nỗi thất vọng chực tràn những giọt nước mắt quanh khoé.
Tôi vội trấn an: “Chú đùa thôi.”
Chú bé hăng hái ngồi thụp xuống đất cởi giày tôi ra. Tôi cản: “Từ từ. Chú không chạy đâu.” Trong lúc đó, người hầu bàn bưng ly sữa đậu nành bốc khói cùng đĩa bánh đến. Tôi nghe chú bé nén nước bọt đánh ực trong cuống họng. Tôi kéo tay chú: “Cháu ngồi lên ghế, ăn đi.” Chú bé tự nhiên ăn uống một cách ngon lành. Tôi
châm thuốc nhìn ra bầu trời trước mặt.
Bên kia đường là chợ Đà- Lạt, người người co ro trong những chiếc áo mưa tơi. Những cô bán hoa ngồi héo mặt trong góc khuất chờ mưa tạnh. Những bà bán trái cây buồn rầu nhìn ông đi qua, bà đi lại; có bà tỉ mỉ lau bóng những trái táo nhập cảng như sợ nước mưa sẽ làm mẹt trái cây chóng thối. Bà bán bún ngồi ủ rũ khều mấy cục than trong lò ra, vì sợ lửa lớn sẽ chóng làm cạn nồi nước lèo. Những người bán rau tranh thủ ngồi nhặt những chiếc lá héo bên ngoài. Trời Đà Lạt buồn rầu đón thêm một cái Tết lạnh
lùng. Không khí như đặc lại bởi cơn mưa cứ nhỏ hạt lê thê. Chợ búa như khép kín
với nỗi buồn muôn thuở. Tôi đã nghe những người chung quanh than vãn suốt hai
ngày qua. Lạ, Tết đến rồi sao ông trời chẳng cười giùm cho một chút, ông khóc
sụt sùi hoài thì dân chúng làm sao mà dám cười?
Tôi nhìn qua khu Hòa Bình. Xe cộ thưa thớt, đường phố đắm chìm trong mưa. Phố Đà Lạt nhỏ, trời mưa khiến những con đường chảy nước ràn rụa, làm tăng vẻ rét mướt. Tôi nhìn lại, chú bé đã uống cạn ly sữa nóng. Gợi chuyện: “Ba mẹ cháu đâu? Sao để cháu ra làm thế này?” “Bố mẹ cháu ngoài Bắc.” “Như vậy cháu ở với ai?” “Cháu ở với chúng bạn.” “Cháu không có bà con gì trong Nam sao?’ “Không. Ngoài Bắc đói lắm, chúng cháu mới rủ nhau vào đây kiếm ăn!” “Cháu bao nhiêu tuổi rồi hả?’ “Mười hai.” “Mười hai? Nhìn cháu như mới lên bảy, tám là cùng.” “Đói quá làm sao mà nhớn được chú?” Chú bé cười sau câu nói, nhe hàm răng cáu vàng. À, thì ra chú bé cũng biết đùa. Tôi hỏi tiếp: “Cháu vào đây bao lâu rồi?” “Hai năm.” “Vậy cháu bỏ nhà vào Nam lúc cháu mới mười tuổi?” Chú bé cãi: “Cháu không bỏ nhà đi. Bố mẹ cháu cho phép.” Tôi cười thành tiếng: “Ừ, thì ba mẹ cháu cho phép. Cháu đi một mình?” “Không. Cháu đi cùng chúng bạn.” “Vậy mấy bạn đâu rồi?” “Chúng cháu chia nhau đi làm. Đêm đến mới gặp.” “Tối về cháu ở đâu?” Đứa bé đưa tay chỉ. Tôi bật lên âm thanh hơi lớn, khiến một vài cái đầu trong
quán quay lại nhìn: “Trong chợ?” Đứa bé gật đầu. Tôi nghĩ, trời lạnh như thế này, rồi chặc lưỡi: “Tại sao
ba mẹ cháu lại để cho tụi cháu đi như vậy?” “Bố mẹ chúng cháu nuôi chúng cháu không nổi.” Chú bé thản nhiên trả
lời.
Tôi bần thần nhìn đứa bé còi cọc trong chiếc áo “sida” bằng nỉ rộng thùng thình. Chiếc áo vượt không biết bao nhiêu đất trời, từ những người hảo tâm bên Tây, bên Mỹ, về Việt-Nam được hân hạnh khoe mình trên những sạp đồ cũ ngoài chợ trời, với cái tên đầy vẻ“thời thượng” - sida - Tôi biết nếu chủ nhân cũ của nó nghe được chắc chẳng bao giờ dám mang áo quần đi cho. Lạ, đầu óc tôi khi không lại đảo một vòng quanh thế giới. Tôi nhìn lại mình, nhìn lại chú bé bên cạnh đang kín đáo thè chiếc lưỡi nhỏ liếm vành môi còn đọng lại chút sữa. Tôi hỏi. Cháu uống thêm ly nữa nhé. Trong khi bàn tay như thói quen kêu người chạy bàn thêm một lần nữa, không để ý đến sự phản đối yếu ớt của chú bé. Tôi bỗng buồn. Tại sao tôi lại trở về Việt-Nam để thấy lòng mình buồn hơn bao giờ hết? Tôi chợt nghĩ đến những đứa cháu tôi bên Mỹ. Những đứa con nít ở Mỹ mới sung sướng làm sao! Buổi sáng, mẹ chúng phải năn nỉ chúng uống từng hớp sữa trước khi đến trường. Chiều về, lại dán mắt vào TV, hoặc những chiếc máy vi tính. Những trò chơi điện tử, chúng chơi chưa qua một ngày, đã chán!!! Chú bé rụt rè đặt ly sữa thứ hai xuống bàn.
Xong, hăng hái ngồi xuống đất gỡ dây giày tôi ra. Tôi lại kéo chú ngồi dậy,
cười: “Chú có một đề nghị.” “Gì cơ?” “Trời mưa, chú đi chơi không được. Cháu làm việc cũng không được. Bây giờ, cháu
ngồi nói chuyện với chú, coi như là làm việc với chú. Được không?” “Thế đôi giày của chú?” “Chú không cần cháu đánh giày cho chú đâu.” “Sao cơ?” Chú bé có vẻ hốt hoảng.
Tôi trấn an: “Chú trả tiền cho cháu đàng hoàng mà. Đừng lo!” Tôi hỏi thăm về chú bé, về công việc mưu sinh hàng ngày. Chú bé nói mới thông thạo làm sao. Tôi yêu quá tiếng Việt được nói ra lưu loát từ cửa miệng của một em bé. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp nghe em bé Việt-Nam nói chuyện một cách mạch lạc. Ở Mỹ, tôi đã quen với những tràng tiếng Mỹ xen với những câu tiếng Việt ngô nghê của mấy đứa cháu khi bị ba mẹ lườm mắt, ý không được nói tiếng Mỹ ở nhà. Chú bé quay qua hỏi tôi: “Chú về thăm gia
đình hở?” “Chú có đi đâu mà về?” Tôi nheo mắt trêu.
Chú bé cười, ra vẻ hiểu biết: "Nhìn
chú, cháu biết chú là người nước ngoài rồi.” “Sao biết?” Chú bé thân thiện hơn: “Không sao cả. Biết là biết.” “Chú cũng là người Việt mình mà?” “Chú khác với những người Việt ở đây. Chú là Việt kiều!” “Chú thấy có khác gì đâu?” “Tại chú không thấy. Nhưng cháu thấy!” Tôi đổi sang chuyện khác, nói vu vơ: “Tết năm nay hoa anh đào bị tàn
hết vì mưa?” “Vâng!” Chú bé vội vã nói tiếp: “Nhưng cháu thấy hoa đào ở ngoài
cháu đẹp hơn nhiều.” “Phải!” Chú bé reo lên: “Chú cũng thấy nữa sao?” “Chú chưa ra Bắc lần nào, nhưng chú thấy trên phim ảnh.” "Ở ngoải cũng có phim ngoài Bắc nữa sao?” Tôi bật cười vì khi không chú bé lại nói giọng Nam: "Phải, ở ngoải
cũng có. Chú thấy những cành hoa đào thật đẹp ngoài Bắc.” “Đẹp mà làm gì hở chú? Nhà cháu không bao giờ ăn Tết bằng hoa đào.” “Ai lại ăn Tết bằng hoa đào?” Chú bé không hiểu tôi đùa. Nghiêm giọng: "Thật đấy chú. Đắt lắm
chú ạ. Có cành cả bạc triệu cơ đấy. Chỉ có nhà giàu mới sắm hoa đào ăn
Tết!”
“Thế Tết cháu không về, ba mẹ có mong không?” “Tiền đâu mà về chú. Cháu để dành tiền vé xe lửa gửi về cho bố mẹ còn hơn!” “Cháu nhớ nhà không?” “Cháu nhớ lắm chú. Cháu nhớ cái Hà nữa cơ. Cái Hà em cháu còn bé mà ngoan lắm,
giúp được việc cho mẹ cháu lắm!” Tôi cao giọng, vui lây với chú bé đôi mắt cứ nhấp nháy khi nhắc đến đứa em gái: "Cái Hà giúp được việc gì nào?” "Cái Hà giúp mẹ cháu đi nhặt lúa rơi.” “Thế ba mẹ cháu làm gì?” “Bố mẹ cháu làm nông. Nhưng bây giờ cũng ít ruộng để làm rồi.” “Sao vậy?” “Người ta lấy ruộng để xây nhà hết.” “Thế hả?” Rồi tôi trầm ngâm.
Chú bé hỏi: “Chú cũng về quê ăn Tết
à?” Tôi thở dài: “Chú không có quê. Chú không còn ai thân ở Việt-Nam
cả!” “Thế chú về làm gì? Ở ngoải sướng hơn. Cháu nghe nói
bển cũng có bánh tét, bánh chưng, có... đủ thứ. Đâu cần phải về!” Tôi cười xòa: “Chú đâu thèm bánh tét, bánh chưng,... Thế cháu thèm
bánh tét, bánh chưng lắm phải không?” Tôi bật cười hồn nhiên. Khi không, nói chuyện với chú bé một hồi, chú bé lại
giả giọng Nam, tôi lại lái qua giọng Bắc.
Chú bé le lưỡi: “Cháu thèm bánh chưng. Mà
đắt lắm chú ơi. Nhưng cháu nhất định sẽ ăn nó vào Tết năm nay!" Chú bé nói chữ “nhất định” nghe ra thật cương quyết. Tôi thấy bồi hồi.
Ước mơ và mục tiêu của em bé nghèo Việt- Nam chỉ đơn giản như thế
sao?"
Tôi khỏa lấp: “Tại sao lại nhất định?” Chú bé cắt nghĩa: “Này nhé. Chúng cháu gửi tiền về nhà. Còn dư, chúng
cháu góp lại mua được những hai chiếc bánh chưng lận!” Tôi cười: “Mấy đứa mà những hai chiếc lận?” “Lẽ ra là mười đứa. Nhưng hai đứa xuống Phan-Rang nhảy tàu về quê, còn lại tám
đứa. Cháu tính rồi, mỗi đứa được một phần tư cái. Cháu mong cái Hà năm nay cũng
được ăn bánh chưng như cháu!” Tôi quay mặt nhìn xuống lòng đường. Nước cuồn cuộn dưới chân. Vài chiếc xe hơi
đời mới chạy ngạo nghễ bắn bùn vào khách bên đường, để lại những tiếng chửi rủa
tục tằn. Chú bé tò mò nhìn tôi. Chắc chú chẳng hiểu tại sao mắt tôi lại ngầu
đục?
Trở về Đà Lạt lần này, tôi muốn ăn Tết với gia đình người bạn thân thời trung học một cách bất ngờ. Nhưng dự định của tôi tiêu tan! Bao nhiêu năm rồi, nếu lòng tôi không thay đổi, chưa chắc người khác đã không đổi thay như tôi. Bây giờ tôi mới biết, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau đã khiến con người ta khó thể gần gũi nhau được. Bạn bè ngày xưa từng mặc áo lẫn nhau, bây giờ nhìn lại mới thấy thời gian đã làm thay đổi nhiều quá! Không có gì tồn tại mãi! Tôi lần mò đến con dốc cũ, chẳng buồn biết nó có bị thay tên hay chưa? Đà Lạt không có những thay đổi lớn lao, ngoài khí trời hình như không còn lạnh như năm nào. Căn nhà cũng như xưa, không được sửa sang, trông già nua quá thể, giàn hoa giấy cũ đã bị chết khô tự bao giờ! Và, cánh cửa gỗ nứt nẻ không buồn sơn phết lại. Tôi gõ cửa. Người đàn ông yếu đuối, tóc lưa thưa bạc phếch, mở cửa nhìn tôi bằng đôi mắt mệt mỏi. Tôi lễ phép: “Thưa bác có Thuần ở nhà
không ạ?” Người đàn ông ngạc nhiên, cau mày nhìn tôi một thoáng rồi bảo tôi vào nhà ngồi
chờ.
Một lúc khá lâu, cũng người đàn ông ấy chậm rãi
bước ra, vỗ vào vai tôi: “Thằng Thuần không có ở nhà con à.” Chưa kịp che giấu nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt tôi, thì người đàn ông
lại đánh đét vào đầu tôi, la lớn, giọng Huế đặc sệt: Tuân ‘tồ’!! 'Mi
không nhận ra tau hỉ?” Bây giờ thì đến phiên tôi ngạc nhiên: “Sao bác lại biết tên tục của
cháu?” Người đàn ông đấm mạnh vào vai tôi: “Bác cái mả cha mi! Tau là Thuần đây,
khỉ à!!!” Tôi há hốc miệng: “Trời ơi! Mày... mày giống ba mày quá!” “Mi lại nói móc tau đó hỉ? Con khỉ, nói tau già thì nói đại đi! Bày đặt!!!” Tôi ngượng ngùng: “Mấy chục năm rồi mày à. Nói thật, tao không nhận
ra mày! Chỉ thấy có nét giống ông cụ nên tao tưởng là bác trai chứ???” Thuần cười móm mém: “Tau hiểu. Đời sống khó khăn. Mau già lắm!” Tôi nheo mắt cười. Thuần đổi giọng: “Về hồi nào vậy?” “Một tuần rồi. Tao mới lên Đà Lạt ngày hôm qua! Ở Mỹ hàng năm có tổ chức sinh
hoạt cựu học sinh, anh em vẫn thường nhắc tới mày!!!” Thuần lơ đãng: “Thế à!” Tôi nhìn vào mắt Thuần, đục ngầu màu khói thuốc. Thuần già đến nỗi tôi không
thể nào tưởng tượng ra được! Ngày còn đi học, Thuần chăm chút hình hài lắm! Sau
một cuộc thất tình, Thuần bỏ ngang năm thứ hai Luật khoa, đi lính!!!
Sau đó chúng tôi ít gặp nhau, nhưng vẫn thường xuyên liên lạc. Năm 1979, tôi vượt biên, nghe đâu Thuần vẫn còn bị học tập cải tạo. Thuần mang đầy mặc cảm, tự ái! Thuần ăn nói nhiều khi rất cay độc với người, và cả chính mình! Tôi thân với Thuần vì học cùng lớp thời trung học, lớn lên trong một thành phố. Xong tú tài hai, chúng tôi cùng xuống Sài-Gòn ghi danh vào trường Luật, ở chung phòng trọ. Khi ra đi, tôi mang theo rất nhiều kỷ niệm thời thơ trẻ cùng Thuần. Trở về, tôi có rất nhiều điều muốn nói với anh, nhưng khuôn mặt Thuần lạnh căm, không bày tỏ một chút xúc cảm, làm tôi thấy thất lạc! Thuần hất hàm: “Ở khách sạn hả? Đúng rồi, Việt kiều phải vậy chứ? Ở nhà rách chắc không quen!” Tôi nhăn nhó: “Mày nói nghe nhột
quá!” Thuần đổi đề tài: “Hai bác và mấy đứa em mi bên đó vẫn khỏe chứ?” “Ba mẹ tao đã qua đời. Mấy đứa em vẫn khoẻ.” Thuần chặc lưỡi: “Ba mạ tau cũng vậy. À! Ngôi nhà của gia đình mi
nhà nước cấp cho cán bộ cao cấp, họ sửa lại thành biệt thự đẹp lắm. Mi tới đó
chưa?”
“Tao định thăm mày xong tao qua đó coi cho
biết.” “Ừ ngôi biệt thự đó bây giờ không rẻ đâu. Phải rồi, nghe nói mi vừa ly dị?” Tôi thở nhẹ: “Năm năm rồi.” Thuần đùa: “Tin tức đi chậm, nhưng
chính xác! Mấy cháu?” “Một. Ở với mẹ nó.” “Về đây kiếm vợ hả?” “Mẹ. Mày đừng có đùa. Tao già rồi!” “Mi còn “sữa” chán. Lúc xưa ai cũng kêu mi là “tồ” vì lớn con nhất đám. Không
ngờ bây giờ trông mi “sữa” nhất đám!” Tôi đùa: “Bộ mấy cô thích “sữa ông già” như tao lắm sao?” “Sữa gì cũng thích. Sữa Hà-Lan, sữa Con Chim, sữa Ông Già, sữa quá đát
(date)... miễn là hàng ngoại!” Tôi cười lớn: “Ông cũng còn giễu như lúc xưa!” Thuần cũng há miệng cười thành tiếng, không thèm che đậy chiếc răng cửa đã
rụng: “Giễu để mà sống chứ!” “Bộ liệt tao vào thứ hàng ngoại thiệt sao?” Thuần nhìn tôi từ đầu đến chân: “Mi là hàng ngoại một trăm phần trăm!” Tôi chưa kịp mở miệng. Thuần lại tiếp: “Áo da của Mỹ, áo thun của Mỹ
quần bò của Mỹ. Cả đôi giày cũng Made in USA tuốt! Thế mà không phải là hàng
ngoại một trăm phần trăm à???” Tôi thấp giọng: “Đừng giễu nữa. Tao là người Việt-Nam một trăm phần
trăm!” “À! Điều này chỉ có mi biết! Ra đường ai nói mi là người Việt-Nam đâu. Họ bảo
mi là Việt.... kiều!!!” Tôi xua tay đổi đề tài: “Mày càng nói càng đi xa vấn đề. Bà xã đâu? Con
mày ra sao?” Thuần thở dài: “Tau cứ bịnh lên bịnh xuống, nên bả phải lo chạy gạo!
Tụi con tau lớn hết trơn rồi. Chúng nó cũng sống trôi nổi lềnh bềnh như tau!
Chỉ có đứa út là dính vào vợ chồng tau, trôi được khúc nào hay khúc đó.”
Tôi nén tiếng thở dài. Tôi đứng dậy cáo từ. Thuận tay, tôi xoa đầu cậu bé đang khép nép bên khung cửa,
tôi nghĩ là con út của Thuần. Tôi khéo léo nhét vào túi áo cháu ít tiền.
Rồi đi!
Nhìn gia cảnh Thuần, tôi hiểu nó túng thiếu lắm! Năm cùng tháng tận!!! Không có một bình hoa trên bàn thờ. Ngay cả ly nước trà cháu mang cho tôi uống cũng rất loãng. Tôi hiểu bạn tôi lắm. Nhưng tôi không biết chia sẻ bằng cách nào. Bạn tôi tự ái rất cao!!! Thành phố bắt đầu lên đèn. Cơn mưa còn chút bụi nước bay lất phất qua những ngọn đèn đường trên cao. Chú bé níu áo tôi: “Chú thật không muốn
đánh giày hả?” Tôi giật mình nhìn chú bé, thương hại: “Chú không đánh. Hôm nay là bao
nhiêu rồi nhỉ?” “Hai chín Tết!” “Sao không thấy chợ Tết hả cháu?” “Mưa quá. Người ta nhóm chợ bên trong!!!” “Thế làm sao cháu ngủ?” “Đợi đêm đến chúng cháu mới lẻn vào!” Tôi xoa đầu đứa bé: “Chúng ta kiếm cái gì ăn không?” "Cháu không dám đâu!!!” Tôi đùa: “Dám một chút đi mà!” Đứa bé cương quyết: “Cháu thật không dám!” Tôi móc tiền cho chú bé. Số tiền nhỏ lắm đối với tôi, nhưng có thể là cả ước mơ
của chú bé! Cho chú bé và các bạn tha hồ ăn bánh chưng năm nay.
Chú bé tròn mắt nhìn tôi, ngần ngại. Tôi dúi tiền vào tay chú. Chú cầm lấy, miệng lí nhí cảm ơn - hình như hai tiếng cảm ơn rất khó nói đối với chú - rồi, chú vùng chạy. Hộp đồ nghề đánh giày lắc lư một bên. Cứ chạy dăm ba bước, là chú bé dừng lại, ngoái đầu nhìn tôi. Có thể chú đang sợ tôi đổi ý, đòi tiền lại chăng? Tôi đưa bàn tay lên vẫy, bỗng thấy hụt hẫng vô cùng. Tôi nhìn theo cho đến khi chiếc bóng nhỏ bé kia lẫn trong màn sương. Đêm hai chín Tết. Không
biết đêm mai tôi đón giao thừa ở đâu? Ngay trong khách sạn, một mình? Không
biết Tết năm nay đến với tôi là năm thứ mấy mươi tha hương? Riêng chú bé thì
hẳn tôi đã biết mấy năm chú tha hương rồi!!! Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Jan/2023 lúc 10:08am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22293 |
Gởi ngày: 23/Jan/2023 lúc 9:19am |
Ánh Lửa Đêm ĐôngBé Nga đi học về nhằm lúc chị Liễu đang ngồi sửa áo quần. Bé tò mò đứng lại nhìn: chỉ toàn là đồ cũ. Chắc ai mới cho mệ ngoại đây _ bé vừa ngẫm nghĩ vừa bước lại lục mớ đồ bà đã sửa xong. Thấy có tới hai bộ nhỏ cỡ thân hình mình, bé tỏ ra thất vọng: -Mệ nói Tết ni mệ may đồ mới cho con chừ mệ không may nữa à? Nhìn đứa cháu ngoại với bộ đồ thô kệch trên thân, chị Liễu không khỏi chạnh lòng. Chị cảm thấy mình có lỗi vì đã nhiều lần hứa suông với cháu. Lần mới đây chị lại hứa sẽ nhín nhín việc tiêu pha để may cho bé một bộ đồ bận Tết. Thương cháu mà hứa vậy nhưng suy nghĩ lại chị thấy khó quá. Cái nhà cũ của chị hư đâu chèn đó không kịp, lúc nào mà dư tiền? Tình cờ một người quen lại cho chị một số đồ cũ. Tiếc của đời, chị lại thay đổi ý định. Giờ thấy vẻ mặt tiu nghỉu của đứa cháu, chị đâm ra áy náy nói đỡ: -Áo quần ni còn tốt, mệ sửa lại thấy cũng đẹp lắm. Mình nghèo bỏ phí cũng uổng. Thôi năm tới chắc chắn mệ sắm đồ mới cho con. Bé Nga lặng lẽ đi cất sách vở. Chị Liễu nhìn theo cháu thở dài: -Tội nghiệp cháu tôi, từ đẻ ra tới chừ chưa khi mô có được một bộ đồ ra hồn! * Trước kia chồng chị Liễu phục vụ trong một đơn vị địa phương quân. Cưới nhau chưa tròn một năm thì anh bị tử trận. Anh chỉ để lại cho chị một ngôi lều cũ kỹ với một bà mẹ già và một cái bầu tám tháng. Họa vô đơn chí, đứa con gái của chị ra đời chưa được nửa năm thì xảy ra biến cố 1975. Mớ tiền tử tuất của chồng chị lãnh được không mấy chốc đã hết sạch. Hằng ngày chị phải tham gia làm việc với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để nuôi ba miệng ăn... Cái thôn An Lộng của chị nhỏ bé quá, một người ở đầu thôn bị đứt tay không mấy chốc người ở cuối thôn đã biết. Đất cát trong thôn có giới hạn mà dân cư thì mỗi ngày mỗi đông. Một mảnh vườn nhỏ có thể chứa đến ba bốn ngôi nhà: nhà ông bác, nhà ông chú, nhà ông anh, nhà chú em... Mỗi khi xảy chuyện nội bộ lủng củng, có gia đình không có lối để đi ra đường. Ruộng nương cũng vậy, chung quanh các thôn, các xã khác đã khai thác hết nên thôn An Lộng chẳng thể nào nới thêm được một phân, một tấc. Trước 1975, dân An Lộng có một số tập kết ra Bắc, một số khác đi lính Cộng Hòa hoặc làm công chức, ruộng nương trong thôn còn tạm đủ cho số dân còn lại làm ăn, cuộc sống tương đối còn đỡ. Sau ngày thống nhất, một số dân đã tập kết ra Bắc hồi hương, một số quân nhân công chức miền Nam cũng qui điền nên ruộng đất thành ra thiếu hụt, cuộc sống nông dân trở nên khó khăn thấy rõ. Chính quyền đã tổ chức lại lề lối làm ăn tập thể như lên đội, lên tập đoàn, cao hơn hết là hợp tác xã. Công việc làm ăn có chỉ đạo, có cải tiến, có phương pháp hơn, được sự hỗ trợ nhiều mặt của chính quyền, tất nhiên thành quả cũng tốt đẹp hơn trước nhiều. Theo báo cáo thành tích của chính quyền là vậy, nhưng thực tế đời sống của dân địa phương lại tồi tệ hơn trước rất xa. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Trong tổ chức hợp tác xã, những viên chức như chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác xã, thư ký thống kê, trưởng ban kế hoạch, trưởng ban kiểm soát... đều chỉ là những người lao động gián tiếp, tức là chỉ huy, kiểm soát, lo việc giấy tờ mà không hề cày cuốc... Ở tập đoàn lại có tập đoàn trưởng, tập đoàn phó, thư ký... đều là những người chỉ lao động bán phần. Thế nhưng những viên chức này lại được hưởng chế độ công điểm cao nhất trong tổ chức. Ngoài ra lại còn có những bữa tiệc bồi dưỡng cho cán bộ và những “cá nhân xuất sắc” vào những dịp lễ lạt, liên hoan trúng mùa... Những phí khoản đó đều rút từ ngân quỹ của hợp tác xã ra cả. Tất nhiên, những người dân mạt hạng như chị Liễu không làm sao tránh khỏi cảnh “ăn lưng đọi làm lọi lưng!”. Dù hằng ngày họ có trút bao nhiêu mồ hôi của mình xuống cánh đồng cũng không thể nào no được! Huống chi riêng chị Liễu còn phải nuôi thêm bà mẹ chồng đã già và một đứa con dại! Gia đình chị phải lây lất sống cầm hơi qua ngày tháng... Chị chỉ giảm bớt được phần nào cảnh sống đầu tắt mặt tối khi con Mẹt, đứa con chị bắt đầu hiểu biết và có thể giúp đỡ chị những công việc lặt vặt. Nhiều khi chị nghĩ đến Mẹt mà tủi cho con mình! Cũng là cô nhi con tử sĩ vị quốc vong thân cả, nhưng cảnh đời lại trái ngược hẳn nhau! Con người ta - thuộc phe chiến thắng - được bán cửa hàng, được làm cán bộ này cán bộ nọ ngồi mát ăn bát vàng, huênh hoang dạy đời, còn con chị chưa ráo máu đầu đã phải lo kiếm sống, lam lũ như một tên nô lệ thuở xa xưa. Dòng đời cứ trôi, rồi mẹ chồng chị qua đời, rồi con gái của chị cũng đi lấy chồng. Việc chi tiêu giảm, cuộc sống đỡ chật vật hơn, nhưng chị lại buồn vì nỗi cô đơn trống vắng. Sau này vì lối làm ăn tập thể đã thất bại nên nhà nước đổi sang chính sách khoán sản phẩm cho nông dân. Ruộng đất ít oi không thể nào đủ sống, vợ chồng Mẹt làm thêm nghề vét cát sạn ở lòng sông An Lộng. Chúng cũng chịu cảnh làm việc đầu tắt mặt tối và cũng thiếu thốn quanh năm. Nhưng dù đói thiếu, chúng cũng phải sinh con đẻ cái. Một đứa, rồi hai đứa, rồi lại có bầu... Để đỡ đần bớt nỗi vất vả nhọc nhằn cho con gái, và cũng để giảm bớt nỗi cô đơn trống vắng của mình, chị Liễu tình nguyện đem con Nga, đứa con đầu của chúng về nuôi. Dù bữa no bữa đói, chị vẫn cố gắng thu xếp cho bé Nga cắp sách đến trường... * Giờ đây, từ ngoài nhìn vào, người ta thấy thôn An Lộng như đã đổi lốt. Nhờ vào những chương trình viện trợ quốc tế, chính quyền đã cho xây đắp lại một số đường sá, cầu cống khiến việc đi lại trong thôn trở nên tiện lợi, thoải mái hơn trước. Đồng thời, những cán bộ cách mạng có máu mặt, một số người địa phương có thân nhân di tản ra nước ngoài, cộng thêm một số ít dân giỏi xoay xở cơ hội cũng góp phần làm cho bộ mặt của thôn An Lộng sáng sủa hơn... Số người này đã xây dựng được cho mình một số nhà cửa khang trang, đẹp đẽ. Họ cũng mở được những gian hàng, những quán tiệm với những dịch vụ kinh doanh đáng kể. Nhưng đằng sau cái bộ mặt có vẻ thay đổi đó, đa số dân thôn An Lộng, nhất là thành phần có liên hệ với chế độ cũ, vẫn sống một cuộc sống tối tăm, chật vật. Đời họ gần như thiếu hẳn mùa xuân. Không hẹn nhau mà những ngày lễ tiết quanh năm người ta gần như cùng giả lơ hết. Thậm chí ngày tết Nguyên Đán truyền thống của dân tộc nhiều nhà cũng giả lơ luôn! Trong nhà không có một đòn bánh tét, một dĩa mứt trên bàn thờ. Trẻ con không mấy đứa có áo mới. Nhà chị Liễu cũng ở vào trường hợp đó... Một hôm khi đi làm về, chị Liễu gặp một chị hàng xóm cùng cảnh ngộ cầm mấy tờ giấy đang lật đật rảo bước, chị chận lại hỏi: -Chị Hoàng đi mô mà gấp rứa? Bộ đi kiện ông trời à? Chị Hoàng dừng lại nói nhỏ: -Con Miên bên Mỹ mới về thăm nhà chị biết chưa? Nghe nói bên đó người ta có tổ chức lạc quyên để giúp các thương phế binh và cô nhi quả phụ như bọn mình. Quí thiệt, người ta cũng còn nghĩ tới mình đó chứ! Ai có giấy tờ chứng minh được mình trong diện ấy cứ gởi cho nó đem qua Mỹ may ra được hưởng chút gì hay chút đó! Tôi mới đi phô tô giấy tờ về để gởi đây! Chị còn giấy tờ chi của anh cứ đem gởi thử cho con Miên đi. Còn mấy ngày nữa nó mới trở lại Mỹ! -Thiệt rứa à? Bên đó người ta cũng còn nghĩ tới bọn mình à? Để tôi về tìm còn giấy tờ chi không gởi thử coi! Chị Liễu về nhà lục lọi một hồi may cũng kiếm được một ít giấy tờ cũ. Thật tình chị cũng chẳng mừng hay tin tưởng mấy. Thời buổi này mấy khi người ta thật lòng giúp đỡ nhau? Nhưng chẳng tốn kém bao lăm, mắc chi không gởi? Thế rồi chị đem mớ giấy tờ ấy đến trao cho cô Miên. Hôm sau cô Miên đem trả lại mấy bản gốc cùng mấy bản sao cho chị rồi dặn: -Chị cứ giữ giấy tờ này lại. Biết đâu lại còn có lúc cần! Chị cám ơn cô Miên rồi đem mớ giấy tờ ấy cất lại. Chỉ năm bảy ngày sau chị Liễu đã quên hẳn cái chuyện đó. Thời gian sau này ngoài việc chăm sóc phần ruộng ít oi được khoán, chị phải lo trồng trọt ngọn rau, cây ớt trong vườn hoặc đi làm mướn. Nghĩa là chị vẫn phải quần quật với công việc để nuôi hai bà cháu… * Một buổi trưa cuối đông, lúc đang vói tay cắt mấy tàu lá chuối để bán cho người ta gói bánh tét, chị Liễu bỗng nghe ai đó hỏi lớn: -Mụ Liễu mô rồi ra lãnh tiền ăn Tết tề! Chị Liễu vội ngừng tay nhìn ra ngõ. Chị định nói đùa một câu ý nhị nhưng liền khựng lại. Một người đàn ông lạ dắt chiếc xe honda đang tiến vào sân… -Bà có phải là Nguyễn Thị Liễu không? -Dạ phải, ông hỏi có chuyện chi? -Có tiền bên Mỹ gởi cho bà. Xin lỗi, chồng bà tên gì? Chị nói tên chồng. Người khách hỏi tiếp: -Xin bà vui lòng cho mượn giấy “chứng minh nhân dân”! Chị Liễu mừng rỡ vội đi tìm giấy tờ. Hóa ra chị có tiền ăn Tết thật! -Bây giờ bà muốn lấy tiền đô hay tiền Việt? -Dạ, tiền đô hay tiền Việt cũng được! -Vậy lấy tiền Việt khỏi mất công đi đổi nhé! Người khách đưa tờ biên nhận bảo chị ký. Chị lẩm nhẩm đọc: Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ… Bất giác chị thở dài, nước mắt chị bỗng tuôn trào. Hình như mấy dòng chữ đã làm chị xúc động. Người khách trao cho chị 32 tờ bạc mệnh giá 50.000 đồng Việt Nam: -Đây là một triệu sáu trăm ngàn tức một trăm đô la. Bà đếm lại đi! Chị run run cầm xấp tiền, lí nhí nói lời cám ơn không được rõ. Khi người khách vừa đi khỏi, chị Liễu đếm xấp tiền lại một lần nữa. Vừa lúc đó bé Nga bước vào nhà. Chị Liễu nhìn cháu rồi mỉm cười: -Rửa chân tay mau lên để đi chơi với mệ! -Đi chơi mô mệ? -Tao bảo đi thì cứ đi chứ hỏi chi? Chị lấy ra một cái thúng rồi dùng lá chuối khô lau sạch bụi cả trong lẫn ngoài. Xong, chị bỏ vào thúng một cái dĩa nhôm, giục cháu: -Xong chưa? Đi! Bé Nga sung sướng lộ hẳn ra mặt, lót thót bước theo chân bà nó. Mặt nó càng rạng rỡ hơn khi thấy bà nó tiến vào chợ. Mỗi lần theo bà vào nơi này ít nhất nó cũng được cái kẹo cái bánh… Nhưng lần này bà nó dẫn nó vào thẳng hàng vải: -Con thích màu mô cho lựa đi! Bé Nga ngạc nhiên trố mắt nhìn mệ nó: -Lựa mần chi mệ? Chị Liễu nguýt yêu cháu: -May áo quần chứ mần chi nữa! Chưa may được thì chục bục cái mặt ra, bộ chừ không muốn nữa à? Bé Nga say mê nhìn những tấm vải. Hình như màu nào cũng tươi sáng, cũng hấp dẫn đối với nó. Chị Liễu chỉ từng tấm hỏi cháu nhưng tấm nào bé Nga cũng gật đầu cả. Sau cùng chị Liễu đành tự chọn lấy – hai loại khác nhau nhưng đều là vải bông. Xong xuôi, chị dẫn bé Nga đến ngay tiệm may gần đó. Bé Nga rất bỡ ngỡ khi thấy người thợ may dùng cái thước dây để đo vai, đo lưng nó. Người thợ hỏi đùa: -May một lần hai bộ à? Nghèo mà chơi sang dữ vậy! -Chừ có chút lộc ngoại may cho luôn chứ biết khi khác biết có tiền mà may không? Chú biết đây là lần đầu cháu được may áo quần mới đó. Tội nghiệp từ trước tới chừ cháu chỉ toàn mặc đồ nính. Gắng may cho cháu kịp mặc trước Tết nghe! Người thợ đo xong chị Liễu lại dẫn cháu đi mua hai hộp mứt, hai hộp trà, một gói đường phèn và cho bé Nga một hộp bánh qui. Bé Nga ngạc nhiên hỏi: -Tiền mô mà mệ mua nhiều rứa? Bữa ni mệ giàu rồi à? -Tiền mệ mới ăn trộm, bữa ni mệ giàu rồi! -Rứa khi mô mệ cho cháu ăn mứt? -Không được nói bậy! Mứt trà ni để mệ lo việc trên đầu trên cổ đã. Thế rồi chị Liễu dẫn bé Nga đến nhà cô Miên. Hai bà cháu vừa bước vào ngõ thì bà Huấn mẹ cô Miên đứng trong nhà đon đả chào: -Hai mệ cháu le te nách thúng đi mô đó? -Dạ, đến chị có chút việc. Lâu ni cô Miên có gởi thư về không? -Có. Tôi cũng mới nhận ít quà Tết của nó hôm rồi. Có việc chi rứa? Chị Liễu để cái thúng xuống. Chị sắp một gói trà, một hộp mứt và gói đường phèn vào chiếc dĩa nhôm rồi trịnh trọng bưng lại nói với bà Huấn: -Có chút quà mọn gọi là chút lòng thành xin chị nhận lấy thảo! Bà Huấn trố mắt ngạc nhiên: -Có việc chi mà cô làm lát lát vậy? -Dạ, nhờ cô Miên nên hồi trưa ni tôi có nhận được một số tiền! -À, tôi biết rồi, chắc tiền cứu trợ cô nhi quả phụ chứ gì! Được bao nhiêu? -Dạ, không dám giấu chị, được một triệu sáu. -Được rồi, cô có lòng tôi xin cám ơn cô. Nhưng tôi cũng mới nhận quà của cháu Miên. Thôi cô cứ đem về mà dùng. -Vẫn biết rứa nhưng đây là chút lòng thảo của mệ cháu tôi, xin chị đừng từ chối! -Cô có lòng như rứa là quí rồi. Cô đem về mà dùng đi, tôi không nhận mô! Bà Huấn hết lòng từ chối nhưng chị Liễu vẫn nhất định không chịu. Cuối cùng bà Huấn vói tay cầm lấy gói trà: -Cô cứ nhất định như vậy thôi tôi xin nhận một gói trà lấy thảo đủ rồi. Chị Liễu bất đắc dĩ chào bà Huấn rồi dắt bé Nga về. Vẻ mặt chị không mấy vui. Nhưng đi được một đoạn đường chị bỗng quay ngoắt trở lại chợ. Chị lại vào hàng vải mua một xấp khác. Bé Nga ngạc nhiên hỏi: -Mệ mua vải mần chi nữa mệ? Chị Liễu cười: -Mi bận đồ mới được cũng cho hai đứa em mi bận với chứ! Tiếp đó chị lại mua cả nửa thúng nếp, một ít đậu đen, đậu phộng cùng một số đồ lặt vặt chất gần đầy một thúng. Chị phải nhờ người ta đỡ lên đầu để chị đội mang về. * Vợ chồng Mẹt dắt hai đứa nhỏ đến nhà chị Liễu vào chiều hăm tám. Nhìn hai đứa nhỏ xúng xính trong hai bộ đồ mới, chị Liễu cười sung sướng hỏi: -Chà, hai cháu của mệ bận áo quần mới đẹp dữ hả? Đứa mô cho mệ mượn bận một bữa đi! Chị ôm từng đứa hôn hít rồi quay vào bên trong gọi: -Con Nga mau dậy ra chơi với em nì. Ngủ chi mà ngủ lắm rứa không biết! Chị lại quay sang vợ chồng Mẹt: -Hai đứa bây vô phụ với mạ lo cúng sớm rồi còn nấu bánh tét nữa chứ! Mẹt nhìn mẹ cười: -Năm nay mạ bảnh quá, có cúng tất niên lại có nấu bánh tét nữa chứ! E mạ tiêu gần hết số tiền người ta cho rồi? -Thì tiền người ta cho mình để tiêu chứ để mần chi? Tiền nớ cũng nhờ ba mi mà có đó! Phải cho mấy đứa nhỏ nó biết ăn Tết là răng một lần chứ! Lâu nay cả ba đứa con tụi bây thật tình đã biết Tết là chi mô? À, cả mi cũng rứa nữa đó chứ Mẹt! Ừ, phải rồi! Cả ba chục năm từ ngày giải phóng tới chừ tao mới có dịp cúng tất niên, cúng giao thừa lại một lần đây chứ! Lâu ni hàng ngày chưa có bữa mô no bụng lấy chi mà lo Tết? Chồng Mẹt - thằng Thực cũng xen vào: -Chính con cũng chưa biết Tết thật sự ra răng huống chi tụi nó. Gần đây còn đỡ, hồi làm hợp tác xã ngày ba mươi còn ở ngoài ruộng, ngày mồng một lo đi trồng cây nhớ bác. Có hề được nghỉ Tết mô! Cực hết chỗ nói! -Chừ mạ nhờ thằng Thực lo việc trên bàn thờ. Trái cây, bánh cộ, giấy áo mạ đã để sẵn, sắp xếp răng cho khéo thì sắp. Còn con Mẹt phụ nấu nướng với mạ! Mẹt rất ngạc nhiên khi thấy mẹ kho nấu nhiều món quá. Thịt gà bóp, thịt heo phay, thịt heo kho tàu, thịt vịt chắm nước mắm gừng, chả trứng, canh cá, cá thu kho, tôm rằn kho, các loại đậu giá chiên xào… Không món nào nhiều lắm nhưng tương đối đủ vị cho một bữa cỗ của hạng nhà giàu. Mùi thức ăn nóng thơm lựng khiến ai nấy đều nuốt nước bọt… Mấy đứa nhỏ có lẽ thèm quá, đều chạy vào chơi quanh quẩn trong nhà để chờ đợi. Mẹt tuy cũng thèm nhưng tiếc của, cô hỏi mẹ: -Thức ăn chi mà nhiều dữ ri? Mạ không nhớ mấy lần Tết mình phải ăn cháo khoai bụng sôi rột rột cả đêm à? -Răng không nhớ được? Nhưng mình đói cũng đói rồi, khổ cũng khổ rồi, chừ may có được chút lộc ngoại, không cho mấy đứa nó thỏa mãn một bữa còn đợi khi mô? Tội nghiệp ba đứa nhỏ đứa nào cũng chăm chú theo dõi từ việc đơm múc thức cúng ra chén dĩa đến việc bưng đặt thức ăn lên bàn thờ, đến việc thắp hương, việc vái lạy của bà ngoại và cha mẹ chúng. -Khi mô thì cúng xong mệ? Chị Liễu lẫn vợ chồng Mẹt đều tức cười khi nghe cậu bé út hỏi. Mẹt cười nói: -Mày buồn ngủ cứ đi ngủ đi đã, sáng mai mới xong. Nghe Mẹt nói cả ba đứa nhỏ đều lộ vẻ tiu nghỉu. Chị Liễu không nhịn cười được -Chốc nữa thôi, khi mô hương gần tàn mệ rót nước lên là xong! Một lát sau bé Nga nhắc: -Hương gần tàn hết rồi mệ ơi! Chị Liễu lại cười: -Ừ, mệ đi rót nước đây! Chị Liễu tự đi rót nước cúng đặt lên bàn thờ rồi “bái tất”. Bọn nhỏ có vẻ nôn nóng nhìn theo từng động tác của chị Liễu khiến cha mẹ chúng không khỏi xúc động. Một lát sau cả nhà đã ngồi quanh mâm cỗ. Bọn trẻ hoạt động đôi đũa hăng hái quá khiến Mẹt phải ngăn cản chúng: -Từ từ mà nhai, coi chừng mắc cổ! Chị Liễu cảm động nhìn các cháu: -Ôn ngoại bây đãi đó. Bây cứ ăn một bữa cho bưa đi. Biết ôn ngoại không? Áo quần mới bây bận đó cũng là của ôn ngoại cho cả. Nếu ôn ngoại bây còn sống chắc nhà mình không đến nỗi khổ thế ni mô! Đồ ăn tuy nhiều nhưng chị Liễu chỉ ăn nếm nếm mỗi thứ một chút rồi buông đũa trước ai hết. Chị đứng dậy nói: -Tao rứa là rồi đó. Bây cứ ăn đi và canh chừng đừng để tụi nó ăn nhiều quá không tốt. Còn thì đậy đó tối ăn lại nữa. Chừ tao phải lo chuẩn bị cho xong bánh tét để nấu. * Trời về đêm mùa đông vẫn thường lạnh nhưng chị Liễu vẫn kê bếp nấu bánh trước sân. Chị đặt một cái đòn ngồi bên bếp để ngồi canh lửa. Củi đun toàn là những gốc tre, gốc sắn thô kệch và một ít gỗ tạp. Ngọn lửa bị nồi bánh ngăn cản không bốc cao được, cứ xoắn quanh đáy nồi bập bùng trông khá đẹp mắt. Hơi lửa ấm áp đã dần lôi cuốn cả nhà đến ngồi quanh nồi bánh. Chị Liễu than: -Việc nấu bánh bữa ni hơi bất ngờ nên mạ không chuẩn bị củi được. Chừ phải nấu củi tạp ni mất công canh chừng lắm. Vì rứa mạ phải kêu bây qua giúp một tay. Nhưng thôi, bây vô dọn cho tụi nó ăn lại đi mà về ngủ. Mạ canh chừng một mình cũng được. -Khoảng khi mô bánh mới chín mạ? -Sáng mai. -Rứa chừ mạ phải thức cả đêm à? -Chứ răng nữa! -Vất vả như rứa mạ bày đặt ra nấu bánh mần chi? -Lâu ni mắc ơn nghĩa xóm giềng quá nhiều chừ may có một chút lộc ngoại cũng nên trả bớt cho người ta một chút chứ! Mụ Huấn một đòn nì, mụ Hoàng một đòn nì, o Lý một đòn nì… -Mạ nì, chừ cứ để tụi nó ngồi chơi rồi chốc nữa dọn ăn luôn. Ăn xong cho tụi nó ngủ lại đây cũng được. Còn ba mẹ con mình thay nhau canh nồi bánh. -Ừ, bây tính rứa cũng được. Tao cũng đỡ mệt. Có lẽ giờ ni hàng xóm ngó đến nhà mình họ sẽ ngạc nhiên lắm. -Ngạc nhiên cái chi? -Hơn ba chục năm ni có đêm đông mô mà nhà mình có ánh lửa? Có khi mô đủ cả nhà ngồi quanh bếp lửa như chừ? Lửa ni là lửa ba mi đem từ đất Mỹ về đó! Thấy cảnh ni hàng xóm không ngạc nhiên răng được? Mẹt nghe mẹ nói bất giác cất giọng hát lên một câu hát cũ: “Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng, trông bánh chưng chờ trời sáng, đỏ hây hây những đôi má đào…”. Nhưng Mẹt chợt khựng lại khi nghe mấy tiếng sụt sịt của mẹ. Cô ngạc nhiên quay mặt lại nhìn. Dưới ánh lửa bập bùng Mẹt thấy rõ mấy giọt lệ đang lăn trên má chị Liễu. Không biết chị bị xúc động vì câu hát của con mình hay do ngọn khói nào đó làm chị cay mắt. Ngô Viết Trọng |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 191 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |