Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Dec/2022 lúc 1:17pm
Collage%20from%20Bangkok,%20Thailand%20–%20My%20collection%20of%20Postcards%20from%20the%20world

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Dec/2022 lúc 1:20pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Dec/2022 lúc 12:00pm

Nhánh Sông Ngậm Ngùi

 

Tôi không bao giờ nghĩ mùa hè năm ấy, sau hơn bốn mươi năm kể từ ngày từ giã mái trường, tôi lại có dịp thấy Toàn trong đêm Hội Ngộ. Đời biền biệt trôi đi như dòng sông, cuốn những con thuyền ra biển xa. Sau khi nối lại được liên lạc với người bạn cũ cùng lớp, hai đứa hẹn gặp nhau kỳ họp mặt Trường ở Toronto, hội ngộ với các bạn đồng môn trường xưa, để được sống lại những phút giây của tuổi học trò.

Cuối cùng, bạn tôi lại không đến được vì một lý do bất ngờ, thế là chỉ có mình tôi khăn gói lên đường với một mớ tâm sự ngổn ngang. Chưa bao giờ tôi nôn nao đến thế, như lần đầu tiên năm đệ thất được mặc chiếc áo dài trắng đồng phục bước vào ngưỡng cửa Trung Học, cô bé 12 tuổi bỗng thấy mình trở thành người lớn trước mấy đứa em còn đang học Tiểu học. Hơn bốn mươi năm rồi, một quãng thời gian khá dài đủ để cho những kỷ niệm ngậm ngùi và cay đắng đã nhạt nhòa đi, vậy mà chỉ hôm nay thôi, tôi nghe trái tim bừng bừng reo vui những nhớ nhung bao hình ảnh về trường xưa, bạn cũ, nhất là hình ảnh của ai kia một thời đã làm trái tim tôi đắm say chất ngất, để rồi cũng nát tan khi cuộc tình không trọn.


Từ chiếc bàn trong góc tối của hội trường đang ồn ào tiếng trò chuyện, thăm hỏi lẫn nhau, tôi đã nhận ra Toàn khi anh bước vào ngưỡng cửa căn phòng lớn. Không thể nhầm lẫn được, dù có đến mấy mươi năm chúng tôi không gặp lại nhau. Vẫn dáng cao cao nghệ sĩ ấy, mái tóc bồng bềnh đã bạc màu thời gian, khuôn mặt xương xương và nụ cười phảng phất một nét gì không trọn. Toàn đang bắt tay một vài người quen, tôi ngỡ ngàng tưởng mình đang sống trong mơ, một cảm giác lạnh buốt chạy dài khắp châu thân. Hóa ra chàng vẫn còn đó, cái tin chàng bỏ mình trong một trại tù sau năm bảy mươi lăm chỉ là ngộ nhận, bạn tôi đã nghe phong phanh như thế khi ở Việt Nam, rồi kể lại cho tôi nghe. Khi nghe bạn nói, tôi chỉ biết ngậm ngùi và cầu nguyện cho Toàn, cũng mừng là Toàn đã qua được những phút giây cận kề với nỗi chết.

Bốn mươi năm với biết bao khổ ải đẩy xuống cuộc đời, cuối cùng, đêm nay cả tôi và chàng cùng có mặt nơi đây, từ hai ngả đường khác nhau, để tìm về những kỷ niệm dưới mái trường xưa thuở ấy.Trong hội trường vẫn ồn ào tiếng cười, tiếng nói của bạn bè gặp lại nhau, những bàn tay xiết chặt bàn tay, những đôi mắt rưng rưng vì xúc cảm khi không ngờ bao nhiêu năm còn có đêm này. Họ đến đây từng nhóm, từng cặp, có đủ vợ chồng con cái, có người già người trẻ, có những người cô lẻ như tôi, như Toàn, mỗi người mang theo bên mình nhiều kỷ niệm và họ cũng đang đi tìm kỷ niệm, ước mong tìm gặp lại thầy cũ, bạn cũ, những hình ảnh ấy tưởng đã mịt mờ với thời gian, đã tản mát đi khắp bốn phương trời, từ khi chia tay với mái trường thân yêu ấy.

Từ chỗ ngồi trong góc tối này, tôi vẫn không thể nào không nhìn về phía Toàn, nơi chàng đang ngồi với vài bạn cũ. Hình như chưa ai nhận ra tôi, còn tôi thì im lặng tìm kiếm. Thời gian hơn bốn mươi năm trôi qua, trông tất cả đã già đi với mái tóc điểm sương, riêng Toàn, vẻ lặng lẽ của chàng đã nói lên chiều sâu của một nỗi đau nào đó khiến lòng tôi ngậm ngùi vô tả. Có thể là nỗi đau từ mối tình đầu không trọn, có thể là sự mất mát thảm khốc hơn từ những cuộc tình sau, sự thay đổi của thời gian đã làm chàng mất đi nét vui tươi ngày trẻ tuổi, tất cả nỗi đau ấy biết cái nào hơn. Thỉnh thoảng tôi thấy Toàn nhìn quanh, tìm kiếm một cái gì đó để rồi lại có vẻ thất vọng khi không tìm thấy gì cả. Không biết anh có đang nghĩ đến tôi như tôi đang nghĩ đến anh đêm nay, và liệu sự gặp gỡ bất ngờ này, có làm tan biến đi hình ảnh cũng như tình cảm đẹp đẽ và dễ thương của tuổi học trò hơn bốn mươi năm trước.

Riêng tôi, không phải chỉ đêm nay lòng tôi mới xôn xao như thế, mà đã biết bao nhiêu lần trong đời, dường như bao kỷ niệm êm đềm của những ngày trẻ tuổi vẫn âm ỉ trong lòng tôi, cho hơn bốn mươi năm tôi làm cánh chim viễn xứ. Biết bao lần trong căn nhà cô quạnh tôi đứng lặng nhìn cơn mưa ào ạt đổ xuống cánh đồng cỏ hoang vu, gió lồng lộng hun hút lùa vào khung cửa gỗ trong những ngày mưa bão. Bao nhiêu lần ấy, nước mắt như hòa với nước mưa, tôi nhớ về quê nhà trong một nỗi cô đơn khủng khiếp.

Làm sao chồng con tôi có thể chia sẻ với tôi được nỗi nhớ nhung của kẻ xa nhà , khi ở đấy có một góc trời riêng, chất chứa hình ảnh gia đình, bạn bè và những kỷ niệm buồn vui trong quá khứ. Mưa ở đâu cũng là mưa, gió ở đâu cũng là gió, vậy mà trong sâu thẳm của trái tim, tôi không khỏi không nhớ lại tiếng mưa rơi rào rào trên chiếc áo đi mưa một chiều tan học, Toàn đứng đợi tôi ngoài cổng trường, hai đứa đã che chung một tấm áo mưa, lòng vui vui như còn nghe vẳng lại tiếng cười chế giễu của bạn bè.                                         

 *  *  *

Trên sân khấu, người điều khiển chương trình đang giới thiệu những tiết mục trong đêm hội ngộ, tiếng vỗ tay rào rào, người ngồi chung bàn hỏi tôi câu gì đó làm tôi giật mình ngượng nghịu. Từ lúc biết Toàn có mặt trong đêm hội ngộ, đầu óc tôi bỗng dưng quay cuồng ngẩn ngơ, cảm tưởng đau sót của lần chia tay năm ấy như hiện về trong trí nhớ, suốt cả đời tôi không hề mong mỏi một lần hạnh ngộ .

 Định mệnh. Tôi thường tin vào hai chữ định mệnh để an ủi mình khi sinh ra trong một gia đình nghèo với bao điều bất hạnh. Toàn và tôi gặp nhau thật tình cờ với những bài thơ đăng trên Đặc San của trường năm đó. Anh học hơn tôi hai lớp, là một trong những cây bút khá nổi tiếng với những bài thơ hay, tôi là người ngưỡng mộ và cũng đang tập tành viết lách. Thơ của Toàn như nói hộ giùm tôi những trăn trở của tuổi trẻ về quê hương, khi chúng tôi đang sống trong đất nước chiến tranh, với cái nhìn hoài nghi về tương lai. Hai tâm hồn văn nghệ gặp nhau, quý mến nhau, để rồi thương yêu nhau đó là chuyện tự nhiên của thế giới học trò

Chỉ có điều là tôi quá vô tư để không nhìn thấy trở ngại, giữa tôi và chàng lại có hai hoàn cảnh khác biệt hẳn nhau. Toàn may mắn sinh ra trong một gia đình giàu, có tiếng tăm trong xã hội lúc bấy giờ, trong khi đó ba tôi chỉ là người lính tầm thường rong ruổi suốt bốn vùng chiến thuật. Mẹ con tôi cứ lẽo đẽo theo ba từ đơn vị này tới đơn vị khác, mãi tới khi đám con khôn lớn cần phải có một nơi cố định học hành, một mình ba tôi ra đơn vị, để vợ con ở lại trú ngụ trong xóm nghèo đa số là dân lao động,  những con đường ngoằn nghoèo trong ngõ hẻm với những mái lá tối tăm, chật chội.

Tôi vẫn nhớ ngôi biệt thự xinh đẹp có tường vây xung quanh trên con đường rợp bóng sao, có giàn hoa tigôn màu hồng nhạt leo quanh chiếc cổng sắt sơn trắng, đấy là ngôi nhà của cha mẹ Toàn. Mỗi lần đi ngang qua đấy, tôi vẫn mang chút tự ty mặc cảm để không dám nhìn vào hai cánh cổng sắt đóng im ỉm. Tôi biết Toàn có một đời sống no đủ và sung sướng, khác biệt hẳn cuộc sống của tôi, đứa con gái nhà nghèo, con một người lính trận, lúc nào cũng đối diện với hiểm nguy và nỗi chết.

Biết tôi nghèo như thế nhưng Toàn vẫn yêu tôi, với tất cả sự nồng nhiệt cuả tình yêu tuổi trẻ, Toàn không hề nghĩ rằng đấy là một trong những trở ngại mà hai đứa gặp phải, để có ngày phải chia tay nhau mãi mãi. Những ngày đi học, Toàn thường đứng chờ tôi trước cổng trường dù nắng hay mưa, chàng đưa tôi về trên những lối ngõ quanh co , tặng nhau những bài thơ tuổi học trò thơm ngát tình yêu ngây thơ, trong sáng.Tôi vẫn hồn nhiên sống trọn vẹn với tình yêu tuổi học trò, dù đôi lần vô tình bắt gặp cái nhìn khinh khỉnh của cô em gái Toàn cùng học một trường với tôi. Mỗi lần bắt gặp Toàn đứng đón tôi ở cổng trường, dù năm ấy anh vừa lên Đại Học, cô bé lại phóng cho tôi một cái nhìn đầy vẻ miệt thị, khiến Toàn cũng ngượng ngùng không biết nói gì cho không khí bớt phần căng thẳng.

Không biết những gì đã xảy ra trong gia đình chàng lúc ấy, nhưng tôi linh cảm có sự chống đốí ngấm ngầm của cha mẹ Toàn, khi biết Toàn đã yêu một đứa con gái nhà nghèo, con của một người lính trận không tên tuổi. Tuy biết phận mình, nhưng vì yêu Toàn tôi vẫn không chống đỡ nổi tình yêu đó, chỉ biết cố gắng học để hy vọng trong tương lai, tôi sẽ thoát khỏi hoàn cảnh nghèo khổ hiện tại, nhất là để đỡ đần gánh nặng cho ba mẹ tôi trong lúc tuổi già.

  *     *    *

Mùa hè năm ấy, mùa hè có những trận đánh từ nơi chiến trường xa, ba tôi theo đoàn quân tiếp viện cho đơn vị bạn ngoài địa đầu chiến tuyến, cũng để bảo vệ cho những người thành phố được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc. Sự bất hạnh luôn luôn đeo đuổi những cảnh đời cùng khổ, ba tôi ngã xuống vào mùa hè năm ấy, mẹ tôi đã ngất đi không biết bao nhiêu lần khi dẫn đám con dại đi nhận xác chồng trong nhà quàn của Quân Y viện.

Chiều hôm ấy, cũng một buổi chiều mưa rơi tầm tã, trên mái tóc xanh tôi quấn vội vã mảnh khăn tang, nhìn mẹ bằn bặt trong tiếng nức nở đến xé lòng, rũ xuống như một tàu lá đổ trước nấm mộ của ba tôi. Tất cả là một chấm hết cho đời người góa phụ, là nỗi mất mát lớn lao cho lũ con thơ, kể từ đây, ba tôi đã vắng mặt vĩnh viễn trên cõi đời này, mãi mãi và mãi mãi.

Đêm mưa. Nhìn ảnh ba tôi trong màu áo trận, trên bàn thờ nhòa nhạt khói nhang, tôi vẫn ngỡ ba tôi còn sống và đang băn khoăn, ái ngại cho hoàn cảnh bi đát của vợ con giữa thời buổi chiến tranh, cùng bao nhiêu cạm bẫy, cam go của cuộc đời. Mưa vẫn rơi đều trên mái lá, càng về khuya càng não nùng như những lời tỉ tê, tiếng mưa tí tách từng giọt buồn tênh rớt xuống chiếc thau nhôm hứng những giọt mưa từ mái nhà giột ẩm ướt, như những giọt lệ tủi buồn của đứa con mồ côi rớt xuống cõi đời hiu quạnh.

Số tiền tử tuất của ba tôi quá ít ỏi, chỉ đủ cho mẹ tôi mở một tiệm tạp hóa nho nhỏ, bán đủ thứ than củi, mắm muối cho những người hàng xóm trong khu lao động lúc nhúc những mảnh đời khốn khổ. Cái quán nghèo nàn ấy càng ngày càng thâm thủng đi vì sự đau ốm của mẹ tôi, cùng sức ăn của bầy em đang tuổi lớn.

Cố gắng hết niên học, tôi quyết định bỏ học đi làm giúp đỡ mẹ. Mảnh bằng Tú Tài I chưa đủ cho tôi có một hành trang vững chãi bước vào đời, nhưng tôi không thể nào chịu nổi khi mỗi đêm trời giông bão, căn nhà lá nghèo nàn, dột nát như muốn đổ xuống dưới sức gió của đêm mưa, mẹ tôi phải lẩm nhẩm tính toán suốt ngày những đồng thu chi trong cái vốn cỏn con ấy, rồi nó cũng sẽ mất đi lúc nào chẳng biết. Nghĩ đến Toàn và căn nhà xinh đẹp của gia đình chàng, tôi lại thấy nghẹn ở ngực. Tình yêu Toàn dành cho tôi vẫn không thay đổi, vẫn đầy tràn hơn bao giờ hết, nhưng mặc cảm trong lòng đứa con gái nhà nghèo vẫn làm tôi tủi thân, để có cảm tưởng là cả hai đứa khó nắm được tình yêu cho nhau, khi gia đình hai bên quá khác biệt.

Không dễ gì tìm một việc làm tương đối trong thời buổi ấy, là con một tử sĩ, tôi chỉ có thể xin một việc làm khiêm nhượng trong hệ thống quân đội, hoặc làm một chân thư ký đánh máy trong căn cứ Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Tôi suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng nhờ một người bà con, tôi cũng xin được một việc làm cho quân đội Mỹ. Nói sao cho hết cái mặc cảm của đứa con gái Việt Nam ra vô mỗi ngày nơi căn cứ Mỹ, phải nhận những cái nhìn nghi kỵ phẩm giá của người đồng chủng, nhưng cứ đến kỳ lương, cầm những đồng tiền trong chiếc bao thư về nhà cho mẹ, tôi mừng rỡ hơn bao giờ hết, vì biết từ nay có thể thay ba để lo cho lũ em dại.

Nhưng điều ấy không đem lại may mắn cho tôi trong tình yêu, khi chính Toàn ngại ngần mãi  rồi mới nói cho tôi biết cái trở ngại trong tình cảm của hai đứa, nếu tôi cứ tiếp tục đi làm sở Mỹ. Cái nghèo đã là một cái tội, huống chi đứa con gái nào đi làm sở Mỹ trong thời buổi ấy cũng tự nhiên gánh thêm một cái tội nữa trên đầu, dù chưa làm gì nên tội, nhất là đối với những gia đình trưởng giả, nhiều thành kiến như gia đình Toàn.

Toàn khổ sở vì yêu tôi, vì những thành kiến ích kỷ của gia đình chàng, nhưng liệu chàng có cách gì để giúp tôi thoát ra cái bế tắc của cảnh nghèo hiện tại. Với sự giàu có, dư dả của cha mẹ chàng, Toàn đâu thể hình dung nổi cái khổ của đám người cùng đinh trong xã hội, mà mỗi miếng cơm là những giọt mồ hôi ướt đầm manh áo vá. Chàng làm sao thấy hết được, tôi đã phải gò lưng trên chiếc xe cọc cạch chất đầy than củi, mắm muối, mùi hôi hám của những thứ thực phẩm nhà nghèo ấy làm cho tôi trông càng thê thảm hơn. Có bao giờ trong căn biệt thự sáng trưng ánh đèn, văng vẳng điệu nhạc dặt dìu êm dịu, Toàn có biết lúc ấy lũ em tôi đã phải vật lộn với sách vở dưới ngọn đèn đỏ quạch, không đủ soi sáng cho những hàng chữ của bài học.

Gia đình Toàn vốn đã không ưa tôi ở cái nghèo, nay lại thêm một yếu tố nữa để bắt chàng đoạn tuyệt. Có lúc quẩn quanh Toàn nghĩ đến chuyện hai đứa đem nhau đi thật xa, đến một phương trời nào đó, xa loài người, xa cuộc đời, gạt bỏ tất cả thành kiến hẹp hòi của những người xung quanh. Tôi đâu có can đảm để làm điều ấy khi nghĩ mình đâu có tội tình gì, nếu không phải chỉ vì nghèo để không được yêu. Hơn nữa tôi còn một bà mẹ đau khổ và một bầy em cần nương tựa, tôi không thể sống chết với một mối tình mà bỏ bê mẹ và các em. Thôi thì đành chia tay, để Toàn được yên tâm học hành và để cha mẹ chàng được vui vẻ sắp xếp cuộc đời của con họ. Tôi ngậm ngùi cắt đứt mối tình học trò, phải nói những lời phũ phàng chát đắng với Toàn để rồi lại khóc vùi một mình trong những đêm không ngủ.

Không biết Toàn nghĩ gì về tôi lúc đó, nhưng tôi chấp nhận xa chàng để được trọn vẹn cả hai phía, cho gia đình tôi cũng như gia đình chàng. Một thời gian sau tôi nghe tin Toàn bỏ học, gia nhập quân đội dù gia đình chàng dư sức lo cho chàng ăn học. Tôi không hề trách anh, vì cả hai đứa cùng là nạn nhân của một xã hội hẹp hòi ích kỷ, nhưng từ lúc ấy, tôi không còn mơ mộng để tin rằng tình yêu sẽ mang đến niềm vui cho cuộc đời, lòng bỗng dửng dưng như giọt mưa buồn tênh rớt xuống hiên nhà rồi trôi đi biền biệt.

Không biết may hay rủi, vào những ngày cuối tháng tư năm ấy, tôi vội vã rời xa quê hương theo diện nhân viên sở Mỹ, trong một chuyến bay cuối cùng đến đảo Guam. Mẹ tôi nhất định ở lại vì nấm mộ của chồng trong nghĩa trang quân đội, một thân nơi đất khách quê người, tôi phải tìm nơi nương tựa. Chồng tôi là một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, nay làm việc trong cơ quan thiện nguyện. Người đàn ông có màu mắt mênh mông như biển khơi, đã chia xẻ với tôi suốt những tháng năm tôi lạc loài nơi xứ lạ, giúp tôi nguôi ngoai những đau buồn trong quá khứ.

*   *    *

Đêm hội ngộ tiếp theo với màn văn nghệ “cây nhà lá vườn” thật vui mà cũng thật cảm động, tôi có cảm tưởng mình đang dự một đêm liên hoan trong sân trường những mùa hè năm xưa. Trên sân khấu, những người bạn đồng môn muôn năm cũ đang thi thố tài năng của mình, không màu mè kiểu cách.

Tôi ngỡ ngàng thấy Toàn đã đứng trên sân khấu tự bao giờ. Vẫn một cung cách giản dị và vững chãi, Toàn đang nói mấy lời ngắn ngủi về bài thơ của chàng hơn bốn mươi năm trước, bài thơ mà chàng đã đọc cho tôi nghe khi hai đứa đứng trú mưa dưới mái hiên một căn phố cũ. Có một cái gì làm tay chân tôi tê dại, nghe được cả tiếng đập của con tim đang thổn thức trong lồng ngực. . .

       " Trời vào mưa rồi em

 Mưa sáng, mưa chiều, mưa ngày, mưa đêm

Tiếng mưa nức nở, đau nhức về khuya

Như lời thì thầm anh yêu em . . ."

 

Trái tim tôi như muốn òa vỡ khi nhớ lại bài thơ tình hơn bốn mươi năm trước Toàn đang đọc trong đêm Hội Ngộ. Làm sao tôi có thể quên, từng lời thơ như xoáy vào tim khiến tôi nhớ lại buổi chiều năm ấy, hai đứa che chung một tấm áo mưa, đi dưới trời mưa bay bay khi gió từ bến sông thổi vào lồng lộng. Hai đứa nép vào nhau, nghe ấm áp nồng nàn trong từng nhịp đập của trái tim rộn rã, từng tiếng cười khúc khích mặc cho gió mưa lạnh lẽo. . .

Toàn vẫn say sưa với những âm thanh vang vọng từ ngày trẻ tuổi, như chàng đang lướt nhẹ trong trái tim tôi phím tơ chùng năm cũ cho một cung đàn dở dang, tiếng ngân như những vết đau dù đã hàn gắn với thời gian, sao đêm nay tôi nghe như dư âm tiếng thổn thức của lần chia xa năm ấy. Trên sân khấu, giọng chàng mượt mà trong mấy vần lục bát, nghe như điều gửi gấm từ trái tim với một nỗi đau chất ngất. . .

   " Đôi khi nhìn mãi lên trời

Tìm trong mây ảo bóng người năm xưa

Nghe vườn rung lá thu mưa

Lao xao trong nắng lời xưa thầm thì

Kể từ gió cuốn mây đi

Đời xa, xa mãi mong gì thấy nhau..."

( thơ NN)

   Bài thơ còn dài với giọng ngâm trầm ấm năm nào, như những giọt mưa ướt sũng trong đôi mắt tôi. Tai tôi như ù đi, mỗi một lời thơ như một dòng nước mắt chảy ngược vào tim khiến tôi ngồi chết lặng. Có phải chàng đang đi tìm kiếm lại cố nhân với chút hy vọng mong manh nào đó, mặc dù tôi đang ngồi trong góc tối này với những giọt nước mắt. Chắc không ai nhìn thấy tôi khóc. Bây giờ thì tôi đã hiểu, trong lòng chàng cũng như trong lòng tôi, cái tình yêu ấm áp và đau đớn thuở ban đầu ấy vẫn không bao giờ tan biến, dù giờ đây cuộc đời hai đứa đã là hai nhánh sông ngậm ngùi trôi theo những bến bờ xa lạ. Xung quanh tôi giờ đây im lặng quá, đâu đây nghe như có tiếng thở dài để sót thương cho một cuộc tình không trọn. 

 Các bạn đồng môn đang trao nhau những cuốn giai phẩm mùa hè Toronto, ai nấy hối hả và chăm chú lật từng trang, nhìn từng tấm ảnh cũ và mới, họ đang cố tìm một vài nhân ảnh đã mịt mờ trong quá khứ. Cầm cuốn Giai Phẩm với trang bìa là hình ảnh cô nữ sinh kiều mị trước sân trường, những bướm hoa ngày cũ, dãy hành lang vàng đục, từng ô cửa và tiếng phấn rít trên bảng đen như hiện về trong trí nhớ. Tôi thấy tôi ngày xưa, tôi thấy Toàn ngày xưa, tôi thấy những giọt mưa rớt xuống sân cỏ non giăng giăng nhạt nhòa trong mắt tôi một màn lệ mỏng.

 Không, tôi không muốn gặp chàng đêm nay, dù chàng đã đến đây, đã khơi lại trong trái tim đau những ngất ngây ngày cũ, chút đắng cay của một mối tình học trò đằm đẵm những kỷ niệm xót xa. Kỷ niệm vẫn chỉ là kỷ niệm, khi những nhánh sông đã rẽ ra trăm ngàn hướng đời khác biệt, để mỗi lúc nhớ đến nhau, lòng chỉ vẫn rưng rưng với những hình bóng cũ. Nếu có lúc nào đó, sông bốc lên thành mây, thì tôi mơ được là mưa trên mái trường xưa, một lần nữa xôn xao trên mái tóc xanh tuổi học trò.

Tôi bỏ ra về trước khi đêm hội ngộ bế mạc, không một lần nhìn lại người tình năm xưa. Đêm Toronto mát lạnh dù đang giữa mùa hè, suốt đêm tôi chập chờn không ngủ, gần sáng lại thiếp đi với một giấc mơ lạ lùng, nghe như có tiếng mưa rơi rào rào trên tấm áo mưa ngày nào. Mở cửa bước ra ngoài hành lang của khách sạn, tôi mới biết đêm qua trời mưa, những vũng nước mưa còn ướt sũng trên mặt đường, gió từ Ngũ Đại Hồ lồng lộng thổi đem cái lạnh hắt hiu vào lòng người, như cái lạnh của cơn mưa chiều năm xưa.

Thu xếp hành lý ra phi trường cho kịp chuyến bay lúc mười giờ, tự nhiên tôi lại khóc, những giọt nước mắt cứ ứa ra trên viền mi, nào ai biết, nào ai hay. Giã từ Toronto, giã từ bạn bè gần xa, giã từ hình ảnh người yêu thuở học trò một đêm hội ngộ, từ đây cho mãi đến nghìn sau, tôi vẫn là nhánh sông ngậm ngùi, để nhớ tiếc hoài hoài những tháng ngày tuổi mộng.



Nguyên Nhung

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Dec/2022 lúc 11:25am

Tám Hổ.

Pin%20on%20Music

     Gia đình tôi đông anh em. Tôi yêu thương nhất là người em thứ tám. Tôi thương chú Tám hơn vì chú có tấm lòng ngay thẳng, hiền lành, chịu khó nhưng số phận lại hẩm hiu.
     Chú lấy vợ, được đứa con trai thì gia đình gãy đổ. Lỗi một phần ở chú. Ở thời buổi này có người đàn bà nào chịu chung sống trọn đời với một người đàn ông chỉ có tấm lòng! Vật chất nữa chứ! Chú ngồi yên lặng – sự yên lặng chiếm gần hết tuổi thanh xuân của chú – nhìn Phụng, người vợ mà chú yêu thương rất mực, ra đi.
     Tôi trở về, sau bảy năm cải tạo. Với số vốn nhỏ nhoi ban đầu, tôi mua bán tre, lá, tầm vông. Rồi từ từ bán thêm vật liệu nặng như sắt, xi măng, đá, gạch, ngói, cát...Sau một cuộc chiến tranh dai dẳng, hòa bình trở lại, gia đình nào cũng cần xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau hai năm làm ăn buôn bán, gia đình tôi đã khá giả. Tôi mua thêm một miếng đất, dự trù cất cho chú Tám một căn nhà nhỏ, vách ván, lát gạch, cách nhà tôi không xa và đồng thời cưới vợ cho chú. Tôi thật ái ngại khi nhìn thấy chú trong cảnh gà trống nuôi con. Chú tươi cười từ chối đề nghị của tôi. Chú quyết tâm bám trụ ở Sài Gòn. Chú bước thêm bước nữa với một người đàn bà Tàu lỡ thời, dung nhan rất khiêm tốn.
     Vợ chồng chú có một căn bán vật dụng lao động như cuốc, xẻng, dao, liềm, gầu...tọa lạc gần cầu Ba Cẳng, chợ Kim Biên. Nói là một căn cho nó oai, chứ thực ra rất nhỏ hẹp, nếu đứng giữa nhà dang tay mặc áo cũng đụng hai vách bên.
     Có dịp lên thành phố, lần nào tôi cũng mang theo quà, ghé thăm vợ chồng chú. Tôi mừng thầm vì chú đã có đôi và cuộc sống không đến nỗi quá chật vật. Bản chất tôi rất hiếu khách, nhưng vào dịp tất niên hoặc ngày giỗ kỵ, tôi không mời ai cả dù là bạn hữu quí mến hoặc hàng xóm thân quen, chỉ có anh em chúng tôi quây quần bên nhau. Anh em cả năm xuôi ngược, mưu sinh, chỉ có dịp lễ này để gặp mặt, nói với nhau những lời thân thiết, phụ lực nhau giải quyết những điều khó khăn với tấm lòng thương yêu đùm bọc. Có sự hiện diện của người ngoài, làm sao anh em dám thổ lộ hết những vui buồn tốt xấu. Trong lúc cúng, ngồi chờ nhang tàn, hoặc khi ngồi vào bàn ăn, tôi thường kể lại cho các em nghe về những kỷ niệm gia đình mà lúc đó các chú còn nhỏ không nhớ gì. Những chuyện tôi kể thường liên quan đến công lao khó nhọc của cha mẹ tôi lo nuôi dạy đàn con. Mẹ tôi, người đàn bà tuyệt diệu, suốt đời hy sinh cho chồng con. Mẹ tôi mất năm bà mới 54 tuổi, trong lúc mấy người con trai lớn của bà đang tại ngũ, xông pha ngoài trận mạc, có lần tôi về phép thăm mẹ tôi đang nằm trên giường bệnh. Nắm tay tôi nước mắt rưng rưng, bà nói:
     - Nghe súng nổ ở đâu, má tưởng tượng mấy con đang ở đó, má lo lắng quá.
     Ôi! Biển dầu rộng, nhưng làm sao sánh được bằng tấm lòng thương con mênh mông của người Mẹ hiền.
     Cha tôi làm thợ, siêng năng cần cù, đội mưa phơi nắng, đau không dám nghỉ. Với số lương kiếm được hầu như cố định hằng tháng, ông trao hết cho Mẹ tôi để nuôi đàn con đang sức lớn như thổi.
     Một lần cuối năm, tình cờ nghe ba tôi than:
     - Tết đến rầu quá!
     Trong dịp gần Tết, ba tôi phải đi làm thêm cả ngày thứ bảy và chủ nhật để kiếm thêm tiền sắm sửa Tết và may cho anh em chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ mới mặc Tết.
     Tôi hỏi han về đời sống của các em. Người nào khá phải giúp đỡ người kém may mắn. Tôi làm lực lượng tổng trừ bị. Anh em tôi cho đến giờ vẫn duy trì nếp sống tương trợ đó. Sống bám ở thành phố được hai năm, gia đình chú Tám bị chính quyền ép phải đi vùng kinh tế mới ở Định Quán, giáp ranh tỉnh Lâm Đồng. Số chú quả là số con rệp. Tôi nhận được tin báo vào buổi trưa, trong thư chú không nói rõ địa chỉ, thành thử dù rất nóng lòng, tôi cũng không biết cách nào đi thăm để yểm trợ.
     Đến ngày giỗ thân phụ, anh em chúng tôi ngồi ngóng đến chuyến xe đò cuối cùng chú Tám mới về tới. Ngoài bánh, mứt, trà sắp lên bàn thờ cúng cha mẹ, chú Tám còn mang về biếu tôi một bình rượu to ngâm sáu con bìm bịp, với một lít mật ong nguyên chất.
     Anh em ngồi quây quần nghe chú kể về cuộc sống gian nan, khó khăn trong những ngày đầu đến sinh sống ở vùng kinh tế mới. Một vài gia đình có người chết vì bệnh kiết lỵ hoặc sốt rét. Nhiều gia đình không chịu đựng nổi cuộc sống kham khổ, lén trốn về Sài Gòn. Riêng gia đình chú, với số đồ sắt bán ế trước đây còn tồn tại, chú chở theo lên bán rất được giá. Chú lại mua thêm đồ để bán như xoong, nồi, quần áo lao động, giầy bố, một số thuốc Tây thông dụng như thuốc sốt rét, đau bụng, kiết lỵ và cảm cúm. Vốn buôn bán làm ăn của chú bây giờ khá hơn hồi còn nấn ná ở Sài Gòn. Anh em đều mừng rỡ, gọi đùa chú là “người hùng vùng kinh tế mới”.
     Sáu tháng sau, tôi lên thăm chú. Trời ngả về chiều, tôi tới Định Quán. Đến vùng kinh tế mới Kim Biên, cách huyện trên 10 cây số về hướng Tây, phương tiện duy nhất ở đây là xe đạp ôm. Dọc đường tôi hỏi thăm người chạy xe về tin tức của chú Tám:
     - Tám Nghĩa, trước bán đồ sắt ở chợ Kim Biên lên đây hiện đang ở đâu, chú có biết không?
     - Biết, biết! Anh Tám Hổ đó mà, có quán cà phê và tạp hóa ở gần bìa rừng.
     Tôi ngạc nhiên về cái tục danh Tám Hổ, nó có vẻ ngang tàng anh chị quá, nhất định không phải chú ấy rồi. Chú Tám hiền đến độï trước đám đông chú thường yên lặng, cười xã giao. Lúc còn đi học tiểu học, chú thường đi sớm đến chùa Viên Minh để được chia phần khất thực vào giờ độ ngọ. Các vị sư nói chú có nhiều Phật tính, nhất định chú Tám, em tôi không phải là Tám Hổ.
     Sau gần hai tiếng đồng hồ ngồi trên xe đạp dồn xóc ê ẩm, trời sụp tối. Người lái xe quẹo vào cái quán có đèn “măng sông” sáng choang, dừng lại gọi lớn:
     - Tám Hổ ơi! Có anh ở Trà Vinh lên thăm nè.
     Chú Tám Hổ bước ra, em trai tôi đây mà! Hai anh em mừng rỡ nắm tay nhau:
     - Anh lên, em mừng và ngạc nhiên quá!
     Tôi thắc mắc:
     - Có vụ gì mà có tục danh Tám Hổ nữa đây?
     Chú cười:
     - Bí mật! Anh vào tắm cho khoẻ, em sẽ tường thuật cho anh nghe sau.
     Căn nhà chú đúng là quán hàng xén, đầy đủ đồ gia dụng cần thiết và thực phẩm khô. Tôi chú ý trên vách, cạnh bàn thờ có treo một khẩu súng săn bóng loáng.
     Bữa cơm, canh rau nấu với tôm khô, lạp xưởng chiên. Đặc biệt có bia lai rai với khô cá lóc tôi mang lên. Rót tiếp bia cho tôi, đoạn chú chỉ xuống gầm bàn, nói:
     - Em có tên Tám Hổ vì nuôi nó trong nhà đó.
     Tôi ngó xuống giựt mình, co chân lên ghế. Một con cọp vằn đen lông vàng to bằng con chó ta, đang nằm cuộn mình dưới gầm bàn. Chú cười, cụng ly với tôi rồi bắt đầu kể:
     - Lần trước về ăn đám giỗ ba, trở lên Sài Gòn bổ đồ hàng xén cho tiệm, em mua được cây súng săn giá rất rẻ của một người thua bạc cần tiền. Em rất thích đi săn. Hơn nữa ở đây nhiều chim, gà rừng, mễn, nai, cheo...Một ngày đi săn xông xáo, lớp ăn, lớp xẻ khô, gia đình em dùng cả tháng chưa hết. Một hôm đang mải mê theo dấu một con công, rất sâu trong rừng, bỗng em thấy đám cỏ tranh lay động và từ xa em nghe tiếng kêu ăng ẳng như tiếng chó con. Em liền chạy đến thì gặp... nó đây! (Chú vừa nói vừa chỉ vào con cọp đang nằm dưới gầm bàn, lâu lâu lại đưa chân trước lên vuốt mép). Hẫng một phút vì bất ngờ, em vội nhào tới ôm nó lên, bỏ cả xâu chim chiến lợi phẩm, chạy bất kể thân, vì em biết thế nào mẹ nó cũng lẩn quất không xa. Cọp mẹ mà biết em bắt con của nó thì giờ này em không còn được ngồi đây uống bia với anh. Về đến nhà, em để nó vào cái cần xé, nằm bật ngay trên ván vì mệt, muốn kiệt sức.
     - Hớp một ngụm bia, chú kể tiếp:
     - Anh không thể tưởng tượng được, trong tuần lễ đầu tiên lúc mới bắt nó về, tụi em không làm ăn buôn bán gì được cả. Người hiếu kì kéo tới coi không ngớt suốt ngày, mỗi người hỏi một vài câu, trả lời thôi cũng muốn khùng. Tuần rồi Công an huyện cho người xuống nói thừa lệnh trên bắt nó về cho Sở thú Sài Gòn nuôi để nhân dân tham quan. Em biết họ đặt điều, bắt đem đi bán cho khách ngoại quốc. Không có lệnh trên lệnh dưới nào cả. Em nói nó là vật sở hữu của em, không ai có quyền bắt cả. Sở thú Sài Gòn có mần thịt sư tử, cọp bán xương cho mấy ông ba tàu Chợ Lớn nấu cao hổ cốt thì bắt cọp nữa làm gì? Thấy em có phản ứng quyết liệt, họ thụt, nhưng bắt em ký giấy cam kết nếu nó làm gì nguy hiểm cho nhân dân, em hoàn toàn chịu trách nhiệm.
     Chú cúi xuống đưa tay xoa xoa đầu cọp và nói tiếp:
     - Em cho nó uống nước cơm pha đường thẻ, ăn cơm với thịt hoặc cá đã nấu chín. Tuyệt đối không cho ăn thịt sống. Nó mau lớn và hiền lắm. Ở đây, đa số đất khai hoang đều trồng bắp và đậu phộng, thu hoạch cũng khá. Khổ nỗi khỉ và heo rừng thường tới phá hoa màu. Mỗi buổi sáng, em phụ vợ em dọn quán và pha cà phê, cơm nước xong, em vác cuốc xẻng, đồng thời đem theo đồ ăn trưa. Em ra rẫy, nó lững thững đi theo sau. Một điều lạ, không biết vì trông thấy hay ngửi thấy mùi phân và nước tiểu của cọp nên khỉ và heo rừng không dám bén mảng tới phá nữa. Mấy công đất em trồng bắp và đậu phộng lên tốt, nguyên vẹn. Tiếng đồn lan ra khắp vùng, nhiều người tới năn nỉ nhờ em cho mướn nó đi biểu diễn để khỉ và heo rừng sợ không dám tới phá hoa màu của họ nữa. Em sẵn lòng giúp họ nhưng khổ nỗi là không có em, ai dẫn nó cũng không chịu đi. Sau vụ thu hoạch hoa màu, chủ rẫy mua đường, sữa, bột đậu nành đến cho nó bồi dưỡng. Nó là cọp cái, em đặt cho nó cái tên Gina vì trước em rất thích nữ tài tử Gina Lolobrigida.
     Trong thời gian một tuần lễ ở lại chơi với chú, tôi đi săn với Tám Hổ hai lần và dĩ nhiên có cả Gina đi theo. Tôi vừa bắn rớt con gà rừng, Gina nhanh như chớp phóng tới ngoạm con gà mang đến cho tôi.
     Ngày về, chú cho tôi một con chim trĩ, hai con két, hai lít mật ong làm quà. Chú và Gina tiễn tôi tới bến xe đạp ôm. Đi được một quãng, ngoái lại tôi thấy chú Tám cười vẫy tay và hình như Gina vẫy đuôi.
     Ít lâu sau, có người dẫn một du khách Đài Loan đến ngỏ ý thương luợng trả mười cây vàng để mua Gina. Tám Hổ từ chối, nhất định không bán. Chú bảo Gina là người bạn quý của gia đình và không ai lại đi bán bạn bao giờ.
     Tám Hổ mua một máy chụp hình lấy liền hiệu Polaroid để chụp hình lưu niệm cho khách. Người dân thành phố về vùng kinh tế mới thích chụp hình đứng bên Gina để gửi tặng thân nhân như một bằng chứng đời sống nơi hoang dã. Trẻ nít thì khoái chụp hình ngồi trên lưng cọp, vuốt râu hùm...Sáng kiến chụp hình lưu niệm này đã đem lại số lợi tức đáng kể về cho gia đình Tám Hổ.
     Một năm sau, nhân ngày giỗ Mẹ, Tám Hổ mang về nhiều quà cáp, nhưng nét mặt dường như không được vui. Tối đến, anh em quây quần trò chuyện và uống trà, Tám Hổ buồn bã kể chuyện về Gina:
     - Cách nay một tuần, con Gina đã bỏ vào rừng biệt tăm. Trước đó, Gina lộ vẻ quạu cọ, cắn xé thùng giấy, bao bố...Ban đêm nó không ngủ, đi vòng vòng, sục xạo...dường như đến thời kỳ rượng đực.
     Một hôm tôi đang ngồi loay hoay sửa lại giàn hoa trước nhà thì nhận được bức điện tín của chú Tám gửi về với nội dung cho biết: “Gina trở về. Có bầu!”.
     Tôi nhắn cho thân nhân biết tin vui, mọi người đều mừng cho Tám Hổ đồng thời thư từ liên lạc, theo dõi câu chuyện chửa đẻ của Gina, say sưa như theo dõi truyện thần thoại xứ Ba Tư ngày xưa.
     Tết năm đó, tất cả anh em chúng tôi bao một chuyến xe lên vùng kinh tế mới Kim Biên, Định Quán thăm gia đình Tám Hổ. Cơ ngơi của chú bề thế khang trang. Căn nhà ba gian, cột tròn, đánh vẹc-ni màu hổ phách bóng loáng. Nền nhà lát gạch, có sắm máy phát điện nhỏ. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy Gina cao lớn, oai phong như một bà chúa sơn lâm chạy ra vẫy đuôi mừng, theo sau là hai chú cọp con. Tám Hổ cho biết cái cơ ngơi này được tạo dựng khang trang, phần lớn là do công lao đóng góp của ba mẹ con Gina. Hai chú cọp con, Tám Hổ đặt tên là Pelé và Maradona.
     Tám Hổ chụp hình cho khách mệt nghỉ. Nhiều người trước đây đã chụp hình đứng chung với Gina, nay lại muốn chụp nữa để có tấm hình bồng bế Pelé và Maradona trên tay, đứng bên con Gina cao lớn, bệ vệ, oai phong.
     Thế rồi một đêm mưa, hòa trong tiếng sấm chớp xé trời, người ta nghe như có tiếng rống của cọp đực gần phía bìa rừng. Trước đó một tuần, Tám Hổ thấy có dấu chân cọp lớn hơn dấu chân con Gina ở phía ngoài rào. Sáng hôm sau, mải lui cui pha cà phê, có khách tới xin chụp hình với mẹ con Gina. Tám Hổ ngó quanh không thấy Gina đâu, chạy sục sạo tìm kiếm, ra cửa rào thì thấy dấu chân mới của Gina, Pelé, Maradona và thêm dấu chân cọp to hơn hướng về phía rẫy và lẩn khuất phía bìa rừng. Gina dẫn hai con đi rồi! Tám Hổ nằm liệt giường, đóng cửa tiệm một tuần. Được tin, tôi viết thư an ủi chú. Ô! Sông có khúc, thì người cũng có lúc. Gina giúp đỡ chú như thế quá đủ rồi. Tuy là loài vật, Gina cũng phải lo cho hạnh phúc và đời sống riêng tư của nó nữa chứ. Môi trường thích hợp nhất với Gina là rừng xanh và bóng cây già, với đồi với suối thiên nhiên hùng vĩ, chứ đâu phải nép mình trong căn nhà ba gian của chú! Tám Hổ mở cửa tiệm buôn trở lại. Có những buổi chiều, chú ngồi yên lặng cả giờ, đôi mắt xa xăm nhìn về phía rừng, nơi Gina đã ra đi cũng như trước đây Phụng, người vợ đầu tiên mà chú rất mực yêu thương đã ra đi. Đối với người và thú vật, tuy tình cảm lưu luyến có khác, nhưng sự ra đi nào mà chẳng để trong lòng kẻ ở lại cái cảm giác bơ vơ hụt hẫng tiếc nuối.
     Chiều hai mươi tám tết, tôi đang đứng trên ghế, đơm mấy trái quýt ta quanh nải chuối cau và trái dưa hấu thật to trong đĩa trái cây đặt trên bàn thờ ông bà, bỏ mấy viên Aspirine vào chiếc độc bình giữ cho cành mai lâu tàn, bỗng nghe tiếng mấy đứa em cùng reo lên một lượt khi có chiếc xe đò dừng lại:
     - Tám Hổ về tới!
     Mọi người chạy ra đón Tám Hổ và phụ đem đồ vào nhà. Phương, đứa con trai lớn của tôi hỏi:
     - Túi này đựng gì mà nặng quá vậy chú Tám.
     Tám Hổ cười đáp:
     - Hai chục ký lô khô nai, nhậu mệt nghỉ!
     Chú cho biết, mấy lúc gần đây, một tháng đôi lần, vào những tuần trăng, sáng ra mở cửa thấy một con mễn, có khi heo rừng nặng cả tạ, và mới đây là một con nai to bằng con bê còn nóng hổi nằm chết trước nhà. Có dấu chân cọp in hằn rõ nét mà Tám Hổ không bao giờ lầm lẫn, đó là dấu chân của Gina.
     Gina đã trở về sống với rừng xanh, nhưng cứ đến tuần trăng nó lại tha mễn, nai hoặc heo rừng đến trước sân nhà làm quà cho Tám Hổ. Gina tuy là thú vật nhưng vẫn còn lưu luyến chút tình người, chứng tỏ nó không quên Tám Hổ. Còn Phụng, người vợ cũ đầu ấp tay gối ra đi biệt tăm, mặc dù hai người đã có chung với nhau một đứa con trai. Phụng và Gina, ai “người” hơn ai? Câu hỏi lẩn quẩn trong đầu đã bao lần Tám Hổ không sao tìm được câu trả lời thích đáng, mỗi chiều bên ly bia sủi bọt, mơ màng ngó về hướng bìa rừng rồi lại nhìn đứa con trai trông giống Phụng như đúc, Tám Hổ ngồi yên lặng thở dài.
     Sau đó gia đình tôi bồng bế nhau sang Hoa Kỳ theo diện H.O, một chương trình được mệnh danh là nhân đạo.
         Thân nhân, bè bạn, anh em tiễn đưa gia đình tôi ở phi trường Tân Sơn Nhất thật đông. Qua khung cửa kính, lúc máy bay vừa cất cánh, tôi chợt thấy Tám Hổ một tay vịn vai thằng Ân, tay kia đưa ngang mặt quẹt nước mắt. Hình ảnh Tám Hổ khóc, khiến tôi bồi hồi xúc động, theo tôi suốt cuộc hành trình bỏ xứ ra đi này.
     Trăm cay nghìn đắng gặp phải khi mới đến định cư xứ người, còn gì khổ bằng khi tóc đã muối tiêu, tôi phải sắp xếp mọi thứ cho gia đình lại từ đầu. Qua thư từ liên lạc với thân nhân ở quê nhà, tôi biết Phụng đã tìm lên vùng kinh tế mới, gặp Tám Hổ để bàn về thằng Ân, đứa con trai chung của hai người. Phụng tỏ ra rất biết điều, nói năng từ tốn, không dám đòi hỏi gì. Phụng chỉ mong Tám Hổ thương thằng Ân, nghĩ đến tương lai của nó, cho thằng Ân theo Phụng sang Úc do sự bảo lãnh của gia đình Phụng. Phụng cũng xin lỗi Tám Hổ, đã từ lâu giấu Tám Hổ âm thầm lo hồ sơ xuất ngoại cho thằng Ân.
     Sau gần một tuần suy nghĩ, tốn thật nhiều bia để trợ lực, vì tình thương thằng Ân vô bờ, Tám Hổ đồng ý cho thằng Ân sang Úc với Phụng. Tương lai nó dù sao cũng sáng sủa hơn ở vùng kinh tế mới Định Quán này, địa danh mà người đi qua chợt xác nhận vị trí bởi những hòn đá cheo leo xếp chồng lên nhau một cách hờ hững bên đường.
     Ngày thằng Ân lên máy bay, Tám Hổ không đi tiễn, nằm nhà ngủ vùi với cơn say và nước mắt. Phụng phải nắm tay lôi thằng Ân ra phi đạo vì nó nằng nặc đòi ở lại. Ân vừa bước đi vừa mếu máo:
     - Mấy bác thấy ba con đâu không? Con thương ba con lắm! Con muốn ở lại với ba con.
     Tôi biết Tám Hổ đứt ruột phải xa thằng Ân. Sự ra đi của nó là một tổn thất lớn nhất trong đời của Tám Hổ, còn hơn sự ra đi của Phụng mười năm trước. Cách quê hương nửa vòng trái đất, cuộc sống Mỹ đã đưa gia đình tôi vào quỹ đạo chóng mặt, riêng tôi không còn thời gian nhàn hạ nữa. Hằng tháng tôi gọi điện thoại về Việt Nam thăm hỏi gia đình, người thân. Quê hương ai xa mà không nhớ, chính điều đó mà người Việt đã đóng góp một số tiền rất lớn, lên hàng nhiều triệu trong trương mục của các hãng điện thoại viễn liên.
     Sang Mỹ được hai năm, buổi chiều đi làm về tôi nhận được thư của Nhường – rất dầy, dán đến bốn mươi lăm ngàn đồng tem Việt Nam – đứa em trai thứ bảy được tôi ủy quyền trông nom nhà cửa. Trong thư chú chỉ nói có nửa trang về thân nhân gia đình bình yên, còn hơn mười trang nói về Tám Hổ và Gina. Đọc thư tôi cười và nói thầm: “Chuyện Gina sang đến Mỹ rồi”.
     Với số thịt rừng hàng tháng do Gina mang đến tặng trước sân nhà mỗi độ trăng sáng. Tám Hổ ướp nước đá và mang về bán cho các quán nhậu tận Sài Gòn, giá được tăng gấp đôi. Lấy tiền bán thịt rừng làm vốn bổ đồ về quán tạp hóa, không vốn mà Tám Hổ được bốn lời! Để đền ơn, nhìn trăng biết ngày Gina đến, Tám Hổ pha một thau sữa bột đậu nành đường cát trắng, đặt giữa sân chỗ Gina thường bỏ con mồi. Tám Hổ thức chờ.
     Trăng sáng trên đỉnh đầu, Gina xuất hiện kéo lết một con nai, bước những bước nặng nề, mệt nhọc đi vào sân. Bỏ con mồi xuống, Gina gục đầu sang thau sữa uống một cách ngon lành, tiếng Gina uống sữa như nước chảy vào ống cống hẹp. Tám Hổ run run, xúc động bước ra sân và khẽ gọi:
     - Gina!
     Gina quay lại ngoắc đuôi, bước đến cọ đầu và tai vào chân Tám Hổ một cách trìu mến, quyến luyến. Tám Hổ ngồi xuống ôm và xoa đầu, Gina liếm nhè nhẹ vào má Tám Hổ. Vài phút sau Gina bỏ đi, Tám Hổ gọi tên mấy lần, Gina bước nhanh và không ngoái đầu lại.
     Mỗi tháng trăng sáng, Tám Hổ nôn nóng gặp Gina – không phải vì con mồi – với trạng thái tình cảm nồng nàn như trông ngóng người tình. Thế rồi một buổi chiều, trời vừa sụp tối, Tám Hổ đang cho thêm đường vào thau sữa thì thấy một xe Jeep chạy chầm chậm ngang qua quán.
     Nửa đêm trăng sáng vằng vặc, Tám Hổ nằm ngủ trên võng, mơ màng ngoài mái hiên nhà bỗng nghe tiếng súng nổ đoàng!! đoàng!! đoàng!!...nhiều loạt đạn nổ chát chúa, cộng với tiếng rống xé trời vang lên từ phía bìa rừng. Tám Hổ choàng tỉnh chạy ra mé rào, trống ngực đập liên hồi, lo lắng, không biết có điều gì bất trắc xảy ra cho Gina.

     Trời vừa rạng sáng, người xe đạp ôm đầu tiên chở khách từ Định Quán vào, uống cà phê và cho Tám Hổ biết có người vào đây săn cọp, bị cọp vồ, vết thương ở cổ họng và bọng đái rất nặng đang chở vào thành phố cấp cứu. Họ săn được một con heo rừng và một con cọp. Nghe đến đây Tám Hổ rụng rời! Gina đã chết rồi, Gina vì mang heo rừng về biếu Tám Hổ, do theo thói quen mà Gina phải chết.
     Tám Hổ đi ra nhìn kỹ, quả thật xác Gina đang nằm như ngủ, ngoài mái hiên. Nhờ người thương lượng, Tám Hổ mua xác Gina với giá năm triệu đồng.
     Đường dạo này đã ban bằng và mở rộng, Tám Hổ mua một cái quan tài hàng chân nhang hạng nhất, bao nguyên chiếc xe Lam chở quan tài và xác Gina về nhà. Riêng phần Tám Hổ lo cho đám tang Gina thật chu đáo. Chờ xác Gina về tới, anh em xe đạp ôm, già trẻ, lớn bé hiếu kỳ đến chật nhà. Tám Hổ cho che tấm bạt lớn kín gần nửa sân, quan tài đặt chính giữa, lót một tấm mền bông mới nguyên xé từ trong bọc, hai mép phủ bên ngoài. Gina được lau khô máu, đặt quan tài trong tư thế nằm nghiêng, êm đềm như ngủ. Vợ chồng Tám Hổ tận dụng tất cả bàn ghế trong nhà, một số hàng xóm tự động mang tới. Cà phê, nước trà, bánh ngọt, thuốc lá khách dùng tự nhiên.
     Mỗi người nói một câu, quang cảnh như buổi chợ đêm. Tình cờ Tám Hổ nghe mấy anh xe đạp ôm đã vô mấy xị tiết lộ cho biết vợ Tám Hổ là một trong những tay đánh số đề có hạng ở Định Quán. Tám Hổ nghe đắng ở cổ họng và tức muốn ói máu, bán buôn rất được, mỗi lần đi bổ hàng đều bị thiếu tiền, một số thất thoát không kiểm chứng được.
     Tám Hổ chôn Gina ngay ngoài sân nơi đêm đêm trăng sáng, Gina mang thú rừng về tặng Tám Hổ. Chôn cất Gina xong, chờ cho mọi người về hết, Tám Hổ hỏi tội vợ về việc chơi số đề. Một cuộc đập lộn quyết liệt xảy ra, có người đến can mãi mới lôi hai vợ chồng ra được. Tám Hổ bị chảy máu mũi và bầm tím một bên mắt, nghe đâu vợ Tám Hổ có võ tiều. Rõ ràng số Tám Hổ là số con rệp. Một tuần sau, Tám Hổ rước thợ, mua cát đá, xi măng làm mộ cho Gina. Xây mộ xong, vật liệu còn thừa, Tám Hổ cho tráng rộng chân nền ra gần hai thước, tất cả vuông mộ và nền được tô đá mài màu xanh xám, mát lạnh. Tám Hổ đem hình Gina ở tư thế hai chân trước chống thẳng, hai chân sau quỳ bằng, đôi mắt sáng quắc nhìn thẳng về thành phố bọc kính, tấm mộ bia to bằng tấm lịch treo tường, phía dưới đục hàng chữ đen bóng.
      Phần mộ: Gina, sanh năm 1989, tử nạn ngày 6/5/1998. Hưởng thọ 9 tuổi.
     Tấm mộ bia được gắn vào mộ Gina đẹp, uy nghi và có thần lạ thường. Nền mộ của Gina bây giờ là tụ điểm của xe đạp ôm, cờ tướng, bài cào con, trẻ nít quây quần đánh đáo, bắn bi. Mấy tay mê số đề thắp nhang van vái Gina phù hộ. Vợ Tám Hổ nhìn một cách thèm thuồng nhưng không dám thắp nhang. Không biết nhờ Gina phù hộ hay mấy tay mê số đề tới số, đa số những người van vái đều trúng số đề, không nhiều thì ít. Tiếng đồn vang xa, mộ Gina suốt ngày khói hương nghi ngút.
     Thế rồi, một buổi sáng trên chiếc xe lam bốn người phụ nữ Tàu ăn mặc sang trọng, mang theo mấy mâm bánh, trà, trái cây và một con heo quay to. Theo lời tiết lộ của bác tài xe lam, đây là gia đình A Phóng, dân kinh tế mới vượt biên đến đảo Paulo Bidong an toàn, đem phẩm vật lên trả lễ vì trước khi vượt biên, A Phóng có đến khấn trước mộ Gina. Suốt đêm đó và cả ngày hôm sau, Tám Hổ và đám xe ôm say mệt rồi ngủ, thức dậy nhậu tiếp mới hết nửa con heo quay, phần còn lại chia cho hàng xóm.
         Thằng Ân từ bên Úc gửi thư về thăm Tám Hổ. Nó nói thương ba lắm, trong thư nó bảo Tám Hổ ráng giữ gìn sức khỏe, bốn năm nữa đúng mười tám tuổi, thằng Ân sẽ bảo lãnh Tám Hổ qua Úc sống với nó. Vợ Tám Hổ vẫn lén lút, bòn nhét đánh số đề. Tám Hổ buồn đời, hận vợ, nhớ thằng Ân nên say xỉn hoài, gia đình bắt đầu xuống dốc.
     Có những đêm gây lộn với vợ, uống say Tám Hổ mang mền gối ra mộ Gina nằm ngủ, rượu vào cơ thể nóng bừng, nằm trên đá mài mát lạnh, Tám Hổ phê một giấc tới sáng. Khách lục tục vào uống cà phê, mặt trời lên cao gần một sào, Tám Hổ mới thức dậy mang mền gối lề mề vào nhà. Khách quen hỏi:
     - Hồi hôm đã dữ hả Tám Hổ?
     Tám Hổ trả lời giọng còn ngái ngủ:
     - Cũng đủ lãng quên đời thôi.
     Cuối năm, mấy đứa em tôi và cả vợ Tám Hổ gửi thiệp chúc Tết kèm theo thư dài sang Mỹ, báo rõ cho tôi biết tình trạng bê bối của Tám Hổ, nhờ tôi biên thư về “giũa” Tám Hổ vì chú chỉ sợ và nghe lời mỗi một mình tôi mà thôi. Ừ! Tôi phải biên thư về rầy Tám Hổ bỏ rượu vì nó là độc dược tàn phá, hủy hoại tuổi thọ con người. Nói thì nói vậy, tôi thương số phận “con rệp” hẩm hiu của Tám Hổ lắm. Chiều ba mươi, bữa cơm rước ông bà được nấu nướng vội vã, hớp một ngụm bia, phần còn lại sau khi rót cúng, tự dưng tôi muốn nói một lời đủ chỉ mỗi một mình Tám Hổ nghe thôi:
     - Anh thương và thông cảm hoàn cảnh của chú lắm! Xin chú đừng mượn rượu để hủy hoại đời mình. Nhưng nếu thật tình như lời chú nói: “Uống rượu để lãng quên được chuyện đời!”, thì Tám Hổ ơi! Anh đây cũng xin được làm người nát rượu. 
Hồ văn Ẩn
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2022 lúc 2:15am

"Thư Tình Mùa Xuân"


Buổi trưa, trong tiếng nện búa chát chúa của lão Tòng thợ thiếc bên kia hàng rào dâm bụt, và trong mùi phân lợn nồng nặc, mùi phèn chua lòm nhà mụ Mười Dư gió thổi sang, tôi bắt đầu viết: "Trong tâm hồn em như có ai kéo sợi dây treo những chiếc chuông đồng tí hon, reo lên khúc nhạc giáng sinh thánh khiết, và trong tim em những bông hoa ái tình hàm tiếu lặng lẽ toả ngát hương...". Tôi đọc đi đọc lại ngâm nga và lấy làm thú vị. Tôi không làm công việc văn chương, tôi không phải nhà văn, tôi viết thư tình, khổ nỗi, không viết cho tôi, viết cho người, nói theo từ ngữ thời thượng bây giờ là "gia công" thư tình. Tôi mới viết được mấy hàng, con gái lớn nhà tôi bồng em tới hối: -Viết xong chưa, chị Lan đội lưng thúng gạo tới đổi thư. 

Ôi cái nghề không giống ai này mà cũng có lúc đắt giá thế. Mỗi khi cần nơi yên tĩnh để làm việc "đầu óc" tôi thường lấy chiếc võng dù ra treo một đầu vào góc chuồng heo, một đầu vào gốc cây mít ướt. Nhà tôi chật quá, nghèo quá, trong nhà chẳng có bàn ghế nào ra hồn để làm cái buya-rô, ngồi chễm chệ viết lách. Sau tôi thấy ra vườn nằm võng viết tốt hơn. Tôi viết thư tình, ít nữa những áng văn chương tình tứ cũng phải chào đời trong khung cảnh phong lưu thi vị một chút. Sau này nằm võng viết đã thành thói quen. Chỉ với một tấm bìa lịch, thêm cái kẹp quần áo giữ tờ giấy, thêm một cây bút bi nữa là đủ "văn phong tứ bửu". Nằm võng viết bút bi, không phải dễ, phải chúc bút xuống mực mới ra. Cây bút lúc nào cũng dựng đứng như thầy đồ viết chữ Nho. 

Trong thời buổi mới bắt đầu đi vào nền kinh tế thị trường kiếm nghề tương đối dễ. Song vì cái lý lịch của tôi, có mấy năm bị bắt lính, lý lịch màu xám tro, chính quyền địa phương phê tệ quá nên xin việc nơi đâu cũng bị từ chối, không lẽ tôi chịu khoanh tay chết đói, tôi lấy cái vốn cha mẹ cho kiếm sống. Ba má tôi cũng biết người như tôi mà để lại vàng bạc châu báu bao nhiêu tôi cũng bán ăn cả, chỉ còn nước để thứ vốn gì mà ăn mãi không mòn, bán không hết, thời nào cũng kiếm được miếng cơm manh áo lương thiện. Đó chính là cái chữ. Nhờ cha mẹ tốt tính con và có tầm nhìn chiến lược mới cứu tôi sống nổi. Thời lính Mỹ chưa qua nhiều, cái thời ít người biết tiếng Anh là cái gì, học để làm chi? Thế mà mẹ tôi, một người đàn bà nhà quê già cả, chạy tiền cho tôi đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi rất chán, chỉ tìm cách trốn học. Chỉ mấy năm sau, thì việc học tiếng Anh đã thành phong trào, người người mới rủ nhau đi học xin làm sở Mỹ. Lúc đó trình độ tôi đã kha khá. Tôi từ anh học trò xoàng được mời dạy tiếng Anh cho ba đứa con gái đi làm sở Mỹ. Đời tôi lúc này lên hương, không lên như diều nhưng cũng mát mặt với đời. Thế rồi nước nhà thống nhất, Mỹ cút ngụy nhào. Nghề thầy giáo tiếng Anh không còn đắt giá nữa và tôi cũng theo thời thế đi làm hợp tác xã ăn công điểm. Tôi còn kinh hãi cái thời buổi nghe tiếng kẻng vác cuốc ra đồng, cuối mùa lúa gặt về chất như núi đầy kho, song tới phiên mình, sau khi trừ đủ thứ phí, xã viên được đâu lưng thúng lúa đội về nhà độn thêm khoai sắn ăn mới no. Giờ đây ngồi viết thư tình, một thứ lao động nhẹ, viết chừng một buổi được chục ký gạo, ăn được mấy ngày, tốt quá. 

Số là trong cái xã Cận Sơn này mọc lên một nhà máy may áo quần và giày dép xuất khẩu, gọi là liên doanh giữa Hàn Quốc và ta. Cũng nhờ cái xã Cận Sơn nằm cạnh thành phố, đất rộng, không gây ô nhiễm cho phố phường, cạnh đường tiện giao thông, nên nơi đây được những nhà kinh tế chọn làm nơi sản xuất. Bên đối tác họ lo mọi thứ, bên ta chỉ có miếng đất hoang. Miếng đất này không liên doanh cũng chẳng làm được việc gì. Cuộc liên doanh làm ăn này đem lại vô số cái lợi cho địa phương. Tôi không biết mỗi năm nó đóng góp cho ngân sách quốc gia bao nhiêu, chỉ thấy cái lợi trước mắt là lâu nay mọi thứ phí tổn chính quyền bắt dân gánh, nay có liên doanh với bọn nhà giàu nên chúng nó gánh cả. Còn một mối lợi to lớn lâu dài, xưởng thu nhận trai gái trong xã làm công nhân. Mấy anh chàng Hàn Quốc mắt ti hí, ăn kim chi, xa nhà cần bạn gái, cần bạn tình. Mấy cô gái nhà quê, nay cũng đã biết tập tành ăn diện son phấn rất cần chồng, cần đô-la, cần xuất ngoại... Hai bên có nhu cầu giao tiếp song bị con sông ngôn ngữ cách biệt. Tôi chính là cây cầu nối hai bờ. Tiếng ta, tiếng Hàn ai biết đâu nên họ khoán trắng cho tôi đóng hai vai. Tôi viết cho trai rồi tôi viết cho gái. Tôi tha hồ viết, tha hồ tung hứng. Tôi tự tiện cho họ thân mật, khăng khít, hờn giận, xa rời. Tội nghiệp, cả hai bên trai gái đều tin tôi. Họ giao phó cho tôi tất cả, và tôi thường hoàn thành xuất sắc vai trò cây cầu cho đôi lứa. Cũng đã có một vài đám cưới.

Sau tôi giật mình. Những cặp tôi viết thư giùm họ lấy nhau rồi họ đâu cần tôi nữa. Đã là vợ chồng với nhau trai Hàn gái Việt giao tiếp với nhau bằng tay chân, cũng hiểu và cũng sống được. Bây giờ thì tôi bắt chước kiểu mấy ông thầy thuốc áp dụng cái phương pháp gọi là "nuôi bệnh", chữa cho bệnh nhân kha khá, rồi chữa lai rai để con bệnh còn cần đến mình còn chịu trút hầu bao. Với cây bút tôi cho bọn trai gái gần nhau, xa nhau, giận hờn rồi lại làm lành, lại giận dỗi... Tôi nghiệm ra rằng con người ta chỉ tốt khi mới vào nghề, khi tay nghề đã cao rồi người ta luôn luôn quan trọng hoá cái nghề của mình, làm khó, hành hạ người khác để trục lợi. Bây giờ không như buổi ban đầu lấy gạo, lấy mắm. Tôi lấy tiền, tiền Việt, có khi đòi đô-la. Cuộc sống tôi lên dần dần.

Nhưng rồi tôi lại đâm hoảng. Tháng ngày vùn vụt thoi đưa, tuổi già sắp đến. Bốn mươi rồi năm mươi, mặc dù tôi đã có một đời vợ hai đứa con gái. Vợ chết tôi ở vậy nuôi con. Mới làm gà trống nuôi con được mấy năm tôi thấy mình đã rất cần gà mái. Tôi nghĩ mình còn trẻ quá, không lẽ cứ sống độc thân buồn bã với cái nghề chẳng giống ai này?


Lâu nay tôi sống trong khung cảnh toàn màu hồng của những bức thư tình do tôi sản sinh ra. Sống mãi, tính toán mãi với chuyện tình kẻ khác lần hồi ảnh hưởng đến mình, cũng thèm chuyện yêu đương. Nó ngấm từ từ lúc nào đến nỗi tôi cũng không hay. Khi hay ra thì tôi đã yêu. Tôi yêu một cô giáo ngày ngày vẫn qua lại. Tôi yêu đôi má hồng ngọt ngào như trái cây chín tới. 

Tôi đã bị nhiễm cái chất độc tình yêu do tôi làm ra từ lúc nào tôi không hay, đến khi phát hiện được thì cái "chất độc da cam" đã thấm đến xương tuỷ, không còn cách gì giải được. 

Bây giờ đây tôi viết thư tình cho tôi. Một bức thư tình vô cùng quan trọng trong cuộc đời xế chiếu của tôi. Tôi đặt mọi hy vọng vào lá thư đầu tiên và cuối cùng này. Nếu thất bại tôi tự nguyện không làm nghề gia công thư tình nữa. Mình chữa bệnh cho mình chưa xong đi làm thầy cho người khác sao được. Song xưa nay tôi vốn là người tự tin. Tay nghề viết thư tình của tôi đã được rèn luyện đến mức thượng thừa. Lá thư của tôi thừa sức đốt cháy mọi quả tim băng giá, thừa sức phá tan mọi thành luỹ e dè... Chỉ cần một đoạn ngắn thôi cũng đã có thể làm cho nàng mềm lòng. Và thế là tôi thắp đèn lên viết. Thế nhưng không dễ, bác sĩ có tài giỏi cách mấy cũng chỉ chữa bệnh cho người còn bệnh của mình khó lắm thay. Tôi đã thức gần suốt đêm, hút hết một gói thuốc, uống ba cốc cà phê, xé bỏ không biết bao nhiêu bản nháp. Tôi nắn nót viết, tôi chọn lọc được bao nhiêu tinh hoa đông tây kim cổ kể cả sao chép nguyên văn hay phóng tác từ tác phẩm "Những bức thư tình lừng danh trên thế giới", một loại bí kíp võ công, một loại kinh điển trong lĩnh vực thư tình. Hoá ra mấy bậc vĩ nhân cũng đều là những thiên tài trong lĩnh vực thư tình, kể cả thiên tài quân sự Napoleon. Tôi viết lần thứ nhất, đọc lại thấy chưa ưng ý, tôi viết lần thứ hai, rồi thứ ba. Cuối cùng gần sáng, sau khi đã vò xé hàng trăm bức thư rất dày, mới được một bức thư tôi rất hài lòng. Đó là một lá thư tràng giang đại hải, một áng văn chương tuyệt tác không chê vào đâu được và tôi mạnh dạn gởi cho em. Gửi thư đi rồi tôi chờ đợi mỏi mòn. Tôi mới thấy thông cảm và thương những cặp tình nhân mà lâu nay tôi đã hành hạ và dựa vào nỗi khắc khoải đó để kiếm sống. Trời ơi, yêu khổ đến thế này ư? Xưa nay tôi không hề chú ý tới chuyện qua lại phát thư của lão Lộc. Lão này có chiếc xe đạp phượng hoàng với cái chuông reo, tới nhà ai lão bóp chuông ra nhận thư. Bây giờ tôi mới chú ý tới từng chuyến đi của lão và mong mỏi tiếng chuông xe đạp của lão Lộc biết bao. Và rồi gần một tháng sau tôi mới nhận được thư trả lời. Tôi run rẩy nhận cái phong bì màu xanh có dán con tem hình hoa bướm, tôi mừng rỡ đến nỗi muốn lao tới ôm hôn bộ mặt sần sùi lúc nào cũng đỏ như gà chọi và hôi mùi thuốc rê rượu trắng của lão phát thư. Tôi vội vàng vào nhà lấy kéo xắp một đường thật mỏng, đưa lên mũi hít một hơi dài. Hình như chẳng thơm tho gì cả. Nàng không biết cái thuật lấy nước hoa ướp giấy viết thư, thôi thì cũng thông cảm cho nàng, nhân vô thập toàn mà. Tôi mở mắt ra. Ủa, không phải thư nàng, mà là lá thư của tôi đã gửi nàng trước đây. Thoáng thấy nhiều nét mực đỏ gạch nát bức thư tôi. Những nét bút tàn nhẫn sỗ sàng, gạch xoá một cách không thương tiếc. Đúng là kiểu chữ của mấy cô giáo chấm bài học trò dốt. Tôi sực nhớ ra người tôi yêu là một cô giáo dạy văn. Cô không trả lời mà xem bức thư của tôi như bài làm của học trò sau khi gạch xoá nhiều nơi, cô phê: Chữ xấu, khó đọc, sai chính tả, không nắm vững ngữ pháp, ý tứ diễn đạt lộn xộn... Lần sau trực tiếp gặp nhau, có gì nói miệng... sướng hơn!!!


Quý Thể

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Dec/2022 lúc 3:15pm

Dòng sông êm đềm

Dòng%20sông%20êm%20đềm%20bầu%20trời%20trong%20sáng%20|%20Giác%20Ngộ%20Online

Tôi là dân Bắc Kỳ 54 di cư vào miền Trung, đến một thành phố rất đẹp ven biển. Ba tôi dạy học mãi ngoài Huế, nên tôi ở lại thành phố biển với Ông Nội và hai bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông. Tôi coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất buồn, cô đơn và tủi thân. Bởi vì Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi. Những lúc như vậy, hầu như tôi chỉ có bé Uyên là người thân thích nhất.

Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn tôi sáu, bảy tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên thương tôi như con bà vậy. Tôi không biết tên bà chỉ biết ai cũng gọi bà là “Cô Ba Nam Kỳ”. Lúc rảnh rỗi tôi hay lại nhà em chơi. Bé Uyên thường theo tôi đi nhà thờ. Ðó là ngôi Thánh đường nhỏ xíu, gần một dòng sông, có những hàng cây keo cao ngất mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm. Chúng tôi hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm bầy chim chiền chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà thờ cầu nguyện. Hai đứa chúng tôi sống bên nhau như hai trẻ mồ côi lạc loài. Tất cả tình thương tôi đều dành cho Uyên, chiều chuộng em như chính em ruột của mình. Uyên cũng cảm nhận được điều đó nên luôn mè nheo tôi.

– Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?

– Người ta gọi là chim chiền chiện.

– Ai đặt tên cho nó dzậy?

– Anh hổng biết.

– Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?

– Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.

– Ừ há.

– Bắt nó cho em đi, anh Hai.

– Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.

– Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.

– Nhưng nó có cánh.

– Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, anh lớn như dzầy mà hổng bắt được con chim nhỏ xíu đó.

– Ðể nó sống với ba má, bắt nó làm chi tội nghiệp, lỡ nó nhớ ba, buồn rồi bịnh chết mất sao.

– Anh Hai ơi, em nhớ Ba quá hà, bữa nào Ba dzìa, em nói Ba dẫn anh em mình đi ăn cơm gà xiu xiu nghe.

– Ừ phải đấy.


Tôi thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim chiền chiện. Tôi ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Tôi thương em và thương tôi quá đỗi.

– Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh rán cho em ăn nghe?

– Hổng chịu đâu.

– Chè đậu dzán dzậy?

– Hổng chịu.

– Kẹo kéo nhá, quay số trúng, chịu hông?
Nghe quay số mắt em sáng lên nhưng phụng phịu:

– Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.

– Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?

– Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.

– Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả?

Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu lia lịa.

– Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.

– Thiệt hông? Anh xạo, em méc má cho coi.

– Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt đứt tay đó nghen.

Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Tôi phải ôm Uyên dỗ dành. Có lẽ tôi thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên tôi, an ủi tôi, cần tôi che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ khác đều quá xa vời.

– Em thấy anh Hai khóc nè!

– Ðâu có, cát bay dzô mắt anh đó.

– Anh Hai xạo quá, rõ ràng em thấy tóc em ướt mà.

– Chắc con chim chiền chiện bay ngang nó tè trên đầu em, vì em đòi bắt nó đó.

Em cười rũ rượi, và đấm trên ngực tôi liên hồi. Chúng tôi quên hết muộn phiền. Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua nhiều đồi cát, tôi vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó là những chuyện tôi đọc được trong các trang báo thiếu nhi, hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bảy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Ðỏ, Thằng Người Gỗ… Nhiều khi vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên vai tôi lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi cơm gà xiu xiu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng hai đứa tôi cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào. Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà. Lần nào đi ngang qua hàng cơm gà Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước đi không nổi. Tôi chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà xiu xiu!
Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho tôi qua ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm, kẻo tối có chuyện gì đi không kịp. Tỉnh nhỏ làm gì có phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội bộ thôi. Tôi dắt Uyên về Nội ăn cơm rồi hai đứa về nhà em ngủ. Dạo đó, tôi đang học đệ lục (ngang lớp 7 bây giờ), kể cũng đã lớn rồi. Uyên còn nhỏ lắm. Buổi tối em nhất định đòi tôi ngủ chung giường, Uyên nói:

– Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.

– Nhưng anh là con trai, em là con gái không ngủ chung được.

– Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.

– Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.

– Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu.

Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến tôi không thể làm phật ý em được. Ðợi khi em ngủ say, tôi gỡ tay ra, trải chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như thiên thần. Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa, em quanh quẩn bên tôi nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung với tôi và đòi chỉ em làm bài tập.

Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, tôi chuẩn bị đi Saigon học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, tôi dẫn Uyên đi ăn cơm gà xiu xiu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời tôi và em được ăn. Dù sau này đi khắp năm châu bốn bể, tôi cũng không thấy bữa ăn nào ngon như thế.
Lúc tôi lên đại học thì Uyên vừa vào trung học. Mỗi năm cứ vào dịp hè tôi lại đáp xe lửa về thành phố biển thăm Nội và Uyên. Tôi hay dẫn em leo núi Nhạn hái trái sim màu tím thẫm ngọt lịm hay trái dủ dẻ màu vàng tươi, thơm ngát. Ðó là những ngày hè vui nhất trong đời. Uyên càng lớn càng xinh đẹp hơn, không còn là cô bé lọ lem ngày nào. Chúng tôi vẫn leo lên mấy đồi cát đi về phía nhà thờ bên dòng sông thời thơ ấu, nhưng em không còn bắt tôi cõng và cũng không còn đòi ăn kẹo bột nữa.

Ðôi khi chúng tôi ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến chúng tôi hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời. Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời tôi rồi cũng sẽ như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia.

Những năm “học đại” thật vất vả, tôi vừa phải lo kiếm sống vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng, chẳng nên cơm cháo gì, được vài cái chứng chỉ vớ vẩn, vứt ra đường không ai thèm lượm.

Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Tôi cầm Lệnh Gọi Nhập Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời tôi đi vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mịt mờ. Tôi đã 23 tuổi và có đúng một tháng để gói ghém tuổi học trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào quân ngũ.

Tôi trở lại nhà thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên đã biết e lệ khi đi bên tôi, con mắt to đen láy có dáng tôi trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi nhỏ, chúng tôi đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt sóng cát vô tận, như những đợt sóng ngầm trong lòng hai đứa. Chúng tôi ngồi bên nhau, bên bờ sông dưới hàng keo rậm rạp, nhìn cặp kỳ nhông đầy màu sắc rượt đuổi nhau trên bãi cát.

– Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?

– Anh muốn mang bé đi mãi mãi trong tim anh, dù có phiêu bạt tận chân trời góc biển nào đi nữa.

– Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.

– Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?

– Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu hông?

– Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.

– Em thương anh hổng chích anh đâu mờ.

– Ý trời! Mấy con muỗi cái chích đau dữ lắm đó.

– Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?

– Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?

– Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.

– Người ta thảy anh xuống biển thì sao?

– Em sẽ hóa thành con cá lội theo anh. Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, tối ngày đòi đi này nọ, hổng chịu ở đây dzới em.
Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Tôi cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận, cho đến ngày chịu nằm yên ngoài biển khơi. Rồi cũng đến lúc tôi phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên ở lại sân ga, trong bộ quần jeans áo trắng tôi mới cho em, hai vạt áo chemise cột chéo vào nhau, trẻ trung hết sức, đang sụt sùi lau mắt.

Tiếng còi tàu thét lên, tim tôi như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh.
Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn tôi ra đi mang theo hình bóng em trên con đường vô định.

Những năm tháng miệt mài với chiến trận, tôi theo đoàn quân mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung rồi lên cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Ðức Lập, Dakto, Ben Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Tôi đi đến đâu cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh, giúp tôi vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê Thuột thất thủ, tôi trở thành tù binh.

Những năm tháng tù đày hình ảnh em luôn ở bên cạnh tôi, có lúc là con muỗi, đậu ngoan ngoãn trên cánh tay tôi, có lúc là con chim hót líu lo trên cành cây giúp tôi quên đi những bó cây rừng nặng nề trên vai. Có lúc tôi thẫn thờ thấy em là con bướm đang chập chờn trước mặt, cười cợt, khiến lòng tôi quên đi bao nhiêu phiền não lo âu. Vâng, em đã giữ đúng lời hứa theo tôi từng bước chân lưu lạc tù đày. Tôi gọi tên em khe khẽ trong cơn sốt rét rừng lạnh run người, rồi nóng bỏng. Tôi thấy em mặc áo trắng toát, đuôi áo xòe ra tận chân trời. Tôi cầm tay em đi bên dòng sông tuổi nhỏ, những con kỳ nhông sặc sỡ bu đến bên em, rồi tất cả bay lên khỏi từng mây trong bầu trời nắng chan hòa, có những đàn chim chiền chiện nâng áo em như thể đang trong ngày cưới, ở một vùng trời thênh thang, xa hẳn cõi trần thế khổ đau.

Rồi tôi cũng được thả ra khỏi trại tù tập trung cải tạo của cộng sản. Qua bao khó khăn, trở ngại tìm đường trở lại quê nhà, tôi đau đớn thấy thành phố đã xa lạ, tan tác. Chú Ba với gánh cơm gà xiu xiu đã phiêu bạt nơi nào. Nội tôi đã qua đời, cô tôi đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia đình tôi lưu lạc phương nào tôi chẳng biết. Ðúng là cảnh nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn.

Tôi tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi tôi và em đã từng đến để sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó, những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi, nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng của tôi đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang theo cả tuổi thơ của hai đứa tôi đi mất. Tôi muốn khóc, cho em, cho tôi, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt tôi đã cạn khô từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn tôi đã bay khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác còm cõi, bơ vơ, rã rời.

Sau hai lần vượt biên thất bại, cuối cùng tôi cũng đến được Pulau Bidong trên con tàu bé tí teo, cùng với mấy chục con ma đói rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ sức lết ra khỏi thuyền.

Có những đêm không ngủ được, nhớ Uyên, nhớ Nội, nhớ gia đình Ba Mẹ, bạn bè, chiến hữu đã từng cùng tôi vào sanh ra tử, tôi lần lên đồi tôn giáo, cầu nguyện. Nhìn xuống đám nhà thuyền nhân dưới kia, những cái được gọi là nhà đó chỉ là mấy nhánh cây rừng làm cột, lợp tôn mỏng, thùng giấy hoặc lá dừa. Hàng chục ngàn con tim đang thổn thức trong đó, có những người cố dỗ giấc ngủ như tôi, có những người đang khóc thầm vì mất vợ, mất chồng, mất con, mất cha mẹ, anh em. Có những người đang tự trách mình vì đã bỏ rơi bạn bè, chiến hữu trong lúc thập tử nhất sinh. Họ đang cố gắng quên đi những tủi nhục một đời, tù đày, ức hiếp, hăm dọa, đánh đập, chiếm đoạt tài sản, rồi bị săn đuổi như một loài thú hoang, còn chịu nạn hải tặc, cưỡng hiếp… Ngoài biển mênh mông kia, biết bao nhiêu oan hồn còn vất vưởng vì nỗi oan khiên chưa được giải, chưa biết tỏ cùng ai, không thể mang xuống tuyền đài. Biết đâu có Uyên trong đó.

Tim tôi quặn đau, nghẹt thở. Tôi cầu xin Trời Phật dù thế nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, tôi khấn nguyện ơn trên hãy mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi được về cõi vĩnh hằng. Tôi miên man nghĩ từng giả thiết về em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em là Thiên Thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được. Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ tự do. Tôi an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần mà! Tôi bị giày vò với bao nhiêu giả thuyết, tôi điên rồi.

Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theo tôi vượt qua biển Ðông, về tận quê nhà nơi thành phố biển, leo qua những đồi cát bên dòng sông tuổi nhỏ. Tôi thấy Uyên và tôi đang đùa giỡn bên nhau, rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho em. Tôi nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo bột. Tôi còn nước mắt để khóc không? Nhưng nghe nghèn nghẹn trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Tôi thấy em đang chơi vơi giữa đại dương, hai tay giơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu. Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại dương; “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…”

Tôi giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya, tôi đọc kinh và thầm cầu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Tôi lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi vấn. Em đang ở đâu? Còn sống hay đã chết?

Ðầu thập niên 80, tôi đặt chân lên đất Mỹ, làm lại cuộc đời từ con số không. Kể như vẫn còn may mắn. Ðời tôi luôn luôn gặp may mắn, tôi tin như vậy, cho nên tôi vẫn để ý tìm Uyên khắp nơi. Ði dự họp mặt của các hội đoàn đồng hương, cựu quân nhân, các hội cựu học sinh, sinh viên…

Nhiều năm qua đi. Tôi đi học trở lại, ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người bạn cùng sở bay về California tham dự buổi họp mặt của một Hội Ðồng Hương, tôi đã gặp lại Uyên!
Chúng tôi ôm nhau giữa đám đông khóc mùi mẫn, khóc thoải mái, khóc tự nhiên, khóc thật to cho mọi người cùng khóc.

Trong đám đông đồng hương này có biết bao nhiêu người cũng đã từng khóc như chúng tôi. Khóc để trôi đi bao điều còn giữ kỹ trong lòng, không nói ra được. Khóc để nói với mọi người rằng chúng tôi đã tìm thấy báu vật đánh mất bao nhiêu năm trời. Khóc đã đời, chúng tôi buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, tôi bật cười. Em hỏi sao tôi cười. Tôi nói tôi đã tìm lại được tuổi thơ của chúng ta, tôi vui lắm. Em muốn kể tôi nghe những gian truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng tôi không muốn nghe. Tôi tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy quên đi, quên đi, quên đi…

                                                                                                                                                                   




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Dec/2022 lúc 8:21am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Dec/2022 lúc 7:19am

Người Trong Biệt Thự 

 

Hình minh họa

– 29 tết rồi chú chưa về lo cúng kiếng trong nhà sao?

– Tôi không có nhà cô ạ!

– Sao hôm trước chú nói có nhà ở Sài Gòn?

– Ừ, nhà trọ…

– Vợ con chú đâu?

– … Thế nào rồi cũng phải lấy vợ, sinh con mà!

– Chú cứ đeo ba lô với cái giá vẽ đi khắp nơi thế à?

– Là họa sĩ không vẽ thì biết làm gì? Có mấy Gallery ở Sài Gòn đặt tôi vẽ mấy bức phong cảnh Đà Lạt. Họ ứng tiền trước, tôi ráng cày để trả nợ. Với lại ngồi một mình trên đồi thông để vẽ mặt hồ trong xanh tinh khiết thế này còn sướng hơn được lên thiên đàng. Tôi cứ nhìn hướng Đông vẽ một bức, quay sang hướng Tây lại có một bố cục mới, nhích sang trái, sang phải càng nôn nao muốn vẽ thêm những bức khác. Từ hôm gặp cô đến giờ đã gần nửa tháng, tôi vẫn chưa rời được chỗ này là vì vậy.

– Một bức tranh chú bán được bao nhiêu?

– Vài triệu hay vài chục triệu, cũng có khi tặng không cho ai đó. Cũng có bức đẹp quá cứ tiếc nên không bán.

– Nhìn chú hay lắm, tóc bạc phủ vai, râu ria lởm chởm, đội nón cao bồi lại mặc áo ba-đờ-xuy (pardessus), đi giầy ống như một người Đà Lạt cổ trên tranh ảnh quá khứ.

– Ngồi trên đồi gió lạnh nên phải mặc ấm. Còn đôi giầy cao cổ để phòng rắn, rít. Lúc nào vẽ say sưa đến mệt lả thì quấn cái áo khoác vừa dài vừa nặng này lăn ra cỏ làm một giấc ngon lành. Cái áo như cái túi ngủ, vừa giữ ấm vừa che sương gió lại giúp cái lưng được êm ái trên nền đất gồ ghề. Tôi quen cuộc sống phong trần, rong ruổi theo đam mê sáng tác... À, hôm nay cô đã bắt được nhiều bướm chưa?

– Chỉ hơn chục con, nhưng có nàng này to hơn nửa cuốn tập lại có màu nhung huyết dụ độc đáo lắm chú à. Khách châu Âu rất thích tranh bướm ép, riêng nàng huyết dụ lên khung xong cũng đủ cho má con em sống cả tháng.

– Cô đi bắt bướm, còn mẹ ở nhà biến bướm thành tranh bán cho khách?

– Đúng đó chú, cũng nhờ nghề này mà má nuôi em học xong đại học…

– Cử nhân hay kỹ sư?

– Em học sư phạm Anh văn, chả xin được việc làm nên nối nghiệp tranh bướm của má luôn. Nhiều khách Tây đến xem tranh, nghe em kể quy trình làm tranh bướm bằng tiếng Anh họ thích thú lắm. Nhưng em chỉ nói bướm nguyên liệu do mình tự nuôi, bởi người Tây văn minh nên rất ghét những hành động phá hoại thiên nhiên. Cũng may trong nhà em nuôi nhiều bướm nên họ rất tin. Nhưng thỉnh thoảng mình cũng phải săn bướm trong rừng để tìm những con xuất sắc về làm điểm nhấn hoặc nhân giống đó chú!

– Cô cũng gan nhỉ, thân gái mà dám một mình lặn lội vào rừng bắt bướm?

– Em đạt huy chương vàng võ cổ truyền toàn tỉnh Lâm Đồng đấy, bắt nạt em không dễ đâu!

– Ồ, con nhà võ sao?… Hèn chi vóc dáng khỏe mạnh xinh đẹp!

– Chú khen làm em mắc cỡ quá! À, hôm nay mời chú về nhà em chơi nhé!

– Vui quá! Để tôi dọn đồ nghề, mình đi bằng gì?

– Em gửi xe máy ở nhà người quen dưới chân đồi, để em xách bớt cho chú cái giỏ… 

***** 

– Thưa chú, đây là má của em…

– Con gọi bằng chú thì phải xưng cháu, con, chứ sao lại xưng em?

– Tóc chú bạc nhưng tâm hồn chú trẻ nên gọi chú xưng con, cháu thì… tiếc lắm! Với lại chú thích xưng hô như vậy mà… hì hì…

– Lan lớn tướng nhưng tính còn trẻ con lắm, anh bỏ qua cho cháu. Trời lạnh quá, anh dùng ly trà cho ấm.

– Dạ, cám ơn chị, trà ngon lắm! Chị phải ngồi xe lăn mà vẫn nuôi bướm, làm tranh được thì giỏi quá!

– Tôi bị bại liệt hai chân từ 50 năm trước, khi mới 5 tuổi. Tôi chống nạng, ngồi xe lăn từ hồi đó đến giờ. Cũng may có cháu Lan giúp đỡ những việc nặng…

– Gặp chị lần đầu từ hơn 40 năm trước, nay biết chị tật nguyền tôi càng xấu hổ, ân hận.

– Anh nói vậy là sao?..tôi chưa hiểu...

– Tôi kể cho chị với Lan nghe chuyện khó tin này nhé. Hơn 40 năm trước con đường Hai Bà Trưng này có vài căn biệt thự kiểu Pháp với mái nhọn chữ A, quét vôi màu nâu đỏ hoặc vàng. Nhưng chỉ có một căn biệt thự xây kiểu mới với mái bằng, ốp gạch mu-zich màu xanh da trời. Năm Mậu Thân 1968, mấy căn biệt thự cổ bị bom đạn cháy, sập, chỉ có căn màu xanh hiện đại này là còn nguyên vẹn. Tôi vẫn còn nhớ trước trụ cổng có gắn tấm bảng “biệt thự Hoa Thông”…

– Ồ, vậy anh cũng là người Đà Lạt?

– Tôi ở gần ngã tư số 4, học ở trường tiểu học Đa Nghĩa, ngày hai buổi ôm cặp đi ngang nhà chị…

– Rồi anh gặp tôi khi nào, chuyện gì xảy ra để giờ phải gọi là ân hận?

– Một hôm tan học về, đi ngang biệt thư Hoa Thông tôi nghe tiếng dế gáy nên mừng rỡ lần theo. Tôi đoán đây là con dế lửa rất “trâu” nên quyết bắt để đem lên lớp thi đấu với đám bạn. Tôi lần đến hàng rào biệt thự thì con dế nghe động nằm im. Tôi vạch lá khô, sỏi đá tìm kiếm rồi phát hiện ra hàng rào dâm bụt của căn biệt thự có một lỗ tròn như cái dĩa nhỏ. Tôi nhìn qua đó thì thấy trong sân biệt thự có một thằng bé cỡ 8-9 tuổi như tôi đang chơi một cái đĩa bay rất đẹp. Đĩa bay bằng sắt, chạy quay vòng trong cái sân rộng có nhiều chậu hoa, chậu kiểng, vừa chạy vừa chớp đèn và hú lên inh ỏi. Đứa trẻ con nhà nghèo như tôi chưa bao giờ được thấy món đồ chơi hấp dẫn đến như vậy. Tôi vạch những cây dâm bụt cho lỗ rộng hơn để chui đầu vào xem cho đã. Tôi hét lên khi cái đĩa bay vấp phải cục sỏi lật ngữa, chổng 4 bánh lên trời. Thằng bé chủ nhân cái đĩa bay quay lại thấy tôi và la toáng lên: “ăn trộm, ăn trộm”… rồi nó mở xích, mở cổng cho con chú xù to lớn vừa sủa vừa lao vào tôi như muốn ăn tươi nuốt sống. Tôi sợ quá vứt cả cặp co giò chạy. Con chó đuổi theo một đoạn rồi quay vào bên trong biệt thự. Tôi sợ mất cái cặp nên cứ đứng từ xa trông chừng. Đến khi có một bác làm vườn đi ngang, tôi mới nhờ bác vào lấy giúp cái cặp…

– Đúng rồi, đó là em trai tôi. Hồi nhỏ ba tôi đi Nhật về có mua cho nó cái dĩa bay đó. Tôi là Hoa, cậu ấy là Thông, ba má tôi lấy tên hai chị em để đặt cho biệt thư Hoa Thông. Nhưng hôm đó anh chỉ gặp Thông chứ đâu có thấy tôi phải không?

– Đúng, hôm sau vào lớp tôi kể cho mấy thằng bạn về chuyện cái đĩa bay với thằng nhỏ xua chó rượt tôi. Chúng tôi đều là con nhà nghèo học trường cộng đồng nên rất ghét mấy đứa con nhà giàu học trường Tây, hàng ngày có xe hơi đưa đón như em chị. Cả bọn lên kế hoạch trả thù. Trưa tan trường hôm đó, chúng tôi 6 đứa kéo đến biệt thự Hoa Thông ở cách trường không xa. Tôi dùng một sợi dây kẽm thòng qua hai lỗ khóa cổng biệt thự xoắn lại cho chắc chắn. Sau đó tôi bò vào chỗ rình con dế hôm trước để nhìn qua lỗ trống tìm “kẻ thù”. Không thấy thằng nhỏ đó, tôi đảo mắt vào sảnh ở tam cấp trước nhà thì thấy một cô bé tóc dài, mặc áo đầm trắng đang ngồi chơi dương cầm. Bên cạnh là chiếc bàn nhỏ để một hộp bánh bằng thiếc rất sang trọng và dĩa nho với bom (táo). Tôi nhìn những món ngon đó thèm nuốt nước bọt. Nhưng thứ thu vào tim óc tôi suốt nhiều năm sau đó là khuôn mặt trắng hồng thánh thiện, mơ màng của cô bé, là những ngón tay quý phái mơn man trên những phím sừng đen bóng. Tôi nghe rõ từng nốt nhạc thánh thoát tựa như tiếng mưa đêm nhịp vào mái tole nhỏ bé, chật chội gia đình tôi đang thuê ở. Như tiếng gió khua vào những tán cây khuynh diệp cổ thụ trên sân trường tiểu học. Đôi lúc tiếng đàn cao vút mà dịu dàng như lời hát ru em tôi của mẹ. Một đứa bé ngỗ nghịch chuyên đánh nhau và cầm đầu một nhóm học trò phá phách như tôi lúc đó bỗng lặng đi trước tiếng đàn huyền ảo, thiêng liêng…

– Anh gợi lại tuổi thơ khiến tôi không cầm được nước mắt. Lúc đó một cô bé tật nguyền như tôi lại gây xúc động cho anh bằng tiếng đàn sao?

– Đó là lần đầu tiên trong đời tôi nghe tiếng đàn dương cầm. Tiếng đàn đó vô tình đi vào tai rồi thấm vào tâm hồn tôi. Mấy chục năm sau khi đã thành họa sỹ, mỗi khi ngồi trước giá vẽ; bút, cọ trong tay bỗng run lên khi nhớ đến tiếng đàn trong ký ức của mình. Tác phẩm đầu tay giúp tôi đỗ xuất sắc vào trường Mỹ thuật Sài Gòn là bức họa cô bé bên đàn dương cầm vẽ bằng bút chì. Tác phẩm đó thật lãng mạn dù khi ấy tôi mới từ chiến trường Campuchia về, trong đầu còn ngùn ngụt mùi thuốc súng, trong lòng còn ngổn ngang nhớ thương những đồng đội đã hy sinh. Chủ khảo cho tôi điểm tối ưu với lời phê lạ lùng: “Hãy đi tìm nguồn cảm xúc làm nên tuyệt phẩm này. Thầy chúc con thành công và hạnh phúc…”. Bức họa đó còn lưu trong phòng truyền thống của trường.

– Chuyện của chú như cổ tích. Má em đã khóc sướt mướt, còn em lúc này chỉ muốn được ôm cánh tay rồi ngả đầu lên vai chú. Chú đáng yêu hơn mọi người đàn ông trên đời!

– Lẽ ra anh phải quay lại đây sớm hơn để kể cho tôi nghe câu chuyện dễ thương đó…

– Tôi từng trở lại ngôi biệt thự này khi hai cụ thân sinh của Hoa vẫn còn…

– Ồ... Sao anh cứ mang hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác cho mẹ con tôi vậy! Anh quay lại khi nào?

– Năm 1982... cũng vào một ngày cuối năm, tôi mang về cho gia đình Hoa một món quà đau đớn…

– Chú đừng kể nữa, má em sắp ngất rồi. Chú nói chuyện vui với má đi, để em xuống bếp nấu bữa cơm mời chú.

– Ừ, vậy cũng được, anh còn nhớ gì vui hơn không?

– Tôi đẩy Hoa đi dạo nhé?

– Anh lại làm tôi xúc động nữa rồi! Đi đường này ra phía sau coi mấy chuồng nuôi bướm đi. Hồi xưa biệt thự rộng đến ngàn rưỡi mét vuông. Qua các thời kỳ khó khăn, gia đình tôi cắt đất ra bán dần nên nay chỉ còn độ 700 mét. Tôi cố giữ để làm của hồi môn cho Lan và dưỡng già. Xung quanh nhà bây giờ đều đã xuống cấp, hư hại; còn những gì anh nhớ không?

– Tôi chỉ nhớ bậc thềm Hoa ngồi chơi dương cầm, nhớ khoảng sân lần đầu tôi thấy cái đĩa bay và nhớ chỗ con chó xù to lớn lao ra rượt đuổi mình. Cánh cửa sắt này vẫn nguyên như cũ. Để tôi mở cổng, đưa Hoa ra đường dạo nhé!

– Cả xóm lại bàn tán không biết anh muốn làm con rể hay người yêu của tôi... Nghĩ đến điều đó tôi lại buồn cười.

– Đường Hai Bà Trưng bây giờ sầm uất hơn ngày đó nhiều Hoa nhỉ? Ngày đó cứ mỗi đêm trung thu, con nít trong xóm trong đó có tôi lại đi rước lồng đèn rồi hát vang trên đoạn đường này…

– Lúc đó Hoa chỉ đứng trên ban công nhìn xuống đường, nhưng cũng thấy vui lắm!

– Chỗ này gọi là ngã tư số 4, mỗi tối có xe bánh mì và bà bán sữa đậu nành nóng dưới trụ đèn. Năm bảy lăm (1975) quân “giải phóng” về, đậu xe molotova kéo theo một khẩu pháo lớn ở đây. Tôi cũng háo hức theo đám đông chạy ra “xem Cộng Sản”. Sau này đi bộ đội, tôi cứ ngắm bộ quân phục trên người rồi cười thầm “mình cũng thành cộng sản rồi”…

– Còn Hoa thì nhớ cứ mỗi dịp lễ Phật Đản, xe hoa từ chùa Linh Quang lại theo đường này ra khu Hòa Bình. Ngồi trên lầu Hoa cứ đếm từng chiếc xe rực rỡ… Thôi, mình quay về ăn cơm tối đi!

 

******

– Lan nấu ăn ngon lắm!

– Ước gì má cũng khen em như chú. Hồi chiều chú vẫn chưa kể hết chuyện lần đầu gặp má để lại ân hận, em đang sốt ruột chờ nghe đây!

– À... lúc tôi đang đê mê với tiếng đàn thì con chó phát hiện ra “mùi quen” từ hôm qua nên giật xích sủa dữ dội. Đám bạn tôi bên ngoài vốn ác cảm với nó qua chuyện tôi kể nên thi nhau lượm đất ném qua hàng rào vào sân biệt thự. Bọn tôi đã cột cổng lại bằng dây kẽm nên không lo thằng nhóc con nhà giàu xua chó ra đuổi. Trong trận “mưa pháo” đó, một cục đất bằng quả trứng gà đã ném trúng vào giữa trán cô bé đang chơi đàn. Cô ngã vật xuống, thét lên hãi hùng. Tôi sợ quá quay ra hối các bạn bỏ chạy về nhà. Hôm sau ông chủ ngôi biệt thự lên méc thầy hiệu trưởng, chúng tôi mỗi đứa bị đánh 3 roi và quỳ trước lớp suốt 1 giờ đồng hồ. Thầy bảo nếu tái phạm sẽ bị đuổi học luôn…

– Anh ăn thêm mấy miếng hồng đi, cây hồng bên cạnh chuồng bướm hồi chiều anh thấy đó. Hoa vốn thể trạng yếu ớt nên sau khi trúng cục đất bị đau đầu cả tuần. Ba phải đưa đi bác sĩ. À, lúc đó anh chưa biết Hoa bị tật ở chân à?

– Chưa, còn lần quay lại cuối năm 1982 thì Hoa đang ở Sài Gòn chữa bệnh.

– Lần đó chú mang về cho ông bà ngoại em thứ gì để gọi là “món quà đau đớn” vậy?

– Giấy báo tử và cuốn nhật ký viết bằng tiếng Pháp của Thông!

– Sao chú có những thứ đó?

– Cho tôi thêm bình trà. Tiếng dế ngoài vườn nghe nỉ non quá. Nghe tiếng dế tôi lại nhớ đến Thông – “kẻ thù” hồi nhỏ đồng thời là bạn thân nhất của tôi sau này…

– Hoa còn giữ cuốn nhật ký đó của Thông từ hơn 30 năm trước. Cậu ấy nhắc nhiều đến một người bạn tên Nhân – Vũ Nhân – thì ra là anh!

– Sau ngày Đà Lạt được giải phóng, những hộ ở nhà mướn như gia đình tôi “được” chính quyền cách mạng ưu tiên cho đi “kinh tế mới” đợt đầu. Tôi chia tay Đà Lạt trên chiếc xe tải chở đoàn di dân nghèo đói, buồn thảm lo âu xuôi theo đèo Prenn về vùng rừng núi R’chai – cách Đà Lạt hơn 40 cây số về phía Nam. Khi đó tôi mới 13 tuổi. Mấy năm sau khi vừa học xong lớp 9 ở ngôi trường vùng kinh tế mới thì tôi và một số bạn cùng lớp, cùng sinh năm 1962 được gọi nhập ngũ theo lệnh tổng động viên 1979. Chúng tôi được huấn luyện 3 tháng ở quân trường Di Linh rồi đưa sang Campuchia đánh nhau với Pôn Pốt. Cả đại đội gần trăm lính quê Lâm Đồng được đưa lên đóng chốt ở Battambang. Hôm đầu tiên, tôi được phân công gác trực cùng một thằng trắng trẻo. Hai đứa chụm lưng trong hố cá nhân ngụy trang cây lá trên đầu và hướng súng AK ra bốn phía. Một lát nó ngồi thụp xuống hố lấy sổ tay ra hý hoáy viết gì đó. Tôi quay lại nhìn, hỏi: 

– Mày viết bằng chữ gì mà tao đọc không hiểu? 

Vừa hỏi tôi vừa nghĩ trong đầu: có khi nào thằng này là gián điệp nên viết các thông tin quân sự bằng mật mã? – Tao viết nhật ký bằng tiếng Pháp.

Nó thản nhiên trả lời. 

– Mày biết tiếng Pháp à? 

– Ừ, tao học trường Tây từ nhỏ mà. 

– Học ở đâu? 

– Đà Lạt! 

– Nhà mày cũng ở Đà Lạt luôn à? 

– Ừ, nhà tao trên đường Hai Bà Trưng, gần ngã tư số 4. 

– Vậy sao? Nhà số mấy? 

– Biệt thự Hoa Thông đó… 

Tôi nhìn nó sững sờ: 

– Hồi nhỏ mày thả chó rượt tao nhớ không? 

Nó nhếch mép khinh khỉnh: 

– Mày là thằng nhỏ mất dạy đó à? 

Bất ngờ nó quay lại nắm cổ áo tôi: 

– Mày ném đất trúng chị tao. Hôm đó tao đi học chứ ở nhà thì bọn mày no đòn. 

Tôi xô nó ra: 

– Lúc đó tao đánh lộn nhất lớp, cỡ bị thịt như mày tao bỏ túi… 

Nó bật cười vỗ vai tôi: 

– Đi lính xong về tao cho mày chơi ké cái dĩa bay, khỏi phải chui vào nhìn trộm để tao xua chó đuổi cắn nữa! 

Tôi thọc báng súng vào bụng nó: 

– Nhưng phải đánh nhau một trận xem đứa nào hơn đã. À, mày có chị gái xinh đẹp lắm! 

Mặt nó bỗng dại đi, mơ màng: 

– Giờ này chị đang làm gì? 

Nó lẩm bẩm…

– Thông không kể cho Nhân nghe là Hoa bị tật nguyền sao?

– Không, đến lúc Thông bị thương nặng chuẩn bị được đưa ra tuyến sau mới thì thầm vào tai tôi: “Cầm quyển nhật ký về, chị tao đọc được tiếng Pháp…” Hôm đó tôi đã gào khóc lồng lộn, trách móc Thông: “Tao đã nói bao nhiêu lần là mày giỏi tiếng Pháp, xin các thủ trưởng về làm công tác đối ngoại đi mà mày không chịu, cứ thích làm lính trinh sát để giờ ra nông nỗi này”… Thông nhìn tôi mỉm cười rồi từ từ khép mắt lại, Lúc đó là 3 giờ chiều ngày 9 tháng 10 năm 82 (1982), tiểu đội trinh sát chúng tôi đang ở phía Đông ngôi chùa được xây theo hình chiếc thuyền, ngoại ô Battambang. Chúng tôi chôn Thông cùng 2 đồng đội dưới gốc cây bồ đề. Sau này tôi theo đoàn cất bốc hài cốt liệt sĩ quân khu 7 sang tìm khắp xung quanh cây bồ đề mà vẫn không thấy 3 anh em đâu. Có thể do tác động của quá trình xây lại chùa, nhưng tôi tin 3 đồng đội của tôi đã tan thấm vào mạch rễ để cây bồ đề cao lớn và mạnh mẽ như bây giờ. Cứ 2-3 năm tôi lại sang bên ấy thắp hương cho Thông, lần nào cũng mua theo một ổ bánh mì Sanwich với hộp sữa...

– Sao Nhân biết Thông thích Sanwich chan sữa?

– Những ngày đói khát ở mặt trận, tôi cứ mơ về phở gà bà Sửu, cháo vịt bà An, mì quảng chợ chiều... hồi nhỏ được ăn ở khu số 4 mình đây. Còn Thông ước món bánh Sanwich chan sữa nó ăn suốt những năm tháng học bán trú ở trường Tây. Có lần tôi hỏi: 

– Nhà mày giàu sao mày không xin ba má ít vàng vượt biên, ở lại làm gì đi lính cho khổ? 

Nó thở dài: 

– Nhà tao bị đánh tư sản 2 lần đã liêu xiêu. Nay có thêm thằng con “trốn quân dịch” (từ ngữ ở miền Nam trước năm 1975), “phản quốc vượt biên” chắc ông bà già bị đưa đi cải tạo luôn. Hơn nữa tao đi thì ai lo cho chị, chị ấy yếu đuối lắm. 

Tôi chọc nó: 

– Tao tưởng mày không đi vượt biên là vì yêu nước chứ? Trong trường Tây có dạy yêu nước không mày? 

Nó nghiêm mặt: 

– Yêu nước đâu cần phải dạy, điều đó có sẵn trong máu rồi, có sẵn trong không khí mày hít thở lớn lên rồi… Tôi đã lặng người khi nghe Thông nói như vậy, nghĩ trong bụng “hèn chi cậu ấm trường Tây này toàn xin nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất”. Hồi nãy lúc thắp hương trên bàn thờ hai cụ với Thông, tôi khấn “liệt sĩ anh hùng như mày sao không về vặn cổ hết mấy thằng tham nhũng thời nay đi”, khấn xong thấy rợn hết cả người, chắc là Thông hiển linh…

– Năm 82 (1982) Nhân mang giấy báo tử với kỷ vật của Thông về thì Hoa đang chữa bệnh ở Sài Gòn. Sau đó sao Nhân không quay lại?

– Tôi nghĩ Hoa là tiểu thư xinh đẹp đương nhiên là phải lập gia đình rồi, đâu thể thổ lộ được điều gì với Hoa. Nếu biết Hoa tật nguyền, chắc chắn tôi đã thay Thông chăm sóc cho Hoa ngay từ thời điểm đó.

– Nhân có biết ba của bé Lan cũng là họa sĩ không? Anh ấy ở Huế vào Đà Lạt công tác thì gặp Hoa đi chợ trên xe lăn về bị lầy dưới ổ gà đầy sình bùn. Anh ấy đã “tốc ký” phác thảo cho bức tranh “Vượt khó” giờ còn treo trong phòng ngủ của Hoa. Ngày chia tay, anh ấy hẹn sẽ trở vào cùng mẹ cha để xin cưới Hoa. Xe ra đến đèo Hải Vân thì lật… bé Lan không biết mặt cha! Đó, số Hoa kỵ họa sĩ, Nhân vướng vào chi cho khổ. Hơn nữa Hoa không thích dựa vào lòng thương hại của người khác, Nhân đừng tự cho mình phải có trách nhiệm với Hoa, đừng làm Hoa khó xử!

– Chuyện tình cảm của má với chú Nhân con không xen vào, nhưng đêm mai giao thừa rồi – một giao thừa không chỉ có má con mình, không hiu quạnh như những giao thừa trước, mình tổ chức gì đó cho vui đi. Chú Nhân muốn gì nào?

– Đúng giờ phút linh thiêng ấy, chú sẽ vẽ má Hoa ngồi làm tranh bướm – tranh trong tranh – bức họa kết thúc mấy mươi năm phiêu lãng của chú. Chú sẽ viết lên bức tranh đó “cảm ơn tiếng dế ngày xưa”…

 


LẠI VĂN LONG
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Dec/2022 lúc 2:16pm

Cô Nam Kỳ Đáng Yêu

Nửa%20Đời%20Không%20Hay.%20Cô%20Gái%20Vĩnh%20Kim%20%28Thơ%20192,%20193%29%20Thủy%20Điền%20-%20%20thuy-dien-thivanviets%20Webseite!

Dọn xong mâm cơm, Cúc ló đầu ra cửa bếp:

-Tùng, Hương ra ăn cơm tụi con. Anh Hưng, cơm xong rồi, tắt cái tivi em nhờ!

Hai đứa nhỏ từ trong phòng chạy ùa ra ngồi vào bàn. Hưng tắt tivi, vừa đi vô bếp vừa lên giọng cải lương:

-Dạ thưa mình có anh đây!

Cúc háy: -Chỉ được cái tài…


Chưa dứt câu thì điện thoại reng inh ỏi, Cúc vừa với lấy cái phone vừa nhíu mày:

-Điện thoại viễn liên. Ai kêu gìờ này vậy kìa?

Vừa mới Allo, Allo thì tiếng chị Trang bên kia đầu giây ríu rít:

-Cúc đó hả? Chị Trang đây. Gọi để báo cho tụi em biết Tết này anh chị qua chơi với tụi em đó.

Cúc ngạc nhiên:

-Ủa, tháng hai mà ông… Bắc kỳ cục cũng xin nghỉ được sao?

Chị Trang cười hăng hắc:

-Tao đã ra tối hậu thư. Nếu năm nay ổng không xin nghỉ để tao qua Canada ăn Tết với tụi bây thì sẽ có chiến tranh…nóng ngay. Không thua gì trận “Bão Sa mạc” xảy ra ở Irak hồi nẩm! Ổng phải làm “súp” tối tăm mặt mũi để tháng hai xin nghỉ hai tuần. Cứ nghe tụi bây rên vì thời tiết bên đó, tao cũng tò mò muốn qua coi cho biết. Xứ Cali này muốn ngắm tuyết phải tốn bộn bạc chạy lên núi!

Cúc bật cười: -Welcome, welcome. Tưởng gì chớ cái mục này thì sẵn lắm. Chỉ sợ chị diện kiến một lần là tởn tới già không dám qua nữa! À, mà chị đi vắng, khách cơm tháng của chị ai lo?

Chị Trang chắc lưỡi:

-Ối, chết chóc gì có hai tuần. Bên đây tiệm ăn còn nhiều hơn khách! Kẹt lắm thì mì gói, phở gói, hủ tiếu gói cũng xong. Thôi ngày giờ sẽ phone sau nghen. Cho chị thăm dượng út với hai đứa nhỏ.

Cúc chưa kịp hỏi tiếp thì bà chị thân mến đã cúp điện thoại cái cụp! Cúc lắc đầu ngao ngán: Bả cần thì bốc điện thoại lên gọi. Nói xong là cúp liền, không cà kê dê ngỗng gì ráo. Nhiều khi làm người đối thoại chưng hửng!


Trước ánh mắt dò hỏi của ba cha con, Cúc nói:

-Thì bà Trang chớ ai. Hai ông bà sẽ qua ăn tết với gia đình mình năm nay. Tùng, Hương, còn hai tuần nữa dì dượng ba qua. Tụi con lo do dẹp cái chuồng gà (Tùng tuổi dậu) với cái chuồng heo (Hương tuổi hợi) cho sạch sẽ nghe chưa. Thiệt tình nhìn vô phòng của tụi con, ai cũng tưởng có trận bão cấp năm vừa mới thổi qua!

Cu Tùng với tuổi mười bảy, mặt đầy mụn trứng cá, cười mơn:

-Được rồi, được rồi, mẹ khỏi lo. Ý mà mẹ chưa biết đâu, con có mấy thằng bạn, phòng của tụi nó còn không có chỗ để đặt chưn vô nữa đó. Rồi bỗng nhiên nó nhăn nhó:

-Con đã dặn mẹ hoài. Mẹ đừng dọn phòng con. Mỗi lần muốn kiếm món gì mất thì giờ quá trời. Thà mẹ cứ để lộn xộn như vậy con lại biết món nào nằm ở đâu.

Cúc thở dài, đưa mắt nhìn lên trời như cầu mong Thượng đế cứu dùm! Bây giờ bé Hương mới lên tiếng:

-Mẹ à, hồi nảy sao mẹ kêu dượng ba là ông Bắc kỳ cục?

Cúc cười trả lời con:

-Thì tại dượng ba là người Bắc!

Hương trợn tròn mắt: -Bộ người Bắc thì kỳ cục sao?

Cúc càng cười lớn hơn:

-Mẹ nói chơi thôi. À, tụi con có muốn nghe chuyện của dì dượng Ba không nè?

Hưng nhăn nhó: -Thôi em ơi. Anh đã thuộc lòng cái câu chuyện gọi là “Tình Bắc Duyên Nam” của em từ phia rồi. Anh nghe chắc lần thứ một trăm lẻ mấy rồi đó nghen. Cúc cười cười, giở giọng “đâm sau lưng chiến sĩ”:

-Thôi mờ ông Nam Kỳ… quặc của tui. Đã có kiên nhẫn nghe một trăm lần rồi, thì thêm một lần nữa nhằm nhò gì, phải hôn tụi con?

Tùng, Hương nhìn nhau cười tủm tỉm, bởi tụi nhóc biết trước sau gì ba tụi nó cũng sẽ đầu hàng vô điều kiện. Hồi xưa bên Việt Nam ổng là phi công lái máy bay, nhưng má tụi nó lái tới… phi công lận!

Cúc tắng hằng lấy giọng: -Chuyện là như vậy nè…


… Sau hiệp định Genève, theo dòng người di cư vô Nam năm 54, có gia đình Huy. Ông bà Trác bố mẹ Huy, người chị gái tên Xuân, Huy năm đó lên mười chín và ba đứa em. Ngoài Hà Nội ông Trác là công chức, bà vợ ở nhà lo cơm nước. Vào Sàigòn gia đình Huy thuê một căn nhà nhỏ nhưng khang trang ở đường Nguyễn Trãi. Ông Trác xin được vào Sở Bưu Điện gần Nhà Thờ Đức Bà. Bà Trác tiếp tục sự nghiệp hầu chồng hầu con. Huy xin vào năm chót Chu-Văn-An. Thiếu phòng ốc nên phải học ké bên Pétrus Ký và nơi đây Huy quen với Thanh (anh của Trang và Cúc). Ông Tân, ba Thanh đã qua đời, mẹ và hai em vẫn ở Cao Lãnh, riêng Thanh lên ở đậu nhà bác ba Đại gần chợ Bà Chiểu, hàng ngày đạp xe vô học tuốt trong trường Pétrus Ký. Thanh cùng tuổi với Huy. Trang mười tám. Sau khi sanh Trang bà Tân nghỉ xả hơi cả chục năm mới “rặn” ra được Cúc. Vì vậy mà cả nhà cưng con nhỏ quá trời. Trang học hết lớp nhứt bà nội phán: 


—-Con gái học nhiêu đủ rồi. Cần nhứt là học nữ công nữ hạnh để còn gả chồng. Học nhiều như cô Tư Hà hổng ai dám rước!! Cúc mới lên tám nên vẫn còn hồn nhiên tung tăng hai buổi tới trường, trong khi chị Trang hì hục làm hết món bánh nọ tới món mứt kia. Rồi còn thêu còn đan đủ thứ… Nhỏ Cúc được hưởng hết: những chiếc áo thêu, áo móc rực rỡ màu sắc. Vào lối tháng mười, mười một âm lịch, gió bấc hiu hiu lạnh, tụi bạn co ro mặc hai ba áo, cái nọ chồng lên cái kia, thì nhỏ Cúc phây phây tới trường trong chiếc áo len màu xanh da trời do chị Trang đan. Mà phài công nhận chị có khiếu. Món gì do tay chị làm ra cũng ngon, cũng đẹp. Chẳng những vậy chị còn có làn da trắng muốt mịn màng. Mái tóc đen dài xỏa tới thắt lưng. Đôi mắt bồ câu trong như trời mùa thu nữa chớ. Chỉ có cái răng khểnh làm chị mắc cở, không dám cười toét miệng mà chỉ chúm chím. Nhưng ôi thôi, chính cái chúm chím đầy vẻ e lệ này mới làm cho bao trái tim rụng rời thổn thức! Đã có hai đám nhờ mai mối tới nói chuyện với bà Tân. Đám thứ nhứt là cậu út Tường, con ông Cai Tổng Báu dưới chợ Cao Lãnh (gia đình Cúc ở làng Tân An, cách chợ Cao Lãnh bảy cây số). Trước khi nhờ bà mai tới dạm hỏi, cậu Tường đã từng chạy xe đạp Peugeot lượn qua lượn lại trước nhà Cúc năm lần bảy lượt, có lần còn làm bộ ghé vô hỏi mua trái cây để ngắm nhìn Trang cho mãn nhãn. Thấy ánh mắt đầy vẻ gian tà của cậu Tường, Trang đã phát ghét, thành thử khi bà Tân hỏi ý kiến, cô nàng xí một cái dài thòng:

-Trời đất! Con mà ưng cái thằng đó hả? Người hổng ra người khỉ hổng ra khỉ. Mặc bi-da-ma sọc mà còn viền xanh viền đỏ. Đầu chải Bi-dăng-tin láng mướt thấy mà ghê! Còn bày đặt đeo đồng hồ, cà rá vàng nữa chớ. Rồi nàng chặt ngọt: Con thà ở giá còn hơn!

Bà Tân đành trả lời với bà mai là cháu còn “khờ” lắm. Đợi vài năm nữa hả tính. Bà mai mất cái đầu heo đâm tức:

-Chị Năm nói sao chớ vài năm nữa cháu nó “hăm” rồi cũng kẹt lắm đó chị. Tuổi xuân qua đi làm sao kéo lại!!

Bà Tân nghe vậy cũng chột dạ:

-Chị Tám nói cũng phải. Thôi để tui khuyên cháu từ từ…


Đám thứ nhì ở Phong Mỹ. Con nhà đại điền chủ. Đất rộng cò bay thẳng cánh. Trâu bò cả trăm con. Mỗi năm góp mấy ngàn giạ lúa ruộng. Lộc lớn hơn Thanh hai tuổi. Trước đây cũng học trường dòng Tabert trên Sàigòn. Một chuyến về nghỉ hè, hai cậu đi chung chuyến xe đò nên quen. Cả mùa hè hai bên qua lại thăm nhau rất thường. Chỉ gặp có hai lần thì Lộc đã bị cái nụ cười chúm chím của Trang hớp mất tiêu hồn vía. Lộc bảnh trai lại “văn minh”, khác xa cái cậu công tử vườn con ông Cai Tổng, nên Trang cũng cảm thấy có cảm tình với Lộc. Thành thử khi bên nhà Lộc nhờ người mai mối, cô nàng chỉ làm bộ dùng dằng:

-Con hổng biết, tùy má hà!

Nhưng chuyện tưởng xuôi chèo mát mái, ai ngờ bỗng tan rã như hồ gặp mưa! Số là chàng Lộc dễ thương bao nhiêu thì bà mẹ lại khét tiếng hách dịch, khinh người bấy nhiêu. Phong Mỹ – Tân An cách nhau có 5 cây số nên những lời “rên rỉ” không biết vô tình hay cố ý cũng bay tới tai Hồng Trang:

-Chèn đét ơi, cái thằng con của tui mặt mày coi sáng sủa mà thiệt là khờ. Có biết bao nhiêu chỗ giàu có sang trọng muốn gả con, mà nó nằng nặc đâm đầu vô cái đám này. Nói chi xa, ông Hội Đồng Cảnh ở bên Long Xuyên, ruộng khít bên ruộng nhà tui, nói nếu nó chịu ưng cháu gái ông, ổng sẽ cho 30 mẫu ruộng tốt làm của hồi môn. Thiệt tui tiếc hùi hụi!

Trang nghe những lời tâm sự bi ai này thì máu tự ái bỗng sôi lên sùng sục nên đó mỗi lần Lộc tới chơi Trang đều lánh mặt. Anh buồn lắm, nói với Thanh là chàng sẽ ở vậy, hổng thèm lấy vợ cho bà mẹ biết tay!


Từ rằm tháng chạp bà Tân và Trang đã tất bật lo quết bánh phồng, bánh tráng. Sau đó làm đủ thứ mứt: mứt bí, mứt me, mứt chùm ruột,mức dừa… Nem chua, thịt kho nước dừa với cá lóc tới hăm bảy hăm tám mới làm. Bánh ít, bánh tét sáng 30 mới gói. Cúc mong anh nhứt nhà -vì anh Thanh thì ít, mà vì những món anh Thanh sẽ đem về thì nhiều- Thơ anh gởi về tuần trước nói hôm hăm sáu ảnh  về tới và sẽ dành cho gia đình một sự ngạc nhiên(?). Chính cái câu thòng này khiến cho nhỏ Cúc bồn chồn, bứt rứt. Sáng trông cho mau tối, tối trông cho mau sáng để ngày hăm sáu tới cho lẹ lẹ! Nhỏ cứ chạy theo hỏi Trang, thử đoán coi cái “sự ngạc nhiên” của anh Thanh là cái gì? Riết rồi Trang bực mình nạt:

-Bộ tao là thầy bói hả? Tới bữa đó rồi biết chớ làm gì mà như lọt vô ổ kiến lửa vậy nhỏ?

… Rốt cuộc ngày hăm sáu cũng tới. Từ sáng Cúc không ngừng chạy ra đường ngóng, dù biết phải xế chiều anh Thanh mới về tới. Saìgòn-Cao Lãnh cách nhau có 140 cây số, nhưng không có đường thẳng. Phải qua bắc Mỹ-Thuận, vòng qua thành phố Sadec mới trở ngược về bắc Cao Lãnh. Tới chợ lại phải đi xe lôi về Tân An. Mất cả ngày đường! Hơn bốn giờ chiều mới thấy xe lôi ngừng ngoài đường cái, cách nhà một mảnh vườn nhỏ trồng cây ăn trái. Cúc mừng quá la lên:

-Anh hai về tới, anh hai về tới, rồi chạy vụt ra đường. Bà Tân và Trang đang lo bữa cơm chiều cũng lật đật chạy ra theo.  Cúc đang trên đà chạy tới chợt ngừng lại cái rột, trố mắt nhìn “cái sự ngạc nhiên” của ông anh quí: đó là một thanh niên cũng trạc tuổi Thanh, nhưng ốm và cao hơn chút xíu. Da trắng nhưng không xanh, cặp mắt thật sáng. Thấy nhỏ Cúc trố mắt nhìn mình, anh chàng toét miệng cười, khoe hàm răng trắng bóng, hỏi:

-Làm gì nhìn anh đăm đăm thế cô bé?

Cúc giựt mình: Uả sao anh này kêu mình bằng cô lận? còn bé là cái gì?

Bà Tân và Trang cũng vừa ra tới. Thanh chỉ chàng thanh niên:

-Đây là Huy bạn học của con đó má. Con rủ Huy về nhà quê ăn Tết cho biết.

Huy cúi đầu:

-Cháu kính chào bác.

Thanh tiếp:

-Còn đây là hai cô em gái mà tao kể cho mày nghe hoài đó. Cô lớn là Hồng Trang và cô nhỏ xí xọn này là Hồng Cúc. Trang lại có dịp biểu diễn nụ cười chúm chím, gật đầu chào Huy. Anh chàng cũng cười chào lại. Trang vừa cúi xuống định xách cái va ly nhỏ của Thanh, thì Huy cản lại:

– Nặng lắm. Cô Trang để đó cho tôi.Thanh bật cười:

-Cho mày hay, con gái miệt vườn không yếu ớt như mấy cô trên Sàigòn đâu nghe. Trèo cây, lội sông,  đố mày qua mặt mấy nhỏ em của tao.

Trang nguýt: -Anh Thanh có tài nói xấu em không hà. Rồi cúi xuống xách bọc bánh mì quày quả vô nhà.

Bà Tân lắc đầu:

-Anh em bây xa thì nhớ, gặp thì chọc ghẹo nhau tối ngày. Thôi vô nhà. Thanh dẫn cháu Huy tắm rửa rồi ăn cơm chiều con.

Thanh nói dạ dạ, còn Huy lại nói: Vâng ạ. Cả đời chưa có dịp tiếp xúc với người Bắc nên bà Tân ngạc nhiên lắm. Tuy vậy bà không dám hỏi.


Tối đó dưới ánh đèn măng xông sáng rực, Huy được ăn những món thuần túy miền Nam như canh chua cá lóc nấu với bạc hà, giá, cà chua, khóm rắc rau mò om. Cá mè vinh chiên dòn dầm nước mấm tỏi ớt, béo ơi là béo. Nhưng cái món cá rô mề kho tộ, nước đặc sệt, thơm sực mùi hành tiêu thì hết ý. Huy vừa ăn vừa tấm tắc:

-Thưa bác, lần đầu tiên cháu mới được thưởng thức những món ngon như thế này. Tuyệt vời bác ạ.

Thanh cười:

-Má tao nấu ăn ngon nổi tiếng xứ Cao Lãnh này đó. Mấy đám cưới, đám cúng đình cũng phải rước bà tới nấu. Mà cái tài này hình như truyền hết lại cho Trang rồi phảo hôn Trang?

Trang cười bẽn lẽn: -Em làm sao so với má được mà anh hỏi…

Nhỏ Cúc lanh chanh:

-Anh Huy ở đây lâu lâu thì biết liền. Chị Trang em nấu cơm ngon dễ sợ luôn.

Trang mắc cở cú đầu em: – Xí xọn!

Huy nhìn Trang:

-Anh ăn tham lắm đáy nhé. Anh xin tình nguyện nghe lời Cúc ở lại đây thật lâu để thưởng thức tài nấu ăn của Trang.

Trang đỏ mặt:

-Mấy món quê mùa làm sao bì được với cao lương, mỹ vị ở Sàigòn. Chắc anh Huy nói cho vui thôi.

Huy phản đối kịch liệt:

-Ấy chết, tôi không nói dối đâu. Tính tôi thành thực có sao nói vậy, cô Trang không nên hiểu nhầm.

Trang ngơ ngác nhìn anh dò hỏi. Thanh cười lớn:

-Thằng Huy nói nó không nói láo đâu. Trang không nên hiểu lầm tội nghiệp nó. Phải vậy không mày Huy?

Huy gật: -Đúng thế, đúng thế… làm mặt Trang càng đỏ thêm.

Lúc này bà Tân mới lên tiếng hỏi về gia cảnh Huy. Anh chàng nói:

-Thưa bác bố cháu làm việc ở Sở Bưu Điện. Mẹ cháu chỉ ở nhà lo cơm nước. Cháu còn 3 đứa em đang đi học.

Bà Tân quay qua Thanh:

-Sở Bưu Điện là sở gì vậy con?

Thanh trả lời mẹ:

-Là nhà giây thép đó má. Anh chàng quay qua rên rỉ với Huy:

-Chắc một tuần ở đây tao phải làm “thông ngôn” cho mày mỏi miệng luôn!

Huy cũng nhăn nhó:

-Khổ nổi tao đâu biết nói tiếng nam! Nhưng không hề gì, tao sẽ học dần dần với bé Cúc. Cô em út mày lém lỉnh, dễ thương lắm!…


Sau bữa cơm, Trang Cúc dọn dẹp chén bát. Bà Tân ngồi bên bàn nước ăn miếng trầu cho thơm miệng trước khi đi ngủ. Thanh và Huy bắt ghế ra trước hàng ba vừa tán dóc vừa ăn chè đậu xanh bột báng, nước dừa tráng miệng. Đêm nhà quê tĩnh mịch. Tiếng côn trùng rỉ rả khắp nơi. Trời tối đen nhưng lấp lánh đầy sao. Vài chú đom đóm lập lòe. Càng về đêm, hương bưởi cùng hương lài, hương dạ lý càng tỏa ra thơm ngát. Như không muốn khuấy động cái không khí tĩnh mịch này, Huy nói như gần như thì thầm:

-Tao vẫn yêu cái không khí trong lành ở nhà quê. Mới từ chiều đến giờ mà tao cảm thấy khoẻ hẳn ra… Lúc còn ở Hà Nội, cứ có dịp là tao vù về Hưng Yên. Chỉ cách Hà Nội hơn 50 cây số mà sao ngày ấy mình thấy xa thế! Vườn bà ngoại tao trồng đầy nhãn mày ạ. Nhãn Hưng Yên cơm dầy, hột bé xíu. Chả bù nhãn trong Nam, quả nào trông cũng to mà toàn là nước! Về Hưng Yên, đến mùa nhãn là tao ăn chết bỏ. Về đây thấy lại cảnh vườn tược tao nhớ ngoài đó quá mày ạ!.

Thanh tiếp lời:

– Ngày mai mày sẽ được thưởng thức đủ thứ trái cây vườn nhà. Lúc sanh tiền, ba tao khoái trồng cây lắm.

Hai người nói chuyện lan man tới gần 9 giờ thì Trang bước ra:

-Hai anh ngồi ngoài này coi chừng muỗi cắn. Em giăng mùng sẵn rồi, mời hai anh vô nghỉ.

Thanh đứng lên vươn vai:

-Ừ, đi xe cả ngày cũng mệt dữ. Thôi tụi mình đi ngủ, sáng dậy sớm cho khỏe.

Huy cũng đứng lên:

-Chúc cô Trang ngủ ngon nhé. Trang lí nhí cảm ơn rồi đi lẹ vô buồng.


Tuy lạ nhà nhưng mệt vì đường xa nên Huy vừa đặt lưng xuống là ngủ ngay…Mới năm giờ sáng, tiếng gà gáy rộn ràng trong xóm khiến chàng tỉnh giấc. Ngơ ngác một chặp Huy mới nhớ ra mình đang ở nhà Thanh. Ngủ một giấc ngon nên chàng cảm thấy người nhẹ nhàng, khoan khoái. Huy nhè nhẹ bước xuống giường sợ làm bạn thức giấc. Ra khỏi phòng chưa biết đi hướng nào để ra vườn, chợt thấy phía bếp có ánh sáng. Huy bước nhẹ về hướng đó. Trang đang lúi húi bắt cái nồi đồng và một cái ơ đất lên trên hai cái cà ràng lửa đỏ rực. Huy đứng sững ngắm cô gái. Trang mặc quần đen và áo bà ba bằng lụa màu tím cà. Tóc chải gọn ghẽ, kẹp bằng chiếc kẹp đồi mồi, thả dài xuống lưng. Ánh lửa hắt lên khiến gương mặt Trang đỏ hồng. Những động tác vừa nhẹ nhàng vừa thong thả. Không hiểu cô nàng nghĩ gì mà thỉnh thoảng lại mĩm miệng cười. Huy thấy Trang đẹp một cách mộc mạc và tràn đầy nhựa sống. Cảm thấy như có người đang “dòm lén”, Trang ngước lên. Bốn mắt giao nhau có tới mấy giây đồng hồ. Tim Trang chợt đập thình thịch, lúng túng không biết nói gì. Huy vội lên tiếng:

-Cô Trang làm gì sớm thế? Tôi tưởng chỉ có tôi là dậy sớm nhất chứ.

Trang đã lấy lại bình tĩnh:

-Dạ em nấu cháo đậu đỏ, kho tiêu mớ cá bống trứng để cả nhà ăn lót lòng. Bộ lạ nhà anh ngủ không thẳng giấc sao?

Huy cười:

-Đâu có. Tôi ngủ say như chết đấy chứ. Nhưng nghe gà gáy nên thức giấc. Định ra vườn tập thể dục một tí cho khỏe người, không ngờ cô Trang còn thức sớm hơn tôi.

-Dạ ở nhà quê ai cũng ngủ sớm để sáng hôm sau dậy sớm. Ăn lót lòng xong là kẻ ra đồng, người đi chợ. Mà chợ cũng hơi xa. Thường phải đi bộ hoặc đi xuồng, thành thử có khi phải thức từ canh một, canh hai mới kịp.

Tất nhiên anh chàng Bắc Kỳ này đâu có hiểu ất giáp gì về canh một canh hai, nhưng không muốn lòi cái sự kém hiểu biết của mình ra nên cũng chỉ chấm câu:thế à, thế à, cực nhỉ!

Trang cười: -Dạ ở nhà quê cực lắm anh. Nhà em nhờ có ruộng cho tá điền mướn. Có vườn bán trái cây lai rai nên cũng đỡ. Hơn nữa ông bà nội tiếp tế đều đều từ khi ba em mất. Nhà ông bà em cách đây vài trăm thước thôi. Thế nào anh hai em cũng dắt anh tới thăm ông bànội.

Huy ngó chăm chăm vô cặp môi hồng và đôi mắt long lanh vì ánh lửa. Thấy ánh mắt của Huy, Trang chợt mắc cở ngang. Cô nàng vội bước lại mở cánh cửa bếp ăn thông ra vườn:

-Anh Huy ra ngoài tập thể dục đi. Buổi sáng mát lắm. Trang tự trách thầm, không hiểu bữa nay mắc chứng gì mà nói nhiều quá trời quá đất như vậy nữa?.


Huy mĩm cười bước ra ngoài. Mặt trời vừa ló dạng ở phương đông. Những hạt sương mai còn đọng trên lá bị tia sáng mặt trời chiếu vào long lanh như những hạt kim cương. Bọn chim chóc đã hắt đầu bản hoà tấu chào bình minh rực rỡ. Huy nhìn chung quanh. Căn nhà ngói đỏ nổi bật giữa màu xanh của khu vườn. Không nhỏ cũng không đồ sộ quá. Vừa phải, dễ thương như Trang. Huy nhủ thầm rồi chợt thấy mình sao là lạ? Chàng tập độ mười lăm phút thì ngừng, ung dung đi dạo trong vườn. Có những cây chàng biết tên, nhưng phần lớn mù tịt! Thường mẹ mua trái cây về thì ăn, chớ có bao giờ được thấy mặt mũi cái cây đã tạo ra những quả ngon lành đó. Định bụng sẽ hỏi Thanh cho biết.


Trong khi Huy đang thơ thẩn ngoài vườn thì Thanh cũng thức dậy. Không thấy bạn, chàng vội mở cửa phòng ra ngoài. Bà Tân đã chỉnh tề ngồi bên chiếc bàn nước ăn cử trầu buổi sáng. Thấy con trai bà ngoắc lại. Thanh ngồi xuống cạnh mẹ. Bà Tân hỏi:

-Cái cậu bạn con đó, hình như hổng phải “người Việt” mình hả con?

Thanh phì cười:

-Nó đích thị người Việt mình, nhưng gốc Bắc đó má à. Gia đình thằng Huy ở Hà Nội, rồi di cư vô Saìgòn năm 54. Tụi con học chung từ năm đó tới giờ. Tánh tình nó tốt lắm. Bố mẹ nó cũng thiệt là hiền. Con tới nhà họ chơi thường lắm. Ông bà Trác rất thích con nên mới để nó theo con về đây chơi đó má. Bà Tân còn chưa mấy tin tưởng :

– Sao hồi đó má nghe thiếm sáu trên Sàigòn về chơi nói mấy người Bắc đó, họ lén bắt cóc con nít đem giết, lấy thịt làm chả lụa, còn xương thì nấu phở bán. Thành ra người Bắc với người Việt mình chưỡi lộn hà rầm.

Thanh trấn an:

-Hổng có đâu má. Tại người Nam mình ghét người Bắc nên đặt điều nói xấu, chớ làm gì có chuyện bắt cóc con nít làm chả lụa! Còn chưỡi lộn là tại ngôn ngữ bất đồng, hai bên không hiểu nhau. Nhưng bây giờ khác rồi. Má thấy hôn, thằng Huy nói gì là con hiểu hết trơn.

Bà Tân ờ ờ. Thiệt tình một câu nói của cẩu má hiểu hổng tới phân nửa. Mà coi cẩu củng lễ phép, vui vẻ lại lịch sự trai quá chớ.

Thanh tố thêm:

-Còn học giỏi nữa. Từ bên Pétrus Ký qua Sư phạm, lúc nào nó cũng đứng đầu lớp. Mà hè này tụi con ra trường rồi nghen má.

Bá Tân cảm động nhìn con, hai mắt ươn ướt:

-Ra trường rồi con ráng xin về dạy ở Cao Lãnh cho gần nhà. Con Trang mà gả chồng rồi là má cu ky có một mình với con Cúc. Hổng còn ba con nghĩ cũng buồn. Còn con nữa, qua năm mới là hăm ba rồi. Để má coi có đám nào…

Thanh ngắt lời:

-Thôi má à. Con phản đối cái chuyện làm mai lắm nghen. Nhiều mối bị tráo hôn rồi đó. Lúc coi mắt là một cô thiệt đẹp. Đêm động phòng mới khám phá ra một bà Chung Vô Diệm đang sẵn sàng chờ đón… Tề Tuyên Vương!

Bà Tân bật cười:

-Thôi thôi tui hổng xía vô chuyện của mấy người. Ai có thân nấy lo, rồi đừng có đổ thừa cho bà già này. Thôi đi rửa mặt đi con. Em Trang sắp dọn cháo lên rồi đó. Bà quay mặt vô phòng Trang và Cúc kêu:

-Cúc à, trưa trờ trưa trật rồi. Thức dậy phụ chị Trang dọn đồ ăn cho mấy anh con ăn lót lòng.

Cúc vừa đi ra vừa ngáp dài ngáp vắn. Chừng nhớ tới Thanh và Huy con nhỏ chợt tỉnh như sáo sậu, chạy đụi đụi xuống bếp miệng hỏi tía lia:

-Anh hai với anh Huy dậy chưa chị Trang?

Trang vừa nhắc nồi cháo đậu tỏa hơi nghi ngút ra khỏi bếp vừa nói:

-Tao mới thấy anh hai ra ngoài. Còn anh Huy dậy lâu rồi, đang tập thể dục ngoài vườn. Thôi phụ chị dọn cháo lên rồi ra kêu hai anh vô ăn.

Cúc rửa mặt xong, phụ Trang dọn cháo đậu đỏ, cá bống trứng kho tiêu, củ cải mặn và trứng vịt muối ra bàn ăn, xong chạy tọt ra vườn. Huy và Thanh đang đứng nói chuyện dưới gốc cây mận, trái sai oằn. Huy nói:

-Cây doi này sai quả quá nhỉ.

Cúc trợn tròn mắt:

-Cây này mà anh kêu cây doi? Cây mận mà.

Huy tắc lưỡi:

 – Ngoài Bắc họ gọi là cây doi đó cô bé. Thôi bây giờ anh nhờ Cúc dạy anh tiếng Nam nhé.

Cúc le lưỡi:

– Em đâu phải cô giáo mà dám dạy anh._

-Thế bây giờ anh phong Cúc làm cô giáo của anh, chịu chưa?

Cúc nói dạ được. À, má kêu hai anh vô ăn lót lòng đó.

Hai người nối gót  Cúc đi vô nhà. Bà Tân đon đả:

-Nhà quê hổng có món ngon vật lạ như trên Saìgòn. Đợi Tết mới có bánh ít bánh tét. Bây giờ mời cháu Huy ăn tạm cháo đậu đỏ..

Huy nhanh nhẩu:

-Thưa bác cháu mới nhìn thôi cũng đã thấy ngon rồi. Xin bác cứ xem cháu như con cháu trong nhà.

Bà Tân vui vẽ:

– Vậy cháu Huy nói chuyện khỏi cần phải thưa gởi cho rắc rối. Người Nam của bác thiệt bụng lắm.

 -Cháu xin vâng lời bác dạy.


Ăn sáng xong, hai chàng thay áo chỉnh tề để đi chào ông bà nội và chú thím út. Cúc cũng xin tháp tùng theo hai anh. Trên đường đi, ngang qua nhà mấy người bà con. Nhà nào cũng có mảnh vườn con con trước cửa trồng cây ăn tráii. Cúc vừa nắm tay Huy vừa chỉ trỏ:

-Anh Huy thấy cái cây cao thiệt cao, lá một bên xanh một bên tím đó là cây vú sữa tím. Hể là một bên xanh một bên vàng là vú sữa hột gà. Vú sữa tím coi đẹp mà ăn không ngon bằng vú sữa hột gà. Còn trước nhà ông Năm Nghi nè, mấy cái cây lùn lùn, cành dài thậm thượt là cây Sa-bô-chê.

Huy chỉ một hàng cây trồng dọc bờ sông, thân hình suông duột, lá nhỏ lăn tăn:

-Còn cây này?

-Đó là cây so đủa. Anh không thấy trái của nó giống y mấy chiếc đủa treo tòn teng. Mấy con dê khoái ăn lá so đủa lắm nghen.

Huy gật gật:

-Ừ nhỉ. Nhìn giống như hàng trăm chiếc đủa treo trên cây. Trong này lắm thứ cây ngoài Bắc không có. Nhất là soài thì chịu. Ngoài Bắc có muỗm, giống như một loại soài con, nhưng chua lắm, chỉ để nấu canh…

Chào ông bà nội và chú thiếm út xong, Thanh, Cúc dẫn Huy đi tuốt ra chợ Vàm, cách nhà độ một cây số, chỗ khúc sông con đổ ra sông cái. Trời nước mông mênh.Rặng cây phía bên kia sông, phía bên Mỹ Hiệp xanh mờ mờ. Huy ngẩn người ra ngắm con sông Cữu Long:

-Thật là hùng vĩ. So với con sông này, sông Hồng Hà không lớn bằng.

Thanh cười chọc bạn:

-Coi lớn vậy mà hiền khô. Năm nào cũng ngoan ngoãn đem phù sa bồi đắp hai bên bờ. Lại cung cấp vô số cá tôm nữa chớ. Con sông Hồng của mày nhỏ mà dữ tợn, năm nào cũng lụt lội làm khổ dân.

Mắt Huy chợt mơ màng:

– Lúc vào Nam rồi tao mới thấy dân trong này được Trời chìu đãi. Đồng ruộng phì nhiều. Hoa màu tươi tốt. Tôm cá đầy sông…

-Và người dân thì hiền hòa dễ thương. Thanh chêm vô và hai người cùng cười xòa.


Những ngày sau đó, Thanh-Huy phụ dọn dẹp nhà cửa đón Tết. Trước sân nhà ông nội có cây lão mai. Năm nào Thanh cũng xin một cành cắm vào cái độc bình da rạn, có vẽ thất tiên màu xanh, đặt cạnh bàn thờ ông Tân. Chiếc lư đồng được đánh bóng ngời. Mâm ngũ quả chưng trái cây tươi hực hở. Trang o bế nồi thịt kho nước dừa với trứng, cá lóc thiệt ngon để ba ngày Tết ăn với bánh tét. Vui nhứt là chiều ba mươi, cả nhà thức canh nồi bánh. Bánh tét nấu trong chảo đụng. Hai người mới khiêng nổi cái chảo đặt lên ba ông đầu rau ngoài sau hè. Phải canh chừng cẩn thận vì đôi khi bánh không cánh mà cũng bay đi mất tăm, chủ nhà còn nước đứng chưỡi đổng cho đở tức! Bốn người ngồi chung quanh nồi bánh. Củi khô nổ tí tách, thỉnh thoảng văng tàn đỏ như pháo bông.Thanh và Huy thay nhau kể chuyện vui khiến Trang và nhỏ Cúc cười lăn chiêng, quên cả buồn ngủ. Tới giao thừa thì bánh vừa chín. Bà Tân cúng giao thừa đón năm mới, rồi mọi người đi ngủ.


Sáng hôm sau khỏi cần kêu réo, ai củng tự động dậy thiệt sớm để sửa soạn. Hai tên đực rựa chỉ diện quần tây, áo sơ-mi là xong. Thanh pha hai ly cà phê rồi ngồi nhâm nhi với Huy trong khi chờ đợi phái nữ làm đẹp. Bà Tân coi cũng còn khá mặn mà trong chiếc áo dài gấm màu huyết dụ, nổi bông mai lan cúc trúc vàng ánh. Cổ đeo chuổi hột vàng, bông tai vàng. Chiếc cà rá hột xoàn chiếu lấp lánh nơi ngón áp út. Mái tóc muối tiêu bới như thường ngày, chỉ có giắt thêm cây trâm vàng mười tám cẩn hột trai óng ánh. Nhỏ Cúc từ trong phòng chạy ào ra như cơn lốc:

-Anh hai, anh Huy coi em đẹp không nè?

Thanh chọc em:

-Nhỏ này miệng còn hôi sữa…bò mà đã điệu quá trời!

Cúc chu mỏ:

-Xí, em mà còn hôi sữa hả? Cho anh hay trong lớp em…

Huy lật đật chen vô:

-Anh Thanh trêu bé thôi. Bảo đảm bé Cúc của anh xinh nhất. Chiếc áo đầm thêu hoa cúc tuyệt quá. Trông bé xinh như cô Công Chúa Bạch Tuyết.

Cúc ngơ ngác:

-Công Chúa Bạch Tuyết là ai vậy anh Huy?

-Là cô Công Chúa trong chuyện cổ tích. Thôi để lần sau anh sẽ mang về tặng Cúc quyển Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn.

Đang nói chuyện chợt Huy ngưng ngang, mắt nhìn sững về phía buồng của hai cô gái. Trang từ trong đó đang đi ra. Huy nhắm mắt lại rồi mở to ra tự nhủ có thể nào là cô Trang của những hôm trước đây??? Cô nàng thấy Huy nhìn mình đăm đăm thì mắc cở hai má đỏ hồng. Thanh quay qua thấy mặt Huy thộn ra coi thiệt tức cười, bèn đưa bàn tay quơ qua quơ lại trước mặt bạn, miệng hô lên:

-Bớ ba hồn chín vía thằng Huy. Có đi lạc ở đâu thì quay về cho mau.

Trang càng mắc cở:

-Anh hai. Bộ hổng chọc ngườì khác anh ăn mất ngon hả?

Huy đập vai bạn:

-Thôi mày. Bữa nay mùng một cấm chọc giận người khác.

Thanh làm bộ ngó trời ngó đất:

-Thiệt lạ quá, đâu có mưa gió gì mà sao có người bị sét đánh trúng vậy kià? Phải không Huy?

Huy cười cười đáp lững lờ:

-Ừ thì cũng có bị chút chút!…

Từ trước tới giờ, Thanh vẫn coi hai cô em còn nhỏ dại lắm. Bữa nay thấy thằng bạn thân bị em mình hớp hồn, Thanh mới để ý dòm kỹ và bỗng cảm thấy như đây là lần đầu chàng mới thật sự nhìn thấy em. Cái áo nhung màu hồng đào tôn làn da trắng mịn của Trang đẹp lên bội phần. Cặp lông mày nhổ khéo khiến đôi mắt đen huyền như to hơn. . Nàng đánh phớt một lớp phấn hồng lên má và đôi môi cũng được tô một lớp son hồng lợt. Cổ chỉ đeo cây kiềng vàng trơn. Tai đeo đôi bông hột xoàn nhỏ nhưng chiếu lấp lánh. Ngón tay giữa đeo chiếc cà rá nhận hột trai thật đơn sơ. Tóc chải kiểu tango phồng trước trán và mái tóc bữa nay được kẹp bằng chiếc nơ cùng màu áo. Ừ con nhỏ coi cũng đẹp quá, hèn chi… Thanh nghĩ thầm. Chàng mời bà Tân ngồi nơi bộ trường kỷ cho chàng và hai em chúc Tết trước khi đến nhà ông bà nội. Huy cũng bước ra chúc Tết mẹ bạn. Bà Tân lì xì cho mỗi người một phong bao đỏ lấy hên.

Ngoài đường thiên hạ dập dìu. Đám con nít rắn mắt đốt pháo chuột thẩy tùm lum, làm các bà các cô la oai oái! Nhà ông bà nội cũng trang hoàng rực rỡ. Bàn ghế, tủ thờ cẩn xà cừ được chú út lau chùi óng ánh. Ông bà ngồi chểm chệ trên bộ trường kỷ giữa nhà cho con cháu chúc Tết. Sau đó mọi người cùng ở lại ăn cơm trưa. Thịt cá, bánh trái ê hề. Người nào cũng “chở” hết nổi mới bỏ đủa…


Trở về nhà, bà Tân vô buồng nghỉ trưa. Ba anh em và Huy đem bộ bài cào ra chơi. Ăn tiền xu thôi. Mỗi lần kinh hoặc rút bài, lỡ hai bàn tay có chạm nhẹ nhau, Huy cảm thấy như bị điện giựt, còn Trang thì lúng túng không dám ngó thẳng Huy. Thanh cũng khám phá ra điều đó nên đưa mũi lên trời hít hít:

-Tết năm nay tui thấy không khí trong nhà này khác lạ. Nhưng chắc chắn là có người bị a… bị a…Thanh làm bộ tịch như đang kiếm chữ để diễn tả cái sự rất khó “diễn tỏa” kia…Trang bẽn lẽn đứng lên:

-Anh hai kỳ quá hà. Thôi em đi dọn chè xôi nước lên ăn. Cúc, vô phụ chị chút coi. Con nhỏ lon ton chạy theo Trang vô bếp. Còn lại hai người, Thanh nheo mắt hỏi:

-Tao đoán đúng không Huy? Em tao coi bộ hạp nhãn mày rồi?

Huy cũng hơi ngường ngượng:

-Cô ấy đẹp quá đi chứ. Theo tao Trang còn xinh đẹp, dễ thương hơn khối cô trên Sàigòn. Hễ có tí nhan sắc là kênh kiệu chịu không nổi!

Thanh vỗ vai bạn:

-Vậy mày còn chờ gì mà không “nhào dô”. Em tao ưng mày tao đỡ lo nó “ trao thân lầm tướng cướp!”

Huy nói cái thằng! Rồi chợt nhớ ra điều gì, anh chàng toét miệng cười:

-Sáng nay đằng nhà cụ, tao thấy chú út mày ốm tong teo như cây tre, còn bà thiếm lại vừa thấp vừa tròn như hạt mít. Đứng cạnh nhau trông giống hệt số 10, buồn cười ghê!

Nhỏ Cúc bưng chè lên nghe tiếng buồn cười bèn chất vấn liền:

-Anh Huy nè, em không hiểu tại sao anh buồn mà lại cười?

Huy ú ớ rồi giở giọng lý sự cùn: -Ối giời, buồn mà khóc là chuyện thường. Buồn mà cười được mới giỏi, mới hay. Giống như người Nam nói tức cười. Tức mà xụ mặt một đống thì kể số gì. Tức mà cười mới là oai, đúng không?? Nhỏ Cúc thấy cũng có lý bèn gật đầu…..


…Rồi ngày trở lên Sàigòn cũng phải tới. Từ hôm trước, bà Tân và Trang đã sửa soạn đủ thứ để Thanh đem lên nhà bác Đại. Lại còn gởi cặp gà mái tơ cho ba má Huy ăn lấy thảo. Huy cố từ chối nhưng khi nghe Trang nói anh không nhận má em buồn, tưởng anh khi dễ, là chàng bở vía phải nhận cả hai tay.

Cơm chiều xong, dọn dẹp rồi Trang đi tắm. Mái tóc được gội với xà bông cô ba thơm nhẹ nhàng. Nàng đứng dưới gốc cây bưỡi đơm bông trắng muốt gần nhà bếp, vừa chải vừa hong mớ tóc mây mượt mà. Huy từ trong phòng ngó ra thấy Trang đứng một mình, sau một hồi lưỡng lự bèn thu hết can đảm đi ra. Nhìn Trang mặc cái áo túi lụa màu mỡ gà, cánh tay trắng nuột, cầm chiếc lược đồi mồi chải tóc, đẹp như một cô tố nữ trong tranh, lòng Huy bồi hồi ngây ngất. Chàng kêu nho nhỏ: -Trang, Trang…

Đang thả hồn đâu đâu, Trang giựt mình suýt rớt cây lược. Nàng đưa bàn tay chận lên ngực:

-Ý, anh Huy làm em hết hồn.

Huy cười:

-Anh xin lỗi. Mái tóc Trang đẹp quá. Các cô ở Sàigòn bây giờ thích uốn tóc, nhưng anh vẫn yêu mái tóc dài xõa xuống lưng như của Trang.

Trang thật thà:

-Em ở nhà quê, uốn tóc người ta quở chết!

-Vì vậy mà anh thấy Trang đáng yêu bội phần. Mấy hôm ở đây anh thấy vui vô cùng. Mai anh về Sàigòn rồi, Trang có buồn không?

Trang thẹn thùng mặt ửng đỏ: -dạ em…dạ em…

Thấy cô gái nín lặng mắt nhìn xuông đất, Huy làm gan cầm bàn tay nàng bóp nhè nhẹ:

-Sao, Trang nói đi. Có buồn không?

Bị hỏi dồn, Trang lí nhí: -Dạ…dạ có!

Huy thở phào như trút một gánh nặng:

-Đừng buồn, hè tới anh sẽ theo Thanh về thăm em. Anh sẽ thưa bố mẹ anh xuống đây nói chuyện với má. Em ráng chờ anh nhé.

Trang bình tĩnh hơn:

-Dạ em chờ. Chỉ sợ nơi thành thị có nhiều cô gái đẹp dễ làm anh thay lòng thôi hà…

Huy đưa bàn tay Trang lên môi hôn:

-Anh thề. Trong lòng anh chỉ có Trang thôi, không ai có thể thay thế được.

Trang sợ sệt:

-Coi chừng có người thấy. Em sợ cái miệng nhỏ Cúc. Nó thấy là la um sùm, mắc cở chết!

Huy vẫn nắm chặc bàn tay Trang:

-Kệ. Trước sau gì người ta cũng biết. Chúng mình sẽ viết thư cho nhau nhé. Về Sàigòn anh nhớ em chết luôn. Hai người còn tỉ tê thêm một hồi mới chia tay. Nhưng đâu có thoát được cặp mắt cú vọ của Thanh. Tối trước khi ngủ Thanh hỏi:

-Sao mậy? “Chiện đó” tới đâu rồi? Chiều nay tao thấy có người đứng dưới gốc bưởi…. Huy cười:

-Chịu thầy! Xong rồi. Trang làm tao hồi hộp quá. Ra trường tao sẽ cưới Trang ngay.

-Ừ mày tính sao cho trọn. Em tao khổ là tao tùng xẻo mày đó thằng em.

-Sư mày! Chưa chi đã lên mặt đàn anh.

-Ủa, bộ mày quên tao là anh Hai thứ thiệt rồi hả?

Cả hai cùng cười. Ít phút sau Thanh ngáy khò khò. Huy trằn trọc mãi mới ngủ được…


… Về lại nhà, lúc soạn quần áo đem giặt, Huy chợt thấy một cái khăn mùi soa bằng vải phin trắng. Nơi chéo khăn có thêu mấy đóa bông trang màu hồng. Cầm chiếc khăn ngắm nghía chán lại đưa lên mũi hít, mắt nhắm nghiền, hồn bay tận chín từng mây. Từ đó những cánh nhạn xanh có, hồng có bay qua bay lại vù vù. Mỗi lần nhận được thơ là Trang đóng kín cửa phòng không cho nhỏ Cúc vô. Vậy mà nhỏ cũng ráng lục cho được cái hộp bánh bích qui, lấy xấp thơ của Huy ra đọc lén. Thơ nào cũng bắt đầu bằng câu: Cô Nam Kỳ bé nhỏ của anh, hoặc Cô Nam kỳ đáng yêu của anh…. và chấm dứt bằng câu: Một nghìn chiếc hôn cho người yêu bé nhỏ của anh… hoặc yêu em với tất cả con tim… dĩ nhiên con nhỏ chẳng hiểu gì ráo, nhưng thấy chị Trang bí mật quá mà, nên quyết đọc lén cho biết! Trên đời, chuyện càng bị cấm bao nhiêu càng lôi cuốn lòng tò mò bấy nhiêu!


Rồi xuân qua, hè tới. Thanh vớí Huy cùng ra trường. Thanh xin đổi về dạy ở Cao Lãnh. Huy xuống Vĩnh Long. Huy xin phép bố mẹ cưới Trang trước khi nhận nhiệm sở mới. Bà Tân hỏi con gái, giọng đầy lo lắng:

-Má nghe nói người Bắc lễ nghĩa khó khăn hơn người mình. Con liệu làm dâu nổi không?

Trang trả lời chắc như bắp: -Má à, má quên là tụi con sẽ ở Vĩnh Long chớ đâu có ở chung với ba má ảnh. Lâu lâu về thăm thì con chỉ việc cúi đầu dạ dạ là qua hết. Má đừng lo.

Bà Tân thở dài: -Ờ, thì tụi bây tính sao đó tính. Có gì đừng đổ thừa má hổng cản!

Phần Huy, gia đình chàng  không phải là không có ý kiến. Bà mẹ có vẻ hơi lo lắng :

-Con đã suy nghĩ kỹ chưa? Mẹ thấy người Nam ăn nói bộc trực, không khéo léo, rất dễ mất lòng người khác. Hơn nữa chuyện cô Quờn ghen đốt chết luôn ông chồng khiến mẹ sợ quá!

Huy vội vàng trấn an :

-Mẹ yên tâm. Hồng Trang  xinh đẹp, giỏi nội trợ và rất hiền. Con bảo đảm gặp mặt rồi là mẹ sẽ yêu cô ấy ngay.

Đám cưới Trang Huy diễn ra tưng bừng. Hàm răng đen nhánh và mái tóc vấn khăn nhung của mẹ Huy làm làng xóm ngạc nhiên quá đổi. Cặp uyên ương Nam-Bắc cho ra đời 3 tí nhau dễ thương hết sức: Hoàng, Hồng Lan và Hồng Mai.

Lúc còn dạy ở Vĩnh Long, anh chị may mắn có quen một người bạn trong Hải Quân, nên năm 75 họ kêu anh chị và ba nhóc tì lên tàu thẳng một lèo qua Guam và sau đó qua định cư bên Cali. Riêng vợ chồng Cúc được em chồng bảo lãnh qua Canada. Bà Tân mất vài tháng trước 75. Riêng gia đình Thanh kém may mắn, phải vượt biên năm 78 và đang định cư bên Úc. Thường thì Cúc hay qua Cali thăm chị, rủ hoài nhưng chị Trang cứ hẹn.

-Hổng hiểu bữa nay sao bả lại cao hứng bất tử, đòi qua ăn Tết bên xứ tuyết lạnh lẽo này?

Cúc như chợt nhớ ra điều gì, cặp mắt chợt sáng như hai đèn pha:

-Anh ơi, em nhớ ra rồi. Năm nay vừa đúng 40 năm đám cưới của chị Trang. Tụi mình sẽ dành cho ảnh chỉ một “sự ngạc nhiên” thích thú. Em sẽ tổ chức một bữa tiệc kỷ niệm tưng bừng. Mời đám bạn bè của tụi mình tới hát Karaoké cho vui. Anh thấy vợ anh có sáng kiến hay chưa?

Hưng lại giở giọng Út Trà ôn:

-Hỡi ơi, còn ai hiểu vợ anh hơn anh nữa??? Ừa, anh thấy cái hỗn danh mà hồi xưa anh Thanh với chị Trang đặt cho em “nhỏ Cúc xí xọn” sao mà đúng “chăm phần chăm”…

Cúc véo vô bắp vế Hưng một cái đau điếng:

-Cho chừa cái tật nói xấu vợ! Thôi ra coi hockey đi cho em dọn dẹp. Chuyện chị Trang hạ hồi phân giải.

Hưng đứng lên cái rột :- Xin tuân lịnh…bà lớn!

Cúc trợn mắt :

-Nè, bộ muốn có …bà nhỏ hay sao mà bữa nay phong tui lên chức bà lớn vậy cà? Nói thiệt đi cho tui còn liệu…mua xăng!

-Chi vậy cưng?

-Chèn đét ơi. Bộ anh quên chuyện cô Quờn rồi hả?

Nghe tới đây Hưng vội vàng đưa tay lên trời :

-Xin Thượng đế làm chứng cho con. Đời con chỉ yêu có một nàng. Đó chính là “cô Cúc xí xọn”!

Cúc cười xòa :

– Thôi được rồi. Tha cho anh.

Hai đứa nhỏ đưa mắt nhìn nhau: Thiệt hết ý hai cái ông bà già này!!!…


Tiểu Thu



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Dec/2022 lúc 2:31pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Dec/2022 lúc 8:53am

Còn Đêm Giáng Sinh Nào Cho Em -


Em thương,

      Mùa đông Portland. Đêm xanh và gió lạnh từng cơn. Một góc trăng xa vàng vọt, bơ vơ giữa trời mênh mông đầy sao. Đêm huyền diệu, ngát hương an bình và hy vọng. Đêm Chúa ra đời, cứu chuộc nhân loài. Bên trong, tiệc mừng Giáng Sinh bắt đầu với tiếng nói cười, chúc tụng rộn ràng và ánh sáng lấp lánh muôn màu từ cây sapin đặt giữa phòng. Một lúc nào, qua hai tuần rượu, người bạn tôi, một nhân viên thiện nguyện xã hội, đưa cho tôi xem một bức hình đã cũ, úa vàng –bức hình của em– do anh ta chụp tại một trại tỵ nạn Đông Nam Á mấy năm trước. Em đứng một mình, dáng buồn bã sau lớp kẽm gai, tay bám vào cột sắt, đôi mắt to đen còn ngấn lệ ngơ ngác nhìn thế giới bên ngoài. Quần áo xốc xếch, và tóc rối như mây bay bay trên khung ảnh, trong nắng hoàng hôn nhạt nhòa. Tuổi em chừng độ mười ba, mười bốn, nhưng trông em gầy còm, bé nhỏ như mới lên tám. Anh bạn cho biết em ở trại đã hơn năm năm, và đang chờ trục xuất về Việt Nam theo diện không thân nhân. Tôi ngắm mãi hình em. Giờ này chắc em đã về rồi, trôi dạt ở một nơi nào đó trên quê hương –nơi mà số phận bất công và bọn người có quyền lực đang rình rập, vồ xé em với nanh vuốt của loài thú dữ.

      

      Tự dưng tôi thấy cổ họng nghẹn đắng và tâm hồn rã rời. Giống như trước đây, khi hành quân qua những thôn ấp điêu tàn tôi đã ôm trong tay các em bé bị thương vì mìn chông và đạn pháo, hoặc nhìn những dòng sông ngập xác người  –gục ngã giữa hai lằn đạn–  trôi lẫn với ngàn cánh lục bình vùi dập. Hoặc sau này, trong một bối cảnh khác, bị tù đày đi ngang qua những trại giam thiếu nhi hình sự miền Bắc, Vĩnh Phú chẳng hạn, thấy có nhiều em chỉ mới bảy, tám tuổi, đói lả, da bọc xương, bước đi xiêu vẹo...

 

      Không còn lòng dạ nào tiếp tục cuộc vui. Trên đường khuya lái xe trở về nhà, trời mưa như trút. Mưa, hay những dòng nước của em giàn giụa ở một khung trời nào thật xa tôi, trong những đêm Giáng Sinh mồ côi, không có hoa đèn, quà tặng, câu hát, tiếng cười. Không có bình an mà Chúa đã hứa. Không có cả hy vọng mong manh khi sáng mai thức dậy em thấy mặt trời vẫn mọc trên biển Đông. Ngồi âm thầm giữa đêm thâu, trong tiếng mưa gõ nhịp bên thềm và tiếng nhạc trầm buồn, mơ hồ như sóng trùng dương xa khơi réo gọi, thầm nhắc những gian truân ngày cũ, tôi muốn chia sẻ nỗi khổ đau ngút ngàn của em, cũng như của bao người đang bị lãng quên ở tầng cuối địa ngục. Tôi muốn nói tôi thương em vô vàn vì những bất hạnh em mang, dù chưa một lần gặp em, chưa một lần gọi tên em. Dù em, chắc chắn, sẽ không đọc được những dòng này.

      Trong một nghĩa nào, những bất hạnh đó cũng là của tôi  – một thuyền nhân may mắn hơn em một chút –  và của hàng vạn trẻ em khắp cùng thế giới, nạn nhân tội nghiệp của chiến tranh và thù hận, tại các trại tỵ nạn Bosnia, Rawanda, Somalia, Nigeria, Syria, Indonesia... và ở Hồng Kông và Philippines, nơi vẫn còn những thuyền nhân chưa nước nào tiếp nhận. Và tại Việt Nam trong những mùa chinh chiến cũ. Và bây giờ, dưới chế độ Cộng sản bạo tàn –nơi tuổi thơ không bao giờ được học nghĩa của yêu thương.

 

      Làm sao tôi không nghĩ rằng trẻ em Việt Nam là hiện thân trọn vẹn của Đau Thương cùng cực? Trong chiến tranh, từ ấu thời, các em đã biết mùi lửa đạn, chết chóc, chia lìa, mất mát, vào tuổi mà ở Mỹ quốc trẻ em, kể cả trong các gia đình gốc tỵ nạn, được nâng niu, chăm sóc, hưởng mọi thứ tiện nghi, ưu đãi trên đời. Sau 1975, các em càng khốn khổ hơn. Cha vào tù cải tạo, mẹ tần tảo gánh gồng, bươn chải nuôi đàn con trẻ dại. Các em thiếu ăn, thiếu mặc, suốt ngày chỉ được dạy bài học lao động và căm thù. Và rồi một đêm, em đã vượt biển ra đi, một mình, như tôi cách đây nhiều năm, bất chấp hiểm nguy, mang theo hy vọng và tương lai của cả gia đình. Tại những trại tiếp cư, em ngóng chờ từng ngày, từng tháng, từng năm, trong cảnh cơ cực, buồn nản. Cuối cùng, người ta lạnh lùng chối bỏ em, đày em xuống lại địa ngục mà em đã khổ công đào thoát. Em chắc không biết truyện nàng Cúc Hoa, trong văn chương nước ta, từ địa ngục được trở về dương thế, đoàn tụ với chồng, Phạm Công, và hai con, nhờ lòng thương của quỷ Diêm vương –còn mang tính người hơn lũ người tự nhận “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng bởi khỉ mà ra. Hay nàng Eurydice, kém may mắn hơn, trong thần thoại Hy Lạp, khi sắp đến bến bờ hạnh phúc, đã vì lỗi của chồng, Orphée, phải quay lại địa ngục, nhưng cùng với tình yêu trọn vẹn và nỗi tiếc nhớ khôn nguôi chàng dành cho.

      Còn em? Còn phi lý và nghiệt ngã nào hơn, hỡi em? Còn thiên đường xanh nào cho những ước mơ bình thường, bé bỏng của em? Hồn tôi chợt xao xuyến, nghe nhức buốt trước nỗi tuyệt vọng của em, và căm phẫn vì sự thờ ơ, ích kỷ của loài người.

      Thế giới thực sự quay lưng với em rồi. Người ta đã quá mệt mỏi, và phải công bình mà nói, người ta không cáng đáng nổi nữa trước con số tỵ nạn khổng lồ ngày càng gia tăng khắp nơi trên hoàn vũ bởi những cuộc chiến trăm lần tệ hại và tàn độc hơn chiến tranh Việt Nam. Và còn lý do chính trị nữa. Gió đã đổi chiều, người ta háo hức xin được bắt tay với các kẻ thù cũ, mới. Người ta hân hoan tháo bỏ cấm vận.. Và mới đây, theo yêu cầu của bạo quyền Hà Nội, người ta đục xóa các tấm bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình tại vài nước tạm cư, Indonesia và Mã Lai, và trên biển cả. Người ta cho đó là thức thời, là tiến bộ, là hòa bình, hòa hợp, hòa giải. Tôi gọi đó là khiếp nhược, phản bội, đầu hàng. Và nạn nhân không ai khác là hàng ngàn đồng bào đáng thương còn kẹt ở các trại, trong số có em. Nạn nhân của sự trở mặt ấy, em hãy tin tôi, chắc hắn không phải là một số khá đông cựu thuyền nhân, cựu di tản, đã hay đang trở về  –nhưng khác với em–để du lịch, vinh quang, áo gấm về làng, tậu biệt thự, làm ăn, hoặc ca hát, nhảy múa, nói dóc, hoặc chơi bời trên đất nước thảm thương, rách nát mà ngày nào họ đã trốn chạy trối chết, như những bầy chuột.

      Trong đôi mắt mênh mông buồn thảm em nhìn, qua bức ảnh, đôi mắt đã ám ảnh tôi suốt đêm Giáng sinh, tôi đọc thấy lời kết án nặng nề đối với lương tâm của nhân loại. Và của tôi. Tôi có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ vì bất lực, không làm được gì để giúp em thoát khỏi xích xiềng nô lệ và đọa đày. Tiếng nói của tôi, cũng như của một số đồng hương đầy thiện chí đã cố gắng can thiệp với các chính quyền, tranh đấu cho em, cho những người trong hoàn cảnh của em, chỉ là tiếng vọng trên sa mạc, chìm mất theo sóng nhạc bềnh bồng của những đêm khiêu vũ mệt nhoài hay các buổi tiệc tùng tưng bừng.

 

      Thôi em, hãy quên. Hãy quên. Và chấp nhận mệnh số tàn ác trời dành cho em. Nếu phải trở lại địa ngục, hãy mang theo tình thương và cảm thông tràn đầy, ít nhất của một người không quen đã bỏ dở bữa tiệc Giáng Sinh vì em, đang nghĩ đến em đêm nay. Hãy trở lại như Eurydice thuở xưa. Hay như Hoàng Tử Nhỏ trong Saint-Exupéry, sau lần lạc bước đến thế giới loài người, được hiểu thế nào là nhân ái và ác độc, đã bình thản trở về tinh cầu của mình với trái tim rướm máu.

      Và nhất là, để tiếp tục sống, em hãy tiếp tục giữ hy vọng vào hạnh phúc, như ngày em bước lên thuyền ra khơi. Dù hạnh phúc thật chưa hề có trên cõi đời này. 

 

Kim Thanh

 

Portland, Giáng sinh 1995

Gửi lại, 22/12/2018
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Dec/2022 lúc 10:23am

Thoát nạn đêm Noel!

Page%203%20|%20christmas%20scenery%20HD%20wallpapers%20|%20Pxfuel

Thành phố Coventry, Anh Quốc, ngày 22 tháng 12 năm 1959. Chỉ còn hai ngày nữa là đến Noel. Trời lạnh căm căm, tuyết rơi trắng xóa… Trung úy Stanley Miller thuộc đội cảnh sát của thành phố, nhăn nhó lái xe như bay trong đêm. Anh bực dọc không phải do thời tiết xấu của mùa đông mà vì các đồng nghiệp vừa báo tin một phụ nữ vừa bị giết chết tại bãi đậu xe trên đường Birmingham bằng hai nhát dao chém sâu vào cơ thể.

Án mạng vẫn thường xảy ra ở thành phố khá đông dân này. Nhưng điều đáng lo ngại là cách đây một tuần, một phụ nữ khác cũng bị giết cách nơi xảy ra án mạng lần này chỉ vài trăm thước! Trung úy Stanley e rằng có một tên sát nhân bệnh hoạn đang lảng vảng trong khu vực do anh kiểm soát. Có thể hắn lại ra tay vào đêm Noel…

Stanley đậu xe trên bãi, cạnh chiếc xe của đồng nghiệp mà đèn tín hiệu trên mui vẫn còn chớp nháy. Cảnh sát đang ghi nhận thông tin, chụp ảnh hiện trường. Một số người hiếu kỳ đứng nhìn từ xa mặc cho tuyết rơi, trời lạnh giá. Một cảnh sát viên tiến đến Stanley:

– Xác nạn nhân vừa được đưa vào xe cứu thương, mời trung úy đến xem.

Ðứng cạnh xe cứu thương là một người đàn ông khoảng ngoài 60 đang thút thít khóc. Stanley đưa tay vén tấm vải đậy chiếc băng ca. Những vết dao trên thi thể nạn nhân xác nhận điều anh lo ngại: một nhát vào bụng và một ngay tim, gần như y hệt với nạn nhân bị sát hại một tuần trước. Ðiều khác biệt mà anh ghi nhận là xác chết trước mặt anh là một phụ nữ trạc ngoài 50, ốm cao, tóc muối tiêu… trong khi nạn nhân trước chỉ khoảng 21 tuổi, tóc vàng, người tròn trịa… Stanley hơi ngạc nhiên vì bọn sát nhân bệnh hoạn thường chỉ giết hại những phụ nữ có đặc điểm giống nhau như người già, người trẻ hoặc người tóc nâu hay tóc vàng… Hẳn là tên sát nhân này không giống những tên khác vì hai người bị nạn hoàn toàn khác nhau. Nếu không thì ít ra cũng phải có điểm giống nhau nào đó giữa những người bị hại. Trung úy Stanley rời nạn nhân và tiến đến bên người đàn ông luống tuổi đang khóc:

Xin lỗi, có phải ông là chồng của nạn nhân?

Vâng.

Ông có chứng kiến diễn biến của sự việc không?

Không ạ. Tôi cũng vừa mới được báo hung tin thôi. Vợ tôi bị tấn công khi đang trên đường đi làm về nhà.

Nghề nghiệp giống nhau, một ý nghĩ mới loé lên trong đầu Stanley. Nạn nhân thứ nhất làm nghề uốn tóc.

Vợ ông làm nghề gì, thưa ông?

Y tá.

 

 Thoát nạn đêm Noel!

Ðiều phỏng đoán của Stanley hoàn toàn sai… Sau vài câu trao đổi với chồng nạn nhân, Stanley rời hiện trường. Về đến văn phòng, anh lấy hồ sơ vụ án trước ra xem. Trước mắt anh là tấm hình nạn nhân: thân hình đầy đặn, gương mặt bầu bĩnh phảng phất nét hồn nhiên… hoàn toàn khác với gương mặt khắc khổ và thân hình khô đét của nạn nhân mà anh vừa nhận dạng ở hiện trường.

Trung úy Stanley đọc lại kết quả xét nghiệm tử thi, một chi tiết bất chợt làm anh chú ý: nạn nhân bị lao khớp xương háng nên bước đi khập khiễng. Lập tức Stanley nhấc điện thoại gọi người chồng của nạn nhân thứ hai:

Xin lỗi làm phiền ông lần nữa. Tôi muốn biết vợ ông đi có bị khập khiễng không?

Vâng, có đấy. Vợ tôi bị dị tật khập khiễng bẩm sinh, thật là đáng thương.

Vài giây nặng nề trôi qua rồi Stanley nghe đầu dây bên kia nói tiếp:

Thưa trung úy, ông nghĩ rằng đó chính là lý do khiến vợ tôi bị sát hại?

Vâng, tôi tin là như thế…

Lời xác nhận nạn nhân thứ nhất có dáng đi khập khiễng sau căn bệnh lao xương háng lúc còn trẻ mà Stanley ghi nhận được qua cuộc điện thoại ngay sau đó với bố mẹ nạn nhân càng khẳng định và củng cố suy nghĩ của mình.

Tình hình quả là nghiêm trọng. Trung úy Stanley mở ngay cuộc họp đề nghị các nhà báo hỗ trợ. Các tờ báo ra buổi chiều ngày 23 tháng 12 đồng loạt đưa tin trên trang nhất: “Một tên sát nhân bệnh hoạn chuyên tấn công những phụ nữ đi khập khiễng. Yêu cầu những người có tật đi khập khiễng hạn chế tối đa đi ra ngoài. Nếu cần đi chợ thì nên nhờ hàng xóm. Trường hợp bất khả kháng thì đừng ra ngoài một mình. Những người đi làm việc nên đi cùng với đồng nghiệp. Cần liên lạc ngay với cảnh sát để cử người đến giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp”.

Tin trên được các đài phát thanh phát đi rộng khắp và hầu như mọi người dân thành phố Coventry đều thông suốt. Họ cảm thấy hơi khó chịu vì đây là thời điểm mọi người cần ra ngoài mua sắm Noel.

Trung úy Stanley lên kế hoạch tổ chức nhiều cuộc tuần tra vào ban đêm. Anh cũng được Luân Ðôn chấp thuận gởi một đội đặc nhiệm gồm sáu nữ cảnh sát tinh nhuệ có khả năng khóa tay đối phương bằng một thế võ judo hoặc karaté. Trong cuộc họp với đội đặc nhiệm, Trung úy Stanley yêu cầu:

Các bạn phải nghiên cứu kỹ tuyến đường được giao trách nhiệm tuần tra. Cứ mỗi 15 phút các bạn phải liên lạc với nhau bằng vô tuyến. Bây giờ các bạn phải tập đi khập khiễng, đi thọt chân để thu hút sự chú ý của tên sát nhân bệnh hoạn đó.

Trung úy Stanley đứng nhìn các bạn nữ đồng nghiệp đi thọt chân trong phòng. Thật là ấn tượng! Anh chợt hiểu ra vì sao tên sát nhân bệnh hoạn lại chỉ giết hại phụ nữ đi thọt chân. Một kẻ tâm lý bất bình thường có thể xem kiểu đi tật nguyền kia là sự khiêu khích lắm chứ!!! Stanley yêu cầu các bạn nữ đồng nghiệp ngưng tập kiểu đi làm anh khó chịu:

Cám ơn các bạn. Ðiều tôi muốn lưu ý các bạn là giả bộ đi thọt chân trong thời gian lâu không phải chuyện dễ. Các bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi, lúc bấy giờ các bạn quên khuấy đi nhiệm vụ và trở lại dáng đi bình thường. Tôi khuyên các bạn nên lặp lại trong đầu: “Tôi đi khập khiễng, tôi đi khập khiễng”. Chúc các bạn may mắn và lập được thành tích.

5 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1959. Judith Appelby bước vội vã trên lề đường chói chang ánh đèn. Ðó là một phụ nữ trạc 35 tuổi, tóc vàng, mắt xanh, má hồng. Sau ngày làm việc, Judith cảm thấy lòng phơi phới trong khung cảnh nhộn nhịp đêm Noel: những tràng hoa đèn chớp nháy trang trí khắp nơi đã biến phố phường Coventry vui nhộn không khí lễ hội. Những cây thông chễm chệ trước cửa nhà, bên cửa sổ, từng nhóm trẻ con nắm tay nhau tung tăng bước đi, miệng hát bài thánh ca…

Ngân hàng nơi Judith làm việc cho nhân viên nghỉ sớm một giờ để đi mua sắm chuẩn bị cho đêm lễ hội. Sau khi mua vài món đồ chơi cho hai con, Nicolas và Marjorie, Judith tiến về cửa hàng thịt để lấy con gà tây quay mà chị đặt mua từ sáng nay. Tuy nhiên bản tin về tên sát nhân bệnh hoạn phát ra từ đài phát thanh sáng nay làm chị hơi lo âu. “Bọn bất lương thật là nhẫn tâm. Tại sao hắn lại có thể làm điều tệ hại như thế vào thời điểm lễ hội thánh thiện thế này?”, Judith lầm thầm trong đầu.

Judith bước ra khỏi cửa hàng thịt, hai tay nặng trĩu hai giỏ xách đồ chơi, thực phẩm… Ngoài trời tuyết rơi… Judith đang ở cách nhà không xa mấy. Các chuyến xe buýt đều đã đầy ắp, không thể chen chân. Chị quyết định đi bộ theo con đường tắt về nhà. Ðó là một con đường nhỏ xuyên qua một khu vực vắng vẻ mà chị đã vài lần đi qua trong lúc gấp gáp. Chồng chị và mấy người láng giềng trách chị thiếu cẩn trọng, nhất là đi qua con đường vắng vẻ này vào ban đêm. Nhưng Judith là một phụ nữ gan dạ, tự tin và rất lạc quan…

Với hai giỏ xách đầy ắp đồ trên tay, Judith tiến tới bằng những bước nặng nề trên con đường ẩm ướt. Judith bỏ lại sau lưng cột đèn đường cuối cùng khoảng 50 mét. Tuyết vẫn rơi, trời nhá nhem tối, con đường vắng vẻ… Rất may là chị đã đi qua đây đôi lần nên nhận biết khá tốt con đường dù nó chỉ được soi sáng bởi ánh đèn yếu ớt từ những con đường lân cận. Judith bất chợt rùng mình nhưng không phải hoàn toàn vì lạnh… Chị cảm thấy mình quá liều lĩnh khi nghĩ đến tên sát nhân có thể đang chực chờ chị ở một góc xó nào đó trong bóng tối.

Judith vươn vai hít một hơi thật sâu để lấy lại niềm tin. Chị thầm nhủ: “Tại sao mình lại sợ hắn nhỉ. Vả lại cảnh sát thông báo hắn chỉ tấn công những phụ nữ đi khập khiễng, mà mình thì có đi thọt chân đâu nào”. Chị bước nhanh hơn… Bỗng chị rú lên một tiếng, chị vấp phải một cục đá, toàn thân nằm xoải trên mặt đường, hai giỏ đồ rơi vãi khắp nơi. Judith lẩm bẩm:

Hẳn là con gà tây quay và đồ chơi đều bị bẩn cả rồi!

Chị ngồi dậy định nhặt lấy đồ nhưng chị lại rú lên vì đau đớn, chân phải của chị bị trật khớp mất rồi. Chị cố gắng bước thử vài bước nhưng không thể nào bước đi bình thường: chị đi khập khiễng!!! Chị lại rùng mình nhớ lại tên sát nhân bệnh hoạn trong bản tin buổi sáng.

Judith nghe tiếng bước chân vang lên sau lưng, tiến lại gần… Theo bản năng, chị dừng bước ngay, nói đúng hơn là ngưng đi khập khiễng. Chị đứng im như pho tượng. Tuyết vẫn thản nhiên rơi. Chỉ vài giây trước, chị rùng mình khi nghĩ đến hắn. Giờ thì linh tính báo cho chị biết rằng hắn đang ở sau lưng! Chị không đủ can đảm ngoái nhìn ra sau. Hắn chỉ còn cách chị vài bước bởi chị nghe hơi thở của hắn trong gió lạnh. Ðôi mắt chị vẫn nhìn thẳng về phía trước. Hắn mở lời trước:

Chào buổi tối!

Judith quay lại nhìn. Hắn khoảng bằng tuổi chị. Hắn ăn mặc chỉnh tề, lịch lãm: áo khoác vừa vặn, khăn quàng cổ trắng, tóc hớt ngắn, đôi mắt kính trắng hơi trệ xuống mũi. Chị thầm nghĩ: “Trông hắn thật là lịch thiệp và không lý do gì lại sợ một người lịch thiệp cả. Biết đâu chừng hắn sẽ giúp mình xách giỏ đồ. Mình sẽ kể cho hắn nghe chuyện không may vừa xảy ra và đề nghị hắn che chở…”.

Người đàn ông nhìn chị, miệng mỉm cười. Chị đứng bất động mà nghe mồ hôi lạnh chạy dài theo cột sống. Một người đàn ông lịch lãm làm gì tại nơi vắng vẻ và trong đêm tối đầy tuyết như thế này?… Judith không thể tìm ra câu trả lời.

Chị nhìn gì thế?

Judith đưa mắt nhìn hắn: tóc vàng, vẻ mặt hiền lành… Chị trả lời bằng giọng bông đùa:

À thì tôi đang nhìn ra phía trước!

Trước mặt chị là nhà máy khí đốt…

Judith nhìn kỹ phía trước, điều mà chị chưa hề làm trước đó. Ðúng là chị đang nhìn về nhà máy khí đốt của thành phố Coventry.

Vẫn với giọng nói pha lẫn chút ít mỉa mai và sốt ruột, hắn tiếp:

Chị định đứng im đấy đến bao giờ?

Tôi có thừa thời gian và cũng chẳng gấp gáp gì.

Chị có biết mình đang đứng ngay giữa vũng nước không?

Judith nhìn xuống chân:

Không, tôi không quan tâm.

Chị có biết tuyết đang rơi và chị đã đánh rơi mọi thứ ra đường không?

Judith không thể tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi dồn dập ấy. Hắn nhìn thẳng vào mắt Judith và nói như ra lệnh:

Bước tới nào!

Judith tin chắc rằng nếu bước tới chị sẽ thua cuộc. Phải chăng lúc nãy hắn đã nhìn thấy chị đi khập khiễng? Bằng bất cứ giá nào chị cũng không được bước tới!

Tôi không thể!

Tại sao? Mọi người đều biết đi cơ mà. Ngoại trừ… chị không thể đi bình thường như mọi người khác.

Ðứng trước nguy cơ bị sát hại, con người thường có một trong hai phản ứng: một là toàn thân như bị tê liệt phó mặc cho số mệnh, hai là cơ thể như được kích thích, sáng suốt hẳn lên để đối phó với tình thế. Rất may là Judith thuộc mẫu người thứ hai. Chị cảm thấy đầu óc minh mẫn lạ thường! Từ trước đến giờ chưa bao giờ chị thấy bình tĩnh và sáng suốt đến thế… Phải bịa chuyện ra nói để kéo dài thời gian, chỉ có cách duy nhất đó mới có thể cho chị cơ may sống sót.

Thật là bất hạnh cho anh chàng sát nhân bệnh hoạn mà đài phát thanh đưa tin sáng nay. Thật là khủng khiếp khi nghĩ đến chuyện giết những phụ nữ đi khập khiễng !

Tại sao lại bất hạnh?

Giết người vào đêm Noel, ông không thấy đó là một hành động quá tàn nhẫn sao?

Còn tùy thuộc vào người bị giết là ai nữa chứ. Có nhiều phụ nữ không đáng sống chút nào!

Nhưng thật ra đâu phải do lỗi của họ.

Những phụ nữ đi khập khiễng trông thật xấu coi làm sao. Họ xứng đáng được giải thoát về bên kia thế giới!

Judith nhìn hắn với ánh mắt thất vọng. Hắn lại cất tiếng, lần này có vẻ lịch sự hơn, nhưng dứt khoát:

Xin bà vui lòng đứng lên và bước đi!

“Lần này có lẽ là không thể thoát được nữa rồi”, Judith thầm nhủ. Nhưng Judith không bỏ cuộc, chị quyết định đánh ván bài cuối cùng. Chị ngã xuống mặt đường, đưa chân phải sưng phù ra cho hắn xem:

Tôi bị trượt té và bong gân mắt cá chân, chứ tôi không đi khập khiễng. Chỉ vài hôm là hết thôi mà.

Hãy đứng lên và bước tới!

Dứt lời hắn lấy từ trong túi chiếc áo khoác ra một cây dao sắc nhọn.

Hãy đứng lên và bước đi như lúc nãy! Bà đã bắt đầu đi khập khiễng tốt đấy…

Judith tiếp tục suy nghĩ một cách minh mẫn. Ðối với tên tâm thần bệnh hoạn này, hình ảnh phụ nữ bước đi khập khiễng khiến hắn bị kích thích tột cùng và kết thúc bằng tội cố sát. Nếu Judith đứng lên và bước đi thì chắc chắn hắn sẽ ra tay không thương tiếc. Judith tin chắc rằng chừng nào chị còn ngồi im, không tuân theo lệnh hắn thì chừng ấy chị vẫn còn làm chủ tình hình.

Không! tôi xin lỗi, tôi không muốn bước đi chút nào cả.

Hắn thay đổi ngay sắc diện. Gương mặt hắn lộ rõ vẻ van xin… như một đứa trẻ bị bạn từ chối cuộc chơi.

Tôi van bà đấy, hãy bước tới đi! Ðêm nay là Noel. Tôi cần phải về nhà nữa mà. Vợ và các con đang chờ tôi…

Ông cũng có vợ và con nữa ư?

Tất nhiên. Hãy bước tới, tôi van bà đấy.

Không! Hãy nói cho tôi nghe về ông trước đã.

Và hắn bắt đầu kể về cuộc đời hắn… Tuyết vẫn rơi. Judith chẳng nghe gì cả. Thỉnh thoảng chị gật đầu, ậm ừ cho qua chuyện. Chị chờ một phép lạ giải thoát chị khỏi lưỡi hái của thần chết…

Ðài phát thanh thông báo rằng cảnh sát tuần tra khắp nơi trong thành phố, nhưng tại sao họ lại bỏ quên con đường vắng vẻ đặc biệt nguy hiểm này nhỉ? Chính vào lúc này xuất hiện một bóng phụ nữ bước đi khập khiễng trên đường! Lập tức hắn rời bỏ Judith và tiến về con mồi…

Judith không hưởng đêm Noel cùng với gia đình. Sau khi tên sát nhân bệnh hoạn bị nữ cảnh sát đặc nhiệm khoá tay và đưa về nhà giam, Judith được đưa ngay đến bệnh viện điều trị sau cơn sốc đối đầu với thần chết…



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Dec/2022 lúc 9:50am

Lão Lượm “Ve Chai” 

 
Với bài viết "Sàigòn lớn nhỏ đều nhớ anh", hướng về các thương binh VNCH trong cuộc chiến, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Ông tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941 - 13 năm lính chiến, từ 1962 tới 75-, với 5 chiến thương bội tinh. Và từng là một đại đội trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến, đơn vị tác chiến có biệt danh Trâu Điên.
* * *

Vào giờ nghỉ trưa, đa số công nhân của hãng L.A Laundry tụ tập quanh xe “lunch”, còn tôi đang loay hoay kiểm soát mấy bộ quần áo “samples” để mang giao cho hãng Guess, thì nghe có tiếng la hét ồn ào quanh xe lunch. Ngó ra tôi thấy lão Tony Joseph (tạm gọi tên Việt Nam là Tôn) đang bị thằng Mexi-Guapo nắm hai cổ tay lão kéo tới, xô lui như mèo vờn chuột, còn lão Tôn thì cố vùng vẫy và miệng la “F...you”, trong khi đó đám đông, những người anh em gốc “thích đậu, thích đỗ” thì hò reo, cổ võ cho hai người đánh nhau để đứng ngoài vỗ tay cười chơi.

Tôi không ưa lão Tôn, nhưng khi thấy thằng Mexi-Guapo hành hạ lão ta quá, tự ái dân tộc nổi lên, tôi đi tới can họ ra, nhưng Guapo lại mạnh tay hơn, túm cổ lão Tôn nhấc lên. Tôi kín đáo dùng ngón tay cái và ngón trỏ bấm mạnh vào tử huyệt ở bàn tay Guapo khiến nó đau quá vội buông lão Tôn ra rồi hắn gườm gườm nhìn tôi, tôi nói lớn cho đám đông nghe: “Sorry Guapo, this old man is my brother”, rồi tôi nhìn vào mắt Guapo và nói nhỏ, hù hắn một câu:

- Cùi-đa-đồ (đại khái là mày coi chừng tao).

Vì ông chủ và tôi là chỗ quen biết từ trước nên tôi “mựơn oai hùm nhát khỉ” đề hù tên Guapo này để hắn không còn bắt nạt lão Tôn nữa. Hai đối thủ cố lải nhải với nhau vài câu rồi bỏ đi, còn đám đông quay lại ăn uống bình thường, tôi thì về thu xếp các mẫu hàng đem đi giao, không thèm hỏi lão Tôn một câu lý do tại sao thằng Guapo lại đánh ông ta.

Hãng L.A Laundry thầu giặt quần áo “Jean” cho các hãng Guess, Bongo, Infinity, Lewis. Công nhân đại đa số là dân vùng Nam Mỹ, chỉ có Tôn và tôi là người Việt. Tôn làm trong toán xếp quần áo, còn tôi phụ trách đi nhận và giao các mẫu hàng từ các hãng kể trên. Tôn cũng là dân “ho-hen” (H.O) như tôi, anh đến làm việc ở đây trước tôi nên khi mới vào làm việc, tôi rất mừng và lễ phép với “niên trưởng” Tôn, nhưng dần dà vì làm khác nhiệm vụ và nhất là thấy Tôn làm “mất mặt” người Việt nên tôi rất bực mình, không tiếp xúc nữa, nay khi thấy tên Guapo hành hạ đồng hương tôi buộc phải ra tay mà thôi.

Lý do tôi không ưa lão Tôn vì lúc nào bên hông ông ta cũng đeo cái túi nylon, hễ thấy cái chai nhựa hay lon nhôm nào mà công nhân uống xong rồi vất đi là Tôn nhặt lên, bóp dẹp rồi bỏ vào bịch, trong khi đó thằng Mexi-Guapo cũng làm chuyện tương tự, cũng đi nhặt lon nhôm Coca, chai nhựa, v.v... thế là họ thừơng cãi nhau khiến tôi không thích Tôn, Tôn đi nhặt rác, làm rát mặt lây sang tôi, trong lòng tôi coi thường Tôn từ đó.

Sau một thời gian tôi can thiệp chuyện cãi nhau thì Tôn “quít-gióp”. Trước khi nghỉ việc, Tôn đến chào và bắt tay tôi:

- Tạm biệt bạn, cám ơn bạn đã bênh vực tôi, chắc trong thời gian qua bạn ngứa mắt và bực mình vì tôi đi lượm rác, nay tôi đi chỗ khác để bạn khỏi phải trông thấy cảnh đồng hương đi lựơm rác nữa. Tôi kiếm được job mới ở Little Saìgon rồi, lương xì-tạc 13.75$. Hy vọng chúng ta có dịp gặp lại nhau thì bạn sẽ hiểu lý do tại sao tôi lại đi lựơm mấy cái vỏ chai, lon nhôm.

Từ Little Saigon tôi lái xe qua freeway 22, 405, 605, 5 để đến hãng ở El Monte làm việc với lương 5.75$/1 giờ, nay nghe Tôn nói có job mới ngay tại Little Saigon với lương cao gần gấp 3 lần, tôi nghĩ hắn nổ, làm gì có job nào ngon như thế cho dân “H.O” nên tôi trả đũa và hững hờ chạm tay lão rồi nói:

- Chúc Tôn may mắn, có job mới lương cao thì đừng lựơm lon nữa nghe.

Tôi đã không vui khi thấy mấy cụ già trong khu chung cư của tôi đi lựơm chai nhựa lon nhôm trong thùng rác. Ở Mỹ này với tuổi của các cụ thì có trợ cấp tiền già của chính phủ để đủ ấm no, việc gì phải đi moi móc như thế coi bệ rạc quá! Có lần tôi cầm mấy vỏ lon bia đưa cho một cụ thường lượm ve chai và nói:

- Cụ đừng mở thùng rác nữa, nhỡ có vi trùng hay rắn rết thì rất hại cho sức khỏe tuổi già, mà cụ lượm mấy lon nhôm này để làm gì vậy?

Cụ rất vui khi tôi cho mấy cái lon nhôm rồi cụ giải thích rằng cụ gom các thứ này lại để đem bán, “năng nhặt chặt bị”, từ vài đồng rồi thành vài chục, lâu lâu được một trăm thì gửi về cho con cháu hoặc cô nhi viện. Nghe cụ già giải thích vậy thì biết vậy, nhưng tôi vẫn cảm thấy ái ngại, không thoải mái khi nhìn các cụ đi lựơm lon.

Khi hãng L.A Laundry dẹp tiệm thì tôi đi làm “thợ đụng” (truyện dài của nhà văn PKK), nghĩa là đụng việc nào là làm việc đó, không có việc thì đứng ngó trời-trăng hay “ta buồn ta đi lang thang”... và rồi bất ngờ đụng Tôn tại đại nhạc hội Cám Ơn Anh TPB kỳ 4 do Hội Cứu Trợ TPB & Quả Phụ tổ chức tại Garden Grove ngày 1/8/2010.

Đang ngồi ghế xem ca nhạc thì tôi thấy Tôn mang những chai sữa đậu nành len vào các hàng ghế để bán cho khán giả và vẫn lượm loon, tôi lờ hắn đi nhưng khi hắn bước tới hàng ghế tôi ngồi và trao tận tay tôi chai sữa đậu nành thì không lờ được nữa, tôi bèn chào qua loa cho có lệ và lại càng ghét thêm vì tội hắn nổ, kiếm được “good job” với start 13,75$/1 giờ mà vẫn đi lựơm loon và bán dạo sữa đậu nành. Tôi hỏi móc họng lại:

- Chắc hồi này lương của Tôn lên tới 19$/1 giờ rồi?

- Không, 20.25$ rồi. Nếu bạn muốn đổi job như tôi thì tôi chỉ cho, thật đấy, đây là số tele của tôi, 714-987-xxxx khi nào muốn thì liên lạc.

Tôn cừơi thân thiện rồi tiếp tục đi bán, mang chai sữa đậu nành trao tay cho khán giả xem đại nhạc hội*. Hình như Tôn không biết tôi hỏi móc họng nên anh ta trả lời có vẻ thành thật, nhưng tôi vẫn nghi ngờ. Làm cái khỉ gió gì mà lương 20.25$ trong khi bằng cấp chỉ là ngón trỏ ngày xưa dùng để bóp cò...súng.

Nghề thợ đụng của tôi ngày càng lâm vào thế bí, bị số đông người anh em gốc “Xì” đứng trước cửa chợ Người Việt cạnh tranh, nhưng tôi vẫn cóc cần gọi “Tôn Nổ” như lời hắn dặn. Rồi một ngày, bất ngờ Tôn gọi tôi và mời đến nhà chơi. Tự ái như được vuốt, tôi nhận lời đến thăm dân nổ cho biết sự tình.

Tôi đến thăm Tôn vào chiều cuối tuần, người đón tôi ngoài cửa không phải là Tôn như tôi nghĩ mà là một chị rất đẹp với cử chỉ lịch sự, chị nói:

- Xin lỗi anh, nhà tôi đang bận ngoài góc vườn, anh ấy nói tôi dẫn anh anh ra vườn, tôi cự nự thì anh ấy nói: “khách muốn coi việc anh ấy làm”. Vậy xin lỗi anh trước.

- Cám ơn chị, chính tôi muốn xem công việc của anh Tôn.

“Bê-Ka” thì có vẻ khách sáo với nhau tí chứ thực tâm thì tôi có biết Tôn làm cái gì đâu, mời khách đến chơi mà dẫn ra góc vườn thì chỉ có “dân chơi cầu ba cẳng” chứ dân Bolsa ai làm thế, nhưng lỡ rồi, cứ vào và quả thật tôi choáng váng khi cái mùi chua-chua, thiu-thiu trong đống chai lọ chất góc vườn xông vào mũi. Tôn ngừng làm việc, tháo đôi găng tay ra rồi bắt tay tôi và cùng ngồi vào cái bàn dưới cái dù che ở góc vườn, đúng lúc đó chị Tôn mang ra hai ly cafe sữa. Tôn mời tôi uống và vào đề ngay:

- Tôi đang làm ở học khu Garden Grove, tháng tới họ sẽ mở một lớp học buổi tối về “custodian”, sau một tháng nếu ai đủ điểm thì sẽ có chứng chỉ, và cái chứng chỉ này sẽ giúp chúng ta đi tìm việc làm ở các học khu tương đối dễ dàng, nếu anh muốn thì đến ghi danh ngay đi, họ chỉ lấy 40 học viên thôi. Trước đây tôi cũng làm thế và tôi đã tìm được job ở học khu GG, lương bắt đầu vào khoảng từ 12-14$/1 giờ và lên dần maximun là 23$ giờ tùy học khu.

- Custodian là nghề gì, có cần nói thông thạo tiếng Mỹ không, chứ tôi thì thì...

- Là trông coi, quét dọn, hút bụi, đổ rác, v.v… ở các trường học, việc còn nhẹ nhàng hơn ở nhà khi bà xã nhờ vả, về tiếng Mỹ thì tôi tệ hơn anh mà còn qua cầu thì anh dư sức, v.v...

Thế rồi Tôn hướng dẫn tôi cách ghi tên, cách học thi lấy “lai-xân”, khi có licence rồi thì Tôn chỉ tôi cách tìm job ở các học khu trong vùng Orange. Ở các học khu có rất nhiều công việc, từ săn sóc bảo trì trường học, cắt cỏ, tỉa cây, điện, thư viện, phụ giáo, v.v...

Sau khi hướng dẫn tôi tìm việc làm xong, Tôn quay về chuyện cũ ở L.A Laundry:

- Hồi còn làm ở L.A Laundry, tôi biết bạn khinh tôi về cái vụ tôi đi lựơm mấy cái chai nhựa, lon nhôm, nhưng thây kệ, mắc mớ gì giải thích, sau khi anh trị thằng Guapo cứu tôi, tôi hứa là sẽ có ngày giải thích cho anh và hy vọng anh sẽ hiểu tôi hơn và đây là lúc cần nói. Sau khi về làm tại học khu G.G, vì là công việc quét dọn nên số chai nhựa, loon nhôm nhiều hơn và anh thấy đống bao ở góc vườn kia kìa, chiều nay mang tới “recycle center” bán, trung bình mỗi tháng kiếm 40-50 đô, chừng nào đủ 100 đô thì tôi tới đổi cho lão Bà-Bà Hạnh Nhơn, một “rì-xíp”, còn lão Bà-Bà Hội trưởng Hội H.O dùng tiền đó vào việc gì thì anh và cả cộng đồng này biết rồi.

- Xin lỗi anh Tôn, xin anh tha lỗi, bây giờ thì tôi hiểu rồi, cái bữa đại nhạc hội TPB mà anh đi bán sữa đậu nành cho khán giả cũng là mục đích tình nguyện kiếm lời cho ĐNH?

- Đúng thế, trong các đại nhạc hội Cám Ơn Anh TPB, nếu anh để ý thì sẽ thấy có anh Long HQ đứng mũi chịu sào gian hàng bán thực phẩm, anh Thục KQ bê các khay trái cây len vào các hàng ghế để bán cho khán giả, tôi theo chân hai anh ấy, ngoài ra còn có rất nhiều các cháu thanh thiếu niên Phật Tử đi bán nữa, tất cả vì TPB, rất buồn là anh Thục đã “đi xa” rồi!

- Tôn, anh làm công việc này chị nhà và các cháu có biết không, phản ứng ra sao?

- Bạn bè coi thường tôi là chuyện bình...thường, “ai đông khe”, nhưng vợ con tôi không hiểu, phiền trách, ngăn cản mới đau. Lúc đầu thấy tôi tha về những chai nhựa lon nhôm để góc vừơn là nhà tôi la um xùm, mang bỏ vào thùng rác, còn hai đứa con thì chúng không thèm ra vườn, cực chẳng đã, khi phải ra vườn thì chúng bịt mũi! Cuối cùng tôi đành phải nói thật, tôi có dẫn nhà tôi theo khi tôi tới thăm cái ga-ra của chị Hạnh Nhơn làm nơi chứa 20 ngàn hồ sơ TPB. Nhà tôi hiểu chuyện và rồi bà ấy giải thích cho hai đứa nhỏ hiểu việc làm của tôi.

- Các cháu phản ứng ra sao với ông bố đi lựơm rác?

- Nhà tôi thì trực tiếp tham gia, “đặt hàng” các bà lối xóm, bạn bè, ai có lon nhôm thì cho, thế là bả mang về góp vào đống rác kia. Có nhiều thân chủ còn gom chai “dầu gió xanh”, nhưng có lần vác bao chai nặng quá, tôi bị xụm lưng nên sợ rồi, không dám nhận vỏ chai nữa.

Thú thật từ khi có vợ tiếp tay, tôi không còn gửi tiền lẻ tẻ cho chị Hạnh Nhơn nữa mà xin chị cho chúng tôi “take care” 3 hồ sơ TPB, mới đây có một anh TPB đã qua đời khi tôi chưa kịp gửi tiền về, vì thông thường tôi chỉ gửi tiền vào dịp gần tết. Sau khi anh TPB chết, tôi hoàn lại hội hồ sơ này cho chị Hạnh Nhơn, mà chỉ còn giữ 2 hồ sơ thôi. Riêng hai cháu, con tôi, không trực tiếp tham gia như mẹ, nhưng mới đây, khi hai cháu tốt nghiệp luật sư, hai cháu đã hỏi tôi là xin tình nguyện làm Public Defender, đại khái là làm luật sư bào chữa miễn phí, dĩ nhiên tôi OK, và hiện nay hai cháu thường xuyên đến trại giam thăm các thanh thiếu niên nghi can gốc Việt để tìm hiểu tâm tư và hoàn cảnh nào các em bị vướng vào vòng lao lý. Hai cháu cho tôi biết có nhiều hoàn cảnh các em nghi can rất đáng thương, hai cháu dùng mọi tình lý để giúp các em.

- Chắc là hai cháu thấy bố đi lựơm rác, không lựơm cho mình mà để lo cho người khốn cùng thì các cháu noi theo gương bố, đi lựơm “rác” cho những tuổi trẻ vướng vòng lao lý, “cha nào con nấy”, chúc mừng anh.

- Tâm sự cho bạn biết đầu đuôi để bạn khỏi bực mình khi tôi khi tôi đi lựơm lon, nếu mai mốt bạn kiếm được job ở trường học thì nhớ tiếp tay với tôi trong công việc tiếp hơi cho anh em thương phế binh (TPB) của chúng ta hiện đang ngắc ngoải trong địa ngục trần gian. Nhưng nhớ đừng viết linh tinh về việc này, nhiều bạn bè không hiểu lại “bỉu môi” với tôi, cực chẳng đã tôi mới tâm sự cho bạn biết, kinh thánh đã nói: “tay phải làm việc thiện thì đừng cho tay trái biết”.

Tính tôi hay viết lách lăng nhăng, nhưng tôn trọng lời anh Tôn dặn, tôi đã giữ kín việc này lâu rồi, nay đã tới lúc có nhiều lý do mà tôi đành phải bật mí một chuyện bí mật. Tôi vẫn tôn trọng lời anh dặn, không nêu tên thật của anh. Còn việc kinh thánh nói “tay phải làm việc thiện đừng cho tay trái biết” thì đó là chuyện hai ngàn năm về trước, hồi đó chưa có TPB/VNCH, còn ngày nay, các TPB đang chết dần chết mòn nên tôi phải viết câu chuyện “Lão Lựơm Ve Chai” coi như một thí dụ điển hình để chúng ta cùng nhau, không phải làm việc thiện, mà hãy nghĩ đến món nợ của chúng ta đối với các anh kẻo không kịp... Theo tôi biết thì trong năm 2014 đã có 20 anh em thương binh của TQLC đã ra đi, như vậy số TPB của tất cả các đơn vị mà Hội H.O “take care” hẳn là đang nối đuôi nhau để xung phong “lên đồi” không phải ít.

Người TPB trẻ nhất cũng đã 58 rồi, (18+40=58)! Với tuổi đời 58, chúng ta ở hải ngoại sinh sống và thuốc men đầy đủ như thế nào thì ắt sẽ hiểu với điều kiện sinh sống thiếu đủ thứ, thiếu cả một phần thân thể thì các anh ra đi sớm không có chi là ngạc nhiên, điều cần nghĩ đến là nếu chúng ta quá thờ ơ với việc “nợ nẩn dan díu bấy lâu nay” mà chưa thanh toán để “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” thì...!

Lý do nữa mà tôi phải viết bài này vì San Jose, Bắc CA sắp tổ chức Đại Nhạc Hội TPB kỳ 9, viết để tặng các thiện nguyện viên (TNV) và cầu mong các TNV dấn thân hơn nữa trong việc tiếp tay với hội HO. Tôi viết để xin các đồng đội, đồng môn, đồng bào tiếp tay để gửi gói quà cho các anh em TPB tại quê nhà.

Không nhiều thì ít, ít nhất là nếu chúng ta, những cựu quân nhân ở hải ngoại này có uống bia thì cứ uống, nhưng xin giữ lại cái loon nhôm hay vỏ chai, cả hai thứ đó đều rất có ích đối với người lượm ve chai. Nếu các bạn là những nhà “tu”, sau khi tu xong thì để cái loon nhôm dưới đất, co chân lên đạp một cái “rụp”, loon nhôm dẹp lép, gom nó lại, cho vào túi nylon đầu hè, ới một cái là có người pick up, 5-7 cents 1 cái loon chứ ít sao. Năng nhặt chặt bị, gom lại sẽ có một tí quà cho đồng đội bị cụt chân tay, mù con mắt!

Chúng ta uống bia thì cứ uống thoải mái, nhưng xin tặng lại cho anh em TPB cái vỏ chai bia, chúng ta uống Coca Cola thì tặng lại cho anh em TPB cái loon nhôm. Hãy tự cứu anh em TPB của mình trước đã trong khi chờ đợi...

Chờ đợi điều gì?

Gần đây báo chí loan tin hai vị dân cử gốc Việt là Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn, Tiểu Bang CA và Giám Sát Viên Andrew Đỗ, Quận Orange có đưa ra dự luật mà hai vị dân cử này yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho các sĩ quan TPB/VNCH sang định cư tại Hoa Kỳ. Sau khi hai vị họp báo xong là hộp thư của tôi đầy ắp những e-mails từ các bạn TPB trong nước gửi sang hỏi đó là chuyện thực hay hư và chừng nào thì được đi? Đọc e-mails của các bạn làm tôi nhớ lại tâm trạng của mình vào những năm 1985-1990, khi vừa ra tù, đi đâu cũng nghe tin đồn chính phủ HK sẽ đón “tù chính trị” sang Mỹ, cấp cho nhà ở và được trả lương!

Nay “có tin vui trong giờ tuyệt vọng” khiến các bạn tôi hy vọng, nhưng tôi không biết trả lời sao cho các bạn yên tâm như cai tù VC đã nói với chúng tôi: “Các anh cứ yên tâm học tập cải tạo, bao giờ tiến bộ thì sẽ được cho về”.

Thôi thì tôi xin trả lời cho các bạn ta rằng: “chờ dự luật thành luật”.

Trong khi khuên các bạn TPB tại Việt Nam chờ thì tôi đi hỏi một vị dân cử gốc Việt, vị dân cử này giải thích vắn tắt như thế này:

- Chuyện di trú thuộc quyền Liên Bang. Nếu Thượng Nghị Sĩ Nguyễn đệ trình dự luật... lên Thượng Viện (TV) CA cứu xét, nếu được TV chấp thuận thì phải chuyển sang Hạ Viện (HV). Nếu cả TV và HV tiểu bang cùng thuận thì mới chuyển lên Quốc Hội Liên Bang. Nếu lữơng viện Liên Bang đồng thuận thì sẽ chuyển sang Tổng Thống v.v..

Để tìm hiểu xem thủ tục cứu xét và chuyển một dự luật từ viện này sang viện kia có nhanh không, tôi đi tìm một chuyên viên hỏi thăm thì anh PL.. trả lời như sau:

...

Cách đây khoảng 6 tháng, khi cựu bộ trưởng tư pháp Mỹ Eric Holder từ chức, Tổng Thống Obama đề cử bà Loretta Lynch, một người nổi tiếng là làm việc rất công tâm, cũng người da đen, Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ cho vào chương trình nghị sự để phỏng vấn và để chuẩn y hay từ chối, 6 tháng sau, bà Lynch mới được quốc hội chấp thuận sau nhiều lần thúc đẩy từ phe Dân Chủ.

Nước Mỹ cần 6 tháng mới bổ nhậm được một Bộ Trưởng Tư Pháp, chỉ vì phe Cộng Hòa cho rằng bà Lynch có khuynh hướng ủng hộ Tổng Thống Obama trong Immigration Reform.

Thiếu Bộ Trưởng Tư Pháp một thời gian, nước Mỹ vẫn bình chân như vại. Nói như vậy để thấy chuyện mình nôn nóng vì lo nghĩ tới anh em TPB của mình, nhưng không phải việc quan trọng của Mỹ.

Trước kia Tổng Thống Reagan muốn mang những quân nhân VNCH sang Mỹ theo một chính sách nào đó, nhưng chỉ tới khoảng năm 1988, hay 89 mới có tên gọi cho chương trình HO. Nghĩa là người tù của VNCH cũng phải chịu tối thiểu từ 3 tới 17 năm trong cái mà VC gọi là trại “cải tạo”, thời gian đủ để nghiền ngẫm cho tình đồng minh.

Nếu một dự luật của một dân cử Tiểu Bang, cho dù vị dân cử này có nhiều Lobby thế nào đi nữa, cũng cần một thời gian để được đưa vào nghị trình của Quốc Hội Tiểu Bang, nghe điều trần về mục đich, đối tượng của dự án…. sau khi nghe, thảo luận, bỏ phiếu, có hay không được đi tiếp lên Quốc Hội Liên Bang và chờ đó để lại bắt đầu từ cây số số 0.

California là thành trì của đảng Dân Chủ, giống như M***achusetts. Cali là tiểu bang giàu trong quá khứ, nhưng hiện nay, có nhiều vấn đề về kinh tế, nạn khan hiếm nước trầm trọng, một tiểu bang nhiều người chờ trợ cấp của chính phủ, tất nhiên Dân Biểu và TNS Cali phải lo vấn đề cấp bách tại Mỹ trước tiên và rất cấp bách.

Tóm lại, chuyện TNS Nguyễn tại Cali đưa ra cũng giống như trái cây, mứt kẹo ngày tết, bầy ra cho vui, chụp hình chụp ảnh, nhưng dù sao cũng là một ý tốt của bà, nhưng biết đến bao giờ dự luật của bà được trình làng tại Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ.

Đừng bao giờ nói “không bao giờ, never say never”.
...

Vậy thì các bạn TPB của tôi ờ VN cứ chờ và hy vọng. Còn chúng ta ở đây, đừng chờ mà hãy bắt tay ngay vào việc “save lon nhôm” và tích cực yểm trợ cho đại nhạc hội Cám Ơn Anh TPB kỳ 9 tổ chức tại San Jose Bắc CA vào tháng 8/2019.


Philato
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.611 seconds.