Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Nov/2018 lúc 7:05am

Tình phụ 

Image%20result%20for%20beautiful%20viet%20namgai%20hue

Chuyện chú Ngọ gò o Mận cả xóm Bói đều biết, chỉ có mạ o là không hay. Mụ Bốn vui trong bụng khi thấy o Mận dạo ni làm siêng tối tối ra cắm ba cây nhang ở bàn thờ ông Thiên đầu cổng. Mụ nghĩ thầm “ Hắn còn nhỏ mà đã có lòng thờ phượng thì cũng mừng. Rồi trời phật phù hộ độ trì cho hắn “.
Bữa nọ dậy sớm, mụ Bốn xách chổi ra quét cổng ngõ. Mụ hầm hầm chưởi vang “Mệ nội đứa mô vặt hết đám chè tàu của tau trụi lủi”.  O Mận tái mặt kéo tay mụ “Thôi mạ ơi! Tụi con nít hái chơi làm đồ hàng đó mà. Mạ chưởi chi cho mất lòng hàng xóm”.

Khi hàng chè tàu đã lên những chồi non xanh biếc; khi bốn bàn tay của chú Ngọ và o Mận ý tứ không dùng để bứt lá thì mụ Bốn bắt đầu nhận ra những tín hiệu lạ từ con gái. O Mận xanh lét, cái cổ ngẳng ra, lông mày dựng đứng. O dấm dúi lặt những trái chanh non nhỏ xíu sau vườn chấm muối nhai rau ráu. Mụ Bốn thả cái mẹt gạo xuống nền nhà, nắm tóc o Mận kéo vào buồng, vạch áo ra. Trên bộ ngực thanh tân, hai cái núm vú đã chuyển màu nâu sẫm.
Mụ Bốn ngồi bệt xuống đất, thở không ra hơi . “Mi…mi…cái đồ thúi tha, rượng đực.Thằng mô…Thằng mô…Trời ui là trời…”Tóc o Mận rối bù đổ xuống vạt áo đứt nút. O khóc “Con lạy mạ…con xin mạ…Để con bảo eng đi đám hỏi”.

Nhưng cái đám hỏi mà o Mận hy vọng đã không diễn ra. Nhà Ôn Xạ chê mụ Bốn nghèo, con gái mà hư thân mất nết. Biết đó có phải là con thằng Ngọ không hay “Con ai đem bỏ chùa này?” Mụ Xạ ra chợ gia binh trên Cầu Lòn quệt hai ngón tay quanh cái miệng đầy cốt trầu “Tui không làm cao dưng mà nhà nớ khôn bì được.Tui không bưng trầu cau đi hỏi con gái hư.Thời tui lấy dôn, ôn Xạ phải nằm dưới đất một tuần. Có mô như con gái thời ni “Bạ mô là dà, ngã mô là chờng” (Chỗ nào cũng là nhà, nằm đâu cũng là giường).
Dù bị mạ nhốt trong buồng nhưng o Mận cũng tìm cách gặp được chú Ngọ một lần. O chảy nước mắt hỏi “Eng còn thương tui không?” Chú Ngọ chắt lưỡi “Em cứ hỏi chi như con nít năm tuổi, thương chớ răng không thương!”.Chú Ngọ không biết rằng khi lo âu, người ta cứ muốn nghe mãi những câu khẳng định, những câu làm cho người nhận cảm thấy an tâm. Câu trả lời của chú trớt quớt như tránh né. Chú chán rồi chăng? Không biết. Chỉ biết rằng tháng sau chú tình nguyện đi lính như bài hát đang oang oang trên đài phát thanh chi khu Mai Lĩnh “Đi quân dịch là thương nòi giống”.

O Mận biết tin chú Ngọ bỏ nhà đi qua ba dòng chữ chú nhờ thằng Tí Em dấm dúi. Xưa nay trong xóm Bói, chú Ngọ nức tiếng “miệng dẻo như kẹo kéo”. Trên đầu giường của gã con trai trình độ lớp đệ lục Trường Tư Thục Thánh Tâm này là một đống tiểu thuyết của bà Tùng Long, Trọng Nguyên, Nghiêm Lệ Quân…Mấy dòng chữ chú viết cho o Mận y hệt thư của chàng công tử Triệu Vỹ viết cho cô gái Mỹ Lan trong tiểu thuyết Bên dòng sông Trẹm của nhà văn Dương Hà “Em đừng trách anh. Chúng mình có duyên mà không có nợ. Anh còn trách nhiệm đối với giang sơn tổ quốc. Mình hẹn nhau kiếp sau”. Ui trời, nếu ông tổng thống Thiệu nghe được, chắc tên chú Ngọ sẽ được lên nhật trình.

O Mận trợn trắng con mắt, đấm ba cái bịch bịch vào bụng, cười khanh khách, xé lá thư của chú Ngọ làm hàng chục mảnh nhỏ tung lên trời. O bỏ ăn, nằm bệt trong xó buồng tối, khi khóc tru tru, khi cười ngô nghê.

Bây giờ thì mụ Bốn lo lắng. Mạ nào mà chẳng thương con. Huống chi xưa nay o Mận không phải là thứ gái lẳng lơ. Ôn Bốn chết sớm, mụ ở vậy nuôi đứa con gái độc nhất, nhà có nghèo nhưng đâu đến nỗi con cái hoang đàng. “Con ơi, con ăn một chút cho mạ nhờ. Thôi thì “con dại có cháu ngoại bồng”. Mạ không la con nữa mô”.

Mụ Bốn cúi mặt lầm lũi đi chợ bán hàng, mặc kệ thiên hạ chỉ chỏ bàn tán. Được bao nhiêu tiền, mụ mua cá giếc nấu rau răm cho o Mận ăn hạ hỏa. Mụ lùng kiếm cho được cá bóng thệ kho khô để o ăn cháo gạo hẻo rằn. Mụ còn dấm dúi rút trong số tiền để dành hậu thân hậu thổ ra ngoài chợ Tỉnh vào tiệm Đức Thọ Đường bổ cho con mười thang thuốc Bắc.
Không hiểu nhờ thầy thuốc mát tay hay vì lòng thương mạ mà dần dần bệnh tình o Mận thuyên giảm. O đã ra được đầu hè ngồi phơi nắng cho mụ Bốn rẽ tóc bắt chí, cái bụng thè lè như con ểnh ương. Mái tóc đẹp nhất xóm bây giờ xơ xác, lởm chởm như trải qua cơn bệnh thương hàn. Làn da xanh và mỏng, nắng soi qua được. Không ai còn thấy nụ cười o Mận.

*
Bà mụ Thơm loan báo o Mận đẻ được một thằng cu “cái mặt y chang thằng cha Ngọ”. Tràng hoa quấn cổ. Đập vào mông ba cái mới khóc oe oe. Thằng này chắc sau làm lớn lắm đây. Xóm Bói lại có một đề tài sốt dẻo cho mấy mụ đàn bà vô công rỗi nghề bàn tán. Quán nước chè của mụ Tươi bỗng dưng đắt hàng, chiều mô cũng có người ghé đến ngồi chuyện trò râm ran.

Mụ Xạ lảng vảng nghe ngóng, thăm dò. Đàn bà thường hay quên. Mụ Xạ cũng quên tuốt những lời chửi mắng o Mận của mình trước đây. Dù răng chú Ngọ cũng là con trai duy nhất trong bầy con sáu đứa, hủ mắm treo đầu giàn. Mụ về thì thầm với ôn Xạ “Hay mình qua nhìn cháu? Hắn đi trận mạc lỡ có chuyện chi thì còn có thằng đội mũ mấn”. Ôn Xạ gạt phắt “Kì ni thằng Ngọ về phép, cưới cho hắn con vợ thì có cháu ngay. Mắc chi mụ lo”. Mụ Xạ tần ngần nhưng sợ chồng nên cũng im re. Thi thoảng có việc ra cánh đồng Long Hưng, ngang nhà o Mận, mụ che nón nhưng mắt len lén dòm vào coi có gặp ai bồng thằng cháu không.

Thằng con o Mận, nhờ trời thương nhà nghèo, ăn ngủ ngoan như con cun cút. Căn nhà tranh trong khu vườn chuối im ắng, không hề nghe tiếng à ơi. O Mận ru con bằng những lời thầm thì trong cổ họng. Lắng nghe kỹ loáng thoáng mấy câu:
Eng nói với tui
         như rìu chém xuống đá
         Như rựa chém xuống đất
         Như mật rót vào tai
         Bây chừ eng đã nghe ai
         Bỏ tui giữa chốn non Đoài khổ chưa
Mệ Thơm hàng xóm qua chơi thì ít, dòm ngó thì nhiều. Mệ chép miệng “Thôi, cho cháu về dòm ông bà nội đi. Có ghét chi thì cũng là cháu đích tôn”. Mụ Bốn dài môi “ Đích tôn thừa trọng, đứt họng lòi da. Bước vô nhà ni, tui chém chết”.
Ông Trưởng ấp vô giục giã làm giấy khai sinh. O Mận chỉ hé răng nói một câu “Mạ Lê Thị Mận. Con là Lê Hận. Rứa thôi!”
*
Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò… thằng cu Hận lớn nhanh như thổi. Mới đó đã chập chững biết đi. Rồi cũng phải nghĩ đến chuyện làm ăn. Nhà một mạ một con, mụ Bốn mỗi ngày một yếu.
Sau ba đêm bàn bạc, mụ Bốn nhờ chú Hoạt làm một cái quán tranh gần Ngã ba Long Hưng, cất nhờ trên đất ông Bá bà con xa, cạnh lò gạch Trương Kế. Quán bán mấy chai bia con cọp, vài chai xá xị, dăm ba thẩu kẹo bánh. Buổi sáng thì có thêm bó rau, trái cà trái mướp của mấy nhà trong xóm.

Rứa mà quán đông khách mới lạ.Trước hết là mấy mụ đàn bà. Ghé quán làm chi? Để coi thằng Hận có giống chú Ngọ không? Để coi mặt mày o Mận bữa ni ra răng? Mà chả lẽ đi không. Thôi thì mua bó rau, củ hành cho có chuyện mà trạo.
Thứ hai nữa là mấy chú lính Địa Thiên Lôi ở trạm gác Long Hưng. Ngồi lâu cũng mệt, ghé quán làm ly bia giải khát, ngó cô bán quán cũng hay.

Thứ ba nữa, đúng như lời ông cha nói: “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ”. Sau gần cả năm ở biệt trong nhà, o Mận đẹp ra. Da trắng, tóc xanh, ánh mắt xa xăm và không hề cười dù người khác kể chuyện tiếu lâm. Tất cả làm o thêm phần bí ẩn.
Chi khu Mai Lĩnh thành lập, hàng o Mận tự dưng có nhiều khách mà đông nhứt là lính. Không chỉ lính Địa phương quân mà còn là lính của Trung đoàn I, lính Tiểu đoàn 11 Pháo binh … Thời buổi chiến tranh, đời lính sống nay chết mai, sau những cuộc hành quân trở về hậu cứ , họ cần nhìn người nữ cho đời thêm tươi, để có chuyện mà kể khi ôm súng nơi tiền đồn. Không với được gái tiểu thư thì ra quán ngắm gái một con cũng đặng. Dù cô chủ không cười với một ai nhưng ánh mắt của cô cũng làm mát lòng chiến sỹ. Vậy là mụ Bốn nghỉ chợ búa, quanh quẩn trong nhà, mọi chuyện giao cho o Mận.Trước không giữ được, chừ còn cái chi mà giữ! Quán cứ đắt và o Mận cứ lạnh lùng…

*
“Chú Ngọ về!”.Thằng Tí em vừa chạy vừa la. Mụ Xạ bỏ dở con dao xắt chuối, lạch bạch chạy ra. Ông Xạ đang ngồi kéo thuốc lào cũng lật đật gác điếu. Xóm Bói đổ vội ra dòm.

Chú Ngọ mặc bộ áo quần nhà binh còn mới, cái loong binh nhất trên vai, ba lô sau lưng. Gặp ai chú cũng cười, hàm răng nổi bật trên khuôn mặt đen như ảnh ông Chà Và ngoài ống kem Hynos. Nhà ông Xạ chật ních người. Chú Ngọ ra đi có thư từ chi mô. Đông nhất là lũ con nít đứng chắp tay ngơ ngáo dòm, rồi mấy mụ đàn bà. Lại đàn bà xóm Bói! Họ chờ coi nhà ông mụ Xạ nói chuyện chi.

Nhưng đúng là nhà ông Xạ! Chú Ngọ thay áo quần xách gàu ra giếng; Ông Xạ tiếp tục cử thuốc lào; Mụ Xạ đi nhốt con gà tơ chuẩn bị nấu cháo. Không ai nói gì. Đám con nít thấy không có chi hấp dẫn bỏ về trước. Mấy mụ đàn bà cũng tẽn tò rút lui.

Đêm hôm đó, sau khi lai rai ba xị đế với cái giò gà, chú Ngọ nằm dài thoải mái trên bộ ván ngựa nghe Út Trà Ôn ca vọng cổ bài Tình anh bán chiếu. Dọn dẹp xong, mụ Xạ lại gần con trai hạ giọng:
– Hắn đẻ rồi mi!
Chú Ngọ hỏi: -Mạ nói ai?
Mụ Xạ chắt lưỡi: -Thì con nớ, con Mận đó.
Chú Ngọ bắt tréo chân: -Tưởng chuyện chi! Đẻ thì đẻ chớ. Lâu quá rồi mà…
Mụ Xạ thì thầm: -Con trai mi nờ!
Chú Ngọ tỉnh bơ: -Mạ muốn cháu à. Tui cho một đống. Tui có bồ rồi. Gái Sè gòng đàng hoàng. Gái nhà quê ni kiếm mô chẳng được.
Phía bên tê giường, ôn Xạ tằng hắng : -Sáng mai, hai mạ con qua bên nớ thảy cho nó mấy ngàn bạc đem thằng cu về.
Chú Ngọ quay mặt vô vách ngáy. Mụ Xạ loay hoay trong buồng với cái rương bằng gỗ lim.

*
Mụ Bốn đang cho thằng Hận ăn trên hè. Thằng bé bước lẫm chẫm trên nền đất nện, lâu lâu vấp ngã lại cố đứng dậy cười sằng sặc. Cái thằng được cả nết ăn lẫn nết ngủ, có vậy o Mận mới thay mụ gánh vác cả gia đình. Chiều ni o mua được mớ cá tươi, lúi húi kho dưới bếp, mùi thơm lan tỏa trong nhập nhoạng buổi chiều.

Có bóng người đi vào sân. Con chó vện nằm dưới gốc bưởi gầm gừ. Mụ Bốn lấy tay che trán dòm ra. Ai tới chơi cữ ni?
Mụ Xạ đặt chiếc nón dưới mái hiên, chiếc nón như một phương cách cho mụ trốn lánh ánh mắt hàng xóm. Ấy thế mà chú Ngọ thản nhiên huýt sáo đi nghênh ngang đằng sau. Mụ Xạ cất tiếng: – Chào ả!
Bây giờ thì mụ Bốn đã nhận ra. A, nhà cái thằng đã làm cho mạ con mụ khốn khổ. Mụ mát mẻ: – Mụ tới chơi hay có chuyện chi? Nhà ni nghèo mô xứng.
Mụ Xạ dòm thằng bé. Ui chao. Giỏ nhà ai quai nhà nấy. Cái mặt ấy đích thực là mặt thằng Ngọ thời nhỏ. Cũng con mắt to, cái mũi hơi gồ…Mụ mê man. Phải chi được hun nó một chặp. Mụ kéo tay chú Ngọ:
Tui đưa cháu tới xin lỗi ả và con Mận…
Mụ Bốn xốc cháu lên: – Lỗi phải chi mà xin!
Chú Ngọ tự tin bước vào nhà ngồi xuống cái chõng tre. Chú biết o Mận yêu chú lắm lắm. Ở hàng chè tàu ngoài kia o đã từng cắt cho chú một lọn tóc thề nguyền. Không biết chú vất chỗ nào rồi. Chẳng nhớ. Mục đích chú đến đây cũng chỉ vì thằng cu. Đem được nó về nhà là tốt cho ông mệ già. Còn chú, trai giang hồ, thiếu chi.  Cỡ như o Mận, gái nhà quê, nước gì!

Mụ Bốn tay run run thắp ngọn đèn dầu.Thiệt sự trong tâm mụ, nếu như nhà ôn mụ Xạ biết lỗi đưa hai mạ con về thì mụ cũng cam tâm. Lòng mụ khi nào cũng thương con. Mong hai mạ con nó yên lành thì mụ cũng yên tâm nhắm mắt.
Mụ Xạ thân mật : – Thôi đèn đuốc mà chi. Ả ngồi tui nói chuyện…
Chú Ngọ tay ngoắc ngoắc thằng bé, dứ dứ gói bánh trong túi. Mụ Bốn kéo cháu vào lòng: – Có chuyện chi mụ cứ nói.
Mụ Xạ tằng hắng: –  Hôm ni chúng tui qua đây nói chuyện với mụ. Con cháu ai mà không thương. Dù răng đây cũng là hột máu của nhà tui. Mọi chuyện dĩ lỡ rồi.Thôi, xin mụ cho cha hắn nhận con, cấy dôn tui nhận cháu…
Mụ Bốn ngớ người ra. Nhận cháu thôi à! Mụ có lãng tai không? Té ra tui nuôi công cốc cho mấy người a? Té ra con tui đẻ cháu ra cho không mụ a?
Như để tăng sức mạnh cho câu nói của mình, mụ Xạ rút trong bọc ra gói ni lông cột chặt: – Tui cũng bù chì cho mụ chút ít, cho con Mận chút vốn đi lấy chồng…

Từ dưới nhà bếp, o Mận chạy vụt lên. Không ai nhận ra người con gái hiền lành của xóm Bói nữa. Mắt o long sòng sọc, mặt đỏ gay:
Mấy người định cướp con tui đi à? Đồ khốn nạn!
O chỉ tay vào mặt chú Ngọ: – Thứ điếm đàng! Đồ sở khanh!
Chú Ngọ chụp lấy tay o Mận. O giật ra: -Đừng đụng vào người tui.
O Mận đùng đùng chạy xuống bếp. Người ta nghe tiếng dao liếc xoèn xoẹt vào đít chén. O định làm chi? Chém chú Ngọ hay răng? O lại chạy lên.Trời đất ! O kê ngón tay trỏ vào cạnh bàn, chém cái bụp. Lóng tay đứt rời ra, bay xuống đất. O Mận, giọng run rẩy, căm giận : – Cút xéo! Lời nguyền của tui đó.

Mụ Xạ đứng bật dậy, chụp mớ tiền trên mặt bàn vội vã bước ra. Chú Ngọ cũng theo bén gót. Gói bánh rơi xuống đất. Con chó vện chạy lại táp vội. Tiếng thằng  cu con khóc thét…

*
Trong số người hay ghé quán o Mận có chú Phê, tài xế thiếu tá Thông,Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 Pháo Binh đóng ở trại Nguyễn Văn Thoại, đường lên La Vang. Chú Phê người cùng làng Diên Thạnh, huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa với thiếu tá Thông. Lúc còn nhỏ, có lần thằng Phê đã cứu một thằng nhóc khác xém chết đuối dưới cầu Hà Dừa. Thằng nhóc đó chính là ông thiếu tá hiện tại.

Cuộc đời đưa đẩy, chú Phê gặp lại ông Thông lúc ông còn làm sỹ quan Đề lô cho đại đội 4, tiểu đoàn 3 thuộc Sư đoàn 22. Cảm cái ơn  cứu tử, đi đâu thiếu úy Thông cũng dắt dìu chú binh nhì này. Ông đổi từ Nam ra Trung, từ sỹ quan tác xạ qua Pháo đội trưởng, từ ban III lên Tiểu đoàn phó cho đến khi ra vùng địa đầu hỏa tuyến với chức Tiểu đoàn trưởng. Và chú Phê theo “ông thầy” như bóng với hình. Chỉ có chú Phê mới biết ông thiếu tá thích ăn cơm cháy với tóp mỡ, thích uống cà phê không đường pha thật đậm. Áo quần của ông thiếu tá, ngoại trừ bộ đồ treillis phải  ra tiệm hồ cứng thì tất cả đều do tay chú Phê giặt giũ. Có thể nói chú vừa là tài xế, vừa là quản gia, vừa là đầu bếp cho ông thầy.

Lo cho ông thiếu tá, chú Phê quên luôn cả bản thân. Quay đi quay lại, chú đã hơn ba mươi đeo loong trung sỹ mà vẫn chưa có mảnh tình vắt vai. Ông thiếu tá có nhắc thì chú gãi tai cười hì hì nhe cái răng vàng bên khóe miệng. Ấy thế mà dạo này chú hay ghé quán o Mận mới kỳ.

Mọi chuyện cũng có nguyên do. Cô người yêu  của ông thiếu tá thích ăn ổi mà bữa đó đi ngang quán, chú Phê thấy có mớ ổi thật ngon. Muốn ông thầy “lấy điểm” với nàng, chú Phê thắng xe mua hết rổ. Trong khi chờ o Mận tìm cái bịch ni lông, chú Phê bồng thằng cu cho nó bấm còi chiếc Jeep “tin tin”.Thằng bé khoái chí cười tít mắt và khi chú Phê lái xe đi thì nó khóc òa. Đã từng nghe câu chuyện của cô chủ quán nên trái tim nhân ái của người đàn ông chơn chất này thấy tội. Và từ đó mỗi khi chở ông Thiếu tá về hậu cứ Tiểu đoàn thì chú Phê lại ghé quán cho thằng cu ngồi trên cái ghế bác tài bóp còi thoải mái. Chú không ba lơn ba cợt như mấy tay tới tán o Mận; chú cũng không ra dáng ta đây lái xe Jeep. Chú lấy thùng gỗ pháo binh đóng cho o Mận mấy cái ghế đẩu, làm cho thằng cu con ngựa phi nhong nhong, lại chịu khó xuống dưới pháo đội tác xạ xin tấm bạt che mưa tạt bên hông quán. O Mận pha cho ly nước chú cũng chỉ nhe răng cười thay lời cám ơn.

Một bữa nọ, khi lái xe chở ông thầy vô Huế họp ở Bộ tư lệnh tiền phương Sư Đoàn I, chú Phê ghé chợ Đông Ba mua chiếc nón bài thơ có cái quai màu tím, lại mua thêm một chiếc xe nhựa .Tất cả được gói ghém cẩn thận bỏ phía sau xe. Thiếu tá Thông trợn mắt: – Mày mua cho ai đây Phê?
Chú Phê gãi tai, đỏ mặt: – Người ta gởi…Thiếu tá.
-A, thằng này ngon hơn cả tao. Bộ có bồ rồi hả?
-Chưa thiếu tá, đang ở giai đoạn dò dẫm.
-Tác xạ nhanh cho tao.Tiểu đoàn vừa nhận thêm mấy khẩu pháo 155 ly. Đừng làm mất mặt dân Pháo binh nghe mậy.
Hai thầy trò cùng cười sảng khoái.

*
Mưa dầm thấm lâu.Từ  những chăm nom lo lắng chân tình của chú Phê với cái quán, với thằng Hận, o Mận không còn có thái độ lạnh lùng. O chưa cười với chú nhưng thái độ có khác  so với người ta. O nhẹ nhàng cám ơn khi chú cho thằng Cu gói kẹo, chở cho mụ Bốn mấy bó củi chụm bếp. O dư biết chú Phê thương mình nhưng o như con chim sợ cành cây cong. Hơn nữa, chú Phê quê quán xa xôi quá, biết người ta thiệt hay giả.

Rồi có ai đoán được chữ ngờ. Buổi sáng trước khi dọn quán, o Mận nghe mụ Bốn than đau đầu, mặt đỏ ửng. O định nghỉ bán nhưng mụ Bốn sợ ở nhà thì mấy nải chuối chín hư nên xua tay quầy quậy “Đi đi. Có chi mô. Chút mạ hái nắm lá diếp cá giã đắp đầu hết liền”.
Buổi trưa o Mận nhờ người  giữ quán  rồi chạy về coi mạ ra răng và lấy chén cơm cho thằng cu thì thấy nhà im ắng. O vô buồng thấy mụ Bốn trùm chăn nằm trên chõng. O lay lay “mạ ơi, mạ ơi” thì thấy người  mụ lạnh ngắt. Hỡi ôi, mụ chết tự lúc nào! Cái đó người nhà quê gọi là trúng gió.

Đám tang mụ Bốn là cơ hội để chú Phê cho o Mận thấy tấm chân tình của mình. O Mận chân yếu tay mềm, thờ thẫn như người mất hồn, người ta kêu chi làm nấy. Chú Phê nhờ mấy tay trong  đội mai táng tiểu đoàn tẩm liệm, thiếu tá Thông thương thằng đệ tử cho mượn thêm hai chiếc xe Dodge, lại xin cho miếng đất trên nghĩa trang quân đội La Vang gần cái chùa có thầy Tuyên úy kinh kệ. Dòm đi dòm lại trong xóm Bói, đám tang của mụ Bốn  coi bộ đàng hoàng nhất.

Một năm sau, cảm cái nghĩa của chú Phê, ngày giỗ của mụ Bốn là ngày o Mận nhận làm vợ chú. O dẹp quán, đóng cửa nhà, lên trại gia binh tiểu đoàn ở. Một năm nữa, thằng cu có em. Chú Phê nói với o Mận làm lại giấy khai sinh cho thằng cu. Anh là Hân, em là Hạnh, bỏ cái dấu nặng đi. Đừng để cái khai sinh cũ lớn lên nó tủi. O Mận cảm động gật đầu.

Năm 1971, sau trận Hạ Lào, thiếu tá Thông lên trung tá và có sự vụ lệnh đổi về Nha Trang làm Tiếu đoàn trưởng Tiểu đoàn 63 Pháo binh.Thôi thì cũng là một cơ hội để biết quê chồng và cũng giã từ cái xóm Bói làng Thạch Hãn với những đau buồn trong quá khứ, gia đình chú Phê sắp xếp đi theo ông thầy.
Leo lên chiếc máy bay Chinook, từ trung tá Thông cho đến hai vợ chồng chú Phê đều ngậm ngùi. Chỉ có hai thằng cu toét miệng ra cười.

Tháng 4 năm 1975, từ đèo Phượng Hoàng,Trung tá Thông di tản về và kẹt cứng ở Nha Trang. Ông trốn lánh và không ra trình diện chính quyền mới. Chính chú Phê đã tìm mọi cách để đưa ông thầy về Sài gòn. Chú móc nối với người bà con và một đêm tối trời, chú đã đưa trung tá và gia đình lên Chụt xuống ghe. Nửa chừng nghe qua radio chính quyền Sài gòn buông súng họ đi thẳng ra khơi và lên tàu Midway của Mỹ.

*
Tháng Tư, chú Ngọ cũng trở về làng. Nhờ thành phần hạ sĩ quan, chú chỉ phải học tập “đường lối chính sách Cách mạng” trong năm ngày. Nhưng làm gì để ăn đây? Xóm làng tiêu điều xơ xác. Người đi kinh tế mới, người di dân tự do vô Nam. Ông mụ Xạ đã già, ruộng đất thành của Hợp tác xã. Chú Ngọ vác cuốc đi hai ngày rồi về nằm thở dốc. Xưa nay chú là loại ăn bơ làm biếng, đi lính cũng chỉ làm “lính cậu”. Bây chừ làm răng?

Mụ Xạ xưa nay vốn là người nhìn xa trông rộng. Một hôm, mụ nhấm nháy chú Ngọ: “Mạ thấy mi lấy con Lịch coi bộ được đó con”.
-Con Lịch mô mạ?
-Con mụ Thù có ông chồng mới đi tập kết về đó mi.
Chú Ngọ trợn mắt: – Ui! Cái con “Mắt chỉ thiên, mắt ngưỡng địa” đó hả? Cái con mười sáu tuổi còn đái mê thúi hoắc đó hả?
-Mệ nội mi. Hắn thúi mà lí lịch hắn thơm. Mi làm chi được với cái danh “Ngụy”…
Rồi mụ nói như dỗ dành: – Có điện đóm mô mà sợ.Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh con à.Thời ni có cơm ăn là tốt rồi.
Chú Ngọ càu nhàu: -Tui mô mà hạ giá rứa trời!

Nhưng quả thật, lúc đói mới biết giá trị của miếng ăn. Nhà mụ Xạ từ ăn độn chuyển sang ăn sắn lát, rồi bo bo. Đến khi bo bo cũng không có để mà ăn thì chú Ngọ đành lấy cô Lịch thôi. Lấy cô Lịch chú sẽ có cái chức “Đội trưởng”, sẽ có gạo “Tiêu chuẩn” và sẽ chấm mút được chút công điểm của bà con.

Đám cưới của chú tổ chức trong gian nhà kho của Hợp tác xã, có kẹo Hải Hà, có thuốc lá Điện Biên giấy bạc. Mọi người hoan hỉ vì thiếu chất ngọt từ lâu, mỗi người đến dự được phát ba cái kẹo mà ít ai dám ăn, toàn bọc túi để dành. Đi bên cạnh bà vợ xà nẹo cười toe toét, chú Ngọ bỗng dưng nhớ đến nụ cười chúm chím và mái tóc ngát mùi hương nhu của o Mận một thời trong quá khứ…

Quả là o Lịch mắn đẻ. Chỉ trong sáu năm, lần lượt bốn đứa con ra đời. Ngặt một nỗi toàn con gái. Chú Ngọ là con trai một, mụ Xạ đêm ngủ không ngon giấc. Mụ trút nỗi dằn vặt lên o Lịch.Thoạt đầu là những câu bóng gió xa gần. Rồi sau là những câu chạm mặt “Thứ đồ không biết đẻ”. O Lịch cũng không vừa.Ta là gái dòng giống Cách mạng mà. Ngụy như  bên nớ lấy được mừng húm. “Mạ cũng đẻ một bầy vịt trời, nói chi tui.”

Ôn Xạ đã chết, mụ Xạ ngày một già, nói chi lại. Mụ thắp hương cầu khấn trên bàn thờ, ngoài cổng ngõ mặc kệ con dâu chê “dị đoan, không theo đời sống mới”.Thỉnh thoảng trong những giấc ngủ nửa đêm về sáng, khuôn mặt thằng cu con o Mận chập chờn hiện ra. Chao ui cái thằng. Giống cha như đúc…Biết chừ ở mô.
Mấy đứa cháu nội gái hùa theo mạ ăn nói chỏng lỏn, đanh đá. Đôi khi mụ Xạ nhớ lại những câu nói mình rũa xả o Mận. Phải quả báo không trời. Nước mắt mụ ứa ra.

Hợp tác xã làm ăn thua lỗ giải thể. Ông bố vợ Cách mạng đã về hưu không giúp chi được, chú Ngọ đành đi xe đạp thồ. Sáng sáng chú chở gánh hàng của mấy o buôn chuyến lên ga Quảng Trị kiếm đồng bạc.Thời buổi của khôn người khó, thêm mẹ già và mấy cái tàu há mồm, gia cảnh chú càng lúc càng bí bách. Đôi khi chú soi mặt mình vào gương. Chao ơi! Còn đâu thằng Ngọ một thời vang bóng.

Thời gian qua…Mụ Xạ chết vào một buổi chiều mùa đông lạnh lẽo. Gió hun hút trên mái tranh. Mụ  nhìn chú Ngọ  như muốn nói điều chi mà không còn sức. Đôi  môi mụ mấp máy. Chú Ngọ cúi sát người nhưng  nghe không rõ. Đôi tay mụ bắt chuồn chuồn rồi duỗi ra. Người đàn bà uy quyền một thời của xóm Bói…

Rồi sức khỏe chú Ngọ cũng không bì lại với tụi thanh niên trai tráng. O Lịch mở một cái quán nước  cho mấy  đứa nhỏ tập buôn bán. Chú Ngọ ngồi nhà lúi húi  trồng rau sau vườn. Chú kiếm cây chè tàu về trồng hàng rào. Đất Quảng Trị trồng cái chi cũng khó, chỉ có cây chè tàu không ăn được thì mỗi ngày mỗi xanh um…

Hai mươi năm sau ngày qua Mỹ, trung tá Thông mắc bệnh ung thư. Những ngày cuối đời, nguyện vọng của ông là được thiêu xác và đem về rải trên dòng sông Hà Dừa quê hương. Chú Phê lại là người được ủy thác nhiệm vụ này.

Hai đứa nhỏ giờ đã trưởng thành. Thằng Hân có công ăn việc làm ổn định, thằng em đang đại học. Chú Phê bàn với o Mận kết hợp cho chúng nó về thăm Việt Nam, thắp nén nhang cho hai bên nội ngoại. Thôi thì “Đất có tổ, người có tông”, o Mận bằng lòng.

Xóm Bói bây giờ thay đổi quá nhiều. Hai vợ chồng ngơ ngẩn như Từ Thức về trần. Những người xưa đã khuất bóng và phiêu dạt nơi đâu. Ngã ba Long Hưng không còn. Con đường lên La Vang giờ nhìn nhỏ như sợi chỉ. Nhìn quanh toàn những người xa lạ. O  chú cải táng cho mụ Bốn rồi đưa tro cốt vào gửi trong chùa.

Trong khi chờ chồng đi tìm tài xế, o Mận dắt hai con vào một cái quán bên đường. Cái quán nghèo nhưng có hàng chè tàu cắt phẳng phiu thật trông thật đẹp.Thằng em chăm chú nhìn và hỏi thằng anh: -What’s name  ?
Thằng anh lắc đầu: – I don’t know. Let’s ask Mom.
O Mận nói với con: – Cây chè tàu.
Hai đứa cười và nhái lại: – Che tau…che tau…

Không ai biết nép sau cánh cửa tre xập xệ, một người đàn ông đứng lặng. Đó chính là chú Ngọ. Dù thời gian đã quá xa xôi nhưng chú vẫn nhận ra người đàn bà sang trọng kia chính là o Mận, người con gái ngày xưa chú phụ rẫy. Bàn tay trái có một ngón cụt lóng đặt hờ hững trên chiếc xách. Và thằng bé trai với những đường nét thân quen…Trong đầu chú hiện ra hình ảnh người con gái đứng bên hàng rào chè tàu, tay lúng túng bứt những chiếc lá, mắt cười lóng lánh …Rồi một buổi chiều…cây dao…lóng tay…
Xe đã đến. Ba người lên xe. Nụ cười khanh khách của hai đứa con trai vang vọng. Làn bụi mỏng bay theo chiều gió…Tiếng ru con của người hàng xóm cất lên: … À ơi …Vàng mười chê đắt không mua…Đi mua vàng bảy …À ời… thiệt thua trăm đường…à ơi…
Chú Ngọ ôm mặt. Hai dòng nước mắt chảy qua kẽ tay.

Hương Thủy
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 03/Nov/2018 lúc 9:50am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 05/Nov/2018 lúc 12:36pm

Con rạch nhỏ quê mình

blank
Tiểu Tử.
Mầy còn nhớ không ? Hồi tụi mình còn nhỏ, thời tiểu học, có ngày nào mà tụi mình không đùng xuống con rạch trước nhà để tắm. Mầy còn nhớ con rạch đó không? Nó có cái tên cục mịch và quê mùa : rạch " Cồn Cỏ ". Người ta gọi như vậy bởi vì ở phía sông cái có một cái cồn khá lớn - gần như là một cái cù lao - làm tách con rạch ra làm hai nhánh. Có lẽ hồi xưa, trên cồn chỉ có cỏ nên họ gọi là " Cồn Cỏ ", chớ hồi thời tụi mình, trên đó thấy đầy cây cối mà một số là cây ổi " chim ăn " và cây xoài hột. Mầy bỏ xứ ra đi lâu quá, không biết còn nhớ " ổi chim ăn " và xoài hột không ? " Ổi chim ăn " là loại ổi nhỏ bằng trứng chim cút, bên trong toàn hột là hột nên không có ai trồng. Chim hay mổ ăn mấy trái chín, còn tha đi chỗ này chỗ nọ. Hột ổi rớt mọc lên cây, nhà vườn chặt bỏ để lấy đất trồng thứ khác. Còn " xoài hột " thì như tên của nó nói : trái nhỏ bằng nắm tay con nít, bên trong chỉ có cái hột lớn với chút xỉu cơm! Người ta cũng gọi là " xoài mút " bởi vì muốn ăn loại xoài đó phải lựa trái chín muồi, lột võ rồi mút cái hột với lớp cơm mỏng dánh dính chung quanh. Người lớn không ai thèm ăn bởi vì ăn không đã miệng mà mút xong một trái là hai bàn tay dơ hầy ! Chỉ có con nít là khoái ! Cho nên vào mùa xoài - cũng là mùa mưa - khi thấy trời nổi gió, trẻ con thường lội qua cồn để lượm xoài, được trái nào là đứng ngay dưới cây xoài mút lia mút lịa. Tao nhớ có lần mầy với tao cởi quần đội lên đầu rồi lội qua cồn cỏ lượm xoài. Mầy nhớ không ? Mình phải đội quần để quần xà lỏn đừng bị ướt bởi vì tụi mình " lội chó " đầu lòi ra khỏi nước. Mới nút được có mấy trái thì trời mưa ụp xuống làm hai đứa ướt ngoi. Lần đó về nhà tao bị bắt quì gối gần nửa tiếng. Tao tưởng mày là cháu đích tôn của ông Cả, được cưng nhứt nhà không ai dám rớ. Té ra hôm sau đi học, mầy kể lại mầy cũng bị ông nội mầy bắt quì cũng như tao ! Mầy coi ! Cái xã hội của mình hồi đó nó tốt như vậy. Quan quyền hay dân dã gì cũng dạy con dạy cháu na ná như nhau hết.

Trở lại với con rạch của tụi mình. Con rạch cong cong quanh quanh chạy tuốt vô xóm chợ, chui qua cây cầu đúc của con lộ cái rồi đi mất hút ra ruộng và rừng tràm. Hai bên bờ rạch là hai con đường đất dùng cho người đi bộ và xe đạp. Nhà cửa cất dài theo hai con đường đất. Mỗi nhà nằm trong một khu vườn đầy cây ăn trái và hoa kiểng. Hai bờ, lâu lâu, được nối với nhau bằng một cây cầu khỉ. Mỗi cây cầu khỉ đều có một cái tên : cầu cây gừa ( vì nó nằm cạnh cây gừa ), cầu cây trôm ( cạnh cây trôm ), cầu bà Sáu Lộc ( nằm trước nhà bà Sáu Lộc, chớ không phải bả dựng cây cầu đó !), cầu ván ( làm bằng hai tấm ván thay vì hai cây tre ) v.v...?Tía tao nói về sau, ông nội mày bỏ tiền ra xây một cây cầu đúc, giúp cho dân chúng đi lại dễ dàng. Mầy nhớ cái cầu đúc nằm ở xóm chợ không ? Đó, cái cầu đó, đó ! Người ta gọi là " cầu ông Cả ". Không biết mầy có biết rằng ông nội mầy hồi đó được dân chúng thương lắm không ? Tía tao nói rằng ổng thôi làm " Cả " từ thời Tây lận, nhưng dân trong vùng vẫn gọi ổng là " ông Cả ". Hồi trào Việt Minh, ông nội của mầy là người chức sắc cũ duy nhứt không bị cho đi " mò tôm ". Để thấy ổng ăn ở có nhơn biết chừng nào.
blank
Nói đến cầu khỉ, tao nhớ hoài chuyện bà Năm Chiện té rạch. Bả té đâu hồi tụi mình chưa sanh. Lớn lên nghe kể lại mà bắt tức cười. Mầy biết không ? Hồi xưa, rạch Cồn Cỏ chỉ có loại cầu khỉ " một cây tre ", trơn trợt khó đi ( Về sau, dân chúng cặp thêm một cây tre như tụi mình đã thấy ) Một hôm bà Năm Chiện đi tới giữa cầu, hụt chân té xuống rạch. Người ta nghe tiếng bà Năm la chói lói : " Bớ làng xóm ! Bớ làng xóm !" Rồi giọng bả bỗng thấp xuống : " Ủa mà cạn!"  Thì ra bả không biết lội, hồi té là la làng kêu cứu, chừng coi lại thấy nước mới tới lưng quần, bả té nhằm nước ròng. Bà con lối xóm nghe la, chạy ra thì thấy bà Năm Chiện lóp ngóp bò lên bờ rạch, miệng cười lỏn lẻn mắc cỡ ! Chuyện này về sau khi tao đi làm việc ở Sàigòn, tao có nghe kể nhiều lần. Họ kể " có bà đó " chớ không nói là bà Năm Chiện, và họ kể như là chuyện tiếu lâm đặt ra để cười chơi. Đâu có ai biết là chuyện tiếu lâm đó xuất xứ từ con rạch Cồn Cỏ của quê mình !
 
Ở làng Nhơn Hoà Cồn Cỏ, trẻ con chia ra thành bọn để đi chơi với nhau. Bọn mình có ba đứa : thằng Đực Nhỏ, mầy, tao. Mầy còn nhớ thằng Đực Nhỏ không ? Cái thằng học dở ẹc, tánh tình thì ngổ ngáo, học chung với tụi mình nhưng lớn hơn tụi mình tới ba tuổi. Vậy mà chơi với bạn, nó tốt vô cùng. Có cái gì ăn nó cũng chia và nó hay bầy đặt trò chơi này trò chơi nọ. Nó lúc nào cũng ra vẻ đàn anh bảo vệ mầy với tao. Nó nói với bọn trẻ khác :" Thằng Cương, thằng Lân là bạn của tao, đứa nào đụng vô là biết !". Mầy có biết nó nói với tao làm sao không ? Nó nói : 
" Thằng Cương hiền khô nhát hít .. Nó là cháu ông Cả chớ tụi xóm Chợ đâu có coi ra gì. Tụi nó không nể nang ai hết, bắt nạt được là tụi nó bắt nạt. Tao phải dằn mặt tụi nó trước như vậy ". Rồi nó nhìn tao :" Còn mầy thì tao khỏi lo ". Nó biết rằng tao cũng không vừa gì !
blank
Không biết mầy còn nhớ vụ bọn mình đi ăn cắp tôm không ? Bọn mình ở xóm Cồn, gần sông cái, nên biết mặt gần hết mấy ông thợ câu. Một bữa nọ thằng Đực Nhỏ hỏi :" Tụi bây muốn ăn tôm nướng không ? ". Tụi mình hỏi lại :" Tôm ở đâu mà nướng ? Mầy câu hả ?". Nó nói :" Muốn ăn thì đi theo tao ". Nó dẫn tụi mình ra ngoài vàm, chỉ tay ra đó :" Tôm cả đống ở ngoải ". Tụi mình nói nó xí gạt nên vừa " xì " một tiếng vừa quay trở vô định về. Nó níu lại : " Thiệt mà ! Ông Hai Sầm câu tôm ổng rộng tôm ngoài đó đó ". Rồi nó giải nghĩa :" Tao thấy ổng đi câu về là ổng thả cái rọ tôm có treo cục đá xuống sông. Cái rọ có sợi dây dính vô khúc củi nổi trên mặt nước để làm dấu. Tụi bây dòm coi ". Nước đang ròng. Cách bờ độ ba thước có khúc củi nhỏ lắc lư lắc lư như muốn trôi mà bị cái gì rị lại phía dưới. Mầy nói :" Tôm của người ta, ăn cắp chúng bắt chết ". Nó cười :" Mình lặn xuống xin mỗi đứa một con ăn chơi. Ăn nhầm gì ? Chừng nào rinh hết cái rọ của ổng mới là ăn cắp chớ !". Ba đứa dợm bước xuống sông để lội ra đó thì tao khựng lại :" Không được ! Phải có một thằng đứng canh. Rủi có người thấy tưởng tụi mình ăn cắp cái rọ thì khổ ". Vậy là mầy được chỉ định đứng canh trên bờ. Tao lại nghĩ lại :" Không được ! Nước ròng chảy mạnh, ba con tôm, tay nào cầm tay nào lội ? ". Thằng Đực Nhỏ " Ờ " rồi ngồi bẹp xuống như cái bong bóng xì. Bỗng nó đứng phắt lên chỉ vào cái quần dài bằng vải đen nó đang mặc :" Tao cột túm ống quần lại, mình bỏ tôm vô quần rồi lội vô !". Rồi nó vừa cười ha hả vừa chạy lại mấy cây chuối hoang gần đó tét mấy sợi dây thân chuối cột ống quần. Mầy nói : " Mẹ ! Coi chừng càng tôm nó kẹp cho thấy bà !". Đực Nhỏ vừa nói vừa ra dấu :" Mình bẻ càng nó !". Tao chen vô :" Ờ? mà còn cái răng cưa trên đầu nó nữa ". Nó dứt khoát :" Thì cũng bẻ luôn !". Vậy là hai đứa tao đùng xuống sông, lội ra khúc củi, mò theo sợi dây lặn xuống. Như đã giao hẹn hồi lội ra, tao lãnh phần bắt tôm, nó lãnh phần bẻ càng bẻ răng cưa rồi " nhốt " vô quần. Đang làm tới con tôm thứ hai thì bỗng thằng Đực Nhỏ trồi lên mặt nước la làng chói lói. Tao hết hồn nắm đầu nó vừa lội vừa kéo vô bờ. Nó vùng vẫy như điên, hất tay tao ra rồi chìm xuống nước. Trên bờ, mầy nhớ không, mầy vừa nhảy đông đổng, vừa la :" Chết cha ! Thằng Đực Nhỏ bị ma da rút rồi ! Chết cha !". Vô tới bờ, tao chưa biết phải làm sao thì thằng Đực Nhỏ trồi đầu lên, mặt mài nhăn nhó, vừa lội vô vừa rên :" Đau thấy mẹ ! Trời ơi ! Rát thấy mẹ !". Chừng nó đứng lên mới thấy cái quần nó tuột xuống hai ống chân, còn hai bên bắp vế của nó thì máu me tùm lum như bị đâm bị cắt. Nó nói như mếu :" Mẹ bà nó ! Mình quên con tôm còn có cái đót giấu ở dưới đuôi nữa ! Nó búng đuôi chém tao đau thấy ba bốn ông Trời ! Tao phải lặn xuống cởi quần cho nó phóng ra sông !". Thằng Đực Nhỏ vừa nói vừa khoát nước rửa máu chừng đó mới thấy cái đùm giữa của nó còn nguyên chỉ bị thương ở đùi. Hú vía ! Thằng Đực Nhỏ sau này đi lính đánh giặc rồi chết trận ở Kontum. Nó chưa vợ chưa con, cũng may cho nó.
Image%20result%20for%20tam%20song

Trở về với con rạch của tụi mình. Trẻ con đi học về là nhảy ùm xuống tắm. Người lớn còn đợi nước lớn mới tắm chớ con nít thì nước lớn nước ròng gì cũng tắm được hết, bởi vì tắm lội là một trò chơi. Nhắc đến vụ tắm rạch, tao còn nhớ tới chuyện này. Chắc, tao nghĩ, mầy cũng còn nhớ. Hôm đó, mầy bận cái quần xà lỏn mới tinh của má mầy vừa may cho. Mầy sợ quần ướt nên cởi quần vắt lên cây gừa, ở truồng nhào xuống lội. Hồi thời tuổi nhỏ, tụi mình tắm ở truồng là thường. Tắm giỡn đã rồi leo lên bờ thì đứa nào đã ăn cắp cái quần mới. Mầy mếu máo khóc, tao phải qua nhà tao lấy cái quần cho mầy mượn mà mặc đi về. Hôm sau đi học, mặt mầy buồn xo. Mầy trật đít ra cho tao coi hai lằn roi đỏ ửng ! Vụ đi tắm mất quần đó, chắc mầy còn nhớ mà ! Cho dù đã mấy chục năm, hai lằn roi đó làm sao quên được ?
 
Vậy mà đã mấy chục năm ! Tụi mình xa lần con rạch Cồn Cỏ từ hồi lên tỉnh học trung học. Rồi xa luôn từ ngày mầy đi Tây, còn với tao thì kể cũng gần như xa luôn từ ngày tao đi lính. Mầy không biết chớ hồi tao đi lính, tao đánh giặc lì lắm. Bạn đồng đội nói tao là :" Thằng Lân ăn pháo, chỗ nào Việt Cộng bắn rát là có nó lăn tới ". Rồi tụi nó đặt cho tao cái hỗn danh " Lân pháo ", hỗn danh này tao mang tới ngày mất nước. Suốt cuộc đời nhà binh của tao, tao đánh giặc không biết bao nhiêu trận, có vào sanh ra tử, có thắng có thua? nhưng không hiểu sao tao chưa hề bị thương một lần ! Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng. Vết thương đó, bây giờ, gần bốn mươi năm sau, vẫn chưa chịu lành. Mầy thấy không ? Kể lại cho mầy nghe mà tao vẫn còn rơm rớm nước mắt.
Image%20result%20for%20tam%20song

Bên vợ tao có cơ sở làm ăn ở Marseille. Nhờ vậy, tao mới qua Pháp theo diện đoàn tụ gia đình bên vợ. Mầy thấy không ? Cuối cùng rồi tao cũng được đi Tây như ai ! Trước khi đi, tao có về thăm Cồn Cỏ. Con rạch nhỏ bây giờ nó rộng huỵch, tại vì ghe thuyền bây giờ toàn chạy máy nên sóng đập lở bờ. Cầu khỉ được thay bằng cầu ván. Cầu Ông Cả gãy hết một chân lòi cốt sắt rỉ sét. Người ta nói hồi mới vô, mấy cha Việt Cộng thách đố nhau bắn chơi ! Cái cồn đã được một ông lớn nào đó chiếm ngụ. Ổng xây bờ kè, xây tường rào kiên cố, phía sông có cầu tàu, nhà thủy tạ, bên trong là nhà lầu kiểu cọ theo điệu Tàu. Bây giờ mầy có về mầy nhìn không ra đâu ! Người cũ chết bớt, đi bớt. Người mới, phần đông là dân cách mạng tụi mình không quen, về cất nhà lầu dài theo rạch. Tao có đến thăm con Huê, cái con nhỏ má lúm đồng tiền học chung với tụi mình đến hết lớp nhứt, đó, rồi về sau nó bán vải ở chợ nhà lồng, có năm đó trong dịp Tết nó tặng mầy một cái mu-soa thêu trước khi mầy đi Tây, mầy nhớ hôn ? Con nhỏ đó, đó! Bây giờ nó vẫn bán vải, vẫn chưa có chồng, coi hơi già hơn tao một chút nhưng vẫn còn có duyên. Nó với tao nhắc không biết bao nhiêu chuyện cũ, để lâu lâu thở dài.? Khi con Huê tiễn tao ra đến cổng, nó đứng ngập ngừng một chút rồi bỗng nói một mạch lè lẹ như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ :" Anh qua bên Tây, có gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh ". Nói rồi nó bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay lên quẹt mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao cách đó khá lâu hồi tao gặp nó bán vải ở chợ An Đông :" Anh Lân biết không ? Chị Huê thương anh Cương từ hồi còn học lớp nhứt lận !". Nó vừa nói vừa cười, tao tưởng nó nói chơi, té ra nó nói thiệt. Tao kể lại chuyện con Huê cho mày nghe, tao biết mày không làm gì được, nhưng tao vẫn kể. Để cho mầy thấy người con gái ở dưới quê mình nó thật thà trung hậu đến mức độ mà khi đã trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là sự tự nhiên. Cũng như, hễ đã là con rạch thì tự nhiên phải có nước lớn nước ròng.
 
Hồi hôm, coi télé chương trình văn nghệ đài TF1, nghe hát bài " Dòng sông tuổi thơ ", tao bỗng nhớ tới con rạch nhỏ quê mình. Rồi tao nhớ mầy Cương ơi ! Bây giờ mầy ở đâu ?
Tiểu Tử.

Truyện này tôi viết theo lời yêu cầu của người kể. Ông đó nói : "Nhờ ông viết lại dùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê 
".


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/Nov/2018 lúc 12:43pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Nov/2018 lúc 9:39am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Nov/2018 lúc 11:13am

Xu Ơi ...

Chiều nay không phải nơi chốn quê nhà,

Không khói bếp, không có mùi rơm ướt,

Sao mắt ai cay, sao lòng thổn thức?

Như phút lìa quê, xa mái tranh nghèo.

Chị Ngâu ăn xong món bún thịt nướng chán chê thỏa thuê còn lại một ít thì không ăn nổi nữa. Chị đẩy những đĩa đồ ăn thừa sang một bên.

Nhà hàng này nổi tiếng với món bún chả Hà Nội của miền Bắc dù nhà hàng ở thành phố Sài Gòn miền Nam.

  Chồng chị, anh Cheng vừa đứng lên đi về phía cuối nhà hàng tìm nhà vệ sinh, chỉ còn hai mẹ con chị trước mặt bàn với bát đĩa, và đồ ăn thừa ngổn ngang. Thằng Vàng của chị mới lên 4 tuổi chỉ nhâm nhi ăn mấy miếng thịt nướng với bún rồi quay ra uống nước ngọt, nhất định không ăn thêm miếng thịt nào nữa…

  Chị cũng nâng ly nước ngọt và bâng quơ nhìn quanh, ánh mắt chị dừng lại nơi hình ảnh 2 người ăn xin ngay bàn khách bên cạnh bàn chị. Một thằng bé và một bà gìa đang túm áo nó như sợ bị bỏ rơi hay đi lạc mất nhau.

  Thằng bé chìa tay xin tiền, thực khách bàn ấy có người móc túi dúi cho nó ít đồng, nhưng thằng bé chưa vội đi, nó nhanh chóng thu gom những đồ ăn thừa trên bàn và đổ vào trong một cái túi ni lông mang sẵn, rồi mới rời khỏi bàn…

  Khi nó quay mặt ra, tim chị bỗng giật thót lên một cảm giác lạ lùng, hình như thằng bé có cái gì rất gần gũi, quen thuộc với chị? Và khi chị cố tìm cách nghiêng người nhìn bà già thì chị thất thần, chị như chợt lên cơn nhức đầu đến quay cuồng chóng mặt.

  Họ đang đi về phía bàn của chị, chị Ngâu hồi hộp, bối rối chỉ sợ anh Cheng về tới, chị vội quay mặt đi hướng khác để 2 người ăn xin này đừng bén mảng đến bàn chị. Nhưng thằng bé đã đứng cạnh chị rồi, tiếng của nó cất lên, van vỉ cầu cạnh:

- Bác ơi, làm ơn làm phước cho cháu xin tiền nuôi bà cháu…

  Không thể không quay mặt lại, chị rùng mình thảng thốt vì gương mặt thân quen của thằng bé, và bà gìa thì đang nhìn thẳng vào mặt chị bằng cái nhìn ngay đơ vô hồn. Chị vừa nhẹ lòng vì thoát nỗi lo ngại vừa thêm thảng thốt vì biết bà đã bị mù.

Chị nhanh chóng mở ví tiền rút ra một nắm không cần đếm bao nhiêu dúi ngay vào bàn tay bé nhỏ của thằng bé và run giọng hỏi :

- Cháu lên mấy?

  Nhận được món tiền hậu hĩ, thằng bé vui mừng hấp tấp xếp lại những tờ giấy bạc và nhét vào túi quần, cẩn thận cài kim băng mà quên chưa trả lời câu hỏi của người khách sộp.

Bà gìa nãy giờ nghiêng tai lắng nghe và trả lời thay cho cháu:

- Cháu nó 8 tuổi..

Chị run run hỏi tiếp:

- Khổ ! mới có 8 tuổi đầu mà phải đi xin ăn, thế …cha mẹ nó đâu ?

Bà gìa lại nghiêng tai lắng nghe và có vẻ không hiểu gì, chị Ngâu tin chắc bà bị lãng tai hơn nữa nhà hàng lại ồn ào tiếng nói cười lẫn tiếng âm nhạc. Chị lập lại câu hỏi chậm rãi hơn, thì bà mới nghe ra:

- Mẹ cháu chết từ lúc nó lên 3 bác ạ, còn bố nó mới chết vì sốt rét rừng nên bà cháu tha nhau về đây…

- Nhà làm gì trên rừng hở bà?

- Đi kinh tế mới ở Lào Cai, được vài năm thì bố nó ngã bệnh sốt rét chết. Hai bà cháu một gìa một trẻ ranh chẳng làm lụng việc ruộng vườn được thì ở đấy làm gì, nhỡ vướng sốt rét lại khổ thôi…

Hình như có người hỏi để được dịp trút nỗi lòng, bà gìa kể lể tiếp:

- Về quê thì ruộng nương nhà cửa không còn, mà chỉ thêm buồn vì cảnh cũ người xưa, nên bà cháu quyết không bao giờ bén mảng về quê, mới vào Nam tha phương cầu thực như thế này..

Chị ái ngại hỏi:

- Hình như mắt bà kém lắm?

- Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa, mắt mờ, tai nghễnh ngãng từ lâu rồi, không có tiền đi bác sĩ khám mắt và thuốc thang, lại khóc nhiều vì thương con thương cháu nên tăm tối mù lòa luôn. Cũng đành cái số…

  Trong lúc bà nó nói chuyện, thằng bé không bỏ phí thì giờ, nó vơ vét những thức ăn thừa đổ vào túi ni lông và gói ghém lại cẩn thận, sợ những thức ăn thơm ngon này sẽ rơi mất. Chỉ chớp mắt, những đĩa bát đã sạch trơn.

Xong nó kéo tay bà nó:

- Đi bà ơi, bàn bên kia có nhiều người lắm…

  Chị Ngâu chưa biết nói sao, muốn níu chân thằng bé lại dù chị không biết phải làm gì hơn trong lúc này thì anh Cheng về đến, nhìn thấy nét mặt chị còn nỗi ngơ ngác anh hỏi:

- Gì thế em?

Chị gượng cười nhìn chồng:

- Có gì đâu anh, hai bà cháu thằng bé ăn xin vừa xin tiền và lấy hết những thức ăn thừa này. Em cảm thấy thương xót cho họ thôi.

Anh dăn dò:

- Lần sau đừng để họ đến gần, đám xin ăn bao giờ cũng bám vào chúng ta để cầu cạnh.

 

   Trưa về nằm nghỉ trong khách sạn sang trọng, giường nệm êm ái, máy lạnh mát mẻ với thằng bé Vàng đang ngủ ngon bên cạnh, chị Ngâu vẫn không chợp mắt cho giấc ngủ trưa được. Anh Cheng đang bận đi họp với đối tác làm ăn.

  Anh Cheng là giám đốc một công ty ở Singapore, làm ăn với vài công ty bên Việt Nam từ nhiều năm nay, nên chuyện về Việt Nam với anh rất thường xuyên. Do nhu cầu công việc và đi lại Việt Nam nhiều lần, ở lại nhiều ngày nên anh Cheng có thể nói tiếng Việt Nam, nhất là từ khi kết hôn với chị Ngâu thì khả năng nói và hiểu tiếng Việt của anh đã hoàn chỉnh hơn.

  Chị Ngâu quay cuồng với những hình ảnh qúa khứ của mấy năm về trước. Ngày ấy chị còn là cô thôn nữ làng Chuông, nhà nghèo nhất nhì trong làng, nhưng chị cũng xinh đẹp nhất nhì trong làng, có nhiều anh con trai để ý chị, nhưng ở tuổi mới lớn, tâm hồn ngây thơ, chị Ngâu chưa biết kén chọn so đo, chị yêu anh Cư người cùng làng và nhà cũng nghèo như nhà chị. Bố anh mất sớm, mẹ anh ở vậy từ thời son trẻ để nuôi con, nên chỉ có anh Cư là thằng con duy nhất, đủ để nối dõi, thờ cúng tổ tiên ông bà.

  Hai mẹ con có hai sào ruộng, ngày làng xã phân chia ruộng đất theo đầu người, mẹ anh góa bụa, nghèo nàn, thân cô thế cô không họ hàng để nương tựa, nhờ vả và không tiền bạc đút lót cho quan làng quan xã, nên mảnh ruộng xấu nhất làng không ai thèm nhận họ đã phân phối cho hai mẹ con.

  Anh Cư có chiếc thuyền con, ngày ngày anh lưới cá bên sông Nhuệ, mẹ anh đem mớ cá ra chợ bán, mua lấy bó rau, bìa đậu hai mẹ con cũng sống qua ngày.

  Thỉnh thoảng chị Ngâu ra gặp anh bên bờ sông ấy để chuyện trò và khi về thể nào anh Cư cũng cho chị mấy con cá sông, có hôm được vài con cá Mè, cá Trắm, hay con cá Chép to, hôm nào ít cũng có mớ cá Mường bé bé bằng ngón tay nhưng tươi rói, chỉ kho được một nồi nhỏ cũng đủ làm chị bồi hồi cảm động. Chị càng yêu anh vì thế.

Chẳng bao lâu họ lấy nhau, đám cưới nhà nghèo chỉ có miếng cau trầu, vài đĩa kẹo uống nước trà cũng gọi là tiệc cưới.

  Chị có thai và đẻ ra một thằng con trai, nhà nghèo qúa, chị âu yếm đặt tên con là thằng Xu cho hợp với gia cảnh nhà chị chỉ có tiền xu, chẳng có tiền bạc của nả gì khác, nhưng thằng Xu của vợ chồng chị thì vô gía, vì chị yêu nó lắm.

Nhà thêm đứa con thêm chi tiêu, và tình yêu ngây thơ năm trước đã thành tình vợ chồng mấy năm đủ va chạm với thực tế.

  Chị Ngâu đã biết lo xa tính tóan, chị thấy dân trong làng đua nhau vào Nam tìm việc làm để đổi đời, cho dù đi ở đợ cũng sướng hơn ở quê làm ruộng, được ăn trắng mặc trơn tại nhà chủ, ra dáng thị thành hẳn ra.

  Chị bàn soạn với anh Cư, muốn hai vợ chồng vào Nam trước, để thằng bé Xu cho bà nội trông, khi nào tạm ổn định thì về quê bán hết nhà cửa ruộng nương để di cư vào miền Nam.

  Nhưng anh Cư không cùng chí hướng với vợ, anh vẫn muốn ở làng quê, an phận đời sống nghèo với một mảnh ruộng, một mái nhà lá đơn sơ và một chiếc thuyền cũ ọp ẹp cũng đủ nuôi cả nhà không chết đói, mà ấm tình làng quê..

  Chị Ngâu nghe tin những người làng ở trong Nam kể về mà sốt cả ruột, vợ chồng cái Thà chỉ một mẹt lòng lợn mỗi buổi chợ mà kiếm khá tiền, anh Bân đi làm phụ xế cho xe tải, chị Pháo làm công cho một cửa hàng bán vật liệu xây dựng..v..v..nghề nào cũng kiếm ra tiền cả…

Chỉ có nhà chị quanh quẩn với ruộng, mà ruộng không mất mùa cũng chẳng đủ ăn, ruộng xấu nên tốn nhiều tiền phân bón, lại tiền thuế má…

Với chiếc thuyền lưới lên vài con cá bé tí và môi sinh càng ngày càng cạn kiệt thì có ngày thuyền cũng phải lìa sông thôi.

  Chị Ngâu càng đốc thúc chồng thì anh Cư càng phản đối, từ bé đến lớn anh chỉ quanh quẩn trong làng nên e ngại không dám bước ra cuộc đời ngoài luỹ tre làng.

  Hai vợ chồng trở nên xung khắc mỗi ngày mỗi nhiều, anh đâm ra uống rượu, rượu vào thì lời ra rồi cãi nhau, hễ chị Ngâu to tiếng thì anh Cư cũng to tiếng hơn và anh đánh vợ. Họ chửi nhau, đánh nhau, có lần, bà mẹ anh Cư can không nổi đã phải chạy ra ủy ban xã nhờ can thiệp kẻo chúng nó giết nhau mất.

Chị Ngâu đã chán cảnh đói nghèo, chị oán hận chồng ngu dốt không biết mở mắt ra theo thời cuộc.

  Một buổi trưa, khi anh Cư còn đang lênh đênh chiếc thuyền trên sông Nhuệ để lưới cá, thì chị Ngâu xuống bếp gặp bà mẹ chồng đang lúi húi đun nấu gì đó, căn bếp đầy khói và mùi rơm ẩm chưa khô làm chị cay cả mắt.

Chị nói:

- Mẹ trông thằng Xu, con về bên mẹ con tí việc….

Bà ngước nhìn con dâu, hiền hòa:

- Ừ, con đi đi, mẹ đang om lại nồi cá kho dưa hôm qua, cũng đủ cho bữa cơm chiều nay.

Rồi bà chép miệng than:

- Rơm còn ướt khói mù mịt cả ra…

Chị tần ngần chưa chịu đi:

- Cháu nó đang ngủ, chốc nữa mẹ nhớ mặc quần cho thằng Xu nhé, nhỡ quên thì chiều xuống lạnh đít nó…

Bà cười âu yếm khi nghĩ đến thằng cháu nội 3 tuổi:

- Mẹ biết rồi, cái thằng hễ ngủ trưa là đái dầm nên cứ phải ngủ truồng thế. Mà từ nhà mình về nhà mẹ con là đầu làng đến cuối làng việc gì con phải dặn dò như đi đâu xa không bằng?

Chị cắp nón và đi ra sân:

- Ấy là con quen mồm dặn thôi…

  Nhưng ngay lúc ấy thì thằng bé Xu hiện ra ở ngưỡng cửa sau gần bếp, nó mới ngủ dậy, mặt còn ngái ngủ, khóc lè nhè. Thằng bé đứng khóc, cái bụng ỏng ưỡn ra nên hai mông nó như teo tóp lại. Thằng bé thấy mẹ cắp nón sắp đi, nó giơ hai tay ra đòi bế và khóc gọi thành tiếng:

- Mẹ…mẹ..

  Tiếng gọi đứt quãng trong tiếng khóc hờn, chị bỗng thấy quặn lòng, định quay lại ôm con, mặc quần cho con rồi ra sao thì ra. Nhưng bà mẹ chồng đã từ trong khói bếp, từ trong mái bếp thấp lè tè chui ra. Bà nựng nịu cháu:

- Xu của bà ngoan nào, ra bà mặc quần rồi bà cho Xu ăn củ khoai lang luộc nhé.

  Nghe bà nói củ khoai, thằng Xu nín khóc, nó quên mẹ, hai mắt nó sáng lên theo bà nó vào bếp. Thế là chị Ngâu nhanh chân bước đi, nếu không chị chẳng còn cơ hội nào mà dứt ra được khỏi thằng Xu nữa.

Chị không về ngôi nhà mẹ chị ở cuối làng, mà chị đi xa hơn. Cuối cùng chị đã lên chuyến xe lửa Bắc Nam, để vào thành phố Sài Gòn.

  Chuyến tàu chiều ấy có người đàn bà rất trẻ ngồi thu lu trong lòng ghế, lòng buồn rười rượi, như người vô hồn chị quay mặt ra khung cửa toa tàu để nhìn cảnh vật đang lùi dần, lùi dần phía sau, có nghĩa là chị càng lúc càng lìa xa quê quán, xa mái gia đình.

  Rồi hình ảnh thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa khóc giơ tay đòi bế hiện ra, chị đau đớn như dao cắt vào thịt da. Nước mắt chị tuôn rơi nhạt nhòa, chị nghẹn ngào kêu lên liên hồi hai tiếng “Xu ơi…”

  Chị chẳng thiết gì đến ăn uống hay nhìn mọi người đồng hành xung quanh, chị cứ khóc cho đến khi mệt mỏi, người chị như lả đi, chị thiếp vào giấc ngủ vẫn thấy thằng Xu của chị đang đứng cởi truồng khóc, giơ tay đòi bế và tiếng gọi “Mẹ..mẹ…” vang lên âm ỉ trong đầu óc chị. Trong giấc mơ chị lại tha thiết gào lên: “Xu ơi…”

  Chị Ngâu vào Nam, lang thang cả ngày ngoài đường phố để tìm việc làm, chị tránh không muốn gặp những người cùng làng vì sự ra đi kiếm cơm của chị như trốn chạy, như một sự lừa dối chồng con và cả bà mẹ chồng nhân hậu.

  Đói khát bơ phờ mất mấy ngày thì chị xin được chân rửa bát trong một nhà hàng, chị đã sung sướng mơ đến ngày dành dụm được khá tiền sẽ về quê thăm thằng Xu, chị sẽ xin lỗi anh Cư và năn nỉ rủ rê chồng chịu vào miền Nam sinh sống lập nghiệp, cả nhà chị lại đâu vào đấy cho lương tâm chị bớt áy náy, bớt cắn rứt vì rời xa đứa con bé bỏng của mình.

  Chị chăm chỉ rửa bát chưa được bao lâu thì bà chủ “thăng chức” cho chị, vì thấy chị vừa trẻ vừa xinh, chị được bà chủ cho mặc quần áo đẹp để làm nhân viên phục vụ nhà hàng, bưng bê đồ ăn thức uống cho khách. Nhờ có những cô phục vụ trẻ đẹp như chị mà nhà hàng giữ chân được nhiều loại khách, dù khách thường hay khách sang .

  Nơi đây chị gặp anh Cheng thường đến ăn uống với bạn bè, mỗi lần Cheng đến là chị Ngâu được bà chủ điều động ra tiếp khách, vì anh Cheng có vẻ mến chị. Dần dần anh Cheng và chị Ngâu biết nhau hơn, thân nhau hơn…

  Một hôm anh mời chị Ngâu tham dự sinh nhật của anh, chỉ có một mình chị Ngâu là khách mời, vì anh không muốn chia sẻ không gian thân tình ấy cho một người khác nữa, ngoài chị. Chị Ngâu đành nhận lời, chị muốn làm vừa lòng bà chủ nhà hàng vì anh Cheng là khách sộp thường xuyên của bà hơn là vì anh.

  Buổi sinh nhật được tổ chức tại phòng khách sạn nơi anh tạm trú, anh hân hoan bên chị và cao hứng uống rượu khá nhiều. Trong cơn say rượu anh Cheng say tình luôn, anh đã thố lộ tình yêu với chị….

  Cảm động và vị nể, chị đã yếu lòng sa ngã, chỉ một lần trao thân đêm ấy mà chị Ngâu mang thai, anh Cheng đã ân cần cầu hôn chị, vì dưới mắt anh cũng như bà chủ nhà hàng chị Ngâu vẫn là một cô gái quê trinh nguyên. Hơn nữa, anh Cheng ngủ với chị trong cơn say thì anh nào phân biệt được gái có chồng hay chưa. Chị trẻ đẹp và thật thà như thế…

  Cha mẹ chị không thể gả con gái lần nữa, họ không thể làm điều bất nghĩa ấy, nhưng thương con gái họ đành vào Sài Gòn gặp con và anh Cheng, đưa ra lý do không muốn gả con xa cho người nước ngoài, nhưng chị Ngâu đã trưởng thành, chị cứ quyết định theo ý của mình.

  Chị Ngâu theo anh Cheng về quê anh, mới biết anh con nhà trung lưu ở Singapore, là giám đốc một công ty và thường xuyên ở Việt Nam vì công việc. Chị sinh ra thằng con trai, nét mặt giống Cheng như hai giọt nước, khỏi cần đi thử máu Cheng cũng thừa biết nó là máu mủ của anh. Cheng đặt tên cho con theo giòng họ anh, nhưng tên ở ngoài chị gọi nó bằng tên Việt Nam, là thằng Vàng giàu sang, ngược lại với thằng Xu một thời nghèo khổ của chị.

Người Hoa qúy con trai, nên thằng Vàng được ông bà nội, cha và cả bên nội cưng qúy như vàng, vì đây là đứa cháu nội đầu tiên của họ. Cheng đem vợ con về sống ở Singapore cho gần bên nội, chỉ thỉnh thoảng Cheng mới đưa vợ con theo chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam .

  Anh Cheng rất yêu vợ, thương con, chị Ngâu như chiếc lá trôi theo giòng đời, một giòng đời êm ái và hoa gấm. Hạnh phúc trong tình yêu của chồng mới, chị đã nguôi ngoai và quên đi hình ảnh anh Cư người chồng cũ, chị đã quên đi bà mẹ chồng nhân hậu, nhưng chị không thể dễ dàng quên đi thằng con nơi chốn quê nghèo tội nghiệp.

  Từ ngày chị bỏ chồng con vào Nam, bố mẹ chị cũng xấu hổ với làng xóm. Bán xới nhà cửa ruộng vườn để về quê mẹ của chị rất xa lập nghiệp, để gĩa từ qúa khứ. Ở làng quê, người ta sống bằng danh dự cần thiết như cơm áo, cha mẹ chị không thể muối mặt ở làng quê mình để nghe tiếng chê bai, bàn ra tán vào và nhất là nhìn cảnh bên thông gia neo đơn trống vắng từ khi chị ra đi không hẹn ngày về.

  Với lý do cha mẹ không hài lòng và lạnh nhạt, chị liên lạc rất ít với cha mẹ, vì muốn giấu diếm tung tích trước kia của chị để bảo vệ hạnh phúc gia đình hiện nay. Lần cuối cùng chị nghe tin từ cha mẹ là anh Cư đã theo vài hộ dân làng đưa mẹ gìa con mọn lên Lào Cai khai hoang kinh tế mới khi ở làng quê cuộc sống anh đã thực sự kiệt quệ. Dòng sông Nhuệ vẫn còn đó, nhưng chiếc thuyền của anh Cư đã quá mục nát, anh không có tiền để sửa chữa, vá víu thêm nữa…

  Từ đó cha mẹ chị không dõi theo tin tức nhà anh Cư nữa, chị và anh Cư đã đường ai nấy đi, thằng Xu là con là cháu họ thì họ phải lo. Cha mẹ chị muốn quên đi cũng như chị đã muốn quên đi.

  Gía mà chị nghe tin anh Cư lấy vợ có lẽ chị sẽ vui hơn, yên tâm hơn. Ít ra trong nhà cũng có một người đàn bà trẻ, gánh vác việc nhà, chăm lo cho anh Cư, còn thằng Xu đã có bà nội yêu thương chăm sóc rồi.

********

  Trưa hôm sau, bằng giờ hôm qua lúc gia đình chị ăn món bún chả thịt nướng, chị dắt thằng Vàng ra nhà hàng ấy trong lúc anh Cheng bận đi công việc.

Chị vào trong gọi vài món ăn cho có lệ rồi chờ đợi, chị luôn nhìn khắp nhà hàng tìm kiếm bóng dáng hai bà cháu thằng ăn xin hôm qua…

  Nhưng chị đợi mãi và cuối cùng thất vọng đi ra ngoài, gặp hai đứa bé ăn xin khác vừa từ trong nhà hàng đi ra, hai đứa khỏang mười hai, mười ba tuổi, chị liền vẫy lại hỏi:

- Này cháu…

Hai thằng bé chạy lại mừng rỡ:

- Dạ, cô Hai cho con xin ít tiền cô Hai…

- Cho con luôn cô Hai, từ sáng tới giờ con đói bụng qúa…

Chị Ngâu ân cần móc tiền ra :

- Cho hai cháu với điều kiện cho cô hỏi thăm một chút được không?

Hai đứa trẻ bụi đời cùng nhanh nhẩu:

- Được chớ, cô hỏi bao lâu cũng được mà…

- Cô cứ hỏi con biết là nói liền cho cô nghe…

- Hôm qua cô ăn trong nhà hàng này, có gặp thằng bé ăn xin đi với bà nó. Các cháu có biết hai bà cháu này không?

Một thằng đáp ngay:

- Cháu biết nè, bà gìa đó bị mù, là bà nội của thằng nhỏ đó.

Chị Ngâu mừng rỡ:

- Đúng rồi, sao hôm nay hai bà cháu không ra đây xin ăn?

Thằng bé còn lại bây giờ mới lên tiếng:

- Tưởng ai, chớ thằng bé với bà gìa đó con cũng biết luôn. Nó bị thanh tóan rồi !!

Chị Ngâu hốt hoảng và ngạc nhiên:

- Thanh toán ? Ai đã làm gì nó?

- Băng đảng nhí đó cô, là cỡ tuổi tụi con. Thằng Bắc Kỳ đó mới vô Nam không có ai giới thiệu mà dám bén mảng tới khu này ăn xin là phạm luật rừng, mấy đứa bụi đời ăn xin trong băng đảng nhí ở đây đã đánh cảnh cáo nó sưng mặt và đuổi nó đi khỏi khu vực nhà hàng này rồi…

Chị tưởng như toàn thân mình sắp qụy xuống, giọng chị nghẹn ngào:

- Giời ơi ! chết thằng bé mất thôi…

Chị cố hỏi thêm:

- Các cháu có biết hai bà cháu hiện giờ ở đâu không?

- Giang hồ mà cô, nó đi đâu ai biết…

- Đương nhiên là đi khỏi vùng này nếu không muốn ăn đòn lần nữa, tơi bời hoa lá cành hơn nữa…Sài Gòn này thiếu gì nơi cho bà cháu nó đến ăn xin, cô hơi đâu mà lo…

Chị lại cố nài nỉ:

- Không thể được, không thể được…các cháu kiếm tìm hai bà cháu nó cho cô đi, mỗi ngày cô sẽ đến đây trả tiền công cho hai cháu để biết tin tức…trong vòng 3 ngày nữa thôi, chỉ 3 ngày nữa thôi…

Nghe đến tiền công, và nhìn vẻ thất vọng khổ đau của người phụ nữ trẻ đẹp sang trọng, hai thằng bé cũng bùi ngùi:

- Dạ…con sẽ kiếm..

- Con sẽ dò la hỏi han mấy đứa bụi khác xem sao…

Hai thằng bé bỏ đi, để mặc chị Ngâu còn đứng ngẩn ngơ với thằng Vàng. Nó ngây thơ ngước mắt lên hỏi mẹ:

- Sao mẹ khóc ??

Chị ngồi thụp xuống ôm con vào lòng và lại khóc nấc lên:

- Xu ơi…

Thằng Vàng vùng vằng nũng nịu:

- Con không tên Xu, con là thằng Vàng mà…

- Ừ, Vàng của mẹ ơi…

  Chị đứng lên cố nhịn khóc để gọi xe taxi về khách sạn, ngày mai bằng giờ này chị lại ra đây, chỉ còn 3 ngày nữa chị sẽ theo chồng về Singapore không biết chị có gặp lại bà cháu thằng Xu không?

  Nếu gặp họ, chị sẽ ôm con thật chặt vào lòng và gọi lên hai tiếng “Xu ơi” như chị đã từng mơ ước và từng gọi thầm trong mấy năm qua. Chị cũng sẽ nói cho bà mẹ chồng biết là chị vẫn còn đây, dù bà đã oán hận chị, xem chị đã chết kể từ ngày chị bỏ chồng con ra đi.

  Chị sẽ qùy xuống chân bà xin tạ tội, xin bà hãy mang thằng Xu về quê mẹ của chị, để thằng bé được thêm sự chăm sóc của tình ruột thịt bên ngoại. Chị sẽ tìm cách gởi tiền về nuôi hai bà cháu….

Chị khao khát ước mơ này như ngày xưa chị đã khao khát ước mơ bỏ làng quê, bỏ họ để ra đi.

  Chị bế thằng Vàng, nó 4 tuổi, hơn tuổi thằng Xu một chút ngày chị rời xa nó. Nhưng hôm nay thằng Vàng trắng trẻo trong bộ quần áo đẹp đắt tiền, chân đi đôi giày xinh, khác với thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa, đi chân đất, cởi truồng lè nhè khóc và giơ tay đòi mẹ bế cùng với tiếng gọi “Mẹ …mẹ..” của nó cách đây 5 năm .

Hôm nay lòng chị cũng dùng dằng, cũng đau đớn như hôm ấy.

Hôm nay không có khói bếp và mùi rơm ẩm ướt như hôm ấy.

Nhưng hai mắt chị vẫn cay xè rồi mờ lệ, trong lòng chị lại nức nở gào lên : “Xu ơi.!”

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

 

 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 08/Nov/2018 lúc 11:15am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Nov/2018 lúc 9:36am

Nội    <<<<<

Truyện ngắn của Tiểu Tử  


Image%20result%20for%20me%20gia


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Nov/2018 lúc 9:41am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Nov/2018 lúc 8:38am

Tiếng Hát Ru Con Trong Đêm Vắng

Tôi về thăm nhà trước sự ngạc nhiên của ba má tôi. ông bà như ngầm hỏi lý do tôi hủy bỏ chuyến du ngoạn mà tôi đã thông báo cho gia đình từ hai tuần trước

   - Con không đi chơi sao lại về nhà? Ba tôi hỏi
   - Dạ con đi ngày hôm qua. Hôm nay chú Khỏe rủ con về vì má của chú bịnh.
Ba tôi lo lắng hỏi thêm:
   - Bà Hương sư bịnh thế nào, ở cùng xóm mà Ba không hay biết gì cả?!
   - Con cũng chưa đến thăm bà, xế chiều trước khi về nhà trọ con sẽ qua thăm nhân tiện  cùng về Vĩnh Long với chú.
Nhà trọ ngoài chú Khỏe và tôi còn thêm hai người nữa: Vinh bạn tôi và Nhơn, cháu chú Khỏe. Tôi gọi Khỏe bằng chú theo thói quen của dân chúng trong làng, ngoại trừ bà con cật ruột, hể ai lớn tuổi thì được gọi là anh, là chị, lớn nữa trên bậc đàn anh thì gọi là chú bác. Mấy vị trưởng thượng thường dạy đám hậu sinh chúng tôi nằm lòng câu: Nhứt tuế vi huynh, tam tuế vi thúc (lớn hơn một tuổi là anh, lớn ba tuổi phải gọi là chú) Chính vì vậy Khỏe được gọi tôn bằng chú, hơn nữa Khỏe học trên tôi tới hai lớp. Tuy thế nhưng em ruột của chú tên Khoắn thì tôi vẫn sử dụng ngôn ngữ mày, tao khi chuyện trò.
 
Hôm qua chúng tôi năm người từ Chợ Lách về tới nhà trọ lối sáu giờ chiều Khỏe nhận được tin má chú bịnh. Chú rủ tôi cùng về quê cho có bạn..Tôi cho biết bánh sau của xe  tôi nổi u nổi nần, sợ bị hư dọc đường. Chú lại khích lệ:
   - Lo gì, hai đứa mình chạy một xe, tao chở mầy.
   - Vậy sáng mai mình cùng đi
Tuy thuộc lớp đàn em nhưng có lẽ chú rất thích tôi, vì tôi sẵn sàng ngồi nghe chú tỉ tê tâm sự, đặc biệt là chuyện tình của chú với chị Lệ, người trọ sát vách nhà chúng tôi mà hôm qua cả đám xuống thăm gia đình chị. Sáng sớm, sau khi nhâm nhi “xây chừng” xong, chúng tôi khởi hành. Dù học trò nghèo kiết xác, nhưng thỉnh thoảng, chúng tôi vẫn xài sang, cà phê, cà pháo như ai chớ bộ. Nếu trong tuần hoặc trong tháng có người nhà của bốn đứa đến thăm, tiếp tế đồ ăn, tụi tôi khỏi tốn tiền chợ, thế là chúng tôi  dư tiền để xài vặt trong những dịp như hôm nay..
 
Xế, khoảng bốn giờ, tôi từ giã gia đình, sang nhà  Khỏe vào thăm bà cụ cho phải phép, kế đó hối thúc chú về nhà trọ sớm lo học bài vở cho tuần lễ mới. Học hành  thì lo ít thôi, nhưng ngại trên  đường về nếu gặp mưa, sẽ không chạy được, tháng nầy mưa gió bất thường. Con đường mang tên quốc lộ, trời nắng thì mịt mù bụi cát, mưa thì chèm nhẹp vì sở Công Chánh, hay còn gọi là Trường Tiền dùng cao su nhân tạo (đổ đất lên và tưới nước) cho xe bớt dằn, mới nhìn mặt đường phẳng phiu đẹp đẽ. Mưa xuống ai di chuyển bằng xe đạp mới thấy vô cùng khổ sở, chạy một đoạn ngắn phải ngừng lại cạy bùn đóng cứng vè xe. Năm trước tôi đi lại mỗi ngày.  Buổi chiều tan học nếu trời đổ mưa, về tới nhà sớm nhứt cũng sáu giờ, người ngợm đầy bùn đất. Ba má trông đứng, trông ngồi, thế rồi bằng mọi giá ông bà bắt tôi phải ở nhà trọ cho ông bà an tâm. Riêng tôi, ngoài cực khổ, còn một chuyện nữa cũng làm tôi sợ sệt vô cùng nhứt là chiều tối phải qua Cầu Đôi và Chòm Da hai địa danh nhiều người khẳng định là gặp ma hiện hình chọc ghẹo. Tin dữ truyền mau, cả đám học trò đi học bằng xe đạp ai ai cũng hơn một lần nghe kể chuyện ma ở đoạn đường nầy.
 
Từ Bà Lang về Vĩnh Long, cách Cầu Đôi vài trăm thước có cây bả đậu, gốc hai người ôm không giáp, vào chiều tối, hoặc sáng sớm thỉnh thoảng xuất hiện một bà lão, miệng luôn rên rỉ, thoát hiện, thoáng mất.. Ai gặp bà thì bị bịnh hoạn, phải van vái cúng kiếng mới khỏi. Người ta kể, một buổi tối cách đây khá lâu, không  ai biết là năm tháng nào, xe nhà binh chở đầy lính Tây, hướng Cần Thơ về Vĩnh Long, đám lính thấy lơ lửng phía trên  ngọn cây bả đậu một cụ bà trang phục toàn đen tay cầm gậy chận xe lại. Dừng xe xong toán lính Tây  không tìm thấy ai, họ lục soát một hồi rồi xả súng bắn tứ tung vào đọt cây. Tuần kế tiếp cây bả đậu bị đốn sát gốc. Dân chúng sống gần đó cho biết nhiều đêm liền họ nghe tiếng oán than, rên rỉ của một bà lão. Cây hiện tại là cây mới mọc sau nầy.
 
 
Đám học sinh chúng tôi ước độ tám chín anh chị học các trường công, tư  ở Vĩnh Long đi về thành đoàn chuyện trò râm ran, vui lắm, nhứt là vào mùa nắng. Toán” ngựa phi đường xa” có cả nam lẫn nữ: nam có anh Hưởng, anh Lộc, Thiện,…bên nữ gồm các chị: Thu, Hoa, Xuân, Mười Ba.. Chị Thu nhà gần Cầu Đôi, cao lêu nghêu, chạy xe đòn dông (đàn bà con gái ít ai chạy xe nầy), chị thuộc dân trường kỳ kháng chiến, dù mưa gió thế nào vẫn phon phon trên chiếc xe đạp. Rồi  một hôm nghe tin chị chết, bạn bè đồn đoán đủ chuyện, nào là chị người Công Giáo, không tin ma quỉ, lại tỏ vẻ xem thường tà ma. Từ đó  nhóm tụi tôi thưa dần, kế đến tôi cũng đào ngũ  và ở trọ, chuyện ma ở Cầu Đôi ngày càng lan rộng trong giới học sinh ngày ngày còng lưng đạp xe đi về trên con lộ này. Khỏe và tôi ghé quán nước bên kia cầu uống đá chanh vì hai đứa vừa được gia đình tiếp tế nên trong túi rủng rỉnh một ít tiền, vả lại chỉ còn có tám cây số nữa thôi, trời còn sớm không có gì phải lo.
 
Trong lúc giải khát, đột nhiên trời nổi mây đen, vài cơn gió mạnh thổi tới. Thím Hai chủ quán nói:
   - Chắc hai đứa mắc mưa, ở đây đụt đợi tạnh hãy về
Chú Khỏe cho biết tạnh mưa bùn dính bánh xe không chạy nổi. Hai đứa quyết định dầm mưa đi về. Bây giờ gió mạnh hơn, hàng sao dọc hai bên lộ, đọt ngả nghiêng, nhánh cây đổ vương vãi đầy đường. Mưa trút nước trắng xóa, không thấy đường chạy. Con lộ vắng tanh không một chiếc xe. (Xe đò ngưng lưu hành từ bốn giờ). Cố gắng chạy một lúc mới thấy chùa Bà Hợi hiện ra. Tôi nói lớn như hét cho Khỏe nghe vì tiếng gào thét của gió, mưa.
   - Sắp đến Cầu Cống rồi, tới đó tôi chạy thay chú.
Trời mưa lạnh nhưng không dám nghỉ. Hai đứa đều có kinh nghiệm về việc đường sá trơn trợt, bùn  đất lầy lội sau cơn mưa. Khỏe vẫn tiếp tục đạp xe, ban đầu nghe tiếng két két ở vè, rồi xe chao đảo không theo lịnh điều khiển nữa. Hai đứa ngừng xuống, tháo cánh chuồn ở hai bánh xe, tìm cây cạy sạch lớp bùn đóng dẻo nhẹo, đem xe quay dưới rạch cho sạch bùn đất. Cứ  chạy độ ba trăm thước phải cạy bùn. Chúng tôi tới cầu Đường Chừa trời tối mịt vì giông mưa, không biết mấy giờ, Chúng tôi rửa xe lần chót vì từ đây tới Ngã Ba Cần Thơ đường tráng nhựa. Sát cầu có  đồn lính, thấy chúng tôi hì hục rửa ráy, một anh lính tỏ vẻ thương hại :
   - Hai em mau lên cho qua khỏi Chòm Da phía trước. Trời chạng vạng, có mưa gió thế nầy, người ta hay bị ma nhát. Anh ở đây lâu ngày anh biết.
Tụi tôi cám ơn anh lính lên xe chạy nốt. Cái điều cấm kỵ của hai đưa là tránh nhắc đến ma khi còn trên đường này.  Cách chỗ anh lính chừng năm trăm thước trên một thửa đất chừng vài mẫu cặp sông Cầu Vồng có khu đất hoang toàn cây da mọc um tùm, nhiều cây có dây tua tủa rũ xuống  tạo thành hình dáng dị kỳ dễ sợ. Dân chúng quen gọi là Chòm Da, xung quanh không cư dân. Hồi còn nhỏ, một lần đi chợ Vãng bằng xuồng với má tôi, tới Đường Chừa bị lính Tây chặn lại đến bốn giờ sáng chúng mới cho ghe xuồng vào tỉnh. Khi có lịnh, mạnh ai nấy bơi, chèo. Qua hãng nước mắm ông giáo Khuê ít trăm thước, tôi nghe tiếng hát, lúc to, lúc nhỏ, giọng hát của người đàn bà ru con trong đêm trăng mờ như sau:
Ầu ơ…ầu ơ …  mẹ ru con ngủ.. (tiếng tức tưởi)  cha con rày bạc ngỡi thì thôi. (lại giọng thổn thức)
Tôi quay hỏi má tôi:
   - Ở đây bộ có nhà sao lại có người hát?
   - Chắc tiếng hát từ xa do gió thổi mang đến
Câu chuyện tới đó, tôi không hỏi nữa, tôi linh cảm có cái gì không ổn. Tự nhiên tôi nghĩ đến ma. Phải, chỉ có ma mới hát vào lúc canh khuya đêm vắng. Cố bơi thật lẹ cho qua chỗ ma quái nầy. Lúc về nhà, tôi lại hỏi má tôi một lần nữa, bà trả lời :
   - Có thể là ma, cũng có thể có ai đó muốn nhát mình. Sự kiện hôm đó cứ đeo đẳng mãi trong đầu óc của tôi. Tôi cư ngụ vùng quê xa thành phố, quanh năm suốt tháng mỗi khi có dịp gặp nhau những người lớn thường bàn về mùa màng, giặc giã, rồi sau cùng kể chuyện ma. Theo lời kể thì ai trong bọn họ, cũng ít nhứt một lần bị ma nhát. Cũng dễ hiểu, vì xung quanh làng vào thời đó còn cây cối rậm rạp, ao hồ, mương vũng khắp nơi..  Trẻ con bịnh thì cho là bị tà, rồi rước thầy pháp, thầy bùa về trị bịnh, chính vì vậy đầu óc mọi người luôn bị ám ảnh bởi ma quỉ
Giờ này, ngang Chòm Da tôi chợt nhớ lại tiếng hát năm nào tôi đã nghe qua. Miên man suy nghĩ, chiếc xe đạp của tụi tôi lủi vào bờ lề, sau vài cú dằn mạnh đụng tới niềng xe. Chú Khỏe nói lớn:
   - Xe xẹp bánh rồi!!
Tôi than nho nhỏ:
   - Đúng là nghèo lại gặp cái eo.
Khỏe và tôi đành dắt xe lội bộ, trời nhá nhen tối, mưa vẫn còn lất phất. Hai đứa vừa mệt, vừa đói, khát vì đẩy xe từ chiều tới giờ.  Chòm Da lù lù trước mặt, dắt xe không đi mau được, bánh sau ẹo qua lại như say rượu. Hai đứa đã sợ mà mắt cứ đăm dăm nhìn vào mấy cây da. Một vài tia chớp ngoằn ngoèo lóe lên, một tia chớp nữa vừa chợt tắt, bất ngờ cả hai đứa cùng:
   - Á  Á …  rồi cùng làm thinh và cố đẩy xe đi thật lẹ.
Đi được ba trăm thước nữa, tức là chỗ giáp hàng mít (sau nầy là ranh của Trường Trung Học Thủ Khoa Huân. Mấy chục năm sau mới có trường nầy)
Bây giờ đã bớt sợ, tôi hỏi chú Khỏe
   - Hồi nảy chú thấy gì mà la vậy?
Khỏe quay về phía sau để biết chắc không có ai nghe, đoạn trả lời
   - Tao thấy từ bên kia đường một người đàn bà che dù đi xăm xăm vào chòm da rồi mất dạng. Chú hỏi tôi:
Còn mầy sao cũng la lên?
   - Tôi cũng thấy y như chú
Chúng tôi tăng tốc, không lâu đến cầu Tân Hữu. Hai đứa dừng lại trên cầu lấy sức. Khỏe lấy thuốc phì phà, tôi cũng hít vài hơi cho đỡ lạnh. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi tập tành tành hút thuốc
Khỏe hít thuốc, phun khói rất điệu nghệ, tự tán thưởng:
   - Cũng may hai đứa mình không ai la, nếu la chắc ma hốt hồn. Hú vía!
Nửa tiếng sau tôi về tới nhà anh bạn, hai đứa vào xin nước uống, nhân tiện gởi xe hư lại và cuốc bộ về nhà. Lạnh, đói run, tôi thấy nhức đầu nên ghé tiệm thuốc tàu đầu đường mua vài bịch ngoại cảm phòng thân. Đến nhà đã tám giờ, hai đứa như mèo ướt các bạn ai cũng hết hồn hỏi thăm rối rít.  Nghỉ mệt và tắm rửa xong, Khỏe kể sơ lược sự việc, số người ngồi chăm chỉ theo dõi có thêm ba người nữ, lúc trước hai bên còn e dè vì vẫn tị hiềm giữa trai gái, bây giờ Khỏe  là gạch nối của hai nhà, thêm nữa Vinh cũng đang tán tỉnh chị Lộc và có vẻ ”tình trong như đã”, do vậy mỗi lần có chuyện vui hai nhà thường tập trung ở phòng khách ăn uống chuyện trò.
 
Chị Khanh và chị Lệ một mực yêu cầu Khỏe kể sự tích con ma ở Chòm Da vì theo hai chị thì đám học sinh đi xe đạp từ Bà Lang đến trường dường như ai cũng biết không nhiều thì ít về sự tích của con ma: dễ thương cũng có, tính ác thì chưa đáng gọi là tàn bạo. Cô ma chỉ trêu ghẹo, hoặc cảnh cáo mấy anh chàng nào ham mê bóng sắc, những chàng nào thiếu thủy chung mà thôi. Trước lời yêu cầu của ba cô gái trong đó có người yêu, Khỏe đùn việc kể chuyện cho tôi:
   - Biết thì tôi cũng biết, nhưng rành mạch thì Sanh ăn đứt tôi vì nó đã nghe những người lớn ở gần đó thuật chuyện khá chi ly..
Mấy chị nhao nhao:
   - Kể đi Sanh.. kể đi
Sanh chẫm rãi:
   - Kể… tôi sẵn sàng, nhưng ngặt nỗi bây giờ đói bụng quá, vã lại muốn nóng lạnh đợi tôi nấu cháo thương hàn ăn cho ra mồ hôi mới nói chuyện được.
Chị Khanh lên tiếng: Ông Sanh nầy muốn bọn mình nấu cháo cho ổng chớ gì. Tội nghiệp vì muốn nghe chuyện mà Khanh và chị Lộc người thì nhóm lửa người thì vo gạo nấu cháo
 


 
Câu chuyện như sau:….

Năm ấy cách nay khá lâu, vùng Cầu Vòng có ông phú hộ, ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Giàu có nhưng tính tình lại rông rãi, nhân hậu khác xa các nhà giàu trong vùng. Ông phú hộ hiếm hoi chỉ có cô con gái tên Dung, ông xem như  vàng, như ngọc. Dung càng ngày càng đẹp đẽ nết na, Phú ông  muốn kén rể đông sàng, nhưng Dung vẫn dửng  dưng trước những mối mai của hạng cao sang quyền quý. Thực ra Dung có người trong mộng, người Dung tha thiết yêu là Phong, một thanh niên đẹp trai, có vóc dáng một võ sĩ. Anh xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, được thầy dạy cho văn lẫn võ. Cảnh nhà khốn khó là trở ngại khá lớn cho cuộc tình của hai người. Phú ông thoạt đầu cự tuyệt vì không phải là hộ đối, môn đăng, nhưng trước tình yêu tha thiết của họ, ông miễn cưỡng gọi Phong đến và ra điều kiện:

Muốn cưới Dung thì phải cố gắng tạo chút công danh. Điều kiện phú ông đưa ra không có gì khó. Tình cảm cô Dung, cậu Phong ngày thêm khắng khít. Họ tự ý ăn ở với nhau, gia đình không hay biết. Một hôm Phong từ giã Dung đến nơi đô hội để lập công danh. Dung tiễn người yêu ra đi với chứa chan hy vọng. Quả là số đỏ, Phong với tài kiêm văn võ, chàng xin được chức thư lại, kiêm thầy dạy võ cho một công tử con vị quan ở tỉnh lân cận. Môt thời gian ngắn, Phong tán tỉnh được cô tiểu thư đài các của vị Đại quan, cuộc đời chàng như diều gặp gió. Chàng quên đi người yêu ngày mong đêm đợi ở quê nhà và  một đứa con sắp sửa chào đời..
 
Phần Dung, bụng càng ngày càng to không còn giấu giếm ai được. Những gia đình, mối mai hỏi nàng trước kia bị từ chối, nay thấy nàng mang thai vô thừa nhận họ kết tội nàng đã làm nhục nhã cho làng nước, tội danh theo lệ làng có thể bị xử cạo đầu, bôi vôi và đuổi đi, có nơi  phạt đóng bè thả trôi sông, tức là hình thức tử hình.. Phú ông hết vào ra trông ngóng, lại cho người tìm Phong và biết lòng dạ phản phúc của chàng. Dung thất vọng tràn trề, để tránh cho cha khỏi bị làng nước khó dễ, trong một đêm nàng âm thầm mang ít đồ tế nhuyễn đến Chòm Da cất chòi nương náu, hy vọng Phong hồi tâm. Con nàng ra đời không lâu rồi lâm bịnh chết. Nàng đau đớn ê chề về tình yêu đến đổi phải lang thang vất vưởng. Chán nản, nàng treo cổ tự tử ở Chòm Da. Những đêm khuya thanh vắng vang lên tiêng hát ru con như nghẹn ngào, như oán than có lẽ đó là tiếng lòng của nàng. Về sau khúc đường vừa kể, những buổi chạng vạng thường xuất hiện một cô gái dáng buồn nhưng hay chọc ghẹo khách bộ hành. Khi thì cô giả làm người lỡ đường quá giang xe ngựa hoặc xe đạp, ngồi trên xe một đoạn ngắn rồi biến mất.  Đó là những chủ xe đứng đắn, gặp nữ giới giữa đường không chọc ghẹo nham nhở. Đối với những người gặp gái cô thế giở trò bốc hốt, người đẹp phút chốc mặt mày trở nên đanh ác, khiến kẻ tán tỉnh hết hồn nhiều khi chết xỉu.
 
Đại khái chuyện ma, chúng tôi nghe kể chỉ ngần ấy. Đoạn đường đó khi xưa có ngôi chùa, bá tánh qua lại bị ma chọc phá khiến ai cũng ghê sợ, người ta đặt tên đường đi ấy là Đường Chừa, thay vì Đường Chùa, chừa có nghĩa là loại ra, tránh xa, đừng đi trên đó nữa
 
 

 Nguyễn Thành Sơn


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Nov/2018 lúc 9:24am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2018 lúc 8:56am

Người Chồng 1 Ðêm 

Image%20result%20for%20lonely%20girl%20in%20%20autumn%20sunset%20pictures

Năm ấy, tôi mười bảy tuổi. Ở đất Bình Định, tuổi đó đã có người đi lấy chồng. Như mẹ tôi, như cô tôi. Tệ lắm cũng đã có người đi dạm. Nhưng tôi thì chưa. Tôi đang học lớp bảy nên có nhiều mộng ước hơn mẹ và cô.

Tôi chưa nghĩ ra người chồng tương lai của mình sẽ như thế nào, nhưng ít ra cũng hơn cha tôi và dượng tôi. Đó là những người đen đúa, tuy không đến nỗi xấu xí, nhưng ai cũng già trước tuổi. Quanh năm gần như chỉ mặc quần đùi để lộ đôi chân khẳng khiu mốc thếch. Đó là chưa nói tới cái bệnh sốt rét họ mang về từ rừng núi xa xôi sau khi đi làm nghĩa vụ dân công, tức là đem gạo muối tiếp tế cho bộ đội, hay đi tải đạn. Người nào mặt cũng tái mét, da dẻ vàng vọt như không còn một hột máu.

Thực ra, mẹ và cô tôi cũng chẳng hơn gì. Ai cũng một bộ đồ đen bạc phếch, cũng một búi tóc thiếu chải gỡ, trông xơ xác như một mớ râu bắp. Lũ con gái chúng tôi có khá hơn vì đang là tuổi dậy thì, tự nhiên da thịt hồng hào dù phải ăn uống kham khổ.

Năm lớp bảy là năm cuối cấp hai, bọn tôi được chọn đi dự trại liên hoan mừng chiến thắng ở Bồng Sơn. Cùng đi với chúng tôi còn có các cô gái chưa chồng trong hội phụ nữ. Vì đã hòa bình, chúng tôi được phép ăn mặc đẹp. Nghĩa là được đội nón trắng không phải quét bùn, được khoe chiếc kẹp mạ bạc óng ánh trên mái tóc. Ai khá hơn được mặc áo in hoa cổ tai bèo hay áo trắng khoét cổ trái tim. Chúng tôi ngắm lẫn nhau, khen lẫn nhau. Biết mình đẹp hơn khi nhìn vào mắt người khác, chứ cái gương tròn nhỏ như chiếc bánh bèo chỉ đủ để soi mặt thôi, làm sao thấy được toàn thân như khi đứng trước gương. Nhưng thế cũng đủ vui quá rồi, nhất là lần đầu tiên được đi xe cam nhông ray, chạy trên đường sắt êm như lướt đi trong gió.

Chúng tôi được bố trí ở những trại đã được dựng sẵn dưới bóng dừa. Cơm nước cũng đã có người lo. Trước mặt trại là một đống củi gộc xây hình tháp, hứa hẹn một đêm lửa trại cháy đến tận sáng. Phía bên kia, cũng là một dãy trại đã được dựng sẵn dành cho bộ đội. Họ cũng là những người chưa vợ được chọn từ các tiểu đoàn.
Thế là chúng tôi cứ việc vui chơi, nhảy múa, hát ca. Chúng tôi làm quen nhau thoải mái, cứ ưng ý là bắt cặp nhau mà không sợ bị phê bình này nọ. Ai, chứ với bộ đội trẻ trung mà được thân quen với họ, là ước mơ thầm kín của lũ con gái thời ấy.

Chúng tôi ở đó ba ngày vừa đủ cho trai gái bén hơi nhau. Rồi sau những màn nhảy xôn đố mì chân nọ đá chân kia, nhảy sạp cắc cắc bụp bên đống lửa hồng, tất cả lặng lẽ kéo nhau vào rừng dừa, nơi ánh sáng không còn rõ mặt, cứ mỗi gốc dừa là một cặp ngồi tỉ tê tâm sự. Rồi chúng tôi làm cái việc gọi là yêu nhau tại chỗ. Nếu ai đó không muốn thì cũng đành chịu, chứ biết thưa kiện ai.

Khi Mỹ đến, sau những trận đánh khốc liệt, bọn họ tràn vào các quán bar cũng là để mừng chiến thắng hay trút nỗi buồn thua trận trên thân xác của các gái bán bar mà thôi. Có điều họ phải trả tiền, mà tiền đô, còn bộ đội thì không ngay cả tiền tín phiếu như giấy vàng mã!
Rồi họ xuống tàu đi tập kết, mang theo những chiếc khăn do chúng tôi thêu làm kỷ niệm. Còn họ để lại cho chúng tôi một thứ nhiều hơn chiếc lược nhôm hay lược gỗ được cắt gọt công phu, một thứ có thể họ không ngờ là cái bào thai trong bụng mỗi đứa.

Rất nhiều đám cưới được tổ chức chớp nhoáng. Không hai họ, không đón đưa, chỉ có thủ trưởng đứng ra tuyên bố hai người là vợ chồng. Thế là xong, như cha đạo thay mặt Chúa Trời. Dẫu không mang thai họ cũng đã là những thiếu phụ mòn mỏi đợi chồng dù chỉ một đêm, nhưng có nghĩa vụ lo cho cách mạng ròng rã suốt hai mươi năm sau đó.

Tôi được mẹ cha hiểu ra cái trò mừng chiến thắng bằng cách cướp đi cái phần trinh trắng nhất của đời con gái họ, sau khi đã cướp lúa gạo vòng vàng bảo là để cho cuộc kháng chiến thành công, nên đã nén cái đau cái nhục xuống đáy lòng, cho tôi vào trốn ở Sài Gòn.

Từ một xứ nhà quê, lại là vùng Việt Minh, đến một thành phố giàu có đông đúc, tôi hết sức ngỡ ngàng. Nhưng rồi tôi cũng quen dần, người Sài Gòn xởi lởi, tốt bụng, có đủ chỗ cho tôi kiếm sống. Chỉ khổ là cái bụng mỗi ngày một to, lắm khi cũng phải lao đao vì nó. Tuy vậy, đến ngày sinh, cũng có người sốt sắng đưa tôi vào sinh ở nhà thương thí.

Bao nhiêu cực nhục rồi cũng qua đi. Ơn Trời, tôi sinh được một cháu gái. Đó là kết quả của mối tình một đêm bên gốc dừa!
Ngồi ngắm con ngủ, tôi cố nhớ chút gì gợi lại hình bóng của người đã cùng tôi tạo ra nó, nhưng không tài nào nhớ nổi. Tôi chỉ nhớ cái mùi mồ hôi anh ta, nhớ tiếng thở hào hễn và nhiêu đó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy xấu hổ, tủi thân. Chiếc lược mà anh ta tặng tôi trở thành một kỷ vật đắng cay. Tôi không trách anh, cả tôi cũng không tự trách mình, tôi chỉ trách ai đó đã lợi dụng tình yêu cho dù là xác thịt để đạt tới những mục đích sâu xa của họ.

Cùng một lứa với tôi, những cô gái tươi non khi ấy, sau này đã là những người nuôi giấu cán bộ, đào hầm vót chông, mua thuốc trụ sinh, chuyển vũ khí bằng cách khoét rỗng ruột bí bầu nhét đạn hay lựu đạn vào, khi bị bắt dù bị đánh đập tra khảo đến thừa sống thiếu chết vẫn không chịu khai…Để đến khi hòa bình, nhiều người cũ hoặc làm ngơ coi như không biết, hoặc có biết cũng chỉ lén lút mà gặp nhau một lần rồi thôi, vì sau lưng họ còn có những người đàn bà xứ Bắc không dễ gì trả lại chồng. Thì thôi đành vậy, vui chỉ một đêm mà buồn khổ suốt cả một đời!

Sau ngày 30 tháng tư, như bao người miền Nam, hai mẹ con tôi cố sống lây lất qua ngày, chạy chợ trên bán chợ dưới, bị quản lý thị trường rượt đuổi như chó săn chuột.
Một lần tôi bị bắt, bị tịch thu mấy bao gạo mua từ ga Biên Hòa. Nếu tôi bỏ hết hàng họ mà “xéo đi” theo lệnh họ, thì tôi đã không phải bị giam ở trụ sở phường. Đằng này tôi gào khóc, chửi rủa, cào xé mũ áo nên họ tống tôi vào như một mụ điên. Sau cùng, họ bảo tôi phải viết kiểm điểm thành khẩn nhận lỗi đã xúc phạm cán bộ, họ mới chịu thả ra.
Thì viết!
Nhưng cái nỗi đau mất của, cái đói đang chực chờ khiến cho tôi cứ ngồi mãi mà chẳng viết được dòng nào, ngoài mấy chữ: Tôi tên là…
Lúc ấy có một người mặc đồ bộ đội không biết cấp bậc gì đi ngang qua, thấy tôi ngồi bên bàn với tờ giấy ở trước mặt liền chồm tới xem thử. Bỗng người ấy hỏi, chị tên thật đó à? Tôi nói, chứ chẳng lẽ tôi viết tên giả. Lại hỏi, chị quê ở Bình Định phải không? Tôi nói, ông định tống tôi về ngoài đó chứ gì? Ừ, tôi là gái Bình Định, theo chồng vào đây không được sao? Người ấy nói, đó không phải là việc của tôi. Giờ đã tối rồi chị về đi. Nhưng ngày mai chị nhớ đến đây gặp tôi. Có thể chúng tôi xét mà trả lại hàng cho chị. Nhớ nhé, chị phải tới không thì hỏng cả đấy.

Thế là sáng hôm sau tôi lại tới dù hy vọng rất mong manh. Lại thấy ông ta đứng đợi lù lù ở trên thềm. Ông ta ra hiệu cho tôi vào phòng. Dẫu sao nói chuyện với những người đứng tuổi như ông cũng dễ chịu hơn là với bọn lau nhau mới hùa theo cách mạng. Ông ta chỉ ghế mời ngồi, nhìn tôi, rồi kéo từ hộc bàn ra một quyển sổ. Ông đặt lên bàn, lại nhìn tôi kèm theo một nụ cười khá tử tế. Ông lấy từ trong sổ ra một tấm hình ố vàng đẩy về phía tôi. Đó là tấm hình chụp một anh bộ đội và một cô gái đứng bên gốc dừa.

Trông thấy tấm hình, tôi xây xẩm mặt mày, toàn thân lạnh cóng. Tôi nhớ lại những đêm ở Bồng Sơn, nhớ cái phút giây điên cuồng dại dột. Và sau đó là thấp thỏm lo cha mắng mẹ chửi. Rồi kinh hoàng khi nghĩ tới lúc Tây tiếp thu, chúng sẽ thọc lưỡi lê vào bụng những người vợ Việt Minh mà lôi đứa nhỏ ra ngoài!

Tôi nghe ông ấy hỏi: chị có biết hai người trong tấm hình này không? Tôi bặm môi một lúc rồi nói: không biết. Chị không nhớ cái đêm liên hoan trong rừng dừa hồi đó sao? ông lại xoáy thêm vào nỗi đau của tôi. Thế là bao nhiêu uất ức, bao nhiêu đắng cay, cô độc trong hơn hai mươi năm như một con sóng lớn sắp đập vào bờ, tôi muốn đứng dậy chồm qua bàn, nhìn sát vào mặt ông mà gào lên: nhớ chứ, nhớ ông đã làm gì tôi, đã hứa hẹn thề thốt rồi bỏ tôi mà đi đến hơn hai mươi năm, giờ về đây cướp mấy bao gạo của mẹ con tôi. Ông có biết tôi đã khổ như thế nào mới có được nó không? Ông biết tôi là ai sao không bảo lũ lâu la kia đem trả gạo lại cho tôi. Ít ra con ông cũng còn có được hột gạo mà ăn. Các ông vào đây cướp thì có chứ quản lý thị trường cái nỗi gì.

Tôi tức nghẹn, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh nói với`giọng rắn rỏi chính tôi cũng không ngờ: nếu tôi đến đây chỉ để ông tra hỏi như thế này thì tôi thấy không cần phải ở lại nữa! Khoan đã, ông cũng đứng lên nói, giờ, chị có thể đem mấy bao gạo về! Nhưng tôi trở nên cay nghiệt: đó không phải là gạo của tôi, mà là của cướp giựt. Các ông cứ nhập kho rồi chia nhau!

Tôi ra khỏi trụ sở phường, người lảo đảo cứ như say. Tôi đi tới đi lui, đi hoài cho đến khi mệt lã mới nằm dài trên một ghế đá ở công viên. Tôi nghĩ đến ngày mai, đến con tôi. Đã có lúc tôi muốn chạy đến trụ sở phường gặp ông ta, bảo rằng tôi biết hai người trong tấm hình đó. Tôi hình dung ra cảnh ông ôm choàng lấy tôi và cả hai cùng khóc. Ông sẽ bảo với mọi người trong cơ quan, đây là người vợ ông đã tìm lại được. Còn tôi sẽ bảo với con, đây là cha của con. Và cuộc đời của chúng tôi sẽ khác.

Nhưng chút tự trọng của một người đàn bà níu chân tôi lại. Ông hẳn đã biết tôi là ai vậy mà cứ vòng vo hỏi tới hỏi lui. Ngày ấy tôi đã mê muội đem dâng hết cả đời con gái cho ông. Giờ đây ông còn muốn tôi quỳ xuống nữa sao? Ông kiêu ngạo hay sợ đảng đến nỗi không dám nhận một con buôn làm vợ?!

Tôi đứng lên, lủi thủi một mình đi về nhà. Con gái tôi hỏi, không xin lại được sao mẹ? Tôi lắc đầu. Tôi nghe nó thở dài giống như tôi cách đây hơn hai mươi năm.
Từ đó tôi thôi chạy chợ, kiếm nghề khác để khỏi phải gặp ông. Lúc đó tôi 39 tuổi, con gái tôi 21. Cũng đã đến tuổi lấy chồng. Cầu trời cho nó không lấy phải người chồng một đêm!

Khuất Đẩu


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Nov/2018 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Nov/2018 lúc 1:26pm

Vẫn Cám Ơn Cuộc Đời

Related%20image


May qúa hôm nay tiệm hơi vắng khách, thì có bữa nọ bữa kia, chứ ngày nào cũng nhiều việc, khách mang quần áo tới sửa và chị làm luôn tay thì giờ đâu mà ngồi nghĩ ngợi, rầu rầu như thế này?
Chị vừa luôn cái gấu quần vừa miên man nhớ tới câu chuyện sáng sớm nay, lúc chị đang chuẩn bị làm đồ ăn sáng cho con ăn đi học thì phôn reo, chị biết ngay, giờ này chỉ có mẹ chị bên Việt Nam gọi sang thôi. Thằng Nhẫn chắc cũng nghĩ như chị, nó chạy ra bốc phôn thì đúng là bà ngoại nó gọi, nó mở speaker cho mẹ cùng nghe:
- Chào bà ngoại, bà ngoại có khỏe không?
- Bà khỏe lắm, thế cháu có gì vui kể cho bà nghe đi?
Thằng bé 8 tuổi mà triết lý như một ông cụ :
- Đời có gì vui đâu ! Có hai mẹ con buồn lắm bà ơi!
Chỉ có thế mà bà ngoại đã mau nước mắt, khóc nghèn nghẹn trong phôn, chị bảo con ra ăn sáng và cầm phôn nói chuyện với mẹ, mẹ chị lại nài nỉ như đã từng nài nỉ:
- Con tính lẹ đi, hai mẹ con về Việt Nam sống, gần mẹ, gần anh chị em ấm áp tình thương của gia đình, mẹ sẽ cho con cái cửa tiệm tạp hóa này dư sức nuôi sống hai mẹ con cả đời, cần gì ở Mỹ mà cô đơn lạnh lẽo vậy con?
Chị vẫn khẳng định:
- Con đã dứt khóat nói với mẹ rồi, con sẽ sống ở Mỹ và nuôi thằng Nhẫn cho tới khi nó khôn lớn nên người cho người ta biết.
Mẹ chị lại sụt sùi khóc và nói chuyện thêm một lúc nữa, cho đến giờ chị đi làm bà mới đành dứt phôn.
Chị thương con và thương mẹ mình qúa, tự trách chỉ vì mình không dấu kín được sự khổ đau trong lòng mà làm khổ lây tới những người thân yêu nhất. Cái câu chị thường thốt ra than van mỗi khi nói chuyện với mẹ hay bất cứ ai “Đời có gì vui đâu” đã thành một điệp khúc quen thuộc làm thằng Nhẫn học thuộc lòng từ lúc nào, và nó bắt chước mẹ cũng nói y như thế mỗi khi có ai hỏi chuyện.
Chị đang sống yên lành với gia đình ở Việt Nam thì Phê từ Mỹ về, hai người chưa hề có một kỷ niệm thân thương dù thuở nhỏ học cùng trường, ở cùng xóm. Anh phiêu du qua Mỹ lâu lắm và trở về tìm cách tiếp cận chị để nói đã từng thương trộm nhớ thầm chị, muốn cưới chị mang sang Mỹ, làm chị bất ngờ và sung sướng cảm động qúa.
Nhan sắc chị trung bình, là cô giáo, ngoan hiền, con nhà khá gỉa mà duyên số lận đận vẫn độc thân chiếc bóng ở lứa tuổi ngoài ba mươi.
Nay có Việt Kiều Mỹ về cưới, anh Phê đẹp trai, ăn nói có duyên nên ai cũng khen chị có phước, có phần. Chị thầm cám ơn trời Phật độ trì cho chị nên duyên, cám ơn cuộc đời đã run rủi cho anh Phê còn nhớ đến chị, về hỏi cưới chị.
Sang Mỹ, chị chưa vui hưởng hạnh phúc là bao, khi vừa chớm đậu thai là lúc anh Phê trở mặt, nói ra một sự thật phũ phàng. Anh đã có người yêu là một cô gái xinh đẹp, cô gái bỏ anh, nên anh hận đời về Việtnam cưới vợ…để trả thù. Nay cô người yêu lại quay về, nên anh Phê sẽ chia tay chị để đoàn tụ với người yêu dấu. Anh sợ trách nhiệm nên nằng nặc bắt chị đi phá thai để sự chia tay rảnh rang không còn gì liên quan, dính líu nữa.
Chị đau đớn kinh hãi, anh đã coi chị như một món hàng, một trò đùa, khi thích thì mua về, chán thì đổi ý. Bỗng dưng đang lúc bụng mang dạ chửa, mới chân ướt chân ráo đến Mỹ thì bị bỏ rơi, chị hết lời khuyên ngăn anh Phê, năn nỉ anh Phê hãy vì thương đứa con trong bụng mà ở lại với chị, chị vẫn muốn sống suốt đời bên anh. Nhưng người đàn ông vẫn lạnh lùng, anh ta có yêu thương gì chị đâu mà cảm động.
Thế là chị ở lại căn apartment một mình và nhất quyết giữ bào thai trong bụng, vì chị không nỡ đang tâm phá hủy một mầm sống. Ban đầu anh em bên chồng thấy việc làm bất nhân của Phê ai cũng xót xa, xúm vào giúp đỡ chị, sau khi li dị, chị sinh con, họ giúp chị xin hưởng tiền trợ cấp nuôi con nhỏ…chứ chị không bao giờ thèm thưa kiện để mong sự trợ cấp của người chồng, người cha vô lương tâm ấy.
Chị hận cuộc đời, hận Phê lắm, đặt tên cho thằng con trai của mình là Nhẫn, có hai ý nghĩa, một là chửi thằng chồng ăn ở nhẫn tâm, hai là khuyên mình nên nhẫn nhịn chịu đựng mọi gian khổ trong cuộc đời.
Tình thương của anh em bên chồng chỉ có hạn, họ cũng thưa thớt thăm nom khi chị đã dần dần tự lập được, còn Phê biệt tăm biệt tích không một lần hỏi thăm chị hay đứa con, dù chỉ là qua phôn, nghe nói anh ta đã cưới được cô người yêu và họ đang sống bên nhau.
Tất cả hình đám cưới của hai người chị mang ra cắt lìa hình ảnh của Phê và vứt vào thùng rác, chỉ giữ lại hình chị vì không nỡ cắt xé hình ảnh của chính mình. Chị cấm con không được hỏi về cha khi nó có chút khôn lớn, tò mò hay thắc mắc. Có lần thằng Nhẫn nhìn thấy tấm hình Phê còn sót lại mà chị quên chưa cắt đi, nó hỏi:
- Mẹ ơi, có phải cha con đây không?
Chị gắt với con:
- Mẹ đã dặn con là không được gọi tiếng “cha” rồi mà.
Thằng bé thông minh, vội…sửa lại:
- Mẹ ơi, “chú” này bây giờ ở đâu ?
- Mẹ không biết. Coi như ông ta chết rồi, con đừng bao giờ hỏi mẹ điều này nữa nghe?
Từ đó trở đi thằng Nhẫn đã hiểu mẹ nó oán hận cha nó, nên không bao giờ hỏi tới nữa, mà nó cũng chẳng quan tâm làm gì đến một người cha chưa bao giờ tìm gặp nó hay trò chuyện với nó dù chỉ một câu.
Tám năm trôi qua kể từ khi thằng Nhẫn chào đời, chị đi làm vất vả ở hãng xưởng, sau này mới xin được việc làm trong một tiệm sửa quần áo của người Việtnam, thời gian du di hơn để chị có thể lo cho con, và đồng lương khá hơn, nhưng bù lại chị phải làm việc nhiều hơn, ở lại tiệm trễ hơn. Ở đời chẳng có quyền lợi nào cho không ai cả.
Mãi sau này, khi không thể dấu mẹ, dấu gia đình của mình mãi được, chị mới kể hết sự thật, làm mẹ chị mủi lòng, thương con thương cháu, bà đòi sang Mỹ thăm hai mẹ con.
Đó là những ngày mùa Xuân tươi đẹp, mẹ chị đến Mỹ thấy phố phường lộng lẫy, chợ búa của Mỹ hay của người Việtnam đều sầm uất, đông vui, thấy hoa lá nở, thấy cỏ xanh non ngoài đường, ngoài sân nhà…Nhưng người mẹ gìa dày dạn kinh nghiệm đời vẫn nhận thấy sự u uẩn, cô đơn của mẹ con chị, nơi căn apartment bé nhỏ nghèo nàn.
Sống ở Mỹ nhà nào biết nhà nấy, chị có một hai người bạn thân nhưng thỉnh thoảng mới đến nhà nhau. Có bà ngoại căn phòng ấm cúng hơn, vui hơn. Thằng Nhẫn được bà ngoại cưng chiều nó sinh động hẳn lên, không lặng lẽ bên mẹ như thường ngày nữa.
Những ngày vui qua mau, ngày bà ngoại lên đường về lại quê hương, tại phi trường thằng Nhẫn ôm cứng bà, nó đòi theo bà về dù chẳng biết Việtnam là nơi đâu, chị phải gỡ con ra cho bà ngoại tất tưởi quay đi, cả ba người hôm ấy đều khóc nghẹn ngào.
Chị thấy mắt mình cay cay, ướt mi, chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà cũng mau nước mắt qúa. Chị đã luôn xong hai gấu quần rồi, những lúc rảnh thế này bà bạn gìa nhiều chuyện Jessie không đến mà tán dóc, hôm chị bận làm, bà đến nói hết chuyện nọ đến chuyện kia, làm chị mải nghe mấy lần đâm cả kim vào tay.
Tiệm sửa quần áo nằm trong một town nhỏ, có nhiều ông bà gìa tuổi đã về hưu, các ông bà hay lẩn thẩn đi shopping tiệm quần áo cũ, rồi tha về nay cái áo sứt chỉ, mai cái quần dài ống v..v..thế là bèn mang đến tiệm sửa, tốn 10- 15 đồng là thường, trong khi món hàng họ mua chỉ vài ba đồng bạc. Khi đến ngày hẹn lấy đồ, họ mặc thử với vẻ hào hứng thích thú lắm, hôm nào chị quên không đúng hẹn là có bà còn hờn giận, làm như đó là cái áo duy nhất để bà mặc, không có nó thì không xong. Đến tuổi gìa, người ta bỗng trở nên trẻ con vớ vẩn thế đấy.
Bà Jessie là một trong những “đứa trẻ con lớn tuổi” ấy, luôn kiếm cớ mang cái áo hay cái quần cũ đến sửa để được tán dóc với chị, và tẩn mẩn ngồi giúp chị gấp đống quần áo của khách mang đến, một gìa một trẻ trở thành đôi bạn. Tiếng Anh chị không nhiều, bà Jessie hiểu điều đó, bà nói chuyện với chị bằng những từ thông dụng đơn giản nhất , đủ để hai bên đối đáp và hiểu nhau.
Sao mà linh thiêng thế, chị đang nghĩ tới bà Jessie thì bà đã lò mò đẩy cửa bước vào:
- Chào baby của tôi ( bà vẫn âu yếm gọi chị như thế)
- Chào Jessie, khỏe không?
Bà cười móm mém:
- Tôi vẫn đủ khỏe để ăn một bữa gà Tây của Thanksgiving sắp tới đây.
Chị reo lên và nồng nhiệt:
- Bà nhắc tôi mới nhớ, chiều nay tôi phải ghé chợ mua gà tây cho Thanksgiving chứ, thằng con tôi thích ăn gà tây nướng lắm. Bà Jessie, bà đến nhà tôi trong bữa Thanksgiving này nhé?
Bà gìa có vẻ cảm động, bà gật gù:
- Chỉ có hai mẹ con thấy vắng vẻ qúa, nhất định tôi sẽ đến.
Là một bà gìa Mỹ độc thân cô đơn nên bà Jessie rất thông cảm và thương cho hoàn cảnh mẹ độc thân của chị. Bà mến người phụ nữ Việtnam trẻ mà chịu khó và hiền lành này chỉ sau mấy lần đến sửa quần áo và chuyện trò.
Thêm một người khách bước vào, là một người đàn ông Việtnam trung niên, tiệm sửa quần áo rất ít khách Việtnam nên người khách này bước vào là chị nhớ ra ngay, anh đã đến cách đây vài ngày..
Chị mau mắn:
- Anh lại bị đứt cúc áo nữa hả?
Anh bối rối, ấp úng:
- Không…không…
Lần này anh khệ nệ mang theo một gói gì có vẻ nặng lắm, với vẻ e dè, anh ngập ngừng nhìn chị và nói:
- Tôi xin lỗi đã đột ngột đến đây, không phải để sửa quần áo gì cả, mà là…mà là…
Chị ngạc nhiên nhìn anh, và nhớ lại hình ảnh lần đầu tiên anh mang cái áo sứt cúc đến nhờ chị đơm lại, công việc qúa đơn giản nên chị không tính tiền mà chỉ làm giúp anh, với suy luận có lẽ vợ anh bận rộn nên anh mới phải mang ra tiệm. Hôm ấy anh đã dịu dàng nhìn chị bằng ánh mắt biết ơn, không phải vì chị không tính tiền, mà vì anh cảm động thì đúng hơn.
- Vâng, anh cứ tự nhiên, tôi có thể giúp gì được cho anh?
- Chị ạ, hôm nọ chị làm cúc áo cho tôi mà không lấy tiền làm tôi ngại qúa, sẵn hôm nay hãng cho mỗi công nhân một con gà tây nhân dịp lễ Thanksgiving, tôi mang đến…tặng gia đình chị.
Chị ngạc nhiên, buộc miệng:
- Sao anh không để ở nhà dùng? Tôi chỉ có hai mẹ con…ăn gì hết con gà tây to như thế này?
Anh càng bối rối hơn:
- Tôi…thì chỉ có…một mình, lại chẳng biết nấu nướng gì.
Hai người ngỡ ngàng nhìn nhau, giây phút ấy nhanh chóng có một sự cảm thông vô hình và bỗng cả hai cùng bối rối. Bà Jessie không hiểu tiếng Việtnam, nhưng chứng kiến sự kiện, bà cũng đoán gìa đoán non ra câu chuyện, nên góp ý với chị:
- Chị đang cần mua một con gà tây thì tại sao không nhận món quà này nhỉ?
Người khách Việtnam mừng rỡ:
- Bà ấy cũng nói thế, mong chị nhận cho tôi vui.
- Vâng, cám ơn anh, tôi đã mời bà Jessie này đến ăn lễ Tạ Ơn với mẹ con tôi. Nếu như anh không bận thì cũng xin mời anh luôn.
Lần này gương mặt anh càng vui mừng hơn:
- Thật hân hạnh cho tôi. Nhân dịp này tôi phải Tạ Ơn cuộc sống run rủi cho tôi đã bước vào cửa tiệm này và được làm quen với chị và với bà Mỹ dễ thương kia.
Bà Jessie làm quen với người khách mới:
- Tôi tin chắc là chị này sẽ làm món gà tây khéo lắm, vì may vá cũng khéo tay, chị ấy là một người bạn tốt của tôi đấy.
Anh nói với bà Jessie:
- Hôm nay tôi cũng được là bạn của cô ấy và cả bà nữa. Chúng ta sẽ gặp nhau hôm Thanksgiving nhé.
Anh lấy ra một mảnh giấy, một cây bút trong túi, và hỏi địa chỉ nhà chị, ghi ghi chép chép cẩn thận, như chỉ sợ ghi sai thì sẽ không thể nào gặp được chị nữa, rồi anh cũng không quên cho địa chỉ và tên của anh.
Anh chào ra về rồi mà chị vẫn thấy lòng lâng lâng khi nghĩ đến ngày Thanksgiving đang tới…
Kể từ ngày chia tay với người chồng tàn nhẫn ấy, chị hận đời, hầu như chẳng muốn quen ai, dù có một hai đám do bạn bè thân tình giới thiệu nhưng đôi bên đều không hợp nhau nên chẳng đi đến đâu. Vậy mà chẳng hiểu sao lần đầu thấy anh mang cái áo đứt cúc đến tiệm chị đã chạnh lòng, và tỉ mỉ làm cho anh khật kỹ, để lần sau anh khỏi phải mang đến tiệm nữa. Đơn giản chỉ thế thôi, chứ chị nào biết gia cảnh nhà anh.
Chị nôn nao nghĩ đến bữa tiệc Tạ Ơn, sẽ làm những món gì, vì năm nay không chỉ có hai mẹ con chị. Chắc chắn bà Jessie và anh ấy sẽ đến, trong ánh mắt anh ấy, chị đã đọc thấy lời hứa hẹn như thế.
Chị bỗng thấy cuộc đời vẫn còn niềm vui, vẫn còn ý nghĩa. Chị vẫn phải cám ơn cuộc đời này, dù đã mang đến cho chị những đau thương, mất mát, nhưng lại cho chị niềm hi vọng, đợi chờ khác.
- Tôi thấy anh ta có vẻ vui mừng khi được làm bạn với chị đấy. Anh ta có vẻ cô độc làm sao !
Bà Jessie nhận xét như một bà gìa chưa bao giờ lẩm cẩm. Chị trìu mến nhìn bà :
- Thôi nào, Jessie, hãy nói cho tôi biết cần làm những gì cho bữa ăn lễ Tạ Ơn của chúng ta đi.
Bà gìa hăng hái:
- Đúng rồi, tôi sẽ giúp chị được nhiều việc lắm, để tôi lấy tờ giấy ghi ra những thứ chúng ta cần mua và cần làm cho ngày Tạ Ơn thật vui này chứ.

Nguyễn Thị Thanh Dương


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22121
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Nov/2018 lúc 10:57am

Thằng Hậu


Hết một buổi sáng rồi đến trưa ngồi phơi nắng ngoài đường mà kiếm chẳng được bao nhiêu tiền, chưa đủ mua một dĩa cơm với một cái trứng vịt kho, tôi mệt mỏi trở về nhà và dựng vội chiếc xe Honda cũ rích vào sân rồi lên gác nằm nghỉ. Tôi thích nằm ở đây vì vừa có nhiều gió mát và vừa có thể nhìn qua nhà bác Ba bán bánh tằm bì, cách xéo nhà tôi khoảng mười thước.

Nhà bác Ba có cô con gái tên Trinh rất đẹp. Tôi thích nhìn cô Trinh để mơ mộng thôi vì cô đẹp và tính tình thì lại rất thùy mị. Tôi biết thân phận mình nên không bao giờ tôi mong được cô ban phát cho một nụ cười, chứ đừng nói chi là sẽ được những thứ khác hơn.

Cô Trinh năm nay mười tám tuổi, lớn hơn tôi hai tuổi. Tôi nghe ông bà thường nói là gái thì hơn hai, trai thì hơn một. Nghĩa là những cặp có tuổi tác như vậy sẽ rất hợp và làm ăn sẽ khấm khá, nhưng tôi không bao giờ dám mơ đến điều đó với cô Trinh.
Bác Ba khi còn ở tuổi thanh xuân có lẽ đẹp gái lắm, vì tuy bây giờ bác đã luống tuổi rồi vậy mà mỗi sáng nhìn bác quảy cái gánh bánh tằm bì ra chợ; trông bác vẫn còn đẹp lắm.

Má tôi kể cho tôi nghe là người chồng trước của bác Ba rất hiền lành và rất dễ thương. Hai người ăn ở với nhau được ba năm nhưng vẫn không sao có được một mụn con. Sau đó chồng bác Ba bị tử trận và một thời gian dài sau đó bác Ba tái giá với một người cũng rất giàu có nhưng tính tình thì lại keo kiệt và độc ác. Người chồng sau của bác Ba cả ngày chỉ bè bạn rượu chè nên một thời gian sau thì gia cảnh bị sa sút nên bác Ba phải đi bán bánh tằm bì ngoài chợ.
Tôi nằm đó, đang nhìn qua nhà bác Ba và suy nghĩ về cô Trinh thì tôi thấy ông Hựu, ba của cô Trinh, là chồng sau của bác Ba, đang siết cổ một con chó cái có chửa bụng đã to bằng sợi dây thòng lọng thật lớn. Con chó trước khi hoàn toàn bị thúc thủ nó đã kéo ông Hựu ra gần đến cổng rào. Con chó không kêu lên được tiếng nào vì sợi dây đã siết chặt vào cổ nó và có lẽ nó cũng có phát ra được tiếng rên la nho nhỏ, nhưng vì kèn các loại xe đang chạy ngoài đường phố kêu lên inh ỏi nên tôi không thể nghe được tiếng nó.

Con chó có bộ vó cao với bốn cái chân dài và bộ lông vàng mướt. Nó quỵ xuống nhưng hai mắt nó nhìn ông Hựu như van lơn xin ông tha mạng. Tôi nhìn thấy ở hai con mắt nó có nước mắt chảy ra. Sẵn có khúc cây lớn vừa tầm tay nằm gần hàng rào, ông Hựu chụp vội và phang tới tấp vào đầu con chó. Bị liên tiếp bảy tám cây nện vào đầu, con chó quỵ xuống và giẫy một hồi thì chết hẳn.
Có lẽ ông Hựu có uống máu con chó nhưng chùi mép không được sạch, nên khi ông qua nhà nhờ tôi chở ông lên chợ để ông mua gia vị, tôi đã nhìn thấy dấu máu còn dính bên mép miệng của ông. Nhớ lại cảnh con chó bị ông Hựu đập đầu và đôi mắt nó, đôi mắt con chó nhìn ông Hựu trông thật tội nghiệp làm sao; đôi mắt nó nhìn như đôi mắt của con người chứ không phải của loài thú. Trước khi gục xuống hẳn, nó nhìn ông như oán hận vì ông đã làm nó đau đớn... tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Lúc này tôi chỉ muốn cho chiếc xe hai bánh của tôi lao thẳng xuống hố cho ông chết toi cho rồi.
Một ngày sau có người đi tìm con chó, có lẽ người đó là chủ của con chó. Tôi nghe người chủ gọi tên con chó mỗi khi đi ngang qua từng căn nhà. Tôi đã hèn nhát câm miệng lại chứ tôi không dám nói cho người chủ con chó biết về tình trạng của nó, chỉ vì tôi có cảm tình với cô Trinh. Và, thật ra thì ông Hựu cũng chưa làm một điều gì tệ hại với tôi, nhưng lương tâm tôi cứ cắn rứt mãi mỗi khi nhớ lại ánh mắt nhìn như van lơn của con chó.

***

– Anh Tám nhớ đến tham dự ngày vui của tôi nghe?

– Dĩ nhiên là tôi phải đến mừng cô Trinh chứ.

Tôi được cô Trinh mời dự đám cưới của cô. Dù không có bộ quần áo nào coi cho tươm tất, nhưng tôi cũng sẽ đến dự. Đến để xem người đàn ông may mắn kia là ai.

Kẻ may mắn đánh bại tất cả những người đã để ý đến cô Trinh là anh chàng Phó giám đốc đang tùng sự ở Bộ Lao Động.

Mừng cho cô Trinh và buồn cho tôi! Thế là từ nay tôi sẽ không còn người để tơ với tưởng để mơ với mộng nữa. Từ nay tôi vẫn sẽ nằm nghỉ trên căn gác mà tôi thường nằm, nhưng tôi sẽ không còn mong bóng dáng cô Trinh xuất hiện để tôi được ngắm nhìn nữa.

Một tuần sau đó tôi theo bạn ra miền Trung làm cá. Tôi không thể tiếp tục sửa xe bên lề đường được nữa vì lúc này bị cạnh tranh nhiều mà tay nghề của tôi thì lại quá yếu.

Hơn một năm sau tôi trở về lại nhà. Má tôi lúc này buôn bán cũng không mấy khá và hay buồn vì vắng tôi, nên muốn tôi về cho nhà được vui hơn. Tôi lại lên nằm trên cái gác mà hơn một năm trước tôi vẫn thường nằm sau một ngày phơi nắng để kiếm chén cơm. Đang lim dim mơ màng và sắp đi vào giấc ngủ trưa, thì tôi chợt nhìn thấy cô Trinh cùng chồng đang ẵm một con chó giống y hệt con chó năm xưa đã bị ông Hựu đập đầu rồi hút máu; đang từ trên xe bước xuống. Người đàn ông đã chiếm mất người phụ nữ mà tôi mến, đang vuốt đầu và nựng con chó. Cô Trinh thì hôn lên mặt con chó ra điều thích thú như là chính con của cô vậy. “Phải chi mình là con chó đó”. Tôi cười buồn cho ý nghĩ vừa thoáng qua.

Tôi không thể ngờ là cô Trinh và chồng lại thương yêu thú vật đến như vậy. Người thương yêu thú vật thường là người có tâm tính hiền. Tôi nghĩ vậy nên tôi ngồi dậy để nhìn cho rõ hơn. Nhưng, cũng vừa lúc đó hai vợ chồng cô Trinh khuất mình sau cánh cửa nhà.
Tôi đi lại chỗ má tôi ngồi định hỏi về chuyện của vợ chồng cô Trinh nuôi chó, nhưng tôi nghĩ có lẽ má tôi không để ý chuyện thiên hạ nên tôi quay về chỗ cũ nằm xuống để tìm một giấc ngủ trưa; nhưng má tôi đã thấy nên bà hỏi:

– Con định nói gì với má vậy?

– Vợ chồng cô Trinh...

Má tôi tưởng tôi hỏi về đứa con của vợ chồng cô Trinh nên ngắt lời tôi.

– Ờ hai đứa tụi nó mới sinh được thằng con trai đặt tên là Hậu. Tao nghe đâu thằng nhỏ cũng được khoảng ba tháng nhưng thằng nhỏ cứ bệnh hoài, cứ phải đi bệnh viện liền liền vậy đó nên bà Ba muốn cô Trinh về ở chung cho bà chăm sóc phụ với vợ chồng cô.

– Con mới thấy hai vợ chồng cô Trinh đi đâu đó mới về và có ẵm một con chó.

– Mày nói sao đó chứ. Chồng cô Trinh đâu có thích chó mèo nên có đời nào mà cho cô Trinh ẵm chó bao giờ.

– Con mới thấy tức thời mà má.

– Cái nhà đó hễ chó hay mèo mà thấy mặt là bỏ chạy tới cong đuôi luôn chứ ở đó mà ẵm với bồng. Ông Hựu ăn thịt chó và giết chó nổi tiếng đó con. Thằng rể cũng ăn thịt chó một cây như ba vợ nó vậy đó.

– Chẳng lẽ mắt con bị bù lạch ăn?

– Cái đó thì làm sao tao biết được.

Tôi nghĩ má tôi đã hơi bị lẩm cẩm vì vậy tôi im lặng và đi nằm.

Sáng nay tôi định đem đồ nghề ra đường ngồi sửa xe tiếp thì chợt thấy vợ chồng cô Trinh ẵm con chó đi ra xe. Tôi chạy vào nhà.

– Má ra xem lẹ lên má.

– Chuyện gì thì cũng từ từ chứ tao làm sao mà lẹ được. Mà chuyện gì vậy Tám?

– Vợ chồng cô Trinh ẵm con chó đi đâu nữa đó má.

Má tôi nghe nói vậy nên bước lẹ ra cửa. Tội nghiệp má tôi, bà hơi yếu nhưng vì nghe tôi nói lạ quá nên cũng ráng bước ra nhìn.

– Mắt mày đúng là bị bù lạch ăn thiệt rồi đó con. Người ta ẵm thằng Hậu, thằng nhỏ con của người ta mà mày lại nói người ta ẵm chó.

Má tôi quày quả bỏ đi vào nhà, còn tôi thì đứng như bị trời trồng nhìn theo chiếc xe chở vợ chồng cô Trinh đã khuất dạng mà không hiểu gì cả. Rõ ràng tôi thấy ẵm con chó mà.

Một con chó ốm đói đang chạy rông trước nhà. Tôi đưa tay ra và đồng thời miệng tặc tặc vài tiếng thì con chó đứng lại nhìn tôi, và, khi không thấy tôi cho gì nên nó lại chạy đi kiếm ăn tiếp. Như vậy là mắt tôi còn tốt. Mắt tôi chưa bị thong manh, chưa bị quáng gà để phải nhìn con người ra con thú.
Chiều hôm đó tôi qua nhà cô Trinh.

– Chào anh Tám. Anh đi đâu mất biệt luôn bây giờ mới thấy mặt vậy anh Tám?

– Dạ... tôi đi làm ăn xa cô Trinh à. Tôi... tôi qua thăm vợ chồng cô và hai bác. Vợ chồng cô và hai bác vẫn mạnh khỏe?

– Cám ơn anh Tám, ba má tôi vẫn khoẻ anh Tám à. Anh Tám qua thăm là tôi mừng lắm đó nghe anh Tám

– Dạ... dạ, tôi cũng mừng lắm đó cô Trinh.

– Anh Tám uống nước trà nhe.

Cô Trinh đi ra sau bếp làm nước. Ngồi một mình tôi đảo mắt thật nhanh tìm con chó nhưng không thấy. Mắt tôi nhìn vào cái nôi để gần cạnh cái giường. Một cái đuôi con chó đưa lên cao và đang đong đưa qua lại. Tôi trợn mắt cho lớn hơn để nhìn cho rõ, và đồng thời đứng lên bước thẳng đến cái nôi. Trong nôi là thằng Hậu chứ không phải con chó.

– Cháu được gần bốn tháng rồi nhưng cứ bệnh hoài mà bác sĩ chẩn chưa ra bệnh.

Cô Trinh tay cầm ly nước trà nóng vừa nhìn vào trong nôi với con mắt của người mẹ hiền vừa nới với tôi như vậy.

Thằng bé, thằng Hậu thình lình mở mắt ra nhìn tôi và tôi thấy rõ ràng đó là cặp mắt của con chó bị ông Hựu đập chết ngày nào. Tôi vẫn nhìn ngay mắt thằng Hậu và thằng bé cũng nhìn tôi không chớp mắt.

– Anh Tám có sao không?

Nghe cô Trinh hỏi tôi quay qua nhìn cô và thấy sắc mặt của cô nhìn tôi có vẻ như lạ lùng làm sao đó. Tôi quay lại nhìn thằng Hậu. Lúc này mắt thằng Hậu đã nhắm nghiền lại và hơi thở của nó nặng nhọc như nguời ngủ say vì mệt mỏi.
***

Tôi vào lính đã được ba năm và hôm nay, lần đầu tiên tôi được về phép. Chiến tranh mỗi ngày mỗi khốc liệt hơn và đơn vị của tôi thì lại ở ngoài vùng hai nên đi hành quân liên miên ngày đêm. Vì tôi là lính trơn không có cấp bậc gì hết nên đến hôm nay, sau ba năm vào lính tôi mới được nhận phép về thăm nhà bốn ngày.

Tôi lại lên nằm trên cái gác mà tôi thường nằm năm xưa. Tình cờ mắt tôi hướng nhìn qua nhà cô Trinh và tôi thấy thằng Hậu đang bò dưới đất nhưng miệng nó thì tru lên như tiếng tru của con chó.
Từ ngày vào lính tôi đã quên chuyện thằng Hậu vì tôi cũng nghi ngờ những gì mà tôi đã thấy nên không dám kể chuyện đó ra cho ai nghe. Tôi mặc vội bộ đồ lính vào và đi qua nhà cô Trinh. Cô Trinh vui mừng đón tiếp tôi như người thân và muốn mời tôi ở lại dùng cơm tối.

– Lâu lắm rồi mới được gặp lại anh Tám. Anh ở lại dùng cơm với gia đình tôi nha?

– Cô đừng khách sáo vì mình cùng là lối xóm với nhau cả mà. Tôi mới được về phép nên có lẽ cũng cần nói chuyện nhiều với má tôi. Hai bác và... anh khoẻ không cô Trinh?

– Ba tôi mới mất năm rồi anh Tám à. Má tôi thì vẫn buôn bán ngoài chợ như ngày nào vậy. Chồng tôi thì vẫn làm việc như ngày trước.

Tôi tò mò muốn biết về ông Hựu.

– Bác trai sao mất vậy cô Trinh?

– Ba tôi đang giỡn với thằng Hậu, khi ông đưa nó lên cao thì bị tuột tay và răng của thằng Hậu trúng vào cổ làm cổ của ba tôi bị sướt một đường dài. Bác sĩ cũng không biết phải giải thích làm sao nhưng họ nói rõ ràng là ở chỗ đó đã làm độc. Nếu ba tôi đến chữa bệnh sớm hơn thì không đến nỗi nào. Sau một tuần thì ba tôi mất.

Tôi nhìn thằng Hậu đang bò dưới đất. Nó nhìn tôi vẫn với ánh mắt nhìn của con chó bị giết ngày nào.

– Cháu có còn bệnh... có ngoan không cô Trinh?

– Anh Tám thấy đó. Nó không đứng lên được mà chỉ bò thôi. Nó cũng không nói không khóc nhưng mỗi lần muốn đòi cái gì thì nó đưa cái cổ lên cao như con chó vậy rồi rống lên.

Tôi hỏi lại mà không suy nghĩ:

– Tru hay rống?

– Rống chứ sao tru được anh Tám. Nó đâu phải...

– Tại cô Trinh nói nó đưa cái cổ cao lên như con chó nên tôi hỏi cho vui vậy mà.

Tôi ra về mà lòng tôi nặng trĩu bao thắc mắc. Chẳng lẽ thằng Hậu đã bị con chó nhập vào để trả thù. Tôi nghĩ nếu quả thật có chuyện ma quỷ ở trên đời này như chuyện con chó nhập vào thân xác người để trả thù thì tội nghiệp thằng Hậu quá.

***

Cả mười ngày nay tôi buồn bực hoài vì con mèo xinh đẹp của tôi tự dưng bỏ nhà đi đâu mất không còn thấy bóng dáng nó trở về nữa.

Con mèo thật xinh thật đẹp mà tôi luôn luôn ôm trong tay nâng niu nó từ lúc nó mới sinh ra được hai tuần. Tám tháng qua tôi cưng chìu nó, chăm sóc cho nó từng miếng ăn và nó cũng được ngủ chung với tôi nên vì vậy mà nó quyến luyến tôi lắm.

Tôi nhớ lại cái hôm nó biến mất mà tôi vẫn cho đó là lỗi ở tôi. Hôm đó tôi đang trên đường về nhà với hai con cá tươi tôi mua cho nó ăn chiều, thì tình cờ tôi đi ngang qua quán cà phê Bà Tám Béo và nghe những thằng bạn tôi ồ lên một tiếng rất lớn. Tôi nhìn vào quán và thấy mấy thằng bạn đang trố mắt nhìn vào cái truyền hình nhỏ đặt ở trong góc quán. Một thằng bạn nhìn ra đường và thấy tôi, nó ngoắc:

– Ê Tám! Tám ngón! Vào đây xem cô ca sĩ tên Bê Ta mà mày mê đang tả lại cảnh gặp mày vào cái ngày thê thảm nhất của cuộc đời mày nè.

Tôi dựng xe và đi vào quán. Trong quán hiện có vài thằng bạn của tôi mà một thời đã cùng sống chết với nhau trong một sư đoàn. Ngày đó tôi đã để lại hai ngón tay ở mặt trận Ban Mê Thuột và chạy được về đến nhà thì mất nước.

Tôi nhìn lên màn ảnh và thấy cô ca sĩ ở hải ngoại mà tôi hằng mến mộ đang cùng với một nam ca sĩ trình bày một liên khúc nói về người lính chiến Cộng Hòa rất nổi tiếng. Những năm sau này các quán cà phê tuy không công khai và cũng không lén lút, đã cho phát các dĩa đi vi đi ca nhạc ở hải ngoại mà không hề bị làm khó dễ gì. Có tiền người ta mua tiên còn được mà, huống chi... cô ca sĩ mà tôi mến mộ không những đã ca hay mà cô còn có một nụ cười rất tươi và rất đẹp. Có lẽ cô ca sĩ ở hải ngoại này muốn tả lại cảnh anh lính chiến trở về thành phố cho thật cảm động hơn chăng, hay ai đó đã cố tình với ý đồ mà cô chưa hiểu ra, đã cố vấn cho cô đổi một chữ trong bài ca và vì vậy làm cả quán cà phê, mà phần đông đều là những thằng lính quèn năm xưa như tôi, bị chưng hửng, và rồi cảm thấy rất buồn vì chợt thấy lại cảnh rã ngũ của ngày nào.

Cô ca sĩ khả ái Bê Ta mà tôi hằng mến mộ đang song ca bài Trăng Tàn Trên Hè Phố “Tôi lại gặp anh, người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước... lê qua đường phố”. Ông Phạm Thế Mỹ khi sáng tác nhạc phẩm này, ông tả người lính chiến với cây súng trên vai bước về qua đường phố. Người lính chiến trong độ tuổi ba mươi... trông thật hiên ngang và oai hùng. Nhưng, có lẽ cô ca sĩ khả ái mà tôi hằng mến mộ đã tưởng tượng lại cảnh gặp anh lính chiến bị rã ngũ ngày ba mươi tháng tư đen năm xưa nên cô thấy anh bước lê... lết thất tha thất thểu qua đường phố.

Tôi trở về nhà trễ gần hai tiếng. Có lẽ con mèo nó đi tìm tôi chăng, nhưng từ hôm đó nó không còn trở về nhà nữa. Lúc đó tự nhiên tôi nghĩ là, bỗng từ đâu con mèo quay trở về thì có lẽ nó cũng lê... lết qua hè phố để về nhà vì vừa thoát được sự tàn ác của con người, nhưng thể xác và tinh thần của nó thì đã rũ rượi rồi.

Nghĩ đến sự tàn ác của con người đối với con vật, tôi hướng ánh mắt nhìn qua nhà cô Trinh.

Cô Trinh năm nay đã năm mươi bốn tuổi rồi, nhưng, cũng giống như bác Ba mẹ cô, cô vẫn xinh đẹp tuy có già hơn một chút.

Bác Ba vừa mất được một năm. Từ một năm qua người đi chợ đã không còn được thưởng thức món bánh tằm bì với nước dừa thật thơm thật béo ngậy và nước mắm ớt thật ngon nữa. Chồng cô Trinh thì cũng đã mất trong trại cải tạo và cô thì vẫn ở vậy nuôi thằng con tật nguyền.

Thằng Hậu vẫn không nói được và đi được như người bình thường mà phải bò; tuy hai chân của nó không hề bị dị tật. Mỗi khi ăn, thằng Hậu không muốn, hay không thể bưng chén cơm lên miệng, mà nó cúi xuống vục miệng vào chén cơm ăn như con chó.

Từ ngày chồng cô Trinh mất tôi không muốn qua nhà cô nữa vì sợ cô ngại. Nhưng lần này tôi phải qua nhà cô Trinh vì tôi nghi con mèo của tôi đã bị thằng Hậu sát hại.

Thằng Hậu thấy tôi bước vào cửa là nó nhìn tôi như sợ hãi lắm. Khi cô Trinh đi lấy nước mời tôi, tôi đã vuốt ve thằng Hậu ra điều thông cảm cho nó lắm. Tôi nói với nó như nói với người thân yêu:

– Hãy tha cho thằng Hậu đi. Ba nó làm ác nhưng ba nó đã chết rồi thì tại sao cứ phải hành hạ trả thù một người vô tội như vậy chứ. Con mèo của tôi mất, tôi biết ai đã làm cho nó bị đau đớn rồi. Tôi sẵn sàng bỏ qua hết mọi chuyện chứ không buồn và cũng không hận thù gì cả. Thù hận cứ nuôi mãi sẽ chồng chất thêm hận thù thì biết đến bao giờ tâm hồn mới yên vui và sống hạnh phúc được.

Thằng Hậu nhìn tôi với ánh mắt thật hiền và, bỗng nó oà lên khóc thật lớn.

– Sao vậy con? Sao con lại khóc vậy con?

Cô Trinh từ dưới nhà đi lên thấy thằng Hậu khóc nên cô lính quýnh lau mặt cho nó, nhưng cô không thể ẵm nó như ngày nào nữa vì nó quá lớn con. Thằng Hậu dù gì cũng đã trên ba mươi tuổi rồi chứ đâu còn nhỏ nhắn như ngày xưa nữa. Cô Trinh thì lúc nào cũng xem thằng Hậu như là đứa con nít vậy.

Tôi đứng lên cáo từ cô Trinh để ra về. Thằng Hậu nhìn tôi rồi bò vào trong phòng.

***

Hai ngày sau cô Trinh qua nhà tôi vừa khóc lóc vừa báo tin là thằng Hậu đã chết hồi đêm và nhờ tôi giúp lo việc tống táng.

– Hu hu hu... anh Tám ơi, hôm kia anh Tám qua chơi thì thằng Hậu còn khỏe mạnh bình thường lắm, thế mà từ khi anh về thì nó bò vào giường ngủ chứ không chịu ăn uống gì hết. Hu hu hu... Đến nửa đêm hôm qua thì không biết tôi có nghe lầm hay không, nhưng trước khi thằng Hậu trút hơi thở cuối cùng hình như thằng Hậu có kêu lên một tiếng má rồi mới chịu xuôi tay. Hu hu hu... sao tôi lại khổ đến như thế này hả anh Tám ơi. Hu hu hu... Tôi đặt tên con là Hậu mà nó không có hậu gì hết. Hu hu hu... Anh Tám giúp tôi mọi việc đi chứ bây giờ tôi cũng không biết phải làm sao và nhờ ai nữa. Hu hu hu. Hu hu hu…

Số người đi đưa đám thằng Hậu chẳng có bao nhiêu ngoài cô Trinh, tôi, và bảy thằng bạn thân cùng xóm, cùng lứa tuổi, cùng vui chơi với tôi từ những ngày còn thơ ấu cho đến nay; tổng cộng là chín người. Có phải là một sự ngẫu nhiên không? Tôi tự hỏi vậy vì chín cũng là cẩu mà cẩu là...

Tôi bỏ nắm đất xuống mộ thằng Hậu và khấn xin trời cao cho nó mau được siêu thoát.

Nhìn mộ thằng Hậu, tôi nghĩ là vĩnh viễn tôi sẽ không bao giờ dám thố lộ chuyện này ra cho ai biết. Nếu má tôi còn sống thì tôi cũng im lặng luôn vì đối với má, tôi luôn là thằng con trai thật dễ thương, ngay thẳng, hiếu thảo nhưng ngu ngốc và vô dụng cho nên đến giờ này mà chẳng có cô nào dám xáp vào với tôi. Bất giác tôi nhìn qua cô Trinh. Gương mặt của cô Trinh buồn não đến không thể tả nổi, vậy mà tôi vẫn thấy cô đẹp như những ngày xa xưa mà tôi thường mong được nhìn thấy cô qua căn gác nhỏ ghi nhiều kỷ niệm. /. 

Topa
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.637 seconds.