Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 190 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 13/Jan/2018 lúc 8:26am |
RỒI XUÂN CŨNG TRỞ VỀ
Thế là sau ngày đó Đăng quen
“chị” Huyền thật sự. Cứ khi thấy “chị” Huyền ra ngồi lượm thóc ở hội
trường là Đăng đến gần để chuyện trò. Những chuyện vu vơ của đất trời,
những chuyện về gia đình của Đăng và Huyền được hai người tâm sự nhiệt
tình.
VŨ NAM (Germany) Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Jan/2018 lúc 9:05am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 15/Jan/2018 lúc 8:37am |
Nghĩa Tình Thuỷ ChungỞ xứ sở phương nam này, không có những đợt gió lạnh cắt da như mùa đông xứ bắc, lại càng không có những cảnh tuyết trắng ngập đường như ở Bắc Mỹ hay trời Âu xa xôi. Tuy nhiên, trong mấy ngày gần đây, trời bỗng nhiên se lạnh. Nhiều người dân Sài thành đã bắt đầu diện thêm cho mình những bộ áo mới, dầy hơn, ấm hơn để chống chọi lại với thời tiết bỗng trở nên biến đổi thất thường như thế. Những ngày cuối cùng của tháng 12, tôi đi tìm kiếm những vị khách mời đặc biệt cho một buổi tiệc mừng tất niên năm Dương lịch. Những vị khách đặc biệt, không phải là những ông hoàng bà chúa, không có xe hơi, nhà biệt thự lộng lẫy đắt tiền, không địa vị xã hội, không quyền không thế và lại là những người tôi không quen biết. Ở đâu đó, trong góc tối của một con đường, trong một góc công viên, dưới gầm những cây cầu lớn trong thành phố, họ nằm ngủ dưới nền đất lạnh lẽo, đối diện với những con gió lạnh căm với độc một bộ đồ cũ kỹ mặc cho những con gió lạnh lẽo thổi qua và những cái nhìn miệt thị, không mấy quan tâm của người đời. Nơi đó, họ chỉ có những con muỗi và côn trùng làm bạn. Giữa sự phồn vinh của Sài Gòn hoa lệ, họ sống như những chiếc bóng vật vờ, như những viên sỏi nhỏ lặng câm bên vệ đường vì đã bị xã hội, đồng loại tàn nhẫn loại ra ngoài. Và tôi đã gặp hai người khách đặc biệt trong một đêm đầy sương gió như thế… Con đường về khuya vẫn còn tấp nập người qua kẻ lại, tiếng kèn xe chốc chốc lại vang lên giữa màn đêm. Bên dưới những cây cầu lớn thường là nơi tá túc, che nắng che mưa của một số người nghèo khổ, sa cơ lỡ vận và ở chỗ cây cầu lớn này cũng không ngoại lệ. Một người đàn ông gầy gò đang lui cui bế một phụ nữ từ chiếc xe lăn và nhẹ nhàng đặt xuống manh chiếu rách. Sau đó, ông lấy ra từ trong cái túi đồ đã bạc thếch một cái mền nhỏ màu trắng với những vết bẩn loang lổ và đắp lên cho người phụ nữ. Từ từ, ông lấy ra một cái áo, cuộn lại làm thành một cái gối và kê vào bên dưới đầu. Xong đâu đấy, ông mắc một cái võng và nằm lên, mắt nhìn xuống người phụ nữ đang nằm bên dưới và dường như hai người đang cười với nhau. Khi tôi quay xe lại thì cả hai đã yên vị đâu đó và có vẻ như đã sẵn sàng cho giấc ngủ đang đến. -- Có chuyện gì không hả cháu? Người đàn ông ngước mắt lên nhìn tôi, tay đang cầm cái mũ màu đen đầy cáu bẩn. - Dạ không ạ! Tại thấy chú nằm ngủ ở đây nên cháu đến hỏi thăm chút thôi ạ. Đây là mẹ của chú à? - Ha ha! Vậy à? Ai cũng hỏi như vậy hết! Không phải đâu! Đây là vợ chú đấy! Tôi đã lầm! Người phụ nữ đang nằm kia có mái tóc bạc trắng, da nhăn nheo và đôi tay gầy guộc gân guốc như que củi. Nhưng hoá ra, đó là một người phụ nữ mới 55 tuổi. Nghe có tiếng động, bà mở mắt ra nhìn tôi, đôi môi nở một nụ cười méo mó rồi nhắm mắt lại. Đôi mắt kia ánh lên một nét gì đó rã rời, cùng kiệt. Và rồi, người đàn ông bắt đầu kể lại cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời chú bằng một giọng điệu trầm buồn… Chú là Hoàng, hơn vợ 4 tuổi. Chú vốn là người Bạc Liêu, đã từng có một gia đình đàng hoàng, vui vẻ. Cô chú từng có một đứa con trai, nhưng năm lên 4 tuổi, cháu bị ung thư máu. Bao nhiêu tiền bạc trong nhà cứ lần lượt đội nón ra đi. Cô chú làm lụng được bao nhiêu cũng đều dành cả để lo thuốc thang cho con với ước mong cháu bé có thể sống thêm được lúc nào hay lúc ấy. Ban đầu, gia đình có một mảnh vườn trồng cây ăn trái, cộng thêm nghề thợ may của cô nữa nhưng vẫn không đủ tiền thuốc thang cho con. Mảnh vườn cuối cùng phải sang lại cho người khác nhưng bệnh tình con trẻ vẫn không mấy khả quan. Và rồi, cuối cùng vào một buổi chiều mưa định mệnh, cậu bé đã ra đi trong sự tiếc thương và đau xót của cha mẹ và người thân. Sau đó không bao lâu thì cô lại bị chứng tai biến mạch máu não và bị bại liệt luôn. Thương vợ, chú bán hết tất cả tài sản trong nhà để chạy chữa thuốc thang và đi làm nghề chạy xe ôm. Bà con, bạn bè giúp mãi rồi cũng chán, phàn nàn lời ra tiếng vào nên chú quyết định không dám nhờ vả, xin xỏ gì ai nữa. Nghề xe ôm cũng vắng khách và rồi đến lúc xe hư, chú không có tiền sửa. Ít lâu sau, chiếc xe cũng được thanh lý với cái giá chẳng được là bao. Vợ chồng chú phiêu bạt đó đây, lưu lạc lên đến đất Sài Gòn hoa lệ. Chú xin đi làm thợ hồ và bốc vác thuê. Đi đâu, chú cũng mang cả cô theo cùng. Ban đầu, người ta còn thuê mướn, nhưng về sau, thấy chú lúc nào cũng kè kè theo sau người vợ bệnh hoạn, tật nguyền, kể cả những khi ra ngoài công trường, người ta đâm sợ bị liên luỵ, phải gánh thêm trách nhiệm nên không thuê mướn nhiều nữa. Nhưng chú có thể gởi vợ ở đâu bây giờ? Để ở vỉa hè một mình không thể được! Ai lo chuyện ăn chuyện uống? Ai lo chuyện tắm giặt, vệ sinh? Nào ai có thể giúp chú được đâu, còn nếu bỏ vợ ở lại một mình thì chú cũng không thể an tâm làm việc được! Thôi thì đành vậy! Ai thuê thì làm, bao nhiêu cũng được, được ít tiền nhưng còn được có vợ mình bên cạnh vẫn tốt hơn! Tôi nhìn chú bằng ánh mắt ngỡ ngàng và cảm phục! Trong cái xã hội xô bồ của chốn thị thành, trong sự phồn vinh và thế giới ưa chuộng về vật chất này, tình cảm vợ chồng chỉ còn mơ hồ như sương khói. Người ta chia tay nhau sau vài tuần đám cưới chỉ vì một điều gì đó không hợp nhau. Người ta xa nhau để đi tìm kiếm danh vọng, địa vị cho mình. Và đôi khi có những cặp vợ chông trẻ chia tay nhau vì không thấy thoả mãn về đối phương… Nếu ông ăn chả thì bà cũng ăn nem, làm gì có chuyện “một túp lều tranh, hai quả tim vàng”, những chuyện sống với nhau đến răng long đầu bạc thì quả là đếm được trên đầu ngón tay. Người ta ai cũng mong mình được tự do, không bị trói buộc, nghĩa tình tao khang nào có còn ai nhớ đến? Vậy nhưng chú, người đã đánh đổi hết tất cả những vật chất thế gian để giữ lại bên mình người vợ tật nguyền. Có mấy người dám bán hết đất đai, nhà cửa để lo cho vợ và rồi cuối cùng phải ra sống nơi gầm cầu? Mấy ai có thể tận tâm chăm sóc, lo lắng cho người vợ tật nguyền, đau bệnh như vậy mà vẫn không hề kêu ca, than trách? Chú hoàn toàn có thể rời bỏ cô đi cho nhẹ gánh, việc gì phải mang lấy vào mình một gánh nặng như thế! Vậy mà chú vẫn cưu mang, lo lắng cho vợ như một tặng phẩm vô giá cho mình đã gần 10 năm nay! Tôi hỏi xem chú có cần giúp đỡ gì không. Chú cười, một nụ cười bâng quơ mà chua chát. Có lẽ, chú cảm thấy nghi ngờ, không còn tin tưởng, không còn hy vọng gì vào lòng tốt của thế gian nữa chăng! Câu nói của tôi làm chú nghĩ như một trò đùa! - Cháu có thể giúp được gì cho chú hả? Chú hỏi lại tôi - Cháu có thể chứ! Còn nếu không được, thì cháu sẽ nhờ thêm người khác nữa! - Vậy à? Chú im lặng hồi lâu. – nếu được, chú chỉ muốn tìm một nơi nào đó có mái che hẳn hoi để vợ chú có được một nơi để ngủ cho đàng hoàng hơn, không phải sợ mưa gió như bây giờ nữa. Khi ấy, chú sẽ an tâm hơn, sẽ đi làm được nhiều hơn để có thêm tiền lo cho bà ấy, để bà ấy không phải khổ như bây giờ nữa… Câu nói thốt ra từ miệng một người đàn ông dãi dầu mưa nắng, đang lâm cảnh túng thiếu bần cùng nhưng thấm đẫm một tình yêu thương nồng nàn của một người chồng nặng tình với vợ. Chú không mong muốn, không cần thêm gì cho mình cả, nhưng chỉ mong cho người bạn đời được bớt khổ sở hơn thôi. Giữa thế giới đầy toan tính vật chất, nhiều tiền của nhưng thiếu thốn tình người, nhiều tham vọng mà thiếu vắng lòng chung thuỷ này thật là quý báu lắm thay! Bàn tay gân guốc và chai sạn kia không nắm giữ tiền bạc, vàng ròng nhưng là đang nắm giữ và chở che cho một bàn tay người khác… Đêm nay, tôi trở lại nơi này để mời cô chú đi dự một bữa tiệc đặc biệt của một số Mạnh Thường Quân tổ chức để ủng hộ cho những người khó khăn, cơ nhỡ. Và hơn nữa, tôi mong chú đến dự bữa tiệc để may ra có thể tìm được một sự giúp đỡ nào đó chăng. Dù chỉ là ánh sáng của một que diêm vẫn còn hơn là sống trong màn đêm đầy tăm tối. Tôi thầm mong là chú sẽ chấp nhận lời mời của tôi. Nơi hai vợ chồng chú thường nằm ngủ đây rồi. Nhưng chiếc võng đâu? Cả chiếc xe lăn cũng không thấy? Chỉ thấy một mình chú đang nằm đó, co ro. Hay là chú đã tìm được một nơi nào đó tốt hơn để gởi vợ rồi? Nếu như thế thì chú phải ở lại đó chứ, sao lại về đây nằm một mình như vậy? Trong lòng tôi thấy dâng lên một niềm vui. Chú đã ngủ rồi, vẻ mặt vẫn khắc khổ và mệt nhọc. Trên đầu chú vẫn là chiếc nón kết cáu bẩn như hôm nào. Bên cạnh không có thêm vật gì khác nữa ngoài một chai nước nhỏ đặt trước mặt. Thấy chú đã ngủ say nên tôi cũng ngại đánh thức. Tôi phải lay gọi mãi đến lần thứ ba mới thấy chú cựa mình và mở mắt nhìn tôi. - Cháu đó à? Chú thều thào hỏi. Có chuyện gì không hả? Vợ chú đã mất 3 hôm rồi cháu ơi. Bây giờ chú đã mất hết rồi! Mất hết tất cả rồi! Không còn gì cả! Tôi đứng chết lặng người, không biết nên làm gì trong lúc này. Tôi còn chưa giúp được gì cho vợ chồng chú như đã hứa. Tôi cảm thấy mình quả thật bất lực. Tôi những mong mình có thể thắp lên trong chú một chút ánh sáng nhỏ nhoi, nhưng đã quá muộn rồi, tất cả đã trở thành bóng tối! Cuộc đời này sao quá mong manh vậy? Kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài… Vậy là hết! nhưng điều tôi phải nghĩ ngợi chính là bộ dạng thất vọng của chú. Chú không ngồi lên, chỉ nằm đó và thốt lên những lời cay đắng kia. Nói xong, chú kéo cái mũ sụp xuống che kín khuôn mặt như đang giấu đi đôi dòng lệ đang lặng lẽ tuôn rơi trên khuôn mặt dặn dày sương gió. Chú không nhẹ nhõm, không thở phào đi vì mình đã được vơi bớt gánh nặng mỗi ngày. Chú không thấy rằng như vậy sẽ làm cho mình được thoải mái hơn nhưng lại có thể đau đớn thốt lên rằng mình đã “không còn gì cả!”. Ôi, vợ đã mất rồi! Niềm vui nho nhỏ cuối cùng trong cuộc đời này đã mất theo! Giờ đây, chú không còn ai để quan tâm, để lo lắng, không còn ai để chăm sóc thương yêu. Trong cuộc sống này, chú không cần bất cứ thứ gì cả nhưng chỉ cần một người thôi, dù là một người bệnh hoạn, tật nguyền đi chăng nữa. Nhưng đó là tất cả của chú, một người vợ để thương yêu, một người bạn đời để chăm sóc, chia sẻ vui buồn. Từ nay, không còn ai để yêu thương! Thật không còn nỗi cô đơn nào hơn được nữa! Ai có thể thay thế, lấp đầy hố sâu thăm thẳm trong tâm hồn của chú đây? Cuộc sống từ đây còn biết lấy ai để chia sẻ, còn có ai để cùng chú trải qua những thăng trầm, buồn vui trong đời và còn có ai để cho chú tìm được hơi ấm của bàn tay? Tôi có thể nói gì đây, trong hoàn cảnh như thế này? Một người đang đau buồn, tuyệt vọng vì mất người thân. Tôi có thể nói gì với một người có vết thương lòng đang rỉ máu? Mời chú đi dự tiệc ư? Tôi có thể sao? Tôi đang chế giễu, đang cười nhạo người khác ư? Bây giờ, chú đâu còn cần gì những sự giúp đỡ ấy nữa? Tôi cảm thấy mình cũng thật nhỏ bé và mỏng manh trước những cơn gió lạnh đang thổi ngoài kia. Tôi ngồi lại với chú thêm một lát nữa rồi lặng lẽ ra về. Tôi biết, đêm nay, trong thành phố này, có người sẽ cảm thấy lạnh hơn… Trời đêm Sài thành hôm nay có vẻ như lạnh hơn. Lạnh của đất trời và lạnh cả trong tim… Phong Trần. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 16/Jan/2018 lúc 10:25am |
Cơn Nước LũThấy một thanh niên trông quen quen, mặc quân phục Hải Quân, đi ngược chiều với mình, Thạch chậm Vespa lại. Nhận ra người bạn thân hồi trước học trường Hưng Đạo rồi sau cùng vào Đại Học Khoa Học với chàng, Thạch thắng Vespa, reo lên: -Luân! Phải Luân không? Chàng Hải Quân ngạc nhiên: -Ủa, Thạch! Mày làm gì mà mặc đồ Biệt Động Quân “ngon” vậy? -Tao bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức; ra trường, xin về Biệt Động Quân. Còn mày, đi Hải Quân hồi nào? Tao nhớ hình như mày nhỏ tuổi hơn tao mà. -Ừ, tao chưa bị động viên; nhưng thấy bạn bè nay đứa này “lên đường”, mai đứa kia bị thương, mốt đứa khác tử trận, tao chịu không được, tình nguyện vào Hải Quân. -Hải Quân mà giờ này lang thang ở đây? -Chiến hạm vừa về nghỉ bến, tao muốn ghé thăm bà Cô để nhờ nhỏ em chở giùm về nhà Bố Mẹ tao. Còn mày? -Tao đi phép về thăm gia đình. Mày đi đâu, tao chở mày đi? Vừa “phóng” lên phía sau Vespa Luân vừa nói: -Cảm ơn mày. Cô tao ở gần đây thôi. -Có phải bà Cô mà hồi trước tụi mình thường tới chơi rồi đàn hát “lung tung beng” hay không? -Đúng rồi. -Vậy thì tao nhớ rồi. Thạch chợt nhớ Cô có người con gái đàn và hát rất hay, nhưng chàng không nhớ tên; vì lúc đó cô bé còn nhỏ, chưa gợi được sự chú ý của thanh niên. Thạch dừng Vespa trước nhà Cô. Luân bước xuống, chưa kịp cảm ơn Thạch thì Thủy Ngọc – con gái của Cô – đi học vừa về. Thủy Ngọc vui mừng chào Luân và Thạch rồi đi vào nhà. Ánh mắt của Thạch không rời Thủy Ngọc. Thấy ánh mắt của Thạch, Luân hơi phân vân; vì biết Chú của chàng không thích nhà binh – nhất là sĩ quan thuộc các quân binh chủng “thứ dữ” – vì Ông ngại con gái của Ông sẽ…Nhưng nếu, ngay bây giờ, Luân từ giả người bạn thân từng học chung, đi biểu tình chung, từng “văn nghệ văn gừng” với nhau trên các sân trường đại học thì Luân không đành! May quá, nhờ Thủy Ngọc cho biết có Luân và Thạch đến thăm, Cô bước ra cửa: -Luân! Sao không đưa bạn vô nhà chơi, con? Luân chưa kịp đáp, Thạch đã vội dựng Vespa, cúi chào: -Dạ, kính chào Cô. Lâu rồi mà Cô vẫn nhận ra cháu. -Cháu bận đồ lính thấy khác thật, nhưng Cô vẫn nhận ra. Vô chơi, cháu. Từ hôm đó, mỗi ngày Thạch đều đến Bến Bạch Đằng, lên chiến hạm HQ505, rủ Luân đi thăm Cô. Như dạo còn đi học, mỗi khi đến nhà Cô, Thạch thường đệm Guitar, Luân đàn Piano, Thủy Ngọc đàn Violon; đôi khi ba người thay đổi nhạc cụ hoặc cùng hát bên nhau. Sau đó, mỗi khi về phép, Thạch đều đến nhà Cô để thăm Thủy Ngọc. Thời gian này Thủy Ngọc đã trở thành một thiếu nữ cao, với những đường nét rất cân đối cùng gương mặt xinh đẹp, nhân hậu và đôi mắt nâu thơ dại. Chính nét thơ dại trong đôi mắt nâu nồng nàn và khuôn mặt phản phất vẻ đẹp Tây Phương cùng với tiếng đàn, tiếng hát của Thủy Ngọc mà rất nhiều chàng trai say mê, theo đuổi nàng. Thạch thầm tiếc là thời gian trước đây, cùng Luân đến thăm Cô và biết Thủy Ngọc học cùng trường, Thạch đã không hề để ý đến cô bé con, người còn “suôn đuột”, “chưa có ngực”. Bây giờ, mỗi lần về phép là mỗi lần hồi hộp, vì Thạch không biết Thủy Ngọc đã bị ai chinh phục hay chưa! Riêng Thủy Ngọc, dù biết Bố không thích nàng giao thiệp với nhà binh, nàng cũng vẫn bị cuốn hút vì bộ quân phục thẳng nếp, mái tóc cắt ngắn, làn da sạm nắng, dáng đi hiên ngang, đôi mắt nhìn thẳng và thái độ tự tin. Tình yêu trong lòng Thủy Ngọc và Thạch âm thầm nảy sinh cho nên chàng và nàng thường chọn những tình khúc có lời ca ướt lệ để cùng đàn, hát bên nhau. Những khi vắng Thạch, Thủy Ngọc thường thẩn thơ một mình, nét mặt buồn buồn và đôi mắt xa xăm như mong ngóng một điều gì! Khi Thạch về phép, ghé thăm, Thủy Ngọc tươi cười, líu lo như chú chim non vừa sổ lồng. Mỗi khi thấy sự thay đổi thái độ nhanh chóng của Thủy Ngọc, Bố Mẹ của nàng tự hỏi, tại sao Thủy Ngọc không vui tươi, hớn hở đối với những thanh niên khác, có bằng cấp và địa vị cao, đang cố chinh phục nàng mà nàng lại chỉ vui tươi hớn hở với Thạch thôi? Không những thế, khi Thạch và Thủy Ngọc cùng đàn và hát bên nhau, Bố Mẹ của Thủy Ngọc để ý: Dư Âm là tình khúc Thủy Ngọc và Thạch cùng đàn và hát nhiều nhất; kế đến là Love Me Tender. Bố Mẹ của Thủy Ngọc không hiểu tiếng Anh, nhưng động từ “love” thì Bố của Thủy Ngọc biết. Thế là Bố chỉ cần nhớ chữ “tender” rồi phiên âm ra tiếng Việt, hỏi Luân. Luân vô tình và ngay thật cho Bố biết đó là tựa một tình khúc của Elvis Presley. Bố bảo Luân dịch lời ca ra tiếng Việt. Sau khi hiểu rõ lời ca, Bố Mẹ trực tiếp cho Thạch hay rằng Ông Bà không cho phép Thủy Ngọc giao thiệp với Thạch nữa! ****** Nơi hậu trường, cách sân khấu bằng một tấm màn dày, thấy Thủy Ngọc đang hóa trang cho màn trình diễn thời trang, thái độ rất vui và tự tin, Thầy phụ trách văn nghệ hỏi: -Thủy Ngọc! Sẵn sàng cả rồi chứ? -Dạ, thưa Thầy… Vừa nói ngang đó, Thủy Ngọc chợt dừng lại; vì giọng Tenor của ai nghe quen quen, vang lên từ bên kia bức màn ngăn cách sân khấu và hậu trường: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ. Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ…”(1) Thủy Ngọc nhíu mày, đứng lặng như pho tượng! Nhưng trong tiềm thức, tình yêu nàng âm thầm dành cho Thạch bỗng cuồn cuộn trổi dậy như cuồn phong! Riêng Thạch, sau khi bị Bố Mẹ của Thủy Ngọc yêu cầu đừng liên lạc với Thủy Ngọc nữa, Thạch rất buồn và thất vọng! Những lúc hành quân truy kích hoặc trực thăng vận nhảy ngay trên đầu địch, Thạch quên mất nỗi buồn; nhưng khi rảnh rỗi hoặc nghe ai đàn, hát một nhạc phẩm mà chàng và Thủy Ngọc thường đàn và hát bên nhau thì nỗi buồn và sự thất vọng kéo về, đè nặng trong tim! Giờ đây, đang diễn đạt tất cả nỗi niềm của tác giả và cũng là niềm đau của chàng, giọng Thạch trở nên tha thiết vô cùng: “…Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời….Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ…Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ…”(2) Mấy năm qua, những kỷ niệm khi Thạch và nàng cùng đàn hát bên nhau tưởng đã chìm vào dĩ vãng; nhưng bây giờ, tiếng hát cao vút của ai bên kia tấm màn lại làm cho trái tim của Thủy Ngọc thổn thức âm thầm – nhưng rất dữ dội! Thái độ của Thủy Ngọc làm Thầy phụ trách văn nghệ thắc mắc: -Thủy Ngọc! Chị bình an chứ? -Dạ…thưa Thầy, ai…ai… đang hát ngoài đó, thưa Thầy? -Nhận không ra giọng à? Thạch đó. Thạch hồi trước cũng trong ban văn nghệ với Luân và Thủy Ngọc đó, nhớ không? -Dạ thưa Thầy, hôm tổng dợt, sao con không thấy màn đơn ca của anh Thạch trong chương trình? -Hôm qua Thạch ghé thăm trường, biết trường có buổi văn nghệ đêm nay, Thạch xin hát một bài. Nhận thấy Thạch là học trò cũ, năng khiếu văn nghệ cao, lại lên đường tòng quân, tôi cảm phục và chấp thuận. Thôi, chị chuẩn bị đi, sắp đến phiên chị đó. Nói xong, Thầy quay đi. Thủy Ngọc thở dài vừa khi Thạch chấm dứt màn đơn ca trong tiếng vỗ tay vang dội; rồi nhiều tiếng “bis…bis…” vang lên. Thạch nói vào micro: -Xin cảm ơn quý vị, quý Thầy Cô và các bạn. Tiếp theo, Thạch xin trình bày tình khúc My Heart Will Go On của Celine Dion Lại tiếng vỗ tay. Thạch dạo đàn rồi “bắt” vào: “Every night in my dreams, I see you, I feel you that is how I know you go on. Far across the distance and spaces between us you have come to show you go on…” Theo giọng hát buồn buồn của chính mình, Thạch nhớ những buổi chiều im vắng, sau khi hành quân trở về, chàng thường ôm Guitar, vừa đàn vừa hát vừa nhìn dòng suối cạn phía xa trong khi hoàng hôn lũ lược kéo về phủ xuống núi rừng thâm u. Nơi vùng núi rừng thâm u đó, mỗi khi đoàn quân dừng chân, Thạch thường chạnh lòng nghĩ đến phận đời của chàng và của những thanh niên cùng thế hệ với chàng – ở miền Nam – rời gia đình, xa người thân và bạn hữu, phải hành quân liên miên để chống trả những đợt tấn công ác liệt của Bắc quân xâm lược! Suốt thời gian được tăng phái, Thạch không thể nhớ được bao nhiêu lần đơn vị chiến lược này bị “tiền pháo, hậu xung” và bị tấn công bằng chiến thuật “biển người”. Thạch chỉ nhớ lần cuối cùng, để giải tỏa áp lực của Bắc quân quanh đơn vị chiến lược này, đơn vị của chàng được lệnh tham dự cuộc hành quân hỗn hợp với một đơn vị Bộ Binh, vào một ngày mưa to gió lớn, có thiết giáp yểm trợ để càn quét các đơn vị Cộng Sản Việt Nam từ Bắc xâm nhập. Chính trong cuộc hành quân quy mô này Thạch bị Bắc quân dùng súng CKC bắn sẻ, khi Thạch đang khom người điều quân qua ống liên hợp. Viên đạn trúng chân trái của Thạch. Thạch và Tiểu Đoàn Trưởng Thiết Giáp xin trực thăng tải thương; nhưng thời tiết quá tệ và cũng vì súng phòng không của địch bắn lên xối xả, trực thăng không thể “bốc” thương binh! Khi được đưa về quân y viện, vết thương đã sưng to và làm độc!… Nhớ đến đây, giọng Thạch trở nên nghẹn ngào, đầy u uất:“…And my heart will go on and on. Love can touch us one time and last for a lifetime and never let go till we’re gone…” Trong khi nén xúc động, cố kềm nước mắt để Thầy và bạn khỏi biết, Thủy Ngọc chợt nghe các nam sinh “xầm xì”: -Anh Thạch “hết sẩy”! Ảnh “ngon” thiệt! -Tội nghiệp ảnh quá! Hai tiếng “tội nghiệp” khiến Thủy Ngọc tò mò. Bước đến bên trái sân khấu, nhìn ra, Thủy Ngọc ôm ngực, tưởng như trái tim của nàng đã thoát khỏi lồng ngực! Trước mắt nàng, Thạch – trong quân phục Biệt Động Quân, mũ nâu vắt hờ vào cầu vai trái – đang ngồi trên ghế, chiếc nạn gỗ dựa thành ghế, hai tay của Thạch ôm Guitar. Thạch tựa thùng Guitar lên bắp vế chân phải và đệm theo tiếng ca não nùng của chàng. Như không tin vào mắt mình, Thủy Ngọc cố thay đổi vị thế nhưng nàng cũng chỉ thấy một chiếc giày trận bên chân phải của Thạch thôi! Trong khi Thủy Ngọc run rẩy, nước mắt nhạt nhòa thì Thạch hát đến câu cuối: “…We’ll stay forever this way. You are safe in my heart. And my heart will go on and on.” Thạch cúi chào. Cả hội trường vừa vỗ tay vừa đứng lên. Thủy Ngọc hy vọng rằng Thạch sẽ vào hậu trường bằng cánh trái để nàng có dịp trực diện với chàng; nhưng, không hiểu vì vô tình hay cố ý, Thạch rời sân khấu bằng cánh phải. Thủy Ngọc ôm mặt, khóc như mưa! Vài cô bạn cho Thầy phụ trách văn nghệ biết sự việc đang xãy ra cho Thủy Ngọc. Thầy đến, đưa Thủy Ngọc ra sau tấm màn: -Tại sao chị lại xúc động quá độ như vậy? Tự nhủ, sẽ không để niềm đau thương của riêng mình ảnh hưởng đến buổi văn nghệ mà toàn trường đã dày công tập luyện, Thủy Ngọc trở nên bình tĩnh một cách lạ thường: -Thưa Thầy, con xin lỗi. Như Thầy biết, anh Thạch là bạn cùng lớp với anh Luân của con. Anh thạch thường đến nhà con hòa đàn với anh Luân và con. Bây giờ, bất ngờ thấy anh Thạch như thế con chịu không được! -Tôi hiểu. Chị nghĩ chị có vững tinh thần để giữ tiết mục độc tấu Violon hay không? -Dạ, thưa Thầy… Bất ngờ một ý nghĩ thoáng qua, Thủy Ngọc tiếp: -Thầy cho con xin một đặc ân, được không ạ? -Vâng, chị cứ nói. -Thưa Thầy, con xin Thầy cho con được đổi mục độc tấu bằng mục đơn ca. Đã từng nghe Thủy Ngọc hát nhiều lần trong những buổi văn nghệ trước đây, Thầy gật đầu: -Vâng. Chị cho người giới thiệu chương trình biết sự thay đổi này và cho anh đàn Guitar biết “tông” và nhịp điệu của bản nhạc, nhé! -Dạ. Con xin cảm ơn Thầy. Sau khi nghe người điều khiển chương trình giới thiệu Thủy Ngọc sẽ trình bày ca khúc Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy, Thạch cảm thấy bồi hồi, xúc động! Nhìn dáng Thủy Ngọc thướt tha bước ra, cúi chào, đến sau micro rồi kéo micro cao hơn, Thạch tự hỏi, không biết tình cờ Thủy Ngọc chọn ca khúc này hay là…Thạch thở dài, lắc đầu, không muốn nghĩ tiếp. Dạo phân đoạn đầu xong, người đàn Guitar “rải” một tràng hợp âm và Thủy Ngọc “bắt” vào: “Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ. Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…” Nét mặt thống khổ, hai hàng nước mắt tuôn dài cùng tiếng ca nức nỡ của Thủy Ngọc khiến tất cả khán giả bàng hoàng đến sửng sờ! Đến đoạn điệp khúc, giọng Soprano của Thủy Ngọc vút cao: “…Anh trở về nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Cố quên đi một lần gian dối, anh ơi!…”. Một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân, chống nạn, khập khểnh rời hội trường; vì trái tim của quân nhân này không thể nhận thêm bất cứ sự đau đớn, dày vò nào nữa!… ****** Thấy Luân cùng với Bố Mẹ đến thăm, Ni Cô Diệu Thu rất ngạc nhiên; càng ngạc nhiên hơn nữa khi Ni Cô thấy thái độ của Luân rất bối rối, bồn chồn và Bố Mẹ thì lo âu, buồn bả, chứ không bình thản như những lần Bố Mẹ đến thăm nàng trước đây. Luân nhập đề ngay: -Ni Cô có theo dõi thời sự hay không? -Dạ không. Nhưng em nghe nhiều Phật tử bàn tán. -Cô Chú muốn tôi đưa lên đây để thuyết phục Ni Cô cùng di tản với gia đình. -Thưa Bố Mẹ, thưa anh, con đã an trú cửa Phật rồi thì đâu có gì mà phải di tản? -Ni Cô chưa hiểu bản chất của Cộng Sản đâu. Ni Cô nên nghe lời, về nhà cùng đi với gia đình; gia đình không bao giờ ra đi mà để Ni Cô ở lại. Quay sang Bố, Ni Cô giải thích: -Thưa Bố Mẹ, người đã thành tâm xuất gia thì không bao giờ chọn sự sung sướng cho bản thân mà chỉ cầu an vui cho tha nhân. Con chỉ muốn sớm tối nương tựa cửa Phật và phát huy đạo pháp. Giọng Bố rất buồn: -Nếu Ni Cô muốn phát huy đạo pháp thì Ni Cô nên đi với gia đình; dù gia đình cũng chưa biết sẽ đi đâu và đến đâu. Nhưng gia đình – nhất là các em trai của Ni Cô – không thể nào ở lại với Cộng Sản. Đến bất cứ đâu, Ni Cô cũng có thể rao truyền về Phật Giáo để cảm hóa con người. -Thưa Bố, nếu muốn cảm hóa con người một cách thiết thực thì con nên ở lại Việt Nam để cảm hóa những kẻ ác – những kẻ đã tạo ra không biết bao nhiêu đau thương cho dân tộc Việt Nam! Rất ngạc nhiên trước sự suy luận rất hiện thực của Ni Cô, nhưng Bố vẫn thuyết phục: – Ni Cô nên nhớ, ở ngoại quốc rất ít người theo đạo Phật; Ni Cô nên ra đi để có cơ hội giúp người ngoại quốc hiểu về Phật Giáo. -Thưa Bố, con nghĩ, trên thế giới, bất cứ người nước nào cũng có nhiều thiện tâm hơn người Việt mình; thế thì người ngoại quốc không cần con phải đem đạo lý của Đức Phật ra giảng cho họ. -Lý do nào Ni Cô lại nói như thế? -Bố và anh Luân nghĩ xem, trên thế giới có quân đội nào xua quân tàn sát gần như trọn vẹn dân chúng của một thành phố lớn, như Huế, năm 1968? Có quân đội nào mỗi ngày pháo kích cả ngàn quả đại pháo hoặc hỏa tiễn 120 ly vào các thành phố đông dân cư, như Bình Long, An Lộc rồi pháo kích ngay vào trường học Cai Lậy và bệnh viện Long An? Có quân đội nào pháo kích chính xác và điên cuồng vào đoàn dân chạy loạn từ Quảng Trị vào Huế năm 1972 và từ Đà Nẵng sang Tiên Sa vào tháng cuối Ba năm 1975? Có quân đội nào đưa ra chiến trường thanh niên 15, 16 tuổi rồi buộc những thanh niên này phải thực hiện chiếc thuật biển người? Có quân đội nào, ngay sau khi cưỡng chiếm được mục tiêu, đã xua đuổi tất cả thương binh ra khỏi những quân y viện của “bên thua cuộc”? Câu giải đáp là: Chỉ có Quân Đội Cộng Sản Bắc Việt mới vô nhân tính khi thực hiện những hành động tàn ác đó. Những hành động dã man như thế không thể gọi là chiến đấu. -Nếu Ni Cô hiểu được như thế thì Ni Cô càng nên ra đi, xa lánh kẻ ác. Nơi môi trường mới Ni Cô cũng vẫn có thể hoành dương đạo pháp. -Thưa Bố, nếu cần phải dùng tín ngưỡng để cảm hóa con người thì chúng ta nên dùng tín ngưỡng để cảm hóa kẻ ác trước; và kẻ ác cần phải cảm hóa chính là những người Cộng Sản Việt Nam; vì họ đã bị đầu độc, bị cổ xúy, rồi dùng vũ khí của Nga, Tàu và tất cả mọi thủ đoạn để giết người miền Nam với chủ đích cướp đi phần đất mà chính những kẻ ác đó đã đồng ý phân chia từ năm 1954! Luân có vẻ sốt ruột: -Chúng ta không có thì giờ để tranh luận. Ni Cô nên nghe lời Cô Chú kẻo Cô Chú buồn. -Thưa Bố Mẹ, con xin lỗi Bố Mẹ. Bố Mẹ cho con ở lại để con được thực hiện hạnh nguyện của con. Đến lúc này, không thể kềm giữ tình cảm được nữa, Mẹ khóc ròng: -Con ơi! Bố Mẹ chỉ có con là con gái, không hiểu vì lý do gì con đi tu, Mẹ đã đau buồn nhiều lắm rồi! Bây giờ con lại đành đoạn ở lại thì Mẹ sống sao nỗi, con ơi! … Kể đến đây, Luân cảm thấy đau lòng quá, vội nhìn xuống để Thạch không thấy đôi mắt ửng đỏ của Luân. Cả hai im lặng rất lâu. Nhìn vùng biển lao xao phía xa của trại tỵ nạn Orote Point, Guam, tâm trí của Thạch quay cuồng. Cảm giác hụt hẩng và trạng thái chối bỏ quyện vào nhau khiến Thạch cảm thấy nhức đầu và gần như ngộp thở! Cảm giác này cũng tương tự như buổi sáng năm nào, tại quân y viện Pleiku, Thach tỉnh lại, nhận ra chân trái của chàng không còn nữa! Luân hỏi: -Thạch! Lần cuối cùng mày thấy hoặc gặp Thủy Ngọc là lúc nào? Thạch kể lại diễn tiến buổi văn nghệ liên trường. Luân thở dài: -Thế thì tao hiểu rồi. Tội nghiệp em tao! Nó giữ kín niềm đau, gia đình không ai biết. Tại sao mày bị thương mà mày cũng giấu tao? -Vì mày biết thì Thủy Ngọc biết. -Nếu thế thì mày tham dự văn nghệ liên trường để làm gì? -Tình cờ ghé thăm trường tao mới biết có buổi văn nghệ đó. Tao suy nghĩ và muốn đích thân tao giải bày nỗi niềm của tao với Thủy Ngọc chứ tao không muốn người khác mách lại. Bất ngờ nghe Luân vô tình nói tên ngôi chùa mà Thủy Ngọc đang tu, tâm trạng của Thạch rối bời và trí óc quay cuồng! Sau khi bằng lòng với quyết định của mình, Thạch bảo: -Thôi, tao đi! -Đang sắp hàng lấy phần ăn, sắp tới phiên rồi, sao mày lại bỏ đi? Thạch vẫy tay, khập khểnh bước đi… ****** Nhờ số tiền những người di tản biếu trước khi Thạch trở về trên thương thuyền Việt Nam Thương Tín – khi Thạch bị giam tại Nha Trang, ban quản giáo tịch thu hơn một nửa – Thạch đi xe đò về Saigon, đến ngay ngôi chùa mà Luân đã vô tình nói tên. Sư Cô trù trì cho Thạch biết, lý do Ni Cô Diệu Thu xin hoàn tục là vì Bố Mẹ của Ni Cô bị “cách mạng” cho đi kinh tế mới. Ni Cô biết Bố Mẹ không quen lao động cực nhọc, Ni Cô muốn nhận lãnh trách nhiệm của người con bất hiếu! Bao giờ Bố Mẹ quy tiên, Ni Cô sẽ trở lại con đường tầm đạo! Đến nhà Thủy Ngọc, chỉ thấy những kẻ quê mùa, đen đúa, còi cọc và hầu như ai cũng có đôi má gồ, răng vẩu, đầy cáu bẩn, đôi mắt láo liêng như rình rập ai, như sợ sệt điều gì và phát ngôn the thé thứ tiếng Bắc rất lạ tai, Thạch than thầm: “Những kẻ này mà thắng mình được sao, Trời!” Đến nhà Bố Mẹ của Luân, Thạch cũng chỉ thấy những người của “bên thắng cuộc”! Thạch về nhà Cha Mẹ. Một người đàn ông – cũng da xanh mét, răng hô, má gồ và đôi mắt láo liêng như sợ sệt, như theo dõi ai – bước ra, hỏi: -Anh cần gì? -Cách nay không lâu, tôi ngụ tại ngôi nhà này. -Ô, thế anh “nà” con của ông Trưởng Ty… Thạch đáp nhanh, không để ông này nói tiếp: -Vâng. Tôi là con cả. -Thế anh “nà” đại úy Biệt Động Quân, đúng không? -Vâng. -Tôi được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này, ngoài ra chúng tôi không biết gì cả. Thạch thầm nghĩ “Chiến thắng để được như thế này hèn chi ‘cha con nó’ mới thề ‘sinh Bắc tử Nam’!” rồi hỏi: -Thế ông biết Ba Má tôi dời đi đâu không? -Gia đình tôi mới dọn vào nhà này khoảng vài tháng thôi nên tôi chả biết. Thạch cảm ơn ông rồi bùi ngùi quay đi. Lang thang, đau khổ và lạc lõng ngay trên Quê Hương mà chàng đã để lại một phần thân thể, Thạch bỗng nghe tiếng hát nghẹn ngào của một thương binh “Ngụy” đang ngồi xin tiền bên gốc cây: “…. Chạnh lòng tìm người em gái cũ, em tôi đã đi phương nào? … Giờ này tìm đâu hình bóng cũ, em ơi! Em đi về đâu?… Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân nơi sa trường. Ngày thì tìm vui bên tiếng súng khi đêm anh vui với đàn…Dù mộng tàn phai trong thương đau…”(3) Tiếng ca ai oán của anh thương binh như cơn nước lũ cuốn đi tất cả sự kiên nghị, bản tính can cường và ý chí phấn đấu của Thạch! Thạch hơi cúi đầu, bậm môi thật chặt rồi kín đáo đưa tay quẹt nước mắt!… ĐIỆP MỸ LINH (1) và (2) Dư Âm của Nguyễn Văn Tý (3) Chiều Hành Quân của Lam Phương |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 18/Jan/2018 lúc 7:51am |
Xuân Về Nơi Xứ Người
Khá vất-vả Thủy mới tìm được chỗ đậu xe trong một khu chợ Việt-Nam. Hôm nay đã là 28 Tết. Mọi người đang bận-rộn, náo-nức đón thêm một cái Tết Việt trên đất Mỹ. Người ta đi chợ đông như đi trẩy-hội. Ngày mai chợ-búa bớt đông người hơn, vì người ta còn để thì giờ lo chuẩn-bị đón giao-thừa, và cũng vì đã mua đủ mọi thứ cần dùng trong nhà vào những ngày trước rồi. Thủy đã định sắm-sửa từ mấy hôm trước để hôm nay được rảnh-rang ở nhà, nhưng rồi những công-việc không tên ở sở cứ nhè những ngày cuối-cùng của năm hết Tết đến ùa tới, khiến ngày nào Thủy cũng phải làm thêm giờ để cho xong. Trong sở, mấy người Việt-Nam xì-xào to nhỏ là lão giám-đốc Gordon định bày trò “đì” người Việt-Nam và người Tàu, vì lão biết Tết là ngày lễ truyền-thống rất quan- trọng đối với những người này, “đì” chơi cho bõ ghét. Họ còn bảo là lão Gordon kỳ-thị chủng-tộc. Chỉ có Thủy là không nghĩ như thế. Thủy không nghĩ là lão Gordon lại tệ như vậy. Nếu thực-sự ghét người Việt-Nam và người Tàu, với tư-cách và quyền-hành giám-đốc, lão đâu cần phải làm như vậy. Ngược lại, lão có nhiều cách khác, êm-ái hơn và có thể còn ghê-gớm hơn đối với những người bên dưới lão, mà chẳng ai làm gì được. Tuy trong lòng bênh-vực lão giám-đốc nhưng phải làm bù đầu bù cổ vào mấy ngày cận Tết, Thủy cũng thấy khổ thật. Lẽ dĩ-nhiên làm thêm giờ là sẽ lãnh thêm tiền. Nhưng ai cũng biết là tiền-bạc đôi lúc chẳng có giá-trị gì. Sau khi đã khóa xe, Thủy bước vào trong chợ. Đây là một ngôi chợ do người Việt-Nam làm chủ. Ngôi chợ khá lớn, bán gần như đầy-đủ mọi mặt hàng cần-thiết cho đời sống hàng ngày của mọi người. Hôm nay, Thủy sẽ có dịp nói tiếng Việt mệt nghỉ, bù lại những tháng qua, ngày nào cũng 8-9 tiếng Thủy phải nói hay đọc tài-liệu bằng tiếng Anh, chán chết. Đợi lúc lão Gordon vui-vẻ, Thủy xin nghỉ một ngày để đi lễ chùa. Đã lâu Thủy không có thì-giờ bén-mảng tới các cửa chùa. Ở quận này bây-giờ có những ngôi chùa rất lớn làm Phật “phân-vân” không biết vô chùa nào. Thủy chỉ đi lễ 1-2 chùa thôi, chùa nhỏ cũng được, và không cần phải đi cả 10 chùa như người ta. Vậy là ngày mùng một Thủy sẽ đi chùa. Lúc đầu lão Gordon có vẻ không bằng lòng. Thủy phải nói mãi, lão mới chịu. Thủy định bụng, nếu lão Gordon không chịu, Thủy cứ nghỉ “đại” rồi “ra sao thì ra”, một năm mới có 1 lần mà, nhưng may quá, sau cùng, lão đã chịu-thua “con Việt-Nam” bé-nhỏ này. Sự bề-thế của ngôi chợ cũng đủ cho thấy sự thành-công của chủ nhân. Sau tháng tư 1975, hàng triệu người Việt ra đi, tản-mác khắp thế-giới. Trong số này có những người trẻ thành-đạt trên đường học-vấn, nắm giữ những vai-trò quan-trọng trong guồng-máy xã-hội, kể cả chính-trị, và có những người thành-công về mặt kinh-tế, trở thành chủ-nhân nhiều cơ-sở thương-mại. Rất nhiều người bản xứ đã phải khâm-phục và kính-trọng người Việt-Nam. Chỉ tiếc rằng cộng-đồng người Việt chưa có được sự đoàn-kết đúng mức, nên còn có những điểm tiêu-cực hoặc thất-bại đáng tiếc. Có một số ít còn có tinh-thần bè-phái và tham-quyền cố-vị. Đã có một thời-gian dài, cộng-đồng người Việt ở Nam Cali có tới ba tổ-chức đại-diện. Tổ-chức nào cũng tự cho mình là đại-diện chính-thức của cộng-đồng. Nhưng khi gặp chuyện thì chẳng thấy anh-hùng hảo-kiệt nào cả. Bây giờ nói tới, người ta vẫn còn lắc đầu ngao-ngán. Qua mấy kệ hàng, Thủy thấy có những thứ rất đặc biệt dành cho ngày Tết như bánh chưng, bánh tét, mứt, hạt dưa, trái cây, có cả củ kiệu và hành ngâm trong những hũ nhỏ xinh-xinh bằng thủy-tinh đậy kín. Quầy thịt cá cũng là nơi thu-hút các bà nội-trợ mạnh-mẽ vào những ngày cuối năm. Người ta chỉ chỏ, chọn-lựa, khen-chê, nhộn-nhịp cả một góc chợ. Thủy ở cách đây hơn một giờ lái xe. Bình-thường Thủy đi chợ Mỹ ở gần nhà, mua những món ăn gần giống như người Mỹ và có cuộc sống cũng gần giống như người Mỹ bản-xứ. Mỗi tháng một lần, có khi lâu hơn, vì nhà xa, vì bận-rộn gia-đình và công- việc, Thủy mới lái xe tới đây, đi chợ Việt-Nam để mua những món ăn thuần-túy quê-hương. Hai đứa con của Thủy, đứa bốn tuổi, đứa sáu tuổi, không đứa nào thích ăn cơm Việt-Nam cả, nhất là khi phải ăn những món có mùi vị lạ, khó ngửi như nước mắm, mắm ruốc… Dù vậy, hai vợ chồng Thủy vẫn dạy cho hai con nói tiếng Việt, tập cho chúng cách cầm đũa và ăn những món hợp với khẩu-vị của người Việt như cá-kho, canh mùng-tơi, bầu, bí hay khổ-qua… Vợ chồng Thủy vẫn thỉnh-thoảng kể chuyện cho các con nghe về Việt-Nam, về thành-phố Sài-Gòn nơi Thủy đã ra đời, về những vùng đất quê-hương Thủy đã được bố mẹ đưa đi chơi vào những ngày còn nhỏ. Thực ra, sự hiểu biết của Thủy về Việt-Nam không bao nhiêu, vì ngày bố mẹ đưa Thủy lên thuyền vượt biên, Thủy mới chỉ là cô bé 14, 15 tuổi. Sau này qua tới Mỹ, nhờ đi học những lớp đặc-biệt, đọc thêm sách báo, xem phim ảnh, và nghe kể chuyện, Thủy có thêm những hiểu biết mới về quê-hương của mình. Thủy đọc nhiều sách về lịch-sử, địa-lý, văn-học…để bù-đắp cho những thiếu-sót của mình. Thủy cảm thấy tội-nghiệp cho một vài người bạn cùng sở. Họ có rất ít khiến-thức về Việt-Nam, có người nói tiếng Việt cũng chưa rành. Hỏi họ về Nguyễn-Du, Cao-Bá-Quát, Tú-Xương, Nguyễn-Khuyến… họ chỉ cười trừ “ù ù cạc cạc”cho xong chuyện. Thủy đứng khá lâu ở quầy thịt cá. Ở đây mọi thứ đều sạch-sẽ. Hồi còn ở Việt Nam, Thủy được mẹ dẫn đi chợ. Thủy đã thấy những khu bán thịt cá hôi-tanh, dơ-bẩn. Còn các bà bán hàng thì máu thịt cá văng dính đầy tay, đầy áo, có khi văng cả lên mặt mũi, nhìn thấy mà sợ. Điều đặc-biệt ở Mỹ, những người bán ở quầy thịt cá thường là nam-giới. Họ phục-vụ rất nhiệt-tình và vui-vẻ. Nhìn những miếng thịt sạch-sẽ xếp trong quầy kính, Thủy chợt nhớ tới nồi thịt heo mẹ nấu ở quê nhà vào những dịp Tết đến. Cái nồi thật to, bên trong óng-ánh mỡ với những miếng thịt xắt lớn chen với những quả trứng vịt no căng. Chỉ nhìn thôi cũng đã thấy thèm. Ở Mỹ, những nồi thịt heo to, béo-ngậy như thế ít có người dám nấu. Nếu nấu, cũng chẳng ai dám ăn. Người ta sợ ăn vào sẽ bị bệnh, phải vô nhà thương nằm, khổ thêm. Nghĩ thật lẩm-cẩm. Ở quê xưa đói ăn, nên ăn gì cũng thấy ngon, chẳng sợ bệnh-tật gì cả. Có ăn là may rồi. Còn ở Mỹ, thực-phẩm rẻ ê-hề, người ta lại sợ ăn vào mắc bệnh, nào là bệnh có mỡ trong máu, tiểu đường, nhồi máu cơ tim, tắc nghẽn mạch máu não, đau gan, đau thận. Thôi thì tùm lum đủ thứ bệnh trên đời. Hơn một tiếng đồng-hồ đi qua, Thủy vẫn chưa mua đủ những món cần-thiết. Ngày hôm qua Thủy đã cẩn-thận làm một cái list dài, kê ra những món cần mua để cho khỏi quên. Nhìn cái list của Thủy, Bình cười, nói ghẹo vợ: “Em định 23 tháng chạp này lên chầu Ngọc-Hoàng, trình sớ táo-quân hả?” Thủy cười, đáp lời chồng: “Em đã lên thiên-đình trình sớ tuần trước rồi. Mua cả trăm thứ, em sợ lu-bu rồi quên món này món nọ.” Ở trong chợ, Thủy cứ đi qua đi lại mấy dãy hàng. Hết quầy thịt cá lại tới quầy bán thực-phẩm khô, tới chỗ bán trái cây, bánh mứt, rồi trở lại quầy thịt cá. Thủy nghĩ là không phải riêng mình, mà hầu hết các bà nội-trợ đều như vậy. Cuối năm, hình như ai cũng có vẻ tíu-tít, bận-rộn. Trở lại chỗ bán trái cây, Thủy nhận thấy giá cả hơi cao một chút so với ngày thường. Không sao cả. Tết-nhất mà. Thủy lựa một trái măng-cầu, nâng lên ướm thử. Có lẽ cũng đến hơn 3 pounds. Rồi Thủy lại lựa một trái đu-đủ xanh, vừa lựa vừa ngẫm-nghĩ. Theo tục-lệ của người Việt-Nam, đặc-biệt là người miền Nam theo đạo Phật, ngày Tết người ta phải bày-biện trên bàn-thờ những trái cây như măng-cầu, đu-đủ, dừa, thơm và xoài cho đủ mâm ngũ quả. Người Việt hiền-hòa, dễ-thương, họ chỉ cầu mong vừa đủ xài thôi. Lúc đầu Thủy không hiểu, sau nghe mẹ giải-thích, Thủy mới vỡ-lẽ. Người miền Nam phát-âm chữ vừa và dừa gần như nhau. Còn chữ xoài thì đọc chệch ra là xài. Cũng vậy, vào dịp Tết có người còn kiêng không bày chuối trên bàn-thờ, vì không muốn bị trượt vỏ chuối hoặc là té chúi trong năm. Ngoài ra, cũng có nhà không muốn bầy cam, vì không muốn đành cam phận đói-nghèo, khổ-sầu quanh năm. Nghe mẹ giải-thích như thế, Thủy đã cười lớn, tỏ vẻ không tin. Mẹ nói: “Đó là tín-ngưỡng và cũng là văn-hoá rất đặc-thù của người Việt-Nam mình. Tin hay không là tùy ở mỗi người. Không biết đó có phải là mê-tín dị-đoan không, nhưng theo mẹ thì…có kiêng có lành, con à.” Thủy lựa một cặp bánh chưng. Cận ngày Tết quá rồi không thể đặt được. À, sao không mua bánh tét nhỉ? Không được, ăn bánh tét coi-chừng cả năm téc việc ra. Ngẫm-nghĩ, Thủy cười một mình. Thủy còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn người, ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ đi, nhưng vẫn phải mua cho đầy-đủ. Chợt nhớ ra, Thủy mua thêm một ít giấy vàng bạc. Chiều mai phải rước ông Táo về nhà theo đúng nghi-thức tập-tục. Rước cả ông bà về nữa chứ. Thủy định bụng sẽ đốt giấy vàng bạc ở trong bếp. Không được. Đốt như thế khói sẽ bay mù lên, rồi cái máy smoke detector sẽ kêu um-lên. Có thể bà Susan bên hàng-xóm tưởng là nhà có hỏa-hoạn, sẽ hớt-hải chạy qua, gọi 911 hay Cảnh-sát thì khổ. Thôi được, Thủy sẽ đốt ở ngoài vườn sau. Chuẩn-bị một cái thùng sắt và vòi nước là được rồi. Thủy còn phải mua một cặp dưa-hấu để bầy bàn thờ tổ-tiên. Nhà có bốn người, ăn tới ra giêng vẫn chưa hết, phải đổ vào thùng rác, nhưng vẫn phải mua cho đầy-đủ. Thủy không quên mua một bó nhang, mấy cây đèn cầy và một hộp kẹo thèo lèo cứt chuột để cúng ông bà. Ờ, sao người ta không nghĩ ra một cái tên gì cho hay-hay và thơm-tho hơn cái tên “thèo- lèo cứt chuột” nhỉ? Cái tên này nghe thiệt là “quái-đản” và không “thanh-nhã” lắm. Ngày xưa khi còn nhỏ, mỗi lần theo mẹ đi chợ Tết ở Việt-Nam, Thủy nhớ mẹ mua cả pháo nữa. Mẹ nói là Tết mà không có pháo không phải là Tết. Đêm giao thừa Thủy buồn ngủ rũ người, nhưng vẫn cố banh mắt ra, đợi ba đốt cho hết bánh pháo. Tiếng nổ lách tách đùng làm Thủy phải bịt tai lại, vừa sợ vừa thích-thú. Trong tràng pháo thế nào cũng có vài trái pháo đùng, nổ to đến nỗi Thủy phải chạy vào trong bếp để trốn. Ở Mỹ không chỗ nào bán pháo nổ to như thế, vì rất nguy-hiểm. Ngày July 4, người ta chỉ được phép chơi pháo bông. Còn ở những đám cưới chỉ có loại pháo nhỏ, nổ lẹt-đẹt cho vui một chút vậy thôi. Nhẩm tính lại một lần nữa, Thủy thấy là mình đã mua đầy-đủ mọi thứ cần-thiết. Chiếc xe đầy ắp. Thủy thấy lòng mình reo lên một niềm vui. Vậy là năm nay gia-đình Thủy ăn một cái Tết khá to và khá đẩy-đủ, chẳng thua gì Tết ở Việt-Nam. Đúng như nhiều người đã nói, chúng ta ra đi mang theo quê- hương. Chúng ta ra đi mang theo cả tình người và tình-tự dân-tộc. Chỉ tiếc là thiếu không-khí thực-sự Việt-Nam ở đây. Nhưng không sao cả. Cám ơn ngôi chợ này đã bán đầy-đủ các mặt hàng cần-thiết cho đời sống hàng-ngày của mọi người. Cám ơn tất-cả mọi người Việt-Nam đã đến bằng những nụ-cười và bằng sự can-trường để tạo nơi đây thành một góc quê-hương. Cám ơn tình-người vẫn còn bao-la, tốt-đẹp. Cám ơn mùa xuân vẫn còn rộn-rã tiếng chim. Sau khi trả tiền, Thủy đẩy xe ra ngoài. Mặt trời đang tỏa ánh nắng ấm-áp. Có những quầy bán hoa dọc theo hành-lang, bầy nhiều loại hoa rất đẹp, khoe màu-sắc tươi-thắm. Thủy dừng chân. Những chậu hoa vạn-thọ, hoa cúc, và những cành mai vàng chi-chít nụ đã làm Thủy nhớ quê-hương da-diết. Tưởng là Xuân chẳng về đây nữa -Mua hoa đi, cô. Hoa này nhà trồng, mới hái sáng nay. Bà bán hoa đon-đả mời Thủy. Thủy chỉ chậu hoa cúc đại-đóa. Hoa chưa nở hết. Những cánh hoa khép-nép bên nhau, đẹp lạ-lùng. -Chậu này lớn, cô cho 9 đồng. -Thế còn chậu kia? Thủy hỏi. -Chậu đó lớn hơn, 11 đồng. Thủy ngần-ngừ, nửa muốn mua, nửa không. “Bác có nói thách không vậy? Nói đúng giá đi, cháu mua.” Bà bán hoa lắc đầu. -Giá-cả như vậy là đúng rồi, cô à. Không mắc đâu. Cuối cùng, Thủy mua được hai chậu cúc với giá phải-chăng sau khi “cò kè bớt một thêm hai” với bà bán hoa. Người Việt mình có điểm “đáng yêu” là buôn-bán ưa nói thách. Các món hàng thường không ghi giá tiền. Có khi họ nói giá trên trời dưới đất làm cho người mua không biết đâu mà trả giá, nhất là ở Việt-Nam. Thủy nghe dì Giang kể, có lần bà bị bà bán trái cây ở chợ An-Đông chửi te-tua vì đã trả giá thấp. “Chúng ta ra đi mang theo quê hương”. Cách buôn bán chua-ngoa, nói thách giá như vậy đã được một số người mang theo ra nước ngoài. Bình-thường Thủy rất ngại mua những mặt-hàng không ghi giá bán, vì như vậy sẽ phải mặc cả, và chuyện này thì Thủy lại rất dở. Thủy thích mua sắm ở tiệm Mỹ vì giá cả rõ-ràng hơn và sự phục-vụ cũng tận-tình, ân-cần hơn. Ở tiệm Mỹ, tùy theo món hàng, sau khi mua rồi, nếu không ưng ý, có thể trả lại trong vòng một thời-hạn nào đó, có khi tới 90 ngày. -Còn phải mua một cành mai nữa chứ. Thủy vừa đi về phía hàng hoa, vửa nhắc mình. Tết dù ở đâu mà thiếu một cành mai đều không phải là Tết. Thủy có trồng một cây mai Nhật-Bản. Cây lớn lên, cuốn quanh hàng rào. Gần Tết, mai nở hoa vàng phủ xuống tới đất, cũng đẹp lắm. Nhưng có một cây mai Việt vẫn thích hơn. À, phải rồi, còn phải mua một cuốn lịch “giả” Tam-Tông-Miếu, nữa chứ. Mỗi buổi tối hay sáng hôm sau, Bình sẽ bóc một tờ để đánh dấu một ngày cũ đã qua đi, hay bắt đầu một ngày mới sắp tới. Và, sau cùng, thế nào cũng phải có một tờ Báo Xuân. Thế mới là…Tết chứ. Bình sẽ phụ-trách đọc mỗi đêm một bài cho đến khi không còn gì để đọc mới thôi. Lẽ dĩ-nhiên phải bỏ qua phần quảng-cáo“đông trùng hạ thảo” trị bá-bệnh. Báo Xuân bán 8 đồng một cuốn, lại còn tặng một cái thẻ điện-thoại 2 đồng. Vậy là Giai-Phẩm Xuân chỉ có 6 đồng với gần trăm bài, chắc là hay, chỉ có 6 đồng một cuốn. đọc cả năm. Quá rẻ. Rẻ hơn tô phở Kobé nữa. Ăn xong là hết. Lái xe về đến nhà vào lúc 3 giờ chiều. Thủy nhìn thấy bà Susan đang ở ngoài vườn. Thấy Thủy, bà vẫy tay. Thủy chào lại. Thủy đã ở đây gần mười lăm năm. Con đường có chữ Circle phía sau chỉ vọn vẹn có tám căn nhà, nên mọi người đều quen biết nhau. Thậm chí Thủy còn nhớ tên từng người một. Chỉ có gia-đình Thủy là người Việt-Nam duy-nhất ở đây. Có một nhà người Tàu, hai nhà người Mễ, còn lại đều là người Mỹ trắng. Mọi người đều vui-vẻ và thân-thiện với nhau như ruột-thịt, không phân-biệt gì cả. Ông già Norman xuề-xòa, vui-tính, đã về hưu. Ông nói là trước năm 1970 ông đã từng sang Việt Nam. Ông kể về những địa-danh như Khe-Sanh, Đồng-Xoài, Bình-Giả, rồi là Chương-Thiện, Cần-Thơ một cách say-mê và rành-rọt. Những địa-danh đối với Thủy còn xa-lạ, chưa từng đặt chân tới. Ông còn kể cả những món ăn độc-đáo mà ông đã có dịp nhấm-nháp, kể cả thịt rắn, thịt chó và thịt chuột với nụ cười hóm-hỉnh, thích- chí. Ông nói với vợ chồng Thủy: “Tụi mày biết không, tao khoái món thịt chó lắm. Từ ngày ở Việt Nam về Mỹ, tao không còn được ăn cái món đó nữa. Nhưng tao cứ nhớ hoài. Hết sẩy. Tao nhớ, lần đầu khi người bạn Việt-Nam cho tao ăn món đó, tao hơi ớn. Mãi vài lần sau tao mới quen. Nó ngon hơn món beefsteak cả trăm lần.Ăn vào là quên chết”. Nghe ông Norman nói, Thủy đã không nín được cười và thấy mắc thèm, dù chưa bao giờ được nếm cái món đó. Nhưng Thủy chắc cái món đó phải là độc đáo ghê gớm lắm nên mới hấp-dẫn được một ông Mỹ da trắng văn-minh như vậy. Có lần vui miệng, ông Norman nói: “Trong cuộc sống có nhiều người Mỹ cảm thấy rất cô-đơn, nên họ thường nuôi chó, nuôi mèo. Họ xem chó mèo như bạn. Vì lẽ đó, họ không ăn thịt chó, thịt mèo. Họ xem những người ăn thịt chó, thịt mèo là tàn-ác, không có nhân-tính, mọi-rợ. Vậy mà khi con chó, con mèo họ nuôi bị chết, họ sẵn-sàng quăng chúng ra đường vào ban đêm cho xe cán, không thấy ân-hận gì cả.” Ông già Norman trông vậy mà nói rất đúng. Đã có nhiều lần Thủy thấy xác những con chó hay mèo nằm ngoài đường, trên lằn xe chạy. Có những con chết rồi còn bị bánh xe nghiến qua nghiến lại không biết bao nhiêu lần, cho đến khi tan xác, máu và da thịt quyện dính vào mặt nhựa đường. Thế là hết. Không thấy ai phàn-nàn, kêu-ca gì cả. Nếu có ai hỏi, họ chỉ cần trả-lời đơn-giản là “tai-nạn”. Thế là xong. Người được tiếng “yêu súc-vật”, vẫn được tiếng. Bình giúp vợ mang đồ vào trong bếp. Thủy vào nhà thay quần áo, xong ra ngoài nói chuyện với bà Susan. Thủy thấy bà đang chăm-sóc mấy cây hoa tulip ở ngoài vườn. Bà ta có ngôi vườn thật đẹp. -Cô Thủy đi chợ mới về hả? Nghe bà Susan hỏi, Thủy gật đầu. -Đi chợ Việt-Nam à? -Dạ. Hôm nay cháu cần mua những món đặc-biệt ở chợ Việt-Nam để ăn Tết. Bà Susan nói như reo: -À, Tết. Chinese Lunar New Year. Thế cô mua quần áo mới chưa? Thủy lắc đầu: -Dạ, chưa. Nhưng chuyện đó ở Mỹ, cũng không cần-thiết, bác à. Thủy muốn giải-thích cho bà Susan biết là Tết của người Việt-Nam và Tết của người Tàu không hoàn-toàn giống nhau, mặc dù tập-tục này người Việt-Nam theo người Tàu. Thủy không thích người ta thêm chữ Chinese khi nói đến Tết Việt-Nam, không biết đó có phải là “tự-ái dân-tộc” không. Trong những ngày Tết, người Việt-Nam thường có những tập-quán, những cuộc vui chơi, hay đình-đám khác với người Tàu. Bà Suzan trông có vẻ rảnh-rang, nhàn-hạ mấy ngày này. Bà đã sửa-soạn và mua-sắm cho những ngày lễ lớn, như Thanksgiving (Tạ-ơn), Christmas (Giáng-sinh), New Year (Năm Mới), và bây-giờ những ngày đó đã chấm-dứt từ mấy tuần qua. Bà Susan chợt quay sang nhìn Thủy, hỏi: -Cô Thủy này, tôi còn nhớ Tết năm ngoái cô cho tôi ăn cái bánh gì dinh-dính ấy. Người Việt Nam có nhiều loại bánh ngộ thật. Cô nói lại đi. Cái bánh ấy tên là gì vậy, tôi quên mất tiêu. Thủy cố nhớ lại, cười trả lời: -À, đấy là bánh chưng. Bác nhớ dai thật. Thế bác có thích bánh chưng không? Cháu có mua một cặp đấy. Để ngày mùng một Tết cháu sẽ mời bác. Người Việt chúng cháu còn thích ăn bánh chưng chiên nữa. Bà Susan cũng cười, đôi mắt nhấp-nháy: -Cám ơn cô. Bánh chưng chiên à? Ồ, được ăn bánh chưng thì còn gì bằng nữa. Tết Việt Nam phải có bánh chưng chứ. Như thế mới đúng ý nghĩa. À, bánh chưng phải ăn với củ kiệu mới là đúng mốt, phải không cô Thủy? Thủy không ngờ bà Susan lại rành-rọt như thế. Không biết ai đã nói với bà ta những chuyện như vậy. Bánh chưng mua ở chợ hẳn là không bằng nhà nấu. Ngày xưa khi Thủy còn nhỏ, mỗi lần Tết đến, Thủy thường thấy bà ngoại nấu bánh chưng. Bà ngoại chuẩn-bị thật chu-đáo. Trước Tết độ một tuần, mẹ Thủy đi chợ mua gạo nếp, đậu xanh, thịt heo, lá dong và nhiều thứ linh-tinh khác nữa. Thủy không nhớ là bà ngoại đã gói bánh như thế nào. Thủy thích nhất là lúc được ngồi cạnh bếp lửa, có những khúc củi-tạ cháy hừng-hực, bên trên kê nồi bánh thật to đang sôi ùng ục. Ngồi bên cạnh nồi bánh, miệng vui vui hát nhỏ bài Xuân Này Con Không Về của Nhạc-Sĩ Trịnh-Lâm-Ngân: “...Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng. Trông bánh chưng chờ trời sáng. Đỏ hây hây những đôi má đào...” Lúc đó, dù là nghèo, vẫn thấy đời tươi đẹp và ấm cúng biết bao. Bắt chước mẹ ngày xưa, Thủy chuẩn-bị rất kỹ-lưỡng để cúng và đón giao-thừa. Đồng-hồ mới chỉ 11 giờ đêm, Thủy đã nhờ Bình bày sẵn một cái bàn nhỏ ở ngoài sân. Thủy đặt một bình hoa vạn thọ ở giữa, một đĩa trái cây, một đĩa kẹo thèo lèo cứt chuột. Thủy không quên trái dừa, đèn cầy và ly nước lạnh. Thủy cắm sẵn ba cây nhang vào một cái ly thấp bên trong có gạo để giữ cho cây nhang không bị ngả. Thế này cũng tươm-tất lắm rồi. Hồi gia-đình Thủy mới qua Mỹ, số người Việt sinh-sống ở đây còn ít. Nhà hàng ăn uống chỉ lưa-thưa vài nơi. Còn chợ Việt-Nam hoàn-toàn không có. Khi thèm ăn một tô phở, không biết đi đâu. Muốn nấu ở nhà thì không có đủ gia-vị. Cho tới bây giờ không phải ở tiểu-bang nào cũng tiện-lợi như ở Cali. Và, ngay cả ở Cali, không phải ở vùng nào cũng tiện-lợi và đầy-đủ như ở Quận Cam. Thật may-mắn, Thủy chỉ ở cách Quận Cam hơn một tiếng lái xe. Quận Cam có khu Bolsa, thủ-đô của người Việt. Chính người Việt đã tạo ra sự sầm-uất cho Quận Cam nói chung và khu Bolsa nói riêng. Các bảng hiệu dần-dần được viết hoàn-toàn bằng tiếng Việt, không cần người bản-xứ hoặc các cộng-đồng khác có hiểu hay không. Ở đây có nhiều ngôi chợ bán đầy-đủ các sản-phẩm dành cho người Việt, và đặc-biệt là có rất nhiều nhà-hàng bán những món-ăn thuần-túy Việt-Nam. Thủy có một cô bạn thân hiện đang ở Sacramento, thủ-đô của tiểu-bang California. Sau đôi lần đến Quận Cam (Orange County) chơi, cô bạn này đã nói: “Nếu tao sống ở Quận Cam, tao sẽ không nấu cơm ở nhà nữa, mà sẽ đi ăn tiệm. Nhà-hàng ở đây nhiều quá, nấu lại ngon nữa, nhiều món quá. Đi ăn cơm tiệm cho sướng. Nấu nướng ở nhà làm gì cho khổ cái thân.” Thủy ngẫm nghĩ, thấy cô bạn này nói đúng. Từ mọi nơi, người Việt đã quy-tụ về đây để biến thủ-đô này thành một góc quê-hương. Bây giờ, ở đây, khi cần ăn một tô phở Bắc nóng hổi, một tô bún bò Huế cay-cay, một đĩa bánh xèo beo-béo, hoặc một đĩa cơm tấm bì, chả hay thịt nướng thơm-thơm… đều dễ-dàng, tiện-lợi như ở Việt-Nam vậy. Khi Thủy chuẩn-bị xong mâm trái cây cúng giao-thừa, kim đồng-hồ chỉ 11 giờ 45. Bình đem mấy bao rác đi đổ. Thủy nhớ đã dặn Bình chỉ đổ rác vào chiều tối ba mươi thôi. Ngày mai là mùng một Tết không được đổ rác nữa, vì sợ tiền bạc sẽ cắp nón ra đi. Thủy cũng còn cẩn-thận dặn Bình không được quét nhà, không được hút bụi nữa. Thôi kệ, cứ để dơ mấy ngày rồi quét dọn sau. Có kiêng có lành mà. Đã chết ai. Nghe Thủy dặn nhiều quá, Bình khôi-hài: -Thế có phải kiêng tắm không, em? Thủy cũng cười: -Nếu anh kiêng tắm được thì càng tốt. Tắm nhiều hại da lắm. Những tập-tục ngày Tết của người Việt-Nam và người Tàu có nhiều điểm giống nhau và đôi khi có vẻ mê-tín dị-đoan nữa. Tuy nhiên, nếu mê-tín dị-đoan không đem lại sự nguy-hại, người ta không cần phải bãi-bỏ, nhất là những tập-tục đã có từ rất lâu đời. Mấy bữa trước Thủy chuẩn-bị cả tiền lì-xì nữa. Thủy đã tới ngân-hàng đổi một ít tiền mới, mua một xấp phong-bì mầu đỏ, bỏ vào mỗi phong-bì một tờ năm đồng mới-tinh còn thơm mùi giấy và mực in. Thủy định sẽ mừng tuổi cho hai con vào sáng mùng một, rồi tới con của mấy người bạn làm cùng sở. Mừng tuổi để lấy hên vậy thôi, chứ trẻ con ở Mỹ không thích có tiền nhiều, vì chúng đã có đầy-đủ mọi thứ rồi, không thiếu-thốn như trẻ-con ở Việt Nam. Còn người lớn không phải lì-xì gì cả. Đỡ hao. Tới trưa ngày mùng một, hai vợ chồng sẽ đưa hai con đi chơi hội chợ Tết. Hai đứa nhỏ thích lắm, mấy hôm nay cứ nhắc ba mẹ hoài. Gần như năm nào Tổng-Hội Sinh-Viên Việt-Nam cũng đều tổ-chức hội-chợ Tết. Ngày xưa, hội-chợ Tết này do Cộng-Đồng Việt-nam tổ-chức, nhưng làm-việc “lem-nhem” sao đó, nhất là tiền-bạc, phải giải-tán. Tổng hội sinh-viên mới đứng ra tổ-chức. Các “em” làm được. Mỗi năm, trừ chi-phí, lời cả 5 trăm ngàn đô. Thấy các “em” làm được, có uy-tín, cộng-đồng để làm luôn. Ở hội-chợ có rất nhiều trò vui-chơi lành-mạnh. Thủy thích đi hội-chợ để tìm lại không-khí ngày Tết ở Việt-Nam, với những sinh-hoạt đặc-thù như múa lân, đánh vật. Quán thả thơ trong hội-chợ cũng là nơi thu-hút mọi người. Thủy thầm mong những hoạt-động tốt-đẹp như thế mãi-mãi được duy-trì và phát-triển. Những năm sau này, từ nỗi nhớ quê-hương và từ lòng bao dung nhân-ái, người Việt đã thành -lập nhiều hội-đoàn để có dịp ngồi lại gần nhau và giúp-đỡ nhau thiết-thực hơn, như các hội đồng-hương và hội ái-hữu. Đó là những dấu-hiệu tốt của một cộng-đồng đang phát-triển về mọi mặt. Hồi còn nhỏ, Thủy thích nhất là những dịp Tết đến. Trước hết là được mặc quần áo mới, mang giầy đẹp, được ba mẹ đưa đi chơi chỗ này chỗ nọ, sau là được ăn bánh chưng, cắn hột dưa, và nhất là có nhiều tiền lì-xì. Trong mấy ngày Tết, lại còn được chơi “bầu-cua-cá-cọp”nữa. Đây là một trò chơi ăn tiền rất phổ-biến. Nhà cái trải một tấm giấy hay một tấm bià chia đều sáu phần, mỗi phần có in hay vẽ hình một con vật như nai, bầu, gà, cá, cua và tôm. Không thấy hình cọp. Ba con xúc-xắc được bỏ vào một cái điã che kín bằng một cái tô. Mỗi con xúc-xắc có sáu mặt, mỗi mặt đều có hình của một con vật giống như trên tấm bià. Nhà cái lắc cái điã vài lần rồi mở tô ra. Sau khi cả ba con xúc-xắc đã đứng im, nếu ai đặt tiền vào ô nào có hình giống con vật trên mặt xúc-xắc thì sẽ được nhà cái chung tiền. Còn ai đặt không giống thì bị thua. Trò chơi này rất vui vì được nhiều người hưởng-ứng, bất kể già trẻ lớn bé. Chiếc đồng-hồ quả lắc bắt-đầu gõ-nhịp, âm-thanh ngân-nga trong-trẻo. Khi tiếng gõ thứ mười hai vừa chấm-dứt, Thủy ra ngoài thắp đèn cầy, rồi đốt ba cây nhang đã cắm sẵn trong cái ly. Hương khói tỏa ra thơm-phức. Nếu là ở Việt-Nam, giây-phút này sẽ linh-thiêng và long-trọng biết bao. Giờ giao-thừa. Cả một không-gian rông lớn sẽ rền-vang tiếng pháo và mịt-mù trong màn khói để tống cựu nghinh tân (tống khứ cái cũ, đón rước cái mới). Pháo sẽ thi nhau nổ suốt đêm ba mươi, qua ba ngày Tết và những ngày kế-tiếp. Tết ở Việt-Nam ngày xưa thật tưng-bừng, vui-vẻ. Bây giờ, chỉ có một mình Thủy cúng giao-thừa ở ngoài trời. Căn nhà của bà Tầu Wuan Yang cách đó vài căn, đang lặng-lẽ, im-lìm trong màn sương mỏng. Thủy lâm-râm khấn-vái. Thời-gian như ngừng lại. Trời hơi se-lạnh. Những căn-nhà chung-quanh hoàn-toàn chìm trong bóng đêm. Con đường nhỏ vắng-tanh không một bóng người, ngoại trừ vài chiếc xe hơi đậu sát lề đang im-lìm trong giấc ngủ. Hình như có những đóa hoa đang bắt-đầu nở-rộ, hương-thơm tỏa ra nhẹ-nhàng. Hà Việt Hùng |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22144 |
Gởi ngày: 19/Jan/2018 lúc 8:12am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 20/Jan/2018 lúc 2:01pm |
Mối Tình Quê Ngoại <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Jan/2018 lúc 2:07pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 24/Jan/2018 lúc 10:32am |
Hương Xuân Buổi chiều đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung. Liên cười trả lời mẹ: * * -Ngoại ơi, chuyện của bà Minh với
ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại sao méchant quá hà.
Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại. Bà Thuần
cốc đầu con bé: * * Đúng bảy giờ có người bấm chuông. Bé
Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào, nổi những đóa mai,
lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru băng hồng,
chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà
Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ
trong nhà chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô
tủ, xong mời mọi người vào phòng khách. Tiểu-Thu Buổi chiều đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung. Liên cười trả lời mẹ: * * -Ngoại ơi, chuyện của bà Minh với
ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại sao méchant quá hà.
Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại. Bà Thuần
cốc đầu con bé: * * Đúng bảy giờ có người bấm chuông. Bé
Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào, nổi những đóa mai,
lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru băng hồng,
chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà
Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ
trong nhà chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô
tủ, xong mời mọi người vào phòng khách. Tiểu-Thu Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Jan/2018 lúc 10:34am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 25/Jan/2018 lúc 5:13pm |
Vị
ngọt của mùa xuân
[
Bài
nghe ] <<<<< Vài năm trước đây cũng với ông chủ thầu này, do làm ăn không thuận lợi ông chỉ thầu được những công trình sửa lặt vặt nên lời lãi không bao nhiêu từ đó ông trả lương cho thợ cũng có phần eo hẹp, nhưng vì là những người gắn bó chí cốt với ông chủ thầu từ lâu nên đám thợ hồ như thằng Đực chẳng phàn nàn gì, hơn thế nữa do Đực nhà ta vẫn còn độc thân vui tính nên tiền bạc với Đực cũng không cần thiết lắm, lương tuần nó dành dụm gửi về phụ ông bà Hai mua thêm gà vịt heo về nuôi, nhờ gia đình bà Hai chịu thương chịu khó và mát tay nên thu nhập về chăn nuôi và lúa thu hoạch từ những mảnh ruộng cũng đủ xoay sở trong nhà, nay với số tiền thật lớn so với nó cầm trong tay trong dịp tết con gà này thì gia đình nó mặc tình ăn tết, Đực còn nghĩ ngoài số quà cáp bánh trái mua nó mua ở các khu chợ dọc lề đường trên thành phố, nó sẽ tặng thêm cho con Mén người yêu bé bỏng ở quê nhà một số tiền kha khá để Mén cùng có cái tết đầm ấm như nhà mình. Ngồi yên vị trên băng ghế trên chiếc xe đò về quê sáng hai mươi chín tết, ngồi kế bên thằng Đực là một cô gái trẻ, chắc cô nàng cũng là công nhân về quê đoàn tụ gia đình nhân dịp cuối năm, cô gái có nụ cười thật hiền với gương mặt dễ thương, thằng Đực vốn tính thật thà chất phát nó nghĩ ngay đây là cô gái cũng hiền lành chất phát như mình nên nó hỏi thăm: - Em gái ơi ! Anh về Sóc trăng còn em về đâu vậy? Thoáng chú e ấp, cô gái cười hiền rồi đáp : - Dạ em về Châu đốc anh hai ơi ! Chắc anh cũng đi mần trên thành phố về quê ăn tết hả ? Một chút vui trong lòng, Đực nhanh nhẩu đáp : - Đúng rồi em gái,cũng gần cả năm anh mới về thăm nhà, chuyến này về chắc anh bị đòn một trận vì bỏ đi quên cha quên mẹ lâu lắm rồi . Cô gái cười thành tiếng rồi nói: - Ngộ quá hén, anh già đầu rồi mà cũng còn bị đánh đòn hả , vậy thì chắc chưa có " dợ" rồi phải không? Đến lượt thằng Đực cười vang khiến mất bà khách ngồi gần trố mắt nhìn, thằng Đực biết mình hơi quá trớn nó ra hiệu xin lỗi vì đã làm phiền, rồi nó nói vừa đủ cho cô gái nghe : - Trời , "dợ gì mà dợ", anh còn tham ăn lắm nên " Chửa dợ" đâu . Nghe xong cô gái cười rồi cả hai đều thả hồn cho chuyện riêng tư của mình... *** Đang lơ mơ trong giấc ngủ gà ngủ gật, thằng Đực nghe tiếng anh lơ xe la lên: - Bà con mình xuống đi vệ sinh ăn uống dừng chân cho giản gân cốt, nửa tiếng là mình đi tiếp nha bà con, hành lý tư trang bà con nhớ giữ gìn cẩn thận . Choàng tỉnh dậy thằng Đực không thấy cô gái khi nãy ngồi bên cạnh, nó lấy làm lạ cô gái xuống xe khi nào mà nó chẳng hay biết gì, nó nghĩ trong bụng: "Cô gái chắc nói dóc rồi, nhà ở Châu đốc mà chưa tới Mỹ Tho cô ta dong mất tiêu, bởi bậy bây giờ sao khó tin người lạ ghê". Loay hoay ôm cái Xách tay đựng quà trong người, khom lưng đứng dậy để xuống xe, bất chợt thằng Đực rờ cái túi quần phía bên cô gái ngồi cạnh, thằng Đực điếng hồn vì phân nửa cọc tiền nó để ở túi bên này đã "không cánh mà bay", bao nhiêu nghi ngờ nó dồn hết vào cho cô gái, thằng Đực lẩm nhẩm trong miệng: - Coi đẹp người đẹp nết vậy mà đi ăn cắp tiền của mình, người gì sống hai mặt dễ sợ , trước mặt mình thì ăn nói vui vẻ dễ thương, sau lưng thì lấy tiền của mình, chà không lẽ cô này xài bùa mê thuốc lú chi đây, khi không đang nói chuyện vậy mà mình ngủ hồi nào không hay . Thất vọng trong lòng thằng Đực ngao ngán bước xuống xe, trời gần về chiều mặt trời còn lấp ló phía ngọn tre của dãy nhà phía sau chiếc xe đang đậu, cái nóng cũng đã dịu bớt mọi người túa vào trạm dừng chân, dăm ba người đi về phía nhà vệ sinh, một vài người túa ra mấy hàng bán quà bánh để mua thêm một số về làm quà , thằng Đực ngồi vào bàn nó gọi một dĩa cơm Sườn bì chả và một ly trà đá, nó nhai nuốt vội vàng sợ ăn chậm chạp nhà xe sẽ bỏ nó lại nơi này, ăn xong cầm cây tăm xỉa răng Đực gọi tính tiền, bà chủ dáng người mập mạp vàng đeo đỏ tay vội đến bên nó rồi bà nói : - Cậu cho tui trăm hai nhe cậu . Nghe tính tiền thằng Đực tá hỏa tam tinh, tưởng mình nghe lầm nó bèn hỏi vặn lại cho chắc ăn : - Bà nói bao nhiêu vậy bà chủ ? - Trăm hai chục ngàn đó cậu, ly trà đá mười ngàn, dĩa cơm trăm mốt. - Gì mắc dữ dậy bà, có tính lộn không ? Ở trên thành phố dĩa này mắc lắm năm chục ngàn hết cỡ, ở thôn quê mà bán trăm mốt ai mà dám ăn . - Cậu ơi! Tui buôn bán ở đây cả chục năm rồi, tết nhứt giá cả phải khác ngày thường chứ cậu, mà tui nói cho cậu biết tại cậu không xem kỹ cái "mơ nua" tui ghi giá cả đàng hoàng hết chú đâu cố ý gạt gẫm gì ai đâu. Ngưng chút xíu bà chủ nói tiếp: - Cậu trả tiền đi tui còn làm công chuyện nữa, ở đây đôi co với cậu mất thì giờ quá Thằng Đực định phản ứng tiếp, nó dự định hù bà chủ quán bằng cách kêu Công an địa phương lại xử, bổng đâu có ba tên ăn mặc thật bụi đời , họ xâm mình khắp thân người hầu như chỉ còn khuôn mặt là chưa xâm, họ kéo ghế ngồi cái bàn bên cạnh bàn thằng Đực, một trong ba tên cất tiếng hỏi bà chủ : - Vụ gì đó má Bảy, có cần tụi con nhúng tay vô không ? Thấy mấy tay bậm trợn này thằng Đực điếng hồn thò tay vô túi nhanh chóng thanh toán tiền cơm cho bà chủ rồi lật đật leo lên xe ngồi chết trân . Đắc thắng bà chủ chưa tha cho thằng Đực, bà còn buông một câu ghẹo nó: - Bữa nào " Quành" lên Sài gòn cậu nhớ ghé ủng hộ quán Dì bảy này nghe, có trăm mấy mà làm cái giọng thấy ớn... Nghe câu chọc quê của bà Bảy chủ quán thằng Đực giận cành hông nhưng thấy ba thằng " cô hồn" còn đưa mắt nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống nên thằng Đực đàng " xếp re" ngồi im như pho tượng cho đến khi xe tiếp tục lăn bánh rời khỏi quán bà Bảy . Xe lao vun vút trên Quốc lộ, chừng đến gần các thị trấn, chợ búa phố xá dọc đường, anh lơ xe đưa tay vỗ mạnh vào thân xe vừa la um sùm : - Dô dô bà con ơi ! Cứ như vậy, xe chạy đến một chiếc cầu đang sửa chữa, tài xế giảm tốc độ bò từ từ qua cái cầu sắt bắt tạm kế bên, xe qua khỏi cầu sắt thì có ba người đàn ông vẫy xe, bác tài cho xe đậu lại ba ông hành khách nhảy tót lên xe một cách điệu nghệ, xe tiếp tục chạy một đoạn ngắn cũng ba ông khách đón xe dọc đường khi nãy bày trò chơi bài ba lá ăn tiền, ban đầu chỉ có ba người chơi với nhau giữa lối đi của hành khách trên xe, rồi một , hai người phụ nữ ngồi gần đó cũng tham gia, hai người phụ nữ này quả thật có con mắt tinh đời, họ đặt đâu trúng đó khiến tay làm cái mặt mày nhăn nhó trông thật khó coi, chừng thua nhiều quá hắn lên giọng nói: - Hai bà có chơi bùa ngãi gì hông mà đặt đâu trúng đó vậy ? Không bà nào lên tiếng, chỉ đặt vào lá bài rồi ăn tiền tên làm cái, có ông già đứng gần đó cũng móc tiền đặt theo hai bà này, và lần nào cũng ăn nhà cái hết. Thằng Đực lần đầu đi xe thấy họ chơi trò dễ thắng quá, bằng chứng là ba người chơi gồm hai bà và một ông khách chưa thua ván nào, thấy coi mòi dễ kiếm tiền để gỡ gạc lại số tiền bị cô gái kia lấy cắp, thằng Đực mạnh dạn móc tờ năm mươi ngàn đặt theo mấy người kia, đúng là vận may thằng Đực thắng năm chục ngàn, cứ vậy nó đánh theo mấy người nọ trúng được vài lần nữa, nó vui mừng khôn xiết, nó bắt đầu nổi máu tham đánh một lần hai trăm ngàn, lần đánh này số nó không may bị thua, dĩ nhiên những người chơi kia cũng thua, càng đánh nó càng thua, còn lại ít tiền thằng Đực quyết chí " được ăn cả, ngã về không" , nó đánh vào cửa ngược lại những người chơi kia , không may cho nó bọn người kia trúng chỉ có mình nó là bị nhà cái ăn trọn lần này, Hết sạch tiền Đực bàng hoàng trong lòng, vì ham vui vì lòng tham Đực muốn lấy tiền của người khác thông qua cờ bạc, không ngờ nó bị cháy túi qua con đường này , đến cây xăng phía trước ba người đàn ông, hai mụ đàn bà , và ông già tham gia đánh bài khi nãy cùng xuống xe một lúc, xe tiếp tục lên đường một đoạn ngắn thì anh lơ xe đến bên thằng Đực anh ta nói: - Nãy giờ tui ra hiệu cho chú em mầy quá chừng mà chú em mầy không chịu để ý, cái đám cô hồn này nó mần ăn trên đoạn này liên tục, tụi anh biết hết trơn nhưng nếu không để chúng làm ăn thì chúng nó phá xe trả thù hết đường làm ăn, xe nào cũng sợ nên cứ im lặng mặc cho chúng tung hoành trên xe. Tụi nó là đám cò mồi không hà chỉ có mình chú em mày là bị vướng chiêu thôi, thôi thì bài học nhớ đời nghe chú em. Nghe anh lơ xe cho biết cách thức làm ăn của đám người này, nó ứa nước mắt trông thật tội nghiệp, lúc này nó mới chực nhớ lại lời anh thầu khoán nói với đám thợ hồ: - Ở công trường xây dựng buồn thì anh em chơi bài tiêu khiển cho vui thì được , nhưng đừng ăn thua cay cú, ông bà mình có câu: " Cờ bạc là bác thằng bần " Ông chủ khi phát tiền cho thằng Đực ông còn căn dặn: - Đực nè ! Đường về nhà thì xa , tiền bạc cẩn thận nhớ cất kỹ lưỡng , tốt nhất chẻ nhỏ số tiền ra cất, có bị mất chổ này thì còn chổ khác, tập trung một chổ mất thì mất hết nghe chưa, cho anh gửi lời chúc tết gia đình, sau tết mình gặp lại nghe Đực. Giờ thì không còn gì rồi, nó xuống bến xe lấy hành lý để đón xe lôi về nhà, trong người không còn một xu dính túi, Đực thấy tủi nhục, thấy thương cho ông bà Hai, thương cho con Mén không có phần phước hưởng số tiền nó dự định cho Mén, chưa biết tính cách nào để về nhà, nếu lội bộ thì xa quá, còn đi xe lôi thì lại không có tiền để trả , thằng Đực bổng thấy cái dáng thấp thoáng từ xa y như thằng Tèo bạn học của nó ngày xưa, anh chàng này cũng ba lô trên lưng , tay xách nách mang quà cáp ê hề, khi đến gần, thằng Đực mừng như bắt được vàng nó đến bên Tèo rồi la lớn : - Cái thằng quỷ Tèo, trời ơi lâu lắm rồi tao mới gặp mầy, đâu về vậy, thành phố về phải hông? Mày ở quận nào? Tao ở Gò vấp mần công trình lớn lắm... Thằng Tèo chới với, vì nó kịp nhận ra thằng Đực bạn rất thân thuở nào, cuộc sống miền quê khó khăn mạnh ai nấy lên thành phố kiếm sống, không ngờ chiều cuối năm gặp nhau , hai đứa kéo nhau vào quán nước mía bên đường, sau một hồi hàn huyên tâm sự biết được bạn bè đang gặp cơn thắt ngặt, Tèo nhanh chóng cho Đực mượn một ít tiền để xoay sở trong mấy ngày tết: - Tao cũng không có nhiều, cũng công nhân như mày, có điều tao kiếm tiền dễ hơn mày, mầy cầm chút đỉnh về xài tết, sau này có tiền gửi lại tao sau . Rưng rưng nước mắt Đực lí nhí cảm ơn thằng Tèo , rồi hai đứa lên xe về nhà... *** - Má mày đâu rồi, thằng Đực hổm nó nói chừng nào dìa , tối om rồi mà chưa thấy tăm hơi nó đâu? Nghe ông Hai hỏi, bà Hai vừa chụm củi thêm vô nồi bánh tét bà nói : - Thì hôm nay nè , còn sớm mà ông, chưa gì mà nóng ruột dữ rồi đa . Bà Hai vừa dứt câu, thì Đực đã đứng ngay trước ngõ, nó lên tiếng: - Con nè, nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, hôm nay nói dìa là dìa , là lá la . Nghe cái giọng thằng Đực vui vui, ông Hai " đế" cho nó một câu: - Cha chả , bộ bây trúng số sao tao thấy điệu bộ bây dui dữ đa. Thằng Đực nhảy xổ lại ôm ông Hai rồi nó hôn lên đôi má gầy gò của ông mấy cái làm ông Hai không biết trời trăng mây gió vụ gì mà tự dưng thằng Đực lại hôn ông như vậy, rồi Đực sà vào lòng bà Hai nũng nịu như hồi còn nhỏ nó nói nhỏ cho mình bà Hai nghe: - Con thương má nhất đời. Rồi như có hẹn trước con Mén cũng từ đâu ngoài ngõ chạy ào vào ôm thằng Đực khóc như mưa: - Anh , anh dề rồi , kỳ này ở luôn đi , đừng lên thành phố nữa nhớ anh muốn chết nè. Hai bác kêu em nói với anh dậy đó. Rồi Mén quay sang hỏi ông bà Hai : - " Con dâu" của tía má nói dậy đúng hông tía má. Ông bà Hai khẻ gật đầu thay cho
câu nói khiến thằng Đực khóc như mưa, nó nhớ lại gặp
bao chuyện không may trên đường về quê, tưởng đâu cuộc
đời đi vào ngõ cụt khi nó trắng tay, không ngờ mọi người
lúc nào cũng yêu thương nó , rồi sự giúp đỡ của thằng
Tèo, cái chân tình của ông chủ thầu, những hình ảnh đó
hiện lại như cuốn phim chiếu chậm, nó ân hận trong lòng
vì sự cả tin người lạ để phải mất tiền , rồi không
chiến thắng được lòng tham khi sa đà vào việc đỏ đen,
bài học đầu tiên nó vừa nếm trải, Đực tự hứa không
bao giờ nó để tái diễn tình cảnh này một lần nữa, bằng
không sẽ không có sự ngọt ngào nào mà sẽ là vị đắng
của mùa xuân nếu nó còn lòng tham và sự cả tin này .
Hai Hùng SG Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 25/Jan/2018 lúc 5:17pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 26/Jan/2018 lúc 9:43am |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Jan/2018 lúc 9:24am |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 190 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |