Người gởi |
Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
|
Gởi ngày: 11/Oct/2017 lúc 11:28am |
Chính Là Tình Yêu
Chú
Thinh là bà con xa với bố tôi. Xa đến nỗi bố giải thích hoài mà tôi vẫn
không hình dung được một cách chính xác. Nói theo cách khôi hài là “họ
hàng kiểu bắn súng cà nông hai năm cũng chưa tới”. Tuy vậy, trong thời
gian mới vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ với tâm trạng bơ vơ, lạc lõng nên
gia đình tôi và chú Thinh rất thân thiết.
Năm
tôi lên mười ba tuổi thì chú Thinh cưới cô Lam. Năm ấy, chú Thinh ba
mươi tuổi và cô Lam hai mươi hai tuổi. Hình ảnh cô Lam trong chiếc áo
cưới ôm sát lấy thân hình thon thả, đầu đội chiếc khăn voan trắng
tinh, khuôn mặt thật thanh tú, mỹ miều với nụ cười có hai lúm đồng tiền
xinh xắn là một ấn tượng khó phai trong trí nhớ của tôi. Tôi đứng núp ở
cầu thang, mắt không rời cái dáng thướt tha, uyển chuyển của cô Lam. Cô
đẹp quá, đẹp hơn những lần tôi gặp ở nhà chú Thinh nhiều. Cô Lam nhìn
tôi nheo mắt cười tinh nghịch rồi kéo tôi lại gần, vòng tay qua cổ tôi,
bảo:
- Chụp với cô Lam một tấm ảnh nhá.
Tấm
ảnh đó được tôi dấu kín vào đáy tủ vì không muốn ai nhìn thấy cậu bé
thật ngố trong bộ vest rộng thùng thình, trông chẳng giống ai.
Sau
đám cưới khoảng một năm thì Chú Thinh dọn về Philadelphia. Chín năm
sau, khi tôi đang theo học năm cuối ở trường đại học UTD thì gia đình
chú Thinh trở lại Dallas với hai đứa con nhỏ và ba người em của chú từ
Việt Nam mới sang khoảng một năm.
Gặp
lại cô Lam tôi thật ngỡ ngàng khi thấy cô khác xa với hình ảnh cô Lam
xinh đẹp trong trí nhớ của tôi. Cô gầy đi nhiều, nét tươi tắn, ngây thơ
của ngày nào không còn nữa mà thay vào đó là khuôn mặt hao gầy với ánh
mắt loáng thoáng nét u buồn. Tôi vui mừng được gặp lại cô Lam, phần cô
cũng không cầm được nước mắt khi ôm choàng lấy mẹ tôi trong nỗi hân
hoan. Ba cô em của chú Thịnh cùng lứa tuổi với tôi thì có vẻ e dè và xa
cách dù biết chúng tôi là họ hàng.
Từ
khi có gia đình chú Thinh, cuối tuần tôi hay sang chơi với bé Lynn và
cu Tom. Ba chúng tôi, một người hai mươi ba tuổi, một cô bé tám tuổi và
một cậu bé sáu tuổi đã nhanh chóng trở thành những người bạn thân
thiết. Mỗi khi tôi đến, Lynn và Tom thường đòi tôi chở đi ăn ở Mc Donald
hay vào Mall để được tung tăng đùa giỡn một cách thoải mái hồn nhiên.
Sau một thời gian tới lui, tôi nhận biết chú Thinh là một người rất
nghiêm khắc với vợ con. Hình như chú chẳng bao giờ quan tâm đến Bé Lynn
và Tom, còn đối với cô Lam thì có phần lạnh nhạt. Nhưng với ba cô em của
chú thì chú lại chăm sóc, lo lắng rất chu đáo.
Thoạt đầu, tôi cũng không để ý, nhưng một hôm tình cờ nghe lóm được mẩu đối thoại của ba mẹ tôi.
-
Tôi không hiểu sao chú Thinh lại không cho cô Lam đi làm. Hai đứa nhỏ
lớn rồi, phải để cô ấy ra ngoài, đi đây đi đó với người ta, suốt ngày cứ
ru rú ở nhà mãi thì buồn chết.
Bố tôi nói. Mẹ tôi hứ giọng:
-
Tôi nghĩ cô ấy cũng chẳng có giờ để buồn, vì suốt ngày có rảnh rỗi được
lúc nào đâu. Hết hầu chồng, lại hầu con rồi còn hầu luôn cả ba cô em
chồng … Cô nào cũng lớn tồng ngồng nhưng cứ lấy cớ bận học mà chẳng
nhúng tay vào việc bếp núc, quần áo bẩn cứ bừa ra đó cho cô Lam giặt
giũ.
Bố thắc mắc:
- Chú Thinh đâu mà chẳng bảo chúng một tiếng?
- Nói gì, chính chú ấy muốn cô Lam phải lo mọi chuyện trong ngoài để cho em chú học mà.
- Hằng khối đứa ở đây vừa đi học vừa đi làm mà vẫn tốt nghiệp ào ào. Thế cô Lam không nói gì à?
-
Nói gì? Cô ấy mà hở tiếng nào là chú ấy bênh em chầm chập, lại còn bảo
cô Lam giở thói chị dâu em chồng. Tội nghiệp, chả bao giờ thấy chú ấy
đưa cô Lam đi tiệc tùng ở đâu cả. Nhiều lúc nghe cô ấy than thở mà tôi
xót cả ruột.
Cô
Lam cùng tuổi với người chị Cả của tôi, nên dù gọi mẹ tôi bằng chị theo
vai vế họ hàng, nhưng lúc nào cô cũng kính trọng và nể nang bố mẹ tôi
như bậc trưởng thượng. Mẹ tôi cũng rất thương cô Lam ở nết na dịu dàng
và chịu đựng.
Từ
khi biết được chuyện nhà chú Thinh, mỗi khi đến thăm tôi hay giúp cô
Lam những việc lặt vặt và để ý xem chú Thinh đối xử với cô thế nào. Một
chiều thứ bảy tôi ghé qua để đưa bé Lynn và Tom đi chơi thì thấy cô
Lam đang loay hoay xếp quần áo, hai mắt đỏ hoe. Cô Lam cúi xuống với nụ
cười gượng gạo hỏi tôi:
- Nhân định chở tụi nhỏ đi đâu?
Tôi
không trả lời mà nhìn cô Lam chăm chú. Cô bối rối quay đi và vờ đưa tay
vuốt tóc để che dấu khuôn mặt còn hằn vết đỏ, tôi hỏi:
- Mặt cô Lam sao vậy?
Cô lắc đầu không nói. Tôi hỏi gặn lại:
- Chú Thinh đánh cô Lam hả?
Cô
Lam lại lắc đầu, ôm xấp quần áo đi nhanh vào phòng. Tôi nhìn theo cô,
cái dáng dấp tha thướt ngày nào giờ đây tiều tụy đến tội nghiệp. Trên
đường đi, tôi hỏi Tom, thằng bé im thin thít. Tôi quay sang bé Lynn, con
nhỏ chu môi, nét mặt đanh lại:
- Cô Tú đánh mẹ đấy!
Tôi ngạc nhiên:
- Còn bố đâu, bố không nói gì à?
Con
bé giũ mạnh hai tay, giọng hằn hộc kể hết những điều mà nó đã chứng
kiến bấy lâu nay. Không ngờ một đứa bé tám tuổi mà có thể kể vanh vách
mọi chuyện, kèm theo những lời phê phán mà vừa nghe tôi phải giật mình.
Suốt buổi đi chơi, tôi thơ thẩn như người mất hồn vì không ngờ cuộc sống
của cô Lam là một chuỗi dài bất hạnh. Chú Thinh có thật sự yêu cô Lam
không khi chú đã đặt tình cảm anh em lên quá cao? Chú sợ những cô em mới
qua sẽ mặc cảm và tủi thân, nhưng lại quên mất rằng chú đang làm tổn
thương người bạn đời, đầu ấp tay gối. Càng xót xa cho cô Lam bao nhiêu
tôi càng bất mãn chú Thinh bấy nhiêu.
Một
lần tôi đưa mẹ đi dự tiệc cưới của người bà con, gặp chú Thinh và ba
cô em của chú, tôi hỏi sao cô Lam không đi, chú bảo cô Lam không thích
đến chỗ đông người. Mẹ tôi nửa đùa nửa thật:
- Vậy mà chị cứ tưởng việc nhà chưa xong nên cô ấy chẳng được đi
Chú
Thinh mím môi cười nhẹ trong khi ba cô em chú Thinh sa sầm nét mặt.
Tối hôm đó chú Thinh không rời sàn nhảy, khi thì với các cô em của chú,
khi thì với những người phụ nữ mà tôi chưa từng được biết. Nhìn chú vui
tươi trong những bước chân lả lướt theo điệu nhạc, rồi nghĩ đến cô Lam
đang ở nhà vò võ quạnh hiu, tôi cảm thấy bất nhẫn trong lòng. Tôi rời
khỏi tiệc cưới trước chú Thinh và khoảng ba giờ sáng thì nghe điện thoại
reo. Có tiếng bé Lynn khóc trong máy:
- Anh Nhân mẹ đi mất rồi.
Câu nói của bé Lynn làm tôi tỉnh ngủ ngay. Vừa nhảy xuống giường tôi vừa hỏi dồn dập:
- Chuyện gì ?
- Bố đánh mẹ. Mẹ đi mất… anh Nhân tìm mẹ nhanh lên.
Tôi
mặc vội quần áo lái xe đến nhà chú Thinh. Bước đến sát cửa tôi lóng tai
nghe ngóng. Tất cả cảnh vật như chìm sâu vào giấc ngủ. Không có một
tiếng động. Không có tiếng cãi vã, khóc la. Tôi trở ra xe, chờ đợi bằng
sự nôn nóng. Trong lo lắng, tôi không ngừng réo gọi bé Lynn trong ý nghĩ
“Bé Lynn, bé Lynn gọi cho anh Nhân đi. Nhanh lên. Nhanh lên!!”. Không
biết là do thần giao cách cảm hay một ân sũng đặc biệt nào đó mà bé
Lynn đã gọi tôi. Con bé tám tuổi khôn lanh ngoài sức tưởng tượng của
tôi. Qua giọng nói thì thầm xen lẫn giữa tiếng khóc thút thít của bé
Lynn, tôi biết được là chú Thinh nghi ngờ cô Lam nói xấu em chú với mẹ
tôi nên đã hùng hổ vặn hỏi. Thêm vào đó là những câu nói châm dầu vào
lửa của mấy cô em chồng đanh đá, nên cô Lam đã bị chú Thinh đánh đập khá
nặng tay. Không chịu được, cô Lam đã vùng vẫy thoát ra cửa và bỏ chạy
giữa đêm khuya. Không biết cô Lam có bạn bè nào ở gần nhà không? Cô
không có điện thoại, không có tiền trong túi thì làm thế nào để liên lạc
với ai. Rồi một mình, một thân giữa đêm khuya chuyện gì sẽ xảy ra cho
cô? Tôi ngồi như thế khoảng hai mươi phút với bao nhiêu câu hỏi dồn dập.
Nhiều lần tôi định gọi cảnh sát nhưng lại tự hỏi, liệu câu chuyện sẽ
trở nên phức tạp hơn không?
Cuối
cùng tôi đành trở về nhà. Trên con đường vắng tanh không một bóng người
lai vãng, tôi quay kính xe xuống thấp và lái thật chậm. Ngang qua công
viên gần nhà chú Thinh, tôi nhìn vào những hàng cây thẳng tắp buồn hiu
như đang chờ những cơn gió mát. Trên băng đá xa xa ẩn mình dưới tàng
cây cổ thụ hình như có một dáng người. Tôi ghìm thắng, mắt nhìn trừng
trừng vào vùng tranh tối tranh sáng nhá nhem. Người hay ma? Hay cô
Lam? Ý nghĩ này làm tôi trở nên bạo dạn hơn. Tôi vòng xe lại, lái dọc
theo con đường hẹp, mở mắt nhìn thật kỹ. Mái tóc dài che khuất khuôn
mặt, chiếc áo hoa màu tím thẫm, đôi vai gầy run theo từng tiếng khóc.
Dáng dấp đó quen thuộc quá. Tim tôi đập mạnh, tôi bước xuống xe gọi to:
- Cô Lam!
Những
bước chân vội vã đưa tôi đến bên cô Lam để cô kịp ngã vào lòng tôi
buông tiếng khóc não nề. Tạ ơn trên. Lòng tôi thật nhẹ nhàng khi đầu
óc tôi thoát khỏi hình ảnh cô Lam nằm sóng soãi, bất động ở một góc vắng
nào đó. Tôi đưa cô Lam về nhà. Mẹ tôi vừa lau những vết thương bầm tím
trên mặt, trên cổ cô Lam, vừa nguyền rủa chú Thinh thậm tệ.
Sau
ngày đó cô Lam lại trở về nhà để tiếp tục chịu đựng sự bạc đãi của chú
Thịnh và sự hiếp đáp của các cô em chồng. Điều lạ là cô có thể chịu đựng
được những điều vô lý. Tất cả tiền bạc một tay chú Thinh nắm giữ. Các
cô em của chú có quyền mua sắm quần này áo nọ nhưng cô Lam thì không.
“Em có đi đâu mà cần phải mua sắm”. Đó là câu trả lời mà cô Lam vẫn
thường nhận được từ chú Thinh khi cô ngỏ ý muốn mua một cái áo hay một
đôi giày.
Năm
hết, tết sắp đến, chú Thinh cùng ba cô em về Việt Nam thăm bố mẹ. Những
ngày đó tôi thường xuyên đến với ba mẹ con cô Lam. Tôi thu xếp những
ngày nghỉ cuối tuần để đưa họ đi chơi một vài nơi. Nhìn thấy nét rạng rỡ
trên khuôn mặt, trong nụ cười của cô Lam tôi chợt nghe lòng mình ấm
lại. Có lần tôi hỏi:
- Cô Lam sẽ chịu đựng cuộc sống đau khổ này đến bao giờ?
Cô Lam lắc đầu thở dài. Tôi nhìn hai đứa bé đang vô tư đùa giỡn theo sóng nước:
-
Nhân thật không hiểu tại sao cô Lam phải chịu đựng những điều vô lý như
vậy? Tại vì cô quá yêu chú Thinh hay tại vì cô không muốn bé Lynn và
Tom phải đau buồn.
Tôi chờ câu trả lời, nhưng chỉ thấy ánh mắt sầu hun hút của cô Lam trong ánh nắng vàng hanh. Khi trở ra xe tôi hỏi:
- Những ngày chú Thinh vắng nhà cô Lam có buồn không?
Cô
lắc đầu nhìn tôi với nụ cười âu yếm. Nụ cười ẩn chứa hai chữ cám ơn làm
tôi cảm thấy lòng mình thơi thới. Cái cảm giác đem niềm vui đến cho một
người bất hạnh làm tim tôi rộn rã khác thường. Tuần lễ cuối cùng trước
khi chú Thinh trở về, chiều nào tôi cũng đưa mẹ con cô Lam đi ăn, đi
xem phim. Tôi cảm thấy hình như mình đang hối hả trong niềm vui sắp tắt
của cô Lam. Khi chú Thinh về, tôi sẽ không còn được cùng Cô Lam ngồi
nhìn nắng chiều lui dần vào bóng tối trên bờ biển mông mênh tiếng sóng
vỗ, lắng nghe tiếng cười dòn tan của bé Lynn và Tom để tưởng tượng như
đây là mái gia đình của riêng mình, một gia đình đang tràn đầy hạnh
phúc. Và rồi … tôi sẽ không còn được chăm sóc cho ba mẹ con cô Lam từng
món ăn trong một nhà hàng nhỏ bé nhưng thật ấm cúng, hay lăng xăng
giúp cô Lam dọn bữa cơm chiều.
Ý nghĩ đó làm tôi cảm thấy nao nao trong lòng. Tôi nói với bé Lynn:
- Tuần sau bố về rồi hai đứa phải chăm chỉ học hành và ngoan ngoãn đừng để cho mẹ bị bố mắng nhá.
Hai đứa gật đầu buồn bã. Khi chúng vào phòng ngủ, tôi nói cô Lam:
- Chắc Nhân phải đi xa để khỏi phải nhìn thấy cô Lam bị chú Thinh hành hạ.
Cô Lam cố làm ra vẻ dưng dửng dưng:
- Có sao đâu Nhân, cô Lam đã quen rồi.
Tôi nhìn cô thật lâu:
-
Tại sao cô Lam lại bắt mình phải “quen” với những điều vô lý đó. Tại
sao cô Lam không đòi hỏi sự công bình cho mình. Cô có trình độ, cũng
không phải là người rụt rè, nhút nhát, sao cứ tự trói mình để phải lệ
thuộc vào chú Thinh. Cô phải cứng rắn, mạnh dạn để đòi cho được những
điều cô muốn. Cô muốn đi làm thì cứ thẳng thắn nói với chú Thinh. Nhân
sẽ tìm việc cho cô. Nhân sẽ dạy cô lái xe…
Nhìn vẻ hùng hổ của tôi, Cô Lam cười chế nhạo:
-Nhân làm gì mà ghê vậy, cứ y như đang biểu tình chống cộng không bằng.
Tôi ngửa mặt cười vang nhưng cũng không quên tiếp tục nhồi nhét vào đầu cô Lam nhiều điều khiến cô phải suy nghĩ.
Chú
Thinh trở về tôi ít có dịp gặp cô Lam, nên cô thường gọi điện thoại
tâm sự cùng tôi những lúc buồn bã. Bao giờ nhấc điện thoại lên tôi cũng
nghe giọng cô sũng đầy nước mắt và rồi không biết từ bao giờ những lời
an ủi của tôi dịu dàng hơn, nồng ấm hơn, để rồi có một ngày, cả tôi và
cô Lam cùng cảm nhận… có một nhịp đập khác thường trong hai trái tim
đang hòa cùng một điệu nhạc. Phải nói rằng cả hai chúng tôi không ai cố
tình tạo ra nghịch cảnh, nhưng những săn sóc dịu dàng của tôi đã làm
cho một trái tim đang mang nhiều thương tích bỗng hồi sinh. Riêng với
tôi, hình ảnh một cô Lam hiền lành, bất hạnh với nét buồn u uẩn đã biến
lòng thương hại của tôi thành một tình yêu tha thiết đậm đà.
Cuối
cùng, khi sự chịu đựng của cô Lam đã mỏi mòn, cô ngỏ ý với tôi, cô muốn
rời khỏi căn nhà hỏa ngục ấy. Như một chàng hiệp sĩ trong câu chuyện cổ
tích thời xa xưa, tôi đứng ra gánh vác, lo toan mọi việc. Tôi đưa cô
Lam rời khỏi nhà vào một buổi sáng khi chú Thinh và ba cô em của chú
Thinh đi làm, bé Lynn và Tom đi học. Những bước chân của cô Lam như gắn
thêm viên đá nặng ngàn cân. Cô Lam hỏi tôi trong nước mắt:
- Bé Lynn và Tom sẽ nghĩ gì về mẹ nó?
Tôi trấn an:
- Nó sẽ hiểu được lý do, bởi vì nó đã chứng kiến quá nhiều.
Cô Lam nhìn tôi như bám víu một niềm tin:
- Nhân chắc chắn như thế?
Tôi cầm tay cô Lam, giọng chắc nịch:
- Chắc chắn.
Không
cần nói hẳn ai cũng biết là sóng gió không dừng lại ở ngưỡng cửa tình
yêu của tôi và cô Lam. Cha mẹ tôi chống đối vì cho rằng mối tình này
trái với đạo lý. Bạn bè chê trách tôi phá vỡ hạnh phúc (?) gia đình
người khác và hỏi tôi tại sao lại “chọn người yêu trong hàng cô bác”.
Cô Lam vùi đầu trong nước mắt, hối tiếc đã làm hỏng tương lai của tôi.
Nhưng với tôi, những điều cỏn con ấy có sá gì so với tình yêu vĩ đại tôi
đã dành cho cô Lam. Tôi ngẩng cao đầu bước trên dư luận, bởi tôi nghĩ,
nếu ai thật sự hiểu tình yêu là gì, họ sẽ chẳng bao giờ đặt câu hỏi tại
sao, cho trường hợp “éo le” này.
Chú
Thinh lên án, chửi bới, đe dọa mãi rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận ly
dị. Trước toà án, cô Lam là người có lỗi nên không được quyền giữ con.
Gặp
lại bé Lynn và Tom quả thật tôi vô cùng bối rối. Tôi không biết phải
giải thích thế nào. Điều tôi lo sợ là chúng sẽ oán hận tôi và cô Lam.
Nhưng thật may mắn, hai đứa vẫn gửi cho tôi một nụ cười thân thiết như
ngày nào. Bé Lynn lau nước mắt cho cô Lam và nói nhỏ:
- Vài năm nữa con sẽ về với Mẹ.
Cô
Lam nhìn con với đôi mắt sáng ngời niềm hy vọng. Cái con số “vài năm”
vậy mà qua thật nhanh và bây giờ, mười năm sau ngày chia tay đầy nước
mắt ở tòa án, Lynn và Tom đã có mặt trong căn nhà khang trang của tôi và
cô Lam… À! không tôi và Lam.
Ngân Bình
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Oct/2017 lúc 11:29am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
|
Gởi ngày: 14/Oct/2017 lúc 11:40am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
|
Gởi ngày: 16/Oct/2017 lúc 10:17am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
|
Gởi ngày: 17/Oct/2017 lúc 1:02pm |
Những Chuyện Buồn Vui
Buổi chiều tan làm về đường phố chen chúc xe cộ, ai cũng có vẻ vội
vàng bận rộn để mau về nhà. Chị Bông cũng thế, phải ghé vào day care để
đón Tabi và Betsy. Highway giờ cao điểm dòng xe chậm chạp di
chuyển, hai đứa con ngồi trong xe thỉnh thoảng lại cãi nhau, chị phải
luôn miệng dỗ dành và phân xử cho đến lúc về tới nhà. Trước khi mở
cửa vào nhà, chị Bông mở thùng thư. Cầm xấp thư trong tay, như thường lệ
chị chỉ liếc sơ qua rồi để đó, khi nào rảnh mới đọc và giải quyết,
chẳng đi đâu mà vội, vì bây giờ còn bao nhiêu công việc khác đang chờ
đợi chị, nấu cơm, tắm rửa con cái v..v… Nhưng phong thư đầu tiên là một
địa chỉ xa lạ gởi cho chị, có in đậm hai chữ “Personal &
Confidential” làm chị quan tâm, không nhịn nổi sự tò mò, chị xé phong
thư ra đọc ngay. Thì ra ông Luật sư nào đó lấy records từ County, biết
tin chị vừa bị câu lưu, giam giữ, nên ông đề nghị được chị thuê mướn để
bào chữa cho chị, cứu chị thoát khỏi tội tình. Ông luật sư khoe đã có 35
năm kinh nghiệm trong nghề luật hình sự. Chị Bông vừa buồn cười vừa
bực mình, chị lật phong thư ra coi lại lần nữa, đúng là người nhận tên
“Nguyễn thị Bông” và địa chỉ này không sai sót chút nào. Nhưng sự lầm
lẫn thật khủng khiếp, Nguyễn thị Bông là chị vẫn là một công dân tốt,
hôm qua tại hãng chị mới được lãnh thưởng và boss khen ngợi, hôm nay chị
vừa đi làm về, đang ung dung ngồi nhà và đọc lá thư chết tiệt này. Tên
tuổi giống nhau là chuyện thường, nhưng sao lại giống cả địa chỉ? Hay
Nguyễn thị Bông gian ác, phạm tội từng sống ở căn nhà này trước kia? Hay
thư ký của county trong lúc ghi chép, đánh máy làm báo cáo đã ngủ gật
và ghi lộn địa chỉ? Chị chẳng thì giờ đâu mà suy luận, tiện tay chị
mở luôn phong thư thứ hai của Women’s Health, lần này thì chính xác là
của chị, chắc họ thông báo kết quả chụp Mammogram tuần vừa qua. Nhưng
nội dung lá thư này làm chị hoang mang hơn lá thư đầu tiên, bác sĩ đã
đọc tấm phim chụp hình vú của chị và thấy bên ngực trái “không bình
thường”, yêu cầu chị liên hệ với văn phòng để lấy hẹn khám lại. Năm 40 tuổi, chị Bông bắt đầu chụp Mammogram, hai năm qua đều bình thường, sao lần này lại “giở chứng”?
Chị bỏ mặc đống thư, chạy ngay vào restroom, đứng trước gương, cởi áo
ra rồi theo đúng sách vở đã chỉ dẫn chị giơ cánh tay trái lên đầu, lấy
tay phải rờ nắn phía ngực trái theo chiều kim đồng hồ xem có cục u nào
nổi lên không. Đúng lúc đó thì con Betsy chạy vào đòi thay diaper vì
bị ướt. Chị vội vàng cởi bỏ diaper ướt và rửa ráy qua loa cho nó, rồi
đẩy nó ra ngoài để tiếp tục tự khám cho mình, nhưng con Betsy lại chạy
vào restroom và luôn miệng lập đi lập lại câu: - I have nothing! Bị cản trở công việc và đang lo lắng âu sầu, chị quát mắng nó: - Đi ra ngoài…
Thấy mẹ chưa hiểu ý mình mà còn nổi giận, con bé Betsy 3 tuổi bèn tốc
váy lên. Thì ra chị Bông quên chưa mặc diaper và quần lót cho nó. Thảo
nào con bé cảm thấy “trống vắng” phía dưới và chỉ biết diễn tả bằng vài
từ đơn giản “I have nothing” mà thôi. Biết mình có lỗi, chị Bông dịu
lại, làm cho nó đầy đủ rồi mới vô restroom khám ngực lại, chị thấy hình
như có cục u nhỏ nơi ngực trái? - Chắc mình bị ung thư vú! Chị
đau đớn nghĩ thầm và bao nhiêu viễn ảnh đen tối hiện ra, nay mai bộ ngực
chị sẽ bị cắt lìa, người ta sẽ hóa trị làm tóc tai chị rụng hết, và một
ngày nào đó chị sẽ chết, khi ấy hai đứa con gái chị sẽ mồ côi mẹ, đầu
xanh vương khổ lụy, và bi thảm thêm nữa là chồng yêu quý của chị sẽ được
dịp sang ngang lần nữa. - Mẹ ơi, con đói. - Mẹ ơi, con muốn ăn cơm!
Hai đứa con đang réo gọi inh ỏi, không để cho chị có thì giờ ngồi khóc
trước cho sự đời. Chị ra bếp bắt tay vào công việc vì chồng chị cũng sắp
về tới. Người ta dù buồn phiền, lo âu hay đau khổ thì vẫn phải ăn, cái
điều đôi lúc thật phàm tục mà vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Nấu
cơm xong thì anh Bông về tới, anh vào nhà với gương mặt vui vẻ, anh
quan niệm hãy để bao nhiêu lo âu buồn phiền ngoài cửa, chỉ mang niềm vui
vào nhà, dù là niềm vui nho nhỏ. Hôm nay không biết anh có niềm vui gì
không mà túi lunch của anh vẫn còn nguyên. Chị Bông hỏi: - Trưa nay anh nhịn đói hả?
- Một người bạn cùng phòng thua cá độ nên phải khao bọn anh đi ăn lunch
tại một nhà hàng Việt Nam . Chưa bao giờ anh ăn tô bún Bò Huế ngon đến
thế! Đang lo buồn, nhìn thấy mặt chồng vô tư hớn hở, chị tủi hờn, châm chọc: - Ngon vì không phải trả tiền chứ gì? Anh Bông vẫn chưa để ý vẻ bực mình của vợ: - Phải công nhận nhà hàng này nấu món bún bò Huế ngon lắm, để hôm nào anh dẫn em đi ăn cho biết. Chị hết chịu nổi, gắt lên:
- Bún bò Huế! Lúc nào em cũng nghe anh ca tụng món bún bò Huế. Chắc
ngày xưa anh đã yêu một cô gái Huế, bây giờ ăn để tưởng nhớ người ta? - Thế em thích ăn món cà ri gà chấm bánh mì, ngày xưa em cũng mê một thằng cha Ấn Độ nào hả? Anh châm chọc lại chị. Bây giờ anh Bông mới nhìn chị và ngạc nhiên: - Mà em làm sao thế? Trông em hình như có điều gì tuyệt vọng? - Em bị… ung thư vú! Chị Bông khóc vỡ oà ra như một đứa trẻ con đang có chuyện buồn và được người lớn quan tâm hỏi đến: Anh cầm lá thư của “Women’s health” lên đọc và mỉm cười bình tĩnh: - Có thế mà em làm anh hết hồn. Họ có nói em bị ung thư đâu, còn mời em đến để xem xét lại kia mà. - Thì em… suy đoán thế.
- Con người lo xa như em chỉ khổ vào thân, mỗi lần đau bụng uống thuốc
chưa khỏi là em suy đoán bị… ung thư bao tử, có một mụn ruồi lạ xuất
hiện thì nghĩ là ung thư da, bây giờ đến ung thư vú. Sống với em kiểu
này có ngày anh đau thần kinh mất. - Em phòng xa… trừ hao ấy mà, đau khổ bao nhiêu sẽ nhận lại sự sung sướng bấy nhiêu. - Anh xin em, anh chẳng muốn có một người vợ lo xa đến thế.
Những lời trấn an đầy tự tin của chồng làm chị Bông vơi bớt lo âu. Có
thể hôm chụp Mammogram, do sơ suất từ phía chị hay phía người chụp, làm
hình bị mờ, nên bác sĩ yêu cầu làm lại để tìm kết qủa chính xác mà thôi.
Dòng họ nhà chị không có ai bị ung thư vú, mà mỗi năm chị mỗi đi khám
thì bệnh ung thư ở đâu mà xuất hiện nhanh đến thế? Chị bèn sang chuyện khác:
- Chẳng biết bà Nguyễn thị Bông nào phạm tội và bị câu lưu lại cùng địa
chỉ nhà mình, nên luật sư gởi giấy đến nhà năn nỉ mình thuê mướn ông ta
kia kìa. Anh Bông liếc sơ qua vài giòng đầu lá thư của ông luật sư:
- County thì lầm lẫn địa chỉ, ông luật sư thì ế ẩm đi săn tìm khách
hàng qua các records của sở cảnh sát, của county. Em đọc làm gì cho phí
thì giờ. Anh Bông lật xấp thư còn lại và nói: - Có thư chị Hoa của em ở Việt Nam, em đã đọc chưa? Thư này mới thật sự liên quan đến em đây.
Lại thêm một lá thư cần đọc, chắc là chuyện buồn nhiều hơn chuyện vui?
Lá thư dài, vòng vo tam quốc để đi đến mục tiêu cuối cùng là xin tiền.
Chị Hoa kể từ ngày chồng chị mê vợ bé, bỏ bê chị với thằng con trai, mấy
năm nay mẹ con tần tảo nuôi nhau. Năm nay nó 18 tuổi, vừa mới lấy vợ,
cô vợ trẻ con, cùng tuổi, không nghề nghiệp. Chồng đi làm phụ hồ vất vả
cả ngày ngoài trời, thì vợ ở nhà “giết” thì giờ trống vắng bằng cách
sang nhà hàng xóm chơi game. Chị Hoa ở nhà nấu cơm chờ con trai và con
dâu, có hôm con dâu mải chơi game, bà mẹ chồng phải sang tiệm game, năn
nỉ gọi con dâu về ăn cơm. Làm gì “ăn” nấy, con trai chị Hoa làm phụ
hồ, mỗi chiều về nhà nó “chôm” được khi thì vài cục gạch, lúc thì vài ký
xi măng. Chị Hoa ky cóp, khích lệ con trai… tăng năng xuất chôm chỉa
thêm nữa, để mau đủ số xây một cái chuồng heo, rồi chị sẽ nuôi vài con
heo kiếm thêm thu nhập. Mỗi người thợ quèn rút tỉa một chút, thợ lớn
rút tỉa lớn hơn. Hèn gì những công trình xây dựng ở Việt Nam mau hư,
mau xuống cấp là phải. Cái nghèo cái đói, làm cho con người ta trở nên
ti tiện, nhẫn tâm không nhiều thì ít. Nhưng giấc mộng xây chuồng heo
không bao giờ thành sự thật, thằng con trai chị Hoa bị chủ cho nghỉ
việc vì làm việc yếu kém, bây giờ nó đang ngồi nhà và cô vợ trẻ lại mang
bầu không đúng lúc. Đọc xong thư, chị Bông thở dài, tội nghiệp chị
Hoa số kiếp lận đận, hết khổ vì chồng lại khổ vì con, vì cháu, và làm
khổ lây cả đến chị. Phen này lại phải gởi tiền về giúp đỡ.
****************
Hôm nay hai vợ chồng chị Bông cùng nghỉ ở nhà, để anh đưa chị đến
Women’s Health tái khám, thì nghe tiếng chuông cửa reo nên chị vội vàng
chạy ra. Đó là một người đàn ông Mỹ tuổi trung niên, ông lịch sự mỉm
cười : - Chào chị, tôi muốn gặp anh Bill. Chị ngạc nhiên: - Anh Bill? Ông khách thuộc loại nhanh nhẩu: - Vâng, thế chị là vợ của anh Bill? Anh ấy từng kể với tôi có một người yêu là người Châu Á, thì ra là chị… Chị hơi khó chịu: - Anh nào? - Anh Bill Cook ấy mà. Chị lùi vào nhà, chuẩn bị khép cửa: - Xin lỗi, thế thì ông lầm nhà rồi. Trong đời tôi chưa bao giờ quen biết anh Bill Cook nào cả. Ông khách vẫn băn khoăn:
- Tôi từ Austin lái xe hơn ba giờ đồng hồ tới đây mà không gặp được bạn
cũ thì thật là uổng công. Đây là thư và địa chỉ của anh Bill gởi cho
tôi cách đây mấy tháng. Đúng là địa chỉ nhà này. Chị cảm động, không nỡ
đóng cửa, dù biết rằng không nên tin cậy bất cứ một người lạ mặt nào,
nhưng trông ông Mỹ này hiền lành chị đành phá lệ. Chị cầm tờ thư, nơi
góc cuối có ghi địa chỉ: 200 Maple, Ave… Đúng từ số nhà, tên đường và
tên thành phố. Con đường Maple này không dài lắm, nhưng chị chẳng biết
tên tất cả hàng xóm ngoài hai nhà bên cạnh nhờ thỉnh thoảng ra cửa gặp
nhau, chào nhau và trao đổi tên tuổi theo phép xã giao. Giá như ở Việt
Nam thì chị biết rõ lai lịch tông môn của hàng xóm láng giềng từ đầu
đường đến cuối ngõ, chẳng sót một ai. Chị đưa ý kiến: - Chắc chắn có một sự lầm lẫn nào đó, tốt hơn hết ông nên gọi phone cho ông Bill và hỏi lại cho rõ. - Tiếc quá, tôi vội đi nên để quên cell phone ở nhà rồi. - Vậy thì ông dùng phone của tôi.
Chắc kiếp trước chị Bông mắc nợ ông khách này nên bây giờ dù vô tình mà
ông cũng làm phiền chị quá. Chị vào nhà mang cái cell phone ra. Nghe phone xong ông Mỹ hớn hở:
- Đúng là một sự lầm lẫn lớn, số nhà anh Bill là 206, mà anh ấy viết
nhanh, viết láu, nên trông giống như 200, là số nhà của chị. Tôi thành
thật xin lỗi chị. Chị cũng vui lây: - Thế thì nhà anh Bill cách đây có ba căn thôi, cũng cám ơn ông, nhờ vậy mà tôi biết thêm tên một người hàng xóm của tôi. Ông khách vui vẻ rối rít: - Thôi chào chị, tôi rất cám ơn chị. Chị Bông vào nhà, bị anh Bông mắng: - Em xí xọn vừa vừa chứ kẻo có ngày chết oan, chưa chết vì những căn bệnh suy đoán ung thư mà chết vì tin người lạ.
- Em đọc thấy vẻ mặt thất vọng của ông ta khi không tìm thấy nhà bạn cũ
sau một cuộc hành trình xa, nên em muốn giúp đỡ ông ta. Đó cũng là một
niềm vui trong cuộc sống đầy rẫy phiền lụy này. - May mà em chưa tới số đấy! Chị Bông than thở:
- Căn nhà của mình sao mà vô duyên! Hết bị county ghi tên bà Nguyễn thị
Bông nào đó vừa bị câu lưu, là địa chỉ nhà này, đến một kẻ xa lạ từ
Austin cũng tìm lộn địa chỉ nhà này. Thôi nào, mình đi anh ơi! Niềm
vui nho nhỏ theo chị trên đường đi. Bước vào khu của “Women’s Health”
niềm lo âu lại uà vào tâm hồn chị, làm chị bồn chồn khắc khỏai, dù chị
ngồi trong phòng đợi lịch sự thanh nhã, có tiếng nước chảy róc rách từ
một bồn nước nhỏ nhân tạo làm kiểng nơi góc phòng, cửa sổ buông rèm màu
xanh êm dịu, trên bàn một bức tượng phụ nữ khỏa thân mềm mại với bộ ngực
tròn trịa và dáng đứng tuyệt với. Chắc chủ nhân của cơ sở này phải là
một phụ nữ, mà là một phụ nữ có tâm hồn nghệ thuật sâu sắc lắm?
Khách hàng toàn là phụ nữ, các bà bước vào gian phòng nhẹ nhàng, hoặc
lấy tờ tạp chí đọc hoặc ngồi im chờ đợi đến lượt được gọi vào. Chị
Bông vào một căn phòng và cởi áo ra nằm trên giường, bác sĩ bôi lên ngực
trái của chị một chất kem trơn, dùng một dụng cụ chà sát di chuyển từng
chút một quanh ngực trong khi theo dõi họa đồ trên màn hình. Công việc
kéo dài khỏang mười lăm phút thì kết thúc và bác sĩ cho biết kết quả
ngay tại chỗ: Chị hòan tòan bình thường, không bị ung thư vú. Nghe
xong, chị Bông nhẹ cả lòng, tưởng như mình bay bổng lên mấy từng mây,
chị nhanh nhẹn nhẩy xuống giường và mặc lại áo. Chỉ nhìn nét mặt của chị
khi vừa bước ra, anh Bông đã chắc ăn: - Hôm nay em phải ăn mừng. - OK, anh thích gì em cũng chiều, kể cả bún bò Huế.
- Nhưng không phải vì anh tương tư cô gái Huế, mà là cô Bắc Kỳ đa nghi
và nhiều chuyện này đấy. Mình sẽ đến cái nhà hàng mà hôm nọ anh đã ăn,
em nhé? Chị Bông mỉm cười, kéo tay chồng bước ra ngoài. Chưa bao giờ
cuộc đời đẹp như ngày hôm nay. Cách đây một tuần chị Bông nhận mấy tin
buồn phiền, hôm nay có hai niềm vui. Cuộc sống thật muôn màu, có những
sắc màu tối tăm thì cũng có những sắc màu tươi sáng. Những buồn vui đó
chia cho mọi người trên khắp thế gian này.
Nguyễn Thị Thanh Dương
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
|
Gởi ngày: 18/Oct/2017 lúc 11:03am |
Một Kẻ Dư Thừa
Xong bữa điểm tâm, hai đứa con rời khỏi
nhà, chỉ còn hai vợ chồng, anh cũng đang sửa soạn để đi làm. Chị muốn
nói một câu gì đó, nhưng chị cảm thấy không khí không tự nhiên vì vẻ mặt
lạnh tanh của chồng,và người cất tiếng nói chính là anh, anh nói một
câu ngắn gọn cũng đủ làm chị xây xẩm, choáng váng cả mặt mày khi anh ra
tới cửa: - Anh đã quyết định rồi, chúng ta phải li dị ! Chị ngồi
phịch xuống ghế, tủi hờn và tức giận, để mặc cho những giọt nước mắt lăn
dài xuống má, cái điều ghê gớm này chị biết là sẽ xảy đến, nhưng không
ngờ rằng anh đã nói ra bằng vẻ mặt không chút xót xa, vợ chồng ăn ở với
nhau 20 năm dài, đâu phải chỉ mới hôm qua mà hôm nay anh nói chuyện chia
tay vô tình đến vậy ! Mấy tháng nay, ngôi nhà này đã xảy ra bao
nhiêu bão tố, đã là địa ngục trần gian giữa hai vợ chồng, tính tình anh
thay đổi hẳn, anh hay gắt gỏng và nổi nóng vì những lí do không đâu vào
đâu với vợ con, giờ giấc đi làm của anh xáo trộn bất thường, đi sớm về
khuya, và weekend thì cũng biến khỏi nhà, lúc thì nói đi thăm bạn, lúc
thì nói đến hãng làm thêm vì nhiều công việc còn tồn đọng lại. Những
lúc anh đi thất thường như thế, chị gọi cell. của anh thì chẳng bao giờ
liên lạc được, cell phone của anh đã off, gọi phone hãng tại phòng anh
làm việc thì chẳng ai bốc, chứng tỏ anh chẳng hề có mặt tại hãng. Chị có tra vấn gạn hỏi thì anh trả lời cáu gắt và áp đảo chị cho đến khi chị đành ấm ức chịu thua vì không thể làm gì hơn. Những
sự bất thường không chỉ ngừng ở đây, anh ở nhà cũng có người gọi vào
cell phone của anh, thế là anh ra vườn hay lên lầu nói chuyện, chị không
thể đến gần, không thể biết người mà anh đang nói chuyện là ai ? Cứ
như thế mấy lần, cũng có lúc cell của anh reo lên và chị vồ được nó,
tiếng một người phụ nữ bên kia”Hello”, nhưng khi chị hỏi ai đó thì họ
cúp máy luôn, chị lại tra hỏi anh lại chối bay chối biến. Bao nhiêu nghi vấn đặt ra trong đầu chị: Anh ấy đang có một tình yêu??!! Người chồng hào hoa của chị đã an phận 20 năm qua, đã bước vào tuổi trung niên, chắc vẫn chưa quên thói hào hoa, lụy tình ? Những
cú gọi đến cell phone của anh càng ngày càng nhiều và lộ liễu, mỗi lần
như thế là anh lái xe ra khỏi nhà, anh thì vẫn cứ chối bai bải là mấy
thằng bạn gọi rủ đi nhậu, chị thừa hiểu chẳng có thằng bạn nào rảnh đến
độ ngày nào cũng gọi như thế, và dần dần anh chẳng cần che dấu nữa, có
khi anh đi hai ba ngày mới về. Anh ăn ở đâu? ngủ ở đâu? Nếu không có một
nơi chốn thân tình cho anh đến, có một người đàn bà ấp ủ cho anh vui?? Những trận cãi nhau, giận hờn xảy ra thường xuyên, những bất hạnh hình như đang chờ đợi chị. Thuở
ấy chị mới 20 tuổi, cha mẹ chỉ có 3 người con gái, cả ba đều xinh đẹp,
những năm đó phụ nữ Việt Nam còn hiếm hoi ở xứ Mỹ, nên nhà chị được bao
nhiêu chàng trai chiếu cố, hai người chị đã lấy được người vừa ý, còn
mình chị, hết người này làm mai, đến người kia dạm hỏi, làm cha mẹ chị
cũng sốt cả ruột, cả nhà khuyên chị, chọn ai thì chọn cho xong, để những
người khác khỏi tốn công và hi vọng đợi chờ. Trong vài người ngang
ngửa nhau về nghề nghiệp lẫn ngoại hình, đang cố công theo đuổi và cầu
hôn chị, thì chị đã chọn anh, anh có nụ cười hiền lành, chỉ có thế mà
chị thích anh, dù anh nghèo hơn những người kia, lúc đó anh vừa ra
trường kỹ sư và xin được việc làm cho chính phủ, đồng lương còn ít ỏi,
anh đang thuê căn phòng trong một apartment bình dân, đằng sau là một
lạch nước, mùa mưa lúc nào cũng luẩn quẩn rác rưới và lá khô mà chẳng ai
buồn quét dọn, chị đã về ở chung với anh tại căn phòng đó sau ngày
cưới. Chỉ khi lấy anh, một thời gian sau chị mới biết ngoài cái nụ
cười hiền lành dễ thương đó, anh là một người hào hoa và rất si tình, có
nhiều mối tình đi qua đời anh, mối tình nào anh cũng đều…thương tiếc !
đều cho là tuyệt vời ! Một người hào hoa như thế gặp một người xinh
đẹp như chị là anh ra tay chinh phục ngay, chị cũng tự nguyện sa vào
lưới tình của anh, từ chối những đám kia, nhà cao cửa rộng, tiền bạc,
chắc chắn hơn hẳn anh. Anh biết điều đó, nên lấy được chị, anh cưng chiều lắm, không cho vợ đi làm, ở nhà để anh nuôi và đẻ con giùm anh. Chị
đã hãnh diện và ngụp lặn trong hạnh phúc, một năm sau con trai đầu lòng
ra đời, nó giống anh, hai năm sau nữa, một bé gái ra đời, xinh đẹp như
chị. Hai đứa con mọn và người chồng đã quấn quýt vào cuộc đời chị, chị
sung sướng được bận bịu vì họ, hết đưa đón con đi học, đi chơi, rồi lại
chợ búa cơm nước, thu vén nhà cửa lúc nào cũng tinh tươm, vì khi đứa con
thứ hai ra đời, anh chị đã mua một căn nhà trả góp, nên chị thích trưng
bày, sửa sang trong, ngoài căn nhà cho thật ấm cúng, dễ thương. Vào
những mùa lễ Tết của Việt Nam hay của Mỹ, chị bày ra nấu nướng đủ thứ,
gia đình lúc nào cũng có những bữa ăn quây quần đầm ấm bên nhau. Nhưng
hai người chị của chị thì vẫn chưa hài lòng về cuộc sống ấy, họ tỏ ý
tiếc cho chị, đáng lẽ chị nên tiếp tục học và có một nghề trong tay,
sống ở Mỹ và ở thời đại điện tử văn minh này, người phụ nữ trẻ chỉ ở
nhà, lúi húi trông con, làm bếp là lạc hậu, là thua kém thiên hạ, là mụ
cả người ra ! Cho dù chồng yêu ,chồng chiều, nhưng cuộc đời có lúc vui
buồn, thăng trầm, người đàn bà lệ thuộc chồng sẽ hụt hẫng và thấy mình
vô tích sự. Chị cũng cảm thấy lung lay vì những lời khuyên chí tình
của hai người chị ruột, nhưng mấy năm ở nhà nuôi con quen rồi, phải đem
con đi gởi baby sit chị xót xa thương con, phải làm lại từ đầu, cầm lại
sách vở để học, để đến trường đến lớp, chị ngao ngán quá ! Ở đời
chẳng ai biết được chữ ngờ ! có thể chính anh cũng không ngờ có ngày anh
sẽ đổi thay, chuyện tình yêu là chuyện của trái tim, nó có sức mạnh ghê
gớm, làm cho người ta mê muội, chạy theo nó và sẵn sàng ruồng bỏ những
gì mình đang có và mình từng yêu qúy Mấy tháng nay vợ chồng lạnh
nhạt, vòng tay anh từng ôm, đôi môi anh từng hôn, ánh mắt anh từng
nhìn….Tất cả là cho chị, của chị,vậy mà nay đã trở thành xa lạ, những
cảm xúc đó chắc anh đã hiến dâng cho một người đàn bà khác ? Chị rùng
mình đau đớn khi tưởng tượng đến một người đàn bà nào đó đã nằm trong
vòng tay anh, họ âu yếm và nói với nhau những lời tình tự, trong khi chị
đang ở nhà, chờ đợi chồng về, để rồi lại phải nghe những lời nói dối
hay những lời gắt gỏng hành hạ chị. Có hôm chỉ vì không tìm thấy bộ
quần áo ngủ đúng ý, anh mắng chị, ở nhà làm mấy việc vặt mà cũng không
xong, giặt đồ để lộn xộn, mất công anh tìm kiếm. Lúc này chị càng thấm
thía những lời khuyên của các chị, khi hết tình hết nghĩa, người chồng
đã từng thương yêu mình cũng có thể quay ra mắng mỏ mình, coi người vợ ở
nhà làm nội trợ như một người làm công vô tích sự. Và bây giờ là lúc
chị đương đầu với sự thật cuộc đời, nếu chị đồng ý li dị thì chị biết
sẽ làm gì ở lứa tuổi 40 ? không bằng cấp, không nghề nghiệp, không một
chút kinh nghiệm dù những công việc đơn giản nhất. Còn những kinh nghiệm
nuôi dạy con, tài ba giỏi giang trong bếp núc, chẳng giúp gì được chị
trong lúc này cả, chính chị cũng cảm thấy mình tầm thường và vô tích sự,
sống lệ thuộc vào chồng, để khi bị bỏ rơi, mới biết mình đang đứng bên
bờ vực thẳm, chênh vênh trước mặt bao nhiêu nỗi lo toan, bất trắc. Anh
đã thẳng thắn bàn chuyện li dị với chị, căn nhà đã trả hết, anh sẽ để
lại cho chị và hai con, anh sẽ trả tiền child support hai con cho đến
khi chúng trưởng thành. Đổi lại, chị trả cho anh sự tự do, anh xin lỗi
chị, anh biết đã làm chị buồn khổ, nhưng tiếc thay anh không yêu chị nữa
! Khi người đàn ông đã nói thẳng vào mặt vợ những lời sòng phẳng và
trần trụi như thế, chị biết là không thể níu kéo, sống bên nhau mà hai
tâm hồn hai phía, chỉ dày vò và làm khổ nhau thêm. Chị đồng ý li dị. Tội
nghiệp chị ,hai người chị, một ở Chicago, một ở California, đều rủ chị
về gần họ, để chị em an ủi và nâng đỡ nhau, nhưng chị từ chối, chị vẫn
muốn ở căn nhà của mình, nơi hai đứa con chị đã được sinh ra và lớn lên,
nơi chị đã có một thời gian dài hạnh phúc bên chồng. Ngôi nhà đầy ắp kỷ niệm, còn vang tiếng cười trẻ thơ, còn ấm vòng tay ân ái, dù anh đã quên, nhưng chị thật khó lòng quên. Khi
người ta không còn yêu nhau, ở chung một thành phố bỗng trở thành ngột
ngạt, khó chịu, và anh là người ra đi, job chính phủ dễ thuyên chuyển,
anh đã về một tiểu bang xa xôi nào đó với người vợ mới của anh, sau này
chị biết đó là một cô kỹ sư trẻ làm cùng hãng anh, họ gặp nhau, tiếng
sét ái tình đã đến với hai người và họ đã lấy được nhau như ý muốn. Thằng
con lớn bắt đầu vào đại học, vì thế nên nó vẫn có quyền được hưởng tiền
child support cho đến khi học xong, còn đứa con gái đang học high
school. Chị xin đứng bán hàng trong một tiệm fast food, đồng lương thấp,
cộng với tiền trợ cấp của hai con, chị gói ghém chi li từng đồng một
trong cuộc sống, vất vả thế, nhưng chị thấy mình trưởng thành, khôn
ngoan hơn, tự tin hơn, trong mất mát, trong đau khổ, chị vẫn muốn gây
dựng cho hai con một cuộc sống êm đềm. Những bữa ăn tối quây quần ba
mẹ con, chiếc ghế thứ tư vẫn để không, vẫn thiếu vắng một người. Đôi lúc
theo thói quen, khi chị từ trong bếp bưng ra những tô phở nóng hổi cho
hai con, chị vẫn nghĩ đến chiếc ghế anh từng ngồi, từng đợi chị mang đến
tô phở như thế. Có lần chị không cầm được nước mắt, con chị hỏi sao
mẹ khóc? chị đặt tô phở xuống bàn cho con và gượng cười chối, mẹ rắc
tiêu vào tô phở cho con và mẹ bị cay mắt đấy ! Và hai con chị không biết
rằng chị đã rơi nước mắt không biết bao nhiêu lần khi nhìn lại bất cứ
kỷ niệm nào của anh, dù rất nhỏ nhoi, bình thường, một cái ly anh hay
dùng pha cà phê để lăn lóc trong một góc tủ bếp vẫn còn đó, mấy chiếc vớ
cũ còn sót lại trong ngăn quần áo…. Có những đêm chị đã ngủ mơ thấy anh trở về, cuộc sống như xưa, cái bàn ăn lại quây quần đủ 4 người. Thỉnh
thoảng anh liên hệ với hai con bằng e.mail và cellphone của chúng, còn
chị, từ khi chia tay, chưa bao giờ nói chuyện với anh. Thật khủng khiếp, tình nghĩa vợ chồng bỗng chốc thành người dưng xa lạ và có cả oán hờn ! Vất
vả nên chị thấy thời gian đi quá nhanh, nỗi đau theo ngày tháng cũng
nguôi ngoai dần, chị bớt khóc, những kỷ niệm của anh trong nhà không còn
làm chị đau đớn nữa. Qua thông tin của những bạn bè, chị biết anh
đang có một cuộc sống hạnh phúc, anh đã có hai đứa con khác, cả hai vợ
chồng anh đi làm, nên con đem gởi baby sit, tài chính của vợ chồng anh
dĩ nhiên là dồi dào, nhưng chắc không khỏi bận rộn vì hai đứa con nhỏ
nên anh chẳng có thì giờ về thăm hai đứa con lớn, dù theo lệnh toà án
khi li dị, anh có quyền đến thăm chúng bất cứ lúc nào, hoặc có lẽ vì anh
không muốn gặp lại chị, đơn giản thế thôi. Thằng con chị học xong
đại học 4 năm, là 4 năm hai vợ chồng chị xa nhau, ngày con ra trường có
mặt chị, nhìn những gia đình khác có đầy đủ cha mẹ trong ngày vui của
con chị bỗng chạnh lòng. Chiều hôm ấy về nhà chị nấu một bữa cơm thật
ngon, với các món ăn mà con trai chị yêu thích mà ít khi chị có thời
giờ bỏ công nấu nướng thường xuyên như ngày xưa . Đồ ăn bày ra bàn,
ba mẹ con đang nói chuyện vui vẻ thì có tiếng chuông cửa, con gái chị ra
mở cửa, anh đang đứng ở ngưỡng cửa, với một chút ngại ngùng . Con trai anh lên tiếng: - Mời ba vào nhà ! Chị ngồi chết lặng vì thấy khó xử, chị chưa bao giờ hình dung ra tình huống này, nhưng chị đã lấy được bình tĩnh, nói với anh: - Vâng, mời anh vào nhà ! Anh giải thích với chị : - Anh về dự lễ ra trường theo lời mời của con, nhưng không kịp. Chuyến bay bị delay bất ngờ Anh
nhìn rất nhanh khắp nhà, mọi thứ dường như vẫn như cũ, dù cuộc sống của
mọi người trong ngôi nhà này đã thay đổi. Trong suốt 4 năm qua, trong
cuộc sống bận bịu hiện nay của gia đình mới của anh, bên vợ mới, con
mới, anh đã hiểu ra rằng, người vợ cũ, suốt thời gian ở với anh, chị
không hề đi làm, không kiếm ra đồng nào, nhưng chị đã làm rất nhiều, anh
đi làm mỗi ngày 8 tiếng, nhưng chị thì hơn thế nữa, chị đã là một người
vợ, một người mẹ, và cả vai trò một người giúp việc, quán xuyến mọi thứ
trong căn nhà này một cách tận tình và tuyệt hảo. Anh đã kiêu ngạo
và coi thường chị khi ngày đó li dị, anh tưởng mình đã hào phóng và rộng
lượng cho không chị căn nhà này, căn nhà đã có bao nhiêu công sức đóng
góp của chị, bằng tình yêu chồng, thương con, cả một quãng đời tuổi trẻ,
thanh xuân của chị chỉ dành cho chồng con, coi thành quả của chồng con
như thành quả của chính mình. Cô con gái kéo ghế mời anh: - Ba ngồi xuống đây đi, ba không dự lễ ra trường của anh con thì bây giờ ba ăn với chúng con cho vui. Chị
đứng dậy đi lấy thêm bát đũa, vô tình anh đã ngồi đúng vị trí ngày xưa
anh thường ngồi, bàn ăn lại đầy đủ 4 người, như hồi anh mới ra đi, chị
đã từng mơ, từng mong anh trở về, dù chỉ một lần để chị được nhìn lại
cái hình ảnh quen thuộc này. Vậy mà , không biết có phải vì ở một nơi
nào đó vợ con anh đang chờ anh, và ở nơi đây, cuộc sống chị đã quen chỉ
có 3 mẹ con, cái hạnh phúc thu nhỏ lại sau những đổ vỡ, mất mát không ?
Chị bỗng thấy lòng bình thản, thấy trong bàn ăn chiều nay có một kẻ dư
thừa.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Oct/2017 lúc 11:04am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 19/Oct/2017 lúc 8:53am |
Hạt Bụi Trong Tim
Hơn nửa đời người đã trôi qua, có
biết bao vật đổi sao dời. Thế mà mỗi lần nhớ về người cha khuất bóng,
Hằng lại se sắt buồn. Hai hàng nước mắt cứ chực lã chã rơi. Một thứ tình
cảm trái ngược luôn xung đột, xâu xé trong tim Hằng. Thương hay giận
cha? Có lẽ cả hai. Những kỷ niệm xa nhất mà nàng có thể nhớ được
về ông, có lẽ chừng như năm sáu tuổi gì đó. Lúc ấy ba mẹ và Hằng ở
chung trong ngôi nhà nền đúc đồ sộ của ông bà nội, cách thị xã Sa Đéc
vài cây số. Anh Tâm trọ học nhà bác Phú là anh họ của ba trên Sài Gòn.
Trong trí nhớ khá nhạt nhòa của nàng, ông nội là một ông già quắc thước,
cao lớn. Tiếng nói sang sảng, nét mặt nghiêm nghị khiến ai cũng phải
nể nang. Trên đầu ông lúc nào cũng đội một chiếc mũ len đan, màu nâu
giống như mũ của ông Hòa Thượng ở chùa gì đó quên mất tên rồi. Thỉnh
thoảng Hằng thấy Hòa Thượng đến thăm ông nội. Hai ông trò chuyện rất
tương đắc trong phòng riêng của ông nội. Ngồi trên tấm nệm mỏng, mỗi ông
dựa tay trên một chiếc gối hình chữ nhật, rất cứng và áo gối màu đỏ
thêu rồng phụng, chim chóc, đính hột cườm lấp lánh đẹp rực rỡ. Lũ nhỏ bị
cấm bén mãng vô phòng ông nội, trừ Hằng. Vì ông cưng Hằng đặc biệt, đứa
cháu nội gái duy nhất của ông. Sau này theo lời kể của những người
trong họ, Hằng biết ông nội là một mẫu người thông minh tuyệt vời. Tấm
lòng lại nhân đức. Bà nội chắc cũng chỉ khoảng năm mươi, nét đẹp lúc
xuân thì chưa phai, nhưng mái tóc bạc trắng, búi thành một búi rất đẹp
sau ót. Bà hay la rầy con cháu. Trong ký ức, Hằng chưa bao giờ được nghe
bà nói một lời dịu dàng âu yếm. Hằng còn nhớ cái tủ bằng gỗ
trong nhà bếp đựng đầy những thố mạch nha. Mạch nha bà nội nấu vàng óng
như hổ phách, thơm ngọt tuyệt vời. Nhưng trong đại gia đình đông người,
bà phải khóa tủ bằng ống khóa và chiếc chìa khóa quý giá bà giữ khư khư
trong túi áo! Thỉnh thoảng bà nội mới kêu mẹ Hằng hoặc cô Bích nướng
bánh phồng. Những chiếc bánh phồng khéo léo mà mẹ và cô Bích quết vào
dịp Tết, được bà tự tay phết lên một lượt mạch nha vàng óng ánh trước
đôi mắt thèm thuồng của lũ trẻ. Ngoài gia đình Hằng còn có gia đình cô
Bích là em gái của ba. Cô góa chồng và đem ba đứa con về ở chung với ông
bà nội. Ba đứa con của cô cũng sàn sàn tuổi Hằng, nhưng là ba thằng con
trai nên nghịch ngợm như giặc. Bà nội phát cho mỗi đứa một miếng bánh
phồng quết mạch nha to bằng bàn tay người lớn. Hằng nhắm mắt nhớ lại cái
cảm giác cắn miếng bánh phồng dòn tan, hương vị ngọt ngào của mạch nha
tan trên đầu lưỡi. Tuyệt vời không gì có thể sánh bằng! Món thứ nhì bà
nội hay làm là bánh lọt lá dứa màu xanh biếc như ngọc, chan nước đường
và nước cốt dừa. Thỉnh thoảng cũng có bánh đúc lá dứa chấm nước đường
thắng kẹo quánh rắc mè rang thơm phức. Bà nội nghiêm khắc với
tất cả mọi người. Đặc biệt là với mẹ Hằng. Bà soi mói từng chút. Hình
như bà không ưa mẹ vì cho rằng mẹ theo tây học. Văn minh quá! Nghĩ cũng
bất công. Ba học trường Ch***eloup Laubat, nói tiếng tây như gió. Cô
Bích cũng học trường Áo Tím. Đôi khi Hằng bắt gặp cô nói tiếng tây với
ba mà bà nội có nói gì đâu. Nhưng dù sao cô cũng là con gái bà nội và mẹ
là con dâu. Đương nhiên không giống nhau! Vì bé quá nên Hằng
không biết gữa ba mẹ có chuyện gì, hoặc giữa bà nội và mẹ có chuyện gì.
Một buổi chiều ba dắt Hằng ra con lộ sau nhà. Con lộ cách nhà độ hai, ba
trăm thước. Một vườn cây trái sum suê ngăn ngôi nhà và con lộ. Phía sau
con lộ là cánh đồng trải dài vô tít trong xa, tận lũy tre xanh xanh của
làng Mỹ Long. Hằng còn nhớ lúc đó là mùa nước. Những cây lúa vươn lên
khỏi mặt nước, rập rờn theo cơn gió chiều mát rượi. Một hàng dài những
chiếc xuồng ba lá bơi theo con kinh, về hướng làng Mỹ Long trong đồng
sâu. Ba nói họ đi câu tôm. Hằng líu lo hỏi ba đủ thứ chuyện. Nhưng hôm
nay ông có vẻ trầm ngâm, thỉnh thoảng mới ừ hử. Hằng còn đang dõi mắt
nhìn theo cánh cò trắng bay la đà về hướng mặt trời lặn xa xa, bỗng ba
nắm tay Hằng bóp mạnh, giọng buồn có não nuột: -Mẹ bỏ cha con mình đi mất rồi Hằng ơi! Hằng ngây thơ nói với ba: -Hôm qua mẹ nói về thăm ngoại bịnh mà ba. Ba trả lời, mắt vẫn dõi về cõi vô tận nào: -Mẹ không về nhà ông bà ngoại. Lúc đó Hằng mới oà lên khóc. Ba ôm con gái vào lòng dỗ dành: -Không sao đâu. Ba con mình sẽ đi tìm mẹ về. Đêm đó Hằng ngủ với ba. Hình như trong mơ con bé vẫn khóc thút thít vì nhớ mẹ. Ba trằn trọc ôm con gái xoa lưng vỗ về.
Hai hôm sau ba thu xếp dẫn Hằng lên Sài Gòn. Hai cha con ở nhà bác Phú.
Không hiểu sao ký ức của Hằng rất mù mờ trong khoảng thời gian này. Con
bé không nhớ ba đã dẫn đi những đâu để tìm mẹ. Lâu lắm sau này, tình cờ
nhìn thấy trong album, tấm hình hai cha con chụp ở Sở Thú. Ba mặc đồ
tây, tóc hớt cao, nét mặt buồn rười rượi. Con bé Hằng nhỏ xíu ngồi bên
cạnh, mặt cũng đầy nét u hoài. Hằng nhìn tấm ảnh, lòng se thắt và tự hỏi
tại sao buồn vậy mà ông già còn hứng thú chụp hình?! Cuối cùng
không hiểu nhờ phép lạ nào mà ba cũng tìm được mẹ và hai người dắt con
gái trở về Sa Đéc. Hằng gặp lại mẹ vui như Tết và tiếp tục sống cuộc đời
vô tư lự như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Bắt đầu từ đó ông nội cho ba
mẹ cất nhà ra riêng. Nhưng cũng chỉ cách nhau một mảnh vườn trồng cam,
chanh, bưởi và vài cây soài cát. Mẹ thoát cảnh làm dâu và không còn
nghe những lời chì chiết của bà nội nữa nên vui vẻ hơn nhiều. Bà xin ba
mở một tiệm tạp hoá dưới chợ. Mẹ lúc còn con gái là một người đẹp nổi
tiếng. Bà lại có học, thông minh, có tài ăn nói và có khiếu văn chương.
Lớn lên Hằng nghe mẹ đọc thuộc làu làu Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân
Tiên...và thơ Nguyễn Bính thì bà thích đặc biệt. Ngược lại ba không phải
là người sính văn thơ. Trước đây ông làm ở sở lúa gạo, nhưng sau này
giúp ông nội trông coi ruộng đất. Đến mùa thu lúa ruộng, có khi đi tận
trong đồng xa hàng tháng mới về. Nhờ có duyên buôn bán nên cửa
hàng của mẹ rất đông khách. Lớn hơn, Hằng đã biết ra cửa hàng giúp mẹ
chút đỉnh. Ngoài mẹ ra còn có chị Mai, cháu họ xa bên mẹ giúp việc,
trông nom cửa hàng mỗi khi mẹ có công chuyện đi đây đi đó. Sáng
thứ bảy đó Hằng ra tiệm với mẹ. Khoảng trưa trưa vắng khách, mẹ dặn chị
Mai và Hằng coi tiệm mẹ đi khui hụi. Hằng đang kể cho chị Mai nghe
những chuyện trong lớp của Hằng, thì một người đàn ông bước vào. Ông ta
nhìn dáo dác rồi hỏi chị Mai: - Ủa, bà chủ không có đây sao cháu? -Dạ, cô Tư mắc đi khui hụi. Mai trả lời ông ta. -Lúc nào bà ấy về? Giọng ông ta có vẻ băn khoăn. -Dạ cháu không biết. Ông này đứng tần ngần một lúc rồi nói: -Chừng bà chủ về nhớ nói có ông Nam đến nhé.
-Dạ, cháu sẽ nói với cô Tư. Chị Mai trả lời và nhìn ông ta chăm chăm.
Người đàn ông có vẻ hơi ngượng ngập vội đi ra. Chị Mai nhìn theo ông ta
rồi thì thầm với Hằng: -Ông này kỳ ghê. -Kỳ sao hả chị? Hằng ngây thơ hỏi.
-Thì cứ hai ba ngày là tới đây một lần. Nhiều khi có mua thứ gì đâu.
Hỏi vớ vẩn vài câu. Mà coi bộ ổng tới đây để gặp mặt cô Tư mà thôi. - Gặp mặt mẹ em chi vậy hả chị? Chị Mai tặc lưỡi: -Thì làm sao chị biết được. Chị chỉ thấy ổng kỳ kỳ! Lúc mẹ về, Hằng láu táu nói có ông Nam tới kiếm mẹ. Mẹ thoáng có chút bối rối:
-À, ông Nam làm ở Toà Án Vĩnh Long. Mà ông này kỳ thiệt, cứ đến làm
phiền người ta. Tuy là phàn nàn, nhưng Hằng cảm thấy giọng mẹ không có
chút gì bực bội. Hằng không thể ngờ rằng bắt đầu từ giờ phút này, từ
người đàn ông có nước da bánh mật, mái tóc dợn sóng và giọng nói ngọt
ngào, nhưng không phải gốc Nam kỳ này, đã bắt đầu cho những cơn sóng
ngầm mang phong ba bão táp tới cho gia đình nàng. Ba Hằng đẹp
trai, con chủ điền và có uy quyền với những người tá điền mướn đất ông
nội. Những lần theo ghe đi góp lúa ruộng, họ đã tổ chức cho ông biết bao
nhiêu buổi nhậu. Trong đồng sâu thiếu gì tôm cá, rắn rùa...Kể cả những
đứa con gái tươi mơn mởn thơm mùi hương đồng cỏ nội. Ba cứ hưởng thụ
thoải mái. Có nhiều tá điền muốn lợi dụng ba nên đã để con gái hầu hạ "cậu" khi cậu say bí tỉ không còn biết trời trăng gì nữa.
Cho đến khi Hằng có một đứa em cùng cha khác mẹ bất đắc dĩ thì ba mẹ
bắt đầu cắn đắng. Những lần cãi nhau ầm ĩ đưa đến xô xát khiến con bé sợ
hãi khóc như mưa. Sau cùng ông nội bắt ba phải lên trụ luôn trên Sài
gòn. Ba phụ coi xưởng gỗ của bác Phú. Mẹ vẫn ở Sa Đéc và ông Nam vẫn đến
thăm mẹ đều đều mỗi tuần. Có khi mang sách báo đến cho mẹ đọc và mang
quà cho Hằng. Thật là hai tâm hồn đồng điệu. Cùng yêu thích văn chương
thơ phú. Đôi khi mẹ giữ ông ta ở lại dùng cơm trưa. Phải công nhận rằng
ông ta có giọng nói rất quyến rũ. Điều kỳ lạ là ông ta vẫn còn độc thân.
Nhưng làm sao biết được. Quê ông ta tận ngoài Nha Trang xa lắc xa lơ!
Ba thường về thăm ông bà nội và hai mẹ con. Một lần, ba từ Sài Gòn về
thẳng ngoài tiệm. Gặp ông Nam ở đây, thế là ba đào dậy sóng. Có thể
những buổi gặp gỡ giữa mẹ và ông Nam đã đến tai ba nên mới ra nông nỗi.
Đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, nhưng luân lý Khổng Mạnh vẫn bắt đàn
bà giữ tam tòng tứ đức. Bây giờ nghĩ lại, Hằng chắc chắn giữa mẹ và ông
Nam không có chuyện yêu đương phàm tục. Hai người chỉ là bạn tương đắc
về văn chương. Nhưng hỡi ôi, ngày đó, những người đàn bà có chồng được
quyền tự do hành động như vậy chăng? Ngàn lần không! Ba bắt mẹ
phải sang tiệm để lên Sài Gòn sống với ba. Cộng thêm tiền sang căn tiệm
dưới Sa Đéc, ông bà mua một căn nhà khang trang gần chợ Thị Nghè. Vốn là
người quen buôn bán. Ở không bứt rứt chịu không nổi, mẹ lại mở tiệm bán
gạo, than, củi. Mẹ về quê đem chị Mai lên giúp việc như xưa. Hằng học
trường Tiểu học Thị Nghè. Hằng ngày đi về với chị Út Kim con của bác
Phú. Ba cưng Hằng hơn anh Tú. Có lẽ vì Hằng là con gái Út rượu của ba!
Anh hơn Hằng cả mười tuổi, vì giữa hai đứa mẹ có hư thai một lần. Sau
khi sinh Hằng thì ngưng đẻ luôn. Cũng tốt vì mẹ vấn không thích con
đông. Gần ngày đi học, ba chở con bé tới tiệm bán văn phòng phẩm
mua tập vở. Hằng làm sao quên được nàng đã đòi nằng nặc ba phải mua mấy
tờ giấy bao vở màu hồng trong suốt, có in hình cô công chúa Bạch Tuyết
và chiếc cặp bằng da màu vàng nâu. Ba mua về cặm cụi bọc hết tập vở cho
con gái. Ông vui ra mặt. Rồi hè năm đó ba dẫn Hằng đi...uốn tóc! Người
thợ uốn làm sao mà khi xong rồi, mái tóc con bé xoăn tít như lông chó
xồm. Trên đường về, Hằng giận dỗi, khóc thút thít bắt đền ba khiến ông
bối rối không biết phải làm sao, đành dẫn con gái đi ăn một chầu hủ tíu
mỳ ngon thật là ngon Hằng mới hết giận! Nhớ tới đây ruột gan
Hằng quặn đau. Ba ơi ba, con thương ba nhiều biết chừng nào. Ba tha lỗi
cho những lần con vô tình làm ba buồn nghe ba. Con gái ba đang khóc vì
nhớ ba đây!... Tuổi trẻ vô tư. Ăn, học và ngủ. Hằng cũng vậy.
Trong lớp con bé đã quen được nhiều bạn mới. Con Quỳnh da trắng bóc, tóc
cắt bum bê. Đôi môi nó đỏ thắm, nhỏ xíu như một nụ hồng. Con Nga mặt
đầy tàn nhang, tóc dài cột đuôi ngựa nè. Nhỏ này hay nói xấu con Quỳnh
sau lưng. Chắc tại nó tức vì con Quỳnh xinh và học giỏi hơn nó! Chao ôi,
mới nứt mắt đã bày trò ganh ghét nhau. Hèn nào trong xã hội người lớn,
họ dùng tất cả mọi thủ đoạn đê hèn để giết hại, hạ bệ... nhau cứ đầy rẫy
ra! Con Cẩm Yến miệng móm mà có đồng tiền trên má thật là xinh
nè...Riêng đám con trai thì Hằng sợ lắm, chưa quen đứa nào. Rồi
chẳng hiểu vì cớ gì những cuộc cãi vã của ba mẹ bắt đầu trở lại. Ban
ngày ba đi làm, mẹ mắc buôn bán nên không có gì, nhưng nhiều đêm đang
ngủ, Hằng giật mình thức giấc vì tiếng cãi vả khá lớn của ba mẹ khiến
con bé sợ xanh mặt. Mấy ngày sau chị Mai nói riêng cho Hằng biết ba gặp
lá thư ông Nam gửi cho mẹ. Không hiểu làm thế nào mà ông ta biết được
địa chỉ trên Sài Gòn. Tuy mẹ cố giải thích nhưng ba vẫn giận dữ, cho là
mẹ có tình ý với ông Nam. Hằng còn nhỏ quá để có thể hiểu được những
khúc mắc của người lớn. Nhưng không khí trong nhà bắt đầu khó thở. Ba
không còn pha trò vui vẻ như xưa. Trái lại mặt mày cau có làm anh Tú
cũng sợ. Cơm nước xong là anh rút vô phòng. Thấy ba mẹ buồn Hằng cũng
buồn lắm. Con bé cảm thấy đến trường chơi với bạn vui hơn là ở nhà, cho
nên nhiều hôm sau giờ học Hằng xin mẹ đến nhà con Cẩm Yến chơi. Nhà nó
cách nhà Hằng độ năm phút đi bộ mà thôi. Chị Cẩm Hạnh của nó cũng thương
Hằng lắm. Chị hay mua quà cho hai đứa ăn chung. Đôi khi Hằng ao ước,
thay vì anh Tú, phải chi có một bà chị như chị Cẩm Hạnh thì hay biết
mấy! Chị Mai cũng thương Hằng, nhưng chị đâu phải chị ruột. Hơn nữa chị
xấu xí, quê mùa chứ đâu có đẹp đẻ, thơm tho, điệu đà như chị Cẩm Hạnh!
Có lẽ mẹ đã yêu cầu ông Nam đừng tìm cách liên lạc với mẹ nữa
nên sau đó ba mẹ lại bắt tay hòa bình! Anh Tú và Hằng thở phào nhẹ nhõm.
Ba tiếp tục dẫn cả nhà đi ăn tiệm cuối tuần. Có lần ba dẫn mọi người,
kể cả chị Mai, đi xem cinéma. Phim Tarzan. Anh Tú khoái chí trước những
cảnh Tarzan đóng khố da thú, vừa đu dây vừa hú vang cả rừng, còn Hằng sợ
quá nắm tay ba thật chặt. Hai năm êm đềm trôi qua. Một hôm mẹ
nhận được điện tín của cô Bích kêu ba về Sa Đéc gấp. Ông nội bị trúng
gió, bây giờ nằm một chỗ không đi lại được. Ba vội vàng thu xếp về quê
ngay sáng hôm sau. Ông nội đang đi thăm ruộng. Lúc đó đang là mùa gặt
lúa, thì trúng gió té ngoài đồng, tá điền khiêng ông về nhà. Bắt đầu từ
lúc đó ông bị liệt nửa người. Cô Bích chỉ có thể giúp bà nội
việc nhà, nên ba phải về ở luôn, hay ít ra trong thời gian ông nội bệnh,
trông coi việc gặt và thu lúa ruộng. Mẹ, anh Tú và Hằng vẫn ở Sài gòn.
Ba về dưới quê một thời gian thì bổn cũ soạn lại và bắt đầu nghiện rượu
nặng. Con sâu rượu tàn phá người ông lẹ không ngờ. Trước đây ở Sài gòn,
mỗi ngày mẹ Hằng bắt ôngchỉ được uống rượu khi ăn cơm. Lúc đi làm ông có
lén uống không thì chẳng ai hay. Nhưng bây giờ ở một mình trong căn nhà
rộng, không vợ con bên cạnh. Nhất là không ai cấm cản nên ông uống tha
hồ, uống thỏa thích. Hè năm đó Hằng về Sa Đéc, con bé hết hồn khi gặp
lại ba. Không ngờ chỉ có mấy tháng mà ông thay đổi nhiều đến vậy! Người
ba vốn cao bây giờ càng khẳng khiu. Con bé xót xa cằn nhằn sao ba uống
nhiều, ba ốm nhom thì ông tặc lưỡi nói ba không sao thật mà. Cô Bích nói
ba cháu chỉ thích uống rượu chớ không thích ăn cơm! Bà nội rầy ba cũng
làm ngơ... Ông nội có bình phục chút đỉnh nhưng vẫn không đi lại
được. Vậy là ba đành phải ở lại Sa Đéc. Công chuyện làm ăn của mẹ không
tiến triển chút nào. Nhân dịp cô dượng Bảy Vinh có xe hàng đi đường Sài
Gòn -Pleiku, về nói nơi này làm ăn phát đạt lắm. Vì là tỉnh mới thành
lập rất xa Sài Gòn, nên hàng hóa gì đem lên đó bán cũng chạy vù vù. Mẹ
nghe ham quá nên đóng cửa tiệm, theo xe hàng lên Pleiku thám thính. Lúc
đầu thấy khí hậu lạnh lẽo, đất đỏ bay mù trời, mùa mưa đất đỏ dính giày
dép dẻo quẹo như dất sét, mẹ cũng ngại. Nhưng nhìn thấy hàng của cô Bảy
vừa lên tới, bữa trước bữa sau là bán sạch sành sanh, cảnh chợ búa buôn
bán rộn rịp bà cũng bị lôi cuốn. Mẹ về Sa Đéc bàn với ba, bán nhà lên
Pleiku làm ăn. Ba lúc này bị ma men ám thường xuyên nên cũng để mặc mẹ
muốn tính sao cũng được. Nhưng hình như chuyện gì trong nhà cũng do mẹ
tính toán. Mẹ lên Pleiku sang một căn nhà trên đường Hoàng Diệu,
mở một tiệm tạp hóa bán đủ thứ. Từ gạo, nước mắm, chén bát, nước ngọt
...Tất cả do cô Bảy Vinh chở từ Sài Gòn lên bỏ sỉ rồi mẹ bán lẻ lại. Vậy
mà lời vô khối. Hằng và chị Mai lại theo mẹ lên Pleiku. Phần anh Tú xin
đi dạy học ở Long Xuyên. Ngoài những lúc bận rộn trong mùa lúa, ba lên
Pleiku ở với má và Hằng vài tháng. Nhìn thân thể tiều tụy của ba, Hằng
thương quá. Con bé lúc này đã lên lớp Đệ lục, biết suy nghĩ nhiều hơn
xưa. Đàn bà ở một mình thì biết tự lo cho mình, nhưng người đàn ông ở
một mình thật thảm thương. Tuy hằng ngày qua nhà ông bà nội ăn cơm,
nhưng làm sao bằng được chính bàn tay người vợ săn sóc. Hơn nữa bây giờ
ông uống rượu càng ngày càng nhiều nên ba say nhiều hơn tỉnh. Tuy rằng
chẳng bao giờ ông nhận là mình say! Mẹ ở tuổi ngoài bốn mươi
một tí nên hương sắc còn rất đậm đà. Khí hậu lành lạnh của vùng Cao
nguyên giúp làn da bà càng thêm mịn màng, trắng hồng. Núm đồng tiền trên
má đã khiến lắm con tim "không chịu ngủ yên và đập trật nhịp lia
chia"!. Nhiều sĩ quan đổi lên đây. Có người mang gia đình vợ con, nhưng
cũng có những ông "độc thân tại chỗ". Trong số những người ái mộ mẹ có
ông Đại úy Hòa, ông Trưởng ty Thuế vụ tên Sinh. Ông Hòa đen đúa nhưng
cao lớn và cái miệng dẻo quẹo, ngọt như đường. Mỗi bận đi phép về ông
đều có quà bánh cho Hằng. Ông này người Nam, có vợ con nhưng bà vợ và
các con không lên Pleiku vì chê xứ này khỉ ho cò gáy và bẩn thỉu! Mẹ nói
nơi xứ lạ gặp người cùng quê cũng thấy thân thiện hơn người khác. Hằng
xem ông Hòa như một ông bác trong nhà, không hề nghi kỵ. Trái lại ông
Sinh người Bắc, tướng rất thư sinh, đẹp trai. Ông ta còn độc thân ở tuổi
bốn mươi, nhưng nghe nói ngày xưa yêu một cô láng giềng tuyệt đẹp. Gia
đình cô ấy ép lấy một anh Bác sĩ học bên Tây về. Từ đó ông trở nên hận
đàn bà. Nếu gặp người vừa ý thì cũng chỉ chơi qua rồi bỏ. Vậy mà không
thiếu phụ nữ mê mệt, muốn chiếm độc quyền trái tim bệnh hoạn của ông ta.
Hằng nhận thấy mỗi bận ông Sinh đến chơi, dĩ nhiên trong khoảng thời
gian ba không có mặt ở Pleiku, mẹ rất vui, nói cười luôn miệng. Lại còn
đỏm dáng hơn ngày thường. Bà chỉ thoa chút phấn hồng, chút son thôi mà
thấy lộng lẫy hẳn lên.
Năm đó mẹ quyết định về Sài Gòn mua
hàng bán Tết và mẹ dẫn Hằng theo. Con bé được về Sài Gòn thì vui không
tả. Mua hàng xong mẹ con về Sa Đéc thăm ba và ông bà nội. Ông nội yếu
quá, gặp Hằng ông mừng lắm. Hằng thấy thương ông ngồi một chỗ, ăn uống
và làm vệ sinh phải có người giúp. Ông nội lì xì trước cho Hằng tiền mua
chiếc xe đạp. Con bé cảm động ứa nước mắt. Ba thì vẫn say sưa tối ngày
khiến mẹ rất buồn! Đêm đó Hằng nghe như hai người cãi nhau. Lại cãi
nhau! Sao họ cãi nhau không biết chán hở trời!? Đời sống vợ chồng không
có gì vui sao? Con bé quyết định lớn lên sẽ không lấy chồng! Hai
hôm sau mẹ con đi xe đò lên Sài Gòn và mẹ dẫn Hằng đi Vũng Tàu tắm
biển. Trời ơi, sướng chưa! Suốt đời con bé chưa từng thấy biển lần nào!
Hai mẹ con đi xe đò ra Vũng Tàu. Tới nơi còn đang lớ ngớ bỗng thấy một
chiếc xe Peugeot 203 màu đen trờ tới đậu bên cạnh. Ông Sinh từ trên xe
bước xuống. Hai người tay bắt mặt mừng trong khi con bé Hằng cứ tròn mắt
ra nhìn. Ông Sinh mời hai mẹ con lên xe, đưa về một căn nhà khá lớn,
mặt tiền nhìn ra biển. Hằng ngạc nhiên không biết tại sao hai mẹ con lại
gặp ông Sinh ở đây, nhưng không dám hỏi sợ mẹ rầy! Trong hai
ngày ở đây, ông Sinh đưa mẹ con đi chơi khắp nơi. Ăn tôm cua sò hến thả
dàn. Mặt mẹ sáng ngời hạnh phúc. Tâm hồn con bé quá đơn giản, quá ngây
thơ để đặt câu hỏi tại sao? Biển buổi sáng đẹp không thể tả. Ánh mặt
trời chiếu xuống như dát vàng, chói cả mắt. Xe chạy vòng từ Bãi Trước ra
Bãi Sau. Buổi trưa người đi tắm biển đông đen. Mẹ và Hằng không tắm,
chỉ đi chân trần trên cát. Con bé lượm vô số vỏ sò để đem về Pleiku tặng
bạn. Nhưng biển buổi chiều lại càng đẹp hơn. Hằng yêu vẻ êm ả và bình
yên với những chiếc thuyền đánh cá trở về bến đậu. Hằng nói điều này với
mẹ và ông Sinh. Ông ta nhìn Hằng một lúc rồi nói "Cô bé này có tâm hồn
thi sĩ. Lãng mạn lắm nhé!". Mẹ nghe chỉ cười không nói gì. Riêng Hằng
chẳng hiểu lãng mạn nghĩa là gì! Sáng sớm ngày thứ ba, ông Sinh
lái xe đưa hai mẹ con ra bến xe về lại Sài Gòn. Trước khi từ giả ông ta
đưa cho Hằng một cái hộp. Trong đó có một con thuyền làm bằng vỏ ốc tai
tượng, có khắc chữ Kỷ Niệm Vũng Tàu...Hằng nói cám ơn và ông Sinh còn
bẹo má con bé một cái. Năm đó cả nhà ăn Tết thật vui. Có lẽ tại
mẹ vui. Mồng một Tết ông Sinh đến chúc Tết mẹ và lì xì cho Hằng. Ba
không lên vì ông nội trở bệnh nặng và một tháng sau thì ông mất. Mẹ
không về được, Hằng đang đi học nên mẹ sai chị Mai cầm tiền về phụ vào
đám tang. Mai được về thăm nhà thì vui lắm. Hằng dặn khi chị trở lên
Pleiku nhớ đem ít chục soài cát và vú sữa hột gà. Mười ngày sau chị Mai
trở lên. Ngoài soài và vú sữa, chị còn đem một nồi cá thu nước ngọt kho
nước dừa, đặc sản của Sa Đéc. Hằng thương chị nhất ở điểm này!
Không hiểu sao lúc này mẹ hay bệnh. Nói bệnh thì không đúng. Mẹ ăn không
ngon lại hay nôn mửa. Bà thèm một thứ gì đó, sai chị Mai đi mua. Đem về
vừa ăn xong là nôn ra hết. Hằng lo quá, không biết mẹ bệnh gì. Một hôm,
thấy Hằng lo lắng, mặt buồn hiu, chị Mai lôi Hằng ra nhà sau nói " chắc
cô Tư có bầu, Hằng mừng không?". Dĩ nhiên là Hằng mừng. Có thêm em thì
vui biết mấy. Hằng vội vàng chạy lên lầu hỏi mẹ có phải mang bầu không,
bỗng nhiên mặt mẹ đổi thành trắng bệch, người bà hầu như hết hơi sức,
chỉ chực ngã xuống. Hằng vội chạy lại đỡ mẹ nằm xuống giường, lấy dầu
nhị thiên đường xức hai bên thái dương. Một lúc mẹ hơi tỉnh, hỏi ai nói
với Hằng là mẹ có bầu. Hằng cười toe trả lời chị Mai nói. Mẹ bảo Hằng
xuống kêu chị Mai lên cho mẹ nói chuyện, còn Hằng thì đi học bài. Hôm
sau chị Mai nói với Hằng là mẹ có bầu thật, nhưng Hằng không được tiết
lộ với ai vì mẹ mắc cỡ. Mẹ nói già rồi mang bầu kỳ lắm. Mẹ sợ người ta
cười! Người lớn thật là kỳ quặc, khó mà hiểu nổi họ!Tuy nhiên
Hằng cũng nghe lời, không tiết lộ tin này. Rồi hai tuần sau mẹ đi nhà
thương vì bị băng huyết. Vậy là giấc mộng có em bé của Hằng không thành.
Mẹ về nhà người xanh lướt, nhưng có vẻ vui. Ông Sinh đến thăm mẹ với
một túi nho tươi. Hai người nói chuyện gì lâu lắm. Lúc ông ta về thì mắt
mẹ đỏ hoe.
Lần này ba lên định ở chơi hai
tháng. Rồi một buổi tối ba vô phòng Hằng. Đang nói chuyện chơi, con bé
bỗng nhớ tới đứa em đáng lẽ phải có, nói với ba, giọng đầy tiếc rẻ: - Mẹ bị hư thai uổng quá hả ba? Ba như bị điện giật: - Con nói gì? mẹ con hư thai? Hồi nào? hồi nào? Giọng ông cao lên bất ngờ. - Mẹ bị hư thai cách đây ba tháng. Mẹ không nói cho ba nghe sao? Hằng kinh ngạc hỏi.
Ba nhìn Hằng trừng trừng như nhìn một con quái vật xa lạ nào đó. Bỗng
ông bật dậy lao ra khỏi phòng. Sau đó thì tiếng ba quát tháo ầm ĩ bên
phòng mẹ. Hằng chạy sang, thấy mẹ ngồi trên giường, hai tay ôm mặt. Ba
đang tát bà tới tấp. Hằng hét lên, chị Mai dưới nhà chạy lên. Nhìn thấy
cảnh tượng này chị hoảng kinh, xông vào lôi ba ra. Ông còn chưởi mẹ một
hồi mới chịu êm. Đêm đó ba ngủ trong phòng Hằng, còn Hằng xuống
dưới nhà ngủ với chị Mai. Nhưng hình như không ai ngủ được đêm đó. Mọi
người thao thức tới sáng. Hôm sau mặc cho con gái khóc lóc năn nỉ, ba
xách va ly ra bến xe trở về Sa Đéc. Còn thề độc sẽ không bao giờ trở lại
Pleiku! Cả tuần lễ căn nhà buồn hiu hắt. Mẹ u sầu chẳng nói
chẳng rằng. Hằng vẫn cắp sách đến trường đều đặn. Một buổi tối, sau khi
học bài xong, Hằng xuống nhà. Thấy chị Mai đang gấp quần áo, con bé sà
vào gấp tiếp: - Nhà mình buồn quá chị Mai ơi! Em không hiểu tại
sao hôm đó ba lại đánh mẹ em dữ như vậy? Đâu phải tại mẹ em muốn hư thai
phải không? Mai ngừng tay, nhìn Hằng một lúc rồi ngập ngừng: -Nếu chị nói cô Tư không phải có bầu với dượng Tư, Hằng có tin không? Con bé dẫy nẫy: - Em không tin. Em không tin đâu. Vậy mẹ em có bầu với ai? - Cô Tư có bầu với ông Sinh.
- Vậy còn ba em? Kỳ vừa rồi mẹ em có về Sa Đéc mà. Sao không phải là ba
em? Sao chị biết không phải là của ba em? Chị nói đi! Giọng con bé có
vẽ như muốn khóc. - Cô Tư nói với chị. Hằng nhớ hôm em đi Vũng Tàu chơi không. Chính lúc đó cô Tư dính bầu.
Hằng bàng hoàng nhớ lại những ngày vui ở thành phố biển. Trong tâm trí,
con bé mơ hồ nhớ lại, đêm thứ nhì ngủ tại đó, nửa đêm chợt thức giấc
không thấy mẹ bên cạnh, Hằng tưởng bà đi nhà vệ sinh nên ngủ tiếp. Nào
ngờ...! Nhưng con bé vẫn không chịu tin: - Vậy trước đó mẹ em về Sa Đéc cũng ngủ chung với ba em mà. - Cô Tư tâm sự với chị là từ mấy năm nay dượng không còn làm được chuyện đó nữa. - Chuyện đó là chuyện gì hở chị? Con bé ngây ngô hỏi.
- Thì chuyện ...em bé đó. Chị đâu có rành. Cô Tư nói với chị vậy mà.
Cũng tội nghiệp cô Tư, dượng say sưa tối ngày, cô Tư khổ lắm em ơi. Chị
mong em đừng giận mẹ nghen. Ông Sinh thương cô Tư lắm. Ông thương thật
tình đó. Dĩ nhiên chị Mai đâu có rành. Tuy đã hăm lăm chị vẫn
chưa chồng mà. Chị Mai vừa là cháu, vừa là người tâm phúc nên có gì mẹ
cũng tâm sự với chị. Hằng thương mẹ, nhưng cũng thương ba. Biết mẹ phản
bội ba, Hằng làm sao không giận được. Vậy là từ đó Hằng không muốn gần
gủi mẹ như trước. Mẹ biết cũng chỉ thở dài. Mỗi lần ông Sinh tới chơi
Hằng đều tránh gặp ông ta. Mẹ có gọi con bé cũng đóng cửa phòng im ỉm.
Ông Sinh biết ý cũng bớt tới nhà. Vừa nghỉ hè là Hằng xin phép
mẹ về quê. Con bé quá giang xe cô bảy Vinh về Sài Gòn. Mẹ dặn Hằng đi
xích lô đem qua nhà bác Phú trong Thị Nghè biếu hai ký măng le khô và
một ký khô nai. Con bé ngạc nhiên tột độ khi gặp ba đang ở nhà bác Phú.
Hai cha con mừng quá là mừng. Ba ôm đầu Hằng hôn chùn chụt. Ông nói ở
dưới quê buồn quá nên lên Sài Gòn chơi ít hôm cho khuây khỏa. Sáng hôm
sau hai cha con gọi taxis ra bến xe. Đi quá sớm nên chưa ăn sáng. Lên xe
rồi ba đưa tiền bảo Hằng lại tiệm nước gần đó mua cho ba bánh bao. Mới
bước được vài bước thì gặp ngay một con bé trạc tuổi Hằng, bưng một xề
bánh bao nóng hổi còn bốc khói nghi ngút. Hằng mua hai cái. Cứ đinh ninh
bánh bao nhân thịt. Nào ngờ khi cắn rồi mới biết chỉ là nhân bắp cải.
Hằng nói để đi mua cái khác, ba bảo thôi. Đã mua rồi thì ráng ăn. Giờ
đây, gần nửa thế kỷ trôi qua, nhớ đến nét mặt ba cố ăn hết cái bánh bao
nhân bắp cải mà hai hàng nước mắt Hằng vẫn tuôn tràn. Có những chuyện
giống như những vết dao chém vào đá. Vĩnh viễn với thời gian. Không bao
giờ phai mờ. Lần này Hằng để ý thấy tay ba run run và mắt thì vàng như
nghệ. Người chỉ còn da bọc xương. Bác Phú nói riêng với Hằng" Cháu nói
với mẹ cháu là ba cháu có vẻ bệnh nhiều lắm đó. Coi chừng không xong đâu
à!". Hằng lo lắm, nhưng chẳng biết lo làm sao? Về tới nhà,
Hằng lo quét tước lau chùi nhà cửa cho thật sạch sẽ. Mẹ có gửi tiền cho
cô Bích nấu ăn cho ba. Cô nói ba cháu chỉ uống rượu chứ có ăn uống gì
đâu mà đưa tiền. Hai tuần đầu ba còn cố ăn được chút đỉnh, nhưng sau đó
ăn vào là nôn ra. Trong thức ăn có lẫn máu tươi. Ba nằm trên giường rên
rỉ, đau đớn. Mỗi ngày con bé đổ sữa cho ông, nhưng phần lớn là nôn ra
hết. Càng ngày càng nhiều máu tươi hơn. Hằng chỉ biết nhìn ba và khóc.
Con bé còn nhớ, một đêm trời tối như bưng, trong nhà hết nước sôi để pha
sữa, Hằng phải cắn răng băng qua khu vườn, qua đập cửa nhà bà nội. Eo
ơi, nhìn cây cối trong vườn rung động trong bóng đêm như những bóng ma
đầy dọa nạt, Hằng sợ đến run lập cập. Nhưng thương ba quá, con bé vẫn cố
đi, miệng niệm Phật liên hồi. Hôm sau Hằng nhờ con trai cô Bích qua
Long Xuyên gọi anh Tú về. Anh Tú về vội vàng đưa ba đi khám Bác sĩ. Bác
sĩ nói ba bị bệnh chai gan và loét bao tử trầm trọng. Tất cả vì rượu.
Ông chuyền nước biển và cho thuốc uống. Đến ngày thứ ba mới cầm, không
ra máu và ba có vẻ tỉnh táo hơn. Anh Tú bảo Hằng lên Pleiku
trông nhà cho mẹ về chăm sóc cho ba. Hằng không chịu thì anh vừa mắng
mỏ, vừa năn nỉ. Cuối cùng con bé phải đầu hàng. Buổi sáng Hằng thấy ba
nằm thiêm thiếp trên giường, mặt mày xanh xao, hơi thở nặng nhọc. Lòng
đau như dao cắt, con bé vừa xách chiếc valy nhỏ bước ra khỏi nhà, đi
ngang cửa sổ phòng khách là có tiếng ba gọi từ phía trong cửa sổ: - Hằng, Hằng! Con đi đâu đó? - Con đi Pleiku kêu mẹ về săn sóc ba. Hằng trả lời giọng nghẹn ngào. - Không, không! Con đừng đi. Còn không cho ba đi theo với. - Ba đang bệnh đi không được đâu. Thôi ba vô nằm nghỉ. Con đi nghen ba.
Dứt lời là con bé xách va ly đi như chạy. Nước mắt tuôn ướt cả mặt. Anh
Tú dặn Hằng tới Sài Gòn là đi thẳng ra bến xe Miền Trung. Gặp chuyến
nào đi liền chuyến nấy không được chờ. May quá có chuyến trưa sắp chạy.
Chỉ còn chỗ ở băng cuối cùng Hằng cũng leo lên. Suốt mười mấy tiếng đồng
hồ trên đường đi, Hằng rầu rĩ nhớ ba đến nỗi không muốn ăn uống gì cả.
Cũng không để ý đến những lúc xe bị xóc, hành khách băng sau cùng bị
tung lên, đôi khi đầu đụng trần xe đau điếng. Nhớ tới hình ảnh ba, hai
tay nắm chấn song cửa sổ, đòi đi theo Hằng là con bé lại giọt vắn giọt
dài khiến hai người ngồi bên cạnh ái ngại quá. Nhưng hỏi gì con bé cũng
lắc đầu, không nói. Hằng không ngờ đó là lần cuối cùng gặp mặt
ba. Vì mẹ về tới là ông yếu lắm rồi. Ba ngày sau ba trút hơi thở cuối
cùng. Nhận được điện tín anh Tú đánh lên báo tin ba mất và dặn Hằng đừng
về, con bé lịm người khóc không thành tiếng. Nếu biết ba ra đi sớm như
vậy, có đánh chết Hằng cũng quyết ở lại với ba. Con bé đau liệt giường
cả tháng trời sau đó. Mẹ lại khổ sở săn sóc cho con gái... Một
thời gian sau ông Sinh xin đổi đi tỉnh khác vì mẹ từ chối lời cầu hôn
của ông ta. Cả anh Tú và Hằng đều ghét cay ghét đắng, cho là vì ông ta
mà ba mới chết sớm như vậy.
...Thật lâu, thật lâu sau này, nghĩ
lại Hằng thấy thương mẹ vô cùng. Bà đã vì hai anh em nàng mà chịu hy
sinh hạnh phúc của riêng mình. Theo lời chị Mai, mẹ rất yêu ông Sinh. Về
sau có nhiều người theo đuổi mẹ đều từ chối. Công bình mà nói,
ba cũng đáng trách. Hằng không hiểu tại sao một người có điều kiện tốt
như ba mà chịu xuôi tay đầu hàng Định mệnh, để ông Thần Lưu linh lôi
cuốn đến nỗi tan nát cả hạnh phúc gia đình? Tại sao ba lại hèn yếu đến
thế hở ba? Con thương ba nhưng cũng ghét ba. Ba rủ áo ra đi, thanh
thản, nhẹ nhàng bên kia thế giới. Nhưng phần mẹ được gì? Suốt đời làm
lụng, buôn bán cực khổ nuôi chồng, nuôi con. Trở thành góa phụ ở tuổi
mới ngoài bốn mươi, đẹp đẻ, giỏi giang... mà cứ phải cắn răng sống cảnh
phòng không chiếc bóng, chỉ vì tình thương dành cho hai con. Trong khi
chung quanh ong bướm dập dìu. Hằng thương cả ba lẫn mẹ. Nhưng vẫn canh
cánh bên lòng một tình cảm khó tả: thương, giận và tiếc nuối! Nếu được
bắt đầu lại, Hằng sẽ nghĩ đến mẹ nhiều hơn. Ba không đáng trách
và mẹ không đáng thương lắm sao? Những hạt bụi bám chặt trong tim con
gái chừng nào mới gội sạch được đây? Tiểu Thu
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Oct/2017 lúc 12:15pm
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 20/Oct/2017 lúc 12:07pm |
Học trò già
Hương nhìn mải miết người học trò
ngồi ở bàn đầu. Khóa học đã già nửa mà cô giáo vẫn chưa hết hiếu kỳ về
bác học trò già gấp đôi tuổi mình. Mấy hôm đầu, Hương vẫn tưởng bác đưa
con đến học rồi “quỡn” quá, ngồi chờ đến hết giờ luôn. Chừng đến hỏi
chuyện, hóa ra cái bác tên Nguyễn Văn Phước này đến đây để học. “Nghỉ
hưu lâu rồi, ở nhà buồn quá, tôi đi học cho trí óc vận động đỡ cùn mằn.
Vả lại trước giờ tôi chỉ biết tiếng Pháp, học chút đỉnh tiếng Anh cho
khỏi lạc lõng với mấy đứa cháu ngoại, cháu nội ở nhà”. Mà người học trò
tóc bạc gần hết ấy học siêng thiệt! Ngày nắng, ngày mưa chưa thấy nghỉ
buổi nào
Thi thoảng lắm, có việc hệ trọng gì đó ở nhà, bác
đều xin phép trước với cô giáo, thí dụ như: “Cô cho tôi nghỉ một bữa.
Mai tôi phải đi đón con bên Úc về chơi”, hoặc “Mai nhà tôi có giỗ, tôi
xin phép nghỉ một đêm nghe cô giáo”... Hương để ý thấy ông học trò này
chưa bao giờ nghỉ học không phép dù đây chỉ là một trung tâm ngoại ngữ
đêm, học sinh vào ra khá thoải mái. Có học trò nào nghỉ học mà xin phép
đâu! Hay tại cái nếp của những “người xưa” là vậy. Là giáo viên Anh văn,
Hương dạy thêm ở trung tâm đêm này đã nhiều khóa liền để kiếm thêm thu
nhập, cũng quen dần với ý nghĩ: học trò bỏ tiền ra để luyện ngoại ngữ,
thi lấy bằng A, bằng B cho dễ tìm chỗ làm hoặc mấy học viên đã đi làm
rồi thì hợp thức hóa mảnh bằng cũng là cách củng cố vị trí và thăng tiến
trong công tác. Ít có ai học để “biết thêm” như cái bác học trò già
này.
Hôm nào cũng vào lớp đúng giờ, ngồi ngay bàn đầu, bác Phước không chỉ siêng học mà còn rất hăng hái đưa tay phát biểu.
- Cô giáo cho tôi tập nói cho nhiều chứ không tôi đọc, nói tiếng Anh cứ giọng Pháp hoài, mấy đứa nhỏ không hiểu gì hết trơn.
Mỗi lần ông già đứng lên đọc bài, cả lớp lại vui như Tết. Đám học trò nhỏ cứ râm ran:
- Im, nghe bác Phước đọc kìa! Giống nói tiếng Tây quá ta ơi!
Riết thành quen, bác học trò cũng không mắc cỡ hay
có chút rụt rè gì. Mấy đứa nhỏ hình như cũng bắt chước bác Phước học
hành chăm chỉ hơn. Cô giáo Hương rất thích cái không khí sôi nổi, nhộn
nhạo của lớp này, thích đến nỗi khác với thường khi, việc dạy thêm ban
đêm không còn là gánh nặng công việc, cũng không còn chút ngậm ngùi “cơm
áo” nữa. Cứ cách đêm, Hương lại tìm thấy niềm vui khi đến lớp cũng như
nhiều điều thú vị khi trò chuyện cùng người học trò già. Nhà ở gần
trường nên Hương thường đi bộ qua. Từ khi quen bác Phước, cô càng thích
đi bộ hơn bởi sau buổi học có thể cùng đi một đoạn đường với bác. Bác
nói:
- Tôi vừa đi học vừa có dịp đi bộ một chút để tập thể dục. Vậy là khỏe ra, còn hơn uống thuốc bổ đó cô giáo.
Ông kể lúc nhỏ cũng học ngôi trường lớn ở đây. Sau
ra đời làm ăn buôn bán cũng “lên voi xuống chó” nhiều. May mà cuối đời
mọi việc ổn cả. Con cái bốn đứa thì hai đứa con trai lớn định cư ở Úc,
đứa con gái và thằng con trai út còn bên này cũng yên bề gia thất, việc
làm ổn định. Nhà có dư chút đỉnh, ông có điều kiện để nghỉ ngơi và đi du
lịch.
- Tôi đi Úc thăm con cũng mấy lần. Cũng qua Mỹ hai
bận nhưng tiếng Anh bù trất, mắc cỡ quá nên ráng học. Chừng con rước qua
chơi quều quào được vài ba câu cũng đỡ hé cô!
Bác học trò nói về gia cảnh mình rất ít, Hương cũng
không tò mò tìm hiểu gì thêm. Thú vị nhất vẫn là những chuyện bác kể,
những suy nghĩ thâm trầm về cuộc sống, về con người của bác. Cứ mỗi lần
nói chuyện với người học trò lớn tuổi ấy, Hương như vỡ ra nhiều điều về
đời sống, về bản thân...
Có bữa trưa vừa đi dạy về, Hương thấy hai cây xoài để ngay trên sân nhà. Mấy đứa cháu nói:
- Cái ông gì nói là học trò mang lại cho để thím trồng trong vườn.
À, bác Phước chứ chẳng ai. Hôm trước bác đem vào lớp hai trái xoài xanh, trái nào cũng “biết nói” hết, bảo:
- Cô ăn thử đi, ngon hơn xoài Thái Lan. Giống Đài Loan đó. Tôi cung cấp cho các siêu thị trong thành phố, họ bán được lắm.
Mà đúng là ngon thiệt. Ăn hết hai trái xoài mà cả nhà còn thòm thèm. Hương kể lại cho nghe, bác học trò cười:
- Để tôi chiết cho cô vài cây. Về trồng chừng hai năm là có trái ăn rồi.
Không ngờ bác đem lại thật. Hai nhánh xoài chiết đã
thành cây xoài nhỏ, thân thẳng đuột, cành lá phổng phao, xanh mướt. Ông
già kỹ tính đã giữ cho cây lên đến bằng này mới đem cho để cây chắc chắn
sống được. Vậy là hai cô trò, hai người bạn vong niên lại có chuyện nói
về trồng trọt, về cây cối. Trong phạm vi mới này, bác Phước đúng là
người từng trải. Bác kể:
- Tôi cũng gốc quê mà. Hồi nhỏ thấy mấy ông già chơi
cây cảnh, uốn cây, ghép cây thành đủ mọi hình thù tôi mê lắm. Nhưng
mình còn nghèo, đâu có điều kiện. Sau này thư thả một chút, tôi lao vào
trồng trọt, không phải để kiếm tiền mà thỏa mãn cái thú tìm tòi, phát
hiện các giống cây quý thôi.
Đi theo lời kể của người học trò già, cô giáo Hương
như lạc vào một thế giới khác: Nào là cây đinh lăng lá dài có thể làm
tóc mướt đen, loại hoa ngâu nhỏ như hạt nút áo dùng để ướp trà trồng từ
hột mới có thể ra trái, trái ngâu ngâm rượu uống cũng làm tóc đen trở
lại, thiết mộc lan vì sao được gọi là cây phát tài, rồi cây xương rồng
phong phú thể loại ra sao, làm thế nào để người làm vườn có thể khiến
hoa trái ra hoa kết quả nghịch mùa... Nhưng thú vị nhất chính là quan
điểm của ông về thiên nhiên:
- Cô coi, trời đất có thái cực, lưỡng nghi, tứ
tượng... Cây cỏ cũng như con người đều có thì, có lúc nẩy lộc phát hoa.
Người xưa thường sống thuận theo tự nhiên để có cuộc sống giản dị mà
thanh thản, người nay “bóc lột” tự nhiên nhiều quá nên gánh lấy hậu quả
đáng buồn là vậy...
Trò chuyện với bác Phước, Hương thấy tâm hồn mình mở
ra, trong sáng mà lại sâu lắng hơn. Trong một lúc, cô giáo trẻ như quên
đi những bon chen, xoay xở của đời thường để nhập vào thế giới của
“người xưa”. Sau này ngẫm lại, dường như đó là những giây phút thư giãn
êm ả của Hương trong vòng xoáy lốc của công việc triền miên, không dứt
này.
Trong câu chuyện, Hương cũng than thở về việc học
hành của con, về áp lực công việc của bản thân, người học trò già lại
chia sẻ cùng cô một cách chân tình. Lắm lúc cô giáo dạy Anh văn tưởng
như mình đang tâm tình với một người bạn đồng lứa thật thân thiết. Đúng
như có lần bác Phước nói nửa đùa, nửa thật: “Cô và tôi quả có duyên”.
Bẵng đi mấy tối không thấy bác Phước đi học, cô giáo
Hương rất ngạc nhiên. Cả lớp không ai biết nhà bác cả. Hương nóng ruột,
chạy lên văn phòng trung tâm hỏi địa chỉ trong hồ sơ ghi danh của bác
rồi lần đến nhà. Đứng trước cổng nhà mà Hương còn ngỡ ngàng. Không ngờ
nhà bác học trò bề thế như một ngôi biệt thự tuy nằm ngay giữa thành
phố. Nghe nói bác còn mảnh vườn cũng lớn lắm ở ngoại thành, trồng nhiều
cây trái quý nữa.
Bác Phước nằm trên giường, ngóc đầu lên chào cô
giáo. Không gặp mấy ngày mà ngó bác xanh xao quá. Không đợi Hương hỏi,
bác học trò già nói liền:
- Bác sĩ nói tôi bị viêm gan siêu vi B, không phải ung thư đâu, cô đừng lo!
Ừ, mà nhìn bác Hương lo lắng thật. Sao bác như đọc
được ý nghĩ của mình vậy kìa. Nói qua nói lại, hóa ra chính người bệnh
lại động viên cô giáo:
- Cô cho tôi nghỉ ít hôm, vài bữa tôi sẽ đi học lại thôi. Mấy bữa ở nhà, nhớ bọn nhóc quá!
Rồi bác cười thật tươi:
- Nghe nói bệnh này khó dứt lắm. Chắc tôi phải “sống chung” với nó thôi.
Đúng là anh bạn không mời mà đến phải không cô?
Như mọi lần, ông học trò già lại khiến Hương nhẹ
nhõm trong lòng. Ngồi bên ông, bàn luận tâm tình đủ mọi chuyện, Hương
hoàn toàn không nhớ mình đang thăm bệnh bác Phước. Cho đến lúc vợ bác đi
vào nhắc đến giờ uống thuốc, cô giáo mới giật mình về sự vô tâm của
mình. Nhưng bác Phước lại cười:
- Có cô đến tôi mới được nói chuyện như người bình
thường. Chứ hổm rày cả nhà này chăm bẳm, dòm ngó tôi như người bệnh sắp
chết, chán lắm!
Dù vậy, Hương vẫn không dám nán lâu. Ai đời đi thăm
bệnh lại ngồi nói huyên thuyên cả giờ bao giờ. Nhưng ánh mắt níu kéo của
ông bạn vong niên khiến Hương chạnh lòng, rưng rưng. Trông bác Phước có
vẻ cô đơn, mệt mỏi quá. Khác xa với vẻ hoạt náo, tươi vui thường khi
trong lớp học. Ừ, chỉ là do cơn mệt của thể xác thôi mà. Ông già gân ấy
sẽ không sao đâu, dù ông có “sống chung” với cơn bệnh ngặt nghèo đi
nữa...
Buổi tối, cô giáo Hương bước vào lớp ngoại ngữ thông
báo lý do vắng mặt của bác học trò già. Đám học trò lao xao bàn chuyện
đi thăm bệnh. Lớp học mất hẳn khí thế học hành. Hương muốn khơi lại mà
không khí cứ loãng ra. Sự vắng mặt của người học trò đặc biệt khiến mọi
hoạt động như rời rã, nhạt nhẽo, thiếu thiếu một cái gì...
Tan buổi học, Hương một mình đi bộ về nhà. Không có
bác Phước đi bên cạnh, cảm giác thật chông chênh, trống vắng làm sao.
Những lời nói, câu chuyện hằng đêm của bác đã lấp đầy ý nghĩ, lấp đầy
niềm vui trong Hương, giờ trốn đi đâu mất. Lần đầu tiên, Hương cảm nhận
sâu sắc ảnh hưởng của người học trò tuổi đã “cổ lai hy” ấy trong lòng
mình. Từ vị trí học trò, bác Phước đã trở thành ông thầy của Hương tự
bao giờ. Qua bác, cô giáo Hương bao năm đứng trên bục giảng mới thấm
thía về con đường đi tìm tri thức không ngừng nghỉ của con người. Hương
như được soi mình vào cách sống, cách nghĩ của những con người cách cô
chỉ mấy mươi năm mà đã “khác” biết mấy, khác đến nỗi cô nhìn bác mà nhận
ra những thiếu sót, hời hợt của chính mình, của lớp người hôm nay. Sao
những người xưa ấy họ sống ung dung, bình dị là vậy, đạt đạo là vậy? Có
phải nói như bác Phước “duyên gặp gỡ” giữa hai người cũng là sự may mắn
của mình chăng?
Hương cứ vừa đi vừa nghĩ miên man. Nỗi lo về chứng
bệnh của bác học trò nặng trĩu trong lòng. Nhưng lại nhớ đến vẻ mặt tươi
tỉnh, nhớ lời nói lạc quan của bác, Hương lại gạt đi những suy nghĩ
không đâu. Chắc chắn bác Phước sẽ khỏe nhanh thôi. Một vài hôm nữa bác
lại đến lớp, lại xung phong đứng lên đọc rôm rả mấy câu tiếng Anh bằng
giọng Pháp ấy mà. Người vững vàng như bác làm sao gục ngã được chứ!
Hương cứ đi, cứ đi với những ý nghĩ tuôn trào, với
hình ảnh người học trò già trong tâm trí. Từ hướng bờ sông, gió đêm lồng
lộng thổi mát rượi và trên bầu trời những ngôi sao đã lấp lánh báo hiệu
một ngày mai nắng đẹp.
Nguyễn Ngọc Tuyết
__________________
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Oct/2017 lúc 12:12pm
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 21/Oct/2017 lúc 6:48am |
-
Chúc mẹ đi chơi vui vẻ. Qua Mỹ, rồi qua Canada, mẹ cho vợ chồng con và
bé Tintine gởi lời thăm hỏi đến các chú, các bác, các cô, dì và các anh
chị nữa nghe mẹ. Mẹ có gặp bác Tuân ở Montréal cũng nhớ chuyển lời thăm
hỏi của con nữa.
Ngọc ôm con cháu ngoại, hôn đánh chụt trên má,
rồi quay qua ôm cả hai mẹ con đứa con gái vào người. Rồi nàng buông hai
mẹ con nó ra, cúi xuống xách chiếc xách tay, theo đoàn người tiến ra
phiá cửa dẫn vào phi đạo.
-Tintine vẫy tay tiễn bà đi nào. Good bye bà đi nào.
Ngọc vừa đi vừa ngoái lại nhìn con và cháu. Nàng nói với lại:
-Thôi, hai mẹ con ở nhà vui vẻ à nhe. Nhớ nhắc bố nó lái xe cho cẩn thận. Bà đi về sẽ có thật nhiều quà cho Tintine.
Ngọc
ngồi ngay bên cạnh cửa sổ của phi cơ. Phi cơ đang bay trên những tầng
mây. Mây đùn lên những nõn bông trắng xoá, chập chùng. Qua khỏi tầng
mây, nhìn chếch xuống phiá dưới chỉ thấy một màu xanh ngăn ngắt. Biển và
trời xanh lẫn vào nhau. Màu xanh xẫm của biển làm lòng nàng dịu hẳn
lại. Nàng nghĩ đến hơn hai chục năm qua. Những cuộc tình gập ghềnh, trên
cuộc đời chòng chành của nàng. Và một chuỗi những gian lao, kinh hoàng.
Ðến lúc này, nghĩ lại, nàng vẫn còn thảng thốt. Nàng đến Úc trong
chuyến vượt biên vào khoảng đầu năm 1982 cùng với ba con. Khi Trọng,
chồng nàng còn kẹt trong tù , Ngọc đã phải lăn lộn, vẫy vùng ngoài chợ
trời. Chợ trời, sau 75, là một trường học ác liệt. Cái đói đã có lúc dày
vò, hành hạ nàng và lũ con, nhưng nó cũng dạy nàng nhiều điều. Kiếm
được tí cơm, tí cháo nuôi thân, nuôi con, và thỉnh thoảng thăm nuôi
chồng trong tù thật chẳng phải dễ dàng. Cái giá phải trả nhiều khi là cả
nhân phẩm của một người đàn bà. Chồng nàng là dân Võ Bị Ðà Lạt. Nàng
nhận lời cầu hôn của Trọng đúng vào lúc tinh thần sa sút nặng nề. Ðã một
dạo nàng yêu muốn phát cuồng một người bạn của người anh họ nàng, hơn
nàng gần mười tuổi. Tuân dạy học. Tuân yêu nàng bằng thứ tình yêu kỳ dị:
có lúc chàng đắm đuối khi gặp nàng, có khi chàng hững hờ, xa lạ. Hình
như cái đầu của chàng luôn bị những triết gia đông, tây ám ảnh. Khi
Platon nằm trong đầu chàng thì chàng là một vị thánh, mà khi Sartre ngự ở
đó thì chàng là một gã đàn ông buồn bã, chán chường. Nhưng hai bàn tay
táy máy của chàng thì nàng không sao quên được. Và kỳ lạ là chàng không
hề có lấy một lời hứa hẹn. Chàng không có một chủ định dứt khoát nào
trong đời. Nàng thì muốn mọi chuyện rõ ràng. Vậy mà có lúc nàng đã muốn
chết vì chàng. Ðến khi Tuân đổi ra Ðà Nẵng thì nàng bặt hẳn tin Tuân. Có
lúc nàng rũ xuống. Nàng không sao tiếp tục học được nữa. Nàng cùng một
vài con bạn tình nguyện vào nữ trợ tá quân đội. Ðời sống quân đội khiến
nàng nguây ngoa phần nào. Lấy Trọng, nhưng cho đến khi có đứa con thứ
hai, thỉnh thoảng nàng vẫn còn bần thần nghĩ đến người tình đầu. Sau
này, trước 75 một chút, nàng có dịp gặp lại Tuân. Nàng thấy một chút nôn
nao khi nghe chàng còn độc thân. Tuân bảo nàng : ỏỏ Thấy chiến tranh mà
sợ quá, chẳng dám lấy ai cảõõ. Nàng bảo : ỏỏ Em vào lính, lấy chồng
lính, chẳng có gì phải sợ cả; cứ sống cái đãõõ. Tuân không nói năng gì,
chỉ xiết nhẹ tay nàng trước khi chia tay.
Những ngày ngoài chợ trời, Ngọc gặp một hạ sĩ
quan có lúc dưới quyền Trọng . Lúc này, hắn sống dễ chịu. Hắn cho giá
thuốc cho Ngọc và cuối ngày hắn nhận thuốc, tiền bạc sòng phẳng, có khi
còn hậu hĩnh làm quà cho mấy đứa con của Ngọc. Thỉnh thoảng hắn rủ Ngọc
đi ăn. Hắn bảo: ỏỏ sĩ quan cấp tá chắc đi cải tạo không có ngày vềõõ.
Ngọc nghe mà thấy xót xa trong lòng. Ngọc ngồi sau xe của hắn, một chút
tình cảm nhen lên. Những đứa con của Ngọc cũng thấy quen thuộc với chú
Lộc hơn. Hai người thành tình nhân lúc nào không hay. Có lúc Ngọc cảm
thấy bứt rứt khi nghĩ đến Trọng còn đang trong tù. Nhưng rồi, nàng chép
miệng tự an ủi: ỏỏ Mỗi người mỗi số phận, biết làm sao được; phải sống
cái đã...õõ.
Cuối cùng thì nàng cũng đưa được những đứa con
vượt biển đến Mã Lai. Nàng nhớ lại lời một con bạn vẫn gặp nhau ngoài
chợ trời: ỏỏ Những người đàn ông đến với mình rút cuộc cũng chỉ là những
kẻ đồng hành, dựa vào nhau mà sống. Còn dựa được thì còn ở, hết dựa
được thì chia xa. Tao chẳng coi mối quan hệ với đàn ông là cái gì ghê
gớm, thần thánh cả. Họa chăng chỉ có những đứa con mới là của mìnhõõ. Nó
bỏ chồng, cặp với một gã cán bộ từ ngoài Bắc vào. Với nó, phải cứu lấy
thân mình trước. Vả lại thằng chồng nó ngày trước đã là một tay chơi
bời. Những ngày trên đảo, nàng cặp với một người bạn của Trọng. Ðó cũng
là cách dựa vào nhau mà sống. Những hôm giông gió ầm ầm trên mái lán
trên đảo, nằm cạnh các con nhìn hé ra ngoài trời cây cối vật vã, Ngọc
thấy đời mình cũng tan tác, bọt bèo. Rồi nàng được chánh phủ Úc nhận cho
vào Úc. Khi được tin Trọng đã ra khỏi tù, nàng liên lạc với cô em gái
còn kẹt ở lại, nhờ mối lái đưa Trọng vượt biên, nhưng trong chuyến vượt
biên vào cuối năm sau, Trọng đã mất tích. Ngọc không biết nên cười hay
nên khóc. Dẫu sao, nàng chỉ cần biết là từ nay trở đi, nàng sống với
người đàn ông nào cũng được, miễn là người ấy chia đều với nàng những
nhu cầu của cuộc sống hàng ngày. Những ngày đầu ở Úc, nàng cắm đầu làm
đủ mọi thứ, từ thợ may, thợ giặt, đến cả nghề pha rượu ở vài quán rượu.
Có những ngày cuối tuần, nàng sống như một con điên, say khướt. Mẹ cha
ơi! ai đưa con đến đoạn trường này. Nhưng, còn những đứa con, nàng còn
phải sống, miễn là chúng không từ chối nàng!
Bây giờ ngồi trên chuyến bay này, tự nhiên nàng
thấy thanh thản vô cùng. Ba đứa con đã lớn. Hai có gia đình. Một đứa có
lúc tưởng chừng hư hỏng, nay cũng đã chí thú làm ăn. Một con bạn lần
lượt mất chồng, mất con trên biển, mất cả người tình khi vừa đặt chân
đến đất tự do, đã bảo nàng: ỏỏ mày còn hạnh phúc hơn tao nhiềuõõ. Nhớ
lại lời nó, nàng nói thầm: ỏỏ cám ơn mày, té ra tao là đứa còn có hạnh
phúcõõ. Hạnh phúc có những đứa con còn gắn bó với mình, và hạnh phúc có
đứa cháu ngoại kháu khỉnh, bụ bẫm, mà cặp mắt của nó ánh lên nỗi ngây
thơ an bình. Nàng cũng thấy ấm lòng hẳn lại khi mới đây nàng nhận được
thư của Tuân từ Montréal gởi qua cho nàng. Tuân vượt biên vào năm 87,
hiện ở Montréal. Qua một người quen có lúc ở chung trại với Ngọc ở Pulau
Bidong, được nhận vào Canada, và hiện ở gần chỗ Tuân, Tuân có được tin
tức và địa chỉ của Ngọc. Nay thì Tuân nhìn cuộc đời thật rõ ràng: cuộc
đời của một gã đàn ông ở vào lứa tuổi xấp xỉ 60, đến Bắc Mỹ khá chậm,
không vợ, không con, và sửa soạn những năm tháng cuối cùng của cuộc đời
sao cho những năm tháng này không là những nuối tiếc, hoài niệm dằn vặt
cuộc đời. Vậy mà trong thư gởi cho Ngọc, Tuân đã viết: ỏỏ...Anh sống ở
đây như một người bị bỏ quên!...õõ. Ðọc đến đoạn này, nàng đã cười nho
nhỏ trong họng. Ðáng lẽ Tuân nên viết ỏỏ... Anh sống ở đây như một người
tình bị bỏ quên!...õõ. Nếu ngày xưa anh đừng bỏ quên em. Và bất giác,
nàng thấy muốn gặp Tuân trở lại, chỉ một lần, để xem xem chàng sống như
thế nào? Bề nào, ông ấy cũng đã là người tình của nàng. Ông ta không
phải là người của cái thế giới chiến tranh, đàn áp, ngược ngạo. Ðó là
một người của trí tưởng và những xúc động, bất trắc như những cái nắm
tay và những nụ hôn lúc hờ hững, khi dồn dập, và cặp mắt lúc nào cũng
như đang ngái ngủ. Nàng muốn dành cho ông một bất ngờ trong chuyến đi
này. Qua Cali. chơi xong, nàng sẽ bay lên New York thăm gia đình người
chị, rồi tiện đường nàng sẽ ghé Montréal vừa thăm gia đình một đứa em,
vừa thăm ông luôn thể.
Qua khung cửa nhỏ, bâù trời vẫn xanh ngút mắt.
Hai
người ngồi đối diện trên một chiếc bàn vuông nằm ngay cạnh cửa sổ lớn
của nhà hàng trông ra con đường Sainte-Catherine còn vắng bóng người vào
buổi sáng chủ nhật .
Ông Tuân nói như đùa:
- Anh không ngờ em bay đến nửa vòng địa cầu qua
thăm anh đấy. Em làm anh xúc động quá. Còn anh, anh chôn chân nơi này
rồi. Có muốn đi chơi xa một chút cũng chẳng dễ dàng gì. Ðất trời thênh
thang, nhưng chẳng phải muốn đi là đi được đâu.
Nàng hiểu câu nói của ông. Nàng hiểu rõ tình
thế của ông. Những người lớn tuổi, sức lực đã cạn, lại một thân một
mình, còn làm nổi trò trống gì trên vùng đất này nữa. Những người lừng
khừng như ông thì tình thế còn trầm trọng hơn nhiều. Nhưng nhìn ông,
nàng không thấy dấu vết của sầu tư. Nàng dọ dẫm:
- Mấy năm trước, khi có tin em, sao anh không liên lạc ngay với em?
- Anh cũng muốn liên lạc lại với em, nhưng để
làm gì nhỉ? Em mới vào Úc, một nách mấy đứa con, và anh nghe nói em còn
có bạn mới nữa. Ðời sống như vậy là ổn rồi, làm phiền nhau làm chi?
Nàng nhìn ông dịu dàng. Ông ấy vẫn là người
quen được che chở hơn là phải vật lộn, dành dật. Ðời sống của ông trôi
theo cái đà trôi của số đông người trong cái dòng sống vĩ đại mà trời
đất đã an bài. Lòng nàng không còn gì sôi nổi nữa, nhưng nhìn ông, nàng
vẫn thấy tội nghiệp, hệt như nàng đã tội nghiệp cho chính cuộc đời bão
bùng của mình. Người đàn ông trước mặt nàng lúc này đã là một người đàn
ông đứng tuổi, với những vết chân chim trên khoé mắt, và mái đầu nhuốm
bạc, chỉ còn lại giọng nói và ánh nhìn trầm lắng của một người an phận.
Nàng dọ dẫm:
- Nếu anh muốn, em sẽ bảo lãnh anh qua Úc.
- Cám ơn em. Em nói đùa đấy, phải không? Chờ
cho tới khi Úc nhận anh vào với em thì không chừng, anh đã mồ yên mả đẹp
rồi. Nếu em có trong trương mục nửa triệu đô thì anh cũng dám qua với
em; nhưng chẳng phải dễ dàng đâu. Còn các con em, còn cháu em. Và còn
biết bao nhiêu phiền toái khác.
Ông nắm lấy bàn tay của nàng:
- Ða tạ em. Anh là một thằng đàn ông đã chẳng
đem đến cho người yêu mình một bảo đảm nào. Anh không thể và cũng chẳng
có quyền làm xáo trộn đời sống của bất cứ ai nữa. Gặp được em thế này
anh thấy hạnh phúc lắm rồi. Tất cả chúng ta không ai thay đổi được cuộc
đời mình nữa em ạ. Tạ ơn em.
Ông nói mà nước mắt muốn ứa ra. Còn nàng, nàng
lặng người. Có lẽ ông đã nói đúng. Không ai trong cái xã hội nhiễu
nhương nơi quê nhà thoát được cái cộng nghiệp tàn nhẫn những năm qua. Và
khi cơn mộng dữ qua rồi, thì không còn thứ nào có thể ráp lại với nhau
cho khớp nữa.
Nàng xoa nhẹ bàn tay trên bắp tay ông, vỗ về an
ủi ông, nhưng nghe như tiếng nước mắt rớt trong con tim bồi hồi của
mình. Nàng cắn nhẹ bờ môi, lắc đầu:
- Chiều nay em rời Montréal, anh đừng ra phi
trường tiễn em. Chút nữa, vợ chồng con em em nó mời em đi ăn trưa với
tụi nó. Xong rồi thì về lại kháchsạn sửa soạn để chiều ra phi trường.
Ông hỏi một câu không ăn nhập gì vào chuyện giữa hai người:
- Em còn đi làm không? Năm nay em mới 48 mà. Có đi làm đều thì mới có phương tiện đi đây đi đó được.
- Em phụ thằng cháu lớn lo cái tiệm ăn nhỏ,
cũng đủ chi dùng. Ðược cái may là hai đứa con gái đều học hành xuông sẻ,
có việc đàng hoàng và thương em thật nhiều. Ði chơi chuyến này là tiền
các cháu bỏ ra đó anh.
- Em thật may mắn và hạnh phúc. Chúc em và các cháu từ nay mọi chuyện đều hanh thông.
- Em cũng chúc anh cuộc sống bình an.
Ông buông tay nàng, kêu người bồi lại bàn. Nàng dành trả tiền, nhưng lần này thì ông không lừng khừng:
- Em cho anh không trả nổi bữa ăn sáng này sao?
Ông đứng dậy trước, vòng qua phiá nàng, đỡ nàng đứng dậy. Ông đi sau nàng ra khỏi nhà hàng.
Nắng buổi sáng thật trong. Những du khách từ
nhiều xứ đổ về Montréal bắt đầu đi dọc hai bên đường Sainte-Catherine
mỗi lúc mỗi đông. Ông và nàng đi lẫn vào dòng người, ngược về phiá
trường UQAM, quay lại nơi khách sạn nàng ở.
Hai người dừng lại trước khách sạn. Ông không
nói lời chia tay nữa, nhưng vội vàng ôm lấy nàng thật nhanh, hôn thật
vội trên môi nàng, buông nàng ra, và đi như chạy trốn về hướng bờ sông.
Nàng đứng lặng trông theo dáng đi vội vã và lầm lũi của ông, nghe như lòng mình là một bờ đá ven biển Ðông sóng gió năm nào.
Ông
ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng. Nửa tiếng sau ông đã đến Lachine. Ông lái
xe thật chậm dọc theo con đường quanh hồ. Xe vượt qua hội quán trượt
nước trong vùng, chạy từ từ vào khu nhà nằm ven đường. Bên phải của con
đường, hồ Saint Louis mênh mông tan trongsương mù vào buổi sớm chớm thu.
Những hàng cây érable lá vàng hai bên đường, những mái nhà nâu xám và
những bãi cỏ lớn trước những căn nhà nhoà trong màn sương. Chỉ còn thấy
những mảng màu nhạt, nhờ nhờ vàng, nâu, xanh lẫn vào nhau. Trời, nước,
tàng cây, nhà, và những chiếc du thuyền ẩn trong một màn khói loãng.
Chung quanh, chỉ còn là cái im vắng mênh mông của không gian thấm lạnh.
Ông cho xe chạy xuống một bờ cát có một vài tảng đá lấn ra mép hồ. Tắt
máy, ông cài lại nút áo phiá trong, cài lại cái zipper của áo khoác
chống lạnh và kéo cao cổ áo, rồi ông hạ cửa kiếng xuống. Không khí lạnh
xoa trên da mặt làm ông tỉnh hẳn. Thần trí trong suốt. Từ ngày đặt chân
đến xứ lạnh này, lần đầu tiên ông được hưởng một buổi sáng thật sự thanh
bình. Chung quanh không một tiếng động. Ông rót trà ra chiếc ly bằng
inox và nhắp một ngụm. Hương trà và hương sen như ngấm vào người rồi
toát ra từ từ qua hơi thở rất chậm của ông. Ðã nhiều năm nay, bây giờ
ông mới có được cái buổi sáng thật lạnh, thật vắng, thật im ả mà hạnh
phúc này, hệt như nhiều năm trước đã có lần ông ngồi trong nhà thủy tạ
bên hồ Tịnh Tâm ở Huế nhắp một chung trà và nhìn xuống hồ sen bát ngát,
thấy lòng mình như một khối thủy tinh tinh ròng, không gợn chút bụi của
nợ trần. Bên kia bờ hồ là khu kỹ nghệ Lachine. Giờ này, ông không nhìn
thấy nó, và kể từ ngày hôm nay, ông sẽ không còn phải thấy nó hàng ngày
nữa. Ông bỗng thấy nhẹ nhõm trong người. Phải thế này mới là bình yên
chứ. Từ nhiều năm nay, ông đã quen sống một mình. Muốn vướng bận thêm
cũng chẳng được.
Ông vừa nhắp xong ngụm trà thứ nhì thì bỗng ông
nhìn thấy ở khoảng giưã hồ một bụm khói đen nhạt như một đọn mây đang
trôi vào phiá bờ. Nhìn kỹ là một cánh hạc. Ông sững người. Cánh hạc cao
trên mặt nước khoảng vài thước, lờ lững như một con diều trong sương
khói mênh mông. Thân mình, cái mỏ và cặp cẳng duỗi dài sau một làn sương
lụa mơ hồ. Ông bất giác nhớ tới bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hộ, một thi
bá nổi tiếng đời Ðường. Hạc vàng có lẽ chỉ có trong trí tưởng của nhà
thơ, nhưng trước mặt ông, cánh hạc như sương, như khói đã nhẹ nhàng đậu
trên mỏm đá cách ông vài sải. Hương sen còn đọng trong bầu không khí
quanh ông, và hạc trắng ngay trước mắt ông, co một chân như ông vẫn thấy
trên những chân nến bằng đồng trên bàn thờ gia tiên, trong dáng đứng
của một hiền triết trầm ngâm trước cái mênh mông của trời, nước nhu hoà.
Ông nhìn ra khoảng trống mông lung và mênh mông
trước mặt, rồi tiếng một chiếc lá tách nhẹ khỏi thân cây mờ mờ đáp
xuống mặt hồ. Ông thấy trước mặt cánh hạc trắng vươn thân mình tới trước
nhẹ nhàng bốc lên trong sương khói mờ ảo. Trong khoảng khắc ông nhớ tới
buổi chia tay vội vàng hồi sớm hôm qua với người tình cũ. Cuộc gặp gỡ
gây nên trong ông những xao động như những dợn sóng nhẹ, đang loãng dần
ra xa khi cánh lá chạm đến mặt hồ. Ông biết rõ ràng là nàng hiện đã có
được cái hạnh phúc bình an bên con, bên cháu trong cái xứ sở chan hoà
nắng ấm. Còn ông, như một cánh hạc lẻ loi, đậu lại trên một mỏm đá mù
sương.
Sầu Ðông
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Oct/2017 lúc 6:49am
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 23/Oct/2017 lúc 6:57am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 24/Oct/2017 lúc 10:09am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|