Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 18/Apr/2017 lúc 8:14am |
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 18/Apr/2017 lúc 8:20am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 19/Apr/2017 lúc 12:53pm |
Tình cũTôi gọi là tình cũ bởi vì mối tình mà tôi sắp kể cho các bạn nghe bắt đầu từ gần 50 năm trước, năm 1968 tức năm Mậu Thân, năm tôi mười tám tuổi. Năm 1968, tôi học đệ nhất tại trung học Nguyễn Trãi, trường nằm ở
đường Trịnh Minh Thế, quận Tư, bên Khánh Hội, đối diện với kho Năm của
bến cảng Sàigòn. Giang Phúc Đông Sơn |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 20/Apr/2017 lúc 4:36pm |
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Apr/2017 lúc 4:37pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 25/Apr/2017 lúc 2:13pm |
Câu Chuyện Một Người Con Gái Đi Tị Nạn Hương sinh ra và lớn lên bên Lào măc dù em là người Việt. Cha mẹ em đã sang nước láng giềng này lập nghiệp vào những năm năm mươi, sau ngày đất mẹ chia đôi, phần trên là chính thể Cộng Sản và phần dưới Quốc Gia. Năm nay em đã bốn mươi lăm tuổi và đã sinh sống bên Ý Đại Lợi gần ba chục năm. Em đã lấy chồng Ý vì bên ấy kiếm chồng Việt quá khó. Trông em vẫn trẻ đẹp, có lẽ vì em vui tính, hay cười, ít suy tư, không biết buồn khổ là gì. Có lẽ cả đời, ngay cả những lúc khó khăn nhất, em cũng không khóc hay cảm thấy khổ sở. Em nhí nhảnh như một cô gái tuổi hai mươi hơn, vừa nói vừa cười, duyên dáng làm sao. Em kể cho tôi hay rằng khi em còn nhỏ, em tinh ranh và hay cùng những đứa bạn trốn học đi chơi. Người em bé nhỏ xinh xắn, khá đẫy; tôi đứng bên em sao muốn ôm em vào lòng và hôn em trên tóc. Chỉ tiếc em có liên hệ gia đình với mình, làm thế không phải. Ngồi trên chuyến xe lửa đi Venezia, tôi nói chuyện với em lần đầu, em kể cho tôi những gian truân của những ngày em mới mười lăm, mười sáu, khi Cộng Sản cướp được chính quyền tại Viên-Chi-An. Cha mẹ em đã phải bỏ nơi em chôn nhau cắt rốn là thành phố Lu-Ăng-Pơ-Ra-Băng để đi về sinh sống nơi ngoại ô thủ đô Viên-Chi-An. Sau này em mới biết rằng mục đích của cuộc di chuyển này là để cho gia đình em đến sống nơi gần biên giới, đợi lúc thuận tiện thì trốn đi sang bên Thái. Viên-Chi-An chỉ cách biên giới có chừng vài chục cấy số theo đường chim bay. Ở những vùng biên giới, trốn đi sang đất Thái rất dễ dàng, và những thanh niên khỏe mạnh thường hay bỏ nhà ra đi một mình sang bên kia biên giới bằng cách bơi qua con sông Cửu Long. Gia đình em ngoài ba mẹ còn chín anh em, đều còn nhỏ vào cái thời âý, đi tản cư sao thấy quá khó nhọc. Kỷ niệm vui của những chuỗi ngày buồn khổ đó là nhà người hàng xóm người Tàu mà em hay mò sang xem ông giết heo và mổ ra để bán cho những người sống trong vùng lân cận. Tiếng heo rít lên vang cả một khung trời khi bị chọc tiết, máu heo tuôn ra cả thau lớn, thau nhỏ, trông thấy mà hãi hùng, màu máu đỏ như mầu chế độ Cộng Sản tàn bạo gian ác. Hình ảnh ấy đã đi xâu vào tâm khảm em cùng với bao nhiêu hình ảnh ghê rợn khác mà em đã phải chứng kiến vào cái tuổi thơ ngây khi đang dậy thì, cái tuổi đáng lý ra em phải sung sướng, nếm mùi yêu đương và mơ mộng. Chiếc xe lửa đã đến nhà ga thành phố Milano. Chúng tôi vội vã xuống bến và len lõi giữa đám đông để đi tìm bảng chi dẫn những đường xe đi. Tôi vừa đi vừa ôm đít bên phải, nơi có cái ví vì bọn móc túi chầu chực những lúc mình sơ hở để làm việc. Ý cũng như Pháp là những nơi, không giống Hoa Kỳ, có tệ nạn móc túi lộng hành. Hương lại nơi có bảng chỉ dẫn lộ trình và em đã tìm ra nơi chuyến xe đi Venicia sẽ khởi hành. Chúng tôi nhìn những tấm bảng có ghi những số to lớn, 15, 16, 17, 18 và đi qua những bến ấy để lên chiếc xe lửa tốc hành có chiếc mũi nhọn và thon dài. Đây là một loại xe lửa hạng sang nên các ghế ngồi đẹp và tiện nghi hơn con tàu thường. Trên tàu có cà toa phòng ăn và toa bán hàng ăn uống. Khi đến giờ, con tàu lao đi vùn vụt. Tôi ngồi trước mặt Hương nghe em kể tiếp câu chuyện dở dang. Kể từ ngày Cộng Sản lên nắm chính quyền, rất nhiều gia đình đã tìm đường trốn đi sang đất Thái bằng cách vựơt qua con sông Cửu Long. Vào mùa hè, khi nước cạn, kẻ đi trốn có thể lội bộ đi băng con sông, trên đầu đội những túi đồ mang theo hay để những em bé ngồi trên vai. Tuy nhiên nhiều nơi nước chảy mạnh lôi cuốn cả người đi, gây ra cảnh chết đuối cho đàn bà và con nít. Nhiều dân ở vùng cận sông Cửu Long biết rành địa thổ đã làm nghề đưa đường kiếm sống. Hương nhớ, vào những ngày đó, bao nhiêu thanh niên đã can đảm bỏ nhà ra đi tìm tự do một mình. Họ đã cùng các bạn đi băng rừng, trốn tránh những tên lính gác, để đi tìm tư do. Thật là một hành động can đảm, nhưng đối với em, đó cũng chỉ là chuyện bình thường. Chính em cũng đã cùng với một cô bạn khác và hai thanh niên trốn đ,i nhưng không thoát, vì khi thấy binh lính Cộng Sản trấn đóng trên con đường cả nhóm đang đi, các em đã hoảng sợ và trở về. Năm 1978, gia đình em quyết định ra đi như bao nhiêu gia đình khác. Bố em quyết định trốn đi trước cùng với em, mẹ em và các đứa con kia còn nán ở lại xem tình hình bố em và em đi có thoát không đã. Thế rồi vào một đêm có trăng soi sáng cả vùng trời bao la, lúc khoảng một giờ đêm, ba em sách chiếc tay nải lớn mà mẹ em đã khâu và chất chứa những gì cần thiết cho hai bố con ra đi tìm tự do. Năm ấy bố em tuổi đã quá năm mươi, nhưng ông vẫn còn khoẻ mạnh. Người dẫn đường, một người Lào không biết nói tiếng Việt, đến tận nhà em đưa hai bố con em đi. Nhóm ba người khởi hành sau khi ba em trao tiền cho người dẫn đường và như thế đôi cẳng nhỏ bé của em đã phải cố gắng đi theo bước chân thoăn thoắt của hai người đàn ông lớn, đi hết quãng đường hàng mấy chục cây số và băng qua khu rừng rậm rạp để đến một con sông nhỏ. Vào cái tuổi mười sáu hơn, em còn đủ ngây thơ để thấy rằng cuộc đời vẫn còn đẹp mặc dù những trớ trêu của cuộc sống do hoàn cảnh gây ra. Em thấy thích thú khi được đi mạo hiểm và em không thấy sợ hãi vì em nghĩ có bố em bên mình. Vả lại, cuộc ra đi đó rất may mắn, không hề gập khó khăn nào cho đến khi ba em và em đến được một chiếc chòi bên bờ sông. Trời đã ửng sáng và khi hai cha con vào nhà thì đã có một gia đình người Việt khác, gồm một người mẹ và ba đứa con trai nhỏ tuổi mươi, mười hai. Sau khi dừng chân nghỉ khoảng nửa tiếng, ba em theo người dẫn đường và gia đình người đàn bà kia xuống bờ sông để lên chiếc thuyền nhỏ đi tiếp đến vùng biên giới Thái. Chiếc thuyền nhỏ chòng chành một phút rồi lấy lại thăng bằng. Người lái đò, một người Lào trung niên bắt đầu chèo con thuyền ra giữa sông. Tên dẫn đường nhìn ba em và người đàn bà kia rồi dõng dạc nói:
Tên dẫn đường đã lấy tiền đủ của ba em rồi, trước khi nó đưa ba em và em đi! Bây giờ nó lại giở chứng đòi thêm tiền nữa. Ba em làm gì có tiền mà đưa cho nó vào lúc này? Nó mà không đưa đi cho đến nơi thì lắm chuyện, vì ba em và em sẽ lại phải trở về. Đì được nửa đường rồi, thật là phí công toi! Mà em thì vẫn ao ước ra đi, vì bên kia biên giới có bao nhiêu đứa bạn của em đã đi trước. Chúng nó mà gập lại em chắc sung sướng lắm! Đất tự do tha hồ ma vui chơi thỏa thích. Vả lại em muốn đi Mỹ, đi Pháp xem những tòa nhà chọc trời. Em muốn xem Paris nơi có bao cảnh đẹp mà em chỉ đựơc thấy trong phim xi nê hay trong sách vở. Paris, la ville de Lumiêre, thành phố của ánh sáng, em mơ ước đến đó để đi trên đại lộ Champs Elysées, đi xem tháp Tour Eiffel, và nhất là ăn kem và bánh ngọt. Em vẫn thích ăn bánh ngọt mà lâu lắm em đâu có được ăn? Ngày em còn nhỏ, bố em thường đưa em đi ra tiệm Pâtisserie Francaise ở Lu-Ăng-Pơ-Ra-Băng ăn kem dứa và choux à la crème.
Tiếng ba em nói làm em trở về với thực tế. Tên dẫn đường với đôi mắt lấm la lấm lét nhìn sang phía người đàn bà. Chồng bà đi đã lâu rồi, có lẽ đã đến đất Thái nhưng sao không thấy có thư về? Bà nóng lòng nóng ruột muốn đi tìm xem hiện tình ông ấy ra sao. Hay lại đang bay bướm với một nàng Lào, nàng Thái nào, quên cả bá vợ xồn xồn này rồi? Cả mấy năm rồi bà mong đợi có ngày được gập lại ông chồng. Vắng ông, bà thấy thiếu thốn làm sao!
Người đàn bà cũng không phải là tay vừa. Bà nói:
Tên khốn nạn xấn tới:
Ba em đứng dậy, nắm tay tên dẫn đường giữ hắn lại và nói:
Tên kia quay lại nhìn ba em, nguôi bớt cơn giận, nhưng vẫn còn tức tối:
Người đàn bà lườm tên dẫn đường một cái dài, rồi lấy từ chiếc ruột gà đeo nơi bụng một mớ tiền Thái. Bà đếm, miệng lẩm bẩm, rồi đưa cho nó mấy tờ giấy bạc còn mới tinh.
Tên Lào nghe thế thấy hoảng, bèn im tiếng. Hắn đưa một ngàn cho tên lái đò và bỏ túi một ngàn. Người lái đò cho nổ chiếc máy đuôi tôm và chiếc thuyền lao đi vùn vụt. Gió sông thổi mát rười rượi và nước sông bắn tung tóe cả vào mặt em. Em cảm thấy một niềm sảng khoái tràn đầy lan khắp người. Còn vài tháng nữa em sẽ tròn mười sáu tuổi, cái tuổi của người con gái quá dậy thì, bắt đầu lớn, bắt đầu biết yêu đương. Nhìn những thanh niên đẹp trai vạm vỡ, em đã bắt đầu biết quyến luyến, trong cơ thể em đã thấy rạo rực lạ thường. Những khi đó, em chỉ biết mỉm cười một mình, và vì là con nhà tử tế, em tự cảm thấy hơi xấu hổ. Em không dám nói với ai những cảm xúc thầm kín của mình. Dường như mẹ em biết em đã lớn nên cho em đi theo ba để săn sóc cho ông. Mẹ em rất tận tụy với gia đình; măc dù bận bịu với chín đứa con nhưng bà luôn luôn dành thì giờ để chăm sóc bố em một cách tận tình. Sau bao nhiêu năm, bà vẫn thuơng ông như thuở ban đầu. Trời đã xế trưa, nắng đã bớt gay gắt. Gió sông vẫn thổi lồng lộng. Chiếc ghe đã ra khỏi con sông nhỏ từ lâu và đang chạy trên sông Cửu Long mênh mông bát ngát. Lúc nãy ba em hỏi tên dẫn đường và nó cho hay chì còn vài tiếng nữa là đến nơi đổ người xuống đất Thái. Chiếc ghe đã đi khoảng bấy tám giờ rồi và mỗi khi có ghe lớn đi tới, cả tên dẫn đường lẫn ba em phải nằm rạp xuống và người lái ghe tắt chiếc máy đuôi tôm và dùng mái chèo để ngụy trang làm ghe người địa phương. Những lúc ấy tim em đập mạnh vì hồi hộp nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi qua êm thắm. Nhờ đi ghe nhỏ ít người nên cũng đã tránh bớt được sự nghi nghờ của bọn lính Cộng sản. Tới chiều hôm đó, chiếc ghe đậu lại tại một bờ sông hoang vắng bên đất Thái và tên dẫn đường bảo ba em là cứ đi thẳng vào bên trong đất liền sẽ có người tiếp đón đưa vào trại tị nạn. Quả nhiên sau khi đi vào sâu khoảng một tiếng đồng hồ thì bọn em gặp lính Thái, chúng đưa chúng em về một trại tị nạn gần biên giới, nơi tiếp đón những người Lào, Hmong, và một số ít người Việt từ bên Lào trốn qua. Những ngày ở đấy cũng ngắn ngủi vì chỉ sau đó hơn một tháng thì ba em và em được đưa đến một trại tị nạn lớn ở Si-Khiu thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima. Thời gian ở trại tạm cư cũng buồn tẻ, chẳng có việc gì làm ngoại trừ hằng ngày nấu nồi cơm cho ba và em ăn và đi tắm giặt nơi con suối gần đó. Những lúc đi tắm là những lúc làm em khó chịu nhất vì em cứ bị một người đàn ông theo em và y cứ nhìn em chằm chặp, ngay cả những lúc em nấu cơm hay giặt rũ nữa. Lần đầu trong đời, em ý thức được rằng em đã trở thành một đối tượng cho đàn ông, và sự khó chịu xen lẫn với một cảm giác lạ nó làm cho em đỏ mặt, làm cho tim em đập nhanh hơn trong lồng ngực và như thể máu lưu thông nhanh hơn trong người em. Em đã bắt đầu nghĩ vu vơ và kể từ những ngày ấy, em thích nhìn những thanh niên cao lớn, vạm vỡ, và đẹp trai ở xung quanh em. Và như thiên định, em gặp một thanh niên người Lào cao lớn có vẻ mặt tuấn tú. Em được anh ấy lân la gần em làm quen và sau này cứ theo em khắp nơi. Những ngày trong trại bắt đầu từ khi có Vi-Chanh bớt tẻ buồn và lúc đầu em không hiểu vì sao anh ấy lại có nhiều tiền, anh hay cho em để em đi chợ ở nơi làng gần đó mua thêm thức ăn cho ba. Vi Chanh thường đến căn chòi nơi em ở với ba để tán tỉnh và ve vãn em. Em thấy thương anh ta một chút vì anh ấy tốt với em, giúp đỡ em mọi chuyện trong trại, nơi đấy anh quen cả bọn lính Thái. Sau này em mới biết được rằng anh ta làm cái nghề nguy hiểm là đưa những người đi trốn từ đất Lào sang trại tị nạn này. Có lần Vi-Chanh hỏi ba em có cần anh giúp đưa mẹ em và các em em sang đấy hay không, nhưng ba em nói đã nhờ người dẫn đường cũ rồi và cám ơn lòng tốt của anh. Người đàn bà đi cùng chuyến đò thấy Vi-Chanh cho em tiền, dở chứng nằng nặc đòi tiền em; con mẹ đó nói rằng nếu nó không đưa thêm hai ngàn cho tên đưa đường thì giờ này ba em và em cũng không ở nơi đây. Cuồi cùng, Vi-Chanh phải đưa cho con mẹ đó tiền để nó khỏi làm phiền em. Chiều chiều, Vi Chanh và em thường nắm tay nhau đi chơi xung quanh trại. Anh đưa em đến những quán nước ăn chè, kẹo bánh, hay uống cà phê. Em không hiểu có phải vì em uống cá phê từ hồi đó hay không mà sau này em nghiện uống cà phê, nhất là từ ngày em sang Ý Đại Lợi, nơi nổi tiếng có cá phê ngon nhất thế giới. Nói đến cà phê, em bỗng chợt nhớ ra rằng
từ sáng đến giờ đó, em chưa có giọt cá phê nào vào bụng. Chúng tôi đã
dậy rất sớm, lúc 5 giờ 30 sáng đi đến Pavia để lấy xe lửa đi Milano, và
tính đến Milano thì uống cà phê ăn sang, nhưng không kịp vì bọn tôi
muốn cố gắng đi Venicia sớm. Từ Milano đến Venicia phải mất gần ba
tiếng và em nói rằng em muốn tôi tận hưởng những giây phút ở Venicia.
Hương kéo tay tôi đi sang toa bán hàng ăn. Trước chiếc quầy bán và ngay tại những bàn nhỏ, những ông bà người Ý ăn mặc sang trọng đang ăn sang. Chúng tôi ăn croissant và uống cà phê. Tôi nhìn em ngồi trước mặt. Trông em không ai bảo em đã có chồng. Em tươi vui và nhí nhành như còn con gái. Chồng em Alfredo, một anh chàng người Ý đẹp trai, thương em và cho em tự do hoàn toàn. Em đi làm gần nhà mẹ em, cách xa nhà chồng em cả 60 cây số nên thường hay ở lại nhà mẹ, chỉ cuối tuần mới về nhà chồng. Ở nhà mẹ, em thấy em vẫn còn là đứa con gái như xưa, vẫn được mẹ nuông chiều, được ăn cơm, ăn phở, ăn bánh cuốn mẹ làm, không phải ăn những món pasta italiano mà lúc mới ăn thì ngon nhưng ăn mãi thành ngán. Hương từ nhỏ đến lớn vẫn là đứa bé vô tư lự. Em chỉ huởng những cái vui, những cái gì bận tâm, những gì có thể làm cho em buồn, em bỏ sang một bên. Nhìn em nói, em cười tươi, em làm những điệu bộ rất dễ thương, tôi nghĩ anh chồng Alfredo của em tất nhiên phải lấy làm sung sướng có được em làm vợ. Em yêu chồng em nhiều lắm và chắc em cũng đa tình như những người đàn bà Ý, nếu không hơn thì cũng không kém. Một ngày bên em, tôi thấy em gọi điện thoại cho anh chàng bốn năm lần, nói nói cười cười như thể hai đứa còn là tình nhân chứ không phải là vợ chồng. Em nói với Alfredo:
Alfredo trả lời đùa:
Hương còn một đam mê khác là chơi lotto. Em mua báo Lotto hàng tuần và nghiên cứu các con số như một chiêm tinh gia nghiên cứu số mạng con người. Người em gái của Hương trách móc:
Hương chẳng để tâm những lời chỉ trích của người em. Em chỉ cười xoà. Đã có lần em hỏi tôi:
Em vừa nói vừa lấy tay phải làm dấu hiệu gạt những ưu phiền sang một bên. Chẳng như thế, sao em cứ vui cứ trẻ mãi? Trái lại, người em gái của Hương thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến trách nhiệm và bổn phận, trán nàng đã có những vết nhăn.
Có một điều lạ là cả hai chị em đều gọi nhau bằng chị và xưng bằng em. Lúc mới gặp tôi bối rối không biết ai là chị ai là em! Hai chị em khác hẳn nhau về cả tính tình lẫn vẻ mặt. Hương thì giống mẹ, còn người em, Ngọc thì giống bố. Tất cả mọi công chuyện trong nhà đều do Ngọc lo và chu toàn. Bà cô tôi đã một lần nói với tôi:
Quả thật, tôi chưa thấy một người con gái nào đảm đang và lo lắng cho gia đình như Ngọc. Tôi nghĩ thầm, “Ai may mắn lắm thì lấy được cô ấy!”
Hương trêu chọc người em gái. Nhưng tôi thấy hai chị em rất gần gũi và thương yêu nhau. Hai người có hai quan niệm sống trái ngược nhau, thật đúng là “bố mẹ sinh con, trời sinh tính.” Một người đi tìm hạnh phúc cho chính mình mà không làm phiền gì đến người khác. Người kia thì đi tìm hạnh phúc cho người khác và hy sinh bản thân mình. Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi lại trở về ghế nơi chúng tôi đã ngồi. Chiếc xe lửa tốc hành lao đi vùn vụt trong lớp sương mù nhẹ của buổi sáng. Những ngày tôi thăm nước Ý, rất may không bị mưa, trời tương đối nắng tốt. “Mấy hôm trước trời mưa nhiều! Thế là anh hên lắm đấy!” Trời đầu tháng tư cũng vẫn còn hơi lạnh nhưng cũng không lạnh gì nhiều hơn ở thành phố San Francisco của tôi. Quang cảnh nước Ý cũng không khác miền nam nước Pháp gì nhiều. Nhà cửa bên Âu châu có những nét giông giống các thành phố lớn ở Việt Nam làm tôi chạnh lòng nhớ đến quê mẹ. Tôi ngồi đối diện với Hương, nghe em kể chuyện về cuộc đời của em. Hương hỏi tôi:
Đầu óc tôi lúc này cũng không còn tốt như xưa, nhưng tôi vẫn còn khả năng nhớ lại những gì tôi muốn nhớ, tôi hỏi Hương:
Em phụng phịu, và thấy thế tôi vội nói thêm:
Ngoài kia trời cũng đã hết sương mù. Ánh nắng đã bắt đầu chiếu xuống và quang cảnh bỗng thấy đẹp hẳn lên. Chiếc xe lửa vẫn lao vùn vụt. Tôi nóng ruột hỏi Hương:
Chúng tôi đến nhà ga xe lửa Venezia lúc 10 giờ sáng. Trời nắng đẹp và vì hôm đó là ngày thứ hai lễ Phục Sinh nên Venezia tràn ngập những người đến xem thắng cảnh. Từ những toa xe lửa tuôn ra hàng ngàn người, một số là du khách ngoại quốc, một số là người Ý từ những nơi khác đến. Trên những con hẻm ngoằn ngoèo của thành phố du lịch nổi tiếng này hàng hàng lớp lớp người đi ngắm những cửa tiệm nhỏ bán đủ thứ loại hàng cho du khách ngắm có, mua về có, mua để rồi thì cũng chỉ một thời gian ngắn thì bỏ xó. Venezia là một thành phố lạ vì nó được xây cất ở một vùng gần bờ biển trên hàng trăm hòn đảo nằm san sát nhau và biển làm thành những con nước chạy khắp thành phố tạo thành một hệ thống lưu thông thế cho đường xá. Những toà nhà cổ xưa trông cũng lạ mắt, cứ đi một lúc lại băng qua một cây cầu nhỏ cho người bộ hành qua những con sông lạch; trong thành phố không có đường cho xe hơi chạy. Khu đẹp nhất của thành phố là bến tầu nơi có nhiều quán ăn và cửa hàng. Chúng tôi lấy tầu đi đến một nơi kêu là San Marco, để đi thăm một nơi sản xuất sản phẩm mỹ nghệ bằng thủy tinh và pha lê. Hương đi đến đâu cũng mua sắm những đồ lặt vặt. Em nói em thích mua về để trưng bầy. Tôi thấy em là người rộng rãi, thích tiêu tiền, em mua cả những thứ tôi thấy không đáng mua. Tính em dễ dãi, đi đâu có người chào hàng mời mua là em ghé lại mua. Trong số hàng chục thứ em mua hôm ấy, tôi thấy em mua hai cái nón mặc dù trên đầu em đã có nón đội. Em kể cho tôi rằng khi em hết tiền, em cần 10 đồng bỏ túi, em hỏi anh chàng Alfredo, thì luôn luôn chồng em đưa cho em hai ba chục. Em nói em thương anh ta là vì anh ta cũng rộng rãi như em, và không coi nặng đồng tiền. Nhiều khi em bận, em sai chồng đi mua sổ số cho em, nói mua 5 đồng thì Alfredo mua 10, làm em khoái vô cùng. Là con người phóng khoáng, Hương thích sống tự do theo ý mình, em không thìch bị ai kiểm soát cho nên em nói em đã không chịu lấy chồng liền. Em nói em muốn “hưởng đờì” cho đã đã. Dạo đó, em chơi với Alfredo năm năm mà em vẫn chưa muốn làm lễ cưới. Kể lại đám cưới của em, em nói đó cũng là một chuyện vừa lạ lùng vừa đáng ghi nhờ. Sau năm năm chơi với Alfredo, vì anh chàng dễ thương, chiều em và hay đưa em đi ăn và đi chơi biển, em vẫn chưa chịu lấy anh ta, cho đến khi chị Alfredo bảo em rằng chơi lâu như vậy rồi thì phải làm đám cưới, em nể người chị chồng và chịu nghe theo. Nhưng nhà Alfredo, như tất cả những nhà người Ý khác, là người công giáo nên em phải đi học đạo ở một nơi xa nhà hàng mấy chục cây số, vào những ngày thứ bẩy. Em nói em ngại đi nhưng không làm sao được đành phải chịu. Mà cứ đến ngày đi học đạo, khi đang ngồi học thì trời tối xầm xuống và chuẩn bị đổ mưa, em bèn làm dấu hiệu chỉ chỏ cho Alfredo biết và anh ta bắt đầu lo lắng, vì anh chàng ghét lái xe lúc trời đổ mưa. Thế là suốt buổi học đạo Alfredo đầu để đâu đâu, em thì khoái chí vì thấy anh chàng cứ như đang ngồi trên tổ kiến chứ không phải trong nhà thờ. Hỏi thế có lạ lùng không? Rồi khi học đạo xong, hai đứa tính ngày để làm lễ cưới. Khi em nói chọn ngày này thì một người chị của Alfredo nói không được vì nàng đã hẹn đi biển rồi, chọn ngày khác thì người chị khác lại nói rằng không được vì ngày ấy chị có công chuyện. Em đành bảo Alfredo:
Alfredo trợn tròn đôi mắt ngạc nhiên rồi anh ta tuởng em nói thật, anh bắt đầu lo lắng. Em nói em không muốn lấy chồng vì sợ bận bịu, em vốn là người không thích làm thêm việc, nhưng Alfredo muốn cưới em thì làm sao bây giờ? Đến ngày cưới, ông cha đỡ đầu cho Alfredo gởi hai đứa cho một ông cha khác để làm lễ, cha đỡ đầu chúc hai đứa hạnh phúc và cho quà, tưởng thế là xong bổn phận của mình. Không dè đến hôm cưới, bất thần ông cha kia đì du lịch và gởi lại cho ông cha đỡ đẫu cho Alfredo làm lễ. Em nói như vậy rút cuộc chính ông cha này lại phải đứng ra làm lễ cưới cho hai đứa. Thế có buồn cười không? Đi chơi với em tôi quên cả mệt, đến trưa em hỏi tôi đã đói chưa. Em ghé nhìn các menu bầy trước những tiệm ăn rồi em nói không ngon, mình nên đi tiệm khác. Tôi tin tưởng em biết ăn nơi nào ngon vì em đi ăn nhiều, biết rành các món Ý. Ở San Francisco, cũng có nhiều tiệm ăn Ý ngon, nhưng tôi nghĩ những tiệm ấy cũng không thuần túy Ý, cũng như hủ tiếu hay bùn bò Huế ở San Jose đâu có thuần túy Việt nam? Nhưng không phải vì thế mà không ngon. Mỗi thứ nó có cái ngon của nó, mình ăn riết mình đâm quen với cái vị nơi mình hay ăn. Như thế chúng tôi đi loanh quanh đến khi không còn thấy nhiều nhà hàng nữa, em đành dẫn tôi vào một nhà hàng vắng vẻ nơi ít tiệm ăn, nhưng trông cũng lịch sự. Chúng tôi ăn pasta với những con nghêu nhỏ tí, chằng bù với ở Mỹ nghêu con nào con nấy to tướng. Quả nhiên nhỏ mới ngon, như ớt chỉ thiên nhỏ xíu mới cay, những con nghêu nhỏ nhưng thịt ngọt, uống với rượu trắng thật thú vị. Tôi uống rượu gần nguyên chai vì em không uống bao nhiêu mặc dù em khoe nhà chồng em làm rượu, em thường uống khi ăn. Khi ra khõi tiệm ăn, tôi lâng lâng say, thấy cuộc đời đẹp hẳn, em hỏi tôi ăn có được không, tôi thiệt tình nói cũng không có gì đặc biệt, em cũng đồng ý nói tiệm đó ăn cũng không ngon lắm. Tôi nói đùa với em:
Em vui vẻ đáp:
Và em cười xinh như mộng. Quả nhiên ở đời cái gì cũng thế, có thử mớì biết của tốt hay xấu, thật hay giả. Có điều có nhiều thứ mình không thử được, mình phải quyết định mà không đựơc thử, hoặc khi thử rồi mà không tốt mình cũng phải chịu thôi, phải không em? Tôi thương em vì em là người vô tư lự, không có gì làm em bận tâm. Mới găp em lần đầu nhưng em rất thân thiện, tôi tưởng như đã quen biết em từ bao nhiêu lâu rồi. Em giầu tình cảm, em vẫn còn nhớ người thanh niên Lào đã giúp em nơi cái trại tị nạn ở vùng biên gìới Tháí năm xưa, ngày em mới mười lăm mười sáu. Tôi không biết em có thương anh ta hay không nhưng có điều chắc là em vẫn còn mang ơn người đó. Em nói:
Hương đáng yêu là ở chỗ ấy, em biết mang ơn và có nhiều tình người, một điều khó thấy trên cõi đời này.
Viết tại San Francisco Hướng Dương txđ Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Apr/2017 lúc 2:27pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 28/Apr/2017 lúc 1:40pm |
Lối ThoátTháng tư gợi nhớ về quá khứ Tháng tư bảy lăm chưa phai nhạt Ra bến cảng người ghì, người kéo Ước mơ chưa trọn, thành thây ma buồn Cứ mỗi một cuốn lịch mới thay đổi con số cuối từng năm thì chúng ta phải nhìn thấy tháng tư hiện ra ngay trước mắt mình. Có ai lạnh lùng ơ hờ đến vô tình, dửng dưng bảo rằng… tôi không biết tháng tư đang quay về? Là người Việt sinh sống ở Sàigòn phố thị thì không ai mà không biết đến cảnh khói lửa ngập trời vào những ngày cuối tháng tư. Tháng tư là khúc quanh đau thương nhất mà tuổi trẻ chúng ta chưa từng chứng kiến cái thảm khốc này bao giờ. Đúng thật! Từ ngày cha sanh mẹ đẻ, vừa lọt lòng, hí mắt ngắm nhìn thế gian, chưa lần nào và có thể nói chưa bao giờ những cô học trò áo trắng ngây thơ chỉ biết sách vở và học đường; Lại chấp nhận một khúc quanh kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng của mình. Vận nước xoay chiều khi mà lòng ta thì chưa hiểu, nên chưa sẵn sàng để suy nghĩ. Trí óc quá ngây thơ, chỉ biết trơ mắt, ngớ người đứng nhìn dòng đời chia xé trăm nẻo. Có lẽ rất nhiều độc giả có cùng tâm trạng như tôi. Chúng ta ngơ ngáo phân vân trước ngã ba cuộc đời một cách vô tội vạ. · Ta phải làm gì vào giây phút hoảng loạn này? · Sách vở xếp lại hay còn có cơ hội để dàn trải kiến thức nhỏ nhoi mà mình đã gầy công, chắt chiu gom góp mấy năm qua? · Hỏi để mà hỏi chứ thật ra… câu trả lời chỉ là con số zêro to tuớng, một khoảng trống vô hồn. · Trước mặt là một mớ hỗn độn không thể nào tìm thấy một ánh lửa mờ nhòe của chiếc que diêm le lói ở cuối đường hầm; Hoặc đó chỉ là một vệt sáng vàng vọt lờ mờ còn rơi rớt bỏ sót lại giữa màn đêm tăm tối. Những người may mắn chạy thoát ra khỏi Sàigòn hoàn toàn không biết gì cảnh hỗn loạn bi thảm thê lương sau lưng, mà những người bị kẹt lại phải gục đầu chấp nhận. Họ không được thốt ra lời nào cũng như không có quyền lên tiếng than thở, phàn nàn. Quá tội nghiệp cho những ai bị ở lại trong hoàn cảnh oan nghiệt chẳng đặng đừng này. Trong trái tim tím ngắt coi như mất đi phân nửa niềm hy vọng cho ngày mai rồi. Còn phân nửa thì ta phải cứng cỏi để đối đầu với cuộc sống mới với nhiều điều ta chưa bao giờ nghe, cũng như chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt cái ngộ nghĩnh. Cái ngược đời, đáng lý không nên cười nhưng đành mím môi cười ra nước mắt của những người chưa bao giờ thấy Sàigòn hoa lệ. Trong lòng thì se thắt ấm ức, tức tưởi, rối bời một mớ bòng bong mà con đường trước mặt đang bị hàng rào nghiệt ngã chắn lối, niêm phong. Một lối thoát duy nhất, may ra những trái tim muốn sống dò dẫm tìm chút vầng sáng bình minh ở cuối chân mây cho đời mình. Không còn sự chọn lựa nào khác mặc dù ta phải đánh đổi trò chơi phiêu lưu, sinh tử bằng cả tánh mạng của mình để đi tìm. Đó là vượt biển! Bạch LiênChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Apr/2017 lúc 1:46pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 05/May/2017 lúc 4:57pm |
Nhân Duyên Suốt gần hai chục năm, Quân vẫn mong có ngày trở về thăm lại những trại tị nạn mà chân anh đã lê bước qua trên con đường đi tìm tự do. Vì vậy, nhân dịp ghé Nam Dương trong một chuyến đi công tác, anh đã tìm cách đến hòn đảo nơi anh đã trải qua gần hai năm trời chờ ngày được đi định cư. Đó là một hòn đảo khá lớn nằm trên Biển Java, ngoài khơi Nam Dương. Anh muốn về thăm nơi đó để nhớ lại những ngày gian nan năm xưa, những gian nan mang kỷ niệm buồn nhiều hơn vui trong cuộc đời mình. Anh nhận thấy rằng những kỷ niệm đau thương thường khắc sâu trong tâm trí con người và làm cho mình khó quên. Mình có nhớ đâu những ngày vui suớng, chỉ nhớ những ngày phải tranh đầu với cuộc sống để mà tồn tại và vươn lên, những ngày mồ hôi hay nuớc mắt nhỏ xuống làm cho mình thấm thiá những nhọc nhằn của cuộc đời. Những ngày sống yên bình trên đất Mỹ, nhiều khi Quân
nhớ lại hòn đảo này, nơi có nhiều cảnh thiên nhiên rất đẹp, có núi, có
bờ biển với những bãi cát trắng, sóng nhấp nhô làm cho anh nhớ đến
Vũng Tầu hay Đồ Sơn, có bến tàu nơi những ca-nô chạy cả trăm cây số giờ
đưa những nhân viên các tổ chức quốc tế giúp người tị nạn từ Nam Dương
hay Tân Gia Ba tới lui nơi này. Nhớ đến bến tầu ấy, anh cũng nhớ đến
những hình ảnh không vui của những ghe thuyền mà dân tị nạn đã dùng để
vượt biển, những ghe thuyền một thời đã ngổn ngang nằm chết ở đấy, chúng
đã hiện hình trong ký ức anh như là những chứng tích lịch sử đấu tranh
của những con người đã ra đi để trốn cộng sản. Bao nhiêu người đã chết tức tưởi khi lênh đênh trên biển Đông mà không đến được hòn đảo này? Bao nhiêu người đã được nơi hòn đảo này để rồi lại chết nơi đây? Những ngày anh tị nạn ở đây, chiều chiều anh thường đến đếm những nấm mồ chôn cất nơi nghĩa địa nhỏ trên đảo. Trong cơn buồn của kẻ xa nhà, xa quê hương, anh đã tần ngần ngồi để hồn tưởng nhớ những kẻ đã cố công đi đến đây để rồi ở lại đây vĩnh viển. Anh đã lẩn thẩn cho rằng chết và được chôn ở cái nơi khá thơ mộng này cũng sướng, chết và được chôn cất nơi đây chẳng là một đặc ân của trời cho hay sao? It ra, còn hơn những ai chết bờ chết bụi trong rừng thiêng Kămpuchia, hay chết một cách khốn nạn ngoài biển khơi để thân mình làm mồi cho cá. Anh đã từ Tanjung Pinang đáp con tàu lướt sóng tốc hành đến hòn đảo trong nửa tiếng đồng hồ. Trên chuyên tàu hôm đó, ngoài một số ít người dân địa phương, chỉ có khoảng chừng năm sáu chục du khách, phần lớn là từ Đài Loan và Nhật; họ đến thắm viếng ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng trên đảo. Anh đã ngồi nói chuyện với một người Đài Loan đồng hành. Ông ta nói với anh:
Sau khi tàu cập bến, Quân đã bồi hồi theo chân những hành khách bước trên chiếc cầu gỗ để xuống đất liền. Lòng anh thắt lại khi thấy lại nơi cũ, tim anh rung động, anh hồi hộp cảm thấy như thể đang có một bàn tay lạ đè lên trên lồng ngực mình, làm cho anh hơi ngộp thở. Anh dương mắt nhìn một tấm bảng khá lớn ghi hàng chữ «Ex Vietnam Refugee Camp». Cả nhóm du khách nhanh bước đi theo một người dẫn đường Nam Dương, vừa đi vừa chỉ chỏ vừa nói một thứ tiếng Anh hơi khó hiểu. Gần đó, một chiếc xe buýt chở khách đang đậu chờ những ai muốn đi ngoạn cảnh. Người đàn ông anh mới làm quen quay sang hỏi anh :
Chiếc xe chạy được chừng mươi phút thì một một cảnh hoang tàn hiện trước mắt Quân. Những hình ảnh xưa anh còn giữ trong ký ức nay không còn nữa. Nơi đây không còn là cái trại tị nạn nơi anh đã được đưa tới sau khi chiếc ghe chở hơn năm chục người đã trôi dạt vào một cù lao ngoài khơi Nam Dương vào năm 1980. Chuyến ra đi vượt biển đó đã mất hơn mười hai ngày để từ Cần Giờ đến được Nam Dương. Mười hai ngày kinh hoàng, anh đã sống để thấy sự khốn khổ của con người khi phải trải qua những cơn đói khát mệt lả, sống thoi thóp, và sau cùng là chết vì không chịu đựng nổi sự gian nan của cuộc đi. Chiếc xe ca chạy lòng vòng trên con đường trải nhựa còn được bảo trì tốt, một phần vì nơi đây vẫn còn người địa phương cư ngụ, một phần khác vì hàng ngày có du khách đến thăm thắng cảnh thiên nhiên của rừng núi biển cả. Hai bên con đường, Quân chỉ thấy cây cỏ mọc chi chít, xanh tươi vì mặc dù trời nóng bức kinh hồn, gió biển thổi lồng lộng nhưng có những cơn mưa mùa đổ xuống như thác nước, kéo dài hàng giờ trước khi mặt trời nóng bỏng lại hiện lên. Con đường trải nhựa này hai mươi năm trước kia tấp nập những đôi trai gái, những đàn ông đàn bà con nít đi dung dăng dung dẻ. Những ngày ăn không ngồi rồi đó, họ dắt díu nhau đi bộ, đi dong chơi cho chóng qua ngày. Họ kéo nhau đi tắm biển hoặc đi nơi này nơi kia tìm những người quen biết, hy vọng gặp lại được trong số hàng ngàn người sống tị nạn nơi đó những bà con hay bạn bè để cùng nhau than thở về cuộc đời hay chỉ để tán gẫu. Khi xe đi qua những vùng xưa kia có những dãy nhà gỗ dài hai từng, mỗi phòng nhỏ dành cho một gia đình tá túc, Quân chỉ thấy những cây rừng chi chít, phủ kín cả những con đường đất mà trước kia dập dìu người tỵ nạn. Sự đổ nát hoang tàn hiện ra trên cả một vùng rộng mênh mông. Những barrack biến đâu mất chỉ còn trơ lại những mảnh tường ván hay những cột nhà xiêu vẹo nay làm nơi trú cho đàn khỉ hàng trăm con nhẩy múa nhìn chằm chặp chiếc xe đi qua với đôi mắt tựa như mắt người. Các du khách thi nhau chỉ chỏ, nói chuyện xì xồ, cười đùa lên tiếng. Quân thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn da diết, những kỷ niệm gắn bó anh với nơi đây đã không như anh hằng tưởng. Sự thật bao giờ cũng phũ phàng. Hai mươi năm trôi qua, đã có bao nhiêu biến đổi, anh thấm thiá với sự vô thường của đời người, với sự thay đổi của vạn vật bao quanh chúng ta. Không có gì tồn tại mãi trên cõi đời này, nhưng mình đâu có ý thức chuyện đó ? Quân nhớ lại hình ảnh những căn nhà gỗ hai từng tương đối khang trang lập nên cho dân tị nạn, và anh vẫn còn nhớ anh đã được cấp cho một căn phòng ở từng trên, có cây cầu thang gổ để đi lên đi xuống. Anh hay ngồi trên nấc thang chót trên cao ngắm cảnh sinh hoạt của trại, hay nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây nhớ đến gia đình, và các bạn bè còn ở lại Saigon. Anh đã phải ở nơi đó gần hai năm, hai năm mà anh có cảm tưởng như hai chục năm, vì thủ tục xin đi định cư kéo dài chậm chạp, những ngày tháng trôi qua trong sự vô vọng và buốn bã chán chường, trong sự lo lắng không biết tương lai sẽ đi vể đâu, ngày mai sẽ ra sao. Những lúc không biết làm gì, anh đã đi đến ngôi chùa có bức tượng Phật to lớn và đẹp để ngồi trên chiếc đu cột trên cành cây ngoài sân, trước lối cửa vào đại sảnh, ngửi mùi hương trầm và suy tư về niềm tin và con người. Chiều về, khi ánh nắng gay gắt đã nguôi ngoai, gió mát từ biển Java thổi vào, anh đi dạo trên những con đường sỏi đá chạy dọc theo bờ biển, đi hàng mấy cây số để đến những quán lá bán cá phê ngồi nghe nhạc vàng, nhớ về quê hương anh đã xa cách. Ôi những buổi chiều buồn day dứt ấy nhưng lại đáng sống, đáng hưởng, những buổi chiều mang bao ý nghiã của cuộc đời con người, trải qua bao đắng cay mới đến được bến bờ này, nay ngồi hưởng những phút suy tư trong tiếng nhạc tiếng hát, bên hương vị của tách cà phê và những điếu thuốc. Anh đả từng ngồi như thế, đôi khi với những người bạn mới, nhưng thường thì là một mình, bởi vì anh đâu có đến đó để vui, để nói chuyện, để cuời? Anh đến đó để buồn, để nhớ, để trầm tư mặc tưởng. Quân đang để hồn quay trở về với quá khứ thì anh giật mình tỉnh dậy khi chiếc xe dừng lại và chỉ chừng vài phút sau anh thấy mọi người trên xe lục đục đứng dạy chuẩn bị xuống xe. Anh bồi hồi đi theo lớp hành khách qua những con đường đất đỏ để vào phía sâu bên trong, nơi đây anh thấy, trong cảnh lạnh tanh không chút hương khói, một nghĩa trang với hàng trăm ngôi mộ của những kẽ đã bỏ mạng nơi đây vì bệnh tật, bị rắn cắn, hay đã tự vẫn vì quẩn trí khi thấy những người thân yêu của mình đã chết hết trên con đường vượt biển. Nhiều cô gái, điên vì đã bị hải tặc hãm hiếp, không còn thiết sống nữa. Họ đi tìm cái chết bằng cách nhẩy xuống vực thẳm hay treo cổ tự tử trên những cành cây. Những du khách phụ nữ đã thoăn thoắt đi quanh những nấm mộ, cắm những bông hoa và những cây nhang nghi ngút khói xuống đất rồi quì xuống miệng lẩm bẩm khấn. Quân nhìn những kẻ lạ đó làm công việc khấn xin bằng tiếng ngoại quốc mà bùi ngùi. Anh lẩn thẩn nghĩ: «Khấn bằng tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật, hay tiếng Nam Dương như thế thì làm sao mà ngưới chết hiểu cho được?» Rồi anh lại tự trả lời câu hỏi của mình: «Có thể trong cõi chết mọi người cùng nói một thứ tiếng và những lời cầu xin kia đã được chuyển đến cõi chết bằng cái thứ tiếng mà ai cũng hiểu đó?». Trong đám người đi cầu xin những hồn thiêng nơi đây, ngoài những kẻ lớn tuổi mang nhiều nối thống khổ của một đời người, còn có những cặp thanh niên thanh nữ, họ dắt tay nhau đi viếng từng ngôi mộ, nét mặt phảng phất một nỗi buồn sâu sắc, vẻ mắt đăm chiêu. Họ đến nơi đây để cầu xin điều gì? anh tự hỏi. Có thể họ cầu xin được hạnh phúc bên nhau cho đến khi chết? Hay họ là những cặp vợ chồng hiếm muộn cầu xin có được một mụn con? Nghĩ đến đây, anh nhớ đến Nhàn vợ anh còn ở nhà. Hai đứa đã lấy nhau đã gần mười năm mà chẳng có con. Đối với anh thì cũng không sao, không có con thì càng đỡ vất vả, vì đời sống bên Mỹ đầu tắt mặt tối, đấu tranh với cuộc sống hàng ngày cũng đã đủ thấm mệt. Nhưng Nhàn thì lại nghĩ khác. Nàng cần có một đứa con để cuộc đời có ý nghiã, để hai vợ chồng thêm gắn bó với nhau, để gia đình thêm hạnh phúc. Nàng nói như trong cơn mơ:
Quân nói vậy thôi chứ trong đầu anh vẫn nghĩ là hai đứa sẽ chẳng có con. Anh nay đã gần năm chục tuổi mà Nhàn thì đã gần quá cái tuổi để sinh con đẻ cái. Anh nghe nói ở cái tuổi trên bốn mươi của Nhàn, có con lần đầu không là chuyện đơn giản và nhiều vấn đề sức khỏe đặt ra cho đứa bé. Nhưng Nhàn thì cứ khư khư cho rằng nay y khoa đã tiến bộ và, không như xưa, đàn bà trước tuổi năm mươi vẫn có thể có con được. Mỗi lần đi chùa, nàng vần khấn xin Trời Phật cho nàng có được một đứa con. Nghĩ đến đây, Quân đi quanh quẩn tìm một nấm mộ để cầu xin hộ cho Nhàn. Anh đi tìm một oan hồn linh thiêng để xin được giúp đỡ. Đi được hơn trăm bước tự nhiên Quân thấy như
thể anh bị thu hút bởi một tấm bia xi măng nhỏ phủ đầy rêu xanh, trên đó
chỉ có vỏn vẹn hai hàng chữ khắc xâu: Sau khi thăm viếng nghĩa trang, cả nhóm như một đàn cừu lững thững leo lên sườn đồi để đến một ngôi chùa to lớn khang trang do các nhà sư Nam Dương gốc Hoa dựng lên bên cạnh ngôi chùa nhỏ xưa kia do một nhà sư Việt trụ trì khi nơi đây còn là trại tị nạn. Vì biết trước có đoàn du khách đến thăm nên chùa đã chuẩn bị tiếp đón và tổ chức một buổi lễ để cho mọi người tham dự. Trước sân chùa khói hương bốc lên nghi ngút từ một lư đồng đen khá to lớn đặt nơi chân một pho tuợng Phật Bà Quán Âm cao hai thước. Hai bên sân có những sạp nhỏ bán hương hoa và vài thứ vật kỷ niệm cho những du khách mua về để giữ làm kỷ niệm cuộc thăm viếng đảo. Quân mua một bó hoa và một bó hương rồi bước vào trong đại sảnh. Anh đến cắm hoa vào những bình hoa đặt dài đưới chân một tượng phật to lớn cao chắc cũng phải gần ba thước. Anh đến gần ngọn đèn dầu, đốt bó hương rồi đến cắm nơi những bát hương xung quanh. Anh quì gối niệm Phật và cầu xin cho linh hồn các người đã chết trên hòn đảo này sớm được siêu thoát. Sau đó anh đã cùng nhóm du khách dự buổi cầu nguyện kéo dài hơn nửa tiếng đồng hồ. Do tình cờ hay do nhân duyên, anh đã ngồi cạnh một người đàn bà Việt nay sinh sống ngay trên hòn đảo. Trước kia, bà là một người tị nạn nơi đây, và khi trại đóng cửa và những người còn lại bị trả về Việt Nam, bà đã lấy một người đàn ông địa phương và ở lại lập nghiệp trên hòn đảo. Bà sinh sống bằng nghề phụ giúp nhà chùa làm công việc dọn dẹp và nấu nướng cho các nhà sư. Bà nói với Quân :
Quân nghe nói như thế mà thấy đau lòng cho những hồn ma sống vất vưởng vì chưa được giải thoát. Nhưng biết ngày nào mới được siêu thoát khi mà nghiệp còn nặng nợ với trần gian? Anh tò mò muốn biết xem sự thật có đúng như người đàn bà vừa nói với anh hay không nên anh tính trong đầu tối hôm đó anh sẽ ở lại trên đảo để điều tra xem sự thể ra thế nào. Do vậy, sau bữa ăn trưa, anh liền lên văn phòng nhà chùa xin tá túc lại đêm hôm đó. Nhà Chùa có một dãy nhà ở phiá sau đại sảnh làm nơi dành cho những ai muốn ở lại tham dự vào những lớp học phật pháp hay dự vào những chương trình sinh hoạt của nhà chùa. Tối hôm đó gần ngày rằm, trăng toả ánh sáng xuống cả khu rừng âm u, xuống những sườn núi có những cây cao vút, Gió biển thổi làm những cành cây trao qua trao lại trông như những bóng ma khổng lồ. Ánh trăng mờ ảo tỏa xuống những con đường sỏi đá đưa xuống bãi biển. Sóng vỗ dì dào như thể muốn nô đùa với ánh trăng. Tuốt xa, biển Java đen như mực, lóng lánh ánh sáng, mặt nước lung linh phản chiếu ánh trăng, làm nên những vệt sáng vĩ đại, trông vừa vui mắt, vừa gây nên một cảm hứng thích thú thật thơ mộng. Gió biển nhè nhẹ thổi, đủ lạnh để làm cho Quân nổi da gà. Anh lấy hai bàn tay lần lượt xoa xoa hai cánh tay, rụt cổ lại, khẽ rùng mình. Nhưng cảnh đẹp thiên nhiên bất hủ này đang thu hút tâm hồn anh; anh cảm thấy một thứ hạnh phúc lạ lùng khi lững thững đi một mình trên bãi biển vắng hoe không một bóng người. Trước mặt anh là sự vô biên của biển cả, của thiên nhiên. Anh cảm thấy bé nhỏ, như thể anh chỉ là một hạt cát trong sa mạc, một giọt nước trong đại dương, hay một ngôi sao trong vũ trụ mênh mông, anh nghĩ đến sự mong manh của con người. Anh đang ngồi mơ mộng dưới ánh trăng thì bỗng nhiên anh nghe như thế có một hai viên sỏi từ xa bay tới, tiếng sỏi bay vụt qua tai anh để rồi rớt xuống đất nghe cái cạch, và lăn đì trên bãi cát. Anh cảm thấy hơi rờn rợn khi nghĩ đến những lời người đàn bà đã kể cho anh nghe lúc trưa nhưng rồi lại tự nhủ: «Chắc mình tưởng tượng đấy thôi ! Làm gì có ai xung quanh mình đâu để mà liệng đá vào mình?». Quả nhiên sự yên tĩnh trở lại trong một khoảng thời gian khá dài, đủ để tâm hồn anh chìm trở về với sự mơ mộng dở dang. Nhưng rồi một loạt sỏi khác lại từ đâu bay tới, nhưng viên sỏi nhỏ bay vù vù qua đầu anh, một viên trúng ngay lưng anh làm cho anh đứng phắt dậy, quay nhìn xung quanh. Anh cố dương mắt nhìn sau những bụi cây xem có bọn con nít nào trốn nơi đó phá dọa anh hay không, nhưng chẳng thấy gì. Thế rồi lúc anh vừa ngồi xuống thì những viên sỏi lại từ đâu bay tới, lần này kèm theo những tiếng cười khúc khích. Và ngay sau đó anh nghe có tiếng người nói từ phía sau lưng:
Anh vội quay lưng lại nhìn thì thấy một người con gái tuổi chừng hai mươi, tóc dài đen láy, mặc một áo bà ba trắng và một quần vải lĩnh bóng màu đen. Nàng từ từ đi xuống phía anh. Mắt anh hoa lên và anh có cảm tưỡng như những bước chân của nàng nhẹ nhàng lướt trên con đường đá sỏi, đôi bàn chân nàng mà anh thấy lờ mờ không rõ dường như không chạm xuống đất và anh cũng không nghe thấy tiếng sột soạt của chân bước đi trên sỏi đá. Khi nàng đến gần hơn thì anh có cảm tưởng như đã gặp nàng ở một nơi nào đó, bóng dáng nàng trông quen quen, óc anh cố liên tưởng đến một sư gặp gỡ trong quá khứ. Người con gái ngồi xuống bên anh nói :
Quân thấy hai giọt nước mắt lăn xuống hai gò má Thu Hằng. Anh tự nhiên thấy xúc động mãnh liệt, tim anh thổn thức lạ thường, anh muốn với tay ôm Thu Hằng vào lòng, anh muốn vuốt mái tóc nàng, anh muốn nói một câu gì để xoa dịu nỗi đau thương của người con gái bạc phước ấy, nhưng không được. Tay anh cứng đờ không thể giang ra để mà ôm nàng, để mà vuốt mái tóc đen láy chẩy xuống đôi vai bé nhỏ của nàng. Dường như có một cái gì vô hình ngăn chia anh với Thu Hằng mà anh không biết. Anh nhìn người con gái với đôi mắt đẫn đờ và lòng anh dấy lên một nỗi thương sót tràn ngập. Tai anh vẫn văng vẳng nghe giọng nói của Thu Hằng, một giọng nói vang lên như từ một cõi hư vô:
Thu Hằng ngưng lại một phút, nét mắt đăm chiêu hướng về một vùng trời xa xôi, về một dĩ vãng đầy đau thương và nước mắt, trước khi nói tiếp:
Quân nhìn Thu Hằng ngồi hai cánh ôm đôi chân co lại, mái tóc óng ả, gió biển thổi bay bay sau lưng, đôi mắt đăm chiêu. Anh thấy nàng thật dễ thương khi ở cái tuổi con gái còn vương vấn nét thơ ngây, khi còn bé bỏng. Anh cảm thấy thương sót sao cho số phận cay đắng của nàng.
Nghe Thu Hằng kể mà lòng Quân đau quặn, tim anh xe lại, nước mắt anh trào ra. Đã gần hai mươi năm trôi qua, nhưng nghe lại những câu chuyện vượt biển thương tâm ngày trước sao anh vẫn không sao cầm lòng được. Bao nhiêu hình ảnh đau thương lại hiện ra trong tâm trí anh, như thể những thảm cảnh đó mới xẩy ra ngày hôm qua, hôm kia.
Quân nhìn những giòng nước mắt chảy xuống đôi má Thu Hằng mà cảm thấy đau thắt con tim. Anh rất muốn an ủi Thu Hằng nhưng anh nhận thức rằng Thu Hằng và anh đang ở hai thế giới khác biệt, ngăn cách nhau bởi một bức tường vô hình. Anh chỉ còn có thể ngồi đó như một pho tượng nhìn người con gái anh thương sót vô cùng mà thấy mình bất lực không làm gì để giúp nàng bớt khổ được.
Nói đến đây Thu Hẳng khẽ quay đầu, đôi mắt long lanh nhìn anh một cách cầu khẩn.
Vừa nghe xong câu nói đó, Quân thấy Thu Hằng đứng dạy và trong nháy mắt biến đi mất. Anh thẫn thờ nhìn vào không gian xa xôi cố tìm lại hình bóng nàng nhưng tất cả đã xoá nhòa, tất cả đã tan biến như trong một giấc mơ. Gió biển đã chuyển, những cơn gió đêm khuya thổi ố ạt làm cho anh cảm thấy lạnh buốt. Lòng anh tê tái, anh buồn bã đứng dậy trở vê căn phòng phía sau ngôi chùa. Anh trằn trọc suốt đêm không sao tìm được giấc ngủ. Ngày hôm sau, trước khi rời đảo trở lại Tanjung Pinang, Quân lên gặp vị sư cả của chùa để xin ngài làm riêng cho Thu Hằng một buổi lễ cầu siêu. Anh đã thành tâm quì xuống hàng giờ cầu nguyện cho linh hồn người con gái xấu số. Trờ về Mỹ, Quân không nói cho Nhàn nghe việc anh đã ghé lại hòn đảo để thăm cái trại tị nạn năm xưa. Anh không muốn Nhàn biết câu chuyện lạ lùng đã xẩy ra với anh trên hòn đảo đêm hôm trước. Kể lại chuyện anh gặp Thu Hằng chỉ mang lại cho nàng những lo âu và suy tư vô ích. Vả lại, làm sao nàng hiểu được câu chuyện do nhân duyên này? Có lần nàng thắc mắc tại sao anh năng đi chùa hơn xưa và chăm chỉ thành kính dự những buổi lễ cầu nguyện, anh chỉ mỉm cười trả lời:
Nhàn có biết đâu là anh đi chùa để cầu nguyện cho Thu Hằng. Thế rồi một buổi sáng thứ bẩy, sau khi tỉnh dậy, hai đứa còn nằm trong giường, Nhàn mỉm cười nói với anh:
Quân sung sướng ôm chặt Nhàn vào lòng, nhưng trong đầu anh liên tưởng đến lời cầu xin anh đã khấn hôm nào nơi ngôi mộ Thu Hằng. Tự nhiên trong đầu anh lại hiện ra hình ảnh người con gái anh đã gặp đêm hôm đó, một đêm có trăng sao đẹp tuyệt vời. Thấy anh có vẻ hơi đăm chiêu, Nhàn hỏi :
Quân giật mình khi nghe Nhàn nhắc đến cái tên mà anh không hề hé miệng nói với nàng. Tò mò anh hỏi.
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/May/2017 lúc 5:00pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 09/May/2017 lúc 2:46pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 10/May/2017 lúc 9:48am |
Mùa Xuân Nào Cho Mẹ
Hiếu nhìn qua cửa sổ ra sân trước thấy mẹ đang ngồi nhổ cỏ mọc giữa những viên gạch đỏ, hành lý của mẹ để sẳn một bên vỏn vẹn có cái túi xách tay và một cái bị ni-lông đựng thuốc men. Một vạt nắng chiều rọi buồn nơi sân trước, gío hiu hiu, lung lay chùm tóc bạc bên ngoài chiếc khăn che đầu, tự nhiên Hiếu cảm thấy xót xa thương mẹ vô cùng, anh muốn chạy ra ngoài ôm mẹ dìu vào nhà, thôi không để mẹ đi đâu cả, Cơn xúc động nhất thời qua nhanh, Hiếu quay nhìn vào bếp giục vợ: _Xong chưa em? để má ngồi chờ lâu không nên, gió bên ngoài lạnh lắm rồi. _Chờ em tí, sẵn anh đưa mẹ qua nhà anh hai, anh mang luôn mấy thứ quà này thì đến hôm noel mình khỏi phải đi. _Em nói sao? mình đưa má qua anh ấy mà Noel lại không qua thăm má, coi sao...được... Hiếu nói chữ "được" nhẹ hều khi thấy mắt vợ trừng lên ra vẻ bắt đầu bực mình, nàng nhìn xuống né ánh mắt kinh hãi của chồng nhưng cất giọng như lệnh của cấp trên: _Đây! anh đưa mẹ đi được rồi nhưng nhớ về ngay, còn đưa mẹ con em đi sắm quà nữa! Hiếu bước ra ngoài, quơ lấy bị giỏ của mẹ rồi giục mẹ lên xe, bà mẹ già khòm lưng, chống gối đứng dậy nói với: _Con coi chừng rớt bể chai dầu xanh của má! Hiếu quay lại hỏi mẹ: _Má bớt cảm chưa? tối qua con nghe má ho cả đêm. _Trái gió trở trời thôi, má không sao đâu con. Xe phóng nhanh qua mấy ngọn đồi rồi lao vào giữa hai hàng cây trơ xương, dưới đường đầy xác lá. Hai mẹ con vẫn lặng thình, không nói gì, Hiếu đang bận tâm với những nhọc nhằn trong cuộc sống và tánh nết của vợ mình, còn người mẹ thì trầm tư nhìn xác lá ven đường, bà đang nghĩ tới những ngày đen tối, cô đơn và buồn thảm sắp đến. Xe thắng gấp vì qua một khúc quanh, Hiếu nghe mẹ hỏi: _Tết tây xong, con qua đón má về hả con? _Má à! vợ chồng con bàn với nhau là má qua ở với anh hai một thời gian rồi tới lượt con Nghiã, con Hạnh... như vậy mấy đứa cháu nội ngoại đều được bà yêu thương đồng đều. Người mẹ lại quay đầu nhìn xuống cỏ lá ven đường, bà nói như chỉ vừa đủ mình bà nghe: _Chị dâu con đâu có cho các cháu gần bà nội, vợ chồng con Nghiã thì bắt con cái học đánh đờn cả buổi đến tối thì bắt cả nhà đi ngủ sớm, má ra vào như cái bóng ma còn vợ chồng con Hạnh thì gây gổ tối ngày má chịu không nổi! chỉ còn có vợ chồng con là... Hiếu ngắt lời mẹ: _Con biết má qua đây chẳng sung sướng gì, Ba mất rồi, má ở lại Việt Nam chỉ cô quạnh một mình, lấy ai chăm sóc...nhưng má hiểu mà tội nghiệp vợ chồng con, tụi con cũng muốn được đầm ấm, hạnh phúc với nhau, vợ con của con có làm má buồn chuyện gì thì con đây xin má tha lỗi. _Các con không có điều gì sai quấy cả, thấy con cháu hòa thuận, ăn ở hạnh phúc với nhau má nào chẳng muốn! _Vậy má ráng chịu đựng một thời gian ở bên bển , nghe má! _Được mà, con đừng có lo cho má. Hiếu tìm tay mẹ già nua, nắm chặt, giọng anh nghẹn ngào: _Tội nghiệp má quá! tụi con thật bất hiếu! Bà mẹ cố cầm nước mắt chực rơi vì sợ Hiếu đau lòng, rồi như sực nhớ điều gì bà quay sang nhìn Hiếu và nói: _Hay là con cho mẹ ghé thăm thằng út đi! Hiếu phản đối: _Má à! thăm tù phải có giờ giấc, đâu có lúc nào muốn vô thì vô đâu má! _con cứ kệ má đi, lần trước má đi trễ họ cũng cho vào thăm. _Mai con lên anh hai chở má vô tù thăm nó bây giờ con phải về chở vợ con đi mua sắm qùa Noel, được không má! _Con gọi điện thoại cho anh Hai đi! nói với nó là má thăm thằng út xong, má đón xe buýt số 5 là về tới ngay nhà nó. Bình thường mẹ nhu mì, sao cũng được nhưng lúc này nhìn nét mặt lạ lùng và quả quyết của mẹ, Hiếu biết mình không làm trái ý bà được, anh đành phải quay xe hướng về chân núi, nơi đứa em út đang thọ hình hai mươi lăm năm tù tội. Xe lăn êm vào cõi buồn không tên đang dâng lên trong lòng Hiếu. Mẹ vẫn lặng im nghiêng đầu tựa lên kính xe nhìn xác lá ven đường... Nhân ở trong tù lúc mười chín tuổi, đến nay đã sáu năm trôi qua, hắn còn những mười chín năm nữa mới mãn hạn tù. Mười tám tuổi Nhân tự ái, từ bỏ anh chị em vì bị mấy chị dâu gọi là "quân ăn bám". Một hôm thấy anh rể đánh chị mình, Nhân bất bình, xách búa rượt ông anh rể, hàng xóm gọi cảnh sát tới còng tay Nhân về tội cố sát. Nhân vào tù một thời gian vi không ai bảo lãnh tại ngoại cũng như giúp hắn kháng án. Ra tù, nhờ cha mẹ của Tim cho cái việc bán xăng và rửa xe để sống qua ngày. Một đêm kia hai thằng xuống phố chơi ở câu lạc bộ độc thân, Tim bị bọn xã hội đen vây đánh trước cửa, Nhân liền cướp xe đang chạy trên đường phố rồi phóng nhanh đến giải cứu Tim. Một tên chạy theo chỉa súng vào xe, hắn bị Nhân bẻ tay giựt súng và ăn hai phát đạn vào vai. Nhân và Tim bị cảnh sát vây bắt trên xa lộ, trên xe có vũ khí và một em bé chưa đầy một tuổi. Nhân bị kết tội xử dụng vũ khí, bắt cóc, cố sát và vì có tiền án nên Nhân phải ngồi gỡ thêm nhiều lịch trong tù. Mẹ Nhân từ Việt Nam qua chẳng hề biết con út mình đang ở tù, bà vẫn tin là Nhân đang đi học xa chưa có dịp về. Bà chỉ mới biết tin Nhân bị tù qua lời một người hàng xóm. Người cai tù mở cánh cửa sắt cho Nhân bước ra. Nhân đứng trước mẹ, áo sơ-mi trắng, quần kaki xanh dương, đầu tóc cắt chải gọn gàng, mày râu nhẵn nhụi như cậu học trò ngoan trong bộ đồng phục đứng giữa sân trường ngày xưa. Bà mẹ vui sướng trong lòng khi thấy con mình thay đổi hẳn, đẹp trai, trẻ đi rất nhiều như ngày nào còn ôm cặp "thưa má con đi học về". Nhân vẫn lặng yên đứng cho mẹ vuốt ve, âu yếm, bà nói đi nói lại một câu: "Con thay đổi nhiều, tốt lắm con, mãn tù má con mình sum họp, má sẽ nấu nhìều món ngon cho con ăn rồi má con mình về Việt Nam thăm quê nội, ngoại". Bà nói không nghĩ, hỏi han mọi điều, Nhân chỉ đứng nghe như đứa trẻ ngoan biết vâng lời... Chưa hết giờ thăm mà người mẹ như đã hài lòng lắm, bà quay ra cửa, khi tới cuối hành lang bà quay lại, thấy tên tù vẫn còn đấy nhưng hắn như muốn bay nhanh đến ôm chầm bà chào tiễn biệt. Bà lên xe cho Hiếu đưa về nhà vợ chồng đứa con lớn. Hai mẹ con vẫn im lặng bên nhau, Hiếu trầm tư nhìn sâu vào đường xa hun hút còn mẹ anh lại cúi nhìn những xác lá dưới ven đường, bầu trời khi sáng, khi tối, hai hàng cây trơ xương lại như đan tiếp nỗi cô đơn tột cùng. Xe đến nơi, một đàn con nít chạy ùa ra, chúng chen lấn nhau mừng la inh ỏi: "Bà nội tới! bà nội tới! ngoại ơi! ngoại ơi!". Vợ chồng anh Hai Trung đỡ bà xuống xe, dìu vào nhà. Trong bếp đông đủ những cặp vợ chồng Nghiã, Hạnh và Dung bà sung sướng vô vàn, bà nghe một thằng con rể nói: "Thưa mẹ, chúng con nghe mẹ đến đây nên kéo hết về mừng Noel với mẹ ạ!" Thằng khác nói: "Má mệt không má, ngồi đây cho cháu nó đấm bóp, Dung ơi ! em lấy khăn nóng cho mẹ lau mặt!" Bà rút túi quà đưa cho lũ nhóc đang quỳ chung quanh và mở gói tiền chia cho từng đứa cháu lớn. Lòng đang vui sướng bỗng bà sinh nghi: "Hay tất cả chỉ là giả tạo, hay chúng nó bày trò một lần cuối để sau đó xô bà vô viện dưỡng lão, thường ngày chúng ganh tị, nói xấu nhau, mượn bà làm đề tài để vợ chồng, anh chị em, dâu rể gấu ó, cãi vả, bất hoà với nhau còn cháu chít thì lạnh lùng, hỗn hào không coi bà ra gì cả". Nhưng nét mặt của chúng đều tự nhiên, thành thật không một chút gì dối trá. Bà hài lòng lắm, tưởng như trên thế gian không có ai đưọc như bà. Bỗng nhiên đèn trên cây thông Noel phụt sáng, muôn nghìn ánh sáng nhảy múa làm chóa cả mắt bà. Hiếu dừng xe trước lối vào nhà giam, Người lính gác cổng vẫn đưa tay ra dấu dừng xe lại, trong khi anh ta tiến lại gần hỏi Hiếu muốn gì, Hiếu đáp: _Mẹ tôi muốn vào nhà giam thăm em tôi. _Giờ thăm đã hết từ lâu rồi. _Xin ông thông cảm mẹ tôi già yếu lại đột ngột muốn thăm con. _Vậy ông đậu xe sang bên kia, chờ tôi gọi vào trong liên lạc xem sao. Hiếu đậu xe xong, thấy mẹ còn say ngủ anh bước vòng qua mở cửa cho mẹ nhưng cửa vừa mở ra thì đầu mẹ cũng ngoẹo sang một bên, Hiếu lay mẹ "Má ơi! má! tới nơi rồi! dậy đi má!" nhưng người mẹ vẫn nhắm nghiển đôi mắt, toàn thân bà lạnh cứng cái lạnh rùng rợn từ cõi âm. Hiếu gào to" Má! Trời ơi má tui! Má ơi! Má!... Nhân viên cứu thương khám xét xong thi thể, họ đưa mắt nhìn nhau thầm bảo không cần phải làm thủ tục cấp cứu. Họ trở nên từ tốn, trang trọng, khoan thai và nhẹ nhàng trùm xác bà, nâng lên cáng thương trong khi Hiếu ngồi bệt bên lề đường khóc như trẻ con hờn dỗi, Một người khoác lên vai anh chiếc mền nhưng anh gạt ra như sực nhớ điều gì, Hiếu la to "Xin cho em tôi ra nhìn má tôi, làm ơn, làm ơn cho em tôi ra ngay!" Qua vài phút ghi chép, liên lạc và tranh luận với nhau, nhân viên nhà giam áp tải một tù nhân trẻ, tiến về chiếc cáng thương còn đặt dưới đường chờ đẩy lên xe. Tù nhân với nét mặt lạnh lùng, không cảm giác, tay vẫn bị còng ra phía sau, hắn cúi xuống hôn lên trán mẹ mình thật lâu nhưng rồi hai vai hắn run lên, hai chân đứng không vững, cả người hắn rơi xuống khụy trên hai gối, mặt hắn cày một đường xuống vai mẹ. Mọi người đứng dang ra xa để yên cho tù nhân quyến luyến mẹ hắn lần cuối, sau cùng hắn đứng lên không nhìn ai, không nói một lời, lê bước về cổng trại giam. Một nhân viên dìu Hiếu đến bên cáng thương trước khi che mặt người mẹ, dưới ánh đường mới lên đèn, Hiếu thấy một dòng ươn ướt bên mang tai mẹ, anh la lên "Mẹ tôi khóc kìa! mẹ tôi còn sống!" Người cứu thương đứng sau lưng bấu chặt vai Hiếu và kề tai anh nói nhỏ _ Đấy chỉ là những giọt nước mắt của người tù vừa mới đây. Mẹ anh đi lâu lắm rồi! Bà có điều gì rất vui, rất hài lòng trước khi tắt thở...có thể bà ấy có một giấc mơ đẹp tuyệt vời trong lúc anh lái xe đưa bà tới đây... Hai viên cứu thương đẩy cáng thương vào xe. Màn đêm thương đau ném một vài bông tuyết đầu mùa lên thân người mẹ đã vượt bao sông suối bến bờ và cả một đại dương thăm thẳm để đành đoạn gởi xác thân nơi xứ lạ vô tình và lòng người trở nên kỳ quặc, khó hiểu, lạ lùng... "Tưởng như tất cả những ký ức trần gian trong ánh mắt kia vừa khép lại, chỉ là hình bóng những chiếc lá phong vàng, úa, đỏ ở ven đường và dấu ấn cho một đời người hiện hữu là những giọt lệ khan hiếm của đứa con tù tội vừa tiễn đưa mẹ hiền về miên viễn của thiên thu." Xe chở xác người lặng lẽ chìm vào lòng đêm cuối phố, nghìn muôn giọt lệ...bay, bay...trắng cả một trời đông Trần Đại Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/May/2017 lúc 9:49am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 11/May/2017 lúc 9:00am |
Tôi tên là Đào Duy Kỳ, dòng dõi Đào Duy Từ, là một trung úy trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Đức, ra đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975 xảy đến. Cũng như mọi sĩ quan Việt Nam cộng hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và ngồi tù qua các trại Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn... Tôi vốn sinh trưởng trên sông nước Cửu Long giang, khí hậu an lành và trong mát cho nên khi ra Bắc, tôi rất khốn khổ. Tại Lạng Sơn, Thái Nguyên, mùa hè nóng ghê gớm, đến nỗi ban ngày không dám nằm giường chiếu hoặc dựa cột, ngồi ghế hay gốc cây. Mùa hè, dân nơi đây phải chui xuống gậm giường mà nằm. Mùa đông thì rét như cắt thịt, nhất là cơn gió bấc và mưa phùn đã cộng tác chặt chẽ làm tội chúng tôi, những tù nhân thiếu áo, thiếu cơm. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng đã quen thuộc với khí hậu Lạng Sơn, Thái Nguyên. Những ngày ra Bắc đầu tiên, chúng tôi rất khổ sở. Chúng tôi bị bọn công an ngu dốt chửi mắng, đánh dập và hành hạ. Chúng dốt nhưng lại có nhiều tự hào. Tư hào chiến thắng. Tự hào yêu nước. Tự hào thông minh và tự hào giàu mạnh. Chúng thực thà tin rằng chúng là người trí tuệ, còn tất cả nhân dân miền Nam là ngu dốt nên đã theo Mỹ và thất bại. Chúng tự hào là chúng yêu nước nhất còn phe quốc gia là bán nước cho nên chúng đề cao khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”, hàm ý chỉ có người cộng sản là yêu nước. Chúng không biết ************, Phạm Văn Đồng và đàn em sau này của Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã ký tên bán Việt Nam cho Trung Quốc. Họ khinh người Nam ngu dốt, không có tình yêu quê hương, tổ quốc cho nên khi có người xuất cảnh, họ mở nhạc cho nghe bài “ Quê hương là chùm khế ngọt” để dạy người xuất ngoại lòng yêu nước. Họ không biết những người bỏ nước ra đi cũng rất yêu nước, yêu nhà, yêu mẹ già, em dại và yêu tự do nhưng vì cộng sản tàn ác nên phải bỏ tất cả mà ra đi! Họ coi họ là bậc thầy, còn chúng tôi là kẻ ngu dốt phải nhờ họ dạy dỗ cho nên người. Danh từ “ học tập cải tạo” ý nghĩa là thế! Dưới mắt cộng sản, nhân dân miền Nam là cầm thú, chỉ có cộng sản là con người, con người trí tuệ, bách chiến bách thắng! Sự khinh bỉ cộng với lòng căm thù cho nên một số người Bắc đã chạy sang Hongkong mà còn làm lễ mừng chiến thắng 30-4 và đánh đập người Nam tại đây!Bọn công an, bộ đội đa số nhiễm độc cộng sản, học đường lối tàn ác từ Liên Xô, Trung Quốc,lại muốn tỏ ra hăng hái tích cực để lập công cho nên chúng đày đọa chúng tôi đủ điều. Hể một tù nhân có lỗi gì là cả lũ công an, bộ đội xúm lại đánh hôi. Đánh hội chợ coi như là một đặc tính của con người xã hội chủ nghĩa. Nếu không xúm vào mà cứ đứng trơ mắt nhìn, có lẽ họ sẽ bị phê bình là không có tinh thần đồng đội, không có ý thức căm thù quân địch. Chúng lại dùng khí hậu khắc nghiệt, và cái đói và rét để đọa đày chúng tôi. Chúng bắt chúng tôi lao động cực nhọc để trả thù chúng tôi. Nhất là những ngày đầu tiên ra đất Bắc, chúng tôi thường bị dân chúng, nhất là đàn bà và trẻ con ném đá, ném đất và chửi bới thô bỉ nặng nề. Có khi họ đã tập trung đông đảo trên đường chúng tôi đi lao động để ném đá, hô đả đảo và chửi bới. Có thể là do dân chúng đã bị nhiễm nọc độc cộng sản. Có thể địa phượng bắt dân đả đảo để trấn áp chúng tôi, mong lập thành tích kia nọ. Có đôi khi chúng tôi đột nhiên gặp vài đồng bào thì họ ngại ngùng, tránh né. Có lẽ họ sợ liên lụy, sợ bị công an bắt bỏ tù vì liên lạc với tù nhân!Sống trong chế độ ác ôn, con người phải đeo mặt nạ, nếu không thì dễ bị quỷ tha, ma bắt.Tất cả đều là nạn nhân! Ban đầu thì chúng tôi chao động, có người sợ hãi, nhưng rồi thì cũng quen đi vì mình đã ngồi xuống đất đen thì còn gì để mất và để sợ hãi. Chúng tôi cho rằng cuộc đời chúng tôi đã chấm dứt vì ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam trước đây, những tù binh hay phản động là ngồi tù rục xương mà thôi. Chúng tôi im lặng để mặc cho họ ném đá và chửi bới. Nếu ai bị thưong thì chúng tôi săn sóc, băng bó. Nếu dân chúng quá dữ tợn thì chúng tôi dừng lại, để quản giáo giải quyết rồi mới tiếp tục đi. Tôi hiểu dân chúng miền Bắc đa số tin theo lời tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản, và tin những lời cộng sản nói. Họ tin vào ông Hồ, họ cất giấu cán bộ, và góp lương thực ủng hộ cộng sản. Nhiều bà bảo rằng đảng lúc nào cũng đúng. Công an không bắt oan ai bao giờ. Con cháu bà nếu bị giam giữ thì bà bảo chúng nó cố gắng hoc tập tốt để sớm trở về. Nhiều ông bố thấy con ngỗ ngáo, bèn đem con cho bộ đội hay giao con cho công an để họ giáo dục thành người tốt. Ngay tại miền Nam trước 1975, nhiều người tin Nguyễn Hữu Thọ là người quốc gia, không phải cộng sản. Ông Hồ là người yêu nước, là bậc đạị nhân, đại nghĩa. Khi dân Bắc di cư vào Nam, đồng bào Nam kỳ thắc mắc: “Ngoài Bắc đã độc lập tự do, sao còn bỏ xứ mà đi?” Tất cả đã nhiễm độc quá nặng nên tôi cũng không oán trách họ. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi nhận thấy có sự biến đổi trong dân chúng. Mấy năm sau, họ không chửi bới hay ném đá, ném đất vào chúng tôi nữa. Trái lại , có những đôi mắt lặng nhìn chúng tôi như biểu lộ một niềm thông cảm. Sau ngày 30-4-1975, nhiều đồng bào và cán bộ miền Bắc đã vào Nam. Khi vào thì họ ốm yếu xanh xao, khi trở ra thì béo tốt, áo quần sang trọng, lại mang cả vải vóc, xe đạp, xe Honda, TV, tủ lạnh, radio, casette là những thứ mà chỉ có cán bộ cao cấp đi Liên Xô là có thể mua về được. Họ cũng nghe những câu chuyện về Miền Nam thanh bình thịnh vương, khác với hình ảnh ghê tởm, hãi hùng do cán bộ nhà nước đã tuyên truyền trước đây như lính ngụy “xé xác, uống máu, moi gan quân thù”. Họ nhìn kỹ những tù nhân thì thấy những tù nhân này tuy bị đày đọa khổ sở nhưng vẫn toát ra sự thông minh, hiền lành. Họ nghe nói sĩ quan miền Nam phần lớn có bằng đại học, ít nhất cũng tốt nghiệp trung học phổ thông chứ không phải là hạng cán bộ ị tờ như ở miền Bắc sau cuộc Cải cách ruộng đất. Khoảng 1980, tù nhân đã được gia đình thăm nuôi. Lúc này thì dân chúng miền Bắc đã tới gần dân chúng miền Nam hơn khi họ gặp những bà mẹ, người vợ sĩ quan miền Nam ra thăm nuôi. Họ thấy miền Nam nhiều tình cảm, đầy tình chồng nghĩa vợ, và có tài nguyên phong phú mà thăm nuôi chồng con trong bao nhiêu năm. Vì thế, họ thấy miền Nam có một cái gì đó khác với miền Bắc nghèo khổ, cằn cỗi về vật chất và tinh thần. Những sĩ quan miền Nam trung hậu đã trở thành đầu đề cho các câu chuyện đầu môi của dân Bắc. Một hôm, ông giáo Thào qua sông Gianh, là một sông rất rộng ở miền Trung. Trên đò chật ních người. Thuyền chở nặng không đi nổi. Ông giáo Thào thường qua lại sông Gianh cho nên quen biết ông lái đò. Ông lái đò kêu to lên: “Ông giáo ơi, xin giúp một tay”. Ông giáo Thào bèn đứng dậy cầm chèo. Mấy bà đi chợ cười to mà nói: “Ông giáo giỏi quá!” Lúc bấy giờ trên đò có mấy người trẻ, to cao, mập mạp nhưng đen đúa đồng loạt đứng dậy nói với ông giáo: “Thầy để chúng em chèo cho!”. Việc này làm cho dân Bắc vĩ tuyến đã hiểu biết đôi phần về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, và “ nhân nghĩa lễ trí tín” của sĩ quan miền Nam trong khi miền Bắc đã mất hẳn từ khi cờ đỏ xuất hiện trên thủ đô Hà Nội!. Kỷ luật trại giam rất khắc nghiệt và tàn bạo. Tù nhân không được hái trộm khoai, sắn, rau trong trại. Tù nhân nam không được liên hệ tình dục với nữ phái, nếu bị bắt quả tang thì bị biệt giam ở hầm kín. Ai trốn trại thì bị giết chết không tha... Ngoài ra còn nhiều điều lệ lạ lùng khác nữa. Giữa trại tù thực dân và cộng sản có nhiều khác biệt, nhưng điều khác biệt rõ nhất là cái đói.Trong trại tù cộng sản, tù nhân luôn luôn đói. Lúc đi lao động, lúc nằm ngủ, chúng tôi đếu bị cái đói dày vò. Chúng tôi đa số không vi phạm điều thứ nhất là vì lúc nào cộng sản cũng canh chừng tù nhân rất ngặt. Ban đêm chúng khóa cửa lại, không ai ra ngoài để đào khoai, nhổ sắn. Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề dạ dày bằng nhiều cách.Khi đi lao động, chúng tôi có thể hái rau rừng, đào khoai rừng, hoặc bắt những con vật như rắn, cắc kè, kỳ nhông, hay đào bắt bò cạp, và những côn trùng trong lòng đất. Đôi khi chúng tôi cũng giăng bẫy bắt chồn cáo, mễn và thỏ rừng. Chúng tôi vừa lao động vừa nấu ăn rất nhanh và rất gọn cho nên cũng đỡ đói ít nhiều. Điều chẳng may là không phải lúc nào chúng tôi cũng thu hoạch kết quả vì tù nhân thì quá đông. Không những tù nhân mà bọn bộ đội, công an cũng đói phải kiếm thêm lương thực. Tuy nhiên, từ khi được gia đình tiếp tế, đời sống vật chất của chúng tôi tạm đủ. Điều khoản thứ hai thì miễn bàn, vì trại tù của chúng tôi giam toàn đàn ông, Cán bộ, công an, văn phòng và y tế cũng đều là nam nhân, không có một bóng nữ. Còn việc trốn trại thì cũng hiếm. Trong trại tôi có hai công an trẻ, tên là Hoạt và Liêm rất hiền lành. Hai anh thường dẫn chúng tôi đi lao động. Các anh rất dễ dãi, không quát nạt, bắt khoan, bắt nhặt như các công an khác. Hai anh hỏi tôi nhiều điều: -Nghe nói sĩ quan các anh đều tốt nghiệp đại học Sài Gòn? -Đa số sĩ quan tốt nghiệp đại học, là giáo sư, kỹ sư, bác sĩ. Một số là sinh viên. hư tôi là sinh viên khoa học phải đi lính vì lệnh động viên. -Trong Nam phải chăng con nhà giàu và quyền thế tay sai Mỹ ngụy mới được học đại học phải không? -Trong Nam ai cũng được học. Con cái của Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng... theo cộng sản nhưng chính phủ miền Nam vẫn cho con cái họ học hành, không ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm và trả thù vợ con họ. Mọi người đều được học trung học, đại học nếu có học lực khá...Học trung học xong thì các học sinh có thể xin học các đại học. Có hai loại đại học tại miền Nam: Một là học tự do nghĩa là vào học khỏi cần thi tuyển như Y khoa, Duợc khoa, Văn Khoa, Luật khoa. Một loại là phải thi vào là đại học Sư Phạm, Đại học Hành chánh... Nói chung là ai học giỏi đều có thể học đại học. Có nhiều bà buôn thúng bán mẹt cũng nuôi con học kỹ sư, bác sĩ. Sau đó, cả hai công an xin tôi dạy Anh ngữ, riêng anh Liêm còn xin học nhạc với đại úy Thêm. Tôi nói: Chúng tôi rất sẵn sàng giúp các anh học hành, nhưng không biết cấp trên có chấp thuận, và việc này có trái nội quy trại hay không. Hai anh cho biết việc này đã được cấp trên thông qua. Sau hai năm chúng tôi chuyển trại thì việc học của hai anh công an trẻ tạm ngưng. Có lẽ các anh sẽ tìm thầy khác. Trong xã hội cộng sản, ngay cả tại Trung Quốc lục địa, hầu hết cán bộ không thích học tiếng Nga, mà thích học tiếng Anh để mong có cơ hội làm việc tại các nước tư bản. Có lẽ hai anh công an kia có dự tính xin chuyển sang ngành ngoại giao hay xin đi lao động xã hội chủ nghĩa, hay hoạt động gián điệp tại các nước tư bản. Tại Sài gòn, sau 1975, con em đảng đua nhau học tiếng Anh, còn con em “ngụy” yếu thế nên bị bắt học tiếng Nga. Sự đời tréo cẳng ngỗng là thế! Tôi vốn là một sinh viên trường Đại Học Khoa học Sài gòn, bị động viên mà vào trường võ bị Thủ Đức. Tôi có người yêu là Bạch Yến, người Huế, sinh viên Dược Khoa, dòng dõi tôn thất. Hai chúng tôi gặp nhau tại một “bal de famille” nhân sinh nhật của một người bạn, và từ đó chúng tôi thường gặp nhau rồi yêu nhau. Những khi rảnh rỗi tôi thường đến nhà nàng. Ba nàng đi làm việc ở bộ Giáo dục, còn mẹ nàng lo việc buôn bán ở chợ Bến Thành, chị nàng dạy học ở trường tiểu học Bàn Cờ. Tôi thường đến thăm nàng vào trưa thứ năm vì ngày đó, thời khắc biểu của hai chúng tôi đều trống. Thỉnh thoảng chúng tôi đi xem ciné với nhau. Khi tôi đến thăm nàng tại nhà hay khi chúng tôi đi xem ciné, nàng thường mang hai ba lớp quần, nhất là nàng thường mang quần tây, hay quần jean để bảo vệ an toàn cá nhân. Và khi tôi đến thăm nàng, nàng cẩn thận đóng các cửa sổ lại kẻo xóm giềng xoi mói mà sinh ra điều nọ, tiếng kia. Tôi được phép cầm tay nàng, ôm nàng và hôn nàng mà thôi. Nàng hay khóc. Mỗi khi xúc động thì nàng chạy vào buồng khóc và lau nước mắt sau đó mới trở ra chuyện trò với tôi. Cuộc tình duyên của tôi đứt đoạn vì tôi phải đi động viên, rồi ra tiền đồn. Rồi biến cố 30-4-1975, tôi đi tù còn nàng thì đã theo gia đình ra đi trong ngày 29-4-1975 và chúng tôi xa nhau mà không một lời từ giã. Và cũng từ đó về sau, tôi không được tin tức gì về nàng và gia đình nàng. Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện”. Bỗng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước lại thì một người con gái hiện ra ôm lấy tôi và kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch : “Em yêu anh! Anh hãy yêu em đi” Tôi không kịp phân biệt, như một cái máy, tôi ôm nàng và cởi y phục nàng. Tôi không suy nghĩ, do dự. Tôi như con hổ đói vồ mồi. Tôi như con trai mới lớn lần đầu yêu một cô gái trắng trinh. Nàng còn là một con gái và thân thể thơm mùi con gái. Tôi như đi vào một thế giới mới mẻ đầy cảm xúc tuyệt vời. Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi: “Anh hãy đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan”. Tôi vội chỉnh đốn y phục và nói: “Cảm ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời”. Tôi ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai trong đời vì việc này rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa. Trước khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai theo dõi, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không hề thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can dảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị bắt về nhiều tội. Nàng có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng hành động như thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng thế nào đi nữa, tôi vẫn yêu nàng, trân quý nàng. Nàng là một vị tiên đã hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân sũng một lần thôi! Tôi nhớ nhung nàng. Tôi nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật! Tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan. Năm 1985, tôi được phóng thích. Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan cộng hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa thì bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này từ Hà nội đến Quảng Bình , chúng tôi không thấy có trở ngại nào. Khi về Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, chúng tôi bước xuống tàu cho giản gân cốt, thì đồng bào bu lại hỏi han, nắm tay, sờ đầu, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi! Sang năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên và may mắn đến Poulo Bidong, sau đó, năm 1987, tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh người Mỹ Tho và chúng tôi kết hôn. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, nàng đã đến rồi đi như giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ giờ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai sọ, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Đà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn,vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc.Hay cao hơn nữa là một nữ đảng viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu, vai mang săc-cốt, tay đeo đồng hồ,thân gầy ốm, dáng lom khom bước trong cơ quan. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm. Cuộc hôn nhân của chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, mối tình tôi. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa! Các bạn bè khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi du lịch Đức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rủ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Đức. Chị tôi có con du học tại Tây Đức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến Tây Đức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi la cà trong thành phố. Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi liền đứng dậy, kéo nàng ra một bên, rồi hỏi nhỏ: - Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú? Sau một phút ngỡ ngàng, nàng cũng nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng. Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi: - Bà chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về trước, cậu sẽ về sau”. Dặn dò các cháu xong, tôi theo nàng ra xe. Nhà nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các anh em thì đã có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể lể sự tình. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm chức quan nhỏ ở triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản trong tay nải, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú. Gia đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt đều theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ khéo giao thiệp, gia đỉnh nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, dược họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng là cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “không chồng mà chữa” còn hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp tôi, và đã toại nguyện. Sau buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng đã có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người kinh it khi lên đây Gia đình nàng cũng theo nếp “du canh” của người thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong. Tại đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian, gia đình nàng được phái đoàn Tây Đức nhận định cư tại Tây Đức. Anh em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam đã đành mà người Đức, Pháp, Mỹ cũng thích dùng phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương. Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, và chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng: - Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang và gặp mẹ. Tôi nhìn thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, và trắng trẻo hơn. Tôi ôm con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa con trai khôn lớn. Tối hôm đó, chúng tôi sống trong đêm tân hôn. Đêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo rất xinh đẹp. Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Đức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn nhân và bảo lãnh. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Đức, gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ và sống một đời tự do và hạnh phúc. Sơn Trung |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 21997 |
Gởi ngày: 12/May/2017 lúc 8:10am |
Mai con về với mẹ có được không? Đổi những buồn thương một đời của mẹ Đổi cả đớn đau khi mẹ mang hình hài nhỏ bé Để mẹ được yên bình tựa khúc hát dòng sông Khi còn là một cậu bé sắp tốt nghiệp cấp 3, con vẫn tự nhủ Hương Sơn – Vinh có trăm cây số thôi à! ngồi xe 2 tiếng đồng hồ là con về với mẹ thôi mà con vãn trắch sao người ta hay có lý do bận việc,bận học, việc làm thêm,công tác đến nỗi không còn thời gian để về nhà. Chắc là lý do cả thôi nhưng mới đó thôi những thời gian con về cũng thưa dần một tuần một lần rồi hai tuần một lần và có khi một tháng một lần có khi còn lâu hơn nữa Cứ mỗi lần điện thoại: “Mẹ ơi, Mẹ có khỏe không. đang làm gì vậy mẹ, mẹ ăn tối chưa, hôm nay ở nhà có gì vui không mẹ. Ba có ở nhà không mẹ…à mà mẹ ơi chắc là tuần này con không về được rồi mẹ à!. Bởi vì con… Quê nhà mẹ đó có xa đâu sao con vẫn thấy nghẹn. nhà mình khó khăn, năm đầu đại học con ở trọ mẹ nói thôi mẹ lo được, con cứ lo học đừng cóđua đòi với lũ bạni với lại đừng có đi làm thêmnhé con lỡ đỗ bệnh thì không ai đi học được thay con cả… thế là những ngày cuối tuần không học con lại được về với mẹ những năm sau đó cuối tuần con ở lại làm thêm để kiếm thêm ít tiền phụ việc học, thế là cuối tháng sau khi sắp xếp việc học, việc làm con mới được về với mẹ Mẹ à, chưa bao giờ con biết chán về nhà, có khi chỉ cần nghĩ sáng mai được về là con vẫn hồi hộp không ngủ được. Bởi vì về với mẹ là về với cảm giác bình yên, cho dù con có xảy ra bất cứ chuyện gì, nản chí trong học tập, bị ức hiếp ra sao, ấm ức tủi hờn vì nơi xứ lạ quê người thì về với mẹ con cũng sẽ bình yên, chỉ cần được ôm vào long thì con chẳng nhớ chi tới mấy chuyện buồn đó nữa. Về với mẹ là về với tình yêu vô bờ bến. Mẹ ơi…! Sao chẳng bao giờ mẹ giận mẹ trách vì con hè? Khi con làm sai, con ngang bướm cải lời, con cố chấp làm theo ý mình. Hậu quả thế nào mẹ cũng ôm con bảo :” Không sao” . Chắc tại mẹ thương con vô điều kiện, chắc tại đơn giản mẹ là mẹ của con Về với mẹ là về với sự chăm sóc, bảo bọc. Mẹ, sao mẹ cứ lo chi cho con hoài vậy, mỗi lần về lại bảo con gầy đi, mặt hốc hác thế, da đen sạm, mặt lại lấm tấm mụn rồi kìa… Sao mẹ chẳng bao giờ nói rằng: tóc mẹ đã có vài sợi bạc rồi nè, trán đã có bao nhiêu nếp nhăn, thân gầy rọc rồi đó, lưng mẹ đau tay chân của mẹ thì nhức… Về với mẹ là được về ăn cơm ăn những món ăn thơm lừng, ngon nức nở. Nghe tin con về lại chạy đi mua cá, mua rau, mua chè, mua những món con thích để ba cứ chọc “ ở nhà Ba có được ăn vậy đâu, mày về mới được ké đấy chứ”. Đơn giản thấy trứng mẹ chiên, rau mẹ luộc ngon đứt mấy nhà hàng, cơm của mẹ ngon lắm, thơm lắm, ấm áp lắm con chẳng bao giờ tìm được ở nơi khá. Gia đình luôn là nơi chào đón ta trở về sau những ngày làm việc mệt mõi căng thẳng,những áp lực của cuộc sống dường như trôi hết khi ta được trở về bên gia đình của chúng ta. Có vẻ đó là lý do khiến bất cứ ai trong chúng ta cũng đều mông mỏi đến lúc được về nhà, về với mẹ. Nhưng cũng có những lúc vì ham vui, vì những mong muốn nhất thời mà chưa kịp nhận ra giá trị thiêng liêng của gia đình. Có nhiều người khi mới được tung cánh tự do đến một chấn trời mới, vì những thú vui bất chợt mà cũng phần nào quên lãng đi gia đình của mình để rồi sau đó mới chợt nhận ra… Học hành vất vả cuối cùng cũng được mang cái mác sinh viên còn nhận tưởng cuộc đời thênh thang trước mắt, hoặc chi ít cũng thoát được sự cằn nhằn suốt ngày của mẹ, những tiếng chửi dài trong cơn say của cha và hơn hết con đã chứng tỏ phần nào rằng mình không vô dụng như lời mẹ hay mắng. Gia đình mình không quá khó khăn về vật chất, không hẳn nghèo nàn về tinh thần. Con biết mỗi thành viên gia đình mình mỗi người có mỗi cách biểu hiện tình cảm riêng dù không được bình thường cho lắm. Ấy vậy mà dù trong tâm thức con luôn cảm thấy thiếu và khát khao một cái gì đó. Khi đỗ đại học con lao vào công cuộc tìm kiếm phần còn thiếu đó của mình Tìm cái gì nơi hà thành lấp lánh ? Tiền ư? Không, Mẹ luôn cho con thừa tiền Một đam mê ư? Con nào đã có đam mê gì Tình cảm à? Cũng không hẳn, vì ngày nào mẹ chả gọi điện tới nỗi con phát bực Vậy thì là cái gì ? Mấy bạn trẻ như con cũng thật lắm chuyện cuộc sống đủ đầy mà vẫn thấy thiếu thốn đủ thứ. Qua dòng chảy ồn ào của chốn thị thành còn dần quên đi cuộc tìm kiếm vô vọng đó. Rồi con học được bao nhiêu cái mới, biết thêm bao nhiêu bạn tài giỏi, tự tin tận mắt ố á khi nhìn thấy mấy anh chị nổi tiếng mà ở quê chỉ được gặp trong tivi Vui vì bao điều mới lạ, thích thú khi chẳng có cha mẹ ở bên ,rồi hí hửng với bao nhiêu mối quan hệ lằng nhằng khác. Cuộc sống sinh viên năm nhất của con đầy hào hứng, sôi nổi và không có khó khăn gì mấy. Nhưng rồi tới năm thứ hai sự rãn vỡ dần dần hình thành nhẹ nhàng nhưng thấm thía mẹ à Con chìm trong cơn mê mệt, giấc mơ đem con trở lại với những kỹ niệm mẹ cho con ăn cháo gà. Mừng quá vì hình như trưa nay con ăn mì, Ba cho miếng dưa hấu thèm khát vì lâu rồi con không ăn hoa quả,rồi đến anh, chị… tiếp tục trở về ấm áp và yêu thương. Ở đó là gia đình mình có mẹ, ba, anh trai và chị với mấy đứa cháu mới tập đi.. Điện thoại đổ chuông reo ing ỏi đau đầu quá con bừng tỉnh mở mắt và hoang mang không phải là ở nhà. Bốn bức tường lạnh lẽo không có ai, mở mắt ra không một ai thực ra là mơ. Con lại đói lại buồn rồi ngủ tiếp nhưng giấc mơ không quay trở lại. khi lũ bạn quay lưng xa lánh vì nhiều lý do hiểu lầm và khúc mắc trên con đường cô độc bước về nhà con lại nhớ mẹ da diết Đi trên con đường cảm thấy se lạnh và có hoa sữa ngát hương con nhớ vòng tay mẹ biết mấy, còn biết bao nhiêu lần nữa, bao nhiêu chuyện nữa. Bấy nhiêu lần đó con lại nhớ mẹ, nhớ nhà. Con muốn lắm cảm giác bình yên vì ở đó con được yêu thương thật sự Con đã khó khi nhận lời chăm sóc dặn dò của mẹ những lúc con cảm thấy cô đơn đã ăn năn vô cùng khi đã trach Ba say xỉn, đã vui mừng lắm khi biết anh trai vẫn lặng lẽ quan tâm con theo cách riêng của anh ấy. Tất cả những điều này đến tận bây giờ khi con xa mẹ xa nhà, khi cảm thấy cô đơn vây kín con mới thấy thấm thía. Và mẹ ơi có lẽ con dừng cái công cuộc tìm kiếm kia lại vì con biết mình thiếu gì rồi mẹ à, con thiếu gia đình mình những lời cảm ơn và xin lỗi. Con đã sai cho tới tận bây giờ mới nhận ra tình cảm của gia đình quý giá đến nhường nào. Lúc này đây con thực sự muốn về với mẹ với gia đình của mình. Với những đứa con xa nhà, mai sau dù có đi khắp chân trời góc biển cũng chẳng có con đường nào xa hơn đường về nhà mình… Jos_Paul_Đuốc Sáng Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/May/2017 lúc 8:11am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |