Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 94 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Jun/2023 lúc 8:59am

Thuyền Đắm Giữa Khơi 

Thỉnh thoảng, lúc mười hai giờ đêm, khi công trường xây bệnh xá cho đảo tị nạn Pulau Bidong ngưng việc, chúng tôi đốt một đống lửa lớn, ngồi quanh kể chuyện quê hương, hát hò đàn địch, cho đến khi không còn ai thức nổi nữa mới ra về đi ngủ. Đêm nay anh Nam kể một đoạn đời của anh:

“Khi chuẩn bị cho chuyến vượt biên đã kỹ càng, chúng tôi sẵn sàng ra đi. Dầu chạy máy cũng chôn dấu được nhiều hơn số cần dùng vì sợ thất lạc và hao hụt. Chỉ chờ thời tiết tốt là đón người, khởi hành. Bạn tôi không tin vào thiêng liêng, nhưng cũng nấu xôi, gà cúng để xin thánh thần phù hộ cho phút cuối đừng có gì xui xẻo xảy ra. Tôi cũng không tin, nhưng không dám chế giễu hoặc nói đùa. Chứ thánh thần nào mà ăn hối lộ xôi, gà? Thánh thần có thương thì chẳng cần hối lộ gì cả.


Sau buổi cúng, không biết vì rau ráng không sạch, hay vì thịt gà để nguội bụi bặm, đêm đó tôi đau bụng tháo dạ đi cầu. Tôi lần mò ra nhánh cây bổ vắt trên con kinh mà thả xuống lõm bõm, làm lũ cá vấy nước dành ăn kêu soàn soạt. Khuya không trăng, không sao, trời lành lạnh, tôi mồi thuốc hút làm đóm lửa bập bùng. Bỗng tôi nghe nhiều tiếng chân đi trên bờ, và nhiều tiếng thì thầm; tôi tưởng là du kích đi tuần ban đêm. Nhưng không phải, họ là đám người vượt biên đang trên đường đi đến điểm hẹn xuống thuyền. Họ thấy đóm thuốc liền kêu tôi tụt xuống cây, và bắt tôi đi theo luôn vì sợ bại lộ bí mật. Tôi năn nỉ, xin cho lui, hứa sẽ im lặng, vì tôi cũng còn nhiều việc chưa xong, không thể ra đi được. Họ không còn nhiều thì giờ để suy nghĩ, bắt tôi phải đi theo. Tôi nói cho họ biết, thời tiết lúc này chưa thuận tiện để ra khơi, tôi biết rõ vì có theo dõi tin tức khí tượng. Họ thấy tôi cù nhầy lôi thôi quá, có người hăm: “Cho nó một phảng, xô xuống kinh khỏi bận trí.” Tôi sợ, và im miệng, họ trói tay tôi đem đi. Thật là khôi hài; khi tôi muốn đi, thì không được, và còn phải tốn nhiều vàng bạc may ra mới chịu cho tham gia. Bây giờ tôi chưa muốn đi, thì bị bắt theo. Tôi tiếc công chuẩn bị và tổ chức bấy lâu cho chuyến đi sắp đến, nhất là trách nhiệm với những người mà tôi đã hứa hẹn đem họ đi. Tôi là người chủ chốt, thiếu tôi thì không biết chuyến đi có còn chu đáo, tốt đẹp như dự định không, nhưng chuyện vượt biên là may rủi không chừng. Có khi thật chu đáo, thì thất bại, có khi tổ chức đơn sơ lộ liễu, thì lại thành công. Bị bắt đi theo nhóm này là một chuyện may mắn hy hữu cho tôi nếu chuyến đi thành công. Còn thời tiết không tốt, thì tôi không ngại. Bão bùng đâu có đáng kể. Tôi bị xô lên thuyền lớn với đôi tay bị trói và nằm yên trong khoang. Nếu bị công an bắt, chắc tình trạng bị trói cũng chẳng giúp được gì cho tôi, vì Cộng Sản không bao giờ xét đến trường hợp cá biệt. Cứ trên tàu vượt biên là đi vượt biên, không lôi thôi gì cả. Nếu khai là bị bắt buộc đi, chúng còn không tin, thêm nghi ngờ, và không chừng án lại thêm nặng, hoặc không giải quyết được, cứ để cho dây dưa mãi, không có ngày về. 

Chưa bốc hết người thì bị bại lộ, thuyền phải rời bến và bỏ chạy. Nhiều gia đình thất lạc nhau, kêu khóc om sòm. Thuyền xả hết tốc lực, chạy dọc sông, thoát ra cửa biển. Trạm gác bên bờ bắn súng kêu vào để xét, thuyền cũng bỏ chạy luôn. Thuyền nhẹ chạy băng băng. Đạn bắn theo như mưa rào. Không hiểu vì đâu, chúng không cho thuyền đuổi theo. Có lẽ chúng tôi gặp may mắn.

 

Thuyền chạy thẳng ra biển khơi về hướng đông, đáng ra phải xuôi về phía nam, cần thoát hiểm trước đã. Sống dồn cao ngất. Đúng là biển đang động. Bão tố đang cuồng nộ đâu đó trên vùng biển đông nam Thái Bình Dương. Thuyền lắc lư vật vờ trên ngọn sóng. Những người yếu sức đều nằm mẹp, nôn thốc nôn tháo ra nước xanh, nước vàng. Thuyền nồng nặc mùi hôi hám. Sau khi thoát lưới công an, bà con hoàn hồn, kiểm điểm lại mới biết chủ tàu và gia đình chưa đến kịp, bị bỏ lại đằng sau. Chỉ có người con trưởng của chủ tàu, vì phải lái thuyền đáp bến, nên chỉ đi được một mình, vợ con anh cũng chưa đến kịp. Nhiều người khác cũng đồng hoàn cảnh. Trên thuyền chia làm hai phe, một nhóm đòi quay về, nhóm khác, gồm các sĩ quan cải tạo, nhất quyết ra đi. Vì vậy, nên thuyền chạy lui chạy tới mãi trên một quãng đường. Khi nhóm quân nhân lái, thì thuyền đi về phía Nam Dương; khi nhóm của con chủ thuyền lái, thì bí mật quay về.

 

Biển vẫn điên cuồng gầm thét dữ dội. Nhiều lúc thuyền bị đưa lên cao, tưởng như lơ lững giữa thinh không, rồi ném mạnh xuống kêu răng rắc, như thân ván uốn mình bể nát. Bà con nào còn chút tỉnh táo thì cầu nguyện liên hồi. Cộng thêm với cái sợ bão tố, nhóm lạc vợ, lạc chồng, lạc con có thêm nhiều lý do để đòi quay về. Tôi đã được cởi trói, và đứng theo phe ra đi, vì quay lại là nắm chắc phần đi tù. Hai phe tranh chấp dữ dội, có khi gần như sắp xô xát. Tôi linh cảm sẽ gặp khó khăn, kiếm một cái bình nhựa làm phao, kiếm dây cột chắc lên người. Một người giễu tôi là liệu với cái phao đó, tôi bơi được qua biển? Tôi thoái thác là nếu có bị sóng đánh rơi ra khỏi thuyền, thì cũng không đến nỗi chết đuối ngay. Cuộc tranh chấp của hai phe chấm dứt khi thuyền chết máy, bập bềnh giữa biển khơi. Không ai biết là thuyền đã ở nơi nào trên biển. Người thì đoán là đã ở trong vịnh Thái Lan, người thì cho rằng đang ở gần Côn Sơn. Thuyền cứ trôi theo từng đợt sóng dài. Thợ máy cố sửa chữa nhưng anh có vẻ vụng về thiếu kinh nghiệm. Có người bảo đó là thợ máy “dổm”, nghe đâu anh ta chỉ là thợ sửa xe gắn máy loại tài tử. Muốn được đi nên xưng đại là thợ máy.

 

Một buổi chiều, biển lặng im không một gợn sóng. Không một thoáng gió. Chiếc thuyền nằm im lặng giữa mênh mông. Nhiều người tỉnh lại, bớt say sóng. Họ mừng, có người vừa mừng vừa sợ, mừng vì biển êm, sợ vì không có gió thì thuyền bất động biết bao giờ mới dạt đến bến bờ. Nhưng tôi lo lắng thật sự, không dám nói ra. Trong mắt con ông chủ tàu cũng đầy ánh âu lo. Nhìn quanh bốn bề chân trời chấm xuống biển bao la. Tôi gỡ thêm mấy lưỡi câu và sợi dây cước bọc vào túi quần. Đúng như tôi lo, khi trời sẩm tối, cuồng phong kéo đến, sóng đùa cao ngất, nhồi con thuyền mong manh như chiếc lá. Sóng lên cao như ngọn đồi và tiếng gió hú ghê hồn. Thân thuyền kêu răng rắc, các mối nối long ra, nước ào ào từ đáy thuyền phun lên. Rồi con thuyền bị vỡ toang giữa tiếng sóng gió gào; tiếng kêu con người bị át hẳn.

Tôi tự xem như cuộc đời chấm dứt nơi đây, không có gì mà hoảng hốt, không thể nào làm gì hơn. Nhưng tôi không buông xuôi, vì bản năng sinh tồn còn mạnh. Tôi ôm chặt lấy mảnh ván thuyền lớn, dù trên lưng tôi còn buộc chặt cái phao nhựa. Nhiều lúc bị sóng vùi rất lâu trong nước, tôi rán nín thở, và nhớ thời còn bé hay đi tắm sông, lặn đua với bạn bè xuống đáy sâu. Sóng gió thét gào. Có chết cũng thôi, tôi chỉ tiếc chuyến đi đã chuẩn bị kỹ, chờ thời tiết tốt là lên đường, mà bị bắt theo những người này. Họ tổ chức đã kém, mà còn không biết gì về thời tiết. Tôi chiến đấu nhiều giờ với sóng vùi gió dập. Khi mỏi quá, tôi muốn ngất đi; tấm ván rời khỏi đôi vòng tay, nhưng cái phao nhựa còn buộc chặt trên người. Nhiều lúc tôi mê man, không biết gì, có khi trong lúc mơ hồ tôi biết mình đang bồng bềnh trên sóng. Lúc mệt quá, tôi buông xuôi, muốn chết đi cho khỏe. Cơn bão tố kinh hồn kéo dài đến khuya hôm đó.

 

Rồi gió và sóng lặng rất mau; cuối cùng tôi bị dạt vào một bãi cát. Tôi nằm liệt, không cử động được, trí óc mơ hồ và thiếp đi rất lâu cho đến khi trời sáng thì tỉnh dậy. Vừng thái dương đỏ ối vừa nhô khỏi chân trời ở phương đông. Ánh sáng ban mai vã vào mặt ấm áp. Tôi phải tập cử động từ ngón tay, rồi bàn tay, và tự xoa bóp khắp người, một lúc sau mới có thể chống tay ngồi dậy được. Tôi gắng quan sát chung quanh, không biết mình đang ở đâu, nhưng mơ hồ đoán được là đang ở trên một hòn đảo. Nếu ở đây cũng có chính quyền Cộng Sản, và bị bắt lại thì thà chết giữa biển còn hơn. Thôi thì đành liều, nếu có ở tù, thì cũng sẽ tìm cách vượt ngục, còn có cơ hội đi lại nữa. Nghĩ đến đó, tôi thấy mình thêm hăng hái. Tôi ráng lết vào một lùm cây để ẩn nấp. Bắt mấy con dã tràng nhỏ bỏ vào miệng nhai sống, ngon như ăn mỹ vị. Tôi liếm nước mưa đọng trên lá cây, ngọt như nước đường. Tai tôi lắng nghe, tìm xem có tiếng động sinh hoạt của loài người hay không. Chắc cũng có nhiều người dạt vào đây như tôi. Tôi cẩn thận nhìn quanh, rồi đi vòng theo bãi cát, khom người như đi phục kích. Đi chừng một tiếng đồng hồ, thì tôi bị dốc đá dựng đứng cản đường. Tiếng chim kêu xôn xao trên đỉnh cao. Chưa thấy một dấu tích sinh hoạt nào của con người trên đảo, và tôi chợt lo. Lẽ nào mình trở thành anh chàng Rô Binh Sơn (Robinson Crusoe) sống một mình ngoài hoang đảo như câu chuyện tôi thích thú đọc đi, đọc lại thời thơ ấu. Anh chàng Rô Binh Sơn còn có một số dụng cụ cần thiết, tôi đây thì chỉ có tấm thân và cái phao nhựa. Cảm thấy đói bụng vô cùng, nhưng không có gì ăn. Cá thì lội tung tăng từng đàn, nhưng với tay không, tôi còn chưa nghĩ được cách bắt. Tôi dùng cuội lớn, đập mấy con sò dính vào đá tảng, móc thịt sò ăn sống. Giá mà có chút chanh, chút muối và chai đế thì hưởng lạc có thua chi thi sĩ Tản Đà. Tiếng đập của tôi vang dội lên vách đá vọng lại mồn một, làm tôi lo. Khi đã bớt đói thì tôi đâm lo. Tiếng đập vang sẽ tố cáo tôi hiện diện nơi đây. Tôi đi sâu vào lùm cây, tìm một nơi kín đáo um tùm tạm thời ẩn nấp và nghĩ ngơi.

 

Nằm trên nhánh cây, tôi suy nghĩ, sắp đặt chương trình hành động đối phó với các trường hợp có thể xảy ra. Cùng lắm là bị bắt, khi đã chấp nhận có thể bị bắt rồi, thì lòng tôi lắng xuống. Nếu nơi đây có người ở, và có chính quyền Cộng Sản, thì tôi phải tiếp tục trốn tránh, rồi tìm cách, lấy một chiếc thuyền đi về đất liền, nhưng giờ thì phải tránh sao cho khỏi bị bắt trước đã.

 

Đã ở tù Cộng Sản một lần rồi, tôi ngán lắm. Trưa hôm đó, tôi leo lên đỉnh đá cao nhìn xuống, thấy xa xa bên kia, có bóng cây dừa, và hình như có bãi cát bằng. Tôi cẩn thận đi về hướng bãi dừa, đi rất chậm, nhìn quanh dò xét đặt từng bước, vạch cây, vén lá, cố không để lại dấu vết nào. Khi qua một quãng đất trũng, tôi thấy cả một vường khoai mì, có vẻ như mọc hoang, nhưng nhiều gốc mì trốc đất nằm ngổn ngang. Đúng là đảo có người ở. Tôi yên lặng nằm sát đất có cây cỏ cao che kín, đợi chờ xem có gì lạ không. Chỉ có tiếng chim kêu và mấy con sóc chuyền từ cành này qua cành khác.

 

Tôi ra rìa đá, nhìn xuống xa xa, thấy có căn chòi lá nhỏ, và một bóng người thấp thoáng. Tôi yên lặng quan sát và rình xem sinh hoạt động tĩnh. Bóng người đi vào căn chòi rồi khuất dạng. Tôi chờ đợi thêm nhiều tiếng mà không thấy gì, bèn đi vòng quanh, cố tìm hiểu dân số và tổ chức chính quyền trên đảo. Nhưng hình như chỉ có căn chòi duy nhất đó mà thôi. Tôi quay lại vườn khoai mì, dùng nhánh cây nhọn đào được mấy củ lớn, bóc vỏ và ngâm vào vũng nước cho bớt chất nhựa, rồi cẩn thận ăn thật ít, ăn thật chậm. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết say khoai mì có thể tán mạng dễ dàng. Thế này thì cũng không lo đói. Tôi leo lên nhánh cây có lá phủ kín nhìn xuống căn chòi, biết đâu đó là trạm canh gác của công an biên phòng Cộng Sản. Không biết vùng này thuộc lãnh thổ nước nào, Việt Nam, Cao Miên hay Thái Lan? Buổi chiều, khi nắng phai màu, tôi thấy có thêm hai bóng người nữa đi về căn chòi. Ba người ngồi trên tảng đá, hình như họ đang ăn và nói chuyện. Bóng chiều xuống dần, tôi tự họi, không biết mấy người này làm gì trên hoang đảo, họ là ai, có nhiệm vụ gì.

 

Hoàng hôn dần dần phủ lấp hải đảo. Khi trời tối hẳn, tôi lom khom đi về phía căn chòi, cố gắng để không gây tiếng động. Cố thở thật nhẹ, và chỉ di chuyển khi có gió gây tiếng động xào xạc trong tàn lá. Tôi nằm yên nghe ngóng. Họ đang nói chuyện, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng nói mà không biết họ dùng ngôn ngữ nào. Khi ba bóng người đi vào căn chòi, thì tôi cũng quay trở lại hướng núi đá cao, tìm một nơi ngủ qua đêm. Gió quá, tôi lần xuống bãi cát đào một cái hố chắn gió, và nằm ngủ ngon giấc. Suốt một ngày lo lắng, mệt nhọc, tôi ngủ thật say, gió biển lành lạnh. Sóng đập rì rầm, tôi nằm mơ thấy mình đang đi ngữa Sàigòn vào thời Cộng Sản chưa chiếm đóng.

 

Sáng dậy, tôi xoá dấu tích của mình trên cát, và vào rừng cây rậm ẩn nấp. Cái phao nhựa thành bình đựng nước. Tôi đập vỡ một số sò bám trên mặt đá, ăn với khoai mì sống đã được ngâm nước từ hôm qua. Leo lên dốc đá, tôi nhìn xuống căn chòi rình rập. Mấy cây dừa sai trái, thân cao vút, làm tôi thèm lắm, nhưng không biết làm sao hái được. Đã là dân thành thị không biết leo trèo, lại còn phải ẩn nấp dấu diếm, thì mong chi có dừa ăn. Nhưng dù sao đi nữa, đêm nay tôi sẽ cố gắng, tìm cách leo thử. Hình như đã có lần tôi thấy người ta dùng một vòng dây máng vào hai chân, móc quàng qua thân cây mà leo lên dần. Tôi cẩn thận đi vòng xuống bãi bên kia, thấy rau lang và giàn dưa leo. Tôi hái dưa ăn, dưa thơm và ngọt lịm như tôi chưa từng ăn bao giờ, tôi bỏ thêm mấy trái vào túi quần và thử mò xuống cát xem khoai lang đã có củ chưa, nhưng chỉ thấy toàn dây và rễ nhỏ.

 

Có lẽ vì ăn quá nhiều khoai mì sống, buổi trưa tôi thấy say say và buồn ngủ. Tôi nằm dài trên tảng đá bằng phẳng, đánh một giấc ngon lành, không biết ngủ được bao lâu. Đang nằm ngủ mê man, bỗng tôi chợt thức giấc và có linh cảm như ai đang nhìn mình. Tôi vùng ngồi dậy khi thấy có đôi mắt nhìn sát vào mắt tôi. Tôi chợt nhận ra một chú bé chừng mười lăm tuổi. Nó hốt hoảng thối ui, và vấp chân té ngửa. Nhanh như chớp, một viên đá lớn từ xa bay đến đánh bốp vào đầu tôi, làm tôi ngã xuống, hai tay ôm đầu rên rỉ, máu chảy ướt tay. Trán tôi sưng vù như quả ổi, đầu nhức nhối, cố gắng chống tay dậy, nhưng không dậy nổi. Chuyện gì xẩy đến đây. Dân làng họ có bắt tôi giao cho chính quyền không? Tôi chợt ân hận đã hớ hênh nằm ngủ quên. Tôi nằm quằn quại trên tảng đá. Thôi thì đành liều. Có bị bắt thì sẽ tính sau. Tôi nghe đối thoại bằng tiếng Việt, giọng rất khó nghe, mới hiểu rằng, chị cậu bé tưởng tôi tấn công, nên ném đá yểm trợ cậu em. Một lúc sau có tiếng đàn ông, và tôi được đắp lá nhai dập lên vết thương. Tôi hé mắt nhìn, thấy một người đàn ông tóc tai phủ ra sau vai, râu ria xồm xoàm như người vượn, mặt sạm đen, đóng một cái khố nhỏ bằng da thú, chỉ có đôi mắt sáng đợm ánh lạ kỳ. Cả ba người đều đóng khố, thân trên để trần. Có lẽ thổ dân trên đảo, hoặc giống dân thiểu số trong vùng này. Khi bớt đau đớn, tôi cho họ biết là bị đắm tàu, dạt vào đây. Họ dìu tôi về căn chòi mà hôm qua tôi rình rập dò xét. Chú bé đưa cho tôi nước uống trong chén vỏ dừa. Người đàn ông tự giới thiệu là ông Tư, sinh quán trên đảo này. Ông nội của ông Tư ngày xưa làm quan võ, phò tá vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Khi vua bị Tây bắt, ông cụ cùng một nhóm quan sĩ tiếp tục kháng chiến theo hịch cần vương. Sau đó, theo cụ Phan Đình Phùng khởi nghĩa kháng chiến trong nhiều năm. Cuối cùng, khi tan rã, cụ nội đem gia đình và một nhóm thuộc hạ xuống thuyền đi Xiêm La, nhưng gặp bão giữa đường, phải ghé lại đảo này. Sau đó không đi được vì thuyền chìm. Ban đầu có bốn gia đình lập cư. Dần dần chết hết, chỉ còn ông Tư và hai người con. Bà Tư trẻ hơn ông Tư chừng hai mươi tuổi, nhưng mất sớm.

 

Trên tường đá treo mấy cây kiếm và bao kiếm chạm trổ rất tỉ mỉ và đã hoen ố bụi thời gian. Không là chuyên môn, tôi cũng đoán ra được đó là những thanh bảo kiếm. Ông Tư cho biết, một trong những thanh kiếm là của ông Tôn Thất Thiệp, kiếm phò vua. Mấy đời cha ông, mong có cơ hội trở về đánh đuổi giặc Tây ra khỏi nước. Khôi phục gian sơn. Ông nói rằng, có lẽ đời ông không làm gì được nữa, chờ cho thằng Ba lớn lên, mong nó nối mộng cha ông. Ông thở dài não ruột. Thì ra, ông không biết gì về tình hình thế giới, tình hình đất nước trong gần tám mươi năm qua. Tôi chậm rãi cho ông biết, Tây đã về nước hơn hai mươi năm rồi. Bây giờ thì Cộng Sản cai trị đất nước, họ còn tàn bạo, khắt khe và áp bức hơn cả giặc Pháp. Nhân dân đau khổ và đói rét hơn cả thời nô lệ ngoại bang. Có lẽ ông Tư không hiểu nhiều về những lời tôi nói vì không lẽ dân mình cai trị nhau mà khắt khe tàn bạo hơn ngoại quốc thực dân. Nhưng ông cũng vui khi nghe giặc Tây đã ra đi, và theo ông, thì nay không còn băn khoăn, cánh cánh bên lòng vì lời di huấn của tổ tiên. Yên tâm sống. Ông không còn sợ tuyệt tự, không còn ai nối chí cha ông. Tôi cảm thương tấm lòng của ông Tư. Giấc mơ đuổi giặc Tây đã truyền qua ba đời mà vẫn chưa nguội lạnh. Tôi cũng mang một giấc mơ tương tự, đuổi giặc Cộng ra khỏi quê hương. Chính ông Tư cũng không biết tuổi tác của ông và cả hai con ông. Ngày tháng cứ trôi đi, không ai để ý đến thời gian. Cô Hai, theo tôi đoán thì xấp xỉ trên dưới hai mươi, và chú Ba, thì khoảng mười lăm. Thân mình cô Hai mảnh khảnh, chắc như tượng đồng. Mái tóc đen dài thả lỏng trên lưng. Vầng trán cao, bóng. Đôi mày cong che đôi mắt long lanh sáng, trong mắt như có nụ cười. Hai làn môi thanh tú. Cổ cô dài nối liền tấm ngực mà hai vú lớn cong ngược lên. Lưng thon, mông chắc chắn, đôi chân dài. Cô Hai chỉ đóng cái khố da thú nhỏ che ngang người. Chú Ba thì như con gà mới lớn, lỏng thỏng, dáng dấp vụng về, chỉ có đầu tóc dài không cắt làm cho thêm phần hoang dã.

 

Tôi được gia đình này đón nhận với lòng hoan hỉ. Ông Tư tường nhìn tôi với ánh mắt tràn đầy tình cảm dịu dàng. Cậu Ba quấn quýt quanh tôi, không rời nửa bước, và hỏi, nói đủ thứ chuyện. Phần cô Hai, thì rất tự nhiên, không có chút e lệ nào, hình như không biết phân biệt trai gái và có những đụng chạm cùng tôi, mà đôi khi tôi ái ngại. Để hoà hợp, tôi chỉ đóng cái khố nhỏ qua người. Tham gia sinh hoạt trong gia đình này. Tôi từ từ kể cho ông Tư nghe về diễn biến lịch sử xảy ra cho đất nước từ khi Tây chiếm Việt Nam, những phong trào khởi nghĩa chống Pháp, Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản vào, rồi Pháp trở lại, chiến tranh dành độc lập, Pháp rút về, tiếp theo là cuộc nội chiến gần 20 năm, Cộng Sản miền Bắc thắng. Dân niềm Nam không chịu nổi chính sách hà khắc bỏ nước ra đi. Ông Tư thì còn hiểu nhiều, chú Ba và cô Hai thì nghe, mù mờ, ngơ ngác. Tôi cũng bỏ nước trốn đi như ngày xưa cụ tổ của gia đình này, vì không chịu được giặc Pháp. Không phải chỉ mình tôi, cả nước muốn trốn đi, tránh cái chế độ khắt khe chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

 

Tràm cà Mau

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jul/2023 lúc 7:18am

Người Lính Dù Và Cô Gái Tên… Tui

Lính%20dù%20Nga%20lần%20đầu%20huấn%20luyện%20nhảy%20dù%20trên%20máy%20mô%20phỏng

Chắc là lúc Ba Má tui muốn chứng tỏ tình yêu của hai người mặn nồng tha thiết lắm cho nên lúc mới lấy nhau đã dự định trước sẽ đặt tên con là gì cho có nghĩa ý nghĩa tình của hai người. Anh Hai tui tên Thương, Lê Hoài Thương. Còn tui thay vì bị đặt tên là Lê Hoài Yêu nhưng may quá Ba Má tui bẻ quẹo qua tên khác đặt tên là Mến, Lê Thị Mến. Thôi vậy cũng được đi, tên Mến dù sao cũng dễ nghe hơn tên Yêu, yêu ma, yêu quái, yêu tinh, yêu nữ, chắc là tui sẽ khổ sở lắm nếu tui tên là Yêu, chúng bạn sẽ đem tên của tui ra mà chế diễu hoài. Mặc dù tui cám ơn Ba Má đã không đặt tên tui là Yêu, nhưng tui chẳng mấy khi thích tên Mến này lắm vì nó làm cho tui bị trở ngại cái miệng nếu nói chuyện xưng tên với ai nhất là đối với mấy người con trai, gì mà cứ Mến… Mến hoài nghe kỳ cục làm sao. Còn xưng em thì lại càng kỳ nữa, chưa chi mà đã lả lơi xưng em, người ta tưởng mình chịu người ta rồi người ta làm tàng với tui, tánh tui không thích con trai làm tàng với tui. Một đôi khi tui có xưng em với anh Hai, anh trai của tui thôi, những khi muốn nịnh muốn lấy lòng anh của tui, còn không thì xưng tui với anh nhiều hơn vì anh ấy hay làm mặt tài khôn rầy rà tui hoài. Anh hai của tui thích có người xưng em với ảnh lắm. Có lần anh Hai tui nói, “Mầy cao lêu ngêu, ốm nhôm ốm nhách, nói năng ngổ ngáo, cũng thời là tiếng tui mà tui của người ta nghe nhẹ nhàng êm ái làm sao, còn tiếng tui của mầy nghe như nặng ngàn cân! Tao định cua cô gái nào mà nghe cô ấy xưng tui nặng nề như mầy là tao gài số de, con gái gì mà nói năng nghe cộc lốc chẳng thanh tao gì hết. Tao là con trai tao nói tâm lý của đàn ông con trai ra chỉ dạy mầy, mầy không nghe nữa mầy sẽ ở giá, ráng mà chịu nghe em”. Với tất cả bạn cùng trường cùng lớp, lớn hay nhỏ tuổi hơn tui đều xưng tui hết, có sao đâu, tui là tui chớ có ai vô đây. Chỉ có một mình anh Hai tui chê tui thôi, chứ ngoài ảnh ra chẳng thấy ai xách mé gì tui cả.


Anh Hai của tui đi lính Biệt Cách Dù, coi bộ anh hảnh diện với binh chủng của anh chọn. Mấy người bạn trang lứa của anh cũng vậy, hình như mấy anh đó hẹn nhau cùng đăng một thứ lính nên họ thân nhau lắm. Má tui nói sao tụi con chọn lính thứ dữ dằng mà đi, làm Má lo quá. Mỗi lần mấy anh nào có dịp về phép là hay tụ tập tại nhà Ba Má tui, nghe mấy anh nói toàn là chuyện đánh đấm với nhau, trận này trận kia, không giống như bọn con gái chúng tôi lại hay nói về anh chàng nầy, anh chàng kia, chuyện tình yêu, chuyện bồ bịch, chuyện thích có người yêu ở binh chủng nào, lính nào mũ màu gì. Anh Thương hay lập đi lập lại câu dặn dò ngăn cản tui, sợ tui để ý mấy anh bạn của ảnh: “Mầy đừng để tụi nó… dê mày nghe, lính tráng sống nay chết mai, mầy lo đi học đi, đừng bày đặt yêu đương sớm sẽ khổ”. Tui nghĩ thầm, mới bữa hổm nghe ảnh nói với mình coi chừng bị ở giá, bây giờ lại biểu đừng để ai dê mình !


Trời Sàigòn mùa này hay mưa nhưng không mấy ai phàn nàn vì mưa làm dịu đi cơn nóng hực của thời tiếc lúc này, mưa đó rồi tạnh đó, chiều tối đến sẽ làm mọi người dễ chịu hơn. Chiều hôm nay tui vừa dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà thì cơn mưa đổ xuống như trút, thôi thì phải chờ cho tạnh mưa mới đi được chớ không ướt hết áo đẹp của tôi. Ba năm nay rồi, từ ngày làm bạn với Phượng năm nào tui cũng có đi dự tiệc mừng sinh nhật của Phượng tổ chức tại sân sau rộng rãi nhà của ba má Phượng. Phượng là cô gái xinh đẹp lại may mắn sinh ra trong một gia đình khá giả. Tiệc sinh nhật có ban nhạc do mấy anh chị của Phượng và bạn đến giúp vui, ca hát, ăn uống năm nào cũng vui lắm, tui thích và tui có hát một hoặc hai bài. Hát chắc cũng nghe tàm tạm được thôi, vui mà. Từ xa đã thoáng thấy màu sắc hồng đỏ của hai cái nơ to cùng với vài cánh hoa hồng nhạt gắn hai bên cột trước cổng nhà Phượng. Nhà giàu có khác, nhìn vào là biết nhà này đang có liên hoan tiệc tùng gì đây. Thấy có vài đứa bạn vừa rẽ vô cổng nhà Phượng, tụi nó chắc cũng bị trận mưa vừa rồi nên đến trễ như tui vậy.

Lòng thấy nôn nao vui lạ, vừa lúc chỉ vài bước nữa thôi là tới cổng vô nhà Phượng bổng dưng bên tai tôi nghe vừa như tiếng người nói trong máy, vừa như tiếng xe hơi chạy nhanh tông vào chiếc xe đạp của tui, tui té lăn nhào vào bên đường, chiếc xe đạp của tui bị quăng cách đó không xa. Tui cảm thấy đau nhẹ ở bên cánh tay trái thôi, không sao. Phản ứng tự nhiên, tui lồm cồm gượng đứng lên liền, sợ bị dơ áo. 

– Cô ơi, cô có sao không?Tui không thèm nhìn lên, cúi xuống lấy khăn tay ra lau áo. Áo tui bị dính nhiều vết bùn bởi đất còn ướt sau cơn mưa vừa qua. Ông lính hỏi tui không thấy tui trả lời, ông dựng chiếc xe đạp lên. Lại hỏi một lần nữa, cô có sao không? Tui còn cúi xuống vừa lau áo vừa nói.- Có sao gì, áo tui dơ hết rồi.

 – Có lẽ tại anh tài xế chạy hơi nhanh cô hốt hoảng nên bị ngã.

 Tui nhủ thầm, cái anh chàng này chưa chi mà đã biện hộ, đúng là trai Bắc Kỳ khéo nói.

 – Tui có đổ thừa ông đâu mà ông chối trước rồi. Ông thấy chưa, lái xe gì mà ẩu tả quá vậy!

– Xin lỗi cô, vì chúng tôi vội vã.

 Tui nói, “tui đâu có thì giờ về thay áo, mặc áo dơ như vầy vô dự tiệc coi sao được”.

 – Cô, khăn tay của cô lau từ giờ bị bẩn rồi, cô dùng khăn tay của tôi lau sạch vết bùn bên má trái của cô đi, mặt cô có lấm bùn. Tự nảy giờ tui lo cho áo của tui mà quên đi trên mặt tui, lấy vội khăn tay của người lính tui lau mặt lia lịa. Vừa lau tui vừa thoảng như có mùi thơm tưởng như là quen thuộc, không phải mùi dầu thơm đâu, chắc mùi da thịt của ông nầy, thấy ông lính này đang nhìn tui, tui hỏi: 

– Bộ mặt tui dính dơ thấy ghê lắm sao mà nhìn dữ vậy? Ông lính chỉ nói gọn một tiếng, Không. Tui nhìn ra chiếc xe Jeep thấy có một người lính tài xế, và một người lính nữa ngồi phía sau, có máy móc gì đó với mấy cây cần câu dài. Hai ông lính ngồi trên xe cũng đang nhìn tui, bị tui bắt gặp họ quay mặt nhanh ra hướng ngoài đường kèm theo nụ cười giống như là đang chế diễu tui vậy đó. Tui vừa đưa trả lại khăn tay cho ông lính mặc đồ bông vừa nói, thôi tui chào ông nghen tui phải vào tiệc trong này, tui bị trễ giờ rồi.

– À, cô… Tui, tôi chỉ có một cái khăn tay này thôi, cô mang về nhà giặt sạch rồi hôm nào tôi đến nhà để lấy lại có được không cô? 

– Cái ông này, tui có nợ nần gì với ông mà đòi đến nhà tui đòi?

– Chúng tôi đang hành quân không xa Saigon mấy phải có việc về đây gấp và tôi phải trở lại đơn vị ngay chiều hôm nay cho nên không đến nhà cô được vào ngày mai để chờ cô giặt nó xong trả lại tôi.Tui nói:- Ủa, sao kỳ cục vậy. Tui có mời ông đâu mà ông đến nhà tui? 


Trời lại đổ mưa. Mưa đủ làm ướt áo. Thoáng như không muốn xa rời. Vừa lúc đó mấy đứa bạn đã thấy bóng dáng tui trước khi vào nhà mà lâu không thấy tui đâu, tụi nó vài đứa đi ra ngoài cổng trông thấy tui, tụi nó um sùm la lên, mày làm gì nãy giờ ở ngoài nầy mà chưa thấy vào? mày đang nói chuyện với ai vậy, quen hả? “Không!” Nói rồi tui sợ tụi nó hỏi tới, tui vội quay vào cùng với mấy tụi nó để người lính dù nhìn theo. Trước khi sắp khuất cánh cửa nhà Phượng, tui quay lại thấy ông lính vẫn còn đứng đó, trời vẫn còn đổ mưa. Mưa chỉ vừa đủ ướt áo.


Thoáng chạnh lòng, tim tui bồi hồi. Tự dưng tui có cảm tưởng như tui đang đánh mất một thứ gì quý giá nhất trong đời; tui muốn chạy trở lại để đứng cạnh chàng mà nói… nói gì… tui cũng không biết nữa… Tui muốn gặp lại chàng lính này. Ngần ngừ một hồi, trong khi mấy đứa bạn vừa đang ngồi vào bàn, tui chạy vội ra ngoài cổng. Chiếc xe jeep đã rời… vừa khuất xa tầm mắt. Anh lính mặc đồ bông đã đi rồi. Tôi còn cố nhìn theo. Thoáng như có gì vấn vương. Thoáng như có gì lưu luyến. 

Cảm thấy bơ vơ lạc lỏng giữa đám bạn đang cười nói, tui định lấy lý do để rời sớm. Phượng hỏi, “Ông lính nào vậy? Lính gì vậy, mầy quen hả?” “Tui không biết lính gì, thấy anh chàng mặc đồ bông, trước ngực có hình dù, chắc là lính Nhảy Dù.” Con Hồng trờ tới nói, “Mi phải nhìn bên vai hắn mang huy hiệu gì, đội mũ màu gì chớ không phải ai đeo hình dù trước ngực cũng là lính Nhảy Dù đâu”. Tui nói, “Hình như tui không thấy mũ, mà bên vai cũng chẳng để ý coi cho nên không biết, hồi nãy tui chỉ lo ‘quạu’ thôi vì áo tui bị dơ. Bây giờ tui cảm thấy tiếc tiếc đã mất dịp làm quen với anh chàng.” Mấy đứa bạn tui nói…Tụi bây ơi, vậy là cô nàng cảm anh chàng rồi. 

Anh Hai tui lúc này về Saigon để học bổ túc cái gì đó trong vòng một tháng. Có anh về, Má tui bận rộn hơn vì lo nấu nướng mấy món ăn anh Hai tui ưa thích. Nhà có mặt đủ bốn người trong bữa cơm chiều nên ai cũng vui. Tui ngần ngừ hỏi: 

– Anh hai, có phải lính mặc đồ bông mang hình dù trên túi áo là lính Nhảy Dù, phải không anh? 

– Không hẳn vậy.Tui lại hỏi:- Làm sao mà mình biết đó là lính Nhảy Dù hả anh? 

Anh vừa cười vừa nói: 

– Bộ mày đang để ý anh chàng mặc đồ bông nào chớ gì? Sao mày không hỏi nó, đừng xưng tui nặng ngàn cân với nó là nó sẽ vui vẻ khai hết lý lịch ba đời của nó cho mày nghe.

– Tui quay mặt đi chỗ khác, anh thấy tui có vẻ giận, anh đến ngồi kế bên nói:

– Anh nói với em nhiều lần rồi… em yêu lính, lấy chồng lính khổ lắm, nó vắng nhà thường xuyên hoặc là em sẽ trở thành góa phụ. Em không biết chớ anh cũng đang có một cô người yêu lúc học năm cuối trường Võ Bị, anh muốn đưa về nhà giới thiệu với Ba Má người anh muốn lấy làm vợ, suy nghĩ tới suy nghĩ lui, ba hồi muốn, bốn hồi không vì anh không muốn người vợ anh sẽ lâm vào cảnh góa bụa và con anh là những đứa trẻ mồ côi cha. Hằng ngày anh đối diện với cái chết trong gang tấc. Nhiều lúc anh cũng sợ hãi cho chính bản thân mình, rồi lo cho những người liên hệ thân thuộc với mình sẽ ra sao khi mình chết đi. Lo học hành đi em. Tui nói,

– Thì vừa học vừa yêu có sao đâu. Em thấy mấy đứa bạn em, tụi nó yêu hết người này đến người kia, mà tụi nó vẫn học giỏi như thường. Còn em, em không có bồ mà em học có giỏi hơn ai đâu. 

Hơn một tuần nay, ngày nào tui cũng có nghĩ đến chàng, cứ tiếc làm sao là tiếc. Tui mất dịp làm quen với chàng. Ừ, mà không biết chàng ta có muốn quen với mình không hà. Hình như anh chàng thích mình thì phải. Mà thôi, nghĩ tới nữa mà làm gì, mình và chàng có biết gì nhau hơn, ngay cả tên mà chẳng ai biết rồi mất biệt luôn. Chỉ vài phút ngắn ngủi gặp nhau lúc ban đầu mà có thể phải mất ngàn giờ để quên nhau. Tui nghĩ tại sao tui tiếc nhớ gì mà cắc cớ thiệt, làm như đây là lần đầu tiên tui mới gặp và nói chuyện với người con trai trong đời thì phải. Thôi, quên chàng đi. 

– Có người gửi thư cho bồ. Phượng vừa nói tay cầm cái thơ vờn vờn trước mặt tui. Tui nói: 

– Thì bồ đọc đi.

– Này, không phải của tên đó nữa đâu nha, người khác, người này lạ lắm, chịu nhận không? Có phải tên bồ là Tui không?

– Bồ nói cái gì tui không hiểu? Tôi hỏi.

– Có một ông lính chiều qua đến nhà mình đưa lá thư này cho đứa em trai của mình nhờ đưa dùm đến cho một cô mà hơn tuần trước có đến dự tiệc tại nhà này, cô ấy bị ngã xe đạp nên mặc áo hoa bùn. Em mình đưa thư cho mình và nói, “Em không hiểu anh lính nói gì hết, chưa kịp hỏi lại thì anh ta vội lên xe chạy mất”. 

Ngoài bì thư phía sau có vẽ một hình hoa dù, tên người gởi tôi đoán là tên của chàng. Mà kỳ thiệt, chỗ tên người nhận tên là…Tui. Trong thư chỉ vài giòng chữ ngắn gọn: “Gửi cô Tui, cánh tay cô đã hết đau chưa? Cho tôi biết địa chỉ nhà, tôi sẽ đến thăm. Tôi muốn làm quen với cô Tui. À nhớ cho tôi biết tên nhé, chả lẽ cô để tôi gọi cô là Tui mãi sao!”. Dưới chỗ ký tên, chàng lại vẽ một hình hoa dù rất đẹp. Chỉ có mấy chữ cụt ngủn cụt ngẳn thôi mà làm tui cứ đọc tới đọc lui hoài. Tui cũng muốn quen với chàng vậy, nhưng tui phải “làm cao” một chút chớ. Tui thư trả lời chàng: 

– “Gửi anh lính dù. Nếu anh muốn biết tên tui thì hãy đến nhà tui. Đây là địa chỉ của tui. Ba Má tui rất khó, ông anh Hai của tui cũng khó và dữ nữa. Nói cho anh bíết, anh hai của tui là lính Biệt Cách Dù đó nghen. Ký tên, Tui”.


Có lẽ vì hồi nhỏ ở dưới quê cây trái xung quanh nhiều, mỗi lần muốn ăn thứ trái cây nào là tui leo lên cây hái xuống ăn, riết rồi thành thói quen. Bên hông nhà, Ba tui có trồng một cây mận, mùa này mận ra trái nhiều đỏ cả cây, Má tui thường hay vói tay hay dùng lồng hái những trái mận đỏ ối đem chưng trên bàn thờ, còn tui thì ngày nào cũng leo lên cây, không hái trái thì cũng thích ngồi trên đó một mình nhìn ra ngoài, ngó xuống dưới, hoặc ngã người nhìn lên trời cao, bên tai nghe tiếng lá cây gọi nhau xào xạc thật là thú vị. 

Tui nghe tiếng xe Honda vừa ngừng lại trước nhà, nhìn xuống thấy người lính mặc đồ bông bước xuống xe. Ô, đúng là chàng. Vừa lúc đó, Ba của tui cũng vừa mới dắt chiếc xe đạp ra ngoài, gặp Ba tui chàng vừa gật đầu chào ú ớ chưa biết phải hỏi như thế nào thì Ba của tui vội vàng nói: “Cháu muốn gặp thằng Thương hả? Chút xíu nữa là nó về tới, vào nhà chờ đi. À, hay là cháu đi qua bên phía bên hông nhà có bác gái và em Mến đang ở ngoài đó. Bác có hẹn đến nhà người bạn có chút việc rồi bác trở về ngay.” Anh chàng cứ dạ vâng chớ có nói được tiếng nào đâu mà lại được biết tên tui nữa chớ, làm tui mất dịp làm khó chàng. Mà quên nữa, tui đang ngồi ở trên cây, không leo xuống nhanh được vì lần này tui có mang theo cái rổ đựng đầy mận. Anh chàng nhanh chân thiệt, làm tui đang lính quýnh chưa biết cách nào cho chàng không nhìn thấy tui, thì chàng đã bước qua bên hông nhà rồi, chàng đảo mắt nhanh qua một lượt không thấy tui, chàng đưa mắt nhìn lên cây. Mến. Tiếng gọi của chàng nghe sao mà đầm ấm và tha thiết quá làm tui đang ở trên cây nhìn xuống mà nhịp tim tui cứ đập thình thịch. Anh dang tay định đỡ tui xuống nhưng tui mắc cở vì con gái mà leo cây cho nên tui nói, “Anh quay mặt qua chỗ khác đi tui mới leo xuống được!” Nghe lời tui anh quay mặt đi chỗ khác. Xuống chưa tới đất, tui vội vàng nhảy xuống cái phịch, bị trật chân, tui bị đi cà nhắc. Chàng chạy lại nắm tay tui dìu vào nhà lấy dầu nóng xoa bóp chân rồi lấy băng quấn vòng quanh mắc cá chân cho tui. Chàng nói, bộ em hay leo trèo lên cây lắm à? Thôi đừng trèo lên đấy nữa, nhỡ em ngã từ trên cao xuống thì sao! Anh về phép chỉ được một tuần thôi, mục đích lần về phép này là để tiếp tục làm quen với em cho được, hôm lần đầu, lần gặp em đó, về vì công tác cần phải trở lại đơn vị liền cho nên anh không ghé về thăm Mẹ của anh được, anh còn bà mẹ và một người chị có chồng có được hai cháu, nhà chị ở gần bên mẹ nên chị gặp mẹ anh hàng ngày. Lần này, anh phải dành một ngày cho mẹ anh nhưng anh đến thẳng nhà em trước để biết cho chắc đây không phải là địa chỉ… giả. Anh nói đùa chớ anh bíết em không làm thế vì anh đã nhìn thấy trong mắt em. Tui hỏi, anh thấy gì? Anh thấy… em đã bán ánh mắt em cho anh rồi. Tui hỏi, vậy chớ anh có mua ánh mắt đó không? Anh nhìn tui âu yếm nói, anh mua đứt và anh đoán chắc phải vĩnh viễn là của anh, phải thế không, em Tui của anh? Rồi từ đó, có khi anh gọi tui bằng Mến mà cũng có khi anh gọi tui bằng Tui. Tui đoán, anh cũng thích tui xưng tui với anh lắm chớ bộ.

 

Khi trở về đơn vị anh thường thư cho tui. Có lần anh được ba ngày phép, cùng tui dạo phố, anh đưa tui về nhà gặp Mẹ và chị của anh. Mọi người trong gia đình anh đều có vẻ quí mến tui. Đối với bạn bè tui rất hãnh diện được có chàng, một người lính mũ đỏ có gương mặt nam tính, dáng dấp hiên ngang nhưng tình cảm thật là bao la. Tui yêu những cánh hoa dù do chàng vẽ. Chàng nói ở trên không gian có vương nhiều vết giày của chàng. Ở trên không gian có tiếng của chàng gọi tên tui. Tui hỏi anh gọi như thế nào. Anh cười vui nói: “Tui của anh ơi, Tui của anh ơi !” Nói xong, cả anh và tui cùng cười vang. Tui có đề nghị với chàng và cả hai đứa tui cùng đồng ý là sau này nhà của tụi tui ở mỗi phòng đều có chưng hình những cánh Hoa Dù, những cánh Dù em thích phải là màu xanh, xanh lợt, xanh đậm, xanh dương, xanh két, hay xanh gì cũng được, miễn là màu xanh, nghen anh. Anh nói, ừ, anh cũng thích màu xanh.

***

Hơn bốn tháng nay, kể từ ngày anh Hai tui trở lại đơn vị, Ba Má tui chỉ nhận được thư của anh có một lần. Trên bàn ăn, Má tui nhớ đứa con trai cưng, cứ nhắc anh Hai tui hoài, chỉ có cái chuyện lúc anh Hai tui còn đang học ở trường Võ Bị Đà Lạt, lần nào được về phép anh đều có mang quà từ Đà Lạt về cho Má, khi thì áo ấm khi thì khăn choàng cổ đan bằng tay nên Má tui rất thích và rất quý. Má tui hay nhắc đi nhắc lại, là đàn ông con trai mà anh Hai con biết lựa chọn biết mua quà về cho Mẹ của mình còn gì thương hơn. Ba tui nói, “Tụi Việt Cộng nó sợ lính Biệt Cách 81 lắm đó nghen, đánh giặc cừ lắm làm tụi nó thất điên bát đảo. Nghe nói đang có đụng trận lớn hình như ở Phước Long, Bình Long gì đó, vái trời đừng có con mình trong đó!” Nói xong cả Ba Má tui không ai nói thêm tiếng nào nữa, tui nhìn thấy sự lo âu trên gương mặt của hai người.

 

Hôm nay đi học về, thấy có mấy người hàng xóm bu lại trước sân nhà. Vào trong nhà. tui thấy Ba tui ngồi im lặng, cái im lặng chịu đựng sự đau khổ của người đàn ông, còn Má tui người đang vật vã, người đang khóc la. Trời ơi, chuyện gì vậy? Anh Hai của tui. Anh Hai của tui ơi! 

Ngày nào Ba của tui cũng ngồi hàng giờ trước bàn thờ anh Hai, bàn thờ hai bên còn thắp hai cây đèn cầy nhỏ với khói hương nghi ngút. Ba tui cứ ngồi đó nhìn hình anh Hai tui hoài, lâu lâu người lại thở dài. Còn Má tui cứ khóc nho nhỏ, có đôi lúc người như tức giận điều gì gào khóc kêu la lớn tiếng hơn. Cây mận không còn trái đỏ nữa. Tui ngồi ủ rũ trên băng ghế dưới tàng cây nhớ lại kỷ niệm, nhớ những lời dặn dò rầy la mà thương tiếc. Nhà chỉ có hai anh em mà lần này anh bỏ đi luôn rồi. Người ta nói anh Đền Nợ Nước, sao anh không sống để lo đền nợ, đền ơn cho Ba Má nữa chớ, phải không anh Hai? Tui nhớ thương anh Hai tui quá, tui không kềm giữ được những giọt nước mắt.

 

Nghe nói lúc này giặc từ miền Bắc cứ tràn vào tấn công miền Nam càng ngày càng đông hơn. Sau cái chết của anh Hai, tui lại càng lo sợ cho người yêu của tui nhiều hơn. Tui cứ thầm khấn vái, tui bị mất một người anh ruột thịt rồi thì đừng để cho tui phải mất thêm một người thân yêu nào nữa hết. Tui viết cho chàng… Tại sao kỳ vậy. Tại sao miền Nam của tui cứ bị người ta tham lam muốn chiếm lấy? Tại sao không ai ở đâu thì cứ ở đấy, phải dành giựt làm chi cho phải bị chết, kẻ xâm lăng người tự vệ làm cho máu đổ, chết chóc, làm cho cha con chồng vợ phải xa lìa vĩnh viễn người thân yêu của mình? Có lần trong thư anh viết, “những lúc không đụng trận anh mới có thời giờ nhớ tới em, rồi nghĩ tới em anh lại đâm ra sợ hãi cái chết đến với anh. Anh muốn thoát khỏi nơi nầy để chúng ta được mãi sống đời bên nhau. Thật đó em ạ, nhớ tới em, thương nhiều lắm, rồi anh sợ chết, anh muốn buông súng, nghĩ tới đấy anh lại thấy mình hèn nhát quá phải không em? Nhưng đến khi đụng trận anh không thấy sợ cái gì cả, lúc đấy anh cùng với các bạn đồng chiến đấu chỉ biết sát cánh bên nhau sống chết bên nhau. Lúc đấy anh không còn nhớ tới em, anh chỉ biết anh đang chạm mặt với kẻ thù, kẻ xâm lăng là phải chết và anh phải là kẻ sống. Trước kia, Ba Mẹ anh đã phải lìa xứ Bắc vì không chấp nhận sống chung với Cộng Sản, thế mà chúng vẫn không buông tha. 


Ở Sàigòn chỉ biết có chiến tranh. Ở Saigon không thấy có chiến tranh, biết có đánh nhau nếu khi đi ngang qua trên đường thấy những đám tang của những người tử trận từ mặt trận nào đó, xác họ được mang về cho thân nhân làm lễ an táng. Một nghĩa tử nghĩa tận. Một lần cuối cùng cho những người sống lo cho người chết đi vào lòng đất. Một lần rồi thôi. Con người ta có thể có nhiều lần làm đám cưới, nhiều lần lấy nhau, nhiều lần vui cùng nhau trong cuộc đời. Nhưng chỉ có một lần chết. Một lần đám tang trong cuộc đời. Những đám tang có hình người quá cố trong bộ quân phục đi ngang qua trên đường đủ để cho mọi người biết chiến tranh đang đến mức độ nào ở một nơi nào đó, rồi thôi. Có những đám tang không có người đội khăn tang vì người chết còn quá trẻ, trong gia đình của người lính tử trận kia không có người nào trẻ hơn để mang tang cho người nằm trong quan tài kia. Có nhiều đêm, đôi khi nhìn hỏa châu rơi sáng một góc trời, có phải chỗ đó là hai bên đang đánh nhau không? Trong trí tui không tưởng tượng được cảnh họ đang đánh nhau như thế nào, có giống như trong xi-nê không, mong cho đừng giống như vậy, đau thương lắm! Tui vái trời anh đừng có trong mặt trận đó, tui cầu xin bề trên cho người tui yêu được bình yên, một điều khẩn xin quá bình thường. Mong bề trên đừng hẹp lượng.

 

Mẹ và chị của chàng có nói cho tui biết là Mẹ rất mong anh lấy vợ, mẹ mong thấy anh được thành gia thất vì Mẹ già rồi, đó là điều mong muốn cuối đời của Mẹ! Có nhiều lần chính anh cũng kể cho tui nghe mà. Rồi anh im lặng nhìn tui một hồi lâu anh nói: “Em có nghe người ta nói lính Nhảy Dù, ‘đi đông về ít, đi khít về thưa’ không ?” Anh nói dối với mẹ anh rằng anh đi lính thường xuyên vắng nhà nhưng anh không có tác chiến cho mẹ an lòng. Khi mới gặp em lần đầu, anh cảm được trời sinh em ra là để làm vợ anh. Anh có em, chúng ta cùng yêu thương nhau đó là niềm vui, một diễm phúc nhất trong thời binh đao. Rồi đôi ta sẽ thành vợ chồng, nhưng chưa phải là lúc này em ạ. Cùng chung một thế hệ, lớn lên trong một đất nước có chiến tranh anh và em cùng bị thiệt thòi như nhau, có mấy ai được hưởng những gì mà tuổi trẻ cần được hưởng?

 

Tui đã dự tính rồi, khi anh về phép lần này, tui sẽ đòi anh đi cưới tui. Tui muốn làm vợ anh, tui muốn anh cưới tui. Đừng viện cớ, đừng nói sợ anh chết sớm bỏ em thành góa bụa. Lần nầy tui sẽ nói với anh. Tui không sợ tui làm góa phụ, thì tại sao anh lo sợ? Tui biết anh yêu tui mà, trong thư anh nói anh nhớ và yêu tui nhiều lắm, sao anh không cưới tui? Khi tui làm vợ anh rồi, tui sẽ đi theo anh khắp mọi nơi. Anh cười nói, đi khắp mọi nơi là đi đánh giặc đó em, có ai đi đánh giặc mà mang vợ theo bao giờ.

 

Nhỏ Hương bạn tui, nó là dân Bắc Kỳ, chồng nó là lính Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Nó theo chồng về ở tận miền Tây xa lạ, mỗi lần nó trở về Sàigòn là nó kể tía lía về đời sống của người dân miền Tây như điều thích thú và hạnh phúc lắm. Ngày chồng nó tử trận, nó mới mang thai đứa con đầu lòng được sáu tháng. Xác chồng nó được mang về Sàigòn vì cả hai bên gia đình đều ở đây. Hôm dự đám tang, tui nhìn thấy nó rinh cái bụng nằm lăn qua bên này, rồi lăn qua bên kia, khóc la… ối giời ơi, ối giời ơi… Tiếng kêu rên của nó sao thật là thảm thương! Tui nhìn thấy nó vật vã mà tui dởn da gà. Tui khóc theo nó. Trời ơi lấy chồng lính là sẽ xảy ra như vậy đó sao!

 

Sau vụ con nhỏ Hương, tui rét quá, tui ngưng không dám đòi có chồng nữa. Tui không dám đòi anh đi cưới tui nữa. Nhưng tui vẫn luôn còn yêu anh!

 

TeaLan 26B

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Jul/2023 lúc 7:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Jul/2023 lúc 11:21am

70+%20hũ%20đựng%20tro%20cốt%20bằng%20gốm%20sứ%20và%20đá%20tự%20nhiên%20cao%20cấp

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Jul/2023 lúc 11:32am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jul/2023 lúc 5:00am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jul/2023 lúc 8:40am

Chiếc Nón Sắt Trên Đồi Hoang

Trịnh%20Khánh%20Tuân%20&%20Huỳnh%20Công%20Minh:%20Cái%20nón%20sắt%20của%20người%20lính%20VNCH
                   

Chiếc nón sắt,
Mang vết đạn thù,

Nằm cô quạnh,

Trên đồi hoang vu

Ôm trong lòng nón,

Niềm u uất buồn!



태풍%20배경%20사진%20및%20창의적인%20일러스트%20무료%20다운로드%20-%20Lovepik

 

Có đêm giông bão mưa tuôn,

Ầm ầm sấm chớp, gọi hồn chinh nhân!

Như bom rơi trước mặt!

Như pháo nổ thật gần!

Kìa Hồn Chiến sĩ hiện thân...

… nón sắt trên đầu...

Oai hùng giữa ánh hỏa châu sáng lòa !!!


 Toán%20-%20Cơ%20học%20ứng%20dụng:%20Nhạc%20sĩ%20NGUYỄN%20VĂN%20ĐÔNG

 

Đêm nào… như mới đêm qua,

Hàng hàng lớp lớp xông pha trận tiền.

Bây giờ nón sắt ngủ yên,

Anh Hồn Tử Sĩ về miền hư vô1

Phân%20tích%20Ánh%20Trăng%20của%20Nguyễn%20Duy%20%28Sơ%20đồ%20tư%20duy%20+%2023%20mẫu%29%20-%20Văn%209


 

Có đêm lạnh giá,

Dưới ánh trăng mờ...

Hồn về tìm nón, mơ hồ hiển linh.

Dâng lên Tổ Quốc điêu linh,

Chiếc nón sắt

Của người chiến binh

Đó là kỷ vật hi sinh cuối cùng !!!

 Thời%20tiết%205-2:%20Bắc%20bộ%20tiếp%20tục%20mưa%20phùn,%20trời%20rét%20đậm



 

Có đêm gió bấc lạnh lùng.

Gió lùa qua vết đạn,

Như tiếng nhạc hùng xuất quân!

Này Hồn chinh nhân...

Hãy vào lòng đất nhé!

Ngủ yên trong trái tim Mẹ Việt Nam.

Hiển linh trên lá cờ vàng,

Ba dòng máu đỏ hiên ngang oai hùng!

Khẩu%20súng,%20chiếc%20nón%20sắt%20và%20đôi%20giày%20trận%20|%2018%20Dec%201967,%20Chu…%20|%20Flickr


 

 

Rồi nữa, một mai...

Chiếc nón sắt mang vết đạn thù,

Chìm trong cát bụi,

Phủ kín là rừng,

Muôn đời nằm trong Quân Sử,

Sống cùng thiên thu...



        Trần Quốc Bảo


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Jul/2023 lúc 8:48am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Aug/2023 lúc 12:06pm

Trại%20cải%20tạo%20của%20CSVN%20sau%20năm%201975


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Aug/2023 lúc 12:15pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Aug/2023 lúc 8:58am
Những tấm thẻ bài
Những%20Tấm%20Thẻ%20Bài%20Lưu%20Lạc%20|%20Sáng%20Tạo

Chiến tranh Việt Nam đã lùi xa trong quá khứ nhưng vẫn còn âm vang đâu đó trong lòng những người đã từng khoác áo lính. Trên những trang viết, những khúc phim, những bức ảnh, ca khúc. Và trên Bức Tường Đá Đen dưới bầu trời của Hoa Thịnh Đốn. Hoặc ở những tấm thẻ bài của người lính tình cờ tìm lại được.

Ôi, những tấm thẻ bài ngày nào đã dựng lại cả một quá khứ thật kiêu hùng và khó quên theo năm tháng!


Richard Hiebsch đã nói lời từ giã Việt Nam cách đây hơn ba mươi lăm năm. Hoặc đâu vào khoảng đó, ông nghĩ như vậy. Sau đó, ông trở lại quê nhà Philadelphia, làm nhân viên hỏa xa, lập gia đình và nuôi dưỡng hai con.

Nhiều năm, rồi nhiều chục năm trôi qua. Những hình ảnh từng gây ra nhức nhối rồi cũng nhạt phai.

Dogtag%20làm%20dây%20chuyền%20thẻ%20quân%20nhân,%20thẻ%20bài%20lính%20Mỹ

Thế rồi một hôm, "đúng vào Chủ Nhật sau Ngày Cựu Chiến Binh", một cú điện thoại đã gọi đến. Lúc ấy, Hiebsch và vợ là Barbara đi vắng, khi trở về nhà ở Norristown thì thấy có một cái tin trên máy nhắn. Một giọng đàn bà nói: “Ông là Richard Hiebsch phải không? Tôi có một chút này để biếu ông, đó là những gì mà ông đã để lại ở Việt Nam".

Những cảm xúc vùi chôn đã bao năm bỗng lại tràn về. Hiebsch, 56 tuổi, gọi lại. Và rồi ông gặp Tracey Hansen, 36 tuổi, một nhân viên cứu hỏa ở San Jose, California, người đã về Việt Nam hai chuyến.


Trong chuyến đi gần đây nhất, bà đã ra Huế và dừng lại mua nước uống ở một điểm bán giải khát bên đường. Người đàn ông già bán hàng có một cái bàn nhỏ bày đầy những đồ trang sức rẻ tiền. Một cái bát bằng thủy tinh trên bàn có chứa cái gì đó khiến cho bà Tracey chú ý.

"Đó là một bộ 2 tấm thẻ bài", Hiebsch nói. "Bà ấy cầm lên xem và thấy đó là của một quân nhân Hoa Kỳ. Bộ thẻ bài ấy mang tên tôi. Tôi nghĩ là bà ấy đã bỏ ra hai đô la để mua lại những tấm thẻ bài ấy".

Một tuần lễ sau thì gói hàng đó đến. Bên trong có hai miếng kim loại khắc tên, số quân, loại máu và tôn giáo của người đứng tên. Bà Tracey Hansen có viết kèm theo mấy chữ: "Tôi muốn nói lời cám ơn về sự phục vụ của anh và tất cả những gì anh đã hy sinh ở bên đó. Tôi rất lấy làm buồn và hối tiếc về cái cách mà người ta đã đối xử với các anh khi các anh trở về. Tôi quả tình là không thể nào mà hiểu nổi".

Thế rồi, bà Hansen đã thấy mình có sứ mạng phải nối kết lại những tấm thẻ bài trên chiến trường Việt Nam với những người chủ nhân của chúng. Trong hai chuyến đi của bà, bà đã mua hơn hai ngàn tấm thẻ bài của những người lính Mỹ đã được dân chúng địa phương đem bán như những vật lưu niệm. "Cho đến nay, bà ấy và người bạn là Bryan Marks, cũng là nhân viên cứu hỏa, đã gởi trả về người chủ nhân hơn bốn trăm chiếc thẻ bài (tham khảo thêm website www.vietnamdogtags.com). Hai người đã làm công việc này mà không đòi hỏi một sự bồi hoàn tiền bạc nào cả".
Tác phẩm "Tấm thẻ bài" của Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh.
Với Hiebsch, lúc ông mở cái hộp đựng mấy chiếc thẻ bài do bà Tracey Hansen gởi cũng là lúc ông để mặc tình cho một phần đời của ông trở về lại.
"Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nhớ lại mọi thứ", ông Hiebsch nói. "Nó đưa tôi ngược thời gian trở về lại quá khứ ngày xưa".

Thơ%20Nguyễn%20Thị%20thêm%20-%20TẤM%20THẺ%20BÀI%20VÀ%20CHIẾC%20LẮC%20TAY%20-%20Thơ%20-%20Hội%20Ái%20Hữu%20Cựu%20%20Học%20Sinh%20Ngô%20Quyền%20Biên%20Hòa

Cái nơi chốn anh về lại đó là thành phố Quảng Trị và vụ Cộng Sản mở cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968.

Năm ấy, Hiebsch vừa hai mươi tuổi, mới rời ngôi trường Cardinal Dougherty High School có mười tám tháng. Là người lính bộ binh, mang trên người những hộp đạn, những cục điện dự trữ cho máy truyền tin, những băng đạn súng máy, đạn súng cối. "Tất cả khoảng chừng 60 pounds. Trong một chuyến hành quân, tôi đang chờ để lên trực thăng thì bỗng thấy mình lại không có mang những tấm thẻ bài".

Sau này Hiebsch được cấp phát một bộ thẻ bài mới. Câu chuyện chỉ có bấy nhiêu.

Giờ đây ông vui mừng được nhận lại những tấm thẻ bài ấy. Chẳng những thế, hai miếng thẻ bài cũ mòn này còn nối kết ông với một quá khứ mà ông từng muốn xóa bỏ đi.

"Ở những năm ấy, mọi sự đều u ám, giờ đây bạn chỉ muốn quên hết, quên hết", ông Hiebsch nói. "Thế rồi từ trong vũng lầy buồn chán, bỗng xuất hiện những vật nhỏ bé này. Nó giống như không khí mát mẻ trong căn phòng tù đọng. Tôi không biết phải giải thích như thế nào. Nó là nguồn xúc cảm tràn ngập trong tâm hồn bạn".

Nhận được những cái thẻ bài ngày xưa, ông tự thấy mình có thể đương đầu với nỗi đau mà ông đã chôn vùi bấy lâu.

"Chúng tôi cũng dũng cảm như bất cứ người lính nào khi đã khoác lên mình bộ quân phục", ông nói. "Chúng tôi cũng chiến đấu gian lao. Đó là một nhiệm vụ cao cả. Chúng tôi thắng trong từng trận đánh nhưng đã thua cuộc chiến tranh. Tôi không muốn bất cứ người lính nào phải qua nỗi bi thảm như chúng tôi đã bị đối xử".

Hiebsch rất trân trọng những tấm thẻ bài của bà Tracey Hansen trao lại. Ông dùng bàn chải đánh bóng và đóng khung trên nền nhung đen, đem chưng trong phòng làm việc.

Trong một cuộc họp mặt các cựu chiến binh ở Gladwyne, Hiebsch cho biết, những tấm thẻ bài của ông đã gây ra nhiều xúc động. Nhiều người hỏi ông tới tấp về lai lịch những tấm thẻ bài này.

"Khi tôi nhìn thấy những cựu chiến binh của Thế Chiến II quây quần chung quanh tôi, tôi cảm thấy thật vinh dự", Hiebsch nói. "Đây là thế hệ đã cứu lấy thế hệ chúng tôi".

Hơn bao giờ hết, ông tỏ lòng biết ơn người đàn bà mà ông chưa bao giờ gặp mặt đã trao lại ông những tấm thẻ bài này.

"Bà đã làm việc này mà không cần biết người nhận lại là ai, đây quả là điều đáng kính phục", ông Hiebsch nói. "Tôi nghĩ đó mới đúng là tinh thần bất diệt người Mỹ".
st.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Aug/2023 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Aug/2023 lúc 7:54am

Ba Dòng Nước Mắt 


Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:

” Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng. 

Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt..”


Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.


Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.


Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình đươc lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.


Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ  nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.


Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.

Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi  nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.


Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị.  Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.


Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.


Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.


Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.

Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không “, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.


Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.


Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.


Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..


Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.


Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.


Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả.


Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.


Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.


Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.


Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

–  Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.

–  Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình.

Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.

– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :

– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.


Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.

–  Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?

– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với  Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.

–  Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?

–  Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.


Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.

Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi.

Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm.

Tôi chưa  biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.

–  Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng. Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống

– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?

– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.

–   Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?

–   Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.

–   Còn mày thì sao ?

–   Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù  trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.


Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.


Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :

–   Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.

Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình :

–  Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật. Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của  nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.


Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :

–  Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :

–  Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện  chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.


Phạm Tín An Ninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Aug/2023 lúc 11:45am

Những Ngày Này Năm Ấy 

 

Tôi nhớ mãi buổi làm việc cuối cùng ở phòng mạch, đường Tổng Đốc Phương ở Chợ Lớn, vào chiều thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975. Bệnh nhân hôm đó đông hẳn lên. Hỏi ra mới biết các phòng mạch chung quanh đều đóng cửa, các bác sĩ đi hết. Cô Bảy, cô y tá người Việt gốc Hoa, lo lắng hỏi tôi:
-Ông có tính đi không?
-Tôi có một, hai đường dây nhưng chưa quyết định đi. Chờ xem tình hình ra sao đã.

Tôi nói cho cô Bảy an lòng, nhưng tôi có linh cảm đây là buổi làm việc chung cuối cùng. Chiều nay trước khi đến phòng mạch tôi đã khám bệnh từ 5 đến 6 giờ ở trạm y tế của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, còn được gọi là Nhà Kiếng, của ông Trần Quốc Bửu. Địch đã về đến Long Khánh. Ông Nguyễn Bá Cẩn, người của ông Bửu, vừa lên làm Thủ Tướng. Hôm ấy người đến chờ xin được ông Bửu tiếp đứng chật ra cả sân sau. Ông Bửu vừa từ Hoa Kỳ trở về.Tôi lo lắng muốn biết tình hình ra sao, liền gọi cô Linh, cô y tá của trạm y tế nói riêng:
-Tôi muốn gặp “ anh Tám”, nhờ cô lên hỏi anh có cần tôi lên đo áp huyết không.
Cô Linh đi độ 5 phút rồi trở về với một người cận vệ của ông Bửu. Anh này nói:
-Bác sĩ theo em, đi cửa riêng, anh Tám chờ bác sĩ.

Tôi theo chân người cận vệ của ông Bửu lên lầu trên, đi dọc theo một hành lang. Ngang qua hai phòng khách, tôi liếc thấy nhiều ông bận đồ lớn ngồi chờ. Tôi được đưa vào phòng riêng của ông Bửu. Tôi thấy ông đang lặng lẽ đứng xé từng xấp giấy vất xuống một thùng cạc tông lớn để dưới chân. Hình như ông không biết đến những người khách đang chờ xin gặp ông . Nhìn thấy tôi ông nở một nụ cười. Nụ cười của ông Bửu lúc nào cũng điềm đạm.
-Em đó à, đo giùm áp huyết cho anh đi.
Tôi biết bệnh của ông Bửu rất rõ. Ông đã đưa cho tôi xem bản sao hồ sơ bệnh lý của ông được thực hiện ở bệnh viện Walter Reed lúc ông sang Hoa Kỳ. Tôi cứ dựa vào đó mà theo dõi . Đo áp huyết cho ông Bửu xong, tôi hỏi ngay:
-Tình hình ra sao anh Tám. Có hy vọng gì không?
Ông Bửu tiếp tục xé giấy vất xuống thùng. Gần cả phút nặng nề trôi qua. Lần đầu tiên tôi thấy tình hình thật sự đen tối.
-Người Mỹ họ không ủng hộ mình nữa. Chắc phải liên hiệp. Em nên đi ra nước ngoài.Nếu chưa có đường đi thì nên liên lạc thường xuyên với gia đình anh , chừng nào anh đi thì đi cùng.

Tôi tin lời ông Bửu nói. Trên đường đi đến phòng mạch tôi như người mất hồn. Tôi cảm thấy ân hận đã bỏ lỡ dịp ra đi bằng máy bay tuần trước. Sắp đến giờ đóng cửa cô Bảy hỏi tôi:
-Thứ hai ông có đến làm việc không?
-Có chứ, trừ phi tình hình thay đổi
-Nếu ông đi thì phòng mạch này ai trông coi?
Tôi sực nhớ đã trả tiền mướn địa điểm cho nguyên năm. Tôi liền viết giấy ủy quyền cho cô Bảy trông coi phòng mạch cho đến hết hạn và cho cô tất cả đồ đạc trong phòng mạch. Tôi đưa cô Bảy về nhà cô. Ngồi trên xe cô Bảy khóc. Đã mấy mươi năm trôi qua, mỗi lần nhớ lại ngày cuối cùng làm phòng mạch ở đường Tổng Đốc Phương, tôi vẫn hình dung ra được những giọt nước mắt của người nữ y tá trung thành và tận tụy.

Trên đường về, tôi ghé cư xá sĩ quan Chí Hòa. Tôi muốn gặp ông Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y để báo tin. Ông hay tâm sự với tôi ông có đường đi nhưng vì trách nhiệm ông chưa thể đi. Ông nói có lẽ ông sẽ để gia đình ông đi trước. Tôi đến nhà ông Chỉ Huy Trưởng lúc 8 giờ tối. Chừng nửa giờ sau thì ông về.Tôi lập lại với ông những lời ông Bửu nói với tôi và góp ý:
-Nếu đi thì anh nên đi luôn với gia đình. Tình hình này chần chờ người trước người sau có khi kẹt.
Sau này liên lạc lại được với ông ở hải ngoại ông cám ơn tôi đã đến cho tin, giúp ông có một quyết định kịp thời.

Nhưng tôi không có dịp đi cùng ông Bửu. Tôi nghe nói sáng 30 tháng 4 ông Bửu mới rời Sàigòn trên một chiếc xà lan do tàu Đại Hàn kéo.
Đêm 28 tháng 4 địch pháo dữ dội phi trường Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 29 tháng 4 là một sáng bàng hoàng cho dân Sàigòn. Yên chí mình có đường dây đi với ông Bửu tôi bình tĩnh lái xe vào Trường Quân Y xem tình hình. Cổng vẫn có lính gác. Tôi đến văn phòng tôi. Chẳng có văn thư nào để đọc hay ký cả. Lệnh cấm trại 100% của Cục Quân Y vẫn hiệu lực. Đến giờ này tôi biết một số bác sĩ của Trường đã ra đi, đi trước cả ông Chỉ Huy Trưởng. Tôi đứng ở cửa văn phòng mình một lúc thì gặp trung tá Tá, sĩ quan hành chánh. Ông hỏi tôi, giọng đầy lo lắng:
-Tình hình có sao không hả bác sĩ?
Tôi trả lời ông như một người am hiểu tình hình:
- Chắc là phải liên hiệp nhưng rồi cũng mất, trung tá ạ. Trung tá có đường đi nên đi.
-Tôi nghe ông Chỉ Huy Trưởng đi rồi thì phải.

Tôi gật đầu. Tôi khuyên trung tá Tá cũng như tôi đã khuyên ông Chỉ Huy Trưởng những gì ông Bửu đã khuyên tôi. Tôi thổ lộ điều tôi biết cho trung tá Tá vì hai lẽ: ông là người có nhiều huy chương nhất Trường Quân Y vì ông đã từng phục vụ lâu năm trong quân đội Pháp trước khi sang quân đội VNCH và vì ông có một người con trai đang là sinh viên quân y ngành dược. Qua ông và rồi qua con ông, một số sinh viên quân y đang bị cấm trại có thể tìm cách ra khỏi Trường để tìm đường đi. Với chức vụ Trưởng Khối Tâm Lý Chiến của Trường tôi không thể công khai nói với mọi người nên tìm đường đi ra nước ngoài.

Cho một tin như thế tôi có thể bị truy tố. Tôi rời văn phòng về nhà lúc 12 giờ trưa. Về đến nhà thì vợ tôi vừa hốt hoảng vừa trách tôi:
-Làm thế nào bây giờ anh? Phải đi chứ không thể ở lại được. Đáng lẽ để em và con đi tuần trước cho rồi, cứ cản mãi..
Tôi trấn an vợ tôi:
-Em yên tâm, có đường dây đi rồi, đi với ông Bửu.
-Chừng nào?
-Để xem tình hình sao đã.
-Coi chừng để trể ông đi mất là hết đường.
Tôi cho thêm mình một chữ nếu nữa.Nếu đêm nay tình hình không yên tỉnh thì sáng mai sẽ lên nhà ông Bửu. Vừa lúc ấy một chiếc xe hoa kỳ màu đen, bảng trước có gắn một sao hải quân đỗ ngay trước nhà.

Xe của phó đề đốc Thăng, ông anh cột chèo với anh tôi. Vợ chồng anh Thăng đang ở Cần Thơ, nhưng chị Thăng gọi điện thoại lên cho vợ anh tôi, cho biết có một đoàn tàu của hải quân sẽ rời hải quân công xưởng và khuyên nên vào ở nhà chị, đối diện với cổng vào hải quân công xưởng, để khi có cơ hội là đi.
Cũng vừa lúc ấy anh Thành, thiếu tá không quân,phi công trực thăng, anh cột chèo với tôi, chở vợ và hai con trên chiếc vespa đến tôi hỏi đường đi. Anh Thành nói:
-Anh định vào Tân Sơn Nhất nhưng không vào được. Có đường nào cho tụi này đi cùng.
Vợ tôi giục tôi:
-Đi với anh chị Trang cho rồi, anh!
Tôi trả lời buông xuôi:
-Ừ, đi thì đi.

Đằng nào cũng đi, vậy thì đi với ai cũng vậy. Gia đình ông anh tôi 5 người, gia đình tôi 4 người, gia đình anh Thành 4 người, phía bên ông cụ tôi và bà kế mẫu 8 người. Ngoài chiếc xe của phó đề đốc Thăng, còn có chiếc Fiat của tôi, chiếc Toyota của anh tôi. Tất cả 21 người chen chúc nhau trên 3 chiếc xe đó. Sàigòn ở khu bến tàu lúc bấy giờ vẫn yên tĩnh.Lính gác ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân mở hàng rào chắn cho đoàn xe chúng tôi vào. Chúng tôi tạm trú trong nhà phó đề đốc Thăng và chờ đợi. Không biết lúc nào thì có lệnh cho qua cổng hải quân công xưởng để xuống tàu. Bốn giờ chiều vẫn không có tin tức gì thêm. Ông cụ tôi sốt ruột muốn về. Ông nói:
-Hôm qua chúng nó pháo Tân Sơn Nhất, tối nay có thể chúng pháo vào hải quân công xưởng. Nếu không đi được, qua đêm ở đây nguy hiểm lắm.
Tôi nói với ông cụ tôi:
-Ba ráng chờ, con nghĩ thế nào cũng có tàu đi.
Ông cụ tôi bỏ vào nhà trong. Tôi bước ra ngoài, lang thang trên một đoạn đường Lê Thánh Tôn. Bất ngờ gặp tướng Tôn Thất Xứng. Ông bận đồ xi-vin. Tướng Xứng vồn vã hỏi:
-Ba có đi cùng không cháu?
-Dạ có, ông đang ở trong nhà anh Thăng. Chờ lâu quá ông có ý định muốn về nhà.
Tướng Xứng la lên:
-Chết! Chết! Nói ba đừng về. Cứ ở đây. Tình hình tuyệt vọng rồi, chú biết.
-Để cháu vào nói ba cháu ra gặp chú.
-Ừ, mau lên nghe cháu.
Khi tôi đưa được ông cụ tôi ra chỗ tôi vừa gặp tướng Xứng thì ông không còn ở đó nữa. Ông cụ tôi lặng lẽ trở vào nhà. Chừng nửa giờ sau anh tôi gặp tôi và nói :
-Ba mợ và mấy em về nhà rồi. Phải nhờ tài xế lái xe anh Thăng đưa ra, lính gác mới mở cổng. Bây giờ ở cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân có lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Tôi cũng tự hỏi mình có nên liều mạng nằm đây chờ không. Tư hỏi rồi tự trả lời :Nằm đây thì còn hy vọng đi, về nhà là kẹt chắc. Ông anh tôi, cảnh sát; tôi, gốc nhảy dù ở lại chắc khó sống lắm. Ba tôi, tuy là tướng,nhưng ông về hưu lâu rồi, chắc không sao.
Đúng 5 giờ chiều, trên không xuất hiện hai chiếc phản lực hình cá thu, bay lượn quanh tòa đại sứ Mỹ.
Chừng mười lăm phút sau, tiếng trực thăng nghe mỗi lúc một gần. Rồi đoàn trực thăng từng chiếc, từng chiếc bay qua đầu chúng tôi, sà xuống trên nóc tòa đại sứ Mỹ. Mọi người nhốn nháo :
-Mỹ di tản toà đại sứ!

Hai chiếc phản lực nhào xuống thấp, xé gió nghe quặn cả ruột! Một tràng M16 nổ dòn ở cổng Bạch Đằng rồi một tràng M16 khác nghe phía cổng Cường Để.
-Ai bắn vậy?
-Lính mình bắn vào trực thăng di tản à?
-Không phải đâu, chắc dân chúng tính tràn vào, lính hải quân bắn cảnh cáo.
Tôi hỏi khẻ anh tôi :
-Anh có súng không?
-Tao chỉ có một khẩu rouleau nhỏ phòng thân.

Tôi nghĩ đến cảnh hỗn loạn trong các cuộc di tản tại miền Trung trước đây. Tôi nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu lính gác hải quân không cản nổi làn sóng người tràn vào. Tôi chỉ nghĩ thoáng đến đó mà không dám nghĩ gì thêm.
Vào khoảng sau 6 giờ chiều cổng hải quân công xưởng mở. Anh tôi quýnh quáng :
-Có lệnh cho xuống tàu! Gọi điện thoại cho ba mợ hay, hỏi ông bà có muốn đi trở lại không.
Anh tôi nói và làm . Giọng anh run run :
-Có lệnh cho xuống tàu rồi. Ba mợ có đi không, tụi con chờ để nhờ người đưa vào.
Anh tôi nghe một lúc rồi gác máy:
-Cậu Kế sẽ lấy chiếc Fiat của chú đưa ba mợ và mấy em đến cổng Bạch Đằng. Tôi sẽ nhờ chú tài xế của anh Thăng ra đón và năn nỉ lính gác. Nếu cần tặng họ chiếc Fiat của chú. Chiếc Toyota của chị còn đây cũng tặng họ luôn. Cô chú có con dại vào trước đi.
-Xuống cầu tàu nào và đi chiếc nào vậy anh?
- Thì thấy người ta lên chiếc nào mình lên chiếc đó.

Hôm ấy là hôm tôi gặp mặt ông cụ tôi lần cuối cùng. Về sau anh tôi kể lại: Xe đưa ông cụ tôi bị kẹt lại trên đường Hai Bà Trưng, gần hảng nước đá. Cậu tôi gọi điện thoại vào cho anh tôi. Anh tôi nói phải cố đến gần cổng mới đón vào được. Tình hình bây giờ gần như hỗn loạn, lính gác đã bắn ngang chứ không còn bắn chỉ thiên nữa. Ba mợ và mấy em tôi phải quay về. 14 năm sau những người trong gia đình tôi đã lần lượt đoàn tụ, trừ ba tôi. Chúng tôi nhận được điện tín ngày ông lên đường đoàn tụ và ngày ông mất cách nhau 48 tiếng! Không biết ông cụ tôi không có duyên đoàn tụ với con cái hay có cái gì níu kéo ông lại, không muốn ông gởi xác nơi xứ người.

Gia đình tôi theo làn sóng người tràn vào hải quân công xưởng. Đi một quãng chúng tôi đứng lại chờ. Gia đình anh Thành vào kế tiếp, có thêm chị Thoa,chị vợ thứ hai của tôi, với 3 đứa con cùng đi với vợ chồng trung tá Nam. Chúng tôi họp lại thành một nhóm. Chờ thêm môt lúc không thấy gia đình anh tôi đâu. Tôi chưa bao giờ vào hải quân công xưởng nên không biết có bao nhiêu cầu tàu và con đường nào dẫn xuống cầu tàu nào.Chúng tôi đi trên con đường nhỏ một đoạn khá xa và gặp một nhóm người bồng bế nhau đi ngược trở ra.Tôi hỏi ngay một người đàn ông, dáng bơ phờ,tay nách một em bé gái chừng 2 tuổi đang dãy dụa khóc:
-Không thấy tàu hay sao mà trở ra?
-Có một chiếc nhưng đông nghẹt. Chỉ có nước dẫm lên nhau mà chết. Kinh nghiệm ở Đà Nẵng một lần rồi. Sợ lắm! Chúng tôi đi về đây.

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Nhưng tất cả lòng muốn đi mạnh hơn ý muốn ở lại hiện rỏ trong các ánh mắt.Chúng tôi cứ đi lần theo theo hướng của những người đang lẻ tẻ đi ngược trở ra. Đến cuối đường chúng tôi thấy một con tàu lớn với hàng trăm người đang chen lấn trên bờ.Tôi lo thầm trong bụng: đông thế này làm sao lên liền cho được. Nếu tàu nhổ neo ngay thì mình còn xa cả mấy chục thước! Tôi nói với mọi người trong nhóm:
-Mỗi gia đình lo lấy cho nhau. Ai lên trước được sẽ giúp người sau. Coi chừng trẻ con khi lên tàu.

Trên không hai chiếc phản lực vẫn vần vũ. Từng đoàn trực thăng chốc chốc lại bay qua đầu chúng tôi. Sài Gòn bây giờ là một vùng tiếng động khốc liệt. Tôi đã từng hồi hộp trong vài cuộc đổ quân gặp sự chống trả của địch, nhưng hôm nay trong tiếng gầm thét của hai chiếc phản lực nhào lộn, tiếng tình tịch của cánh quạt trực thăng, tôi không mang tâm trạng căng thẳng của cuộc đổ quân, mà là một tâm trạng rã rời, uất ức, cô đơn đến ghê rợn, của một cuộc tháo chạy, tháo chạy ngay từ thủ đô của đất nước mình, để dấn thân vào một vùng đất lạ nào tôi chưa được rõ.

Chúng tôi nhích từng chút về hướng chiếc tàu. Khoảng cách còn chừng 5 thước. Số người thối chí bỏ ra về khá nhiều cho tôi hy vọng có thể lên được tàu trước khi tàu rời bến.Tôi ẵm đứa con trai đầu lòng, bé Ngọc, mới 3 tháng, trong vòng tay phải; cái túi xách đeo ở vai phải; tay trái tôi sẽ dùng để nắm dây bước lên tàu. Hai cái xách còn lại, vợ tôi, một cái đeo vai, một cái cầm ở tay phải. Vợ tôi bám sát lưng tôi.Tàu đậu cách bến chừng một thước. Một thanh gỗ vuông rộng chừng hai mươi phân được bắc ngang làm cầu. Một sợi dây thừng, to bằng ngón chân cái, được căng từ lan can tàu xuống cái khoen sắt để buộc dây tàu nằm trên bờ. Chiếc cầu khỉ ngắn ngủn này là nơi tôi chứng kiến một thảm cảnh: Khi tôi men lại được gần thanh gỗ, thì trước tôi, một người đàn bà, vai mang một một em bé gái nhỏ trên lưng, tay phải dẫn một đứa bé trai chừng bốn, năm tuổi bước lên thanh gỗ. Nói là đi nhưng thật ra chúng tôi bị khối người phía sau đẩy tới. Lúc đứa bé nắm tay mẹ tiến lên thì trên tàu bỗng dưng có một người đàn ông chen lấn đi ngược xuống. Thanh gỗ nhầy nhụa bùn đất trở nên trơn trượt. Thằng bé, không biết hụt chân hay trượt chân, vuột khỏi tay mẹ nó, rơi tõm xuống sông. Nó chìm nghỉm. Tiếng bà mẹ thất thanh:
-Cứu con tôi với! Cứu con tôi với!
Không một ai đáp ứng lời kêu cứu. Tôi nghe lạnh cả người, mồ hôi toát ra đầy trán. Tay phải tôi siết chặt bé Ngọc, nó dãy lên khóc vì nghẹt thở. Tôi biết lúc này không cẩn thận là ngã xuống sông tức khắc.

Người đàn bà không chịu bước, nhìn xuống mặt sông, tiếp tục la cầu cứu. Tôi hét lớn:
-Đi lên tàu rồi tính! Cứ đứng lại, bị đàng sau dồn, rớt xuống sông chết cả đám bây giờ!

Tôi tiến sát người đàn bà, dung đầu gối phải thúc bà đi tới. Tôi bước lên được tàu. Người đàn bà, hai tay nắm chặt lan can tàu, nhìn xuống mặt sông khóc thảm thiết. Tôi nới tay siết bé Ngọc, nó thở được, nín khóc. Sờ nắn xương sườn nó, thấy nguyên vẹn, tôi yên tâm.

Cả nhóm chúng tôi lên tàu an toàn. Khoảng 7 giờ tối thì dứt tiếng phản lực lẫn tiếng trực thăng. Yên lặng và bóng tối mờ mờ bao trùm cảnh vật. Đến 9 giờ tối, tàu không còn ai lên nữa.Tôi thấy thương cho người đàn bà có đứa con rớt xuống sông ban nãy. Giá biết đến giờ này tàu vẫn chưa đi hà tất phải chen lấn nhau và đứa bé khỏi mất mạng một cách thê thảm. Một nguồn tin truyền miệng đến tai tôi rằng tàu này hư máy có thể không đi được làm cả nhóm lo lắng. Tôi len lỏi trong đám đông kiếm các sĩ quan hải quân hỏi tin tức. Tôi gặp hai người: trung tá Minh, chồng của nhà văn Điệp Mỹ Linh, và trung úy Lý, sĩ quan cơ khí, anh của dược sĩ Vỹ, trước đây cũng ở Dù với tôi. Minh cho tôi hay anh nghe Bộ Tư Lệnh Hải Quân có tổ chức một đoàn tàu đi sang Phi Luật Tân, nhưng anh không biết chiếc này có nằm trong đoàn tàu ấy hay không. Lý cho tôi biết tin đích xác hơn về con tàu: Tàu đang ở thời tu chỉnh đại kỳ, nhưng ông hạm trưởng, thiếu tá Tánh, trong thời gian qua có đốc thúc sửa chữa. Giờ này đang ráp máy thứ nhất. Tàu sẽ chạy một máy. Lý nói thêm:
-Tôi đang phụ sức vào đây. Tàu sẽ chạy rất chậm vì chạy có một máy và vì người quá đông. Hy vọng 12 giờ đêm máy sẽ ráp xong.
Tàu rời hải quân công xưởng lúc 1 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4. Gặp lại trung úy Lý, mồ hôi nhễ nhại nhưng nụ cười thỏa mãn:
-Ráp máy xong tôi sợ nó trục trặc không chạy thì khốn. Mình đi trên sông Lòng Tảo. Hải trình này an ninh hơn nhưng ngại ở điểm lòng sông có chỗ cạn. Mắc cạn là nằm chịu chết vì tàu một máy lại chở quá nặng nên không cách gì lui được. Khoảng trưa mai mình sẽ ra tới Vũng Tàu.


Đúng 2 giờ sáng địch tấn công Nhà Bè. Những bồn xăng trúng đạn bốc cháy dữ dội. Giờ hấp hối của Sài Gòn bắt đầu. Tôi thương vô hạn những người lính Cộng Hòa giờ này còn ở vị trí chiến đấu.Chống trả mà biết là vô vọng thì đau khổ dường nào! Tôi úp mặt khóc một mình. Bao nhiêu năm chiến đấu để rồi vào giờ phút này mới biết số phận đất nước mình chỉ là số phận một con tốt thí trên bàn cờ quốc tế! 13 năm sau, cũng ngày 30 tháng 4 này, khoảng 5 giờ chiều, tôi đang ngồi trực ở phòng lái của chiếc tàu Mary’S Kingstown được hội Y Sĩ Thế Giới gởi đi vớt thuyền nhân, thì thuyền trưởng Francois, tay cầm ống nhòm, leo lên đứng cạnh tôi. Tàu đang chạy sát lằn ranh hải phận Việt Nam. Ông đưa ống nhòm lên quan sát một lúc rồi nói với tôi:
-Ông hướng ống nhòm về hướng tôi chỉ, nhìn cho kỹ, sẽ thấy Côn Đảo.
Tôi hướng ống nhòm về phía bờ biển Việt Nam, điều chỉnh cho hình ảnh thật rõ thì quả thật thấy Côn Đảo hiện ra mờ mờ như bóng mây. Tôi nghe lòng mình xôn xao. Hình ảnh con tàu năm nào đã đưa tôi rời khỏi nước lại hiện trở về. Con tàu đã đi thâu đêm trên sông Lòng Tảo, xa dần Sài Gòn đang bị địch
siết chặt vòng vây. Tôi đã thầm cầu nguyện tàu đừng hỏng máy bất chừng, đừng mắc cạn và nhất là đừng gặp địch.

10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, qua máy thu thanh trên tàu, chúng tôi bàng hoàng nghe tướng Dương Văn Minh đọc lời kêu gọi buông súng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn ra rả không ngừng. Nghe bài hát tôi không thấy vòng tay mình lớn ra mà chỉ nghe tim mình thắt lại. Cái hy vọng mong manh về một chính phủ liên hiệp, sau lời kêu gọi của tướng Dương Văn Minh, bây giờ với tất cả mọi người thật sự là mây khói. Riêng chúng tôi, những người trên tàu, còn một hy vọng: thoát ra khỏi nước. 2 giờ chiều, tàu ra đến cửa biển Vũng Tàu. Mọi người vừa mừng vừa hội hộp.Bờ biển Vũng Tàu bây giờ như một cảnh chợ chiều.Cả trăm chiếc thuyền, ghe lớn ghe nhỏ lêu bêu đầy mặt nước. Có chiếc ghe gắn máy đuôi tôm, không người lái, cứ lạch tạch chạy vòng vòng trên biển như chiếc ghe ma. Tàu tiếp tục chạy. 4 giờ chiều tàu ra tới hải phận quốc tế. Mọi người trên tàu vỗ tay mừng thoát nạn. Câu hỏi được đặt ra là bây giờ đi đâu? Ý định ban đầu của hạm trưởng Tánh là đi Tân Gia Ba. Nhưng với tình trạng tàu chạy một máy hiện nay cộng với cả ngàn người trên tàu, thực phẩm và nước ngọt ít oi thì không thể nào thực hiện cuộc vượt trùng dương được.Trung tá Minh nói:
-Họp ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân tôi nghe tin có một đoàn tàu hải quân sẽ đến một điển hẹn ở ngoài khơi Côn Đảo. Ở đó sẽ có hải quân Hoa Kỳ hộ tống đoàn tàu Việt Nam qua Phi Luật Tân. Đoàn tàu của hải quân Việt Nam sẽ được giao lại cho hải quân Hoa Kỳ.


Tàu hướng về Côn Đảo với vận tốc 4 hải lý một giờ. Trên đoạn đường ra Côn Đảo tôi chứng kiến thêm một cái chết thứ hai: Cái chết của phi công lái chiếc phi cơ trinh sát. Anh liên lạc với tàu cho biết trên phi cơ có hai người. Tàu cho biết trên tàu có một toán người nhái sẵn sàng vớt họ sau khi nhảy ra khỏi phi cơ. Phi công cho biết phi cơ sẽ hạ thấp vòng đầu cho người hạ sĩ quan cơ khí nhảy, vòng thứ nhì anh sẽ nhảy. Vòng đầu máy bay bay rất thấp, là là mặt nước. Một người nhảy ra.Muơi giây sau một cái đầu nhoi lên khỏi mặt nước. Chúng tôi trên tàu vỗ tay reo hò. Hai người nhái phóng xuống biển vớt anh lên một cách thông thạo. Ở vòng nhì máy bay không hạ thấp như lần trước. Khi máy bay ở thế song song với tàu người phi công nhảy ra. Anh không rơi thẳng mà rơi lộn vòng. Mọi người im lặng chờ đợi. Một số người la hoảng:
-Trồi đầu lên! Trồi đầu lên!

Mặt biển vẫn im lìm. Tôi nghĩ người phi công đã bất tỉnh sau khi va chạm mạnh vào mặt nước. Cái chết ở thời điểm này được chứng kiến không nước mắt và được quên đi rất nhanh.
Trưa ngày 1 tháng 5 tàu ra đến Côn Đảo. Nhìn lên đảo thấy người đứng lố nhố và cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ . Tàu chạy thẳng ra khơi. Khoảng 4 giờ chiều, những tiếng la gần như đồng loạt vang lên trên tàu:
-Hạm đội Mỹ! Hạm đội Mỹ!

Tin của trung tá Minh chính xác. Đoàn tàu chiến Mỹ, trắng xóa, trải kín cả chân trời. Tàu đánh điện xin tiếp tế lương thực, nước uống và thuốc men. Trên tàu lúc bây giờ đếm ra có 10 bác sĩ. Chúng tôi họp nhau thẩm định tình trạng sức khỏe của đồng bào. Tiêu chảy và viêm mắt khá nhiều. Một người đàn bà mang thai đến ngày sinh cần chuyển gấp sang tàu Mỹ. Chúng tôi cũng cần sữa cho trẻ con. Tôi được giao phó báo cáo tình trạng sức khoẻ và nhu cầu thuốc men.

Tàu tiến dần về một khu trục hạm rồi tắt máy nằm song song với chiếc tàu Mỹ. Thủy thủ, sĩ quan Mỹ đứng kín cả boong tàu nhìn chúng tôi. Họ cười với chúng tôi; chúng tôi cười với họ. Tôi cố tìm mà không hiểu nỗi nghĩa nụ cười của đôi bên. Tôi nghe có chút gì cay đắng trong lòng. Tôi không biết phải coi họ là gì của mình bây giờ? Những người bạn đồng mình hôm qua! Đúng rồi hôm qua, hôm qua !

Sáng hôm sau mười mấy chiếc tàu của hải quân Việt Nam được sắp lại thành đoàn. Chiếc tàu của chúng tôi vì đông người, vì chạy có một máy, nên được một chiếc tàu khác của hải quân Việt Nam cột giây kéo cho đi nhanh thêm và được ưu tiên sắp đi đầu. Theo lục lệ của hải quân, hai chiếc phản lực, cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó, lượn mấy vòng, rồi đoàn tàu bắt đầu di chuyển đi Subic Base của Phi Luật Tân.

Sau 13 ngày trên biển, tàu đến hải cảng Subic Base của Phi Luật Tân. Có lệnh phải hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống trước khi cập bến vì Phi Luật Tân đã thừa nhận thể chế mới ở Việt Nam. Chúng tôi làm lễ hạ cờ và hát quốc ca. Có lẽ đây là buổi chào hạ cờ duy nhất mà mọi người hiện diện, già trẻ, lớn bé, dân sự lẫn quân sự, đều nước mắt chan hòa. Tôi có làm một bài thơ chỉ có 4 câu:Tôi đứng trên boong tàu/ Chào quê hương lần cuối/ Nước mắt bỗng tuôn dâng/ Khi màu cờ hạ xuống.
Chúng tôi được chuyển từ chiếc HQ 400 sang một chiếc tàu buôn của Mỹ. Đi thêm 2 ngày thì tới đảo Guam. Tối hôm đó tôi ngồi thao thức rất khuya trước lều. Tôi nghĩ đến những ngày sắp tới. Tôi thấy mình đang trắng tay. Gia tài còn lại là 20 mỹ kim, đổi được từ tháng lương cuối cùng trước khi rời nước.
Bây giờ làm thân tị nạn, tôi sẽ phải đi đâu, xin định cư xứ nào? Xin đi Pháp thì có thể tôi sẽ dễ dàng lấy lại bằng hành nghề nhưng nghe nói đời sống kinh tế bên đó khó khăn. Ở Canada nghe có tỉnh bang Québec nơi đó người ta nói cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh, khí hậu lạnh nhưng đời sống dễ chịu. Lúc đó tôi không hề nghĩ đến chọn nước Mỹ. Không biết có phải vì vốn liếng Anh ngữ của tôi không dồi dào bằng vốn liếng Pháp ngữ hay còn có một lý do thầm kín nào khác thì tôi không rõ.


Chẳng biết câu châm ngôn thời đi Hướng Đạo:’’ Hướng đạo sinh vui tươi trong lúc khó khăn’’ có giúp tôi giữ được vui tươi trong những lúc khó khăn hay không , nhưng câu châm ngôn ngắn gọn mà giản dị của thời đội Mũ Đỏ:’’ Nhảy Dù! Cố Gắng!’’quả thật đã giúp tôi rất nhiều. Cố gắng bình tỉnh, cố gắng nhẫn nại, cố gắng hy vọng. Tôi đã cố gắng bình tỉnh trả lời ông sở di trú ở đảo Guam khi tôi đến xin định cư ở Québec, Canada. Ông nhìn hồ sơ của tôi rồi nói:
-Đất nước chúng tôi không ưu tiên cho thành phần ở trong Quân Đội.
Tôi nhớ tôi đã trả lời ông:
- Tôi ở một nước đang có chiến tranh, ngoại trừ trẻ em và người cao niên, đàn ông thuộc thành phần còn lại đều phải ở trong quân ngũ.
Ông ta bồi thêm câu thứ hai:
-Tỉnh bang Québec hiện đang thừa bác sĩ. Rất có thể qua đó ông không hành nghề trở lại được.
Tôi cũng đã bình tỉnh trả lời:
-Tôi sẽ hết sức cố gắng để trở lại nghề. Nhưng nếu không được ít ra tôi và gia đình tôi cũng được sống trong một xứ có tự do.

Bốn ngày sau gia đình tôi cùng với khoảng 200 tị nạn người Việt đầu tiên được bốc từ đảo Guam sang thành phố Montréal của tỉnh bang Québec. Sau hai tuần nhận được trợ cấp, tôi được ông di trú thúc đi kiếm việc làm. Tôi được giới thiệu đi làm bán thời gian ở một bệnh viện tâm thần. Tôi làm ca đêm, thuộc ‘’équipe volante’’, trại nào thiếu người tôi được gởi đến. Tuy chức vụ chỉ là phụ y công, với đồng luơng cao hơn đồng lương tối thiểu 40 xu, tôi cũng phải qua một khóa huấn luyện một tuần để biết cách làm giường, cách thay quần áo cho bệnh nhân,cách đỡ bệnh nhân ngồi dậy v..v.. Nếu có những ca đêm rơi đúng vào các trại bệnh nhân ổn định, gặp các bà y công tốt bụng, biết tôi là bác sĩ tị nạn chưa hành nghề lại được, họ làm hết mọi việc, tôi chỉ ngồi ôm sách học. Nhưng nếu ca đêm nào rơi đúng vào trại bệnh tâm thần nặng, tôi phải ngồi canh ở một chiếc ghế đặt giữa hành lang, dưới ánh đèn mờ mờ. Bệnh nhân ở trại này mỗi người được giữ trong một phòng riêng, có khóa bên ngoài.Trong phòng không có vật dụng nào ngoài cái bô vệ sinh. Cái giường ngủ cũng làm bằng xi măng. Tôi không rõ họ được nuôi ăn như thế nào. Làm ca đêm ở trại này tôi không những không học được mà còn hầu như không ngủ được vì những tiếng hú, tiếng hét chốc chốc lại vang lên trong đêm khuya. Một kỷ niệm từng khiến tôi ‘’lạnh người’’ làm tôi nhớ mãi. Ở trại này, buổi sáng trước khi chấm dứt ca trực của mình, người y công chính giao tôi nhiệm vụ mở khóa phòng từng bệnh nhân, lấy cái bô vệ sinh của họ đem đi đổ. Một buổi sáng, mở khóa cửa phòng của một bệnh nhân, bước vào trong tôi không thấy anh ta đâu. Tôi hết hồn vì nếu bệnh nhân đã thoát ra khỏi phòng thì tôi sẽ gặp rắc rối.
-Bonjour!
Tôi giật mình quay người lại thì thấy người vừa chào tôi, trần truồng như nhộng, lông lá đầy mình, đứng núp sau cánh cửa, hai tay chéo nhau như cố che kín hạ bộ của mình, nhìn tôi với cặp mắt dò xét.Tôi vội vàng khom người với tay kéo cái bô vệ sinh, mắt vẫn không rời người bệnh kèm thêm một nụ cười cầu thân. Xong, tôi rút nhanh ra khỏi phòng và khóa cửa.


Tôi đã sống với nghề phụ y công trong 10 tháng. Cho đến khi thi đậu nội trú.Y Sĩ Đoàn Québec vào đầu năm 1976 mở một khóa huấn luyện 3 tháng nói là để trình bày về nền y khoa ở Québec cho nhóm bác sĩ Việt Nam , lúc đó có khoảng 80 người. Sau khóa huấn luyện, Y Sĩ Đoàn Québec mở một khoa thi đặc biệt dành cho các bác sĩ Việt Nam. Có 40 người được chấm đậu. Tôi may mắn có tên trong số người này. Tiếp đó Y Sĩ Đoàn Québec thông báo 4 Đại Học Y Khoa ở Québec cho biết chỗ nội trú dành cho các bác sĩ Việt Nam niên khóa 1976-1977 là 20 chỗ. Tôi lại may mắn có tên trong số người được chọn. Tôi được gởi đi làm nội trú cùng 3 bác sĩ Việt Nam khác ở Đại Học Y Khoa Sherbrooke, cách Montréal chừng 100 cây số. Tại đây có thêm 5 bác sĩ ngoại quốc, 4 ở Nam Mỹ, 1 ở Bắc Phi, sang tu nghiệp vừa nội trú vừa thường trú. Chúng tôi họp thành một nhóm mà chúng tôi gọi đùa là ‘’ Peloton des Légionnaires’’ ( Tiểu Đội Lê Dương ). Nội trú người bản xứ được thi lấy bằng hành nghề vào năm thứ tư. Vì thế khi làm nội trú họ không phải lo thi cử gì cả. Các nội trú hay thường trú gốc Nam Mỹ hay Bắc Phi họ cũng thi lấy bằng hành nghề. Nhưng đậu thì cũng tốt, không đậu cũng chẳng sao. Đằng nào trước khi trở về nước họ cũng được cấp chứng chỉ đã tu nghiệp ở Canada. Riêng với nhóm nội trú Việt Nam thì chuyện thi lấy bằng hành nghề là một vấn đề sinh tử. Cho nên ngoài trực gác, chăm sóc bệnh nhân, phụ mổ, chúng tôi còn phải lo học thi. Đêm nào tôi cũng phải thức đến một hai giờ sáng để học. Và may mắn đã đến cho 3 trong 4 nội trú Việt Nam chúng tôi năm đó. Kể từ tháng 9 năm 1977 tôi chính thức trở lại nghề trên quê hương thứ hai của mình.

Mới đó mà đã gần nửa thế kỷ xa quê hương! Chừng nào tôi mới về thăm? Có lẽ phải chờ cái ngày mà miền Bắc chân thật nhìn nhận, vào thời điểm 30 tháng tư năm 1975, họ cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ quốc tế, chỉ khác hơn miền Nam một chút, họ được chọn làm con tốt sang sông, thế thôi.

- Hồi Ức Trang Châu

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22193
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Aug/2023 lúc 1:31pm

Nha Trang Ngày Về 

 1

Bài hát "Nha Trang Ngày Về" của nhạc sĩ Phạm Duy, hắn nghe không chán. Hắn như thấy rõ một anh chàng thất tình đang ngồi ở bãi biển ngó mong, nhớ lại thời cùng "người yêu trong cánh tay", cũng trên bãi biển này, bây giờ không biết người yêu ở đâu?! Với hắn, đi học ở Nha Trang, rồi yêu một cô nữ sinh Nha Trang, nên nghe bản nhạc, hắn cũng buồn man mác. Bây giờ hắn đã về Nha Trang và cũng ra bãi biển ngồi "một mình trên bãi khuya" để tưởng niệm lại mối tình không còn nữa. Nhưng khổ nỗi, mối tình của hắn chỉ là đơn phương nên không thể có người yêu trong cánh tay, và giây phút ngồi một mình trên bãi khuya, hắn chẳng có gì để tưởng nhớ, để tiếc nuối, để buồn rầu. Nói rõ ra, hắn không có kỷ niệm, vì thế, hắn ngồi trên bãi khuya một lúc là phát chán, lại sợ công an đến hỏi thăm hoặc mấy tên đầu gấu đến trấn lột. Việt kiều được nhìn như những tên mán mà túi áo, túi quần đầy ắp đô la.


Thời đi học, hắn có yêu một nữ sinh, nhưng em không yêu hắn, em yêu một tên khác, dù vậy, hắn vẫn cứ yêu em. Năm bảy lăm, hắn may mắn cùng gia đình đi thoát. Ở Mỹ, hắn vẫn mơ tưởng đến em. Hiện nay, hắn đã tốt nghiệp đại học, làm lương khá, hắn về thăm bà con ở quê rồi lên Nha Trang tìm em. Nhưng đã ba hôm rồi mà hắn không biết em đang ở nơi nào? Nhà em, tiệm buôn trước chợ Nha Trang, bây giờ cửa sắt đóng im ỉm.

Một buổi sáng, hắn ra ngồi trước thềm nhà em, tức là cái tiệm buôn ngày trước, hy vọng em ra vào, hắn sẽ đến chào hỏi. Trước kia hắn vẫn thường la cà vào tiệm này chỉ để ngắm trộm em chứ không dám nói chuyện. Cái lối lúng túng, ngập ngọng của thằng học trò mới lớn trước người đẹp tố cáo hắn si mê em, em không đáp lại nhưng vẫn tử tế lịch sự. Bây giờ hắn nghĩ, có đô la là có tình yêu, hắn sẽ mạnh dạn, tự tin khi gặp em. Nhưng khi cửa mở, hắn nghe những người trong nhà nói chuyện với nhau bằng giọng Bắc Kỳ bảy lăm thì hắn biết ngay, gia đình em đã bị đánh tư sản, nhà cửa đã bị tịch thu. Đương nhiên cả gia đình phải đi kinh tế mới. Cái tổ chim bị người ta phá thì mấy con chim phải bay tứ tán! Biết em ở nơi nào?


Nha trang thay đổi quá nhiều, cả đến tên đường cũng thay đổi. Ngày trước, hắn ở dưới quê lên tỉnh trọ học, không quen biết nhiều, nay bạn bè chẳng thấy đứa nào, thế nên hắn cứ lơ ngơ như chó mất chủ. Chỉ còn vài hôm nữa là hắn phải từ biệt Nha Trang, về Sài Gòn, chuẩn bị lên máy bay về Mỹ thì hắn gặp lại em. Chỉ tình cờ thôi. Buổi tối đó, hắn lang thang vơ vẩn trên đường phố rồi ghé vào một quán cà phê. Quán chỉ loe hoe vài người khách. Thường thì hễ không có khách, chủ bèn kêu nhân viên la ngồi cho bớt vắng vẻ, thấy đông, người ta mới vào. Thế nên, khi hắn vào một góc quán, gọi một ly cà phê rồi ngồi chống cằm lắng nghe mấy chị đàn bà tụ tập bàn bên cạnh chuyện trò. Cô, bà nào cũng thế, hết chuyện mình đến chuyện người, nói sa đà quên cả thế gian. Hắn chú ý nghe một cô được gọi tên là Hạnh, nói.

Bịnh viện ở đây không đủ máy móc, phương tiện, phải vào Sài Gòn mới mổ được, nhưng tốn lắm, năm, bảy triệu chưa chắc đủ. Mà không mổ, e khó qua khỏi.

Trong ánh đèn lờ mờ, hắn nhận ra cô Hạnh, người hắn muốn tìm, nhưng hắn vẫn yên lặng, trả tiền và ra về.

Sáng hôm sau hắn lại đến. Quán đông người, ồn ào tiếng người nói, tiếng nhạc, khói thuốc mù trời. Hắn không thấy cô Hạnh đâu. Lúc trả tiền, hắn hỏi cô thu ngân.

- Cô Hạnh không làm ban ngày ở đây hả chị?

Cô này không đẹp, có lẽ không được chàng nào nhìn đến nên trông quạu quọ.

- Con Hạnh chỉ làm buổi tối thôi.

- Ban ngày cô ấy làm ở đâu?

- Nó phải ở nhà lo việc nhà. Con còn nhỏ, chồng bịnh hoạn.

Lúc nhận tiền thối, hắn để lại một tờ bạc lớn, coi như tiền "típ" nên cô không còn trả lời nhát gừng nữa.

- Tôi với cô Hạnh là bạn học tuy khác lớp, sau này tôi vào Sài Gòn sinh sống nên không rõ cô ra sao, chồng con thế nào?

- Chồng nó là thằng bồ lúc còn đi học, sau đi sĩ quan. Năm bảy lăm sập tiệm, ai cũng lo thất thần, chỉ mình hắn chạy đi tìm thằng bồ. Chồng thì nói làm gì, đây chỉ mới đám hỏi thì mạnh ai nấy lo. Vậy mà hắn vô tuốt bịnh viện Cộng Hòa đón thằng chồng chưa cưới cụt chân về. Hắn kể, lúc đó quân giải phóng vô, đuổi hết thưong binh "ngụy" ra, họ bò lết đầy đường, máu me tùm lum, ai không bò ra được thì bị "cách mạng" bắn "bùm" một phát rồi đem vất xuống hố, may hắn vô kịp, thống chồng chưa cưới vừa mới bị thương, nằm một đống, cục cựa không được nói gì bò đi.

- Kể ra cô ấy cũng chung tình.

- Thì chung tình mới thành cái của nợ suốt đời. Sau giải phóng, hai bên nhà trai, nhà gái đều bị đánh tư sản, phải đi kinh tế mới, lên núi, vô rừng mà sống, dân thành phố mà bắt cuốc đất trồng khoai thì chỉ có nước chết đói. Mới mò về được mấy năm nay. Thằng chồng què ra vá xe đạp còn hắn thì đến đây làm, vừa rồi nghe nói bị bịnh tim, phải mổ xẻ sao đó, chịu chết chứ tiền đâu?

Giọng hằn học vô lý mà hắn thường nghe ở các cô gái lỡ thì.

- Khổ như thế thì đừng lấy chồng còn hơn.

Cô đồng ý ngay.

Ở một mình cho sướng, lấy chồng, rủi gặp thằng cà chớn chỉ thêm khổ.

Tôi nghe nói mấy chàng Việt kiều có tiền, dễ tìm người yêu lắm, có đúng vậy không?

- Đâu cần phải Việt kiều, cứ có tiền là có thể mua quả tim của bất cứ người đẹp nào. Vợ tổng thống Mỹ, vừa chết, thằng tỷ phú già khú đến dẫn về, đời mà!

Hắn khen.

- Chỉ có chị nói chuyện là hợp ý tôi.

Chuyện trò đến đấy hắn ra về.

2 

Tối đó hắn lại đến, ngồi ở một góc tối trong quán. Khi cô Hạnh mang cà phê đến, hắn hỏi.

- Cô có phải tên Hạnh không?

- Dạ phải? Sao anh biết em?

- Trước bảy lăm, tôi thường đến tiệm buôn của gia đình cô.

Cô nhìn hắn chăm chú rồi "À" lên một tiếng.

- Em nhớ ra rồi! Anh là anh Hồng. Anh học trên em một lớp. Mà anh ở đâu mới về Nha Trang phải không?

- Tôi ở Mỹ, về thăm Việt Nam, độ vài hôm nữa phải vô Sài Gòn chuẩn bị lên đường.

Cô tò mò.

- Nghe nói mấy người ở Mỹ giàu lắm?

- ít có người nào gọi là giàu, nhưng đồng đô la ở Việt Nam quá lớn nên tiêu xài thoải mái, thấy thế người ta bảo là giàu.

Rồi hắn hỏi.

- Cô Hạnh làm ăn, sinh sống ra sao?

Cô ngồi xuống bên cạnh làm ra vẻ chán nản.

- Buôn bán ế ẩm quá, không đủ sở hụi, em định bán quán cà phê này, tìm lập một quán nhậu, khá hơn. Nhưng khi hỏi được chỗ thì lại không đủ tiền. Vay nợ chỉ lo trả tiền lời cũng đủ chết.

Hắn biết cô chỉ là người làm công ở đây thôi nhưng vẫn hỏi.

- Nếu lập quán nhậu, phải tốn bao nhiêu?

Cô mừng rỡ nhưng cố bình tỉnh.

- Anh có định cho em mượn tạm không? Rồi em sẽ trả lại anh sau. Lập quán nhậu lời lắm. Hay là anh em mình hùn hạp làm ăn. Anh bỏ vốn, em bỏ công ra, mình chia lời.

Vài hôm nữa tôi về Mỹ rồi, làm sao chia lời được. Tôi cho vay. Hạnh cần bao nhiêu?

- Em chỉ cần bốn năm trăm đô là đủ, không kịp chung tiền, chủ sang cho người khác, mất dịp may uổng lắm. Quán đông nghẹt khách, chiều nào cũng ngồi tràn ra đường!

- Được rồi, tối nay tôi chờ Hạnh ở ngã tư đằng kia, Hạnh về lúc mấy giờ?

- Em về khuya, nhưng em sẽ ra gặp anh sớm, độ mười giờ, anh chờ em ở đó nghe.

- Đồng ý nhưng tôi nói trước cho Hạnh chuẩn bị tinh thần. Hạnh nhận tiền tôi thì tôi cũng được món quà gì chứ, phải không?

Cô sửng người, nhưng bình tĩnh lại.

- Anh muốn món quà gì em cũng chịu cả, vì em cần tiền gấp lắm.

- Món quà đó chỉ riêng Hạnh có mà thôi. Nói thế Hạnh hiểu rồi. Suy nghĩ kỹ đi, lát nữa trả lời.

Lúc trả tiền hắn móc một nùi bạc để xuống mấy tờ mà không lấy tiền thối, lúc đó cô Hạnh mới tin hắn đúng là Việt kiều.

3

Hắn đi lang thang, ngơ ngáo, thấy gì cũng nhìn. Đến trước tiệm buôn xưa kia của gia đình cô Hạnh, hắn ngồi xuống thềm nhà. Hắn nhớ lại thời còn đi học, hắn si mê cô Hạnh, tối nào học bài một lát hắn lại đến trước nhà cô, ngồi ngay trên thềm, suy nghĩ vẩn vơ, tưởng tượng người đẹp của hắn đang ngồi học bài trên lầu. Hắn đã từng ước được biến thành cái ghế cho em ngồi, cái bàn cho em tì tay, được làm cái cặp để em ôm vào ngực mỗi khi đi học. Hắn biết (lúc bấy gìờ) tất cả chỉ là không tưởng, vì cô Hạnh đã có người yêu, nhưng hắn chỉ buồn và càng yêu cô thêm chứ không hề ghen tức.


Ngồi một lát, nhìn đồng hồ, hắn đứng dậy đi đến chỗ hẹn. Vừa đến nơi hắn đã thấy cô Hạnh xuất hiện. Từ xa, nhìn dáng đi, cô không thay đổi và gương mặt vẫn còn những nét cũ. Hắn lại nhớ đến ngày trước, nhiều lần hắn gặp cô đi trên đường phố, dáng uyển chuyển, gương mặt đẹp, sáng rỡ như đóa hoa, tóc bay trong gió. Hình ảnh đó vẫn còn trong tâm trí hắn. Nhưng lúc đó cô không quen thân gì lắm. Bây giờ mới chính thực là cô đến với hắn. Hắn không ngờ đồng tiền có sức mạnh đến cỡ đó. Mua được nguyên một con người, một người đẹp.


Khi cô đến gần hắn mới thấy rõ, cả người cô đã được phủ lên những nét phong sương, gian khổ. Mái tóc mượt mà ngày xưa, bây giờ lơ thơ, lùi xùi như không hề được chải gỡ. Cô dừng lại trước mặt hắn, hắn nhìn chăm chăm cô khiến cô bối rối. Hắn thấy cô quá ốm, hai má tóp lại, cổ như cao hẳn lên, cánh tay khẳng khiu như của người bịnh, chỉ bộ ngực là nổi rõ dưới áo, hắn đoán cô mới sinh con, còn căng sữa. Hắn bảo.

- Mình ra bãi biển đi, nói chuyện tiện hơn.

Cô ngập ngừng.

- Anh cho em đi sau anh được không?

Được chứ, nhưng đến bãi biển, tối và vắng người, mình đi bên nhau.

Cô đi sau hắn một quãng ngắn. Ra đến bãi biển, ánh sáng chỉ còn lờ mờ, hắn đi chậm lại, cô đi bên hắn. Rồi hắn kéo tay cô cùng ngồi xuống. Hắn nhớ lại trước đây hắn đã từng ra bờ biển buổi tối, ngồi một mình mơ mộng, ước ao có cô Hạnh bên cạnh.


Hắn yên lặng nhìn ra mặt biển mịt mù tối tăm, gió biển thổi mát lạnh, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào bờ "Nha Trang ngày về... người yêu trong cánh tay" Hắn choàng tay qua vai cô Hạnh. Cô co rúm người lại. Hắn nghe cô thở gấp, rồi cô lặng lẽ khóc. Hắn hỏi.

- Sao Hạnh run dữ vậy?

- Em lạnh quá!

- Có cần tôi ôm Hạnh không?

- Không, không!

Cô nói giọng hoảng hốt. Hắn rụt tay lại, không còn ôm vai cô nữa. Rồi cả hai cứ ngồi yên lặng như thế, một lúc thật lâu, hắn hỏi.

- Hạnh cố nhớ lại cảm tưởng trước bảy lăm và cảm tưởng bây giờ. Hạnh thấy Nha Trang thế nào?

Cô lau nước mắt, suy nghĩ rồi nói.

Nha Trang không còn là của em nữa. Nhà cửa, đường phố, cây cối vẫn vậy, nhưng em thấy xa lạ quá. Trước kia hễ đi đâu xa Nha Trang, em nhớ, khi về em mừng rỡ, như gặp lại mẹ, gặp lại bạn thân. Bây giờ em dửng dưng, . Từ khi bị cách mạng tịch thu nhà, không bao giờ em đi ngang nhà cũ của em. Hễ thấy nhà cũ của em là em khóc. Em nhớ mẹ em, nhớ ba em và các em của em. Nhớ những ngày hạnh phúc, vô tư trước ngày mất nước.

- Bây giờ các người đó ở đâu?

- Ba mẹ em đã mất rồi, mấy đứa em vẫn còn trên kinh tế mới. Chúng không muốn về lại Nha Trang... Chỉ nửa năm ở kinh tế mới, mẹ em đã lâm bịnh nặng. Những khi mê sảng, mẹ em cứ kêu lên "Tôi lạy các ông! Chúng tôi xin đi. Các ông đừng bắn. Tôi lạy các ông!" Chỉ vì bị tịch thu tài sản mà ba mẹ em không chịu, cứ khóa của ở trong nhà, họ phải phá cửa, vô bắt cả nhà, bỏ lên xe, đưa lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng.

Giọng cô đều đều, bình thản, như đang kể chuyện của người khác.

- Em đang ở Nha Trang mà lại nhớ Nha Trang kỳ lạ. Nha Trang ngày xưa của em.

- So với Cải Cách Ruộng Đất ... họ nhân đạo hơn nhiều. Hạnh nên "cám ơn" họ. Nhưng ngay tại đây, tôi biết Hạnh còn sợ một loại người khác nữa. Đó là Việt kiều.

- Em không hiểu ý anh?

- Tôi ôm vai Hạnh, Hạnh sợ đến phát khóc.

- Không phải đâu, sợ anh thì ít, nhưng em khóc vì em đang nghĩ đến chuyện riêng của em, em lo buồn quá! Em rất cần anh giúp em.

Rồi cô tựa vào người hắn, như chiều lòng hắn, nhưng hắn đã đứng lên.

- Bây giờ mình về. Tôi cần Hạnh ra đây để hỏi rõ về quyết định của Hạnh, nếu Hạnh đồng ý, tối mai lúc mười giờ, tôi chờ Hạnh ở ngã tư lúc nãy, chúng ta sẽ đến một nơi, Hạnh sẽ nhận được tiền và tặng cho tôi món quà mà tôi thích, chắc Hạnh hiểu. Nếu không đến, là Hạnh từ chối.

Cô yên lặng một lúc.

- Em sẽ đến, chỉ sợ anh đổi ý thôi. Cố giúp em nghe anh!

4


Hắn giã từ cô, đi lẫn vào bóng tối. Chờ cho cô Hạnh đi một quãng xa, hắn đi theo, cố cho cô không thấy được hắn, dù đôi lúc cô quay nhìn phía sau. Cô đi vào một con hẻm tối om, tối đến độ hắn chỉ nhận được dáng cô lờ mờ phía trước. Rồi cô mở của bước vào một chái nhà, đóng cửa lại. Chái nhà rộng vài mét, dài độ năm mét, tựa vào vách tường của con hẻm. Hắn nép vào vách nhìn qua cửa sổ mắt cáo. Một ngọn đèn nhỏ leo lét để trên một cái bàn cũ đen thùi. Cạnh bàn là ruột chiếc giường, buông mùng, có người đang ngủ, đầu giường là một cặp nạng của người què. Một cái nôi, treo gần đấy, cũng buông mùng, hình như có em bé ở trong.

Cô để xách tay trên bàn, vén mùng chui nửa người vào giường, cúi xuống như hôn người nằm ngủ. Hắn lắng nghe nhưng không rõ tiếng đối đáp. Chợt có tiếng ọ ẹ trong nôi, cô chui ra, nắm tô nôi vừa đưa vừa như chuyện trò với đứa bé.

- Ngủ đi con, để mẹ và ba ăn cơm xong, sẽ cho con bú, từ chiều tới giờ, ba cho con uống nước cháo hoài, đâu bổ béo gì.

Rồi cô quay lại nói với người nằm trên giường.

- Lúc chiều em gặp con bạn Việt kiều, nó học cùng lớp với em lúc trước, vợ chồng nó về thăm Nha Trang. Nó hứa cho em mượn mấy trăm đô, mai mốt nó ghé đưa. Có tiền, em sẽ đưa anh vào Sài Gòn.

Có tiếng nói gì đấy. Cô bảo.

- Mẹ con em chỉ ở nhờ độ một tuần để săn sóc anh trong bịnh viện. Nếu họ khó khăn thì mẹ con em nằm ở hành lang bịnh viện. Nhiều người ở quê đưa người nhà nằm bịnh viện cũng phải sống như vậy, đâu có sao!

Cô nói với giọng nhỏ nhẹ, âu yếm và vui, rồi cô cất giọng ru con "Ầu ơ... Cầm con dao sắc, cắt một củ gừng. Bỏ vô nồi đất, sắc lại vài phân... Cái tay em bưng, cái chưn em bước. Mái tóc em xước, cái lược em rơi... Ầu ơ... Vừa đi vừa vái ông trời, cho chồng em lành bịnh ở đời với em"

Hắn lặng lẽ quay về.

5

Cô Hạnh y hẹn ra với hắn, cô vẫn xin đi sau hắn một quãng. Đường phố còn đông đúc người qua lại, đèn từ các cửa tiệm sáng ra đến ngoài đường. Đến một cửa hàng, hắn ghé mua một thùng sữa hộp, kẹp vào nách đi tiếp. Cô Hạnh vẫn lẽo đẽo theo sau. Đến một tiệm cơm sang trọng, hắn dừng lại chờ cô.

- Hạnh có định ăn cơm với tôi không?

- Cám ơn anh, em còn no.

- Thì mình vào đây uống nước.

- Dạ!

Cô và hắn ngồi đối diện.

- Thường thì Hạnh thích ăn gì ? Thịt hay là cá?

Cô cười buồn rầu.

- Lúc nhỏ em kén ăn lắm. Bây giờ, có gì để ăn đâu mà chọn lựa.

- Bên Mỹ ăn uống thừa mứa, mấy người Việt tỵ nạn cũng bắt chước đế quốc tư bản, không dám ăn thịt, sợ mập quá, sợ đứt gân máu chết bất tử. Để tôi gọi một ít thức ăn mang về.

Hắn ra dấu, bà chủ tiệm đến với tờ giấy, hắn kê một lô thịt quay, cá chiên, cá kho, thịt kho... Một lát người làm để trên bàn hai xách thức ăn, hắn trả tiền, cầm lấy, ôm thùng sữa, đi ra.

- Bây giờ Hạnh theo tôi.

Cô biến sắc, riu ríu đứng dậy, mặt cúi gầm, lẵng lặng theo hắn. Ra khỏi tiệm, hắn tiếp tục đi, đến một chỗ vắng, dưới mái hiên, hắn dừng lại chờ cô.

- Hạnh có thay đổi quyết định không? Bây giờ vẫn chưa muộn.

Cô lắc đầu, buồn thảm.

- Em chẳng còn con đường nào khác!

Hắn móc bóp rút mấy tờ trăm đô, đưa cô Hạnh.

- Xin lỗi Hạnh, tôi đã làm Hạnh sợ thất thần. Tôi không có ý xấu gì với Hạnh đâu, tôi muốn thử Hạnh và cũng muốn chiêm nghiệm một số ý nghĩ của tôi. Đây là tất cả số tiền tôi có, Hạnh cầm lấy. Tôi đã được biết chút ít về hoàn cảnh Hạnh. Tôi rất kính phục Hạnh, kính phục tấm lòng chung thủy của Hạnh. Chồng Hạnh là một người lính may mắn, sẽ rất hãnh diện và tri ân Hạnh. Tôi tin rằng miền Nam Việt Nam của chúng ta còn rất nhiều tấm lòng, quả tim như Hạnh. Trời sẽ không phụ lòng họ. Đất nước sẽ qua cơn hoạn nạn, chúng ta sẽ có dịp vinh danh những quả tim cao quí đó.


Cô Hạnh nhìn sững hắn. Rồi cô ôm mặt khóc nức nở. Hai vai cô rung lên.

- Em muốn quì xuống lạy anh để cám ơn anh đã cứu mạng chồng em.

Hắn vỗ vỗ lưng cô như dỗ dành đứa em gái.

- Nín đi! Người ta nhìn thấy kìa! Đây là địa chỉ của tôi ở Mỹ , cần gì Hạnh cứ gọi cho tôi. Tên tôi được thêm chữ thị ở giữa, vậy là chồng Hạnh sẽ nghĩ rằng tôi là bạn gái của Hạnh. Đàn ông rất tự ái, thà chết chứ họ không chịu nhờ vả người đàn ông nào mà họ không biết rõ, nhất là thông qua người vợ của mình. Đừng cho chồng Hạnh biết gì về tôi cả.

Cô lau nước mắt.

- Cám ơn anh, em chỉ cần chừng này là đủ.

- Dù sao cũng phải nhớ gọi tôi nếu có gì khẩn cấp mà không xoay xở được. Bây giờ Hạnh thử nói thật cho tôi nghe, giả như chuyện đó xảy ra, chồng Hạnh biết, Hạnh nghĩ sao?

Cô thở dài.

- Em đã cùng đường rồi, thân em có sá gì, phải cứu chồng em trước đã, sau đó ảnh có biết chuyện xấu xa của em, có bỏ em, em cũng vui lòng. Nhục nhã quá thì em tự tử.

- Thế thì Hạnh mất hạnh phúc rồi còn gì? Mục đích của Hạnh là cứu chồng để được sống bên chồng. Cứu được chồng rồi bị chồng bỏ! Cũng như không!

- Em không hiểu được thế nào là hạnh phúc, nhưng em đã đi khắp đình chùa, miếu võ, em khóc lóc, cầu lạy, năn nỉ các ngài làm sao cứu được chồng em khỏi bịnh, rồi sau đó có bắt hồn em đi, cho em chết thay chồng, em cũng vui lòng. Em thương chồng em lắm.

Cô nói xong, quên cả khóc, nhìn hắn cười. Giọng như tâm sự với bạn thân.

6 

Rằm này em sẽ vô chùa, xin cạo đầu và ăn chay ba tháng để cám ơn Trời Phật phò hộ gia đình em được tai qua nạn khỏi và để cầu Phật độ trì cho người có lòng tốt như anh luôn được sức khỏe, may mắn.

Hắn buồn cười.

- Hạnh cầu Trời Phật từ bao giờ mà nói nghe như văn chương của mấy bà già trầu?

Cô đã trở lại vẻ tự nhiên.

- Từ lúc gặp anh, nghe anh nói, em vùa hi vọng vừa lo sợ. Em sợ đến nổi không ngủ được, em cứ ôm chồng mà ứa nước mắt. Em không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra cho em? Rồi em cứ van vái, với thần thánh, Phật, Chúa, ma quỉ, cô hồn các đảng, những người khuất mặt, xin cứu chồng em, xin cứu em. Bây giờ em cũng đang khóc đây! Đừng cười em nghe!

Cô ngước nhìn hắn. Quả thật, cô cười mà nước mắt chảy dài trên má.

- Hai đứa đứng nói chuyện lâu quá, mà Hạnh thì vừa khóc vừa cười, người ta có thể hiểu lầm. Bây giờ Hạnh đi xích lô về.

Hắn gọi một chiếc xích lô, cô Hạnh lên ngồi. Hắn để mấy xách thức ăn, thùng sữa hộp dưới chân cô. Xe lăn bánh, cô xoay người lại phía sau, vẫy tay chào hắn. Bỗng cô ra dấu cho xe ngùng. Hắn tiến lại, cô thì thầm vào tai hắn.

- Năm trăm đô, thì anh mua gái tơ, sá gì nạ dòng như em. Bây giờ em mới nhớ lại, trước kia anh có yêu em. Anh thật... làm em thất kinh hồn vía!

Hắn cũng thì thầm.

- Đâu phải chỉ trước kia, bây giờ tôi vẫn yêu Hạnh. Hiếm người có được một quả tim như Hạnh.

Cô đưa tay lùa mái tóc ra phía sau. Hắn nhớ rõ, trước kia cô vẫn thường làm như thế. Cô lại nhìn hắn và cười khi chiếc xích lô lăn bánh.

 

Phạm Thành Châu

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 94 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.383 seconds.