Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 94 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Apr/2021 lúc 8:27am


Giọt nước mắt của lính

Giọt%20Máu%20Rơi%20Của%20Người%20Lính%20Chết%20Trẻ%20-%20Viết%20Về%20Nước%20Mỹ%20-%20Việt%20Báo%20Viết%20Về%20%20Nước%20Mỹ

LTS: Đây là một chuyện thật, không có một chút nào hư cấu, chúng tôi là một người lính tác chiến, chiêm nghiệm, có một sự huyền bí mà không giải thích được trong việc trùng phùng giữa cha con sau 40 năm, người SQ/BĐQ hoàn toàn không biết mình đã có một đứa con, TCDV chỉ hiệu đính các lỗi “hỏi ngã”, còn giữ nguyên toàn bộ lời kể của người trong cuộc.
TCDV cho đăng câu chuyện hi hữu này, để riêng tặng cô Hoàng Mai, chủ Snack-Bar tại mũi Nhà Bè các năm 1969, 1970 và các bạn MN đã từng đóng quân nơi này.
Germany, 12.03.2016
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN (TĐ51/LĐ6BĐQ/QLVNCH)


Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

- Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..

Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:

- Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:

Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )

*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả...

Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái...họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó.. Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhì Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã.... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.

Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuôc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật...tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.

- Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?

Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời...

Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.

Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.

Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

- Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!

Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!

Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:

- Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.

À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

- Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.

Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm...

1. CHÚT QUÀ GỬI EM

Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.

Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng...

Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.

Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.

Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?

Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.

Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.

Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.

Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.

Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.

Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.

- Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh,

2. GỬI EM CHÚT QUÀ

(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm....

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan.....

Người lính không tên...

*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà..

Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi...

3. GIỌT NƯỚC MẮT BIẾT ĐAU

Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.

Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.

Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé,

Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.

Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.

Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân. Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.

Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả...Pleime.

Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.

Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.

Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây....Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.

Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.

Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.
...

Cuối tháng Tư 75.

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.

Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.

Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.

Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.

Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.

Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.

Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!

Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ...

4 - GIỌT NƯỚC MẮT TRỞ HỒNG LONG LANH
( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau )

Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.

Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.

Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.

Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.

Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn....


mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu...

Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .

Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.

Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.

Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:

- Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.

Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.

Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.

Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.

Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.

Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.

Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.

Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.

Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

40 năm sau
.......

Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:

- Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:

- Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này?

Bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:

- Anh

- Em...

Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.

Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?

- Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.

Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.

Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.

Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.

Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.

- Sao em lại để dành số tiền này vậy?

- Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.

- Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được

- ???

- Vì em không phải cần đến số tiền đó nên...

Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:

- Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.

Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:

- Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.

Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :

- Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:

- Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.

- Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm...Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

đht

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Apr/2021 lúc 8:51am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Apr/2021 lúc 8:34am
Long%20Hồ%20Vĩnh%20Long:%20Thơ%20Tranh:%20Tháng%20Tư%20Sầu
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 7:40am

THÁNG TƯ XƯA   <<<<<


30%20tháng%204%20NHỚ%20VỀ%20THẾ%20HỆ%20TRẺ%20NĂM%20XƯA%20-%20Báo%20Quốc%20Dân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 7:46am

NGÀY VƯỢT BIÊN NHÌN LẠI   <<<<<

Ngày%20vượt%20biên%20nhìn%20lại%20-%20Chuyện%20vượt%20biên%20-%20Hưng%20Việt


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Apr/2021 lúc 7:47am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 1:15pm

VĂN: "DÒ SÔNG DÒ BIỂN DỄ DÒ - MẤY AI LẤY THƯỚC MÀĐO LÒNG NGƯỜI" - ' MẶT HOA DA PHẤN'   <<<<<


VĂN:%20"DÒ%20SÔNG%20DÒ%20BIỂN%20DỄ%20DÒ%20-%20MẤY%20AI%20LẤY%20THƯỚC%20MÀ%20ĐO%20LÒNG%20NGƯỜI"%20-%20%20MẶT%20%20HOA%20DA%20PHẤN%20-%20YouTube
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Apr/2021 lúc 8:45am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Apr/2021 lúc 7:53am

Tản Mạn Tháng Tư: Cái Bóng Cuộc Chiến Và Món Nợ 45 Năm 


Đã kết thúc đúng 45 năm, nhưng cái bóng của cuộc chiến ấy dường như vẫn luôn bám theo đằng sau, nhiều lúc muốn chụp phủ lấy tôi như bóng ma, một thứ “bóng đè”, làm tôi muốn ngộp thở.

Từ giã học đường, tôi vào lính khi còn rất trẻ. Cũng không hẳn vì thích đời binh nghiệp, nhưng ý thức trách nhiệm làm trai trong lúc đất nước đang trong khói lửa chiến tranh, nhìn quanh bạn bè thân quen đều lần lượt nhập ngũ, và gần như con đường nào rồi cuối cùng cũng dẫn tới một quân trường, nên đúng như lời một bài hát cũ, “năm 21 tuổi tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai”.

Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải qua nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp chỉ huy tài ba đảm lược, những chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không nhớ là  tôi đã hướng dẫn họ được những gì, nhưng chắc chắn tôi đã học được ở họ sự trung thành, lòng can đảm và nhiều kinh nghiệm chiến trường. Trong hơn mười năm chiến trận, tôi từng được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là công trạng của mình, khi hình dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội dưới quyền đã hy sinh, trong lúc mình vẫn đang còn sống? Tôi không bao giờ quên được những ánh mắt của họ đã nhìn tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ muốn trăng trối, gởi gấm hay oán trách điều gì. Tôi thường giành phần để được vuốt mắt họ khi tình hình có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là đã không bảo vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đã mắc nợ khá nhiều xương máu của đồng đội anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ còn trả được.

Phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần bại trận. Ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, chúng tôi vẫn chiến thắng vẻ vang, như trận phản phục kích trên QL-20 gần Di Linh (Lâm Đồng), trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Phan Thiết, trận phản công tiêu diệt một lực lượng biển người của địch tại Pu-Brang (Quảng Đức) và đặc biệt nhất là trận chiến Kontum mùa Hè 1972. Vậy mà cuối cùng chúng tôi bỗng dưng trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có gãy súng, buông súng hay không, chúng tôi cũng thuộc về phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là một thằng lính năm tháng ở trong rừng núi, ngộp thở với bao nhiêu thứ lệnh lạc trên chiến trường, tôi không biết gì về chính trị, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày cuối cùng tại thủ đô Sài gòn, nhưng tôi cảm thấy “nhục!”

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội Đồng Minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá. Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. 

Thua một kẻ địch không đáng để thua. Và một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. (Có lẽ trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội Dương Thu Hương và có thể còn nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một đất nước tự do, văn minh, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần xứ sở của mình.)

Điều đau lòng và đáng tủi nhục hơn là thua quá nhanh. Hai cuộc triệt thoái sai lầm tệ hại, từ Pleiku theo Tỉnh Lộ 7B của Quân Đoàn II và từ bờ biển Thuận An của Quân Đoàn I, dự trù theo đường biển, đã thất bại quá nặng nề bi thảm, không những làm mất hai quân đoàn ở những tuyến đầu cùng cả một sư đoàn tổng trừ bị tinh nhuệ, mà quan trọng hơn, làm mất tinh thần và niềm tin chiến đấu cho quân, dân cả nước. Điều đau đớn và tội nghiệp nhất của người lính chiến là khi họ không còn niềm tin vào cấp chỉ huy, lãnh đạo của mình. Đánh giặc mà không có hậu phương, không còn được tiếp tế, không có viện binh, có nơi không có cả cấp chỉ huy, và nhất là không biết cắt bỏ đất đến đâu, thì trận đánh đó trở thành bi thảm, niềm tin chiến thắng trở nên rất mong manh, vô vọng, người lính nếu còn chiến đấu chỉ vì tình đồng đội và tự vệ cho sự sống còn của chính cá nhân mình.

Mặc dù ghi được hai điểm son cuối cùng trong quân sử (– Tại Ban Mê Thuột, chỉ một tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung Đoàn 53 được tăng cường hai Trung Đội PB 105 ly và một Đại Đội Trinh Sát, dưới sự chỉ huy của Trung Tá Võ Ân, quyết tử thủ tại căn cứ B50 bên phi trường Phụng Dực, đã dũng cảm chống trả một lực lượng hùng hậu của địch, với quân số gấp 5, 7 lần cùng nhiều chiến xa T-54, bao vây đúng một tuần sau khi cả thành phố Ban Mê Thuột đã thất thủ, tiêu diệt nhiều đơn vị, chiến xa địch, cho đến khi cạn đạn dược, phải mở đường máu thoát ra – và tuyến thép Long Khánh của Tướng Lê Minh Đảo đã cầm chân cả hơn một quân đoàn Cộng sản gần hai tuần lễ, gây tổn thất nặng nề cho địch, làm ngỡ ngàng cả thế giới, nhất là Tòa Bạch Ốc); nhưng cũng chỉ đúng 50 ngày, kể từ khi mất Ban Mê Thuột, một quân lực hùng mạnh gần như tan rã,  và cả miền Nam mất vào tay giặc!

Ngoại trừ phần lớn lực lượng Hải Quân và Lữ Đoàn I Nhảy Dù có phương tiện ra đi theo kế hoạch, một số thuộc các đơn vị Không Quân, và từng nhóm hoặc cá nhân mang theo gia đình tự vượt thoát bằng các loại phi cơ, ghe tàu kiếm được, hầu hết còn lại phải vào tù, từ những tướng lãnh đến sĩ quan mới ra trường, có cả một số hạ sĩ quan giữ những chức vụ liên quan tới an ninh, tình báo. Một số không nhỏ đã bị “bên thắng cuộc” tàn sát dã man tại địa phương, ngay sau khi cướp lấy chính quyền. Đặc biệt đáng kính phục, một số tướng lãnh cùng nhiều cấp chỉ huy và binh sĩ khí phách đã tự sát vào giờ thứ 25 để giữ tròn tiết tháo. Cả một miền Nam thua trận đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Tiền bạc (có được từ mồ hôi nước mắt và có khi bằng xương máu) bỗng chốc không còn giá trị, nhà cửa, tài sản bị cướp sạch dưới danh nghĩa tịch thu, rất nhiều gia đình từ ông bà già đến những đứa con nít sơ sinh bị xua đuổi, cưỡng bách đi đến những nơi rừng thiêng nước độc. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng!

Hơn tám năm bị đày ải qua nhiều trại tù Nam-Bắc, ngày trở về tôi không còn được nhìn lại mặt cha mình. Ông đã chết sau gần một năm bị bắt vào một trại tù khác trong Nam khi tuổi sắp 70. May mắn là tôi còn người vợ chung tình cùng tôi qua bao cuộc biển dâu, bươn chải nuôi đàn con dại, cho dù bữa no bữa đói.

Nhìn thấy vợ con đói khổ, tả tơi, mình chẳng có thể giúp được điều gì, mà còn tạo thêm gánh nặng, cuối cùng, chỉ còn cách duy nhất – đem hết sinh mạng cả nhà để đánh một canh bạc cuối cùng – vượt biển.

***

Tôi đến trại tị nạn khi phong trào kháng chiến, phục quốc đang trong thời kỳ đỉnh điểm. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do vị tướng Hải Quân Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, nghe nói có căn cứ, chiến khu ở đâu đó trên đất Thái Lan gần biên giới Lào-Việt. Có cả tờ báo và đài phát thanh Kháng Chiến. Tôi cùng rất nhiều anh em nức lòng hăng hái tuyên thệ để được trở thành đoàn viên. Đứng trước bàn thờ tổ quốc, đưa tay lên chào lá quốc kỳ, hô mấy lời thề mà trong trái tim bừng lên khí thế và nước mắt rưng rưng cảm động. Nhiều người sẵn sàng trở về chiến đấu. Riêng tôi còn tin tưởng và phấn chấn hơn khi được xem cuốn phim quay trong “chiến khu quốc nội”, nhận ra người bạn học đồng hương thân thiết, một sĩ quan TQLC, là kháng chiến quân cầm súng đứng bên cạnh Trung Tá Lê Hồng (bấy giờ được gọi là Thiếu Tướng Đặng Quốc Hiền), dưới lá cờ vàng phất phới tung bay giữa núi rừng biên giới.

(Tr/Tá Lê Hồng trong chiến khu)

(Trung Tá Lê Hồng là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong binh chủng Nhảy Dù, mà tôi từng biết danh và kính phục. Ông xuất thân từ người lính binh nhì và hầu hết những cấp bậc đều được vinh thăng tại mặt trận. Sau trận chiến Long Khánh lẫy lừng, cùng sát cánh với SĐ 18 của Tướng Đảo, ngăn chặn hằng cả quân đoàn Bắc Việt có nhiều chiến xa, trên đường tiến chiếm Sài gòn, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù di chuyển về Gò Công, tìm đường để về Vùng 4 chiến đấu cùng Tướng Nguyễn Khoa Nam, nhưng đã quá muộn, không còn thời gian và cơ hội nữa. Với chức vụ Lữ Đoàn Phó LĐ1/ND, Trung Tá Lê Hồng đã thừa lệnh vị Lữ Đoàn Trưởng tìm mua ghe thuyền đưa toàn quân ra biển. Và đó là đơn vị Lục quân tác chiến duy nhất đã di tản toàn bộ đến Hoa Kỳ.)

Nhưng chỉ vài tuần, sau ngày “Đại Hội Chính Nghĩa” của Mặt Trận tổ chức rầm rộ tại Washington DC-Hoa Kỳ thì chúng tôi dồn dập nhận được bao nhiêu tin tức không vui. Một số lớn cán bộ chủ chốt và đoàn viên tách ra, chia làm hai ba nhóm, lên án tố cáo lẫn nhau, lộ ra nhiều điều không thật. Chúng tôi ở tít mù xa nên chỉ biết tạm thời “án binh bất động.” để giữ tình anh em, chiến hữu. Chưa kịp phản ứng gì thì nghe tin vị Tướng lãnh đạo cùng nhiều cán bộ, kháng chiến quân đã hy sinh tại Nam Lào. Hình ảnh và tin tức có đầy trên báo chí, truyền hình Cộng sản. Lực lượng “quốc nội” xem như tan rã. Thằng bạn tôi có tên trong danh sách “bị giết”, Trung Tá Lê Hồng cũng không còn (sau này nghe nói ông chết trong chiến khu vì trọng bệnh). Như một quả bóng căng đầy bị xì hơi, chúng tôi chẳng còn gì để hy vọng. Tôi đau đớn rời khỏi tổ chức mà mình đã hết lòng góp công gầy dựng. Nỗi buồn lại tăng lên gấp bội, khi những người chết, dù gì họ cũng đã hy sinh vì Tổ quốc, lại không hề được chính thức công bố, truy điệu, vinh danh. Tôi ra phía sau nhà, đứng một mình trong bóng đêm, đốt ba nén hương hướng về phương Đông để tưởng nhớ thằng bạn cũ mà trong lòng ngậm ngùi đau đớn. Sau này tôi có dịp liên lạc được với vợ con nó, sống rất nghèo khổ ở Việt nam, ngay quê vợ tôi. Ông bà nhạc tôi từng cưu mang đứa con trai lớn của nó một thời gian, lo cho việc ăn ở, học hành.

Những năm đầu định cư, sống trên vùng Bắc Âu băng giá, tôi càng lạnh lẽo hơn khi biết tin người anh hùng Trần Văn Bá, Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Pháp cùng các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và một số thành viên trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải phóng Việt Nam bị bắt khi xâm nhập vào bờ biển Cà Mau. Sau đó anh Bá đã bị CS xử bắn cùng nhiều người khác. Trên bàn thờ nhà tôi, có thêm tấm di ảnh của anh. Anh rất xứng đáng để được vinh danh như một vị anh hùng.

(anh hùng Trần Văn Bá)

Một tổ chức khác, Liên Minh Quang Phục Việt Nam của ông Võ Đại Tôn, một cựu sĩ quan cao cấp, từ Úc Châu, gạt lệ từ giã vợ trẻ con thơ tìm đường về phục quốc. Tôi hoàn toàn không biết gì về sách lược hay kế hoạch của ông cho đến khi nghe tin ông bị bắt. (Sau này bất ngờ được xem cuốn phim quay cảnh ông bị cộng sản đưa ra một cuộc họp báo quốc tế tại Hà Nội ngày 13.7.1982. Cuốn phim do phóng viên Neil Davis của NBC News cùng ký giả Mori của đài truyền hình NHK/ Nhật Bản, thực hiện và may mắn được mang ra khỏi Việt Nam để trình chiếu trên đài truyền hình Tokyo, Nhật Bản. Chắc chắn bọn cầm quyền Hà Nội đã áp lực để bắt ông phải nói theo sự dàn dựng của chúng, nhưng ông đã khôn khéo lừa dụ địch, tương kế tựu kế, nhằm đưa được tiếng nói của mình ra bên ngoài thế giới. Trước nhiều phóng viên của các nước cộng sản và thế giới tự do, với nét mặt đanh thép và giọng nói dõng dạc, hùng hồn ông tuyên bố (nguyên văn): “Tổ chức của tôi có cơ sở tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc. Trong một mục đích của tổ chức, chúng tôi có kế hoạch dự trù xâm nhập trở về Việt Nam để tìm hiểu tình hình và từ đó sẽ đặt kế hoạch cho tương lai. Vì lẽ đó, tôi sẽ không phản bội bất cứ ai đã giúp đỡ, ủng hộ tôi. Tôi tiếp tục lập trường chính trị của tôi để tranh đấu cho tự do và giải phóng dân tộc. Tôi đã sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào mà chế độ Công sản dành cho tôi”
Cả hội trường im bặt, các phóng viên quốc tế sửng sốt, đám cán bộ cộng sản nhìn nhau ngơ ngác. Cuộc họp báo buộc phải dừng lại bởi xem như bất thành với ý đồ của đám người tổ chức (thuộc Bộ Thông Tin Văn Hóa CS).

Niềm hạnh phúc vỡ òa trong trái tim tôi, hãnh diện về một vị đàn anh khí phách, nhưng sau đó lo lắng cho số phận của ông.

(ông Võ Đại Tôn trong buổi họp báo của CS tại Hà Nội)

Sau mười năm bị hành hạ kiên giam trong ngục tối, nhờ sự can thiệp của chính giới quốc tế và Úc Châu, ngày 11.12.1991, ông được trở về Úc với thân xác gầy gò còn hằn những vết đòn thù. Nhiều báo chí trên thế giới và hầu hết cộng đồng người Việt khắp nơi ca ngợi ông như một anh hùng, nhưng rồi cũng có ít người chê trách, kể cả miệt thị ông. Một lần nữa, tôi có cảm giác cay đắng, ngậm ngùi. Dù gì, lòng can đảm, tính khí khái và sư hy sinh lớn lao của ông cũng đã quá đủ để làm tôi kính phục. Xưa nay mấy ai đem chuyện thành bại mà luận anh hùng. Và với tôi, ông xứng đáng là một anh hùng.

Rồi tất cả cũng từ từ đi vào quên lãng. Chuyện kháng chiến, phục quốc lắng xuống, nhưng mầm móng chia rẽ, nghi kỵ bắt đầu. Niềm tin mất dần, và dường như lòng một số đông người Việt tị nạn cũng dần dà chán chường, nguội lạnh.

***
Vừa bỏ lại đằng sau gần mười năm khốn cùng tăm tối, lại vừa thoát chết trên biển Đông, giờ mới bước lên bến bờ tự do thì gặp bao nhiêu điều hụt hẫng đau lòng, tôi không còn muốn nhìn lại vùng bóng tối phía sau lưng bằng cách dồn hết nỗ lực hòa nhập vào quê hương mới.
Đời sống ở vùng Bắc Âu thật an bình, dân tình hiền hòa, đất nước thơ mộng với rừng núi, sông hồ quanh năm tĩnh mịch, như là những liều thuốc nhiệm mầu tưởng chừng có thể chữa lành được những vết thương còn lại trong lòng mình.

Tám năm sau, nhân dịp đưa ba cô gái sang Mỹ học, tôi có dịp gặp lại một số đồng đội và bạn cùng tù cũ. Thời gian này, đã có nhiều đợt cựu tù “cải tạo” đến Mỹ theo diện HO. Rất vui và cảm động qua bao cuộc trùng phùng. Một chiều cuối tuần, chúng tôi theo anh bạn, trước kia là tiểu đoàn trưởng, đến tham dự buổi họp mặt binh chủng của anh, một binh chủng từng vang tiếng một thời, được tổ chức tại một nhà hàng lớn trong khu Little Saigon. Rất đông đảo người tham dự. Sau gần hai mươi năm tôi mới thấy lại nhiều anh em mặc quân phục, có vài người mang cả cấp bậc, và lần đầu tiên ở hải ngoại, chứng kiến một nghi lễ rước quốc, quân kỳ và chào cờ, với đầy đủ súng ống, có cả tiếng kèn đồng thổi bài truy điệu, tôi đã xúc động, nước mắt tuôn trào. Sau khi vị trưởng ban tổ chức giới thiệu thành phần ban chấp hành và đọc qua tiểu sử cùng những chiến công hào hùng của binh chủng, một vị tướng đại diện cho binh chủng được trịnh trọng mời lên sân khấu để “có đôi lời” cùng anh em đồng đội. Mái đầu đã bạc, nhưng phong cách của ông vẫn uy nghi, lời nói dõng dạc, lẫn chút xúc động khi nhắc đến những “thằng em” còn nằm lại ở chiến trường, hay đã chết trong tù ngục. Không khí như trầm xuống. Nước mắt tôi lại trào ra. Sau đó, tiếng nhạc nổi lên và cả chương trình dài còn lại dành cho văn nghệ, dạ vũ. Sự đổi “tông” ấy đã làm tôi hụt hẫng, tiếc nuối. Như một giấc mơ đẹp đẽ bỗng biến mất bởi những hình ảnh và âm vang đưa tôi trở về thực tế. Giá mà tôi rời khỏi hội trường sớm, sau phần nói chuyện của ông tướng thì hay biết bao nhiêu. Chắc tôi còn giữ được trong lòng nhiều hơi ấm cùng chút niềm kiêu hãnh hiếm hoi.

Thời gian sau này, sau khi về hưu, tôi sang Mỹ sống nhiều hơn, đã làm quen với các sinh hoạt ở đây, dần dà rồi cũng thấy bình thường trước bao điều nhân tình thế thái. Nhưng tôi vẫn thấy nao lòng, khi chứng kiến những đồng đội của mình ngày một già thêm và bộ quân phục trên người không còn tạo cho họ cái oai phong, đẹp đẽ của ngày xưa, cái thời mà hầu như bản nhạc nào của miền Nam cũng nhắc đến và ca ngợi họ như những người hùng lý tưởng của các cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Bùi Thị Xuân, Đồng Khánh, các cô sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa trên những con đường tình có lá me bay, cây dài bóng mát…, hay hình ảnh đẹp đẽ oai phong trong các cuộc diễn binh vào những Ngày Quân Lực năm nào, giờ thỉnh thoảng vẫn còn được nhìn thấy lại trên các video.

Một hôm, tôi lặng người khi thấy trong cuộc diễn hành Tết trên đường phố Bolsa, có mấy ông bà mặc quân phục mang cả lon tướng, tá của nhiều quân chủng, mà tôi chưa hề nghe danh, biết mặt, bởi trông họ quê mùa, kệch cỡm, mang phù hiệu, giây biểu chương còn không đúng cách. Thì ra một đám tướng tá phường tuồng của một nhóm bệnh hoạn tự phong nào đó. Tôi giận đến phải buông ra mấy tiếng chửi thề và trách cứ ban tổ chức sao có thể để cho họ mạo nhận, diễn trò lố lăng như thế? Chẳng lẽ cái quân đội của chúng tôi từng có biết bao máu đào của hàng hàng lớp lớp chiến binh đổ xuống tô thắm màu cờ, giờ bị “xuống cấp” đến mức này sao? Từ đó, tôi không còn muốn có mặt trong các buổi họp mặt, diễn hành khi có những người mặc quân phục, mang lon lá một cách ô hợp, lố lăng như thế. Tôi không muốn phải đau lòng. Chính những hình ảnh tệ hại này đã nhắc nhớ, ám ảnh để tôi nhận ra mình là người lính trong đội quân thất trận, điều mà lúc nào tôi cũng muốn quên đi.

Cũng ở Mỹ, đặc biệt Tiểu Bang California, nơi từng được mệnh danh “thủ đô người Việt tị nạn” và “thành trì chống Cộng”, tôi đã phải chứng kiến bao điều thị phi, chia rẽ, nghe những lời miệt thị giữa những người từng một thời là huynh đệ, đồng môn, đồng đội, đã từng quỳ xuống trên cùng một vũ đình trường đưa tay lên “xin thề” trong ngày lễ ra trường, và cùng sống chết bên nhau trên những chiến trường ngập đầy lửa đạn. Gần như cộng đồng, tập thể nào cũng chia ba xẻ bảy. Còn sức mạnh nào để đối phó với kẻ thù xảo quyệt, gian trá, bạo tàn, khi thế hệ chúng tôi tuổi đã già, sức đã kiệt, và sẽ để lại được những hoài  bão gì cho con cháu mai sau?

Mảnh đất xấu là nơi cơ hội cho cỏ dại, thường là loại cỏ đuôi chó. Tôi thật sự buồn nôn khi nhìn thấy vài bộ mặt, nhận mình từng là người hùng của binh chủng này binh chủng nọ, nhưng chạy về khóc lóc, bợ đỡ kẻ thù. Nghe những lời xu nịnh của họ, mà tôi thấy lợm giọng

Bạn bè chiến đấu cùng tôi ngày xưa, hay cả những đồng môn, huynh đệ xuất thân từ một quân trường, từng cùng quỳ xuống vũ đình trường đưa tay lên thề trong ngày lễ ra trường, giờ cũng bị những biến cố của dòng đời “lưu vong” này mà chia năm xẻ bảy. Tệ hơn có một số còn xem nhau như kẻ thù. Từ những bất đồng trong “kháng chiến”, “phục quốc” đến việc hội hè, đoàn thể, xây dựng tượng đài, tu sửa Nghĩa Trang QĐ Biên Hòa, thậm chí đến cả việc ủng hộ hay chống TT Trump, và mới đây là chuyện “Recall” hay “No Recall” trong Hội Đồng Thành Phố Westminster- đã giết chết biết bao tình chiến hữu, đồng đội, đồng môn, huynh đệ một thời.
Tôi thực tình không hiểu nổi, chỉ cảm thấy đau lòng, xót xa, và nuối tiếc. Cái bóng ma cuộc chiến của hơn 45 năm trước mà tôi luôn muốn quên đi, giờ càng đè nặng lên tấm thân còm cõi, bóp nghẹt trái tim già nua của tôi, từng khát khao bao niềm hy vọng. Vết thương cũ trong lòng, tưởng có thể lành, giờ nhói đau trở lại. Và món nợ máu xương của bao đồng đội, đã hơn 45 năm rồi, biết đến khi nào mới trả được cho anh em!

Cầu xin hồn thiêng sông núi, anh linh tiên tổ và liệt vị anh hùng, tử sĩ phù trợ cho cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt những huynh đệ từng mặc áo lính của tôi, sớm dẹp bỏ mọi chia rẽ, tị hiềm, đưa tất cả quy về một mối, cùng một lòng hổ trợ đồng bào trong nước, để họ có đủ can đảm bước qua nỗi sợ hãi, cùng đứng lên làm ngọn sóng thần nhận chìm chế độ Cộng sản man rợ, độc tài, tham nhũng, bán nước cầu vinh, để con cháu đời sau không còn bị nợ nần, ô nhục, xích xiềng, vươn lên sánh vai ngẩng mặt tự hào cùng năm châu bốn bể.

Một chế độ đi ngược lại lòng dân và xu thế phát triển của nhân loại, tất yếu phải bị đào thải. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian – và sẽ biến thiên tùy theo những trái tim có cùng nhịp đập.



Phạm Tín An Ninh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Apr/2021 lúc 7:54am

32 Năm Người Mỹ Và Tôi

32%20Năm%20Người%20Mỹ%20Và%20Tôi%20-%20Truyện%20Đọc%20-%20Việt%20Báo%20Văn%20Học%20Nghệ%20Thuật

Hàng ngàn người. Có thể cả chục ngàn, trăm ngàn, rồi cả triệu không chừng. Những người Việt tan tác khắp nơi, chưa gặp, chưa quen... Lạ thay, khi không bỗng thấy nhau thân thiết. Thân tới mức mang cả chuyện nhà của mình ra kể cho nhau nghe. Toàn những chuyện khổ đau, oan ức, tang thương đã bao năm nuốt xuống. Giải Thưởng Việt BáoViết Về Nước Mỹ hàng ngày cho tôi cảm giác ấy. Khi viết, khi đọc, thấy thương người, thương mình. Thương tới muốn khóc.

Và bây giờ, bạn thân mến,

Đến phiên tôi kể chuyện nhà cho bạn nghe.

Viết về nước Mỹ, được rồi, đang sống ở Mỹ mà. Viết về người Mỹ, tìm đâu cho xa. Tôi muốn nói về người đi bên cạnh tôi 32 năm qua: David, chồng tôi.
Cuộc đời giống như cuốn sách dán hình kỷ niệm. Mấy chục năm gom vô vài trang giấy. Ngược giòng thời gian. Giở lại từng trang...

1968, Năm Mậu Thân

Ngày 28 tháng 5, cư xá Cảnh Sát Phú Lâm A đường Lục Tỉnh quận 6 Chợ Lớn. 
Cộng sản tấn công Sài Gòn lần thứ hai, đặt bộ tư lịnh tại khu cư xá Phú Lâm A. Gia đình tôi cư trú tại đây. Ba tôi là Cảnh sát, tùng sự tại phòng Giảo Nghiệm, Tổng nha Cảnh Sát Quốc Gia ở đường Vỏ Tánh, Sài Gòn.
Ba tôi bị cộng quân chận bắt, bắn chết tại chổ. Một viên đứt yết hầu, một viên xuyên bao tử. 
Hai chị em tôi chứng kiến cảnh Ba bị bắn chết. Tôi nâng đầu, máu nóng vọt ra. Ngọc Anh đỡ chân, máu nhểu dài xuống đất. Hai chị em lệt bệt, khiêng, rớt... khiêng, rớt... vừa khóc vừa khiêng thây Ba tôi về nhà. Em tôi mới 15 tuổi, mặt đầy nước mắt, hai bím tóc, bộ đồ trắng loang máu. 
Khoảng đường gần 100 thước đó dài, nặng, đau đớn, uất ức, hận thù, khắc sâu vô tim, vô óc, vô suốt cuộc đời chúng tôi.

1969, Giã Từ Các Bạn

Một ngày tháng giêng anh rể tôi đem về giới thiệu người bạn vừa ra lính Hải quân, David. Mới 20 tuổi, mắt sáng, tóc đen xanh, ốm gọn, nhanh nhẹn, rất lịch sự, đàng hoàng. Tôi thấy có cảm tình.
Những người bạn học đã vô lính. Mấy đứa bạn gái vừa có chồng, chồng chết trận, tay bồng con thơ, tôi làm việc lương tháng ngàn mấy không đủ may áo dài bận đi làm, lấy đâu giúp mẹ nuôi đám em"

Khi Ba chết, đám em tuổi từ 15,13,10,7,5 và đứa em út (Thúy Phương) chưa đầy 3 tuổi. Má tôi, vợ công chức chỉ biết nội trợ. Người chồng tốt, người cha hiền đã bị bắn chết. Con không cha như nhà không nóc. Là chị lớn của lũ em, thân con gái, biết làm sao đây" 
Tôi đã nguyện với lòng sẽ tìm đủ cách để đi khỏi nước Việt Nam, khỏi nơi đầy thù hận, đầy bất công, đầy tủi nhục. Và đó, David tới đúng lúc. Chính y sẽ đem tôi ra khỏi vùng u tối và nhờ đó tôi sẽ tìm cách đem gia đình đi luôn. Thôi, giã từ các bạn, tôi rẽ qua ngả khác từ đây.
Tôi nhận lời làm đám cưới với y. 
Đang để tang ba. Đám tang với đám cưới, gần quá. Tôi chọn đúng ngày Ba bị bắn làm ngày cưới. 28 tháng 5. Cho trộn lẫn vô nhau, trong tim, trong óc.

Đâu phải lúc tiệc tùng. Tất cả tại nhà, giản dị trước bàn thờ tổ tiên. Không hột xoàn, không vàng bạc, chỉ có lời vái hương hồn Ba. Xin Ba phù hộ cho ước nguyện của con: đem được Má và mấy đứa em ra khỏi địa ngục nầy. Tôi tự hứa sẽ là người vợ tốt suốt đời.
Chúng tôi ở chung với gia đình, trên căn gác nhỏ. David làm việc cho một ông bầu chuyên đem những dàn nhạc hát cho lính Mỹ nghe.

1970, Lần Đầu Tới Mỹ

Tháng 3, tôi sanh đứa con trai đầu lòng, tuổi Tuất , tên Lawrence Long .
Tội nghiệp đứa con so, 7 tháng đã ra đời. Cân nặng có 1 kí 700 gram, nhà thương Đức Chính (đường Cao Thắng) giữ trong lồng kiếng 24 giờ. Giao lại tôi, cô y tá cho hay "bé không biết bú". Trời đất ơi, tôi biết làm sao" 
Má tôi dạy "con nặn sữa ra, lấy cái ống nhỏ thuốc, hút sữa lên rồi nhỏ từng giọt vô miệng nó. Thấy hông, cái miệng nó nhỏ hơn đầu vú, làm sao mà bú bình thường được." 
Nhờ kinh nghiệm và sáng kiến của Má, con tôi qua khỏi mấy tháng đầu hung hiểm. 
Lúc đó David làm lương tháng khoảng 3, 4 trăm đô. Một hôm đi làm về, say nhừ, vừa khóc vừa kể:
- Bạn tôi mới bị quân khủng bố liệng lựu đạn, chết rồi. Sống ở đây lúc nầy nguy hiễm quá.
Tháng 11 vừa hết giao kèo y đòi trở về Mỹ. 
Chúng tôi đi lo thủ tục đem đứa em trai duy nhứt của tôi theo mà không được. Bởi tôi còn ngây thơ, không biết là đút tiền thì tới đâu củng tới. Đành cắn răng, gạt nước mắt, ôm con theo chồng. Tôi hẹn ngày trở về vì bỗn phận đối với gia đình chưa tròn. Tôi phải tin bên kia đám mây đen vẫn là ánh mặt trời.
Tôi tới Mỹ lần đầu ngày 22 tháng 11 năm 1970, bụng mang thai 5 tháng 

Mẹ chồng, chị chồng tên Elaine ra tận phi trường Portland thuộc tiểu bang Oregon đón. Bước xuống phi trường, đèn sáng trưng, rực rỡ. Không khí tưng bừng nhộn nhịp, tôi như con ngáo, thấy mình càng nhỏ bé. Rồi, phố lớn, nhà to, cây đầy trái, rụng đầy sân. Ngồi trong xe hơi rộng rãi tôi cứ lấy mắt mà ngó, mà ước thầm, "phải chi Má với mấy đứa nhỏ qua được!"
Con người ta chỉ một lần sống, tại sao dân Mỹ quá sung sướng , dân mình thì nghèo khổ chiến tranh"
Cầm chùm nho lên ăn, nhớ tới mấy đứa em mà ứa nước mắt !
Cô chồng đãi bữa ăn lễ Tạ Ơn lần đầu tiên. Thịt gà lôi sao mà ngon, ngọt.
Bên chồng thay phiên ẵm Lawrence. Suốt ngày tôi ở ngoài sân sau, hái quít hái bom, vừa hái vừa tiếc hùi hụi mấy trái rụng đầy dưới đất. 
Nhà chồng thấy tôi nhỏ xíu, ai cũng thương.

Qua lễ, lái xe xuống thị trấn Coquille thăm người cô thứ nhì. (David có 5 người cô, 5 người chị). Trên đường đi, David ngừng lại thăm mộ của cha; kế bên là miếng đất má chồng đã mua sẵn, dành cho bà.
Ông bà dì dượng chồng cho ở tạm trong cái nhà xe một phòng khoảng hai tuần. Mỗi đêm, leo lên cái giường rộng, không có mùng, trống lốc, trùm liền cái mền điện. Cái ấm nhân tạo không đủ sức ngăn cái lạnh cắt da, cắt thịt.
Nửa đêm nhớ nhà quá, tôi khóc. David ngồi dậy, gởi con cho bà nội, chở tôi ra bờ biển. Biển nầy là biển gì tôi cũng không biết, nhớ nhà quá đâm ra ngu ngơ. Vậy mà y kiên nhẫn, không nói gì, chỉ đem tôi ra biển. Có lẽ y muốn tôi nhìn về hướng Đông"

Một hôm mỏ ác trên đầu con tôi tự dưng nổi phồng lên. Đem vô nhà thương, khi bác sĩ vừa cho biết phải thử nước trong tủy xương sống của nó để định bịnh, tôi ngã cái đùng bất tỉnh. Rốt cuộc cũng không biết bịnh gì. Có thể nó chịu lạnh không quen, cơ thể phản ứng tự nhiên, xương sọ phồng lên để bảo vệ bộ óc bên trong. Báo hại mang cái nợ gần trăm bạc. 
Người anh chồng kêu qua Tucson, tiểu bang Arizona, hứa sẽ giúp cho việc làm.
Nghe nói đó là xứ nóng, tụi tôi đi liền.

Gom va ly quần áo, thùng sách tiếng Việt, hình ảnh ,mấy cái nón lá.....gọn gàng trong chiếc xe Uhaul loại nhỏ nhứt, còn rộng rinh. Mùa đông trời lạnh thấu xương, quần áo không đủ ấm, ngầy ngật vì phải vặn máy sưởi suốt đoạn đường dài .
Bụng nặng nề, ngồi triền miên, phải để Lawrence nằm dưới sàn xe. 
Tội nghiệp con tôi, tới nơi mình mẩy nó nổi đầy phong đỏ.

1971, Sanh Con Tại Mỹ

Ở tạm nhà cháu Maria, David phải đi làm nghề đổ xăng, lau kiếng xe hết hai tuần rồi mới được vô làm trong hầm mỏ lộ thiên đào chất đồng đỏ, tên Anaconda Copper Mine. 

Mổi sáng đi làm, y vừa tra chìa khóa mở máy xe vừa khấn thầm "Nổ máy. Nổ máy. Nổ máy!" Trời còn tối mò, y mặc bộ đồ đồng phục màu xám đen, đầu đội nón sắt, tay xách hộp đồ ăn trưa, mặt mày còn sáng sủa. Buổi chiều về, sau một ngày trộn lẫn với bụi đất cùng mồ hôi, chồng tôi da trắng trở thành da đen! 
Việc làm nầy cứ mổi tuần là đổi ca sáng tối. Nhiều đêm y phải bận bộ đồ lót giữ nhiệt (thermal underwear) vậy mà vẩn còn lạnh run. Y lái xe đào và đổ đất, thứ xe có cả chục cái cần sang số, y giải thích nhưng, ngôn ngữ bất đồng tôi cũng không hiểu gì mấy.
Lương một tuần 93 đô, mướn cái nhà hết 90 một tháng. Đây là nghe lời bà má chồng, tiền mướn nhà chỉ nên bằng một phần tư tiền lương tháng thì mới đủ sống. 
Tôi đang mang thai, thèm cá kho tiêu, một chai nước mắm kiếm không ra, có khi chảy nước mắt. 

Chị chồng tên Pat đưa tôi đi thăm thai. Chị phải ẵm thằng lớn ngồi đợi ở ngoài, một mình tôi vô với cô y tá. Cô ta chỉ qua phòng restroom, nói một hơi một tràng. Tôi đoán mò, nghĩ là cổ hỏi mình có mắc đi tiểu hông, tôi liền lắc đầu. Cô ta không chịu, cứ vừa chỉ vừa nói, càng nói tôi càng không hiểu. Khớp quá, tiếng Mỹ văng đâu mất hết trơn. Sau cùng, cô ta chịu thua. Chừng về nhà, bà chị chồng vừa cười ngất vừa kể, David "dịch" lại, tôi mới hiểu ra. Thì ra cô y tá kêu tôi vô tiểu trong cái ly để sẵn, dán giâý lên rồi đề tên mình, đưa cho cổ đặng cổ thử. Quê một cục! Thôi, lần sau.
Thấy tôi gần ngày sanh, chị dặn David sáng trước khi đi làm, đem mẹ con tôi qua nhà, con gái chị, Linda sẽ nấu cho tụi tôi ăn luôn, vừa canh chừng, sợ tôi chuyển bụng bất tử.

Tháng 3 sanh đứa con trai thứ nhì, tuổi Hợi, đặt tên Tommy Phương.
Chỉ sanh thiếu một tháng mà nhà thương giữ nó lại hơn 30 ngày. Nuôi từ 5 pound 3 ounce cho tới đúng 6 pound mới cho về. Thiệt là khác biệt quá đáng giữa nước nghèo với nước giàu. Ở Saigòn mẹ nằm 1 tuần, trả tiền phòng, về là xong. Ở Mỹ, 2 ngày mẹ bị đuổi về, con giữ lại. Sanh xong mắc cái nợ hơn 4000 ngàn đô, trả góp gần 6 năm mới hết.

Được một chuyện hi hữu là hai anh em nó sanh cùng ngày cùng tháng, đứa lớn 11 giờ rưỡi sáng, đứa nhỏ 9 giờ 45 sáng, cách nhau 1 năm. Sau nầy, năm nào làm sinh nhựt hai anh em chỉ tốn một cái bánh, đứa phân nửa .
Không biết có phải lúc mang bầu tôi quá buồn phiền, thèm ăn thèm uống, ảnh hưỡng tới bào thai hay không mà Tommy bụng dạ rất yếu. Cứ bú vô là ọc ra. 

Má chồng tôi từ tiểu bang Nevada tới nuôi cho hai tuần. David làm lương ít, chỉ đủ sức mua loại tã bằng vải, xài xong bà má chồng tiếp giặt giũ. Bà cũng chỉ tôi mua loại sữa bột tự pha rẻ hơn. 
Nhờ bà mà tôi học được cách làm bánh mì, mứt dâu mứt cam. Bà là người rất khéo nấu ăn.. Khi chồng chết (lúc David mới có 9 tuổi ) bà phải mở một quán ăn nhỏ để sinh sống. Bà dạy:
- Con cần nên học một nghề, nghề gì cũng được. Lỡ chồng có chết bất tử mình còn có thể đi làm nuôi thân và nuôi con. Đừng như má đây, chỉ biết nấu ăn cho nên phải làm nghề đứng nấu bếp, cực lắm.
Tôi thấy lời bà rất đúng vì cứ phải khòm lưng ở cái lò nướng mà lưng bà còng hẵn đi.
Khi Tommy được 4 tháng mấy, thấy chồng cực khổ quá sức, chịu không nổi , tôi bàn nên dọn qua thành phố Reno, tiểu bang Nevada. Thành phố cờ bạc, việc làm có lẽ đỡ cực hơn ở đây; vả lại, có mẹ có dì dầu sao cũng không đến đổi. 

Trên đường đi, đồi non, đồi già, núi đồi đầy sỏi đá mà vươn lên hằng hà sa số, ngàn trùng rừng xương rồng. Bông đủ màu trắng toát, đỏ tươi, vàng chói, tím ngát, đẹp quá trời là đẹp. Tôi lính quính kêu :
- Ngừng ngừng ngừng Ngừng cho tôi xuống đào một bụi đem theo.
- Cây của tiểu bang. Đào một cây là bị phạt 500 đô ! 
- Trời ơi, cây cả đồi mà hổng cho đào một cây. Vậy ngừng cho tôi hái một cái bông.
David tỉnh bơ.
- Bông cũng không được hái.
- Ở đây giữa sa mạc ai mà biết. 
- Tôi biết, mình biết. Nhiều người cứ tưởng nhân viên kiễm lâm không thấy, chừng bị phạt rồi mới nói sao xui quá.
Anh chồng Mỹ biết tánh cô vợ Việt. Y đánh đòn tâm lý là tôi thua liền. Nghe giá 500 đô là tôi làm toán. (500 mua được nhiều thứ. Mua đồ cũ đầy đủ : tủ+giường, + chén bát, .....tội gì vì cái bông để bị chính phủ ăn.) Vậy là tôi im.
Thiệt xứ sở gì mà luật lệ quá gắt gao. Nhưng, phải đụng vô túi tiền thì thiên hạ mới sợ. Với lại, nếu ai cũng như tôi, thấy bông thì hái, thấy cây thì đào, rừng nào chịu thấu, lấy đâu để lại hậu thế chiêm ngưỡng"

Tới nơi, chúng tôi phải ở tạm dinh thự của nhà triệu phú, Mr. Hardy, nơi má chồng tôi đang làm quản gia cho ông. Ông là người hết sức tử tế. Ngày xưa ông là kỹ sư ngành hỏa xa. Trong phòng khách còn treo một chùm đèn bằng pha lê hình dạng giống như chùm đèn ở Tòa Bạch ốc nhưng kích thước nhỏ hơn, đã được ông cựu tổng thống Roosevelt trao tặng. 

Đi xin việc làm, ngày nào về David cũng vừa lo lắng, vừa buồn vừa tức tối. Thời buổi đó, dân Mỷ đang cơn sôi động, chống chiến tranh, đòi chồng đòi con . Họ nhìn chúng tôi, một cựu quân nhân về từ Việt Nam và người đàn bà Việt đã chiếm chỗ một công dân của họ bằng những con mắt lãnh đạm. Sự thù hằn, ghét bỏ đó là chuyện thường tình của thế gian. Tôi thường khuyên chồng:
- Tôi hiểu người Mỷ lắm. Họ mất chồng, mất cha, mất con, mất người yêu, sự đau khổ ở nước nào cũng ngang nhau. Đừng nên để tâm. Cứ kiên nhẫn đi xin, thế nào cũng có việc làm.
Đúng như vậy, David được nhận làm người giữ an ninh cho casino tên Nevada Club .

Vài tháng sau tôi kiếm người giữ con, cũng đi làm trong casino The Nugget, nhiệm vụ đổi tiền cho khách. Nếu có sự hiểu biết như bây giờ, tôi đã không bỏ con đi làm như vậy. Tiền kiếm ra có giữ được đâu. Thời gian qua rồi là không trở lại. Các con lớn lên mình không gần gũi nhiều, tiếc thay! 

Tuy cả hai cùng có công ăn việc làm, chúng tôi sống như chân không chấm đất. David thường hay uống rượu say sưa, tôi vô cùng buồn bã. Lúc đó, David coi tôi như... không khí, hổng cần giữ cũng chẵng mất đi đâu. Trong vòng mười mấy tháng, dọn nhà mấy lần. Và cũng mấy lần, tôi muốn bồng con đi. Rồi tôi nhớ lời nguyền của tôi trước bàn thờ ngày cưới. Rồi tôi nhớ lời Má tôi hay nói:
- Ba năm là tình, ba chục năm là nghĩa.
- Đồng vợ đồng chồng, chuyện gì cũng xong.
Rồi tôi nhớ lời Ba tôi khi còn sống:
- Nhịn đi con ơi (Thôi được, nhịn một chút cho con có cha có mẹ) 
Rồi tôi nhớ lời thầy tôi (soạn giả Lê Hoài Nở, dạy ở trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ , đường Nguyễn Du, Saigòn). Thầy đã dạy:
Chồng giận thì vợ làm lành 
Miệng cười tủm tỉm......rằng anh giận gì "...
Chồng bước tới, vợ bước lui,
Bước lui một bước, êm xuôi cả nhà.

Tôi tự nghĩ: "Không có trường dạy làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ. Ai cũng phải tự học cho nên cần một thời gian hơi...lâu.

1973, Trở Lại Việt Nam

Tháng 2 năm đó, một buổi chiều đi làm về, David hớn hở hỏi: 
- Muốn về Việt nam không"
- Muốn chớ, mà sao hỏi vậy"
- Hiệp định Paris. Việt Nam hóa chiến tranh. Không coi tin tức à" 
- Tôi coi chương trình Seeseam Street. Đang học tiếng Mỷ mà. Tin hồi nào"
- Mới đây. Mình sửa soạn về Việt Nam.
Mượn tiền má chồng đủ mua ba vé máy bay rưỡi (phải đi trước khi Tommy hai tuổi vì trên hai tuổi phải mua nguyên vé).

Về lại Việt Nam, đọc báo, tôi biết đây là thời gian nhà báo văn nghệ sĩ "xuống đường". Tôi không hiểu rõ nghĩa "xuống đường" là gì. Đây cũng là lúc tôi đọc được những sách "Giaỉ khăn sô cho Huế" của nhà văn Nhã Ca và cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa" của Phan Nhật Nam. 
Theo lời con em Ngọc Anh, đang là thời gian thi hành hiệp định bốn bên: gồm Mỹ, Nam Việt Nam , Bắc Việt, Mặt trận giải phóng. Mỹ đang từ từ giảm viện trợ, rút cố vấn, rút quân Mỹ, thu xếp trả tù binh. 
Vì mừng quá, chúng tôi không cần biết gì về tin tức chiến tranh. Sống gần gia đình ngày nào hay ngày đó.

David được nhận làm cố vấn cho binh chủng Hãi quân, ngành truyền tin, với tính cách công tra dân sự, đóng ở vịnh Cam Ranh. Tôi gởi hai đứa nhỏ cho mấy em, theo chồng kiếm nhà ở. Đi mà tôi đã quên một điều: gia đình tôi, chỉ là những người xa lạ đối với hai đứa nhỏ. Tommy vì nhớ cha nhớ mẹ, nó bịnh nặng, nằm thoi thóp, tưởng đâu tiêu rồi. Lúc đó má tôi theo mấy dì buôn bán quần áo con nít ở chợ Cầu Ông Lảnh. Buổi chiều về , má bồng nó đi bác sĩ liền, nó mới còn tới ngày nay. Thiệt tình, tôi làm mẹ quá dở. 
Mới đầu, ở sau nhà đại úy Đương ( chủ cây xăng gần cây số 9 ngoài cổng căn cứ Cam Ranh) Vài tháng sau dọn vô ở khu đài thu sát bãi biển, và cuối cùng ở Trung tâm Hải quân (Market Time).

Đây là thời gian vui nhứt của đại gia đình. Má với mấy đứa em thay phiên nhau lên chơi. Bãi biễn Cam Ranh đẹp vô cùng. Có đảo Bình Ba có chợ Đá Bạc . Nhờ ở đây tôi mới biết và thấy những con rùa biển lớn bằng cái bàn ( dân địa phương kêu là con Vích ). Cam Ranh cũng là một trong ba chỗ trên trái đất giống rùa nầy lên đẻ trứng. Có một đêm theo mấy người lính rình coi . Nó đào lỗ, rặn một hơi cả trăm cái trứng, móp móp, ướt ướt, rồi dùng hai cái chân lấp đất , dấu xong, bò trở xuống biễn. Mấy người lính đào lên đem về. Đôi khi, họ bắt luôn con rùa. 
David hay nói :
- Sao người ta không chừa vài cái trứng. Ăn hết như vậy làm mất giống rùa !
Ngoài con rùa biển lớn còn có con kỳ nhông màu đỏ . Sau nầy về Mỹ tôi mới biết người Mỷ khám phá ra loại nầy dùng để chữa bịnh. (bịnh gì quên rồi )

Đám em tôi theo mấy người lính, nói thịt rùa đỏ tươi ăn như thịt bò, kỳ nhông cũng ăn thử, khen như thịt gà!. Thiệt, mấy đứa em tôi ăn uống "dã man".Tôi sợ, không dám ăn. Ở đây, nghe nói cũng là xứ nhiều cọp. Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận mà. Trong khu căn cứ còn có một cái hồ, cọp thường xuống uống nước. Mỹ đặt tên là Tiger Lake.
Ngày 9 tháng 8 Tổng Thống Nixon từ chức.
Chúng tôi ngày nào cũng vùng vẫy dưới biển. Ăn món gì cũng ngon. Lúc đó David làm lương tháng chỉ trên 400 đô. Đâu có sao. Cha mẹ vui thì con cái cũng vui.

1974, Rút Hết Về Mỹ

Cuối năm, tháng 12, một ngày sửng sốt. David về, hối hả:
- Sửa soạn về Mỹ.
- Cái gì " Sao vậy"
- Mỹ phải rút hết. Mình có nghe đài Hoa Kỳ không" Nó đệm bản nhạc White Christmas suốt ngày là hiệu báo Mỹ dân sự phải rút hết.
- Trời đất ơi, đi liền sao"
- Đi liền. Về Sài gòn làm thông hành cho con.
Thử thời vận lần thứ nhì, tôi ra bộ nội vụ hỏi cách thức đem thằng em trai duy nhứt theo. Họ cho biết đem em không được, nhứt là con trai, con riêng thì được.
Vậy là, tự nhiên tôi có hai đứa con gái riêng ( xin chính phủ Mỹ tha thứ cho tôi) .
Tin chiến sự cho hay quân Trung Cộng dùng đầu đạn hỏa tiển ( Guided missle ) bắn chìm một chiến hạm Mỹ viện trợ cho Việt Nam ( chiếc Destroyer Escort), chỉ sống sót một quân nhân . Trung Cộng ỷ mạnh hiếp yếu chiếm đoạt đảo Hoàng Sa, một cái một! 

Ngày 24 tháng 12 năm 1974 chúng tôi trỡ về Mỹ.
Tới Louisana ở tạm nhà bà chị. 
David xin được việc làm, tài xế lái xe đào đất cho hãng thầu xây cất nhà cửa, loại nhà 25.000 đô một căn . Những tưỡng cuộc sống tạm yên, nào ngờ, nền móng xây xong, David bị layoff.
Tôi nhớ ngày đó, sự thất vọng và tức tối hiện rỏ trên mặt, nước mắt muốn trào ra của y.
Anh rể còn trong Hải quân, chị tôi theo chồng. Chúng tôi trơ trọi.
“Giải pháp Reno” là có nhiều hy vọng. Lại kêu gọi tới má chồng gởi xuống 500 đô.

Bạn hãy tưởng tượng hai người lớn, bốn đứa nhỏ cùng quần áo đồ đạc chen nhau trong chiếc xe nhỏ xíu, trong tay có khoảng 675 đô, vượt hơn 1,500 miles. Nửa chừng xe bị gãy nhíp ngừng sửa, tiêu hơn trăm rưỡi. Dọc đường chỉ đậu ở chổ bãi xe hàng , nghỉ đỡ 1, 2 tiếng. Ăn uống luôn trong xe, David lái một mạch 72 tiếng đồng hồ, xuyên qua mấy tiểu bang, giữa trời bão tuyết! 

Reno 1 giờ trưa. 
Đậu xe bên lề đường David đi bộ tới Casino để tìm việc. Ngồi lâu nóng ruột dặn hai đứa em coi chừng cháu , tôi cũng xuống xe đi lòng vòng coi có việc gì làm đại hay không. May mắn tôi được nhận liền chân bồi phòng ở nhà trọ tên Caravan. 
Khi trở lại xe, đã quá 3 giờ. David đi tới đi lui, tức tối: 
- Đi đâu vậy" Tôi có việc làm, phải bắt đầu lúc 2 giờ, bây giờ trễ rồi, ai mà cho vô nữa. 
- Không sao, tôi có việc, ngày mai bắt đầu. 
Tìm chỗ ở. Motel Atlas, một phòng ngủ, có bếp nhỏ, tủ lạnh 
Chiều hôm sau tôi đi làm về, David mặt mày một đống: 
- Hôm nay tôi đi nộp đơn lãnh tiền thất nghiệp. Nó làm như mình đi xin vậy. Tôi không trở lại đó nữa đâu. 
- Thì cũng phải ráng chớ sao. Lảnh tiền đó trong khi chờ kiếm việc. Chẳng lẽ để mấy đứa nhỏ đói" 
Chúng tôi sống chật vật như vậy hết một lúc. Bạn ơi, đây là thời gian khủng hoảng, xuống tinh thần nhứt. Lương tôi một tuần 63 đô, trả tiền phòng hết 60, còn lại bao nhiêu" Mỗi ngày dọn phòng, khách để lại cho mấy chục cents, một đô là mừng lắm. 
Tôi bán đầu tiên cái kiềng trơn hơn một lượng chưa từng đeo, rồi cặp nhẩn vàng Má tôi cho trước khi đi, rồi cặp nhẩn xoàn má chồng cho. 

Mổi tuần mua hai hộp cereal hiệu Captain crunch loại hột tròn tròn có đậu phọng ( thằng con lớn tới bây giờ vẩn còn nhớ mùi vị đó) 1 đô 10 ổ bánh mì, loại bánh mì gần ngày hết hạn , nhưng vì ăn trừ cơm cho nên mau hết, không sợ hư ! hai hộp mứt, hai keo đậu phọng nát, hai hộp cacao pha sữa, một bịch gạo hai cân ( chỉ nấu cháo ) nhiều bắp cải, có khi 1, 2 con gà là món ăn của 6 người. Cũng may, hai đứa em đi học , được ăn uống đầy đủ, mỗi ngày để dành đem về cho hai đứa cháu mấy trái cam trái bom , vài cái bánh ! 
Còn nhớ một ngày bà dì chồng mời ăn bữa tối. Thiệt là một bữa ăn nhớ đời, đang đói mà! 
Chồng tôi, người Mỹ, sống trên đất Mỹ mà cũng trải qua thời gian đói khổ, cũng như quí vị sau tháng 4 năm 1975 . 
Tôi lại mắc thêm một lời thề nữa. Tôi thề sẽ không để con tôi đói khổ... 
Từ đây, tôi tập nhìn đời bằng con mắt khôi hài, chuyện gì cũng thấy nhẹ bớt đi. Và rồi cái đói khổ không kéo dài lâu. 
Tôi xin được việc làm trong một hãng may màn, tấm trải giường, áo gối, đồ làm bếp... 
Có biết may vá gì đâu. Có lẽ họ nhận vì cái mặt Á Đông của tôi. Ngày đầu tập sự tôi hỏi việc cho chồng , gặp ông giám đốc tử tế, y đắn đo một hồi rồi nói: 
- Thông thường chúng tôi không nhận vợ chồng làm việc chung, nhưng lần nầy tôi phá lệ. Việc gì cũng đủ người rồi nếu chồng you muốn thì vô làm việc sắp đặt máy may, dọn dẹp hãng. 
- Thiệt là.... Đội ơn ông. 
Mỗi ngày tôi ngồi vật lộn với cái máy. Máy gì chạy lẹ quá trời ! Vừa đặt miếng vải vô nó làm một cái rẹt níu không kịp. 
Mổi ngày nhìn anh chồng Mỹ cầm cây chổi quét hãng mà ứa nước mắt. 
Sau một tháng đi làm khi trời còn tối, về nhà thì trời đã tối rồi!, hết việc dọn hãng. 
David hỏi ông giám đốc : 
- Trong hãng việc nào làm lương cao nhứt " 
- Trừ việc quản lý, chỉ còn việc làm sửa máy may là lương cao. 
David nói: 
- Tôi có kinh nghiệm sửa máy kéo tiền trong Casino. Ông cho tôi thử nghề sửa máy may trong hai tháng, nếu làm không xong tôi sẽ tự động xin thôi. 
Ông Harvy, người ân nhân đã mất năm 1977. Chúng tôi không bao giờ quên ơn ông. Ông biết nhìn người, ông đã khởi đầu, hướng dẫn nghề nghiệp, cho chồng tôi có cơ hội xử dụng khả năng ,vượt qua cảnh nghèo.

1975, Thắt Ruột, Thắt Gan

David được lên chức phụ tá quản lý. 
Bắt đầu từ tháng ba Ngọc Anh gởi thơ với tin tức chiến sự, càng ngày càng sôi động Miền Nam thật sự trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Qua tháng tư , mổi ngày coi tin tức, thấy bản đồ chử S bị màu đỏ nhuộm lần lần từ vỉ tuyến 17 xuống miền Nam, ngày nào ba chị em tôi cũng khóc. Sự lo sợ, nóng ruột nóng gan không còn nghi ngờ gì nữa, màu đỏ xuống tới Xuân Lộc, rồi Long Khánh, miền Nam lọt vô tay Cộng sãn là cái chắc.

Ngồi may mà nước mắt tuôn ra, tới nỗi cô bạn nhỏ người Hong Kong, tên Siu Woo, chịu không thấu. Sẵn máy sẵn vải dư, nó may liền một cái túi, đi vòng vòng hãng xin tiền đồng nghiệp cho tôi. Thiệt có gặp cảnh khổ mới thấy người có lòng, nhứt là người nghèo. Nó xin được hơn trăm bạc. Rồi bà má chồng và ông giám đốc tốt bụng, cho chúng tôi mượn tiền gởi chị tôi cùng chồng trở về Việt Nam tìm cách rước gia đình. Nhưng, máy bay chỉ hạ cánh ở Thái Lan vì đã được lịnh không thể đáp xuống Việt Nam. Vậy là hết đường !
Đài truyền hình loan báo chiến hạm Mỹ neo ngoài khơi, ai ra tới sẽ được vớt. Lộ trình di tản, người ta chết trên đường lộ, chết chưa ra khơi, chết từ trên không trung rớt xuống. Một máy bay di tản trẻ mồ côi bị Cộng quân bắn hạ, mấy trăm trẻ chết hết.
Đau đớn biết bao cho những người lính Cộng hòa đã bị bỏ lại. Càng coi càng thắt ruột thắt gan. 

Cuối tháng Tư, trong tình trạng vô cùng tuyệt vọng, kể như sẽ không còn nhìn thấy mẹ và mấy đứa em nữa. Thình lình, đêm 29, khoãng 2, 3 giờ sáng, má chồng tôi kêu, nói, có người nào từ phi trường Hawaii cho hay má và mấy em đã rời Việt Nam.
Thủy quân Lục Chiến Mỹ làm hàng rào nhân sự, cầu không vận giờ chót đã bốc gia đình tôi ra khỏi địa ngục. Mừng quính, David liên lạc được với phi trường, nghe tiếng thằng em tôi:
- Cả nhà đi được, chưa biết chắc đi đâu, họ nói Wake gì đó, em hổng hiểu, sợ quá.
David nói :
- Rồi, nó đưa qua đảo Wake , căn cứ quân sự.
Mừng thôi là mừng. Sau cơn mưa, trời sáng sủa hơn..
Mấy ngày sau, biết chắc những người trong chuyến bay đó đang ở trại Pendleton, California. Chúng tôi đi rước về. Gia đình tôi ở trại chỉ có vài ngày.
Về Reno, đài truyền hình Eye Witness New và đài số 2 tới tận nhà phỏng vấn.

Qua ngày sau, má và ba đứa em tôi vô hãng may làm, đài truyền hình lại tới quay phim, báo chí đăng hình, viết bài chúc mừng, gia đình tị nạn đầu tiên. Thiệt đúng là báo có đăng đài có nói đàng hoàng.
David nói với tôi:
- Tôi không tin tôn giáo nhưng đây là lần đầu tôi đã cầu nguyện. 
Lúc đó vì mừng quá, đem gia đình ra khỏi trại sớm quá, chúng tôi không hiểu gì về quyền lợi mà chính phủ Mỹ dành cho dân tị nạn. Chúng tôi chỉ biết có một điều là qua được rồi thì đi làm nuôi thân và trả nợ. Tội nghiệp Ngọc Anh, Kim Loan và Tấn Long thằng em trai mới có 17 tuổi là tuổi có thể trở vô trường, phải đi làm. Chỉ có Kim Phượng, Hoàng Thư và Thúy Phương được tiếp tục đi học.
Dân chúng Mỹ, chồng con về rồi, lòng nhân đạo họ củng mở ra.
Thời gian nầy là lúc người Việt tị nạn có đủ chuyện vui về việc tự dịch tiếng Mỷ. Hiểu sao dịch vậy, giản dị gọn gàng.
Đưa tay chỉ vợ, chàng giới thiệu với người Mỷ:
- This is my house (đây là nhà tôi)
Ai làm gì sai, lắc đầu, xí xóa :
- No star where (không sao đâu)
- The wind hit him (nó bị trúng gió) 
Bạn còn nhớ hôn"

1976, Sợ Cái Nghèo Đeo Đuổi

Sanh đứa con gái út, tuổi Thìn, tên Elizabeth Xuân. Hơn hai thằng anh, con rồng nầy ở đủ tháng đủ ngày. Nó uốn éo, nó vùng vẫy, nó nhào lộn, nó cân nặng 6 pound 12 ounce, sanh 6 giờ sáng.
Được chuyện nầy mất chuyện kia. Sợ con đói khổ, sợ cái nghèo đeo đuổi, sanh mới hai tuần tôi mướn người giữ con, đi làm lại. 
Hai đứa rồi, thêm đứa thứ ba, đứa con gái mà David từ lâu mong đợi, tôi cũng đã bỏ bê nó cho người giữ. 
Có phải vì lý do đó mà sau nầy lớn lên có chuyện gì buồn nó chỉ tâm sự với bạn mà thôi. Bây giờ nghĩ lại tôi vô cùng hối tiếc.
Sang năm 1977, dọn qua California. David làm Giám đốc hãng Barth & Dreyfus.

1978, làn sóng thuyền nhân

Sang năm 1978, Việt Mỹ được thư từ qua lại.
Làn sóng thuyền nhân tràn ngập các đảo nước lân cận. Cuối năm, cả đại gia đình dọn xuống North Carolina mở thêm chi nhánh. Làm ra tiền mà chỗ ở quá buồn.
Cuối năm, dì Năm cho hay chính quyền giải toả nghĩa trang Phú Thọ Hòa , phải lấy cốt Ba. Má tôi dặn đem đốt rồi gởi vô chùa. Dì Năm cho đứa con trai vượt biên, qua đảo Bulabidong an toàn.

1979, Trận Cuồng Phong David

Năm nầy, dì Năm cho hay cha con tụi tôi sẽ gặp nhau. Đó chỉ là cách nói bóng gió cho biết dì sẽ mang theo tro cốt của ba tôi đi vượt biên. Chừng không nghe tin tức của dì mà chỉ nghe tin thời tiết về trận bão chúng tôi lo lắng vô cùng. 

Trận cuồng phong (hurricane ) trớ trêu thay lại có tên là David, khủng khiếp, tàn phá, giết hơn 1,100 dân vùng duyên hải đảo Caribbean. Bão dữ sóng thành nhận chìm biết bao thuyền nhân. 
David liên lạc với hội Hồng Thập Tự, họ cho biết tin dữ : chiếc tàu Minh Hãi khởi từ Cà Mau đã không tới bến. Hơn 20 người bà con cùng dì Năm ôm bình tro cốt ba tôi, chìm sâu đáy biển. Ba tôi chết lần thứ hai! Một lần vì chiến tranh. Một lần vượt biên.

Nghe tin, không biết phải làm gì. Thấy tôi ngồi chết lặng cả buổi trong xó nhà, David ra xe lái đi. Y đi tìm chỗ làm thủ tục đứng tên bảo lãnh hai gia đình thuyền nhân Việt Nam.
Ở North Carolyna, tôi đã gặp nhiều cựu quân nhân, thương phế binh Mỹ trở về từ Việt Nam. Một người da trắng, mặt mày bị cháy bởi bom napaln, không còn hình dạng mắt, mũi nữa... Một người da đen, tay chống nạng, ông nói:
- Tôi để lại một chân bên xứ của cô.
Bạn nghe đau lòng không"

1984, dọn hẳn về California

David nhảy từ hãng nầy qua hãng nọ, chổ vài tháng, không hài lòng với việc làm. Hùn hạp với một người Đại Hàn mở hãng in vải, lổ vốn, đóng cửa . 
Thất nghiệp. Y bỏ uống rượu. Nhất định không chịu xin tiền thất nghiệp. Năm nầy là năm thất thời thất chí của y. Ngồi trước TiVi, không đổi đài, hồn lạc đâu mất tiêu. Nhiều đêm, y ngồi dậy, lâu lắm, không nói gì. (Sau nầy nghe người ta nói cựu quân nhân Mỹ tại Việt Nam thường bị flashback, có nghĩa bị hình ảnh quá khứ ám ảnh, hổng biết dịch tiếng Việt là gì.) 
Tôi cũng không khá hơn. Ở nhà lãnh tiền thất nghiệp. Vừa may em tôi, Thúy Phương, đem cuốn sách dạy về ngành Thẫm Mỹ cho tôi dịch mướn, kiếm thêm chút đỉnh!

1987, Má Chồng Mất

Việt kiều bắt đầu trở về Việt Nam thăm nhà.
David làm cho hãng Design Collection (DC) chuyên mua bán, xuất nhập cảng hàng vải. 
Tôi đậu bằng thẩm mỹ, ở lại dạy cho trường.
Giữa năm, má chồng tôi mất. Trước khi chết bà dặn không được mở nắp hòm.Bà muốn con cháu nhớ lúc bà còn sống chớ không nhớ tới cái xác vô hồn. Thôi rồi!

Bà đi trước khi được thấy sự nghiệp thành công của con trai. Cũng không kịp cho tôi nói lời cám ơn, thưa với bà là đứa con dâu Việt Nam của bà đã có nghề nghiệp chuyên môn, khỏi phải lo đứng bếp như lời bà từng dặn.
Còn đâu nữa những buổi ăn ngon lành thuần túy thức ăn Mỹ. Những ngày lễ lớn, nếu tụi tôi không đi thăm được, bà luôn luôn gởi thùng bánh trái tự tay làm cho con cháu. Tôi nhớ những lúc túng quẫn, bao giờ tụi tôi cũng kêu gọi tới bà. Lòng mẹ thương con dân tộc nào cũng như nhau. Từ đây, bà đã nằm kế bên ngôi mộ người chồng yêu dấu.

1988 - 1990

David lao đầu vô việc làm. Mổi tháng đi Nửu Ước hoặc South Carolina một tuần. Tôi cũng lo việc của tôi. 
Hai đứa con trai tới tuổi vị thành niên, tuổi nguy hiểm. Bắt đầu nếm mùi lo buồn vì con cái. Lỗi chúng tôi phần nào vì đã không biết dạy dỗ tụi nó đúng cách.
1990. Bà chị thứ tư của David mất vì bịnh đứng tim.

1991, David Bị Kích Tim

David bị heart attack (kích tim) vô nhà thương mấy tuần. Hậu quả của gần 30 năm hút thuốc. Hút càng ngày càng nhiều. Việc làm càng khó khăn, căng thẳng, y càng cố gắng. 
Chưa từng biết gì về computer nhưng với kinh nghiệm làm việc, y đã điều hành, kiểm chứng cho chuyên viên lập ra một chương trình để xử dụng trong hãng. Từ lúc hãng mới mở cửa năm 1986, việc ít, người ít, mọi sự đều làm bằng tay. Cơ sở phát triển lên hàng trăm nhân viên, phải điều hành bằng hệ thống điện toán.

Vì trách nhiệm, vì việc làm đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên, y đã quên thân mình. Một ngày hai bình cà phê, ba gói thuốc thì thân nào chịu nổi. Bác sĩ cho biết nếu không tự săn sóc lấy mình thì y sẽ không sống tới ngày có cháu! 
Sợ chết ,y bỏ hút thuốc. Một cái một. (y nói nhỏ không muốn bỏ tôi lại một mình) 
Tôi làm giám khảo ngành thẩm mỹ.
Chiến tranh giữa Kuwai và Iraq bùng nổ.
Hai đứa con trai nói "khi quốc gia cần tụi con sẽ đi lính " dù ba nó đã cho biết sự sai lầm của chính bản thân. Tôi quá lo sợ, sợ cho tới ngày Tổng Thống Bush rút quân về.
Con gái tôi bắt đầu cãi cha ghét mẹ. Khi buồn nó chỉ tâm sự với bạn mà thôi. Lỗi tại tôi, ham làm việc, ít gần gũi nó.
Diện con lai, gia đình HO bắt đầu qua Mỹ.

1992 - 1993

Lawrence vừa đi học vừa đi làm. Đứa con trưởng có tánh tự lập từ nhỏ. Có em sớm, nó cũng sớm biết nhường nhịn, thường ngồi chơi một mình. 
Còn nhớ Tommy, lúc mới mấy tháng biết nhìn ai là mẹ rồi, tối nào tôi cũng phải ẵm nó từ 8 tới 9 giờ rồi bỏ vô giường thì nó mới chịu ngủ.
Vậy mà vù một cái, năm 1993, tôi cưới dâu trưởng, gốc Quảng Đông, tên Elaine.

1994 - 1996

Hảng DC chia ra chi nhánh lấy tên DIVION 92, David đươc một phần trong bốn phần hùn. Y vừa làm chủ hãng DIV 92, vừa làm phó giám đốc cho hãng chính DC.
Cuối 1994, Tommy vô hãng làm việc cho cha.
Sang năm 1995, con dâu có bầu. Đứa đầu không giữ được.
Tôi cứ suy nghĩ hoài. Có thể nào, vì Agen Orange (chất độc mầu da cam từng xài quanh các căn cứ Mỹ ở Việt Nam thời chiến) ảnh hưởng máu ông nội, qua tới đời cháu" Chẳng lẽ hậu quả của chiến tranh đeo đẳng theo phá hoại tới đời con cháu"

1996, Thêm Công Dân Hợp Chủng

Elaine có bầu lần thứ nhì. Lần nầy thì mẹ tròn con vuông. Chúng tôi có cháu nội gái tên Emily.
Vậy là, xứ sở có tên Hợp chủng quốc thêm một công dân hợp chủng. Emily có 3/4 máu Á Đông, máu Mỹ còn có 1 phần. Nếu theo cái đà nầy, vài thế hệ tới nước Mỹ sẽ không còn da trắng, đen, vàng, đỏ, nâu nữa mà sẽ có cùng chung một màu ...lờ lợ. Với cháu nội, tôi muốn sửa lại những sai lầm, thiếu sót cũa tôi khi nuôi con, tất cả thì giờ rảnh tôi dành cho nó.

1997, xuống tàu, “ra riêng”

Elizabeth vô hãng làm phụ tá cho David. 
Tụi tôi để nhà lại cho vợ chồng Lawrence. Mua chiếc tàu dài 28 feet, "ra riêng", sống luôn trên tàu. Kể như chúng tôi ăn trái do mình trồng, bây giờ có dư chút đỉnh tiền, y dụ tôi mua chiếc tàu để thỉnh thoãng đi câu cá. Tôi chìu theo dù không biết lội. 
Ai mà ngờ ngày ký tên nhận tàu, cũng là ngày tụi tôi ở luôn trên con tàu neo giữa Boat City tại Marina del Rey.... Không khí mát mẻ, tôi dứt chứng bịnh dị ứng mũi kinh niên. Từ ngày ở trên tàu không còn phải xài thuốc thông mũi nữa. 

Sang năm 1998, con tim của David có vẻ chịu gió biển, không thấy lên cơn bất tử nữa. Công việc "xuôi chèo mát mái" y đòi đổi chiếc tầu 38 feet. Tôi lại phải gật. Sống trên mặt nước là ước muốn từ lâu của y. Có con tầu riêng đúng ý, David vui vẻ coi là "mộng đã thành." 
Nhìn y vui, tôi nhớ đủ thứ. Chẳng có giấc mộng nào tự nhiên mà thành. May mắn không đủ. Núi cao có núi cao hơn. Lúc nào chúng tôi cũng tự hỏi "Mình có làm đầy đủ nhiệm vụ chưa" để khỏi phụ công ơn của những người trên đường đời đã một lần nào đó, giúp mình.

1999, Vĩnh Biệt Elaine

Trước ngày lễ Tạ Ơn, nhận tin chị Elaine đang hấp hối. Tới nhà chị, tụi tôi quẩn quanh trong 4 ngày. Đây là lần thứ hai tôi chứng kiến mạng người chênh vênh giữa sự sống và chết. 
Khi Ba tôi bị bắn, cái chết thời chiến đến thình lình, tức tưởi, tê dại. Chị Elaine chết trong cảnh an bình. Đứng lặng bên giường chị, tôi thấy sự hấp hối, lấy hơi lên, hớp từng hớp không khí mà không nghe hơi thở ra, cho tới hớp không khí cuối cùng. Thình lình, tim ngừng đập. 

Chị mất, tuổi mới 53. Tro tàn chị dặn hãy đem rải trên ngọn núi Table Rock ở Medford, nơi chôn nhau cắt rún. Một cuộc đời, chỉ sống loanh quanh nơi thị trấn nghèo nàn, buồn thiu. Sống giản dị, chết cũng giản dị. 
Còn nhớ mới ngày nào chị cùng má chồng ra sân bay rước tụi tôi, năm 1970. Tôi gặp chị vào lể Tạ Ơn, nay chị xa tôi cũng vào dịp lể nầy! Thoắt cái. Ba mươi năm. Thôi rồi, xong một đời người. Vĩnh biệt Elaine.

2000, Sau 32 Năm

Ngày 28 tháng 5 năm 2000, ngày giỗ Ba tôi.
Sau 32 năm, nhìn đám con nguyên vẹn 7 đứa (chị tôi đi xa không về kịp) cùng gia đình sum họp, có lẽ Má tôi, chen lẫn trong buồn nhớ là sự hài lòng. Bà đã không uổng công ở vậy nuôi con. Mấy chị em tôi, dù con cháu đầy đàn, vẫn luôn luôn quẩn quanh bên Má. Tôi không đủ chử nghiã để viết về người mẹ. Bà là người đã tạo cho tôi lòng tin và sự cứng rắn. Chính bà là chỗ dựa để tôi đứng lên vững hơn mổi lần bị đời đạp xuống. Má tôi đã lên chức Bà Cố từ lâu.

Tháng 6, tôi có thêm đứa cháu nội gái tên Charlotte. Đứa lớn giống mẹ đứa nầy giống cha. Đứa cháu lớn nói tiếng Tàu thiệt là giỏi. Tiếng Mỹ khỏi học cũng biết. Tiếng Việt nói gì nó cũng hiểu, mà còn mắc cở miệng. Năm nay tôi cho nó 2 cuốn băng học tiếng Việt, má nó cùng học luôn thể. Mới 4 tuổi rưởi mà nó ma le lắm. Khi nào muốn tôi chơi với nó, nó sẽ giở giọng nhõng nhẽo ra " bà nội, lại đây" bằng tiếng Việt có bỏ dấu đàng hoàng (giỏi hơn ông nội) lòng tôi mềm nhũn liền. 

Khi nhận tin người anh rể chết bất thình lình, tôi nhớ ngày anh mang David về ngôi nhà cũ ở Phú Lâm giới thiệu. Anh chính là "ông mai" của chúng tôi. Tôi biết ơn anh. 
Cho tới ngày nay, David cũng chỉ nói được vài tiếng Việt không bỏ dấu.
Tôi xào đồ ăn, y nhắc:
- Put alot of Cu Hanh ( để nhiều củ hành). 
Mỗi lần ai hỏi về "Chuyện gì xảy ra ở 'Nam'" y trả lời:
- Mình rút, mình thua. Vinh hạnh gì mà khai" Tôi thấy xấu hổ...
Tôi không nhìn người đàn ông đi bên tôi là người ngoại chủng, chỉ thấy một người chồng, người cha, lòng tốt lấp đi tật xấu. Y bắt buộc ba đứa con phải nói tiếng Việt để tỏ lòng kính trọng người mẹ Việt và gia đình bên ngoại.
Đó bạn, "chuyện nhà" chúng tôi, cũng ba chìm bảy nổi như bao câu chuyện khác.

Qua kinh nghiệm sống hơn ba chục năm, tôi thấy nước Mỹ chuộng người siêng năng, cầu tiến, cố gắng và biết chụp cơ hội. "Ngồi mà chờ thời, đời nào mà thành." 
Tôi hay chọc David :
- Nước Mỹ nợ nước Việt Nam, cho nên phải cưu mang người Việt. Má tôi hơn 75 tuổi còn sáng suốt, ăn uống đầy đủ, bịnh hoạn đã có bác sĩ, nhà thương lo. Các em tôi có công ăn việc làm đàng hoàng. Còn you, you nợ tôi, you tình nguyện vô lính lúc chưa tới 17 tuổi, bắt mẹ phải đi ký tên, đi tuốt qua bên kia trái đất, rước tôi về đây để trả nợ.
Y nịnh:.
- Nợ tình. "I love you từ kiếp trước". Nợ tiền trả lần lần cũng hết. Nợ tình thì anh trả suốt đời. Kiếp nầy không xong trả thêm kiếp sau.
Vậy là sau bao năm coi vợ như... không khí, y bắt đầu hiểu ra là không khí cũng có chút giá trị.
Vợ chồng, khi hiểu được điều nầy, thường đã...quá đát. David nay không còn ốm gọn, mà y như cái thùng phuy. Tôi cũng đã tròn như cái gối ôm, đâu còn nhỏ xíu, mỏng manh như khi đứng bên y trước bàn thờ Ba tôi năm nào.

Trong trận cuồng phong David năm 1979, mạng sống hàng ngàn người và thuyền nhân đã bị nhận chìm, trong đó có dì Năm và tro cốt Ba tôi. Tất cả chìm tan nhưng biển vẫn còn đó.
Hàng ngày, tôi đang là "tàu nhân" sống ngay trên biển. 
Đứng bên David, người chồng Mỹ cùng tên với trận cuồng phong, nhìn biển, nghe tiếng sóng xô, lớp sau đùa lớp trước, tôi hiểu điều tôi khấn nguyện và tự hứa năm xưa vẫn được Ba tôi liên tiếp nhắc nhở và phù hộ.

Trương Ngọc Bảo Xuân Abbott

https://vvnm.vietbao.com/a162153/32-nam-nguoi-my-va-toi



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Apr/2021 lúc 7:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22187
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Apr/2021 lúc 8:19am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 94 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.320 seconds.