Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 94 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 07/Apr/2021 lúc 8:27am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 08/Apr/2021 lúc 8:51am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 09/Apr/2021 lúc 8:34am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 7:40am |
THÁNG TƯ XƯA <<<<< |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 7:46am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 1:15pm |
VĂN: "DÒ SÔNG DÒ BIỂN DỄ DÒ - MẤY AI LẤY THƯỚC MÀĐO LÒNG NGƯỜI" - ' MẶT HOA DA PHẤN' <<<<< |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 13/Apr/2021 lúc 8:45am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 14/Apr/2021 lúc 7:53am |
Tản Mạn Tháng Tư: Cái Bóng Cuộc Chiến Và Món Nợ 45 Năm
Đã kết thúc đúng 45 năm, nhưng cái bóng của cuộc chiến ấy dường như
vẫn luôn bám theo đằng sau, nhiều lúc muốn chụp phủ lấy tôi như bóng ma,
một thứ “bóng đè”, làm tôi muốn ngộp thở.
Từ giã học đường, tôi vào lính khi còn rất trẻ. Cũng không hẳn vì
thích đời binh nghiệp, nhưng ý thức trách nhiệm làm trai trong lúc đất
nước đang trong khói lửa chiến tranh, nhìn quanh bạn bè thân quen đều
lần lượt nhập ngũ, và gần như con đường nào rồi cuối cùng cũng dẫn tới
một quân trường, nên đúng như lời một bài hát cũ, “năm 21 tuổi tôi đi
vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai”.
Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải qua
nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp chỉ huy tài ba đảm lược,
những chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không
nhớ là tôi đã hướng dẫn họ được những gì, nhưng chắc chắn tôi đã học
được ở họ sự trung thành, lòng can đảm và nhiều kinh nghiệm chiến
trường. Trong hơn mười năm chiến trận, tôi từng được thăng cấp đặc cách
ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm
tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là công trạng của mình,
khi hình dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội dưới quyền đã hy sinh,
trong lúc mình vẫn đang còn sống? Tôi không bao giờ quên được những ánh
mắt của họ đã nhìn tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ
muốn trăng trối, gởi gấm hay oán trách điều gì. Tôi thường giành phần để
được vuốt mắt họ khi tình hình có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít
nhất là đã không bảo vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao giờ, nhưng dù chỉ là
một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đã mắc nợ khá nhiều xương máu của đồng
đội anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ còn trả được.
Phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa
hề một lần bại trận. Ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với
lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, chúng tôi vẫn
chiến thắng vẻ vang, như trận phản phục kích trên QL-20 gần Di Linh (Lâm
Đồng), trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Phan Thiết, trận phản công tiêu
diệt một lực lượng biển người của địch tại Pu-Brang (Quảng Đức) và đặc
biệt nhất là trận chiến Kontum mùa Hè 1972. Vậy mà cuối cùng chúng tôi
bỗng dưng trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù
có gãy súng, buông súng hay không, chúng tôi cũng thuộc về phía “đầu
hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh
Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ,
nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia,
tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại bảo
ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng
có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu,
và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo
Guam, sang Mỹ sớm. Là một thằng lính năm tháng ở trong rừng núi, ngộp
thở với bao nhiêu thứ lệnh lạc trên chiến trường, tôi không biết gì về
chính trị, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày cuối
cùng tại thủ đô Sài gòn, nhưng tôi cảm thấy “nhục!”
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc
nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị
Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội Đồng Minh, sau
khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và
Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho
dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh
của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà
phẫn uất và đau đớn quá. Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn,
tức tưởi.
Thua một kẻ địch không đáng để thua. Và một chế độ tự do nhân
bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo
nàn, lạc hậu. (Có lẽ trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa từng có
những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần
đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội Dương Thu Hương và có thể còn nhiều người khác nữa–
bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải
phóng” một đất nước tự do, văn minh, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần xứ
sở của mình.)
Điều đau lòng và đáng tủi nhục hơn là thua quá nhanh. Hai cuộc
triệt thoái sai lầm tệ hại, từ Pleiku theo Tỉnh Lộ 7B của Quân Đoàn II
và từ bờ biển Thuận An của Quân Đoàn I, dự trù theo đường biển, đã thất
bại quá nặng nề bi thảm, không những làm mất hai quân đoàn ở những tuyến
đầu cùng cả một sư đoàn tổng trừ bị tinh nhuệ, mà quan trọng hơn, làm
mất tinh thần và niềm tin chiến đấu cho quân, dân cả nước. Điều đau đớn
và tội nghiệp nhất của người lính chiến là khi họ không còn niềm tin vào
cấp chỉ huy, lãnh đạo của mình. Đánh giặc mà không có hậu phương, không
còn được tiếp tế, không có viện binh, có nơi không có cả cấp chỉ huy,
và nhất là không biết cắt bỏ đất đến đâu, thì trận đánh đó trở thành bi
thảm, niềm tin chiến thắng trở nên rất mong manh, vô vọng, người lính
nếu còn chiến đấu chỉ vì tình đồng đội và tự vệ cho sự sống còn của
chính cá nhân mình.
Mặc dù ghi được hai điểm son cuối cùng trong quân sử (– Tại
Ban Mê Thuột, chỉ một tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung Đoàn 53 được tăng
cường hai Trung Đội PB 105 ly và một Đại Đội Trinh Sát, dưới sự chỉ huy
của Trung Tá Võ Ân, quyết tử thủ tại căn cứ B50 bên phi trường Phụng
Dực, đã dũng cảm chống trả một lực lượng hùng hậu của địch, với quân số
gấp 5, 7 lần cùng nhiều chiến xa T-54, bao vây đúng một tuần sau khi cả
thành phố Ban Mê Thuột đã thất thủ, tiêu diệt nhiều đơn vị, chiến xa
địch, cho đến khi cạn đạn dược, phải mở đường máu thoát ra – và tuyến
thép Long Khánh của Tướng Lê Minh Đảo đã cầm chân cả hơn một quân đoàn
Cộng sản gần hai tuần lễ, gây tổn thất nặng nề cho địch, làm ngỡ ngàng
cả thế giới, nhất là Tòa Bạch Ốc); nhưng cũng chỉ đúng 50 ngày, kể
từ khi mất Ban Mê Thuột, một quân lực hùng mạnh gần như tan rã, và cả
miền Nam mất vào tay giặc!
Ngoại trừ phần lớn lực lượng Hải Quân và Lữ Đoàn I Nhảy Dù có
phương tiện ra đi theo kế hoạch, một số thuộc các đơn vị Không Quân, và
từng nhóm hoặc cá nhân mang theo gia đình tự vượt thoát bằng các loại
phi cơ, ghe tàu kiếm được, hầu hết còn lại phải vào tù, từ những tướng
lãnh đến sĩ quan mới ra trường, có cả một số hạ sĩ quan giữ những chức
vụ liên quan tới an ninh, tình báo. Một số không nhỏ đã bị “bên thắng
cuộc” tàn sát dã man tại địa phương, ngay sau khi cướp lấy chính quyền.
Đặc biệt đáng kính phục, một số tướng lãnh cùng nhiều cấp chỉ huy và
binh sĩ khí phách đã tự sát vào giờ thứ 25 để giữ tròn tiết tháo. Cả một
miền Nam thua trận đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn
cùng, bi thảm. Tiền bạc (có được từ mồ hôi nước mắt và có khi bằng xương
máu) bỗng chốc không còn giá trị, nhà cửa, tài sản bị cướp sạch dưới
danh nghĩa tịch thu, rất nhiều gia đình từ ông bà già đến những đứa con
nít sơ sinh bị xua đuổi, cưỡng bách đi đến những nơi rừng thiêng nước
độc. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương
mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn
biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở
phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con
người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng!
Hơn tám năm bị đày ải qua nhiều trại tù Nam-Bắc, ngày trở về tôi
không còn được nhìn lại mặt cha mình. Ông đã chết sau gần một năm bị bắt
vào một trại tù khác trong Nam khi tuổi sắp 70. May mắn là tôi còn
người vợ chung tình cùng tôi qua bao cuộc biển dâu, bươn chải nuôi đàn
con dại, cho dù bữa no bữa đói.
Nhìn thấy vợ con đói khổ, tả tơi, mình chẳng có thể giúp được điều
gì, mà còn tạo thêm gánh nặng, cuối cùng, chỉ còn cách duy nhất – đem
hết sinh mạng cả nhà để đánh một canh bạc cuối cùng – vượt biển.
***
Tôi đến trại tị nạn khi phong trào kháng chiến, phục quốc đang trong thời kỳ đỉnh điểm. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do
vị tướng Hải Quân Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, nghe nói có căn cứ, chiến khu
ở đâu đó trên đất Thái Lan gần biên giới Lào-Việt. Có cả tờ báo và đài
phát thanh Kháng Chiến. Tôi cùng rất nhiều anh em nức lòng hăng hái
tuyên thệ để được trở thành đoàn viên. Đứng trước bàn thờ tổ quốc, đưa
tay lên chào lá quốc kỳ, hô mấy lời thề mà trong trái tim bừng lên khí
thế và nước mắt rưng rưng cảm động. Nhiều người sẵn sàng trở về chiến
đấu. Riêng tôi còn tin tưởng và phấn chấn hơn khi được xem cuốn phim
quay trong “chiến khu quốc nội”, nhận ra người bạn học đồng hương thân
thiết, một sĩ quan TQLC, là kháng chiến quân cầm súng đứng bên cạnh
Trung Tá Lê Hồng (bấy giờ được gọi là Thiếu Tướng Đặng Quốc Hiền), dưới
lá cờ vàng phất phới tung bay giữa núi rừng biên giới.
(Tr/Tá Lê Hồng trong chiến khu)
(Trung Tá Lê Hồng là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong binh chủng
Nhảy Dù, mà tôi từng biết danh và kính phục. Ông xuất thân từ người lính
binh nhì và hầu hết những cấp bậc đều được vinh thăng tại mặt trận. Sau
trận chiến Long Khánh lẫy lừng, cùng sát cánh với SĐ 18 của Tướng Đảo,
ngăn chặn hằng cả quân đoàn Bắc Việt có nhiều chiến xa, trên đường tiến
chiếm Sài gòn, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù di chuyển về Gò Công, tìm đường để về
Vùng 4 chiến đấu cùng Tướng Nguyễn Khoa Nam, nhưng đã quá muộn, không
còn thời gian và cơ hội nữa. Với chức vụ Lữ Đoàn Phó LĐ1/ND, Trung Tá Lê
Hồng đã thừa lệnh vị Lữ Đoàn Trưởng tìm mua ghe thuyền đưa toàn quân ra
biển. Và đó là đơn vị Lục quân tác chiến duy nhất đã di tản toàn bộ đến
Hoa Kỳ.)
Nhưng chỉ vài tuần, sau ngày “Đại Hội Chính Nghĩa” của
Mặt Trận tổ chức rầm rộ tại Washington DC-Hoa Kỳ thì chúng tôi dồn dập
nhận được bao nhiêu tin tức không vui. Một số lớn cán bộ chủ chốt và
đoàn viên tách ra, chia làm hai ba nhóm, lên án tố cáo lẫn nhau, lộ ra
nhiều điều không thật. Chúng tôi ở tít mù xa nên chỉ biết tạm thời “án
binh bất động.” để giữ tình anh em, chiến hữu. Chưa kịp phản ứng gì thì
nghe tin vị Tướng lãnh đạo cùng nhiều cán bộ, kháng chiến quân đã hy
sinh tại Nam Lào. Hình ảnh và tin tức có đầy trên báo chí, truyền hình
Cộng sản. Lực lượng “quốc nội” xem như tan rã. Thằng bạn tôi có tên
trong danh sách “bị giết”, Trung Tá Lê Hồng cũng không còn (sau này nghe
nói ông chết trong chiến khu vì trọng bệnh). Như một quả bóng căng đầy
bị xì hơi, chúng tôi chẳng còn gì để hy vọng. Tôi đau đớn rời khỏi tổ
chức mà mình đã hết lòng góp công gầy dựng. Nỗi buồn lại tăng lên gấp
bội, khi những người chết, dù gì họ cũng đã hy sinh vì Tổ quốc, lại
không hề được chính thức công bố, truy điệu, vinh danh. Tôi ra phía sau
nhà, đứng một mình trong bóng đêm, đốt ba nén hương hướng về phương Đông
để tưởng nhớ thằng bạn cũ mà trong lòng ngậm ngùi đau đớn. Sau này tôi
có dịp liên lạc được với vợ con nó, sống rất nghèo khổ ở Việt nam, ngay
quê vợ tôi. Ông bà nhạc tôi từng cưu mang đứa con trai lớn của nó một
thời gian, lo cho việc ăn ở, học hành.
Những năm đầu định cư, sống trên
vùng Bắc Âu băng giá, tôi càng lạnh lẽo hơn khi biết tin người anh hùng
Trần Văn Bá, Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Pháp cùng các ông Lê
Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và một số thành viên trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải phóng Việt Nam bị
bắt khi xâm nhập vào bờ biển Cà Mau. Sau đó anh Bá đã bị CS xử bắn cùng
nhiều người khác. Trên bàn thờ nhà tôi, có thêm tấm di ảnh của anh. Anh
rất xứng đáng để được vinh danh như một vị anh hùng.
(anh hùng Trần Văn Bá)
Một tổ chức khác, Liên Minh Quang Phục Việt Nam của ông
Võ Đại Tôn, một cựu sĩ quan cao cấp, từ Úc Châu, gạt lệ từ giã vợ trẻ
con thơ tìm đường về phục quốc. Tôi hoàn toàn không biết gì về sách lược
hay kế hoạch của ông cho đến khi nghe tin ông bị bắt. (Sau này bất ngờ
được xem cuốn phim quay cảnh ông bị cộng sản đưa ra một cuộc họp báo
quốc tế tại Hà Nội ngày 13.7.1982. Cuốn phim do phóng viên Neil Davis
của NBC News cùng ký giả Mori của đài truyền hình NHK/ Nhật Bản, thực
hiện và may mắn được mang ra khỏi Việt Nam để trình chiếu trên đài
truyền hình Tokyo, Nhật Bản. Chắc chắn bọn cầm quyền Hà Nội đã áp lực để
bắt ông phải nói theo sự dàn dựng của chúng, nhưng ông đã khôn khéo lừa
dụ địch, tương kế tựu kế, nhằm đưa được tiếng nói của mình ra bên ngoài
thế giới. Trước nhiều phóng viên của các nước cộng sản và thế giới tự
do, với nét mặt đanh thép và giọng nói dõng dạc, hùng hồn ông tuyên bố
(nguyên văn): “Tổ chức của tôi có cơ sở tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ
và Châu Úc. Trong một mục đích của tổ chức, chúng tôi có kế hoạch dự
trù xâm nhập trở về Việt Nam để tìm hiểu tình hình và từ đó sẽ đặt kế
hoạch cho tương lai. Vì lẽ đó, tôi sẽ không phản bội bất cứ ai đã giúp
đỡ, ủng hộ tôi. Tôi tiếp tục lập trường chính trị của tôi để tranh đấu
cho tự do và giải phóng dân tộc. Tôi đã sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào
mà chế độ Công sản dành cho tôi”
Cả hội trường im bặt, các phóng viên quốc tế sửng sốt, đám cán bộ
cộng sản nhìn nhau ngơ ngác. Cuộc họp báo buộc phải dừng lại bởi xem như
bất thành với ý đồ của đám người tổ chức (thuộc Bộ Thông Tin Văn Hóa
CS).
Niềm hạnh phúc vỡ òa trong trái tim tôi, hãnh diện về một vị đàn anh khí phách, nhưng sau đó lo lắng cho số phận của ông.
(ông Võ Đại Tôn trong buổi họp báo của CS tại Hà Nội)
Sau mười năm bị hành hạ kiên giam trong ngục tối, nhờ sự can thiệp
của chính giới quốc tế và Úc Châu, ngày 11.12.1991, ông được trở về Úc
với thân xác gầy gò còn hằn những vết đòn thù. Nhiều báo chí trên thế
giới và hầu hết cộng đồng người Việt khắp nơi ca ngợi ông như một anh
hùng, nhưng rồi cũng có ít người chê trách, kể cả miệt thị ông. Một lần
nữa, tôi có cảm giác cay đắng, ngậm ngùi. Dù gì, lòng can đảm, tính khí
khái và sư hy sinh lớn lao của ông cũng đã quá đủ để làm tôi kính phục.
Xưa nay mấy ai đem chuyện thành bại mà luận anh hùng. Và với tôi, ông
xứng đáng là một anh hùng.
Rồi tất cả cũng từ từ đi vào quên lãng. Chuyện kháng chiến, phục
quốc lắng xuống, nhưng mầm móng chia rẽ, nghi kỵ bắt đầu. Niềm tin mất
dần, và dường như lòng một số đông người Việt tị nạn cũng dần dà chán
chường, nguội lạnh.
***
Vừa bỏ lại đằng sau gần mười năm khốn cùng tăm tối, lại vừa thoát
chết trên biển Đông, giờ mới bước lên bến bờ tự do thì gặp bao nhiêu
điều hụt hẫng đau lòng, tôi không còn muốn nhìn lại vùng bóng tối phía
sau lưng bằng cách dồn hết nỗ lực hòa nhập vào quê hương mới.
Đời sống ở vùng Bắc Âu thật an bình, dân tình hiền hòa, đất nước
thơ mộng với rừng núi, sông hồ quanh năm tĩnh mịch, như là những liều
thuốc nhiệm mầu tưởng chừng có thể chữa lành được những vết thương còn
lại trong lòng mình.
Tám năm sau, nhân dịp đưa ba cô gái sang Mỹ học, tôi có dịp gặp
lại một số đồng đội và bạn cùng tù cũ. Thời gian này, đã có nhiều đợt
cựu tù “cải tạo” đến Mỹ theo diện HO. Rất vui và cảm động qua bao cuộc
trùng phùng. Một chiều cuối tuần, chúng tôi theo anh bạn, trước kia là
tiểu đoàn trưởng, đến tham dự buổi họp mặt binh chủng của anh, một binh
chủng từng vang tiếng một thời, được tổ chức tại một nhà hàng lớn trong
khu Little Saigon. Rất đông đảo người tham dự. Sau gần hai mươi năm tôi
mới thấy lại nhiều anh em mặc quân phục, có vài người mang cả cấp bậc,
và lần đầu tiên ở hải ngoại, chứng kiến một nghi lễ rước quốc, quân kỳ
và chào cờ, với đầy đủ súng ống, có cả tiếng kèn đồng thổi bài truy
điệu, tôi đã xúc động, nước mắt tuôn trào. Sau khi vị trưởng ban tổ chức
giới thiệu thành phần ban chấp hành và đọc qua tiểu sử cùng những chiến
công hào hùng của binh chủng, một vị tướng đại diện cho binh chủng được
trịnh trọng mời lên sân khấu để “có đôi lời” cùng anh em đồng đội. Mái
đầu đã bạc, nhưng phong cách của ông vẫn uy nghi, lời nói dõng dạc, lẫn
chút xúc động khi nhắc đến những “thằng em” còn nằm lại ở chiến trường,
hay đã chết trong tù ngục. Không khí như trầm xuống. Nước mắt tôi lại
trào ra. Sau đó, tiếng nhạc nổi lên và cả chương trình dài còn lại dành
cho văn nghệ, dạ vũ. Sự đổi “tông” ấy đã làm tôi hụt hẫng, tiếc nuối.
Như một giấc mơ đẹp đẽ bỗng biến mất bởi những hình ảnh và âm vang đưa
tôi trở về thực tế. Giá mà tôi rời khỏi hội trường sớm, sau phần nói
chuyện của ông tướng thì hay biết bao nhiêu. Chắc tôi còn giữ được trong
lòng nhiều hơi ấm cùng chút niềm kiêu hãnh hiếm hoi.
Thời gian sau này, sau khi về hưu, tôi sang Mỹ sống nhiều hơn, đã
làm quen với các sinh hoạt ở đây, dần dà rồi cũng thấy bình thường trước
bao điều nhân tình thế thái. Nhưng tôi vẫn thấy nao lòng, khi chứng
kiến những đồng đội của mình ngày một già thêm và bộ quân phục trên
người không còn tạo cho họ cái oai phong, đẹp đẽ của ngày xưa, cái thời
mà hầu như bản nhạc nào của miền Nam cũng nhắc đến và ca ngợi họ như
những người hùng lý tưởng của các cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Bùi
Thị Xuân, Đồng Khánh, các cô sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa trên những
con đường tình có lá me bay, cây dài bóng mát…, hay hình ảnh đẹp đẽ oai
phong trong các cuộc diễn binh vào những Ngày Quân Lực năm nào, giờ
thỉnh thoảng vẫn còn được nhìn thấy lại trên các video.
Một hôm, tôi lặng người khi thấy trong cuộc diễn hành Tết trên
đường phố Bolsa, có mấy ông bà mặc quân phục mang cả lon tướng, tá của
nhiều quân chủng, mà tôi chưa hề nghe danh, biết mặt, bởi trông họ quê
mùa, kệch cỡm, mang phù hiệu, giây biểu chương còn không đúng cách. Thì
ra một đám tướng tá phường tuồng của một nhóm bệnh hoạn tự phong nào đó.
Tôi giận đến phải buông ra mấy tiếng chửi thề và trách cứ ban tổ chức
sao có thể để cho họ mạo nhận, diễn trò lố lăng như thế? Chẳng lẽ cái
quân đội của chúng tôi từng có biết bao máu đào của hàng hàng lớp lớp
chiến binh đổ xuống tô thắm màu cờ, giờ bị “xuống cấp” đến mức này sao?
Từ đó, tôi không còn muốn có mặt trong các buổi họp mặt, diễn hành khi
có những người mặc quân phục, mang lon lá một cách ô hợp, lố lăng như
thế. Tôi không muốn phải đau lòng. Chính những hình ảnh tệ hại này đã
nhắc nhớ, ám ảnh để tôi nhận ra mình là người lính trong đội quân thất
trận, điều mà lúc nào tôi cũng muốn quên đi.
Cũng ở Mỹ, đặc biệt Tiểu Bang California, nơi từng được mệnh danh “thủ đô người Việt tị nạn” và “thành trì chống Cộng”, tôi
đã phải chứng kiến bao điều thị phi, chia rẽ, nghe những lời miệt thị
giữa những người từng một thời là huynh đệ, đồng môn, đồng đội, đã từng
quỳ xuống trên cùng một vũ đình trường đưa tay lên “xin thề” trong ngày
lễ ra trường, và cùng sống chết bên nhau trên những chiến trường ngập
đầy lửa đạn. Gần như cộng đồng, tập thể nào cũng chia ba xẻ bảy. Còn sức
mạnh nào để đối phó với kẻ thù xảo quyệt, gian trá, bạo tàn, khi thế hệ
chúng tôi tuổi đã già, sức đã kiệt, và sẽ để lại được những hoài bão
gì cho con cháu mai sau?
Mảnh đất xấu là nơi cơ hội cho cỏ dại, thường là loại cỏ đuôi chó.
Tôi thật sự buồn nôn khi nhìn thấy vài bộ mặt, nhận mình từng là người
hùng của binh chủng này binh chủng nọ, nhưng chạy về khóc lóc, bợ đỡ kẻ
thù. Nghe những lời xu nịnh của họ, mà tôi thấy lợm giọng
Bạn bè chiến đấu cùng tôi ngày xưa, hay cả những đồng môn, huynh
đệ xuất thân từ một quân trường, từng cùng quỳ xuống vũ đình trường đưa
tay lên thề trong ngày lễ ra trường, giờ cũng bị những biến cố của dòng
đời “lưu vong” này mà chia năm xẻ bảy. Tệ hơn có một số còn xem nhau như
kẻ thù. Từ những bất đồng trong “kháng chiến”, “phục quốc” đến việc hội
hè, đoàn thể, xây dựng tượng đài, tu sửa Nghĩa Trang QĐ Biên Hòa, thậm
chí đến cả việc ủng hộ hay chống TT Trump, và mới đây là chuyện “Recall”
hay “No Recall” trong Hội Đồng Thành Phố Westminster- đã giết chết biết
bao tình chiến hữu, đồng đội, đồng môn, huynh đệ một thời.
Tôi thực tình không hiểu nổi, chỉ cảm thấy đau lòng, xót xa, và
nuối tiếc. Cái bóng ma cuộc chiến của hơn 45 năm trước mà tôi luôn muốn
quên đi, giờ càng đè nặng lên tấm thân còm cõi, bóp nghẹt trái tim già
nua của tôi, từng khát khao bao niềm hy vọng. Vết thương cũ trong lòng,
tưởng có thể lành, giờ nhói đau trở lại. Và món nợ máu xương của bao
đồng đội, đã hơn 45 năm rồi, biết đến khi nào mới trả được cho anh em!
Cầu xin hồn thiêng sông núi, anh linh tiên tổ và liệt vị anh hùng,
tử sĩ phù trợ cho cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt những huynh
đệ từng mặc áo lính của tôi, sớm dẹp bỏ mọi chia rẽ, tị hiềm, đưa tất cả
quy về một mối, cùng một lòng hổ trợ đồng bào trong nước, để họ có đủ
can đảm bước qua nỗi sợ hãi, cùng đứng lên làm ngọn sóng thần nhận chìm
chế độ Cộng sản man rợ, độc tài, tham nhũng, bán nước cầu vinh, để con
cháu đời sau không còn bị nợ nần, ô nhục, xích xiềng, vươn lên sánh vai
ngẩng mặt tự hào cùng năm châu bốn bể.
Một chế độ đi ngược lại lòng dân và xu thế phát triển của nhân
loại, tất yếu phải bị đào thải. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian – và sẽ
biến thiên tùy theo những trái tim có cùng nhịp đập.
Phạm Tín An Ninh
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 14/Apr/2021 lúc 7:54am |
32 Năm Người Mỹ Và TôiHàng ngàn người. Có thể cả chục ngàn, trăm ngàn, rồi cả triệu không chừng. Những người Việt tan tác khắp nơi, chưa gặp, chưa quen... Lạ thay, khi không bỗng thấy nhau thân thiết. Thân tới mức mang cả chuyện nhà của mình ra kể cho nhau nghe. Toàn những chuyện khổ đau, oan ức, tang thương đã bao năm nuốt xuống. Giải Thưởng Việt BáoViết Về Nước Mỹ hàng ngày cho tôi cảm giác ấy. Khi viết, khi đọc, thấy thương người, thương mình. Thương tới muốn khóc. Và bây giờ, bạn thân mến, Đến phiên tôi kể chuyện nhà cho bạn nghe. Viết
về nước Mỹ, được rồi, đang sống ở Mỹ mà. Viết về người Mỹ, tìm đâu cho xa. Tôi
muốn nói về người đi bên cạnh tôi 32 năm qua: David, chồng tôi. Cuộc đời giống như cuốn sách dán hình kỷ niệm. Mấy chục năm gom vô vài trang giấy.
Ngược giòng thời gian. Giở lại từng trang...
1968, Năm Mậu Thân Ngày
28 tháng 5, cư xá Cảnh Sát Phú Lâm A đường Lục Tỉnh quận 6 Chợ Lớn. Cộng sản tấn công Sài Gòn lần thứ hai, đặt bộ tư lịnh tại khu cư xá Phú Lâm A.
Gia đình tôi cư trú tại đây. Ba tôi là Cảnh sát, tùng sự tại phòng Giảo Nghiệm,
Tổng nha Cảnh Sát Quốc Gia ở đường Vỏ Tánh, Sài Gòn. Ba tôi bị cộng quân chận bắt, bắn chết tại chổ. Một viên đứt yết hầu, một viên
xuyên bao tử. Hai chị em tôi chứng kiến cảnh Ba bị bắn chết. Tôi nâng đầu, máu nóng vọt ra.
Ngọc Anh đỡ chân, máu nhểu dài xuống đất. Hai chị em lệt bệt, khiêng, rớt... khiêng,
rớt... vừa khóc vừa khiêng thây Ba tôi về nhà. Em tôi mới 15 tuổi, mặt đầy nước
mắt, hai bím tóc, bộ đồ trắng loang máu. Khoảng đường gần 100 thước đó dài, nặng, đau đớn, uất ức, hận thù, khắc sâu vô
tim, vô óc, vô suốt cuộc đời chúng tôi.
1969, Giã Từ Các Bạn Một
ngày tháng giêng anh rể tôi đem về giới thiệu người bạn vừa ra lính Hải quân,
David. Mới 20 tuổi, mắt sáng, tóc đen xanh, ốm gọn, nhanh nhẹn, rất lịch sự,
đàng hoàng. Tôi thấy có cảm tình. Những người bạn học đã vô lính. Mấy đứa bạn gái vừa có chồng, chồng chết trận,
tay bồng con thơ, tôi làm việc lương tháng ngàn mấy không đủ may áo dài bận đi
làm, lấy đâu giúp mẹ nuôi đám em" Khi Ba chết, đám em tuổi từ 15,13,10,7,5 và đứa em út (Thúy Phương) chưa đầy 3
tuổi. Má tôi, vợ công chức chỉ biết nội trợ. Người chồng tốt, người cha hiền đã
bị bắn chết. Con không cha như nhà không nóc. Là chị lớn của lũ em, thân con
gái, biết làm sao đây" Tôi đã nguyện với lòng sẽ tìm đủ cách để đi khỏi nước Việt Nam, khỏi nơi đầy
thù hận, đầy bất công, đầy tủi nhục. Và đó, David tới đúng lúc. Chính y sẽ đem
tôi ra khỏi vùng u tối và nhờ đó tôi sẽ tìm cách đem gia đình đi luôn. Thôi,
giã từ các bạn, tôi rẽ qua ngả khác từ đây. Tôi nhận lời làm đám cưới với y. Đang để tang ba. Đám tang với đám cưới, gần quá. Tôi chọn đúng ngày Ba bị bắn
làm ngày cưới. 28 tháng 5. Cho trộn lẫn vô nhau, trong tim, trong óc. Đâu phải lúc tiệc tùng. Tất cả tại nhà, giản dị trước bàn thờ tổ tiên. Không hột
xoàn, không vàng bạc, chỉ có lời vái hương hồn Ba. Xin Ba phù hộ cho ước nguyện
của con: đem được Má và mấy đứa em ra khỏi địa ngục nầy. Tôi tự hứa sẽ là người
vợ tốt suốt đời. Chúng tôi ở chung với gia đình, trên căn gác nhỏ. David làm việc cho một ông bầu
chuyên đem những dàn nhạc hát cho lính Mỹ nghe.
1970, Lần Đầu Tới Mỹ Tháng
3, tôi sanh đứa con trai đầu lòng, tuổi Tuất , tên Lawrence Long . Tội nghiệp đứa con so, 7 tháng đã ra đời. Cân nặng có 1 kí 700 gram, nhà thương
Đức Chính (đường Cao Thắng) giữ trong lồng kiếng 24 giờ. Giao lại tôi, cô y tá
cho hay "bé không biết bú". Trời đất ơi, tôi biết làm sao" Má tôi dạy "con nặn sữa ra, lấy cái ống nhỏ thuốc, hút sữa lên rồi nhỏ từng
giọt vô miệng nó. Thấy hông, cái miệng nó nhỏ hơn đầu vú, làm sao mà bú bình
thường được." Nhờ kinh nghiệm và sáng kiến của Má, con tôi qua khỏi mấy tháng đầu hung hiểm. Lúc đó David làm lương tháng khoảng 3, 4 trăm đô. Một hôm đi làm về, say nhừ, vừa
khóc vừa kể: - Bạn tôi mới bị quân khủng bố liệng lựu đạn, chết rồi. Sống ở đây lúc nầy nguy
hiễm quá. Tháng 11 vừa hết giao kèo y đòi trở về Mỹ. Chúng tôi đi lo thủ tục đem đứa em trai duy nhứt của tôi theo mà không được. Bởi
tôi còn ngây thơ, không biết là đút tiền thì tới đâu củng tới. Đành cắn răng, gạt
nước mắt, ôm con theo chồng. Tôi hẹn ngày trở về vì bỗn phận đối với gia đình
chưa tròn. Tôi phải tin bên kia đám mây đen vẫn là ánh mặt trời. Tôi tới Mỹ lần đầu ngày 22 tháng 11 năm 1970, bụng mang thai 5 tháng Mẹ chồng, chị chồng tên Elaine ra tận phi trường Portland thuộc tiểu bang Oregon
đón. Bước xuống phi trường, đèn sáng trưng, rực rỡ. Không khí tưng bừng nhộn nhịp,
tôi như con ngáo, thấy mình càng nhỏ bé. Rồi, phố lớn, nhà to, cây đầy trái, rụng
đầy sân. Ngồi trong xe hơi rộng rãi tôi cứ lấy mắt mà ngó, mà ước thầm,
"phải chi Má với mấy đứa nhỏ qua được!" Con người ta chỉ một lần sống, tại sao dân Mỹ quá sung sướng , dân mình thì
nghèo khổ chiến tranh" Cầm chùm nho lên ăn, nhớ tới mấy đứa em mà ứa nước mắt ! Cô chồng đãi bữa ăn lễ Tạ Ơn lần đầu tiên. Thịt gà lôi sao mà ngon, ngọt. Bên chồng thay phiên ẵm Lawrence. Suốt ngày tôi ở ngoài sân sau, hái quít hái
bom, vừa hái vừa tiếc hùi hụi mấy trái rụng đầy dưới đất. Nhà chồng thấy tôi nhỏ xíu, ai cũng thương. Qua lễ, lái xe xuống thị trấn Coquille thăm người cô thứ nhì. (David có 5 người
cô, 5 người chị). Trên đường đi, David ngừng lại thăm mộ của cha; kế bên là miếng
đất má chồng đã mua sẵn, dành cho bà. Ông bà dì dượng chồng cho ở tạm trong cái nhà xe một phòng khoảng hai tuần. Mỗi
đêm, leo lên cái giường rộng, không có mùng, trống lốc, trùm liền cái mền điện.
Cái ấm nhân tạo không đủ sức ngăn cái lạnh cắt da, cắt thịt. Nửa đêm nhớ nhà quá, tôi khóc. David ngồi dậy, gởi con cho bà nội, chở tôi ra bờ
biển. Biển nầy là biển gì tôi cũng không biết, nhớ nhà quá đâm ra ngu ngơ. Vậy
mà y kiên nhẫn, không nói gì, chỉ đem tôi ra biển. Có lẽ y muốn tôi nhìn về hướng
Đông" Một hôm mỏ ác trên đầu con tôi tự dưng nổi phồng lên. Đem vô nhà thương, khi
bác sĩ vừa cho biết phải thử nước trong tủy xương sống của nó để định bịnh, tôi
ngã cái đùng bất tỉnh. Rốt cuộc cũng không biết bịnh gì. Có thể nó chịu lạnh
không quen, cơ thể phản ứng tự nhiên, xương sọ phồng lên để bảo vệ bộ óc bên
trong. Báo hại mang cái nợ gần trăm bạc. Người anh chồng kêu qua Tucson, tiểu bang Arizona, hứa sẽ giúp cho việc làm. Nghe nói đó là xứ nóng, tụi tôi đi liền. Gom va ly quần áo, thùng sách tiếng Việt, hình ảnh ,mấy cái nón lá.....gọn gàng
trong chiếc xe Uhaul loại nhỏ nhứt, còn rộng rinh. Mùa đông trời lạnh thấu
xương, quần áo không đủ ấm, ngầy ngật vì phải vặn máy sưởi suốt đoạn đường dài
. Bụng nặng nề, ngồi triền miên, phải để Lawrence nằm dưới sàn xe. Tội nghiệp con tôi, tới nơi mình mẩy nó nổi đầy phong đỏ.
1971, Sanh Con Tại Mỹ Ở
tạm nhà cháu Maria, David phải đi làm nghề đổ xăng, lau kiếng xe hết hai tuần rồi
mới được vô làm trong hầm mỏ lộ thiên đào chất đồng đỏ, tên Anaconda Copper Mine. Mổi sáng đi làm, y vừa tra chìa khóa mở máy xe vừa khấn thầm "Nổ máy. Nổ
máy. Nổ máy!" Trời còn tối mò, y mặc bộ đồ đồng phục màu xám đen, đầu đội
nón sắt, tay xách hộp đồ ăn trưa, mặt mày còn sáng sủa. Buổi chiều về, sau một
ngày trộn lẫn với bụi đất cùng mồ hôi, chồng tôi da trắng trở thành da đen! Việc làm nầy cứ mổi tuần là đổi ca sáng tối. Nhiều đêm y phải bận bộ đồ lót giữ
nhiệt (thermal underwear) vậy mà vẩn còn lạnh run. Y lái xe đào và đổ đất, thứ xe
có cả chục cái cần sang số, y giải thích nhưng, ngôn ngữ bất đồng tôi cũng
không hiểu gì mấy. Lương một tuần 93 đô, mướn cái nhà hết 90 một tháng. Đây là nghe lời bà má chồng,
tiền mướn nhà chỉ nên bằng một phần tư tiền lương tháng thì mới đủ sống. Tôi đang mang thai, thèm cá kho tiêu, một chai nước mắm kiếm không ra, có khi
chảy nước mắt. Chị chồng tên Pat đưa tôi đi thăm thai. Chị phải ẵm thằng lớn ngồi đợi ở ngoài,
một mình tôi vô với cô y tá. Cô ta chỉ qua phòng restroom, nói một hơi một
tràng. Tôi đoán mò, nghĩ là cổ hỏi mình có mắc đi tiểu hông, tôi liền lắc đầu.
Cô ta không chịu, cứ vừa chỉ vừa nói, càng nói tôi càng không hiểu. Khớp quá,
tiếng Mỹ văng đâu mất hết trơn. Sau cùng, cô ta chịu thua. Chừng về nhà, bà chị
chồng vừa cười ngất vừa kể, David "dịch" lại, tôi mới hiểu ra. Thì ra
cô y tá kêu tôi vô tiểu trong cái ly để sẵn, dán giâý lên rồi đề tên mình, đưa
cho cổ đặng cổ thử. Quê một cục! Thôi, lần sau. Thấy tôi gần ngày sanh, chị dặn David sáng trước khi đi làm, đem mẹ con tôi qua
nhà, con gái chị, Linda sẽ nấu cho tụi tôi ăn luôn, vừa canh chừng, sợ tôi chuyển
bụng bất tử. Tháng 3 sanh đứa con trai thứ nhì, tuổi Hợi, đặt tên Tommy Phương. Chỉ sanh thiếu một tháng mà nhà thương giữ nó lại hơn 30 ngày. Nuôi từ 5 pound
3 ounce cho tới đúng 6 pound mới cho về. Thiệt là khác biệt quá đáng giữa nước
nghèo với nước giàu. Ở Saigòn mẹ nằm 1 tuần, trả tiền phòng, về là xong. Ở Mỹ,
2 ngày mẹ bị đuổi về, con giữ lại. Sanh xong mắc cái nợ hơn 4000 ngàn đô, trả
góp gần 6 năm mới hết. Được một chuyện hi hữu là hai anh em nó sanh cùng ngày cùng tháng, đứa lớn 11
giờ rưỡi sáng, đứa nhỏ 9 giờ 45 sáng, cách nhau 1 năm. Sau nầy, năm nào làm sinh
nhựt hai anh em chỉ tốn một cái bánh, đứa phân nửa . Không biết có phải lúc mang bầu tôi quá buồn phiền, thèm ăn thèm uống, ảnh hưỡng
tới bào thai hay không mà Tommy bụng dạ rất yếu. Cứ bú vô là ọc ra. Má chồng tôi từ tiểu bang Nevada tới nuôi cho hai tuần. David làm lương ít, chỉ
đủ sức mua loại tã bằng vải, xài xong bà má chồng tiếp giặt giũ. Bà cũng chỉ
tôi mua loại sữa bột tự pha rẻ hơn. Nhờ bà mà tôi học được cách làm bánh mì, mứt dâu mứt cam. Bà là người rất khéo
nấu ăn.. Khi chồng chết (lúc David mới có 9 tuổi ) bà phải mở một quán ăn nhỏ để
sinh sống. Bà dạy: - Con cần nên học một nghề, nghề gì cũng được. Lỡ chồng có chết bất tử mình còn
có thể đi làm nuôi thân và nuôi con. Đừng như má đây, chỉ biết nấu ăn cho nên
phải làm nghề đứng nấu bếp, cực lắm. Tôi thấy lời bà rất đúng vì cứ phải khòm lưng ở cái lò nướng mà lưng bà còng hẵn
đi. Khi Tommy được 4 tháng mấy, thấy chồng cực khổ quá sức, chịu không nổi , tôi
bàn nên dọn qua thành phố Reno, tiểu bang Nevada. Thành phố cờ bạc, việc làm có
lẽ đỡ cực hơn ở đây; vả lại, có mẹ có dì dầu sao cũng không đến đổi. Trên đường đi, đồi non, đồi già, núi đồi đầy sỏi đá mà vươn lên hằng hà sa số,
ngàn trùng rừng xương rồng. Bông đủ màu trắng toát, đỏ tươi, vàng chói, tím
ngát, đẹp quá trời là đẹp. Tôi lính quính kêu : - Ngừng ngừng ngừng Ngừng cho tôi xuống đào một bụi đem theo. - Cây của tiểu bang. Đào một cây là bị phạt 500 đô ! - Trời ơi, cây cả đồi mà hổng cho đào một cây. Vậy ngừng cho tôi hái một cái
bông. David tỉnh bơ. - Bông cũng không được hái. - Ở đây giữa sa mạc ai mà biết. - Tôi biết, mình biết. Nhiều người cứ tưởng nhân viên kiễm lâm không thấy, chừng
bị phạt rồi mới nói sao xui quá. Anh chồng Mỹ biết tánh cô vợ Việt. Y đánh đòn tâm lý là tôi thua liền. Nghe giá
500 đô là tôi làm toán. (500 mua được nhiều thứ. Mua đồ cũ đầy đủ : tủ+giường,
+ chén bát, .....tội gì vì cái bông để bị chính phủ ăn.) Vậy là tôi im. Thiệt xứ sở gì mà luật lệ quá gắt gao. Nhưng, phải đụng vô túi tiền thì thiên hạ
mới sợ. Với lại, nếu ai cũng như tôi, thấy bông thì hái, thấy cây thì đào, rừng
nào chịu thấu, lấy đâu để lại hậu thế chiêm ngưỡng" Tới nơi, chúng tôi phải ở tạm dinh thự của nhà triệu phú, Mr. Hardy, nơi má chồng
tôi đang làm quản gia cho ông. Ông là người hết sức tử tế. Ngày xưa ông là kỹ
sư ngành hỏa xa. Trong phòng khách còn treo một chùm đèn bằng pha lê hình dạng
giống như chùm đèn ở Tòa Bạch ốc nhưng kích thước nhỏ hơn, đã được ông cựu tổng
thống Roosevelt trao tặng. Đi xin việc làm, ngày nào về David cũng vừa lo lắng, vừa buồn vừa tức tối. Thời
buổi đó, dân Mỷ đang cơn sôi động, chống chiến tranh, đòi chồng đòi con . Họ
nhìn chúng tôi, một cựu quân nhân về từ Việt Nam và người đàn bà Việt đã chiếm
chỗ một công dân của họ bằng những con mắt lãnh đạm. Sự thù hằn, ghét bỏ đó là
chuyện thường tình của thế gian. Tôi thường khuyên chồng: - Tôi hiểu người Mỷ lắm. Họ mất chồng, mất cha, mất con, mất người yêu, sự đau
khổ ở nước nào cũng ngang nhau. Đừng nên để tâm. Cứ kiên nhẫn đi xin, thế nào
cũng có việc làm. Đúng như vậy, David được nhận làm người giữ an ninh cho casino tên Nevada Club
. Vài tháng sau tôi kiếm người giữ con, cũng đi làm trong casino The Nugget, nhiệm
vụ đổi tiền cho khách. Nếu có sự hiểu biết như bây giờ, tôi đã không bỏ
con đi làm như vậy. Tiền kiếm ra có giữ được đâu. Thời gian qua rồi là không trở
lại. Các con lớn lên mình không gần gũi nhiều, tiếc thay! Tuy cả hai cùng có công ăn việc làm, chúng tôi sống như chân không chấm đất.
David thường hay uống rượu say sưa, tôi vô cùng buồn bã. Lúc đó, David coi tôi
như... không khí, hổng cần giữ cũng chẵng mất đi đâu. Trong vòng mười mấy
tháng, dọn nhà mấy lần. Và cũng mấy lần, tôi muốn bồng con đi. Rồi tôi nhớ lời
nguyền của tôi trước bàn thờ ngày cưới. Rồi tôi nhớ lời Má tôi hay nói: - Ba năm là tình, ba chục năm là nghĩa. - Đồng vợ đồng chồng, chuyện gì cũng xong. Rồi tôi nhớ lời Ba tôi khi còn sống: - Nhịn đi con ơi (Thôi được, nhịn một chút cho con có cha có mẹ) Rồi tôi nhớ lời thầy tôi (soạn giả Lê Hoài Nở, dạy ở trường Quốc gia âm nhạc và
kịch nghệ , đường Nguyễn Du, Saigòn). Thầy đã dạy: Chồng giận thì vợ làm lành Miệng cười tủm tỉm......rằng anh giận gì "... Chồng bước tới, vợ bước lui, Bước lui một bước, êm xuôi cả nhà.
Tôi tự nghĩ: "Không có trường dạy làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ. Ai cũng phải tự học cho nên cần một thời gian hơi...lâu. 1973, Trở Lại Việt Nam Tháng
2 năm đó, một buổi chiều đi làm về, David hớn hở hỏi: - Muốn về Việt nam không" - Muốn chớ, mà sao hỏi vậy" - Hiệp định Paris. Việt Nam hóa chiến tranh. Không coi tin tức à" - Tôi coi chương trình Seeseam Street. Đang học tiếng Mỷ mà. Tin hồi nào" - Mới đây. Mình sửa soạn về Việt Nam. Mượn tiền má chồng đủ mua ba vé máy bay rưỡi (phải đi trước khi Tommy hai tuổi
vì trên hai tuổi phải mua nguyên vé). Về lại Việt Nam, đọc báo, tôi biết đây là thời gian nhà báo văn nghệ sĩ "xuống
đường". Tôi không hiểu rõ nghĩa "xuống đường" là gì. Đây cũng là
lúc tôi đọc được những sách "Giaỉ khăn sô cho Huế" của nhà văn Nhã Ca
và cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa" của Phan Nhật Nam. Theo lời con em Ngọc Anh, đang là thời gian thi hành hiệp định bốn bên: gồm Mỹ,
Nam Việt Nam , Bắc Việt, Mặt trận giải phóng. Mỹ đang từ từ giảm viện trợ, rút
cố vấn, rút quân Mỹ, thu xếp trả tù binh. Vì mừng quá, chúng tôi không cần biết gì về tin tức chiến tranh. Sống gần gia
đình ngày nào hay ngày đó. David được nhận làm cố vấn cho binh chủng Hãi quân, ngành truyền tin, với tính
cách công tra dân sự, đóng ở vịnh Cam Ranh. Tôi gởi hai đứa nhỏ cho mấy em,
theo chồng kiếm nhà ở. Đi mà tôi đã quên một điều: gia đình tôi, chỉ là những
người xa lạ đối với hai đứa nhỏ. Tommy vì nhớ cha nhớ mẹ, nó bịnh nặng, nằm
thoi thóp, tưởng đâu tiêu rồi. Lúc đó má tôi theo mấy dì buôn bán quần áo con
nít ở chợ Cầu Ông Lảnh. Buổi chiều về , má bồng nó đi bác sĩ liền, nó mới còn tới
ngày nay. Thiệt tình, tôi làm mẹ quá dở. Mới đầu, ở sau nhà đại úy Đương ( chủ cây xăng gần cây số 9 ngoài cổng căn cứ
Cam Ranh) Vài tháng sau dọn vô ở khu đài thu sát bãi biển, và cuối cùng ở Trung
tâm Hải quân (Market Time). Đây là thời gian vui nhứt của đại gia đình. Má với mấy đứa em thay phiên nhau
lên chơi. Bãi biễn Cam Ranh đẹp vô cùng. Có đảo Bình Ba có chợ Đá Bạc . Nhờ ở đây
tôi mới biết và thấy những con rùa biển lớn bằng cái bàn ( dân địa phương kêu
là con Vích ). Cam Ranh cũng là một trong ba chỗ trên trái đất giống rùa nầy
lên đẻ trứng. Có một đêm theo mấy người lính rình coi . Nó đào lỗ, rặn một hơi
cả trăm cái trứng, móp móp, ướt ướt, rồi dùng hai cái chân lấp đất , dấu xong,
bò trở xuống biễn. Mấy người lính đào lên đem về. Đôi khi, họ bắt luôn con rùa. David hay nói : - Sao người ta không chừa vài cái trứng. Ăn hết như vậy làm mất giống rùa ! Ngoài con rùa biển lớn còn có con kỳ nhông màu đỏ . Sau nầy về Mỹ tôi mới biết
người Mỷ khám phá ra loại nầy dùng để chữa bịnh. (bịnh gì quên rồi ) Đám em tôi theo mấy người lính, nói thịt rùa đỏ tươi ăn như thịt bò, kỳ nhông
cũng ăn thử, khen như thịt gà!. Thiệt, mấy đứa em tôi ăn uống "dã
man".Tôi sợ, không dám ăn. Ở đây, nghe nói cũng là xứ nhiều cọp. Cọp Khánh
Hòa, ma Bình Thuận mà. Trong khu căn cứ còn có một cái hồ, cọp thường xuống uống
nước. Mỹ đặt tên là Tiger Lake. Ngày 9 tháng 8 Tổng Thống Nixon từ chức. Chúng tôi ngày nào cũng vùng vẫy dưới biển. Ăn món gì cũng ngon. Lúc đó David làm
lương tháng chỉ trên 400 đô. Đâu có sao. Cha mẹ vui thì con cái cũng vui.
1974, Rút Hết Về Mỹ Cuối
năm, tháng 12, một ngày sửng sốt. David về, hối hả: - Sửa soạn về Mỹ. - Cái gì " Sao vậy" - Mỹ phải rút hết. Mình có nghe đài Hoa Kỳ không" Nó đệm bản nhạc White
Christmas suốt ngày là hiệu báo Mỹ dân sự phải rút hết. - Trời đất ơi, đi liền sao" - Đi liền. Về Sài gòn làm thông hành cho con. Thử thời vận lần thứ nhì, tôi ra bộ nội vụ hỏi cách thức đem thằng em trai duy
nhứt theo. Họ cho biết đem em không được, nhứt là con trai, con riêng thì được. Vậy là, tự nhiên tôi có hai đứa con gái riêng ( xin chính phủ Mỹ tha thứ cho
tôi) . Tin chiến sự cho hay quân Trung Cộng dùng đầu đạn hỏa tiển ( Guided missle ) bắn
chìm một chiến hạm Mỹ viện trợ cho Việt Nam ( chiếc Destroyer Escort), chỉ sống
sót một quân nhân . Trung Cộng ỷ mạnh hiếp yếu chiếm đoạt đảo Hoàng Sa, một cái
một! Ngày 24 tháng 12 năm 1974 chúng tôi trỡ về Mỹ. Tới Louisana ở tạm nhà bà chị. David xin được việc làm, tài xế lái xe đào đất cho hãng thầu xây cất nhà cửa, loại
nhà 25.000 đô một căn . Những tưỡng cuộc sống tạm yên, nào ngờ, nền móng xây
xong, David bị layoff. Tôi nhớ ngày đó, sự thất vọng và tức tối hiện rỏ trên mặt, nước mắt muốn trào
ra của y. Anh rể còn trong Hải quân, chị tôi theo chồng. Chúng tôi trơ trọi. “Giải pháp Reno” là có nhiều hy vọng. Lại kêu gọi tới má chồng gởi xuống 500
đô. Bạn hãy tưởng tượng
hai người lớn, bốn đứa nhỏ cùng quần áo đồ đạc chen nhau trong chiếc xe nhỏ
xíu, trong tay có khoảng 675 đô, vượt hơn 1,500 miles. Nửa chừng xe bị gãy nhíp
ngừng sửa, tiêu hơn trăm rưỡi. Dọc đường chỉ đậu ở chổ bãi xe hàng , nghỉ đỡ 1,
2 tiếng. Ăn uống luôn trong xe, David lái một mạch 72 tiếng đồng hồ, xuyên qua
mấy tiểu bang, giữa trời bão tuyết! Reno 1 giờ trưa. Đậu xe bên lề đường
David đi bộ tới Casino để tìm việc. Ngồi lâu nóng ruột dặn hai đứa em coi chừng
cháu , tôi cũng xuống xe đi lòng vòng coi có việc gì làm đại hay không. May mắn
tôi được nhận liền chân bồi phòng ở nhà trọ tên Caravan. Khi trở lại xe, đã quá
3 giờ. David đi tới đi lui, tức tối: - Đi đâu vậy" Tôi
có việc làm, phải bắt đầu lúc 2 giờ, bây giờ trễ rồi, ai mà cho vô nữa. - Không sao, tôi có
việc, ngày mai bắt đầu. Tìm chỗ ở. Motel
Atlas, một phòng ngủ, có bếp nhỏ, tủ lạnh Chiều hôm sau tôi đi
làm về, David mặt mày một đống: - Hôm nay tôi đi nộp
đơn lãnh tiền thất nghiệp. Nó làm như mình đi xin vậy. Tôi không trở lại đó nữa
đâu. - Thì cũng phải ráng
chớ sao. Lảnh tiền đó trong khi chờ kiếm việc. Chẳng lẽ để mấy đứa nhỏ
đói" Chúng tôi sống chật
vật như vậy hết một lúc. Bạn ơi, đây là thời gian khủng hoảng, xuống tinh thần
nhứt. Lương tôi một tuần 63 đô, trả tiền phòng hết 60, còn lại bao nhiêu"
Mỗi ngày dọn phòng, khách để lại cho mấy chục cents, một đô là mừng lắm. Tôi bán đầu tiên cái
kiềng trơn hơn một lượng chưa từng đeo, rồi cặp nhẩn vàng Má tôi cho trước khi
đi, rồi cặp nhẩn xoàn má chồng cho. Mổi tuần mua hai hộp
cereal hiệu Captain crunch loại hột tròn tròn có đậu phọng ( thằng con lớn tới
bây giờ vẩn còn nhớ mùi vị đó) 1 đô 10 ổ bánh mì, loại bánh mì gần ngày hết hạn
, nhưng vì ăn trừ cơm cho nên mau hết, không sợ hư ! hai hộp mứt, hai keo đậu
phọng nát, hai hộp cacao pha sữa, một bịch gạo hai cân ( chỉ nấu cháo ) nhiều
bắp cải, có khi 1, 2 con gà là món ăn của 6 người. Cũng may, hai đứa em đi học
, được ăn uống đầy đủ, mỗi ngày để dành đem về cho hai đứa cháu mấy trái cam
trái bom , vài cái bánh ! Còn nhớ một ngày bà dì
chồng mời ăn bữa tối. Thiệt là một bữa ăn nhớ đời, đang đói mà! Chồng tôi, người Mỹ,
sống trên đất Mỹ mà cũng trải qua thời gian đói khổ, cũng như quí vị sau tháng
4 năm 1975 . Tôi lại mắc thêm một
lời thề nữa. Tôi thề sẽ không để con tôi đói khổ... Từ đây, tôi tập nhìn
đời bằng con mắt khôi hài, chuyện gì cũng thấy nhẹ bớt đi. Và rồi cái đói khổ
không kéo dài lâu. Tôi xin được việc làm
trong một hãng may màn, tấm trải giường, áo gối, đồ làm bếp... Có biết may vá gì đâu.
Có lẽ họ nhận vì cái mặt Á Đông của tôi. Ngày đầu tập sự tôi hỏi việc cho chồng
, gặp ông giám đốc tử tế, y đắn đo một hồi rồi nói: - Thông thường chúng
tôi không nhận vợ chồng làm việc chung, nhưng lần nầy tôi phá lệ. Việc gì cũng
đủ người rồi nếu chồng you muốn thì vô làm việc sắp đặt máy may, dọn dẹp hãng. - Thiệt là.... Đội ơn
ông. Mỗi ngày tôi ngồi vật
lộn với cái máy. Máy gì chạy lẹ quá trời ! Vừa đặt miếng vải vô nó làm một cái
rẹt níu không kịp. Mổi ngày nhìn anh
chồng Mỹ cầm cây chổi quét hãng mà ứa nước mắt. Sau một tháng đi làm
khi trời còn tối, về nhà thì trời đã tối rồi!, hết việc dọn hãng. David hỏi ông giám đốc
: - Trong hãng việc nào
làm lương cao nhứt " - Trừ việc quản lý,
chỉ còn việc làm sửa máy may là lương cao. David nói: - Tôi có kinh nghiệm
sửa máy kéo tiền trong Casino. Ông cho tôi thử nghề sửa máy may trong hai
tháng, nếu làm không xong tôi sẽ tự động xin thôi. Ông Harvy, người ân
nhân đã mất năm 1977. Chúng tôi không bao giờ quên ơn ông. Ông biết nhìn người,
ông đã khởi đầu, hướng dẫn nghề nghiệp, cho chồng tôi có cơ hội xử dụng khả
năng ,vượt qua cảnh nghèo.
1975, Thắt Ruột, Thắt Gan David
được lên chức phụ tá quản lý. Bắt đầu từ tháng ba Ngọc Anh gởi thơ với tin tức chiến sự, càng ngày càng sôi động
Miền Nam thật sự trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Qua tháng tư , mổi ngày coi tin tức,
thấy bản đồ chử S bị màu đỏ nhuộm lần lần từ vỉ tuyến 17 xuống miền Nam, ngày
nào ba chị em tôi cũng khóc. Sự lo sợ, nóng ruột nóng gan không còn nghi ngờ gì
nữa, màu đỏ xuống tới Xuân Lộc, rồi Long Khánh, miền Nam lọt vô tay Cộng sãn là
cái chắc. Ngồi may mà nước mắt tuôn ra, tới nỗi cô bạn nhỏ người Hong Kong, tên Siu Woo,
chịu không thấu. Sẵn máy sẵn vải dư, nó may liền một cái túi, đi vòng vòng hãng
xin tiền đồng nghiệp cho tôi. Thiệt có gặp cảnh khổ mới thấy người có lòng, nhứt
là người nghèo. Nó xin được hơn trăm bạc. Rồi bà má chồng và ông giám đốc tốt bụng,
cho chúng tôi mượn tiền gởi chị tôi cùng chồng trở về Việt Nam tìm cách rước
gia đình. Nhưng, máy bay chỉ hạ cánh ở Thái Lan vì đã được lịnh không thể đáp
xuống Việt Nam. Vậy là hết đường ! Đài truyền hình loan báo chiến hạm Mỹ neo ngoài khơi, ai ra tới sẽ được vớt. Lộ
trình di tản, người ta chết trên đường lộ, chết chưa ra khơi, chết từ trên
không trung rớt xuống. Một máy bay di tản trẻ mồ côi bị Cộng quân bắn hạ, mấy
trăm trẻ chết hết. Đau đớn biết bao cho những người lính Cộng hòa đã bị bỏ lại. Càng coi càng thắt
ruột thắt gan. Cuối tháng Tư, trong tình trạng vô cùng tuyệt vọng, kể như sẽ không còn nhìn thấy
mẹ và mấy đứa em nữa. Thình lình, đêm 29, khoãng 2, 3 giờ sáng, má chồng tôi
kêu, nói, có người nào từ phi trường Hawaii cho hay má và mấy em đã rời Việt
Nam. Thủy quân Lục Chiến Mỹ làm hàng rào nhân sự, cầu không vận giờ chót đã bốc gia
đình tôi ra khỏi địa ngục. Mừng quính, David liên lạc được với phi trường, nghe
tiếng thằng em tôi: - Cả nhà đi được, chưa biết chắc đi đâu, họ nói Wake gì đó, em hổng hiểu, sợ
quá. David nói : - Rồi, nó đưa qua đảo Wake , căn cứ quân sự. Mừng thôi là mừng. Sau cơn mưa, trời sáng sủa hơn.. Mấy ngày sau, biết chắc những người trong chuyến bay đó đang ở trại Pendleton,
California. Chúng tôi đi rước về. Gia đình tôi ở trại chỉ có vài ngày. Về Reno, đài truyền hình Eye Witness New và đài số 2 tới tận nhà phỏng vấn. Qua ngày sau, má và ba đứa em tôi vô hãng may làm, đài truyền hình lại tới quay
phim, báo chí đăng hình, viết bài chúc mừng, gia đình tị nạn đầu tiên. Thiệt
đúng là báo có đăng đài có nói đàng hoàng. David nói với tôi: - Tôi không tin tôn giáo nhưng đây là lần đầu tôi đã cầu nguyện. Lúc đó vì mừng quá, đem gia đình ra khỏi trại sớm quá, chúng tôi không hiểu gì
về quyền lợi mà chính phủ Mỹ dành cho dân tị nạn. Chúng tôi chỉ biết có một điều
là qua được rồi thì đi làm nuôi thân và trả nợ. Tội nghiệp Ngọc Anh, Kim Loan
và Tấn Long thằng em trai mới có 17 tuổi là tuổi có thể trở vô trường, phải đi
làm. Chỉ có Kim Phượng, Hoàng Thư và Thúy Phương được tiếp tục đi học. Dân chúng Mỹ, chồng con về rồi, lòng nhân đạo họ củng mở ra. Thời gian nầy là lúc người Việt tị nạn có đủ chuyện vui về việc tự dịch tiếng Mỷ.
Hiểu sao dịch vậy, giản dị gọn gàng. Đưa tay chỉ vợ, chàng giới thiệu với người Mỷ: - This is my house (đây là nhà tôi) Ai làm gì sai, lắc đầu, xí xóa : - No star where (không sao đâu) - The wind hit him (nó bị trúng gió) Bạn còn nhớ hôn"
1976, Sợ Cái Nghèo Đeo Đuổi Sanh
đứa con gái út, tuổi Thìn, tên Elizabeth Xuân. Hơn hai thằng anh, con rồng nầy ở
đủ tháng đủ ngày. Nó uốn éo, nó vùng vẫy, nó nhào lộn, nó cân nặng 6 pound 12
ounce, sanh 6 giờ sáng. Được chuyện nầy mất chuyện kia. Sợ con đói khổ, sợ cái nghèo đeo đuổi, sanh mới
hai tuần tôi mướn người giữ con, đi làm lại. Hai đứa rồi, thêm đứa thứ ba, đứa con gái mà David từ lâu mong đợi, tôi cũng đã
bỏ bê nó cho người giữ. Có phải vì lý do đó mà sau nầy lớn lên có chuyện gì buồn nó chỉ tâm sự với bạn
mà thôi. Bây giờ nghĩ lại tôi vô cùng hối tiếc. Sang năm 1977, dọn qua California. David làm Giám đốc hãng Barth & Dreyfus.
1978, làn sóng thuyền nhân Sang
năm 1978, Việt Mỹ được thư từ qua lại. Làn sóng thuyền nhân tràn ngập các đảo nước lân cận. Cuối năm, cả đại gia đình
dọn xuống North Carolina mở thêm chi nhánh. Làm ra tiền mà chỗ ở quá buồn. Cuối năm, dì Năm cho hay chính quyền giải toả nghĩa trang Phú Thọ Hòa , phải lấy
cốt Ba. Má tôi dặn đem đốt rồi gởi vô chùa. Dì Năm cho đứa con trai vượt biên,
qua đảo Bulabidong an toàn.
1979, Trận Cuồng Phong David Năm
nầy, dì Năm cho hay cha con tụi tôi sẽ gặp nhau. Đó chỉ là cách nói bóng gió
cho biết dì sẽ mang theo tro cốt của ba tôi đi vượt biên. Chừng không nghe tin
tức của dì mà chỉ nghe tin thời tiết về trận bão chúng tôi lo lắng vô cùng. Trận cuồng phong (hurricane ) trớ trêu thay lại có tên là David, khủng khiếp,
tàn phá, giết hơn 1,100 dân vùng duyên hải đảo Caribbean. Bão dữ sóng thành nhận
chìm biết bao thuyền nhân. David liên lạc với hội Hồng Thập Tự, họ cho biết tin dữ : chiếc tàu Minh Hãi khởi
từ Cà Mau đã không tới bến. Hơn 20 người bà con cùng dì Năm ôm bình tro cốt ba
tôi, chìm sâu đáy biển. Ba tôi chết lần thứ hai! Một lần vì chiến tranh. Một lần
vượt biên. Nghe tin, không biết phải làm gì. Thấy tôi ngồi chết lặng cả buổi trong xó nhà,
David ra xe lái đi. Y đi tìm chỗ làm thủ tục đứng tên bảo lãnh hai gia đình
thuyền nhân Việt Nam. Ở North Carolyna, tôi đã gặp nhiều cựu quân nhân, thương phế binh Mỹ trở về từ
Việt Nam. Một người da trắng, mặt mày bị cháy bởi bom napaln, không còn hình dạng
mắt, mũi nữa... Một người da đen, tay chống nạng, ông nói: - Tôi để lại một chân bên xứ của cô. Bạn nghe đau lòng không"
1984, dọn hẳn về California David
nhảy từ hãng nầy qua hãng nọ, chổ vài tháng, không hài lòng với việc làm. Hùn hạp
với một người Đại Hàn mở hãng in vải, lổ vốn, đóng cửa . Thất nghiệp. Y bỏ uống rượu. Nhất định không chịu xin tiền thất nghiệp. Năm nầy
là năm thất thời thất chí của y. Ngồi trước TiVi, không đổi đài, hồn lạc đâu mất
tiêu. Nhiều đêm, y ngồi dậy, lâu lắm, không nói gì. (Sau nầy nghe người ta nói
cựu quân nhân Mỹ tại Việt Nam thường bị flashback, có nghĩa bị hình ảnh quá khứ
ám ảnh, hổng biết dịch tiếng Việt là gì.) Tôi cũng không khá hơn. Ở nhà lãnh tiền thất nghiệp. Vừa may em tôi, Thúy
Phương, đem cuốn sách dạy về ngành Thẫm Mỹ cho tôi dịch mướn, kiếm thêm chút đỉnh!
1987, Má Chồng Mất Việt
kiều bắt đầu trở về Việt Nam thăm nhà. David làm cho hãng Design Collection (DC) chuyên mua bán, xuất nhập cảng hàng vải. Tôi đậu bằng thẩm mỹ, ở lại dạy cho trường. Giữa năm, má chồng tôi mất. Trước khi chết bà dặn không được mở nắp hòm.Bà muốn
con cháu nhớ lúc bà còn sống chớ không nhớ tới cái xác vô hồn. Thôi rồi! Bà đi trước khi được thấy sự nghiệp thành công của con trai. Cũng không kịp cho
tôi nói lời cám ơn, thưa với bà là đứa con dâu Việt Nam của bà đã có nghề nghiệp
chuyên môn, khỏi phải lo đứng bếp như lời bà từng dặn. Còn đâu nữa những buổi ăn ngon lành thuần túy thức ăn Mỹ. Những ngày lễ lớn, nếu
tụi tôi không đi thăm được, bà luôn luôn gởi thùng bánh trái tự tay làm cho con
cháu. Tôi nhớ những lúc túng quẫn, bao giờ tụi tôi cũng kêu gọi tới bà. Lòng mẹ
thương con dân tộc nào cũng như nhau. Từ đây, bà đã nằm kế bên ngôi mộ người chồng
yêu dấu.
1988 - 1990 David
lao đầu vô việc làm. Mổi tháng đi Nửu Ước hoặc South Carolina một tuần. Tôi
cũng lo việc của tôi. Hai đứa con trai tới tuổi vị thành niên, tuổi nguy hiểm. Bắt đầu nếm mùi lo buồn
vì con cái. Lỗi chúng tôi phần nào vì đã không biết dạy dỗ tụi nó đúng cách. 1990. Bà chị thứ tư của David mất vì bịnh đứng tim.
1991, David Bị Kích Tim David
bị heart attack (kích tim) vô nhà thương mấy tuần. Hậu quả của gần 30 năm hút
thuốc. Hút càng ngày càng nhiều. Việc làm càng khó khăn, căng thẳng, y càng cố
gắng. Chưa từng biết gì về computer nhưng với kinh nghiệm làm việc, y đã điều hành,
kiểm chứng cho chuyên viên lập ra một chương trình để xử dụng trong hãng. Từ
lúc hãng mới mở cửa năm 1986, việc ít, người ít, mọi sự đều làm bằng tay. Cơ sở
phát triển lên hàng trăm nhân viên, phải điều hành bằng hệ thống điện toán. Vì trách nhiệm, vì việc làm đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên, y đã quên thân
mình. Một ngày hai bình cà phê, ba gói thuốc thì thân nào chịu nổi. Bác sĩ cho
biết nếu không tự săn sóc lấy mình thì y sẽ không sống tới ngày có cháu! Sợ chết ,y bỏ hút thuốc. Một cái một. (y nói nhỏ không muốn bỏ tôi lại một
mình) Tôi làm giám khảo ngành thẩm mỹ. Chiến tranh giữa Kuwai và Iraq bùng nổ. Hai đứa con trai nói "khi quốc gia cần tụi con sẽ đi lính " dù ba nó
đã cho biết sự sai lầm của chính bản thân. Tôi quá lo sợ, sợ cho tới ngày Tổng Thống
Bush rút quân về. Con gái tôi bắt đầu cãi cha ghét mẹ. Khi buồn nó chỉ tâm sự với bạn mà thôi. Lỗi
tại tôi, ham làm việc, ít gần gũi nó. Diện con lai, gia đình HO bắt đầu qua Mỹ.
1992 - 1993 Lawrence
vừa đi học vừa đi làm. Đứa con trưởng có tánh tự lập từ nhỏ. Có em sớm, nó cũng
sớm biết nhường nhịn, thường ngồi chơi một mình. Còn nhớ Tommy, lúc mới mấy tháng biết nhìn ai là mẹ rồi, tối nào tôi cũng phải ẵm
nó từ 8 tới 9 giờ rồi bỏ vô giường thì nó mới chịu ngủ. Vậy mà vù một cái, năm 1993, tôi cưới dâu trưởng, gốc Quảng Đông, tên Elaine.
1994 - 1996 Hảng
DC chia ra chi nhánh lấy tên DIVION 92, David đươc một phần trong bốn phần hùn.
Y vừa làm chủ hãng DIV 92, vừa làm phó giám đốc cho hãng chính DC. Cuối 1994, Tommy vô hãng làm việc cho cha. Sang năm 1995, con dâu có bầu. Đứa đầu không giữ được. Tôi cứ suy nghĩ hoài. Có thể nào, vì Agen Orange (chất độc mầu da cam từng xài
quanh các căn cứ Mỹ ở Việt Nam thời chiến) ảnh hưởng máu ông nội, qua tới đời
cháu" Chẳng lẽ hậu quả của chiến tranh đeo đẳng theo phá hoại tới đời con
cháu"
1996, Thêm Công Dân Hợp Chủng Elaine
có bầu lần thứ nhì. Lần nầy thì mẹ tròn con vuông. Chúng tôi có cháu nội gái
tên Emily. Vậy là, xứ sở có tên Hợp chủng quốc thêm một công dân hợp chủng. Emily có 3/4
máu Á Đông, máu Mỹ còn có 1 phần. Nếu theo cái đà nầy, vài thế hệ tới nước Mỹ sẽ
không còn da trắng, đen, vàng, đỏ, nâu nữa mà sẽ có cùng chung một màu ...lờ lợ.
Với cháu nội, tôi muốn sửa lại những sai lầm, thiếu sót cũa tôi khi nuôi con, tất
cả thì giờ rảnh tôi dành cho nó.
1997, xuống tàu, “ra riêng” Elizabeth
vô hãng làm phụ tá cho David. Tụi tôi để nhà lại cho vợ chồng Lawrence. Mua chiếc tàu dài 28 feet, "ra
riêng", sống luôn trên tàu. Kể như chúng tôi ăn trái do mình trồng, bây giờ
có dư chút đỉnh tiền, y dụ tôi mua chiếc tàu để thỉnh thoãng đi câu cá. Tôi chìu
theo dù không biết lội. Ai mà ngờ ngày ký tên nhận tàu, cũng là ngày tụi tôi ở luôn trên con tàu neo giữa
Boat City tại Marina del Rey.... Không khí mát mẻ, tôi dứt chứng bịnh dị ứng
mũi kinh niên. Từ ngày ở trên tàu không còn phải xài thuốc thông mũi nữa. Sang năm 1998, con tim của David có vẻ chịu gió biển, không thấy lên cơn bất tử
nữa. Công việc "xuôi chèo mát mái" y đòi đổi chiếc tầu 38 feet. Tôi lại
phải gật. Sống trên mặt nước là ước muốn từ lâu của y. Có con tầu riêng đúng ý,
David vui vẻ coi là "mộng đã thành." Nhìn y vui, tôi nhớ đủ thứ. Chẳng có giấc mộng nào tự nhiên mà thành. May mắn
không đủ. Núi cao có núi cao hơn. Lúc nào chúng tôi cũng tự hỏi "Mình có
làm đầy đủ nhiệm vụ chưa" để khỏi phụ công ơn của những người trên đường đời
đã một lần nào đó, giúp mình.
1999, Vĩnh Biệt Elaine Trước
ngày lễ Tạ Ơn, nhận tin chị Elaine đang hấp hối. Tới nhà chị, tụi tôi quẩn
quanh trong 4 ngày. Đây là lần thứ hai tôi chứng kiến mạng người chênh vênh giữa
sự sống và chết. Khi Ba tôi bị bắn, cái chết thời chiến đến thình lình, tức tưởi, tê dại. Chị
Elaine chết trong cảnh an bình. Đứng lặng bên giường chị, tôi thấy sự hấp hối,
lấy hơi lên, hớp từng hớp không khí mà không nghe hơi thở ra, cho tới hớp không
khí cuối cùng. Thình lình, tim ngừng đập. Chị mất, tuổi mới 53. Tro tàn chị dặn hãy đem rải trên ngọn núi Table Rock ở
Medford, nơi chôn nhau cắt rún. Một cuộc đời, chỉ sống loanh quanh nơi thị trấn
nghèo nàn, buồn thiu. Sống giản dị, chết cũng giản dị. Còn nhớ mới ngày nào chị cùng má chồng ra sân bay rước tụi tôi, năm 1970. Tôi gặp
chị vào lể Tạ Ơn, nay chị xa tôi cũng vào dịp lể nầy! Thoắt cái. Ba mươi năm.
Thôi rồi, xong một đời người. Vĩnh biệt Elaine.
2000, Sau 32 Năm Ngày
28 tháng 5 năm 2000, ngày giỗ Ba tôi. Sau 32 năm, nhìn đám con nguyên vẹn 7 đứa (chị tôi đi xa không về kịp) cùng gia
đình sum họp, có lẽ Má tôi, chen lẫn trong buồn nhớ là sự hài lòng. Bà đã không
uổng công ở vậy nuôi con. Mấy chị em tôi, dù con cháu đầy đàn, vẫn luôn luôn quẩn
quanh bên Má. Tôi không đủ chử nghiã để viết về người mẹ. Bà là người đã tạo
cho tôi lòng tin và sự cứng rắn. Chính bà là chỗ dựa để tôi đứng lên vững hơn mổi
lần bị đời đạp xuống. Má tôi đã lên chức Bà Cố từ lâu. Tháng 6, tôi có thêm đứa cháu nội gái tên Charlotte. Đứa lớn giống mẹ đứa nầy
giống cha. Đứa cháu lớn nói tiếng Tàu thiệt là giỏi. Tiếng Mỹ khỏi học cũng biết.
Tiếng Việt nói gì nó cũng hiểu, mà còn mắc cở miệng. Năm nay tôi cho nó 2 cuốn
băng học tiếng Việt, má nó cùng học luôn thể. Mới 4 tuổi rưởi mà nó ma le lắm.
Khi nào muốn tôi chơi với nó, nó sẽ giở giọng nhõng nhẽo ra " bà nội, lại
đây" bằng tiếng Việt có bỏ dấu đàng hoàng (giỏi hơn ông nội) lòng tôi mềm
nhũn liền. Khi nhận tin người anh rể chết bất thình lình, tôi nhớ ngày anh mang David về ngôi
nhà cũ ở Phú Lâm giới thiệu. Anh chính là "ông mai" của chúng tôi. Tôi
biết ơn anh. Cho tới ngày nay, David cũng chỉ nói được vài tiếng Việt không bỏ dấu. Tôi xào đồ ăn, y nhắc: - Put alot of Cu Hanh ( để nhiều củ hành). Mỗi lần ai hỏi về "Chuyện gì xảy ra ở 'Nam'" y trả lời: - Mình rút, mình thua. Vinh hạnh gì mà khai" Tôi thấy xấu hổ... Tôi không nhìn người đàn ông đi bên tôi là người ngoại chủng, chỉ thấy một người
chồng, người cha, lòng tốt lấp đi tật xấu. Y bắt buộc ba đứa con phải nói tiếng
Việt để tỏ lòng kính trọng người mẹ Việt và gia đình bên ngoại. Đó bạn, "chuyện nhà" chúng tôi, cũng ba chìm bảy nổi như bao câu chuyện
khác. Qua kinh nghiệm sống hơn ba chục năm, tôi thấy nước Mỹ chuộng người siêng năng,
cầu tiến, cố gắng và biết chụp cơ hội. "Ngồi mà chờ thời, đời nào mà
thành." Tôi hay chọc David : - Nước Mỹ nợ nước Việt Nam, cho nên phải cưu mang người Việt. Má tôi hơn 75 tuổi
còn sáng suốt, ăn uống đầy đủ, bịnh hoạn đã có bác sĩ, nhà thương lo. Các em
tôi có công ăn việc làm đàng hoàng. Còn you, you nợ tôi, you tình nguyện vô
lính lúc chưa tới 17 tuổi, bắt mẹ phải đi ký tên, đi tuốt qua bên kia trái đất,
rước tôi về đây để trả nợ. Y nịnh:. - Nợ tình. "I love you từ kiếp trước". Nợ tiền trả lần lần cũng hết.
Nợ tình thì anh trả suốt đời. Kiếp nầy không xong trả thêm kiếp sau. Vậy là sau bao năm coi vợ như... không khí, y bắt đầu hiểu ra là không khí cũng
có chút giá trị. Vợ chồng, khi hiểu được điều nầy, thường đã...quá đát. David nay không còn ốm gọn,
mà y như cái thùng phuy. Tôi cũng đã tròn như cái gối ôm, đâu còn nhỏ xíu, mỏng
manh như khi đứng bên y trước bàn thờ Ba tôi năm nào. Trong trận cuồng phong David năm 1979, mạng sống hàng ngàn người và thuyền nhân
đã bị nhận chìm, trong đó có dì Năm và tro cốt Ba tôi. Tất cả chìm tan nhưng biển
vẫn còn đó. Hàng ngày, tôi đang là "tàu nhân" sống ngay trên biển. Đứng bên David, người chồng Mỹ cùng tên với trận cuồng phong, nhìn biển, nghe
tiếng sóng xô, lớp sau đùa lớp trước, tôi hiểu điều tôi khấn nguyện và tự hứa
năm xưa vẫn được Ba tôi liên tiếp nhắc nhở và phù hộ.
Trương Ngọc Bảo Xuân Abbott https://vvnm.vietbao.com/a162153/32-nam-nguoi-my-va-toi Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Apr/2021 lúc 7:58am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22187 |
Gởi ngày: 16/Apr/2021 lúc 8:19am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 94 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |