Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 93 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 04/Jan/2020 lúc 11:23am | |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 07/Jan/2020 lúc 10:30am | |
Tập hát... Rồi Xong Chiến Tranh <<<<<Lưu Quang DiệpChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Jan/2020 lúc 10:30am |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 11/Jan/2020 lúc 8:10am | |
Cô Bé Năm Xưa
Năm 1967, tôi giữ chức
vụ Phó Quận Trưởng quận Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Quận đường tọa lạc trên một
đồi cao ở vùng Cầu Hai, thuộc xã Lộc Trì. Quận được phòng thủ như một tiền đồn,
với nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc chung quanh, bốn góc có bốn tháp canh với
súng đại liên.
Hôm nay là một trong
những ngày cuối tháng 12 năm 1967. Buổi chiều, trời mưa lạnh, nên quang cảnh
trong sân quận thật vắng lặng.
Bỗng nghe lao xao từ
phía dãy nhà của Chi Cảnh Sát Quốc Gia. Tôi lững thững đi đến đó, xem có chuyện
gì vậy. Tôi vừa đến nơi, một cảnh sát viên dẫn một người lính Mỹ đến gặp tôi.
Anh cảnh sát ấy nói: “Thưa ông Phó, toán lính Mỹ này dẫn vào đây hai cha con,
đang đứng đằng kia, họ nói trong khi họ đi hành quân vùng chân núi Bạch Mã, họ
bắt gặp hai cha con này đang lãng vãng ở vùng vắng vẻ đó, nên họ bắt đưa về
quận, để quận xét xử.”
Tôi hỏi anh cảnh sát:
“Họ có giấy tờ gì về việc giải giao này không, hoặc tang vật như súng ống, lựu
đạn gì không?”
Anh cảnh sát trả lời:
“Thưa không có gì hết, việc này sẽ gây khó khăn cho chúng ta khi lập hồ sơ an
ninh.”
Anh cảnh sát nói tiếp:
“Hôm nay Trung Tá Quận Trưởng đi vắng, Đái uý Trưởng Chi Cảnh Sát cũng không có
mặt ở quận, ông Phó là giới chức duy nhất phải giải quyết việc này, hoặc tạm
giam, hoặc thả họ ra, vì không đủ yếu tố giam giữ.”
Tôi đi đến gần hai cha
con, người cha thì gầy yếu, cô bé khoảng 13, 14 tuổi gì đó, cũng ốm o đến tội
nghiệp. Khi tôi đến trước mặt họ, người cha ngước cặp mắt thất thần, uể oải
nhìn tôi với vẻ cầu khẩn. Tôi nhìn qua cô bé, tôi cũng bắt gặp cặp mắt buồn bã,
thất vọng, cặp mắt như thiết tha van xin - ngụ ý họ là lương dân vô tội.
Trong lúc làm việc, khi
gặp một vấn đề khó khăn, tôi thường cầu xin Ơn Trên cho tôi sáng suốt, để tôi
giải quyết công việc một cách đúng đắn và hợp tình, hợp lý. Một ý tưởng nhẹ
nhàng vang lên trong tiềm thức của tôi: “Con hãy lắng nghe tiếng lương tâm của
con.”
Viên sảnh sát đứng bên
tôi chờ lệnh. Ông già và đứa bé gái ngước mắt nhìn tôi cầu khẩn. Tôi nghĩ rằng,
chỉ một lệnh của tôi ban ra: “Nhốt” là họ có thể quỵ sụp xuống tại chỗ.
Tôi nói với anh cảnh
sát: “Không đủ yếu tố để giam giữ, vậy chúng ta thả họ ra.”
Khi tôi vừa dứt câu nói,
tôi thấy ông già và cô bé vui mừng như vừa chết đi sống lại. Tôi vội vã đi về
phòng của tôi.
Hằng ngày, biết bao công
việc hành chánh tôi phải giải quyết. Nhiệm vụ của một Phó Quận cứ cuốn hút cuộc
sống của tôi. Ngày tháng cứ qua đi. Câu chuyện “Ông già và đứa con gái nhỏ” đã
đi vào quên lãng.
Sau 30 tháng Tư năm
1975, tôi cũng như các công chức, quân nhân Việt Nam Cộng Hoà khác, đều bị bắt
đi tù cải tạo. Tôi bị nhốt qua một vài trại ở miền Tây, cho đến năm 1977 họ
chuyển tôi về trại cải tạo Bình Điền, thuộc vùng Thừa Thiên.
Một hôm, tôi được gọi
lên văn phòng trại làm việc. (Gọi lên làm việc là chuyện bình thường đối với
trại viên, thỉnh thoảng họ vẫn gọi lên, hỏi năm ba câu gì đó về những điều họ
còn nghi ngờ.)
Tôi được dẫn vào một
phòng trống trong văn phòng trại, họ bảo tôi ngồi đó chờ.
Một lát sau, một cô gái
bước vào, cô ta mặc đồ Công An, đeo quân hàm Đại uý. Cô ta hoàn toàn xa lạ đối
với tôi. Im lặng một chút, rồi cô ta hỏi tôi: "Ông có phải là ông Phó Uyển
không?"
Tôi nghe lạnh cả xương sống. Tôi dửng dưng trả lời: "Dạ phải!"
Thôi rồi, cô công an này đi tầm thù chăng? Không biết lúc làm việc, tôi đã làm
gì gây oán thù với cô này vậy? Đang miên man suy nghĩ, bỗng cô ấy lạnh lùng nói
với tôi: "Ông hãy nhìn tôi, ông có biết tôi là ai không?" Tôi trả lời
nhát gừng: "Tôi không biết!"
Cô ta lại nói: "Ông nhìn kỹ xem, ông có nhận ra tôi là ai không?"
Tôi không còn sợ gì nữa, tôi đã hết kiên nhẫn, tôi xẵng giọng: "Tôi đã
nói là tôi không biết cô là ai."
Cô gái vẫn bình tĩnh nói: "Ông không nhận ra tôi là phải, vì ngày tôi
gặp ông ở quận Phú Lộc, đến nay đã trên 10 năm rồi, ngày ấy tôi chỉ là một cô
bé 14 tuổi, gầy yếu."
Giọng cô ta trầm trầm, nói tiếp: "Tôi nhớ rất rõ, buổi chiều hôm ấy
mưa rét, cha con tôi bị một toán lính Mỹ bắt ở chân núi Bạch Mã, họ giải giao
chúng tôi cho quận Phú Lộc. Lúc đó ông là người thẩm quyền duy nhất trong quận,
có thể ra lệnh bắt giam chúng tôi hoặc thả cha con chúng tôi ra. Chúng tôi quá
đau khổ tuyệt vọng như người đã chết. Tôi rùng mình nghĩ rằng, nếu cha con tôi
bị giam giữ ở quận, có thể chúng tôi sẽ bị tra tấn đến kiệt sức, và chúng tôi
không sống nổi. Tôi quá sợ hãi không thể đứng vững được, tôi phải ôm lấy tay
của cha tôi.
Khi nghe viên cảnh sát nói: "Tùy ông Phó quyết định" tôi mới dám
ngẩng đầu lên nhìn người mà viên cảnh sát gọi là ông Phó. Tôi ngạc nhiên vì ông
Phó gì mà trẻ quá, thư sinh như một cậu học trò, hơn là một giới chức đang có
quyền quyết định sự sống, chết của cha con tôi.
Dù quá đau khổ, tuyệt vọng, cha con tôi vẫn nghe ông Phó ra lệnh cho viên
cảnh sát: "Thả họ ra." Chúng tôi như chết đi sống lại. Sau khi được
mở còng, cha con tôi vội vã rời quận, mà không kịp có một lời cám ơn gởi đến
ông. Điều này đã làm cho cha con tôi ân hận suốt bao nhiêu năm tháng.
Khi được tha về, cha tôi đã ân cần dặn dò tôi, bất cứ giá nào, dù hoàn cảnh
nào, cha con mình cũng phải tìm cách đền đáp ơn cứu tử mà ông Phó đã ban cho
cha con mình.
Sau 30 tháng 4, 1975, hoàn cảnh như đã đến với cha con tôi. Cha tôi nói,
giới chức như ông Phó thì thế nào cũng phải đi học tập cải tạo. Chúng tôi đi
tìm một ông thiếu tá, hay trung tá nào đó, thì khó; chứ tìm một người như ông
Phó có lẽ dễ thôi!
Chúng tôi biết, trước 30 tháng tư 1975, ông làm việc ở Cần Thơ. Nên cha con
tôi đã đến các trại cải tạo ở vùng đó để tìm ông. khi đến trại cải tạo Cù Lao
Dung ở Sóc Trăng, họ cho biết họ đã chuyển ông về trại Bình Điền , vùng Thừa
Thiên, vì họ xem lý lịch của ông, họ biết, có một thời gian dài ông làm ở đó.
Cha tôi sẽ rất vui mừng khi biết tôi đã tìm được ông. Có lẽ cha tôi sẽ đến
thăm ông nay mai.
Quá ngạc nhiên với câu chuyện mà cô công an vừa kể, tôi ngước nhìn cô ta.
Cô ấy còn rất trẻ, khoảng 24, 25 tuổi, trên cổ áo cô mang quân hàm đại úy.
Cô ấy lại ân cần nói với tôi: "Cho tôi biết ông có cần gì không?"
Tôi lạnh lùng trả lời: “Tôi không cần gì hết. Từ mấy năm nay, tôi không được
biết vợ con tôi còn sống hay đã chết, tôi nghĩ là vợ con tôi đã gặp chuyện
chẳng lành. Tôi không muốn sống nữa."
Tôi đứng dậy và nói với cô ta: "Nếu cô không còn gì muốn hỏi tôi nữa,
hãy để tôi đi về phòng."
Khoảng ba tuần lễ sau, tôi lại được gọi lên văn phòng trại, nói là có người
thăm nuôi. Tôi không tin vào điều mà tôi vừa nghe, vì tôi còn ai thân thiết nữa
đâu mà đến thăm tôi: cha mẹ tôi đã qua đời, vợ con tôi thất lạc nơi đâu, còn
sống hay đã chết cả rồi...
Nhưng viên công an trực còn lưu ý tôi là phải ăn mặc sạch sẽ để ra gặp thân
nhân. Tôi được dẫn ra nhà thăm nuôi. Hôm nay không phải là ngày được thăm nuôi,
nên nhà thăm nuôi rất vắng vẻ. Nhìn xa xa, tôi thấy lố nhố vài người, có mấy
đứa nhỏ nữa. Tôi đi vội đến.
Thật quá bất ngờ: đây là vợ tôi, đây là các con của tôi. Tôi rung động như
đang sống trong mơ. Tôi ôm vợ tôi, ôm các con tôi vào lòng. Tôi sung sướng quá,
sướt mướt khóc, vợ tôi cũng khóc, các con tôi không biết chuyện gì đang xảy ra,
cũng khóc. Gia đình tôi đang ngập tràn trong hạnh phúc được gặp nhau, dù chỉ
trong chốc lát.
Tôi ngạc nhiên, sao lại có cô đại úy công an đứng ở đấy. Nhưng ngay lúc ấy,
nhà tôi chỉ cô đại úy công an và nói : "Anh ơi, cô Thảo đây là ân nhân của
vợ chồng mình đó. Cô đã tìm đến em ở Cần Thơ, rồi lo mọi thủ tục, giấy tờ cho
mẹ con em đi thăm anh đó. Anh hãy cảm ơn cô ấy."
Tôi nhìn cô công an, và nhã nhặn nói với cô ta: "Vợ chồng, cha con tôi
được gặp nhau hôm nay, thật quá hạnh phúc, chúng tôi đội ơn cô."
Cô đại úy công an nói với vợ chồng tôi: "Tôi đã sắp xếp để bà và các
con của ông đến gặp ông, đây chỉ là một việc nhỏ mọn. Công việc này so với ơn
cứu tử của ông dành cho cha con tôi năm xưa, thật khác xa một trời một vực. Cha
con tôi không biết bao giờ mới trả hết được.
Thưa ông, cha con chúng tôi nguyện sẽ làm tất cả những gì có thể làm được,
để giúp đỡ bà và các con của ông trong cuộc sống hằng ngày, ông hãy an tâm và
giữ gìn sức khỏe.
Một người có tấm lòng bác ái như ông, thế nào Ơn Trên cũng cho ông sớm trở
về đoàn tụ với gia đình."
Bửu Uyển
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 15/Jan/2020 lúc 8:00am | |
Người Cận Vệ
Hình minh họa
Tháng 4-1969 tôi được lệnh thuyên chuyển từ
quận Phú-Lộc đến quận Hương-Thủy, cũng với chức vụ Phú Quận Trưởng.
Quận Hương-Thủy là một quận lớn của tỉnh Thừa Thiên, nằm kế cận
thành phố Huế. Quận có 10 xã, dân cư đông đúc, kinh tế khá phồn thịnh, phần lớn
dân chúng sống về nghề nông. Trong địa bàn quận có phi trường Phú Bài, là phi
trường duy nhất của tỉnh Thừa Thiên. Căn cứ chính của Sư Đoàn 101 Không Vận Hoa
Kỳ tọa lạc ở xã Thủy Lương, cạnh phi trường
Phú Bài. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH đóng ở xã Thủy Phương , cũng thuộc
quận Hương Thủy.
Đến nhận nhiệm vụ tại quận Hương Thủy, mỗi
ngày tôi đi làm bằng xe gắn máy, vì văn phòng quận chỉ cách thành phố Huế khoảng
10 cây số. Ở một góc của sân quận có một xe Jeep nhà binh nằm ở đó, từ lâu
không được sử dụng , nên có vẻ cũ kỷ lắm. Trung Tá Quận Trưởng cho biết xe đó
còn tốt, Ông Phó có thể chùi rửa lại để dùng. Tôi cho kéo xe đi rửa. Chỉ cần
thay bình điện, thay bougie và châm dầu nhớt là xe đã chạy được. Vì quận hành
chánh không có xe, nên tòa hành chánh tỉnh không cấp tài xế. Trung Tá Quận trưởng
biết điều đó nên nói với tôi : “Bên Chi
Khu có một nghĩa quân tên là Phụng biết lái xe, tôi sẽ biệt phái anh ấy sang
lái xe cho Ông Phó”. Từ đó, mỗi ngày tôi đi làm hay đi công tác ở các xã, đều
sử dụng chiếc xe Jeep ấy.
Trung Tá Quận Trưởng làm việc rất tích cực :
ông đi hành quân, đi thăm viếng đồng bào ở các xã xa xôi , hay đi khuyến khích
tinh thần làm việc cho viên chức xã ấp…suốt ngày đêm. Sự làm việc tận tụy của
Trung Tá Quận Trưởng đã kích thích tôi làm việc nhiều hơn sự đòi hỏi của vai trò người Phó Quận Trưởng.
Nhiều đêm, tôi cùng Trung Tá Quận trưởng đi thăm một vài xã kém an ninh để
khích lệ tinh thần làm việc của viên chức, cán bộ xã ấp, hoặc kiểm tra sinh hoạt
của Nhân Dân Tự Vệ chẳng hạn. Vì vậy, người lái xe cho tôi, chú Phụng, cũng phải
vất vả ngày đêm với tôi. Và ngẫu nhiên, chú ấy trở thành người cận vệ thân tín
của tôi.
Tôi có một người bạn là Đại Úy Châu, Đại Đội
Trưởng Đơn Vị Lôi Hổ, đóng quân ở Phú Bài, có cho tôi một khẩu súng M18. Tôi
giao cho chú Phụng khẩu M18 đó để đem theo xe.
Một hôm, tình cờ Đại Tá Tỉnh Trưởng thấy người cận vệ của tôi đeo khẩu
M18, ông nói đùa : “Cận vệ của Ông Phó Quận
Trưởng mà trang bị còn ngon hơn cận vệ của Đại tá Tỉnh Trưởng, chỉ sử
dụng M16 thôi !” Tôi liền bảo chú Phụng đưa ngay khẩu M18 ấy cho người cận
vệ của Đại Tá Tỉnh Trưởng. Mấy hôm sau, tôi đã xin ngay được một khẩu M18 khác
của Đại Úy Châu, kể cả cái áo khoát có gắn 6 băng đạn của súng M18 và trao lại
cho Phụng.
Chú Phụng, người cận vệ của tôi, là một
thanh niên cao lớn hơn những người bình thường. Chú ấy đã từng theo học môn
phái võ thuật “Thần Quyền”.
Những khi đi công tác ban đêm, chú ấy thường
nói với tôi : “Ông Phó đừng lo, chừng nào
em chết rồi thì tụi nó mới có thể đến gần Ông Phó”. Khi tôi làm việc ở văn
phòng Quận, chú Phụng thường đứng hoặc ngồi trước văn phòng. Thấy ai lãng vãng gần đó, lập tức
chú ấy đến hỏi ngay. Trung Tá Quận Trưởng rất bằng lòng với sự tận tụy của chú ấy đối với tôi.
Trong thời gian này, một biến cố đã xảy đến
cho chú Phụng : một hôm, chú ấy đi hớt tóc, khi đang nằm ngữa để cạo mặt, thì có một thanh niên lạ mặt nhảy vào kê súng lục
vào bụng chú ấy và bóp cò. May mắn là
viên đạn trúng vào cái bút nịt bằng đồng, nên viên đạn đi chệch hướng ,
nhưng cũng làm cho chú ấy lòi ruột. Chú được đưa đi bệnh viện , mổ vá ruột. May
mắn, chú ấy thoát chết !
Sau khi xuất viện về làm việc lại như cũ,
tôi hỏi chú ấy: “ tại sao lại có người muốn
giết em ?”. Chú ấy thố lộ rằng : “Em
và Côi, bạn em, lâu nay cầm đầu một băng nhóm,chuyên bảo kê cho những cơ sở làm ăn với cơ quan của Hoa Kỳ đóng ở quanh phi trường
Phú Bài như : Thầu đổ rác, thầu giặt ủi, cung cấp nước đá , các quán bar v.v. Gần
đây , có một nhóm khác muốn cạnh tranh, giành địa bàn họạt động của tụi em,
nhưng tụi nó yếu thế, phải rút hết vào Đà Nẳng. Vì vậy chúng thù em”.
Mấy hôm sau chú Phụng xin nghĩ 5 ngày để lo
công việc nhà. Lúc này tôi đã có một tài xế do
Toà Hành Chánh tỉnh gửi đến, nên việc chú Phụng xin nghỉ 5 ngày cũng
không có gì trở ngại đến việc đi lại của tôi.
Sau 5 ngày nghỉ phép, khi trở lại làm việc,
chú Phụng đã cho tôi biết rằng sau khi bị ám sát nhưng may mắn thoát nạn, chú
đã cho đàn em điều tra ra tên kẻ ám sát cũng như băng nhóm của chúng, đang ẩn
náu tại làng Thanh Bồ ở Đà Nẳng. Chú đem theo 6 đàn em, trang bị súng ống đầy đủ,
kể cả khẩu M18 và lựu đạn bi. Vào Đà Nẳng, nhóm của chú đã thanh toán sạch băng đảng ấy! Chú bình thản trở lại công việc
hàng ngày của mình xem như không có chuyện
gì xảy ra.
Nghe câu chuyện chú Phụng kể, về việc thanh
toán nhóm băng đảng nào đó, đã có tội định ám sát chú ấy. Mặc dù chúng nó đắc tội
với chú, nhưng chú đã trả thù quá mạnh tay. Tôi bàng hoàng sững sốt. Tôi đã
nghiêm khắc nói với Phụng : “Dù là em trả
thù, nhưng em đã hành động quá tàn ác. Anh không muốn em tiếp tục làm những
chuyện như vậy nữa. Em hãy giải tán băng nhóm của em và từ nay em hãy sống
lương thiện như những người dân bình thường khác !”
Mấy ngày sau, chú Phụng thành khẩn nói với
tôi : “Thưa ông Phó, tuân lệnh ông Phó,
em đã giải tán băng “Ó Xanh” của em. Em đã chia cho đám đàn em mỗi đứa một số
tiền để chúng làm ăn, và ra lệnh chúng nó giải tán. Em cám ơn ông Phó. Tứ nay
em sẽ sống như một người dân bình thường. Tất cả ngày giờ của em , sẽ dành để lo an ninh cho
ông Phó mà thôi.”
Những lúc đi công tác ở các xã kém an ninh,
chú Phụng thường nhắc nhở tôi : “Nếu bị
phục kích, Ông Phó cứ nằm sát xuống đất, em sẽ nằm trên lưng ông Phó, sẽ không
có một viên đạn nào tìm đến Ông đâu!”
Chú ấy tin rằng, với khẩu M18 và cả chục lựu đạn bi, chú dư sức đồi phó với cả tiểu đội
chúng nó.
Tháng 12-1972, tôi được lệnh thuyên chuyển
ra tỉnh Quảng Trị, giữ chức Phó Tỉnh Trưởng. Chú Phụng muốn theo tôi. Vấn đề đặt
ra là chú Phụng đi theo tôi ra Quảng trị có hợp pháp không. Tôi đã hỏi Phòng Tổng
Quản Trị tại Tiểu Khu Thừa Thiên, nơi đây đã trả lời cho tôi rằng nghĩa quân thuộc quyền quản trị của Chi Khu,
nếu ông Chi Khu Trưởng chấp thuận cho đi và cấp Sự Vụ Lệnh cho chú ấy, thì xem
là hợp pháp. Từ đó, chú Phụng theo tôi ra Quảng Trị.
Có một dịp tình cờ gặp Thiếu Tướng Nguyễn
Khắc Bình (Phủ Đặc Ủy Trung Uơng Tình Báo) ở văn phòng Ông Phụ Tá Ngân, tôi đã
hỏi Thiếu Tướng Bình : “Phó Tỉnh Trưởng
Hành Chánh có quyền có cận vệ không ?”Thiếu Tướng Bình cho tôi biết, ở những
tỉnh kém an ninh như Bình Long, Kiến Tường, Quảng Trị, Hậu Nghĩa, Quảng Đức
v.v. thì Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh có quyền có cận vệ. Tôi trình lại điều ấy
cho Đại Tá Tỉnh Trưởng và Đại Tá đã biệt phái cho tôi một nghĩa quân nữa, làm
người cận vệ thứ hai.
Thời gian phục vụ ở Quảng Trị, tôi có nhiều
dịp làm việc với Thiếu Tá Nhi, Quận Trưởng Hải Lăng. Thỉnh thoảng Thiếu Tá Nhi
mời tôi xuống quận vào buổi chiều sau giờ làm việc. Thường thì tôi đem theo một
chai Martell, hoặc Napoleon, có khi là một chai Hennessy. Một hôm, Thiếu Tá Nhi
rót cho chú Phụng một ly , bảo là cho phép chú ấy uống. Nhưng chú Phụng lễ phép
thưa với Thiếu Tá Nhi: “Xin cám ơn Thiếu Tá, em không dám uống, em cần
tỉnh táo để lo an ninh cho Ông Phó”
Tháng 12-1972, tôi có ý định đi viếng Thánh
Địa La Vang đổ nát, tôi xin máy bay trực thăng của MACV để đưa tôi đến đó. MACV
đồng ý nhưng với điều kiện là máy bay chỉ đáp xuống La Vang trong 5 phút mà thôi. Chú Phụng rất
lo lắng về chuyến đi này, chú khuyên tôi
không nên đi. Nhưng tôi quyết tâm phải
đi thăm La Vang. Chú ấy khẩn thiết yêu cầu tôi phải mặc áo giáp để đề phòng tụi
nó bắn sẻ.
Máy bay trưc thăng xanh trắng của MACV đưa
tôi đến Thánh Địa La Vang. Tôi nhìn một vòng, quanh nơi trực thăng hạ cánh,
nhìn cây nấm nơi Đức Mẹ đang đứng. Bom đạn đầy trời như vậy mà không có vết một
viên đạn nào chạm vào cây nấm bằng ciment to lớn, nơi có Thánh Tượng Đức Mẹ.
Tôi rất sung sướng nhìn thấy Tượng Đức Mẹ an toàn một cách lạ lùng! Tôi vội vã
trở lại máy bay. Sau 5 phút, trực thăng đã cất cánh, đưa tôi rời khỏi Thánh Địa
La Vang. Chuyến thăm viếng La Vang tuy ngắn ngũi nhưng đã để lại trong lòng tôi
biết bao cảm xúc !
Lâu lắm chú Phụng mới xin phép về Huế thăm gia đình một hai
ngày. Tất cả thì giờ còn lại, chú đều dành để lo vấn đề an ninh cho tôi.
Cuối năm 1973, tôi được lệnh thuyên chuyển
về phục vụ tại tỉnh Phong Dinh, Cần Thơ. Chú Phụng phải trở về lại tỉnh Thừa
Thiên. Vì chú ấy thuộc cấp số nghĩa quân của quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 75, tôi hoàn toàn mất liên lạc với chú Phụng.
Cho đến năm 1983, thình lình chú ấy tìm đến
nhà tôi ở Cần Thơ để thăm tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết.
Chú Phụng ôm chầm lấy tôi và cảm động nói : “Em không ngờ được gặp lại Ông Phó. Ông Phó có mạnh khỏe không ? Có bệnh
hoạn gì không ? Mạ em có dặn em là bất cứ giá nào cũng phải tìm cho được Ông Phó. Nay em đã mãn
nguyện, và chắc chắn Mạ em cũng vô cùng
sung sướng khi biết Ông Phó đã được trở về với sức khỏe bình yên”. Chú ấy
đem biếu tôi 5 kg gạo, một ít khoai khô và đậu phụng trồng trong vườn nhà của
chú ấy. Tôi cảm động ứa nước mắt khi nhận món quà tình nghĩa mà chú ấy đã mang
từ Huế vào Cần Thơ cho tôi. Từ ngày ấy, tôi và chú Phụng thường xuyên liên lạc
với nhau.
Tháng 11-1992, tôi được đi định cư ở Mỹ
theo diện HO. Khi tiễn đưa gia đình chúng tôi ở sân bay Tân Sơn Nhứt, chú Phụng
thành khẩn nói với tôi : “Nay mai, dù ở
xa xôi, nhưng Ông Phó muốn em làm gì Ông Phó cứ sai bảo em”
Những năm tháng sống xa quê hương, khi nghĩ
đến lăng mộ của ông bà, cha mẹ hư nát theo thời gian, trong lòng không khỏi buồn
phiền, lo âu. Tôi nghĩ đến chú Phụng và đã nhờ chú ấy tu sửa, trông coi lăng mộ
ông bà, cha mẹ của tôi và của nhà tôi nữa. Những lăng mộ này đều tọa lạc tại tỉnh
Thừa Thiên.
Năm 2008, chúng tôi về thăm Huế sau nhiều
năm xa cách. Chú Phụng đón vợ chồng tôi tại phi trường Phú Bài (Huế). Chú đưa chúng
tôi đến khách sạn Sông Hương, nơi đó chú đã đặt phòng trước cho chúng tôi.
Về thăm Huế đúng vào mùa hè, nên trời nóng
lắm, nhà tôi không muốn đi ra ngoài nhiều. Tuy nhiên khi chúng tôi muốn ăn một
món ăn đặc biệt nào của Huế, chú Phụng cũng sẵn sàng mua đem về khách sạn cho
chúng tôi. Vì vậy, dù không đi đâu, chúng tôi cũng được thưởng thức những món ăn nổi tiếng của Huế như bánh khoái Đông Ba, bún bò Ngự Viên, bánh
ướt thịt nướng Kim Long, bánh bèo Chợ Cạn, bánh canh Nam Phổ .. Tất cả đều được
ăn tại khách sạn.
Về Huế lần này, nhà tôi mong muốn được ăn
mít ướt , một đặc sản của Huế, mà đã trên 50 năm rồi chúng tôi không được ăn.
Sau một ngày, thím Phụng đã mua được một
trái, hớn hở đem đến khách sạn cho chúng tôi. Thím ấy cho biết : “Em đã nhờ nhiều người đi khắp các chợ quanh
thành phố để tìm mua, sau 2 ngày, may mắn mua được trái mít ướt này ở một chợ
nhỏ thuộc xã Thủy Biều ( Long Thọ)”.
Một hôm , hai người bạn thân của tôi, cùng
nhau học trung học ở Quốc Học Huế, đã hơn 50 năm rồi, có nhã ý mời vợ chồng tôi
đi ăn “cơm niêu” ở Nam Giao. Tiệm “cơm niêu” nầy trang trí theo lối xưa, từ bàn
ghế cho đến những bức tranh cổ treo trên tường. Khi đã ngồi vào bàn, chờ thức
ăn của nhà hàng mang lên, chúng tôi thấy ba thanh niên đi lui ,đi tới ở những
bàn kế cận. Tôi tò mò hỏi chú Phụng, chú trả lời : “Thưa Ông Phó, đó là tụi đàn em đang làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Ông Phó
đó!”Khi chúng tôi đi bất cứ nơi đâu, lúc nào cũng có một xe nhỏ, với 3
thanh niên ngồi trên đó, đi theo xe của chúng tôi.
Tôi được biết ở Huế có một quần thể rất đẹp
gọi là “Huyền Không Sơn Thượng” nằm xa thành phố. Tôi ngõ ý muốn đến đó xem.
Nhưng chú Phụng cương quyết không cho chúng tôi đi. Chú nói: “Đó là một nơi vắng vẻ, lại xa thành phố, Ông
Phó không nên đi”
Hôm tiễn đưa chúng tôi trở về Mỹ, chú Phụng
cầm tay tôi thổn thức : “Kính chúc Ông Bà
thượng lộ bình an. Em mong năm tới, ông bà lại về thăm Huế, để em có cơ hội phục vụ ông bà . Em cầu
xin Trời Phật cho em bình yên sức khỏe để em hoàn thành tâm nguyện của mình là
được làm Người Cận Vệ Suốt Đời cho
Ông Phó!”
Bửu Uyển
|
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 21/Jan/2020 lúc 2:49pm | |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 23/Jan/2020 lúc 11:22am | |
TẤM THẺ BÀI
* * *
Ba của tôi vượt biên một mình năm 1982; Ba năm sau tôi, hai em, và má tôi lên máy bay rời VN theo diện đoàn tụ. Mười năm sau tôi tốt nghiệp Đại học; 2 năm sau nửa em tôi, rồi em út cũng tiếp tục thành kỹ sư. Nếu chúng tôi còn ở đất Bình Dương thì không được phép lên lớp 10 vì cha là Ngụy. Đó cũng là lý do Ba Tôi phải vượt biên. 31 năm rồi kễ từ ngày Ba tôi rời bỏ quê hương mang đời thất quốc, Ba của tôi hãnh diện với hai danh từ "tỵ nạn Chính trị". Ông bảo ông không làm "Cỏ leo đầu Tường". Tôi có hỏi nghĩa gì? Nhưng tôi cũng không rõ lắm! Cỏ leo đầu tường thì gió thổi chiều nào ngã theo chìu nấy! Ba tôi càng già càng khó tánh. Bạn Bè nào đi Du lịch Thailand về là Ông không tiếp. Tôi hỏi tại sao? Ông bảo ông vượt biên bằng đường biển. Tàu của Ông đi tuy không bị cướp Thai lan; nhưng Ông cảm thông nỗi đau tỳ vết tâm linh của những thuyền nhân bị cướp hãm hiếp, có thân nhân bị giết hay bị bắt mất tích và Ông nghĩ vẫn còn một số vẫn còn sống trên các đảo hoang nào đó trong Vịnh Thailand. Ông cũng không tiếp những người Du lịch Hồng Kông hay Trung Quốc. Ông cho rằng Trung Quốc cướp Đảo, cướp đất VN mà du lịch Trung Quốc tức đem tiền đổ vào Trung Quốc thì có khác gì giúp Tàu giàu mạnh để thôn tính nước VN. Ông cho rằng xin cái Visa về thăm Việt Nam là chấp nhận chế độ độc tài độc đảng của CS Việt nam. Ông nội tôi mất ở VN 10 năm trước. Ba tôi phone về an ủi Bà Nội và chỉ khóc mà nói: - Hiếu trung con không thể trọn được cả hai; Con giữ nước nhưng con làm mất nước nên phải mang thân đời Vong Quốc; xin Mẹ tha cho tội con bất hiếu. Cuối cùng bà già 92 tuổi còn khỏe mạnh hơn cả đứa con phải đi ra ngoại quốc thăm con! Ở phi trường ngày đón Bà Nội của tôi; Ba tôi ôm chầm lấy bà mà khóc như con nít. Thằng cháu nội lên 6 nói với Má của nó: - Má! Ông Nội cũng biết khóc! Bà Nội tôi nói: - Con già rồi mà còn khóc như con nít; Cháu nội nó cười kìa. Mà thấy tức cười thật. Ba tôi 70 tuổi rồi tóc cũng bạc gần hết, ôm Mẹ 92 tuổi tóc trắng như bông không còn cọng nào đen mà khóc sướt mướt làm tôi cũng muốn khóc theo cho cảnh trùng phùng ít thấy nầy. Một tuần sau, cơm chiều xong ba tôi bị cảm và ho khúc khắc. Bà nội bắt ba tôi nằm trên giường cho bà cạo gió. Ba tôi cũng như tôi đều nói: - Xứ nầy đâu còn ai cạo gió nữa Nội. Bà không chịu; Ba tôi phải chìu theo nằm dài trên giường vạch áo lên cho Bà Nội tôi cạo gió. Tôi nói để con đi lấy cái muỗng và chai dầu xanh. Bà nội tôi nói bà có đây và lấy trong túi xách của Nội chai dầu Tràm rồi lần lưng lấy cái túi nhỏ bằng vải màu đen. Đó là một miếng kim loại hình chữ nhật sáng bạc, bốn cạnh bo tròn. Ba tôi nói: - Má còn giữ tấm thẻ của anh Hai? Tôi chìa tay: - Nội cho Con xem? Tấm thẻ bài mang tên họ số quân và loại máu của bác tôi. Bác hơn ba Tôi có một tuổi và ông tử trận ngày 12 tháng 4 năm 1972 trên đỉnh Charlie thuộc tỉnh Kontum vùng II chiến thuật trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Trả lại tấm thẻ bài, tôi đứng coi Bà Nội tuổi 90 cạo gió cho ông con tuổi thất thập, và nhớ câu chuyện về người bác tử trận mà Ba tôi hay kể. Ông bác này tử trận cùng ngày với Trung tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù Nguyễn Đình Bảo. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã sáng tác bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” để vinh danh cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo; Anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Bác Hai của tôi binh nhì chết trận; cũng được vinh thăng Hạ Sĩ nhưng chết mất xác! Bà Nội kể lại ngày nhận thư báo tử của bác chỉ 1 tờ giấy báo tử và tấm thẻ bài nầy mà thôi. Người đem thư kể lại là địch tràn ngập căn cứ, cấp chỉ huy yêu cầu bắn vào căn cứ coi như giết cả đôi bên. Bác của tôi chết không biết do đạn từ phe bên nào? Địch hay ta nhưng có một điều là: Thân xác người lính miền Nam chất chồng tạo nên danh vọng cho những sĩ quan. Anh Hùng Dân Tộc Vị Quốc Vong thân phải là một Ông Quan; chứ chưa có người lính nào thành Anh Hùng được Vinh Danh cả? Một tấm kim loại có khắc tên họ số quân và loại máu rớt trong cống rãnh hay trên đường không ai thèm lượm; nhưng lại có giá trị gần như tuyệt đối vô giá với một người mẹ mất con và mất đến cả không nhận được xác con để ôm khóc một lần cuối! Một tấm thẻ bài vô tri; mang cả thâm tình của một người mẹ mất con trong cuộc chiến bại, sao đau thương quá! Tôi thấy thương Bà Nội vô cùng. Trần Thiện Phi Hùng Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Jan/2020 lúc 11:23am |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 01/Feb/2020 lúc 11:41am | |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 03/Feb/2020 lúc 10:22am | |
Songkhla Dậy Sóng
Tại Quán Biển Xanh của Thị Trấn Songkhla, Thi Thi một mình đứng dựa
vào lan can, mắt dõi nhìn ra phía biển xa xa. Bán Ðảo Malay nhô dài ra
phía biển, xanh rợp những hàng dừa trông tựa như mũi của một con cá sấu.
Buổi chiều, từng đoàn ghe, tàu ra vô làm cho cửa biển thật chộn rộn
nhưng Thi Thi thì cứ vẫn đứng yên như thể tâm hồn phiêu bạt nơi đâu. Với
kiến thức và suy tính của nàng, nàng nghĩ rằng việc tìm kiếm tông tích
mẹ dù khó khăn nhưng không phải không hy vọng. Nhưng đến nay thì nàng
cảm thấy tình thế hầu như tuyệt vọng cho nên hai giọt lệ tự nhiên lăn
dài trên khóe mắt. Xót xa nghĩ đến mẹ, nàng nhắm nghiền đôi mắt và… ký
ức kinh hoàng của chín năm về trước một lần nữa lại hiện về.
…..Năm 1978, Thi Thi còn là một cô bé muời hai tuổi theo cha mẹ vượt
biên ở cửa biển Vũng Tàu – Bà Rịa. Sau ba ngày lênh đênh trên biển, tàu
của Thi Thi gặp hải tặc Thái Lan và một màn cướp bóc dã man diễn ra. Mẹ
Thi Thi bị hải tặc dẫn đi cùng với mấy cô gái khác. Sau khi ăn hàng
xong, bọn hải tặc bỏ đi và thuyền của Thi Thi mấy ngày sau may mắn tắp
vào được Đảo Bi Ðông. Vì quá nhớ thương vợ, hơn thế nữa ông bị kiệt lực
vì chuyến vượt biển đầy gian nan, sóng gió, hãi hùng, ba của Thi Thi lâm
bệnh và qua đời trên đảo. Ông được đồng bào chôn ông ở trên một mỏm núi
đá nhìn xuống bãi biển. Thi Thi trơ trọi một mình, hằng tuần đều đến
thăm mộ ba. Thi Thi lượm lặt những hòn sỏi, những vỏ ốc nằm chơ vơ trên
cát về dát lên trên mộ thành hình những đóa hoa rồi thì thầm nói chuyện
với ba như những lúc ba còn sống. Thi Thi không bao giờ nghĩ rằng ba đã
chết… mà ông chỉ nằm yên nghỉ ở đây để chờ một ngày gặp lại mẹ Thi Thi –
người yêu quý nhất đời ông.
Trong thời gian Thi Thi còn tá túc ở trại chuyển tiếp Sungei Besi –
Mã Lai thì tại một khu ngoại ô của thành phố Los Angeles – California,
ông bà Brown đang chăm chú đọc một bản tin của cơ quan USCC kêu gọi các
nhà hảo tâm Hoa Kỳ đứng ra bảo trợ các gia đình tỵ nạn Ðông Dương mệnh
danh là Boat People. Ông Brown là kỹ sư trưởng của một hãng điện tử, còn
bà Brown là giáo sư tại một Ðại Học Cộng Ðồng. Năm ấy ông bà khoảng bốn
mươi tuổi. Ông bà rất chú ý đến trường hợp của Thi Thi bởi hai lý do:
Ông bà lấy nhau đã mười năm nay mà không có con cái gì. Ngoài ra ông còn
là một cựu chiến binh trước phục vụ tại Việt Nam. Năm 1967 phi cơ của
ông bị bắn rớt ở Bình Long nhưng ông được một bé gái trạc tuổi Thi Thi
chỉ đường cho ông chạy trốn ra quốc lộ cho nên ông còn sống sót tới ngày
nay. Nhìn hình ảnh Thi Thi trong bản tin của cơ quan USCC, ông nhớ lại
kỷ niệm xưa và có ý muốn nhận nuôi Thi Thi để đền ơn một cô bé Việt Nam
nào đó mà ông không bao giờ biết tên tuổi.
Vừa nhận bảo trợ, vừa nhận làm cha mẹ nuôi Thi Thi, hai ông bà lại có
hai quan niệm khác nhau về cách xây dựng cuộc đời cho Thi Thi. Bà Brown
thì muốn Thi Thi sớm quên đi quá khứ đau buồn để hội nhập vào xã hội
mới và dĩ nhiên tạo lập cuộc đời mới trên quê hương mới cho nên bà muốn
Thi Thi trở thành một bác sĩ. Còn ông, ông lại có quan niệm và một chủ
đích khác. Ông muốn Thi Thi đừng đánh mất bản sắc của mình vì Việt Nam
cũng là mảnh đời khó quên của ông. Vả lại, mẹ Thi Thi dù bị hải tặc bắt
đi nhưng chưa chắc đã chết… may đâu? Cho nên khi Thi Thi tốt nghiệp
trung học ông đã thuyết phục bà cho Thi Thi học ngành báo chí tại
U.C.LA. Khi Thi Thi được hai mươi mốt tuổi và cũng là lúc nàng tốt
nghiệp bằng Cử Nhân, do sự quen biết ông xin cho Thi Thi làm phóng viên
của tờ Los Angeles Tribune. Năm sau, đích thân hai ông bà đến gặp ông
tổng biên tập, trình bày về trường hợp của Thi Thi, cái gì xảy đến cách
đây chín năm và xin tờ Los Angeles Tribune đứng ra bảo trợ cho một cuộc
tìm kiếm người đàn bà xấu số… tức mẹ của Thi Thi. Sự việc được trình lên
Hội Ðồng Quản Trị và Ban Quản Trị nhận thấy đây vừa là vấn đề nhân đạo
vừa là dịp điều tra sâu rộng về những hành vi tàn bạo của cướp biển Thái
Lan nên đã đồng ý bảo trợ.
Tuy nhiên sắp xếp cho chuyến đi không phải chuyện dễ dàng. Nếu sơ hở,
sinh mạng người đi điều tra lâm nguy đã đành mà cướp biển có thể thủ
tiêu người đàn bà để phi tang. Cuối cùng thì người ta đã đồng ý với nhau
về một kế hoạch. Tờ Los Angeles Tribune loan tin bảo trợ cho một cuộc
khảo cứu sinh vật học dưới biển ở Thái Lan và cần tuyển một người cho
công tác này. Bài báo loan đi được nửa tháng thì một thanh niên tới
trình diện. Chàng tên Peter, tốt nghiệp Hải Dương Học và đang phục vụ
tại Ðại Học Stanford. Năm nay chàng hai mươi bốn tuổi, đẹp trai, thông
minh, khoẻ mạnh, hoạt bát, thích phiêu lưu mạo hiểm nhưng chưa có dịp.
Sau cuộc phỏng vấn, Peter được gặp Thi Thi để nghe nàng nhớ lại, kể lại
tất cả những gì đã xảy ra cho gia đình mình cách đây chín năm. Sau hơn
một tháng tập lái tàu, nghiên cứu phong tục tập quán, bờ biển các khu
vực đánh cá trong Vịnh Thái Lan nhất là khu vực Songkhla. Ðể an toàn cho
chuyến đi, Peter và Thi Thi được đưa qua Sydney rồi mới đáp máy bay đi
Bangkok như thể một cặp tình nhân đến từ Úc Châu.
Tại Bangkok, Peter có người cậu làm tùy viên văn hóa của Tòa Ðại Sứ
Hoa Kỳ tại Thái Lan. Peter đến thăm cậu và nói rõ mục tiêu của chuyến
đi. Nghe xong câu chuyện ông cậu rất xúc động nhưng cũng khuyên cháu nên
hết sức cẩn thận vì hành tung của cướp biển Thái Lan lúc ẩn lúc hiện và
khi bọn chúng đã ra tay thì hết sức tàn bạo. Ông giới thiệu cho Peter
một một thám tử tư người Thái Lan tên Surat trước đây vốn sinh trưởng ở
vùng Songkhla cho nên không một ngõ ngách nào của Songkhla mà Surat
không biết. Sau khi nghe trình bày sự thể, Surat vui vẻ nhận lời cộng
tác vì theo anh bản tính dân Thái Lan vốn hiền hòa, cướp biển chỉ là
thiểu số đi ngược lại bản tính đó và làm hoen ố danh dự của dân tộc Thái
Lan. Surat năm nay ngoài ba mươi tuổi nói tiếng Anh rất lưu loát. Surat
da nâu nâu, thân hình khỏe mạnh có bộ râu mép giống Clark Gable và lúc
nào cũng vậy – do méo mó nghề nghiệp anh ta luôn luôn mang kính đen và
khẩu súng lục trong người. Do tính chất nguy hiểm của chuyến đi, Surat
khuyên Peter nên đem theo súng và anh ta đã dùng giấy phép của hãng thám
tử tư của chính anh để cấp giấy đeo súng cho Peter.
Là người kinh nghiệm, tế nhị và cũng để thử tài Peter trong chuyến
“hành hiệp”, trước tiên Surat để Peter quyết định về kế hoạch hành động.
Peter bàn với Thi Thi và Surat là nên đến Hội Ngư Phủ Songkhla để dò la
tin tức. Qua sự thông dịch, Surat giới thiệu với ông Chủ Tịch Hội Ngư
Phủ, Peter và Thi Thi là hai nhà nghiên cứu Hải Dương Học muốn tìm hiểu
về tiềm năng đánh cá của vùng Songkhla, nhất là những con tầu thường
đánh cá ở Vịnh Thái Lan. Peter lý luận rằng theo tài liệu của Liên Hiệp
Quốc thì các con tàu tham dự vào các chuyến cướp biển đều là tàu gỗ, có
khả năng đánh cá xa bờ khoảng 100 hải lý, làm ăn theo lối gia đình, ít
mướn nhân công bên ngoài. Nếu nắm được danh sách này thì ít ra cũng có
tài liệu để lần ra manh mối. Còn Surat thì giới thiệu mình là thông dịch
viên trước có du học ở Úc Châu. Là người hiếu khách, ngay tình, ông chủ
tịch đưa ra một danh sách dài dằng dặc bao gồm tên chủ tàu và các con
tàu hiện gia nhập hội của ông. Cầm bảng danh sách này trên tay Peter hỏi
làm sao phân biệt được tàu gỗ hay tàu sắt? Ông chủ tịch nói cái đó cũng
dễ thôi vì mỗi loại tàu đều có số mã riêng. Ðêm đó Peter ngồi một mình
với bản danh sách trong phòng riêng.
Sáng hôm sau chàng thú nhận với Thi Thi rằng cái danh sách này tựa
như một đám rừng chỉ làm chàng đau đầu thêm cho nên chàng đề nghị một kế
hoạch khác. Theo Peter thì khi hải tặc bắt được đàn bà, con gái nếu
không bán đi để làm gái điếm thì chúng cũng dấu trên các hoang đảo để
làm “áp trại phu nhân”. Do đó nếu dò thám các hoang đảo may đâu chẳng
tìm ra manh mối? Theo đúng đề nghị của Peter, cả ba đến gặp ông Giám Ðốc
Hàng Hải Songkhla để hỏi thăm tin tức, sưu tập bản đồ của những hòn đảo
nằm quanh khu vực. Ba người có lúc đi chung, có lúc đi riêng để dò la
các hòn đảo, mệt nhoài cả người nhưng cũng chẳng thêm chút ánh sáng nào.
Thấy hai kế hoạch cuả Peter không đem lại kết quả – cảm thấy đã đến
lúc trổ tài, Surat lý luận: Mục tiêu của đám cướp biển là cướp vàng bạc
vì chúng biết rằng người tỵ nạn Việt Nam khi vượt biên đều mang theo tài
sản vì họ cho rằng không bao giờ họ còn có cơ hội quay lại Tổ Quốc nữa.
Một khi tóm được vàng bạc, có khi là vàng lá, kim cương, nhẫn vàng,
khuyên vàng… bọn chúng có thể đem bán cho các tiệm vàng ở Thị Trấn
Songkhla để lấy tiền chi dùng, ăn nhậu hoặc để bao gái nhất là để đánh
bạc. Do đó Surat đề nghị hai người tạm nghỉ ở nhà để Surat đi xuống khu
Trung Tâm của Songkhla. Tại đây Surat tìm đến một người bạn tên Sok, sau
khi cha về hưu, anh ta hiện nối nghiệp cha làm chủ một tiệm vàng. Sau
khi tốt nghiệp trung học tính ra có đến mười mấy năm hai người không gặp
nhau. Tối đó Sok rủ Surat đi nhà hàng để hai bên ăn nhậu, hàn huyên cho
thỏa thích. Trong lúc rượu đã ngà ngà, Surat hỏi Sok xem cách đây
khoảng chín, mười năm Sok còn nhớ tên chủ tàu nào đến đổi chác vàng bạc ở
tiệm không? Sok cho biết đám dân chài luới mỗi lần trúng mùa họ thường
mua sắm vàng bạc, nữ trang, ăn nhậu dữ lắm còn chuyện đem vàng bạc đi
bán là chuyện bất thường, chỉ khi nào họ liên tiếp thất bại một, hai mùa
cá. Tuy nhiên, theo Sok thì có một trường hợp mà anh ta nhớ mãi là cách
đây khoảng chín, muời năm, chủ tàu Lươn Biển đã bán cho cha anh một mớ
nữ trang rất lớn mà theo anh không phải là loại làm ở Thái Lan. Bắt được
tin này, Surat hí hửng về thông báo cho Peter và Thi Thi hay. Sau đó
Surat quyết định để ra một tuần lễ liền, dùng ống nhòm quan sát cùng la
cà khắp bến cảng nhưng chẳng thấy bóng dáng con tàu Lươn Biển đâu cả.
Như thế là sau hai tuần lễ vất vả, cả ba vẫn chưa phăng ra một chút manh
mối nào về hải tặc và dĩ nhiên sự việc đó đã gieo vào lòng Thi Thi nỗi
niềm chua xót, hoang mang lẫn thất vọng.
* * *
Trong khi Thi Thi đang thả hồn mình về với quá khứ bi thương như thế
thì Peter từ trong quán bước ra. Nhìn thấy Thi Thi, chàng dừng lại.
Chàng không muốn làm kinh động, vừa để tôn trọng những giây phút riêng
tư của nàng… mà cũng để ngắm nhìn. Sau gần một tháng đi chung, ăn uống
chung và làm việc chung chưa bao giờ Peter thấy Thi Thi đẹp như vậy.
Chưa bao giờ hình ảnh của Thi Thi lại thu hút tâm hồn chàng đến như vậy.
Nắng và gió biển làm da Thi Thi đậm hơn một chút. Chiếc áo sơ-mi tay
dài và chiếc quần Jean càng làm tăng thêm vẻ đẹp khỏe mạnh của nàng. Mái
tóc dài bay lòa xòa truớc gió bao phủ lấy khuôn mặt Ðông Phương nhưng
thanh thoát làm Peter liên tưởng đến sự thủy chung – nền tảng của hạnh
phúc gia đình mà chàng đọc được nơi sách vở. Chính sự ngưỡng mộ và khát
khao đó lại là động cơ thúc dục chàng nhích chân đi tới. Nghe tiếng động
ở sau lưng, Thi Thi giật mình ra khỏi vùng hồi ức. Nàng quay lại và
không ngạc nhiên khi thấy Peter.
Tuy nhiên nàng vẫn đứng bất động và mắt
như nhìn vào cõi xa xăm. Peter chầm chậm tiến đến gần, đứng yên một hồi
lâu rồi mạnh dạn nắm lấy tay Thi Thi. Chàng nói:
– Anh hiểu nổi khổ đau của em. Nhưng anh linh cảm rằng chúng ta sẽ
thành công. Em sẽ gặp lại mẹ em trong chuyến đi này. Ðừng để tình cảm
làm suy yếu nghị lực của chúng ta. Nói xong chàng kéo tay Thi Thi và hai
bước tản bộ dọc theo bến cá.
Trong khi hai nguời đang sánh bước bên nhau thì Surat ngồi rầu rĩ bên
ly bia đã cạn. Anh toan lên tiếng gọi thêm chai nữa thì từ ngoài cửa
hai thanh niên bước vào. Nhìn vóc dáng, cách ăn mặc, cách nói năng ai
cũng phải nhận ra họ là dân chài lưới. Sau khi lớn tiếng gọi rượu và đồ
nhậu, họ ăn uống rất dữ tợn. Phút chốc họ đã ngà ngà và đúng là… rượu
vào lời ra. Một gã trong bọn nói:
– Mày có biết không trên đời này nhiều khi bố con giết nhau cũng chỉ
vì một con đàn bà! Một con đàn bà… Việt Nam mới tức cười chứ!
Gã kia, sau khi dằn ly bia xuống bàn, lè nhè hỏi:
– Mày nói lại tao nghe. Cha con giết nhau hả? Ðứa nào ngu vậy cà? Ð.M. có nói dóc không mày?
Sau khi cầm ly bia uống ực một hơi, gã lên tiếng đầu tiên nói tiếp:
– Thì cha con thằng cha chủ tàu… chủ tàu Lươn Biển chứ ai!
Nghe đến đây thì Surat như bị điện giật. Anh ta vội vã kêu thêm một
chai bia nữa uống để câu giờ và vểnh tai nghe. Khi hai gã đã dứt tiệc
nhậu, lảo đảo buớc ra ngoài và chia tay ở truớc quán thì Surat theo bén
gót gã lên tiếng đầu tiên mà sau này y xưng tên là Thom. Surat theo chân
Thom đến tận nhà và mua chuộc Thom bằng hai lạng vàng để được biết tung
tích con trai lão chủ tàu Lươn Biển.
Theo tin tức của Thom thì Uthai – con lão chủ tàu Lươn Biển, hiện y
đang chỉ huy con tàu Sóng Thần. Tàu của y thường lênh đênh nửa tháng
trời ngoài biển và có lẽ vài ngày nữa sẽ trở lại bến Songkhla để xuống
cá. Sau khi xuống cá y có thói quen ăn nhậu và kiếm gái ở Quán Giang Hồ.
Sau khi thu lượm được tin tức bằng vàng này, Surat hối hả quay trở lại
khách sạn để cùng Peter và Thi Thi lập kế hoạch bắt cóc Uthai vào lúc
chạng vạng tối.
Theo đúng dự trù. Thi Thi ăn mặc giả làm “cô gái bán hoa” quanh quẩn ở
quán Giang Hồ. Khi Uthai mặt đỏ gay, lảo đảo buớc ra ngoài thì Thi Thi
bước tới… liếc mắt đưa tình. Chính Uthai cũng hết sức ngạc nhiên không
hiểu tại sao bến Songkhla hôm nay lại có một đóa hoa tươi đẹp như vậy
cho nên y mê mẩn cả tâm thần và đưa tay ôm đại lấy Thi Thi. Mặc dù giận
căm gan và nhiều lúc muốn nôn oẹ vì mùi rượu nồng nặc từ miệng Uthai thở
ra. Thi Thi cũng phải cắn răng chịu đựng cho gã ôm ấp rồi dìu gã vào
một ngõ tối là nơi mà Peter và Surat đã phục sẵn. Khi gã còn đang lảm
nhảm mấy tiếng Thái có lẽ là “Anh anh…, em em” thì bằng quả đấm thôi sơn
ngay cằm, Peter quất gã quay lơ trong khi đó Surat nhanh tay chụp lên
mặt gã một chiếc khăn tẩm thuốc mê rồi hai nguời dìu nách gã xuống tàu
như thể hai người đang đưa một người bạn ăn nhậu say về nhà.
Dưới con tàu sắt mà ba người đã thuê, có trang bị đầy đủ Radar lẫn hệ
thống thông tin với Sở Cảnh Sát và Lực Lượng Duyên Phòng Songkhla,
Uthai bị trói gô vào một chiếc ghế sắt. Y khoảng ngoài ba mươi tuổi có
khuôn mặt vều lên như cái mâm, da mặt sần sùi như vỏ quít. Uthai mặc một
bộ đồ jean, cánh tay xâm trổ. Cả con người y tỏa ra một cái gì đó hết
sức thô lỗ, hiếu sắc và tục tằn. Khi tỉnh dậy, Uthai ngạc nhiên khi thấy
y bị trói thúc ké. Vài giây sau, có lẽ đã nhớ lại những gì xảy ra tại
Quán Giang Hồ, y trở nên vô cùng tức giận. Y quắc mắt hỏi:
– Các người là ai? Tại sao lại bắt ta?
Nói xong y gầm gầm, gừ gừ khiến bộ mặt sần sùi đen đủi của y càng
thêm hung dữ. Như một tay thẩm vấn nhà nghề cần ra tay trước để thị uy,
Surat xáng cho y một quả đấm ngay sống mũi khiến phải mất vài giây sau
mới có thể hoàn hồn. Ðợi cho y đã tỉnh táo, Surat chìa ra trước mặt y
một tấm hình bán thân cỡ 8×10 rồi gằn giọng hỏi:
– Mày có biết nguời này là ai không?
Uthai rõ ràng sửng sốt khi nhìn thấy tấm hình nhưng vẫn lắc đầu:
– Tôi không biết!
Tấm hình mà Surat đưa ra trước mắt Uthai không gì khác hơn là tấm ảnh
bán thân được rọi lớn của mẹ Thi Thi – một kỷ vật mà Thi Thi lưu giữ
chín năm qua. Trước cử chỉ ngang bướng của Uthai, Surat đưa mắt nhìn
Peter như để xin chỉ thị. Peter khẽ gật đầu. Một chiếc thùng nước được
lôi ra và Surat nhanh tay nắm lấy tóc Uthai nhận xuống. Chỉ ít giây sau
thì cái đầu của Uthai quậy lên dữ dội nhưng bàn tay cứng như sắt của
Surat vẫn cứ ấn xuống cho đến khi Uthai gần ngất xỉu thì Surat giật
ngược đầu của y lên, quắc mắt hỏi lần nữa:
– Bây giờ mày có biết người này là ai không?
Tới mức này thì bộ mặt thiểu não của Uthai khẽ gật gật. Thấy vậy Peter hỏi và Surat thông dịch ra tiếng Thái:
– Mày có biết cha mày hiện giờ ở đâu không?
Uthai dư sức thông minh để hiểu rằng nếu y nói “không” thì chắc chắn y
sẽ được cho “đi tàu thủy” một lần nữa cho nên lặng lẽ gật đầu. Thấy vậy
Peter liền nói:
– Bọn tao kỳ hẹn cho mày trong hai ngày. Nếu không tìm thấy tàu của cha mày thì mày sẽ được gửi đi “thăm Hà Bá” biết chưa?
Nói xong Peter chỉ vào quả tạ bằng sắt thật lớn có sợi dây xích nằm ở
một góc. Sau đó con tàu được nổ máy tiến ra cửa. Khi tàu đã ra khỏi cửa
biển thì Uthai được điệu lên boong và bị trói chặt vào cột tàu. Theo
lời khai của Uthai thì cha y hiện đang đánh cá tại toạ độ X. Ðánh cá
xong tàu của cha y mới quay trở về bến Songkhla cho nên đó cũng là lý do
tại sao Surat dò xét khắp nơi mà cũng chẳng thấy con tàu Lươn Biển đâu
cả.
Kể từ khi nhúng tay vào những vụ cướp biển và bắt được mẹ Thi Thi thì
Kamphaeng – cha của y đổi kế hoạch với mục đích giữ kín tung tích mẹ
Thi Thi. Thay vì cùng đánh cá chung rồi cùng về, Kamphaeng đổi sang lối
đánh cá xen kẽ. Khi con tàu của y sắp vào cửa thì con tàu của Uthai được
lệnh ra khơi. Khi hai tàu gặp nhau ở ngoài cửa thì mẹ của Thi Thi được
chuyển qua tàu của Uthai. Do đó khi tàu cặp bến với số người đông đảo
lên xuống cá, hoặc nếu có thanh tra kiểm tra tàu thì cũng chẳng có ai
nhìn thấy bóng dáng người đàn bà Việt Nam ấy cả. Do đó mà Kamphaeng đã
sống an toàn với mẹ Thi Thi suốt chín năm qua. Kamphaeng năm nay khoảng
ngoài năm mươi tuổi. Mặt mày y đen đủi, tóc quăn cháy, thân hình to lớn
và tỏa ra một cái gì rất man rợ. Y thường xuyên cửi trần, quấn chiếc
xà-rông màu đỏ và đeo lủng lẳng bên mình dao quắn cho nên trông y dữ tợn
như một hung thần.
Nhưng cũng chính vì cách dấu người như thế cho nên Uthai đã có cơ hội
gần gũi người đàn bà và dần dần trở nên say mê bà vì tính ra tới năm
nay bà mới khoảng bốn mươi lăm tuổi và bà trở nên một vương hậu giữa đám
thổ dân đánh cá đen đúa, xấu xí. Mới đầu thì lão hải tặc không biết.
Nhưng sau thì người của lão báo cáo là “đứa con bất hiếu” đã gian díu
với “phu nhân” của lão cho nên lão giận điên người và đã có lần rút dao
chém Uthai đúng như câu chuyện mà Surat đã nghe lén được ở Quán Giang
Hồ. Kể từ đó đến nay hai cha con trở thành hai kẻ tử thù và đều muốn
tránh mặt nhau.
Cũng theo lời khai của Uthai thì đã nhiều lần mẹ Thi Thi tìm cánh
trốn lên boong để lao mình xuống biển tự tử để sớm dứt cuộc sống nhục
nhã nhưng đều bất thành. Kể từ đó lão già hải tặc cấm không cho bà rời
khoang tàu. Và cứ như thế cuộc sống khổ đau của bà – khi thì phải “làm
vợ” lão hải tặc, khi thì phải “làm vợ” Uthai kéo dài đã chín năm trời
qua. Nghe Uthai kể đến đây thì Thi Thi khóc như mưa gió vì thương mẹ.
Còn Peter và Surat thì nghiến răng trèo trẹo vì căm giận loài cướp biển.
Theo đúng lời khai của Uthai, con tàu ra khơi đã được một ngày và một
đêm nhưng không thấy bóng dáng của con tàu đánh cá nào lảng vảng chung
quanh. Ðã có lúc Surat nóng nảy đề nghị quăng tên quỷ sứ này xuống biển
cho rồi nhưng Peter khuyên Surat nên kiên nhẫn thêm chút nữa.
Bây giờ thì trời đã hừng đông và mặt biển đẹp tuyệt trần. Tàu chạy
khoảng hai tiếng đồng hồ nữa thì một chấm đen xuất hiện ở hướng Ðông
Bắc. Uthai nói:
– Có thể đó là con tàu của cha tôi. Nếu đúng thì nó sơn màu đỏ đen và trên có lá cờ hình con lươn biển.
Nghe nói vậy tất cả đều nai nịt và ở tư thế sẵn sàng. Thi Thi trao
ống nhòm cho Peter. Duới sự điều khiển của Peter, Surat gia tăng tốc độ
hướng mũi tàu về phía con tàu Lươn Biển. Trong đầu Peter lúc này nảy ra
một kế hoạch thật táo bạo: Uthai được chụp lên đầu một tấm vải do đó khi
hai con tàu tiến đến gần nhau thì phía bên kia sẽ không nghi ngờ gì cả.
Khi hai con tàu đã áp sát vào nhau thì Thi Thi có bổn phận giữ tay lái,
còn Surat lanh lẹ giật giây trói và đẩy Uthai qua phía bên kia. Kế
hoạch diễn ra đúng như dự liệu. Trong khi đám người trên con tàu Lươn
Biển còn đang reo hò, vẫy gọi vì tưởng đó là con tàu thân thiện thì tàu
của Peter áp nhanh vào cạnh sườn. Sau khi giật giây trói cho Uthai,
Surat quát lớn:
– Nếu mày không chạy qua tao bắn nát óc ngay!
Trước tình thế nguy nan đó Uthai nghĩ nhảy qua con tàu Lươn Biển may
đâu y còn có cơ hội sống sót vì cha y có thể không nỡ xuống tay cho nên y
phóng mình qua như một con chim. Khi thấy một bóng người bất thần nhảy
qua, định thần nhìn kỹ lại thì lão hải tặc nhận ra đây là “đứa con quý
tử” của lão. Vả lại trong lúc sự việc xảy ra quá nhanh, lão nghĩ rằng
thằng con phản phúc đã rước cảnh sát đến đây bắt lão cho nên lão gầm lên
một tiếng:
– Ðồ thằng con bất hiếu!
Và lão vung con dao quắm chém xuống. Từ bên thành tàu nhảy qua, chưa
kịp giữ thăng bằng thì Uthai lãnh đủ nhát dao chém vào bả vai và y gục
xuống trên vũng máu.
Trong khi đó thì Peter và Surat đã phóng qua với hai khẩu súng lăm
lăm trên tay và một khung cảnh hỗn loạn diễn ra trên boong. Thấy tình
thế nguy cấp lão hải tặc tháo chạy xuống khoang và Peter bám sát theo
lão. Vì không quen đường lối xuống khoang tàu cho nên khi Peter xuống
tới bậc thang cuối cùng thì lão hải tặc đã biến mất ở cuối buồng cho nên
chàng phải dừng lại, dò từng bước, súng chĩa thẳng phía trước. Nhưng
khi Peter vừa mới tiến được vài bước thì một tiếng quát dữ dội vang lên:
– Bỏ súng xuống nếu không tao cắt cổ con mụ này!
Cùng với tiếng quát lão hung thần xuất hiện, một tay ôm ghì lấy người
đàn bà để làm khiên che đạn, còn tay kia lăm lăm chiếc dao quắm kề sát
cổ. Nguời đàn bà đang bị kềm chế đó không ai khác hơn là mẹ Thi Thi. Khi
Peter còn đang lưỡng lự thì một tiếng quát thứ hai vang lên. Peter hiểu
rằng nếu còn chần chừ thì sinh mạng của người đàn bà có thể lâm nguy
cho nên chàng đành làm theo lời lão hải tặc. Khi thấy chàng đã quăng
khẩu súng, lão hải tặc kéo sền sệt người đàn bà tiến về phía đó. Nhưng
vì lão chỉ có hai tay, một tay đã cầm dao quắm, một tay bận níu chặt
người đàn bà cho nên khi cúi xuống nhặt khẩu súng lão buộc lòng phải
chuyển con dao qua cánh tay kia. Giữa giây phút tử sinh quyết định này –
có lẽ mẹ Thi Thi quyết liều thân với tên cướp biển cho nên bà bật tung
cánh tay của y ra để chạy về phía Peter. Do bản năng, lão già nhoài
người ra để túm lấy mẹ Thi Thi. Quả đây là cơ hội bằng vàng cho nên
Peter nhào tới đá văng khẩu súng sang một bên. Thấy tình thế bất lợi,
lão già chém đại một nhát rồi phóng vội lên boong tàu. Khi Peter lượm
lại được khẩu súng, leo được lên boong thì Surat đang vật lộn với một
tên cướp biển còn Thi Thi cũng đã leo qua được thành tàu bên này. Nhưng
khi nàng vừa đứng yên trên hai chân thì lão hải tặc đã từ xa phóng tới.
Thấy lão nàng kinh hãi rú lên một tiếng rồi lao mình phóng chạy. Nhưng
khi chạy tới đuôi con tàu thì nàng hoàn toàn tuyệt lộ. Thi Thi không còn
đường nào khác hơn là hai tay ôm lấy mặt để chờ đợi lưỡi dao chém
xuống. Nhưng khi lưỡi dao vừa dơ lên thì Peter đã xuất hiện ở sau lưng
lão hải tặc. Chàng đưa súng lên và bóp cò. Nguời ta chỉ thấy lão kêu rú
lên một tiếng, quăng con dao quắm lên trời rồi lảo đảo ôm lấy bả vai
nhưng vẫn hung hãn lao về phía Thi Thi đang ngồi co rúm, lưng dựa vào
thành tàu. Rồi do đà hụt hẫng và cũng do tình cờ một con sóng mạnh ào
tới làm đuôi tàu hơi tròng trành cho nên lão già té nhào xuống biển. Khi
Peter chạy tới thì Thi Thi như người chết đi sống lại, nàng ôm chầm lấy
Peter. Giây phút sau nàng vừa thở hổn hển vừa hỏi:
– Có gặp mẹ em không? Mẹ em có sao không?
Peter gật đầu và lấy tay chỉ về phía cầu thang. Khi hai nguời chạy
tới thì Surat cũng đã hàng phục được tên cướp biển và từ dưới khoang tàu
một người đàn bà nhô lên. Ðó là một khuôn mặt Việt Nam nhưng lại quấn
một chiếc xà-rông và mái tóc đã phai màu sương khói. Vừa đặt chân lên
tới boong tàu bà hít một hơi dài rồi quỳ xuống, ôm mặt kêu rống lên:
– Trời Phật ôi! Bao năm qua con mới được nhìn thấy ánh mặt trời!
Trong khi người đàn bà còn đang quỳ lạy như thế thì Thi Thi nhào tới ôm chặt lấy bà rồi nghẹn ngào thốt lên:
– Mẹ ơi! Con là Thi Thi! Thi Thi là con đây!
Dường như hai tiếng Thi Thi là hai tiếng quá thân thương với bà cho
nên sau vài giây ngơ ngác bà ôm chầm lấy Thi Thi rồi khóc nức nở như một
đứa trẻ. Rồi bà vừa khóc vừa nói:
– Con là Thi Thi của mẹ đó hả? Tôi mơ hay tôi tỉnh đây? Thi Thi! Mẹ là mẹ của con đây! Ba của con đâu rồi Thi Thi?
Nói vừa dứt câu đó, vì quá xúc động bà ngã ra bất tỉnh.
* * *
Sau khi Surat liên lạc vô tuyến với Sở Cảnh Sát và Duyên Phòng
Songkhla đến để nhận con tàu Lươn Biển và còng tay đám cướp biển đã bị
hai người hàng phục, con tàu sắt trên đó có chở theo mẹ của Thi Thi rẽ
sóng quay trở lại bến cảng Songkhla. Ngày hôm sau bốn người đáp máy bay
trở về Bangkok và được xe của Tòa Ðại Sứ Mỹ đón tận phi trường. Ðêm đó
Peter và Thi Thi gọi điện thoại báo cho ông Tổng Biên Tập tờ Los Angeles
Tribune là chuyến công tác đã thành công.
Tuần lễ sau, do lời yêu cầu của mẹ Thi Thi, dưới sự giúp đỡ của Tòa
Ðại Sứ Hoa Kỳ, ba nguời giã từ Surat rồi đáp máy bay đi Kuala Lumpur.
Rồi từ Kuala Lumpur ba người lại đáp máy bay đi thị trấn Terengganu nằm ở
đông bộ Mã Lai. Chờ đợi ở đây một ngày, ba người được một giới chức Mã
Lai huớng dẫn xuống con tàu Blue Dart là con tàu duy nhất chở thực phẩm,
tiếp tế cho đồng bào tỵ nạn trên Đảo Bi Ðông.
Trên đường trở về đảo cũ, Thi Thi không nén đuợc xúc động. Nàng luôn
miệng kể cho mẹ và Peter nghe đoạn đường luân lạc mà nàng đã trải qua.
Khi ba người đặt chân lên đảo thì trời đã về chiều, cơn nóng nhiệt đới
đã giảm dần và bầu không khí dìu dịu. Nhìn những em bé gái mười một,
mười hai tuổi tức tuổi của Thi Thi cách đây chín năm đang xếp hàng lấy
nuớc, đang đứng ngơ ngác hoặc lấy tay vẫy khi có phái đoàn lạ viếng thăm
đảo, Thi Thi không cầm được nước mắt vì biết đâu trong số này chẳng có
những em mà cha mẹ đã bị hải tặc bắt đi. Cứ từng chặng, nàng lại chạy
tới ôm hôn mấy em bé và cho các em kẹo. Sau chín năm nhà cửa trên đảo Bi
Ðông đã tiều tụy đi nhiều nhưng Thi Thi vẫn còn nhớ con đường dẫn ra
nghĩa trang nằm trên một mỏm núi nhìn xuống bãi biển. Khi tiến tới trước
một nấm mồ, sau khi quan sát kỹ Thi Thi nói với mẹ:
– Ðây là mộ ba!
Khi Thi Thi vừa nói dứt câu thì Peter lanh lẹ đặt lên đó một bó hoa
mà ba người đã mua ở chợ Terengganu, còn mẹ của Thi Thi thì quỳ xuống và
bà gục mặt khóc trước nấm mồ. Không sao kiềm chế được xúc động, Thi Thi
cũng vừa ôm chặt lấy mẹ vừa bật khóc. Trước giờ phút linh thiêng này
Peter cũng lặng lẽ quỳ xuống bên cạnh hai người.
Không hiểu thời gian qua đi đã bao lâu. Khi cơn xúc động đã dịu dần,
Thi Thi dìu mẹ đứng dậy. Giờ đây đảo Bi Ðông đã về chiều và những cơn
gió mát rượi từ ngoài khơi lồng lộng thổi về. Trong khi mẹ Thi Thi đang
lo nhổ mấy ngọn cỏ dại và đắp lại mấy vỏ ốc đắp trên nấm mồ đã bị mưa
gió làm trôi đi, Thi Thi sau một ít phút tư lự, nàng nhìn vào đôi mắt
Peter nói:
– Giờ đây bao nhiêu hiểm nguy đã qua. Anh có muốn cùng em về để phụng dưỡng mẹ già không?
Trước đề nghị quá bất ngờ của Thi Thi, mặt Peter từ từ sáng rỡ lên như một đứa trẻ rồi chàng nắm chặt lấy tay Thi Thi nói:
– Ðó là niềm khao khát, là giấc mơ của anh. Em đã làm tròn bổn phận
với cha mẹ. Anh rất sung sướng được sống suốt đời bên người con gái hiếu
thảo như em!
Nói xong chàng ôm chặt lấy Thi Thi. Giây lát sau chàng xoay người Thi Thi ra mé biển rồi xúc động nói tiếp:
– Anh xin cám ơn em! Qua chuyến đi này anh đã học được một bài học mà
không một sách vở nào có thể nói hết đó là: chính khổ đau chứ không
phải hạnh phúc đã làm cho tình cảm con người lớn lên. Chính thảm kịch
Biển Ðông kia đã là một thử thách về nhân cách của con người. Cuối cùng
thì nhân cách của con người đã thắng Thi Thi ạ!
* * *
Trên con đường từ khu nghĩa trang quay trở về, mẹ Thi Thi đi trước
rồi Thi Thi và Peter theo sau. Gió chiều vẫn thổi lồng lộng và mặt biển
lấp lánh như một hồ nước đẹp tuyệt trần. Nó trông tựa như một vòm sân
khấu diễm lệ mà tất cả mọi vở kịch vui buồn có thể trình diễn trên đó.
Xa xa một vài con thuyền nhỏ nổi bật trên mặt nước xanh thẳm. Có thể đó
là chiếc du thuyền chở một cặp tình nhân trong thời kỳ trăng mật. Ðó
cũng có thể là một con tàu đang chộn rộn đánh cá để mưu sinh. Và sau hết
nó cũng có thể là con tàu tỵ nạn đang liều chết tiến vào đây để tìm nơi
nương náu, để tìm chút tình thương nơi hòn đảo nhỏ bé này.
Đào Văn Bình |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 09/Feb/2020 lúc 9:45am | |
Bạn Ơi ! Tao về chiến địa năm xưa Mày- tao giã biệt người thương Mong khi chiến cuộc hết rồi Ấy nhưng bom đạn vô tình: Chiến tranh kết thúc lâu rồi Dẫu rằng biết đã hy sinh Mẹ mày chỉ mỗi ước ao |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 22149 |
Gởi ngày: 10/Feb/2020 lúc 1:31pm | |
HÔM NAY CON GÁI VỀ ĐẾN NHÀ..
Tháng 4-1975 xao xuyến hoang mang trước một trang sách mới
lật qua. Hoang mang sớm được trả lời bằng lệnh tập trung vào trại cải tạo.
Những người chủ mới không coi chúng tôi là tù hàng binh mà là những người cần
được cải tạo, và như thế tôi có mặt ở một trại vốn là sân bay dã chiến của một
sư đoàn Mỹ tại cửa ngõ phía tây Sài Gòn. Lúc ấy tôi đang là giáo chức biệt
phái- giáo chức bị động viên sau một thời gian mặc áo lính được trả về nghề cũ.
Một buổi
sáng năm 1977 trong trại cải tạo, như thường lệ cùng anh bạn khiêng một bội rau
muống cao như đống rơm nhỏ cắt ngoài bãi hoang lên cân ở phòng hậu cần. Đó là
công việc thường nhật của tôi, một công việc cũng nhẹ nhàng, sau đó gánh 20 đôi
nước tắm cho bầy heo cao điểm tới cả trăm con. Gánh nước từ ao sâu leo nhiều
bậc thang lên được tới nơi cũng ná thở nhưng rồi cũng quen, thành một trò giải
trí cho quên ngày tháng cũng khá hay. Ở đây người ta có bán rau cho dân bên
ngoài vào mua một ít, vì vậy thường ngày vẫn gặp mấy cô giáo vốn cũng là chỗ
quen biết nhưng giờ là khách hàng và theo quy định, hai bên không được trò
chuyện với nhau nên chỉ chào nhau bằng mắt.
Nhưng sáng
hôm ấy, hai cô giáo một cô ở gần nhà, cô kia là đồng nghiệp tại trường trước
lúc vào trại, trong lúc chờ cân rau họ nói gì với nhau có vẻ lấm lét rồi nhìn
đi chỗ khác lạnh lùng như chỉ muốn mua vội rồi về. Dưới mắt nhiều người thời
tranh tối tranh sáng đó, những người đi cải tạo đang có vấn đề về quyền công
dân, cần được cách ly để xóa đi dấu vết một thời đã cũ. Và vì thế có nhiều
người quen cũ khi thấy chúng tôi đi lao động bên ngoài đã giả bộ không thấy, có
thể vì nhút nhát mà cũng không ít người đi vào cái hành lang đúng-sai,
thắng-bại kia. Buổi giao thời mọi thứ chưa lắng đọng dễ có những con người mất
cái tôi như thế. Cũng không buồn lắm, vì tự coi đó là một cái giá phải trả thật
sòng phẳng không mang nợ ai. Tuy là nghĩ thế nhưng trong lòng suốt cả buổi cứ
băn khoăn một điều chi đó về khuôn mặt xa lạ của hai cô giáo lúc sáng.
Suốt buổi trưa
lòng bồn chồn một cảm giác bất an, và cho đến cuối chiều người cán bộ mời lên
văn phòng. Thường thì những chuyện “mời” như thế này là triệu bất tường có liên
quan đến lý lịch còn điều gì đó không khai ra, đến mức độ bị đánh giá, có thể
sẽ chuyển đi một trại khác. Đã có người ghi trong tờ khai là SQTB (sĩ quan trừ
bị) bị đọc thành…sĩ quan tình báo và anh bạn được chuyển đến trại dành cho hệ
này tất nhiên ở rất xa và ngày về cũng xa hơn mà không hiểu vì sao! Nghĩ thế
nhưng cũng chẳng còn cách nào khác hơn là bình tĩnh lên văn phòng và phó thác
cho chuyện gì sẽ đến. Và chuyện bồn chồn, bất an, thắc thỏm đã có câu trả lời.
Người cán bộ quản giáo ngập ngừng nói, ở nhà có một đứa con mới chết, trại cấp
5 ngày phép về lo chuyện nhà. Một cái thở dài nẫu ruột, không biết là cho số
mệnh, cho thân phận hay là cho một cái gì khác. Có điều là, trong bốn đứa con,
đứa đầu mới 7 tuổi, bất thình lình linh cảm báo cho biết đứa bất hạnh là Cao
Thoại Chi lúc ấy mới lên 3.
Tới
nhà, trong ánh điện vàng vọt mở tấm vải ra thì đúng là con bé ấy đang nằm trên
bàn viết của bố! Đó là đứa bé nhu mì, dịu dàng, khuôn mặt đầy đặn phảng phất
buồn dù rất khỏe mạnh hơn các anh chị của nó. Cũng là đứa duy nhất được đặt tên
Cao Thoại như thể gửi gắm một phần đời bố vào đời đó, cái phần gửi gắm đó không
ngờ lại là hạt gieo ra mà không mọc nổi thành cây... Nhìn đứa con nằm đó, không
còn khóc nổi nhưng đầy nghẹn tắc, cảm như một phần đời của mình đã tắt lịm. Người
hàng xóm chạy xe lôi lặng lẽ lo cho tôi mọi chuyện, không biết anh ta tìm đâu
được mấy tấm ván mang sang đóng cho con tôi một cái hòm xinh xắn. Cũng chính
anh chở con tôi đi và an tang nó. Lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là tiếng búa gõ
trên nắp quan tài! Đó là lúc tôi gặp chuyện thật xui xẻo. Bốn đứa con
cùng bị sốt xuất huyết một lúc, vào nhà thương tỉnh họ chuyển lên Sài Gòn, cùng
đi nhưng có một đứa quay lại nhà ngay khi tới bệnh viện.
Hôm
nay, con về ở cạnh ông bà nội với một chút tro bụi thiêng liêng gói ghém một
phận người chưa thành ra một kiếp. Hết một quãng thời gian dài đằng đẵng con
mới về nhà! Về và yên ổn, ấm áp trong lòng của người cha cả đời không nhiều
những niềm vui, hết buồn nọ chồng lên phiền muộn kia! Một cái lọ nhỏ xíu, vài
nắm đất cùng xương thịt không còn nhận ra sự khác biệt, nhưng không sao vì dù
thế nào thì đất ấy trong bao nhiêu năm đã ấp ủ con gái, nó cũng là xương thịt
của con vậy.
Bàn máy - nơi hàng ngày bố
ngồi để chu du trong cõi phù sinh - và bàn thờ - chỗ con ở - cách nhau
chỉ một sải tay, một cái ngước nhìn lên của bố mong sao gặp được cái cúi nhìn
xuống của con gái. Mọi cái chết nào rồi cũng phai theo thời gian, trừ cái chết
của những đứa trẻ chưa được hạnh phúc là ý thức được kiếp làm người! Cũng về
đây và chẳng bao giờ phai là nỗi đau bất lực va chút lòng kiêu hãnh bị tổn
thương nặng của một người cha không bảo vệ được mạng sống con mình!
ĐÓN CON VỀ
Con đã hiểu lòng ta không sức mạnh Chỉ là mây có ở trên trời Chút gió lang thang ngoài đồng nội Cánh buồm không có lối ra khơi Chiếc lá lạc trong mùa thu rực rỡ Là cánh chim ê mỏi giữa hoàng hôn Dăm tiếng lỡ rơi trong khuya khoắt Khi vui nhọn sắc những khi buồn Con đã biết đường về xa thăm thẳm Nắng nào không tắt buổi chiều tan Một đời đan xen tan và họp Mộ là hồn người hoa nở những bông hoang! Hôm nay lòng ta không đóng cửa Đón con về như đón một bài thơ Tự đâu đó chim bay về chim hót Ý nổi chìm trong góc khuất tâm tư Lòng đã nhủ phải vui ngày hội ngộ Phải mềm lòng nhận một bông hoa Mà bất giác cay sè trên mắt Nỗi đau chờ sẵn tự bao giờ Đây là trái tim bao lần đỏ lửa Cuộc nhân sinh mang nặng trên vai Những nghịch lý và hơn thế nữa Trao cho con thân phận làm người Con gái về, lòng không quạnh quẽ Đèn không đổ bóng cõi trời xa Ta cũng trả gió mưa một thời mưa gió
Vào
thơ ta, con gái bước vào nhà! Cao Thoại Châu |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
<< phần trước Trang of 93 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |