Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 90 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Nov/2018 lúc 7:26am

Trốn Trại

Tác Giả: Nguyễn Ngọc Thạch, K20 VBĐL

tron%20traiSau khi đọc xong truyện nầy - bạn nào đang lảnh tiền của Mỹ mà vẫn chưởi Mỹ thì xin vui lòng cuốn gói về VN để sống chung với bọn  cộng sản, nên nhường chỗ nầy cho những người khao khát tự do như tác giả của bài viết nầy....


Sau khi ở tù cải tạo đuợc 5 năm, khi tôi đang ở trại Suối Máu Biên Hòa, thì có một số tù được đưa lên trại Tống Lê Chân gần An Lộc Bình Long. Tôi mừng thầm là nếu đưa tôi lên Tống Lê Chân thì tôi có rất nhiều hy vọng để trốn trại, vì tôi biết rất rõ vùng đất này. Đơn vị đầu tiên khi tôi mới ra trường là Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 5 Bộ Binh đóng gần sân bay An Lộc Bình Long. Và trong suốt thời gian phục vụ từ cấp Trung đội lên đến cấp Trung đoàn tôi vẫn ở trong vùng rừng xanh đất đỏ này.

Giữa tháng 5 năm 1980, họ chuyển tôi từ trại Suối Máu Biên Hòa lên trại Tống Lê Chân. Đây là một trại tù ở giữa rừng, gồm các dãy nhà tranh với mấy lớp hàng rào kẻm gai bên ngoài và một lớp hàng rào tre bao bọc bên trong che kín, không nhìn thấy đuợc bên ngoài. Ở bốn góc và ngay cổng ra vào là các chòi canh đuợc trí súng đại liên. Sau khi lên đến trại Tống Lê Chân, chúng tôi liền nghiên cứu ngay kế hoạch để trốn, vì phải trốn càng sớm càng tốt.

Khi ở trại Suối Máu Biên Hòa tôi có lượm được một cục nam châm hình trụ to bằng đầu ngón tay. Theo nguyên tắc của địa bàn thì khi một thanh nam châm đuợc treo trên sợi chỉ, đuợc quay tự do thì một đầu luôn luôn chỉ về huớng Bắc, còn đầu kia là hướng Nam. Vì hai đầu giống nhau nên tôi phải dùng dầu hắc nhựa đường để làm dấu đầu huớng Bắc.

Trong thời gian ở tù chung nhau qua các trại, tôi có quen thân và hay tâm sự với Thu, một nguời cùng thuộc Sư đoàn 5 Bộ Binh truớc đây và có cùng chung một quyết tâm là sẽ cùng nhau trốn trại khi có dịp. Thu cũng cho biết là có thêm một nguời bạn nữa cũng muốn nhập bọn đó là Bình. Bình là một người rất tháo vát, lanh lợi và đã từng đổ đầu khóa học “Rừng Núi Sình Lầy” ở trường Biệt Động Quân Dục Mỹ, Nha Trang. Bình đã làm đuợc một cái kềm để cắt kẻm gai. Kềm này làm bằng hai quai xách của cuộn kẻm gai concertina, hai quai xách này bằng thép rất cứng. Khi một đầu đuợc đập dẹp, mủi mài nhọn và đục lổ, thì trông giống như luởi dao. Nhưng khi hai cái luởi dao ghép chập vào nhau và dùng một cây đinh làm trục xỏ xuyên qua hai lổ, thì biến thành một cái kềm để cắt kẽm gai.

Để chuẩn bị cho việc trốn trại, mỗi nguời may một túi vải nhỏ bằng loại vải ngụy trang để đựng đồ mang theo như lon guigoz, mì gói, gạo muối v.v…Mỗi nguời mang theo một bộ đồ thật tốt, quần tây áo sơ mi bỏ trong bọc nylon thật kín cho khỏi ướt, để bên trong áo truớc ngực, mặc đồ trận áo lính cũ bên ngoài. Ngoài ra tôi còn may thêm một cái túi vải nhỏ để cất giữ cái địa bàn, có dây choàng qua cổ để khỏi rớt mất. Mỗi lần đo là tôi rút một sợi chỉ từ lai áo trận và nhờ tôi có làm dấu đầu huớng Bắc bằng dầu hắc nhựa đường nên tôi sờ vào là biết để đi cả ban đêm. Chúng tôi phải kiểm soát lẫn nhau cho thật kỹ, quần áo mặc, túi vải, đồ đạc mang theo tất cả đều phải đuợc ngụy trang cho tiệp với màu cây lá trong rừng và không được gây ra tiếng động chạm nào. Ngoài ra chúng tôi còn sắp đặt những gì sẽ bỏ lại, thật ít đồ bỏ lại, cố ý ngụy tạo như là có ý định sẽ đi xa, tức là sẽ đi về huớng Bắc để qua biên giới Kampuchia.

Buổi chiều hôm đó tôi và Thu cùng ăn chung nhau, đem tất cả những gì ngon đem ra ăn, ngốn cho thật đầy bụng để lấy sức tối đi. Tất cả đồ còn lại đem cho hết hoặc chôn dấu. Thu đem cả túi balô quần áo cho bạn bè. Tôi có cho một nguời bạn cùng khóa là Lương Văn Thìn mấy gói mì, mà bạn tôi không hiểu tại sao, tuyệt nhiên tôi không có đá động gì tới chuyện trốn trại.

Suốt trong ba tuần lễ liền, Thu đã phải theo dỏi thật kỹ các toán tuần tra canh gác, giờ nào đi tuần, giờ nào đổi gác v.v…Sau cùng chúng tôi đã đi đến quyết định giờ xuất phát là 9 giờ tối, khi máy phát điện vừa tắt thì bắt đầu chui ra. Ở đây mỗi tối có máy phát điện cho công an coi truyền hình, đến 9 giờ thì tắt. Sau đó họ về sửa soạn độ 15 phút sau là bắt đầu đi tuần. Và theo như chúng tôi dự tính là phải mất 10 phút để cắt kẻm gai và 5 phút chót phải bò thật nhanh qua con đuờng tuần tra là khoảng đất trống bên ngoài. Địa điểm thuận lợi nhứt để chui ra là khoảng giữa hai chòi canh phía sau trại. Ban đêm họ đứng gác trên chòi canh cao nên không thể thấy rõ ở dưới đất đuợc, theo đúng nguyên tắc canh gác ban đêm là phải ở dưới thấp. Còn ngày đi thì chúng tôi chọn vào cuối tuần trăng, để khi chui ra thì trời còn tối, đến nửa đem trăng lên dễ thấy đường để đi. Chúng tôi chọn đêm 22 ta, âm lịch, vì tin dị đoan sợ đêm 23 ta là không tốt.

Đúng 8 giờ rưởi tối đêm 22 tháng 4 âm lịch tức là ngày 3 tháng 6 năm 1980, chúng tôi bắt đầu theo đúng kế hoạch ra ngồi ngoài cầu tiêu, để chuẩn bị cắt dây lạt của lớp hàng rào tre truớc, để đến đúng 9 giờ khi máy phát điện vừa tắt là chui ngay. Nhưng không ngờ khi đó chúng tôi thấy ở ngoài suối có ánh đèn của công an đang đi bắt cá ở duới suối, nên chúng tôi phải ngưng lại ngay và trở vô ngủ như thuờng lệ.

Qua đêm hôm sau bắt buộc là phải đi chớ không thể nào chần chờ được nữa, vì sợ nếu để lâu dể bị bại lộ. Lần này cũng đúng 8 giờ rưởi là ra cầu tiêu, vì cầu tiêu là chổ tốt nhứt để tới sát hàng rào mà không ai để ý. Bình bắt đầu cắt dây lạt của lớp hàng rào tre và cố vạch ra một lỗ để sẳn sàng chui ra. Lớp hàng rào tre này đuợc chôn sâu duới đất và sát khít nhau bằng hai lớp tre đan chéo vào nhau dầy đặc. Vì vậy rất khó gở ra, phải đào sâu xuống đất mới vạch ra một lỗ vừa chui và phải làm thật chậm thật kỹ vì sợ ở chòi canh nó có thể thấy lúc lắc ở đầu ngọn tre. Khi máy phát điện vừa tắt bầu trời chụp tối đen là lúc chúng tôi bắt đầu chui, thì bất ngờ có hai người đợi chui trốn theo. Thật hết sức bất ngờ và không thể nào từ chối đuợc nên chúng tôi đành phải lo bảo bọc nhau cùng trốn. Bình chui ra trước là để cắt kẻm gai rồi đến tôi chui kế, tiếp theo là hai người trốn chui theo và Thu là người chui sau cùng.

Sau khi chui ra khỏi lớp hàng rào tre thì gặp lớp hàng rào kẻm gai thứ nhứt. Nhưng phía dưới lớp hàng rào kẻm gai này là rãnh thoát nước với đất bùn sình hôi thúi, nên chui lòn qua được mà khỏi phải cắt. Đến lớp hàng rào kẻm gai thứ hai thì Bình bắt đầu cắt. Hàng rào kẻm gai của VC rào thì họ có quá nhiều kinh nghiệm cho nên họ cho rào rất kỹ. Họ bắt phải đào một cái rảnh sâu xuống đất rồi mới trồng cột sắt lên và rào kẻm gai ngay từ phía dưới rào lên, rồi lấp đất lại, nên không có cách nào vén lên để chui lòn qua được, mà chỉ có cách duy nhứt là phải cắt thì mới chui ra đuợc. Mà cái kềm cắt kẻm gai của Bình biến chế nên không cắt dễ dàng nhanh chóng được. Khi đang nằm chờ trong đám cỏ tranh giữa mấy lớp hàng rào với quần áo đầy bùn sình hôi thúi, tôi nhìn lên bầu trời đầy sao, cảm thấy như bình tâm chấp nhận những gì đến sẽ đến, vì không còn cách nào hơn để lựa chọn được nữa.
Bình cắt xong hàng rào này cũng mất 5 phút mới qua được và còn một lớp sau cùng cũng mất 5 phút nữa. Và cuối cùng chúng tôi chui qua đuợc hết và phải bò thật nhanh, chỉ dùng cùi chỏ và đầu gối bò thật sát mặt đất như bò hỏa lực, vuợt thật nhanh qua khoảng đất trống, rồi trườn mình xuống suối. Lúc đó tôi có cảm giác như tim tôi đập quá mạnh như muốn vỡ lồng ngực. Tiếng thở dồn dập hổn hển mà tôi nghe rất rõ, và gợn lên sóng nước khi ngâm mình trong nước để lội qua suối.

Qua bên kia bờ suối chúng tôi phải bám theo rể cây để leo lên vì lòng suối sâu hẳm. Lên khỏi suối là băng mình qua đám rừng tre, rồi băng qua con đường mòn. Con đường mòn này đi ra chuồng bò nên chúng tôi phải tránh xa nơi đây gấp vì sợ có nguời lui tới. Bất ngờ Thu bị lọt xuống một hố sâu có lẽ là hố rác, tụi tôi phụ nhau kéo Thu lên. Vừa lên xong là đâm đầu chạy vô phía rừng rậm.

Không bao lâu sau, bỗng nghe tiếng súng đại liên từ các chòi canh nỗ ran trời và sau đó là những tiếng quát tháo hò hét của đám công an chạy túa ra về phía chúng tôi, càng lúc nghe càng gần. Tiếng lên đạn súng AK47 nghe rớp rớp, tiếng hò hét vang động khắp nơi, tiếng chửi rủa hăm dọa “địt mẹ ra đi không tao bắn chết mẹ hết bây giờ”, nghe rất gần ở ngoài con đường mòn mà chúng tôi vừa mới chạy qua. Vì vậy chúng tôi hết đường chạy, sợ chạy sẽ gây ra tiếng động dễ bị lộ, nên 5 đứa tụi tôi đành phải chui vô một bụi rậm, nằm rút trong đó. Sau này được biết là sau khi chúng tôi chui ra khỏi hàng rào, thì lại có người chui trốn theo, nên bị phát giác bị bắt và bị đánh chết tại hàng rào và họ liền truy đuổi theo để bắt chúng tôi.

Chúng tôi cố nằm yên không động đậy. Một lúc sau nghe tiếng máy điện chạy trở lại và nghe tiếng lào xào ở trong trại, chắc là VC đang ra lệnh tập hợp điểm danh. Một hồi lâu sau thấy yên tịnh, không hiểu là họ vẫn còn lục soát hay ngồi núp rình đâu đó hay là đã đi chổ khác. Nhưng trong lúc đó chúng tôi quyết định là phải bò đi vì không thể chần chờ ở đây lâu đuợc.

Chúng tôi 5 đứa bắt đầu bò đi thật chậm, hai tay rồi lại hai chân, đưa lên đặt xuống thật nhẹ nhàng, nếu lở có một tiếng động nhỏ như tiếng lá cây kêu sột soạt hay một tiếng cành cây gãy là ngưng lại ngay nghe ngóng rồi mới bò tiếp. Bò đuợc một lúc lâu chừng một tiếng đồng hồ, tôi nghi là chưa đi được bao nhiêu, chân tôi bị đứt ngang ở ống quyển máu ra ướt xuống tới vớ, tôi rờ thấy ướt mới biết, nhưng cũng chẳng thấy đau đớn gì. Sau đó chúng tôi bắt đầu đứng dậy để đi cho nhanh ra khỏi chổ này, nhưng vẫn đi hết sức thật cẩn thận, bước đi thật nhẹ nhàng im lặng. Tôi lấy thẳng hướng Nam mà đi, đi ngược với hướng Bắc là hướng qua biên giới. Chúng tôi giữ đúng hướng, không đi theo đường mòn hay chổ trống, bất kể là băng qua các đám ôrô dưới suối hay bụi lùm gai góc. Và càng lúc nghe tiếng máy điện ở phía sau lưng càng nhỏ dần.

Khi đó nghe có tiếng xe molotova, loại xe chở quân của VC, chạy đổ ra tứ phía. Chúng tôi phải đi chậm lại, sửa soạn đồ đạc cho thật gọn gàng, tuyệt đối không đuợc gây tiếng động và phải quan sát cho thật kỹ. Mỗi người nhìn một hướng, khi đến chổ trống hay gặp đường mòn là dừng lại lủi ngay vô bụi rậm gần nhứt rồi từ từ quan sát sau. Có nhiều lúc gặp họ đang đi bằng xe đạp, chạy ngang qua rất gần mà họ không thấy. Mỗi khi muốn băng qua đường mòn hay trảng trống, chúng tôi dừng lại nghe ngóng quan sát rất kỹ rồi mới chạy nhanh qua từng người một. Bỗng đâu có một tốp người Thượng, vợ chồng con cái vừa đi vừa nói chuyện lào xào, nên chúng tôi lủi tránh kịp thời.

Lúc trời sáng hẳn chúng tôi đổi hướng đi về phía Đông tức là hướng ra quốc lộ 13. Đi trong rừng hoang vắng nhưng thỉnh thoảng nghe có tiếng đốn cây chặt củi, chúng tôi phải tránh xa ra. Đi tới chiều thì gặp con đường lộ đá đỏ, đó là đường vô Minh Thạnh. Chúng tôi chuẫn bị kỹ rồi băng qua đường cho thật nhanh và lủi vô sâu trong rừng một khoảng xa rồi dừng lại nghỉ. Chúng tôi lựa chổ kín đáo để dừng lại nghỉ, bởi vì từ đêm tới giờ gần một ngày tròn đã đem hết sức lực để cố vượt thoát xa vùng nguy hiểm, nên bây giờ thấy thấm mệt, nhứt là vấn đề nước uống rất là khan hiếm. Tôi mang theo lon guigoz đựng nước uống nhưng đã bị đỗ mất hết vì nắp đậy của lon guigoz không kín chắc, giờ thấy khát rát cổ họng. May sao Bình tìm được một giếng nước bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, nhìn xuống giếng tối om không thấy nước, nhưng khi thòng lon guigoz xuống, múc lên được những lon nước thật trong veo, uống thật ngon thật đã, nhờ đó chúng tôi ăn mì gói với nước lạnh. Xong rồi lấy thêm đầy nước rồi đi ngay, tiếp tục lấy hướng Đông để ra Quốc lộ 13.

Trời bắt đầu tối, nhưng khi tiếp tục đi thì nghe có nhiều tiếng súng trong rừng, chắc có lẻ là họ đi săn, mà cũng có thể là bọn công an, vì vậy chúng tôi phải dừng lại để tìm cách lẫn tránh. Chúng tôi ra giữa đám trảng tranh lớn cao quá ngang đầu, vạch đuờng ra ở giữa đám tranh, trải một tấm nylon để nằm nghỉ lưng và canh chừng mọi động tĩnh chung quanh. Nếu có người đi tới thì chúng tôi sẽ thấy dễ dàng để tìm đường lẫn tránh, nhưng nguợc lại họ sẽ không thấy chúng tôi đuợc vì tranh cao quá khỏi đầu. Khi đó hỏi chuyện nhau mới biết tên hai người đi chui theo, đó là Tường phi công phản lực A37 và một người nữa tên là Thạch, hình như là người Việt gốc Hoa, tôi không biết đơn vị, cả hai anh đều mang dép nên rất khó đi.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đường sau khi xóa mọi dấu vết. Khi đi thỉnh thoảng gặp các bẩy của người Thuợng rất là nguy hiểm, như bẩy cò ke, nếu vướng chân vào thì cần bật sẽ bung lên rất là mạnh, có thể làm bị thương, hay bẩy bắn tên khi đụng vào cần bật thì bao nhiêu mủi tên tẫm thuốc độc sẽ bắn xuống. Vì vậy khi thấy khả nghi là phải dừng lại xem xét cho thật kỹ rồi tránh xa ra. Chúng tôi rất khát nước vì đi cả ngày mồ hôi ra nhiều mà không có miếng nước uống nên khát dữ lắm. Gặp một cây nói là trái gấm, Bình leo lên hái xuống ăn thử, vừa ngứa miệng, vừa khát nước thêm. Có lần gặp được nước đọng trong các lằn bánh xe bò và trên những lá cây khô còn đọng nước của những trận mưa trước, chúng tôi góp nhặt lại hớp những giọt nước đó cho đở khát.

Đến chiều thì trong lúc đang đi bất chợt gặp một em bé trai độ 11, 12 tuổi đang lang thang trong rừng. Chúng tôi giả dạng như là cán bộ đi khảo sát địa chất và hỏi em bé ở đâu có suối, thì em bé đó chỉ về hướng trước mặt, đi thêm vài chục thước là thấy suối, một con suối rất lớn. Nhìn ở phía xa kia là một khu rừng đã được phát quang và có các cây to bị đốt cháy nám đen, một đám người đang cuốc đất làm rẩy, chắc là dân vùng kinh tế mới. Chúng tôi lội xuống suối uống một bụng nước thật no nê. Sau đó chúng tôi tìm chổ bụi lùm kín đáo để nấu cơm, nấu bằng lon guigoz, hai đứa thay phiên nhau quạt để khói đừng bốc lên cao. Chúng tôi ăn bữa cơm này thật là ngon, ăn cơm nóng với bột ngọt trong gói mì.

Sau khi ăn xong, trời đã xế chiều, chúng tôi thấy đoàn người làm rẫy đi về nhà đi theo hướng Đông, như vậy là ra Quốc lộ 13, nên chúng tôi đợi cho họ đi hết rồi mới men theo con đường mòn đó để đi cho nhanh. Đi độ chừng một tiếng đồng hồ thì ra tới ấp, tôi đoán chừng là vùng Tân Khai hay Tàu Ô, nằm cạnh Quốc lộ 13. Thấp thoáng nhìn từ xa thì thấy có lớp hàng rào tre bao bọc, và hình như có cổng ra vào, giống nhu một trại tập trung, nên chúng tôi không dám đến gần và cũng không muốn vô đó làm gì.

Sau khi trời sụp tối thì chúng tôi tiếp tục đi, chúng tôi dự định đi trong bìa rừng theo đường rầy xe lửa Sài Gòn – Lộc Ninh nằm song song với Quốc lộ 13 để đi, dự định sẽ đi qua khỏi quận Chơn Thành, rồi mới ra đường đón xe. Riêng hai người trốn theo là Tường và Thạch thì không dám đi nữa, mà họ có cho địa chỉ nếu ai về được đến Sài Gòn thì nhắn dùm gia đinh họ lên đón. Chúng tôi ba đứa đi lần mò trong đêm và vì trời tối quá nên không đi được bao xa, mà đành phải dừng lại nghỉ qua đêm.

Sáng sớm hôm sau lên đường đi tiếp, đi cho đến trưa thì dừng lại nghỉ bên cạnh một cái ao nhỏ xung quanh có cây cối um tùm, dễ ẩn náo để nấu cơm ăn. Xong rồi lại đi tiếp, đến chiều chạng vạng tối thì đến một cái ấp khác, một xóm nhà lô nhô ngoài gần quốc lộ, chúng tôi ở bìa rừng trốn trong hầm hố cũ đuợc che phủ bởi những lùm tre rất kín đáo. Buổi chiều dân trong làng đi lao động về, họ đi ngang qua khá gần chổ chúng tôi đang trốn, tiếng chó sủa dữ dội nhưng họ không để ý mà chỉ lo đi cho mau về nhà.

Chiều hôm đó nằm nghe tiếng chó sủa, tiếng trẻ con đùa giỡn trên đường, nhìn khói lam chiều từ một mái nhà tranh quyện bay lên không trung mà lòng tôi cảm thấy buồn vô hạn. Chạnh lòng nhớ đến vợ con, thầm nghĩ đến một mái ấm gia đình bên vợ hiền con thơ mà tôi uớc mơ được như họ. Được sống đầm ấm trong một căn nhà tranh vách đất ở một miền thôn quê rừng núi nào đó. Nhưng nghĩ lại thân phận tôi là một người tù trốn trại, tương lai rất mờ mịt, không biết ngày mai sẽ ra sao. Một uớc muốn tầm thường, được làm một người dân bình thường để sống mà lo cho gia đình nuôi vợ nuôi con cũng không được. Tôi buồn cho thân phận bơ vơ lạc lõng của tôi trong cái xã hội mới này. Hoàn cảnh của tôi thật đúng với câu “nước mất nhà tan, gia đình ly tán”.

Đêm đó chúng tôi khát nước vô cùng, cồn cào lên cổ họng. Bình với ý định lẻn vô nhà dân để xin nước uống, nhưng tôi với Thu cản lại, vì bao công trình giờ rủi ro vô gặp phải nhà của công an thì nguy khốn, đành chịu nhịn khát qua đêm. Nhưng không ngờ đến khoảng nửa đêm thì trời đỗ xuống một trận mưa thật lớn. Chúng tôi mừng quá lấy tấm nylon ra căng để hứng nước uống. Uống no bụng xong rồi, đỗ đầy vô lon guigoz mà trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng lớn. Chúng tôi bị lạnh quá phải ôm lấy nhau trên đầu phủ tấm nylon và mỗi đứa phải lo ôm thật chặt bộ quần áo tốt ở trong bọc nylon, ôm kỹ ở trước ngực để giữ cho khô. Trận mưa này thật lớn thật lâu sau cùng rồi cũng dứt hẳn. Vì không thể đi tiếp trong rừng cho đến quận Chơn Thành, vì đường còn xa mà đường rầy xe lửa thì không còn nguyên như trước nữa, mà chỉ còn là những đám rừng tre che phủ um tùm rất là khó đi, chỉ có thể chui lòn dưới đám tre gai, cho nên chúng tôi quyết định là sẽ chia tay nhau ở đây, phân tán ra mỗi người tự tìm cách để đi về Sài Gòn rồi sẽ gặp lại nhau sau.

Trời hừng sáng chúng tôi thay bộ đồ thật tốt thật tươm tất, đồ đạc còn lại đem chôn dấu trong bụi, xong chờ cho đến khi nghe có tiếng xe chạy là lần lượt ra đường, lựa khoảng trống giữa hai nhà mà ra đón xe. Bình lên đường trước tiên, một lúc sau thì đến Thu, và tôi là người ra đường sau cùng. Khi bước ra quốc lộ 13 tôi lấy bình tỉnh đi men theo bên đường chờ đón xe. Tôi không thấy Bình đâu hết mà chỉ thấy Thu đang đi phía trước tôi một khoảng xa. Có chiếc xe Lam (xe ba bánh chở hành khách hiệu Lambretta) chạy trờ tới tôi liền đón để đi, vì xe đã đầy người nên tôi phải đeo theo xe đứng ở phía sau. Thu cũng lên đuợc chiếc xe đi trước tôi. Xe chạy qua cầu Tàu Ô và như vậy là đêm qua chúng tôi đã ngủ ở giửa khoảng Tàu Ô – Tân Khai. Trước kia, đây là đoạn đường nguy hiểm nhứt của quốc lộ máu mang số 13 và cũng chính nơi đây đã xảy ra những trận chiến vô cùng ác liệt, mà dấu vết các hầm hố còn lại rất nhiều, dọc theo bìa rừng trông ra quốc lộ.

Khi xe vô quận lỵ Chơn Thành tôi xuống xe ở đầu ấp Chơn Thành 2 để đi bộ vô, vì sợ vô tới bến xe sẽ gặp công an. Đi bộ dọc theo con đường vào quận lỵ, tôi nhớ lại các nơi mà ngày xưa quen biết như Trại cưa Lê Quang, Trại cưa Mai Chấn Hưng, Lò than ông Năm Thãnh, sau này ông Năm Thãnh cũng lập thêm trại cưa. Đi gần đến chợ là đến bến xe và tại ngả tư đường đi Đồng Xoài có một đồn cảnh sát hồi xưa, bây giờ là đồn công an Việt Cộng. Tôi dự định đi bộ ra khỏi quận lỵ rồi mới đón xe để đi Bình Dương. Tôi đi ngang qua dãy phố chợ mà ngày xưa có các tiệm ăn như Nghĩa Thành, Bạch Tuyết, nổi tiếng với món canh chua cá lóc, cá kho tộ. Đi ngang qua ngôi chùa, qua cây cầu là gần đến đầu quận lỵ. Tôi nhìn thấy Thu đang đi phía trước bỗng dưng đổi hướng qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhìn kỹ về phía trước phía bên phải thì thấy có một trạm kiểm soát nên tôi cũng đổi hướng qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhớ mài mại hình như đây là quán của bà Năm Chích, có cô con gái ra tiếp. Tôi kêu một ly cà phê, ngồi uống để quan sát coi trạm kiểm soát đó nó hoạt động như thế nào. Tôi thấy rõ hai thằng công an coi tù ở trong trại ra đây chận xét xe để nhìn mặt bắt chúng tôi, hai tên này đứng bên cạnh trạm kiểm soát tài nguyên. Mỗi khi xe đến đó, tài xế vô trình giấy tờ cho trạm kiểm soát tài nguyên ở bên trong, thì hai tên công an đứng bên ngoài đi ra lục soát xe.

Tôi đoán chắc là nó sẽ bố trí chận xét ở đây để bắt tù trốn trại, vì đây là quân lỵ gần nhất, mà muốn ra khỏi quận thì phải đi ngang qua trạm kiểm soát này. Nếu đi bằng xe đạp, xe thồ, mặc đồ như người đi làm cây làm củi trong rừng thì mới lọt qua được. Còn nếu bây giờ băng vô trong rừng để đi bọc qua thì cũng sợ gặp phải người lạ mặt họ dễ nghi ngờ, vì mình mặc đồ sạch sẽ tươm tất quá. Tôi còn đang phân vân không biết phải làm cách nào để qua khỏi trạm kiểm soát này, thì thấy Thu đi ngược trở lại, ngang qua chổ tôi. Thu trở lại bến xe để đón xe đi, còn Bình thì không còn thấy tâm dạng đâu hết, chắc là đã đi thoát rồi.

Tôi ngồi chờ một hồi thì thấy chiếc xe lô chạy trờ tới, tôi nhìn thấy Thu ngồi ở băng sau cùng. Xe tới trạm kiểm soát thì ngừng lại, trong khi nguời tài xế vô trình giấy tờ thì một tên công an đi ra nhìn vào xe, một lúc sau thì tài xế trở ra và nó cho xe chạy đi. Tôi mừng cho Thu đã thoát nạn, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi, tôi không còn biết cách nào khác hơn là trở lại bến xe để đón xe đi. Đây là chổ nguy hiểm nhứt mà tôi cố tránh nhưng không được nên đành phải liều mạng.

Khi vô bến xe thì thấy có một chiếc xe lô, loại xe nhỏ để chở khách, tôi thấy xe trống trơn chưa có ai, tôi lên ngồi băng sau cùng. Ngồi một lúc lâu thấy nóng ruột nên mới hỏi bác tài là xe chừng nào chạy, ông ta nói chờ khách lên đầy thì đi, mà thường là khách ở trong Minh Thạnh ra nhiều. Tôi hơi lo vì khách ở trong Minh Thạnh ra có thể là công an trong trại ra đi phép. Ngồi một hồi lâu thì chợt có một tốp người đi buôn than họ lên gần đầy. Bỗng tôi thấy có hai đứa nhỏ độ hơn mười tuổi tay cầm một con gà, tay xách một giỏ đồ, tôi liền nhanh miệng kêu hai em bé đó vô ngồi gần bên tôi và tôi phụ xách dùm đồ, làm như vậy thấy đở trống trải vì có hai em nhỏ che đở phần nào.

Khi xe chạy tới trạm kiểm soát thì dừng lại, bác tài vào trình giấy tờ trong trại kiểm soát tài nguyên. Tôi thấy một thằng công an, đứng bên cạnh trạm kiểm soát, bước ra để nhìn mặt người trên xe. Nó nhìn vào băng trước, trên đó có hai người ngồi, tôi nghe tiếng quát tháo của tên công an là hai người ngồi đằng truớc là “tại sao đầu tóc để dài bù xù như cao bồi du đảng, đâu đưa giấy tờ coi”. Sau khi coi xong giấy tờ hai người phía trước là nó liệng vô xe rồi ra lệnh cho đi một cách thật oai quyền. Cũng vừa lúc bác tài đã trở ra xe, bác tài liền rồ ga cho xe chạy đi, mà lòng tôi vui mừng khắp khởi vì vừa thoát được một trạm kiểm soát thật là vô cùng nguy hiểm.

Xe chạy qua khỏi Tham Rớt, Bầu Bàn, Bầu Lòng rồi đến quận Bến Cát, ở đây cũng có trạm kiểm soát nhưng là trạm kiểm soát tài nguyên nên không có gì trở ngại. Xe chạy về tới Chánh Hiệp Bình Dương, một trạm kiểm soát rất lớn, nơi cửa ngỏ vô thành phố nên xe đậu nối đuôi nhau rất dài. Chiếc xe tôi đi là xe nhỏ chở than lậu nên tài xế đã biết cách vô trình giấy tờ và nộp tiền mãi lộ là xong ngay. Xe đi tiếp vô thành phố vào đậu ở bến xe, tôi xuống xe cũng vẫn còn nắm tay hai em bé vô mua giấy xe để về Sài Gòn, vì hai em bé đó cũng về Sài Gòn. Tôi thấy người ta sắp thành hàng dài để chờ mua vé xe, tôi cũng sắp vô hàng chờ đợi. Nhưng khi tôi nhìn kỹ lại thì thấy mỗi nguời khi mua vé xe đều phải trình ra một thứ giấy tờ gì đó, hình như là giấy phép đi đường hay là giấy căn cước, mà trong mình tôi thì không có thứ giấy tờ nào nên tôi hơi sợ, nên mới nói với hai em nhỏ là cứ sắp hàng để mua vé về Sài Gòn trước đi còn tôi thì sẽ đi sau. Tôi bỏ ra ngoài tìm đường khác để đi, chớ khi mua vé họ hỏi đến giấy tờ là mình không biết trả lời ra sao, vì trong mình tôi không có thứ giấy tờ nào hết. Tôi vào quán nước kêu ly nước đá chanh vừa uống vừa quan sát để tính kế. Bỗng chợt thấy xe Honda ôm, tôi liền nghĩ ra phương cách hay nhứt để đi về Sài Gòn là bằng xe ôm. Tôi dự định là sẽ về nhà của chị Đồ ở Phú Thọ. Trong những lần đi thăm nuôi, vợ tôi thường đi chung với chị Đồ nên hai gia đinh rất thân nhau và trước khi trốn trại tôi có dọ hỏi anh Đồ địa chỉ nhà cho thật kỷ, thật đầy đủ chi tiết đường đi nước bước, làm sao vô nhà, đi vô ngỏ hẻm nào v.v….Tôi chỉ hỏi chơi chơi chứ không cho anh biết ý định trốn trại của tôi.

Anh lái xe ôm ra giá đi Sài Gòn là 50 đồng, tôi không có đủ tiền nhưng tôi nói với anh là đưa tôi về đến nhà tôi lấy tiền rồi trả sau. Sau khi bằng lòng giá cả anh ta mới đi đổ xăng và trở lại đón tôi. Trên đường đi tôi cũng nói thêm với anh là tôi vừa ở vùng kinh tế mới về, bị mất hết giấy tờ nên nhờ anh chạy làm sao để tránh các trạm kiểm soát. Anh ta nói là tụi công an nó chỉ xét coi có buôn đồ lậu, chứ như ông đi mình không, thì không có gì để xét thì đừng có lo. Tôi nghe mừng trong bụng và trong lúc đi đường tôi có hỏi chuyện thì anh có cho biết hồi trước anh là lính của Sư đoàn 5 Bộ Binh. Nghe biết vậy thôi chứ tôi cũng không có hỏi thêm gì về chuyện ngày trước. Xe chạy qua các trạm kiểm soát Búng, Lái Thiêu rồi Bình Triệu. Thấy xe kẹt đậu dài dài để chờ xét, còn xe Honda ôm này chạy qua hết mà không bị hỏi han gì và sau cùng vô Sài Gòn qua ngả cầu cư xá Thanh Đa rồi qua cầu Phan Thanh Giản và chạy trên đường Phan Thanh Giản để về Phú Thọ.

Nhìn quang cảnh thành phố Sài Gòn sau 5 năm trở lại, tôi cảm thấy như bơ vơ lạc lỏng, như lạc vào một thế giới nào xa lạ lắm. Đây không phải là thủ đô Sài Gòn năm xua, một thời đã từng đuợc mệnh danh là một “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nay tôi thấy trên đường toàn là xe đạp, mà người người trông lam lũ tả tơi, không cười không nói, với dáng vẻ buồn thiu ảm đạm, thật đúng với câu “người buồn mà cảnh có vui đâu bao giờ”.

Khi đến Phú Thọ, xe Honda chạy vào con hẻm nhỏ, một số con nít chạy theo. Khi xe vô đúng số nhà mà tôi đã học thuộc lòng, tôi gỏ cửa và chị Đồ ra mở cửa. Khi thấy tôi chị buột miệng la lên: “Ủa anh Thạch mới được thả về, còn ông Đồ của tôi đâu”. Tôi lật đật nói nhanh là tôi mới được thả về và xin muợn chị 50 đồng để trả tiền xe. Chị vô lấy tiền cho mượn ngay để trả tiền xe. Khi xe đi rồi và đám con nít đã tản đi hết rồi thì tôi mới nói thiệt với chị là tôi trốn trại và nhờ chị về báo tin cho vợ tôi hay. Chị hốt hoảng cho biết là mới vừa tuần trước đây thằng em trai của chị vừa mới vượt biên đã đi thoát được. Nhà chị đang bị công an phường khóm điều tra theo dõi, cho nên chị không dám chứa tôi trong nhà, mà bảo tôi ra ngoài đường đón xe autobus để ra bến xe Xa Cảng miền Tây, ở Phú Lâm, rồi sẽ tính sau. Truớc khi đi tôi còn hỏi muợn chị đôi giày, vì đôi giày tôi đang đi là loại giày đi rừng nên đi trong thành phố coi không tiện. Chị cho tôi muợn đôi giày sandal và còn đôi giày đi rừng của tôi thì chị nói là chị sẽ đem lên cho anh Đồ trong lần thăm nuôi tới.

Tôi ra khỏi hẻm ra ngoài đường thì thấy có một quán hủ tiếu, tôi liền tấp vô ăn một tô hủ tiếu, uống một ly cà phê sữa, rồi mới ra đón xe autobus để đi ra Xa Cảng miền Tây. Khi ra đến bến xe Xa Cảng miền Tây, tôi thấy cả một rừng người hỗn độn la liệt khắp nơi. Họ trải chiếu, trải tấm nylon hay kê tấm ván tùm lum tứ tung không theo một lề lối nào cả. Hỏi ra mới biết đây là những người bỏ vùng kinh tế mới trở về, nhà cửa bị tịch thu không nơi nương tựa đành phải sống lang thang đầu đuờng xó chợ bến xe. Sau khi thấy cảnh hổn độn này tôi nghĩ thầm là mình có thể trà trộn để ngủ tạm qua đêm ở đây.

Trong khi đó thì chị Đồ đạp xe đạp từ Phú Thọ vô Gia Định để báo tin cho vợ tôi biết. Sau này gia đinh kể lại là khi chị Đồ vào nhà, chị rất lo sợ có người theo dõi, nên chị kéo vợ tôi ra phía sau nhà, không cho mấy đứa con tôi lại gần, rồi chị mới nói cho vợ tôi hay là tôi đã trốn trại. Tôi đang ngồi uống nước đá chanh ở xe nước đá và định chổ ngủ qua đêm, thì bỗng thấy chị Đồ đạp xe đạp ra tới. Chị đưa cho tôi 50 đồng và một giấy cử tri của vợ tôi gởi và căn dặn tôi sáng mai ra mua vé xe đò để về Mỹ Tho.

Sáng sớm hôm sau trước khi ra bến xe tôi đi tìm nhà của Thạch, là một trong hai người trốn chui theo. Thạch và Tường thì còn ở lại trong rừng và có dặn là nếu ai có thoát về được Sài Gòn thì báo tin cho gia đình họ biết tin, để tìm cách lên đón. Địa chỉ của Thạch thì tôi nhớ lờ mờ là ở gần Phú Lâm nên tôi sẳn dịp ghé qua báo tin. Lúc đó trời còn lờ mờ chưa sáng hẳn, đường vắng vẻ. Khi đi ngang qua trạm xe chữa lửa có vài tên công an đang đứng nói chuyện ở phía trước, tôi cố giữ bình tỉnh khi đi ngang qua. Sau cùng tôi tìm được nhà của Thạch, tôi gỏ cửa một hồi thì có người ra mở cửa nhưng với dáng vẻ bực bội vì tôi đánh thức họ quá sớm. Tôi hỏi có phải là nhà của Thạch không, thì họ không trả lời mà đóng ập cửa lại làm tôi ngần ngừ một lúc, vì tiếc là không báo tin cho gia đình Thạch được. Tôi cũng không biết là có đúng nhà không, hay là họ sợ không dám tiếp tôi. Cho đến sau này tôi cũng không biết tin tức gì về hai người trốn chui theo, có thoát được không và bây giờ ra sao.

Tôi trở ra bến xe ngồi xếp hàng chờ để mua vé xe về Mỹ Tho, trong túi có 50 đồng và thẻ cử tri nên thấy hơi yên tâm. Một hàng rất dài ngồi chờ mua vé xe rồi từ từ nhích lần lên. Tôi ngồi chòm hỏm hai tay bó gối gục đầu rồi thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng đâu có người vỗ vai kêu tên tôi, tôi giật mình nhìn lên thì thấy chị Đồ, chị bảo tôi vô quán nước ở bên kia đường để gặp bà xã tôi. Vừa mừng vừa lo, chỉ sợ công an theo dõi vợ tôi để đón bắt tôi nên tôi hơi luỡng lự. Chị Đồ vô đứng thế chổ tôi để mua vé xe.

Tôi vô quán để gặp bà xã tôi, vợ tôi đã kêu đủ thứ đồ ăn nào hủ tiếu, bánh bao, xiếu mại v.v…. Bà xã tôi kêu tôi ăn đi, ăn đi. Tôi hỏi coi có ai biết hay theo dõi gì không, thì thấy không có dấu hiệu gì. Ba đứa con tôi đang ở nhà chưa hay biết gì về chuyện này. Sau này kể lại mới biết là chúng nó đói khổ lắm, đâu có được ăn hủ tiếu bánh bao như thế này. Từ ngày tôi đi tù tới giờ gia đình suy sụp, có bao giờ dám ăn các món cao lương mỹ vị này đâu và tôi cũng quên hỏi mời vợ tôi cùng ăn, bà xã tôi cứ kêu tôi ăn đi, ăn đi. Phần thì lo sợ công an nó theo dõi, phần thì không biết là về Mỹ Tho rồi sẽ làm gì, nên tôi cố nhét cho đầy bụng rồi đi liền. Tôi dặn vợ tôi là đừng có xuống Mỹ Tho, mà nên ở nhà lo cho mấy đứa con còn nhỏ dại, đừng để bị nguy hiểm cho cả hai, rồi không ai lo cho các con.

Tôi trở ra chổ mua vé xe thì chị Đồ đã mua vé xong xuôi và chị còn cẫn thận mua cho tôi tờ báo Nhân dân, chị bảo lên xe đọc báo này người ta tưởng là cán bộ. Tôi lên xe ngồi gần băng phía sau. Xe chạy qua hết các trạm kiểm soát một cách dễ dàng vì ở mỗi trạm bác tài đều biết thủ tục đầu tiên, là tiền đâu. Qua Bình Chánh, Bến Lức, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương rồi vô thành phố Mỹ Tho.

Xe vô đến bến, tôi xuống xe và vô tìm đứa em gái tôi. Vợ tôi có cho biết là em gái tôi bây giờ làm ở tổ hợp may mặc phuờng 4 ở bến xe này. Mới vừa vô gặp mặt em tôi, nó mừng rỡ rồi la lớn “Ủa anh Tư mới đuợc thả về”. Tôi hơi bối rối vì sát bên cạnh tiệm may là đồn công an phường 4, có một số công an đang đứng gần đó sợ nó nghe được. Tôi giả bộ như thiệt nói một hơi là anh mới được thả về bây giờ em có rảnh ra quán uống nước. Em tôi lật đật xin phép bà hội trưởng hợp tác xã rồi đi liền. Ra tới quán nước tôi mới nói thiệt với em tôi là tôi trốn trại. Em tôi giật mình mặt tái xanh vì quá bất ngờ. Tôi dặn dò em tôi về nhà cho má hay và coi chung quanh có ai không rồi cho anh biết để anh về nhà. Em tôi đạp xe đạp chạy về báo tin xong trở lại làm việc, còn tôi một mình đi bộ về nhà. Má tôi đã biết trước nên đã mở cửa sẳn chờ.

Khi vô nhà tôi đi thật nhanh và đi thẳng ra phía sau nhà vì sợ lối xóm nhìn thấy.

Sau đó em tôi đi làm về có mua cho tôi một dĩa cơm sườn và hôm sau là cơm tấm bì chả và mua hủ tiếu bánh bao v.v…. toàn là các món ăn ngon đắt tiền mà tôi cũng quên hỏi là em tôi đi may lương tháng bao nhiêu. Má tôi thì già yếu không có làm gì ra tiền. Hồi trước Má tôi đi may đồ quần áo ở trong nhà thương Mỹ Tho, nhưng đã nghỉ lâu rồi. Sau này mới biết là ở nhà không có đủ tiền để mua gạo, đôi khi còn phải bán máu để đổi lấy mấy bát cơm, thì nói gì đến thức ăn sang trọng. Thì ra em tôi chạy qua Chợ Củ để xin Cô tôi. Cô Ba tôi có mở tiệm ăn, Cô rất thương tôi, vì vậy khi hay tin tôi về, cô tôi liền gởi cơm và đồ ăn rất ngon qua cho tôi.

Ở đây được mấy ngày thì vợ tôi xuống thăm tôi làm cho tôi càng thêm lo sợ, vì sợ công an theo dõi. Tôi mới tính tìm đường vượt biên chớ ở đây lâu thế nào cũng bị bại lộ. Mà tìm đường dây để vượt biên không phải là chuyện dễ dàng. Phần thì không có tiền, phần thì không dám đi lại nên cũng không biết cách nào để vượt biên, mà tội vượt biên lúc đó bị coi như là tội phản quốc, chạy theo đế quốc, bọn công an biên phòng bắt được là chỉ có chết. Hồi đó đã có xảy ra những cảnh vượt biên bị đổ bể, bị công an tàn sát như ở cầu Chữ Y Sài Gòn, như ở bãi biển Vũng Tàu, như ở kinh Chợ Gạo hay ở cửa biển Gò Công v.v…. Họ tàn sát không nương tay, mặc cho tiếng khóc trẻ thơ, hay những lời van xin lạy lục, của những người khốn khổ cùng đường. Tôi dự định nếu không tìm được đường đi bằng ghe tàu, thì như đã hẹn với Thu và Bình, là sau một tháng chúng tôi sẽ gặp lại nhau, để bàn tính để đi bằng đường bộ.

Vợ tôi lại xuống một lần nữa và lần này có cả đứa con gái đầu lòng của tôi. Coi như vậy là tôi ở đây được một tuần lễ và vợ tôi đem tiền xuống lần này là để mua vé xe cho tôi đi Cà Mau vào sáng sớm mai, vì hy vọng ở Cà Mau dễ kiếm đường vượt biên hơn. Bất ngờ ngay buổi chiều hôm đó vào khoảng 7 giờ, thì có một người anh bà con cô cậu, đi cùng với một người bạn, xuống thăm để từ giã Má tôi, để sáng sớm mai họ lên đường đi Kampuchia, và từ đó sẽ tìm đường vượt biên, và anh muốn xin địa chỉ của em tôi, hiện đang sống ở Mỹ, để anh liên lạc khi cần. Thật là một điều quá
may mắn cho tôi vì sau khi anh biết tôi vừa mới trốn về nên anh kéo tôi đi theo luôn.

Thế là phải trở về Sài Gòn ngay trong đêm nay để sáng sớm mai lên đường đi Kampuchia. Tôi từ giã Má tôi và để đứa con gái đầu lòng ở lại với Bà Nội. Tôi và vợ tôi đi theo Long và Nghĩa ra đón xe để về Sài Gòn. Tôi ra đi mà lòng buồn vô hạn, rồi không biết sẽ đi tới đâu trên bước đường bôn ba vô định này. Ở lại Mỷ Tho thì không được, mà đi qua Kampuchia thì cũng không biết ra sao, thật là đau lòng trước cảnh chia tay, rồi đây không biết có còn được gặp lại nhau. Trong đêm đó hai bà cháu đã tụng niệm suốt đêm để cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được bình an. Trời đã tối lúc đó khoảng 9 giờ đêm nên không còn xe chạy về Sài Gòn. Chúng tôi đón chiếc xe lôi đạp để đi vô ngã ba Trung Lương, hy vọng ở đó sẽ có nhiều xe miền Tây lên, dễ đón hơn. Ông xe lôi, đạp không muốn nổi, vì trên xe có tới 4 người, nên chúng tôi phải thay phiên nhau nhảy xuống để đẩy phụ, nhứt là khi lên dốc cầu Trung An, thì phải nhảy xuống hết rồi qua cầu mới nhảy lên lại.

Vô tới ngã ba Trung Lương là trời đã tối, nên không còn thấy xe miền Tây nào hết, mà chỉ thấy có một chiếc xe hàng bị hư máy và người tài xế đang sửa chữa. Chúng tôi mon men lại gần tìm cách làm quen rồi dọ hỏi xin quá giang về Sài Gòn, nhưng ông tài xế nhìn chúng tôi như nghi kỵ điều gì nên lắc đầu trả lời một cách sẳn giọng là xe đang hư mà làm sao cho quá giang đuợc, vì vậy chúng tôi lại lủi thủi đi tiếp. Ở đây có một trạm công an khá lớn để xét xe từ miền Tây lên, nên có nhiều công an ở đồn bót này, nên trong đêm tối mà đi lang thang ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tình cờ có một chiếc xe lô chạy từ Mỹ Tho lên hướng về Sài Gòn, chúng tôi mừng quá đón ngoắc lại nhưng xe không ngừng mà chạy luôn một khoảng, rồi bỗng đâu xe dừng lại và lùi lại cho chúng tôi quá giang. Bác tài chỉ cho đi quá giang một quãng đường lên đến Tân Hương để đón xe khác mà đi, vì xe này đi về nhà để nghỉ nên không có đi Sài Gòn.

Trong khi xe đang chạy và qua tài giao thiệp của anh Long, cũng là lơ xe, nên anh biết nhiều người trong nghề xe đò nên câu chuyện dần dần trở nên thân mật và bác tài dần dần có cảm tình với chúng tôi. Và sẳn đó anh Long đề nghị bao xe đi Phú Lâm rồi bận về anh sẽ phụ giúp tìm khách cho chuyến trở về. Vợ tôi móc trong túi ra đếm còn 200 đồng nên đề nghị bao xe 200 đồng và nhờ anh Long nói thêm vô, nên sau cùng bác tài chịu đi Phú Lâm với giá 200 đồng. Thật là hết sức may mắn, chớ nếu tới Tân Hương chưa chắc gì có xe để đi, mà nếu không lên kịp Sài Gòn trong đêm nay thì ngày mai xe sẽ đi sớm rồi, sẽ mất đi một dịp may hiếm có ngàn vàng.

Khi xe chạy qua khỏi trạm công an Tân Huơng một quảng, thì gặp một tốp công an ra chận đường. Tôi thấy nguy vì trên xe không có ai khác, chỉ có gia đình tôi, nên rất khó xoay sở trà trộn. Tôi có ý dò hỏi bác tài coi tính sao, nhưng bác tài cho biết là xe không có ngừng đâu vì tụi này là tụi chuyên chận xe dọc đường để ăn cuớp, bác tài rất rành về bọn này. Tôi nghe thế cũng thấy mừng thêm, vì thà là chạy luôn nó có bắn theo cũng khó trúng. Bác tài cho xe giảm tốc độ rồi khi đến gần bọn chúng thì tống hết ga vượt nhanh qua, nên chúng trở tay không kịp, nên xe chạy vượt qua một cách êm xuôi. Nhưng tôi lại lo cho trạm kiểm soát kế tiếp sợ tụi nó gọi máy báo lên chận bắt xe lại thì còn nguy hiểm hơn. Tôi hỏi ý bác tài thì bác tài nói là tụi nó đâu có máy móc gì đâu mà báo đừng có lo, nên tôi càng yên tâm tin tuởng bác tài muôn phần. Xe qua khỏi Tân An, Bến Lức, Bình Chánh rồi vào Phú Lâm một cách êm xuôi.

Sau khi trả tiền xe xong xuôi là chúng tôi chạy đi ngay vì trời đã tối rồi mà còn phải chạy lo kiếm mượn tiền để đi. Chúng tôi về nhà của Nghĩa cũng ở gần đó, vợ chồng tôi muợn chiếc xe đạp để đạp vô Phú Thọ. Vô tới nhà chị Đồ là đúng nửa đêm, giờ giới nghiêm. Chị Đồ không có sẳn vàng chị rút chiếc nhẫn đang đeo trên tay 2 chỉ vàng đưa cho tôi mượn đở. Tôi đạp xe đạp chở vợ tôi trở về nhà của Nghĩa trong lúc đã quá giờ nghiêm nên cũng sợ bị hỏi giấy tờ hay bị bắt lại thì trể chuyến xe sáng sớm mai đi. Tôi đạp xe lên dốc cầu Minh Phụng không nỗi, vợ tôi phải xuống xe đẩy phụ qua cầu, người của tôi lúc đó rất là ốm yếu xanh xao.

Về tới nhà Nghĩa, là chúng tôi phải đi ngay đến chổ đậu xe, để kịp chui vô trong xe sắp xếp truớc khi trời sáng. Đây là chiếc xe hàng dân sự bị VC trưng dụng để chở chiếu qua Nam Vang tiếp tế cho bộ đội VC bên Kampuchia. Long là lơ xe của chiếc xe này nên mới dấu Nghĩa và tôi vô trong đống chiếu mà tài xế không hay biết gì. Sau khi sắp lại đống chiếu, vạch ra một lổ vừa đủ để hai đứa tôi chui vô, xong rồi Long mới gát hai cây gỗ đà ngang trên đầu rồi sắp chiếu phủ kín lên như cũ rất là kín đáo. Chúng tôi đem theo một bình nước và hai ổ bánh mì với một gói muối.

Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho mượn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cưới đang đeo ở tay đưa cho tôi, như vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng 3,4 giờ sáng, vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe chạy. Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay có vàng đem theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết ra đi mặc dầu không biết ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt Nam.

Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn lờ mờ nghe tiếng người nói lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi đến trạm kiểm soát biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác chở đồ cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí cũ, mà vì sự lúc lắc của chiếc xe đã làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đở sức nặng bên trên đè xuống. Tệ hại hơn nữa là dọc đường VC đón xe đi quá giang nên họ ngồi trên đầu chúng tôi. Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình. Chúng tôi phải rán đưa lưng ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay, rất là nguy hiểm. Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua khe hở của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết.

Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào một chổ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của những bản nhạc ngày xưa. Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen thuộc đầm ấm nồng nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày trước. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng người nói chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra được. Một hồi lâu sau khi bên ngoài hoàn toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi chui ra. Khi nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu trong thế co ro nên chân bị tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.

Nhìn chung quanh, đây là một bồn binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân vận động, xe đậu một đoàn dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có nhiều xe họ mang theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên tôi thấy cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an ninh đoàn xe.

Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc nhẫn cưới được 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và nhờ Long môi giới mời một số tài xế lơ xe ra quán nước uống cà phê nghe nhạc, để tìm cách lân la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn với Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thường cười nhiều hơn là nói vì sợ bị bại lộ tông tích.

Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi người thấy, và vì không biết đường, mấy lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đường rất đẹp với hai hàng cây phủ mát bên đường, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc theo kiểu villa của Pháp, giống như khu đường Duy Tân, Yên Đổ ở bên xứ mình. Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng và có lính canh trước cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùng chân vì sợ nó hỏi giấy tờ bất tử.

Uống nước phong tên ở gần đó, ăn cơm thì mua của mấy gánh bán hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái này cái nọ cho hết thì giờ, thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong chợ, làm mình cũng sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý để coi bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có hình bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua sách Miên trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua xong tôi lật đật đi bộ về chổ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế, đường đi nuớc buớc, cũng như khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng Battambang, Siem Rep, vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó ngay.

Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính Miên trẻ mặt còn non choẹt, mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa phóng thanh cứ sáng sớm và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều đều nghe buồn não ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô cùng. Cuộc đời tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến nơi đây, xứ lạ quê người, rồi cũng không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bình bồng, mà cảm thấy buồn vô hạn.

Tôi lân la mấy quán nước làm quen hỏi chuyện để tìm đường đi, thì được biết là xe lửa chạy từ Nam Vang lên Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ chỉ còn đuờng xe, nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào binh, nên rất khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về phía đó và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách, mà toàn là xe chở hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên nên rất ít hy vọng thoát qua được, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.

Ở đây được ba ngày thì nghe tin đoàn xe được lệnh đi xuống hải cảng Kompong Som tức là Sihanoukville. Tôi không biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó có tàu ngoại quốc ra vào. Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói là phải có người dẫn đường và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng. Trong mình tôi chỉ được hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không biết tiếng Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên Battambang. Bây giờ nghe tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau, dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy vọng hơn.

Buổi trưa hôm đó tôi và Nghĩa ra chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần đó để cúng Phật, để cầu xin Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đường dẫn lối cho chúng tôi thoát ra được khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi đứng lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy thì có người tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.

Đêm đó suy tính cách theo xe để đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ không được đi theo xe cũ vì sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng đã quen biết nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì ngừng lại để xét trước khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự vụ lệnh đi công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không bị lục soát hay hỏi han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.

Trên đường đi VC đóng đồn dọc theo đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang, nhưng tôi ngồi phía trước chung với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe bác tài có khoe một khẩu súng AK47 được phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là bác tài đã biết sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mưa tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại để sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay, nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải cảng Kampong Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải cảng. Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết, nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng.

Hải cảng này ở xa khu dân cư, có mấy lớp hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh, và một trạm kiểm soát tại cổng chính ra vào, với một số công an biên phòng VC canh gác. Đóng trên một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên phòng. Bên trong hải cảng là một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố nhìn thật kỹ quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nước tự do, nhưng tôi chỉ thấy toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ. Có một đường rầy xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ không, không thấy người lai vãng, gần đó có một phong tên nước. Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đường lộ đá là một cái ao khá lớn, mà thỉnh thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó tôi trở ra xe để ngủ qua đêm.

Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia, nay thực phẩm đó được dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn chường mặt ra đây được nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.

Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an biên phòng VC vào cặp bến để lấy nước ngọt ở cái phong tên nước. Khi đó họ có hỏi tụi tôi, có muốn mua mấy món đồ lậu như rượu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio c***ette v.v….Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tưởng là trúng mối to. Sau khi lấy nước xong là họ đi, trước khi rời bến họ rủ chúng tôi lên tàu. Long nhanh chân nhảy lên trước, tôi còn đang lưỡng lự ngần ngừ, vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên tàu. Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi cũng nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.

Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về những chuyện đi bắt ghe tàu vượt biên. Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vượt biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những người vuợt biên là bọn phản quốc, chạy ra nước ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa cặn v.v… Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vượt biên nếu bị chiếc tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe tàu vuợt biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà con trẻ.

Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi bảo chúng tôi lên bờ. Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô căn cứ VC nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thước, có con đường lộ đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy được.

Vô tới bờ đi bộ ngược trở về hải cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có một số tàu đánh cá, hai đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một người có mang một khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này người Miên gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi có muốn vượt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định tìm đường vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì hơi sợ, nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vượt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng. Ông ta tiếp thêm là nếu muốn vượt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo, ở đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi người hai lượng vàng, ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho một con cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi ngờ.

Tôi và Long trở về hải cảng, trên đường đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của công an biên phòng, họ đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm, tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang, khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở bên ngoài được. Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây, để đi theo mấy ghe tàu đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu quanh đây, may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể được. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và Nghĩa đều là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm cả. Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm. Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và lấy theo một bình nước rồi vô trong hải cảng ngay, trước khi trời tối.

Tôi đã để ý từ trước thấy có mấy goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có người lui tới. Vì vậy chúng tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh gác ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im lặng, đề phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thường cảnh giác thức suốt đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài. Sợ khi ngủ hết, lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì nguy hiểm lắm.

Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên ngoài không còn người lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì vậy chúng tôi phải ẩn mình cho thật kỹ. Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó, buổi trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng không đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có người muốn sử dụng goong xe này, họ đến kéo đi thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.

Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc. Tôi mừng quá vì lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà không ai để ý. Và cũng vào khoảng 4 , 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một chấm đen từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang hướng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào bến đá. Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là lá cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu cộng sản. Hơn nữa chữ PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.

Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có nhiều người đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài xế và lơ xe ra vô tấp nập. Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần chiếc tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan Mạch là một nước ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một nước cộng sản, tôi mừng quá vì có thể xin tị nạn được.

Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân người Miên lên xuống theo chiếc cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi người lên xuống rất là kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá kỹ. Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có nuớc vô tù, mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không tha.

Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vượt đuợc một quảng đường khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đường duy nhất là phải lên cho bằng được chiếc tàu này. Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng ước gì mình được trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những chiếc xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái sườn phía sau. Đây là những chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nước Âu Châu thì hiếm khi vào hải cảng của nước cộng sản này.

Trời tối dần mà Long và Nghĩa thì cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu. Nhưng đèn pha chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc, mà làm sao thoát hết được ba đứa. Rồi Long lại tính đường nhảy xuống nước bơi qua bên kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nước là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.

Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng gác trên tàu, một tên mang súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ. Quan sát theo dõi họ thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không giống người Miên, nên khó qua mặt được nó.

Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí bước vô trong cabin tàu. Tôi vụt chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên đuợc trên tàu chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì khi đó hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về phía cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu hết ba nguời. Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở dưới đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu được vì thủy thủ hay công nhân Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.

Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn một cần trục phía gần bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến, ở bên dưới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa người chun vô, tôi liền thử chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát người vô trong để vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạc dụng cụ để chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ không thấy chúng tôi được, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay. Hơi yên tâm một chút, lúc đó chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.

Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt. Sau đó công nhân lần lượt rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui canh gác bên kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu được đóng lại, nắp hầm tàu làm bằng những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm trườn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.

Tôi suy nghĩ, trước khi tàu rời bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ, cho nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể trốn ở đây được. Lúc còn ở dưới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mũi tàu, như vậy phải có cầu thang lên xuống ở mũi tàu.

Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi dặn dò Long và Nghĩa từng người một lần lượt chui ra và phải chờ khi nào công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo thành tàu, bò ra phía trước mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu rất trống trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xây lưng lại là tôi chui ra sau cùng, bò dọc núp duới thành tàu đến gần mũi tàu thì thấy có một cửa nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu thang bằng sắt hình khu ốc, tôi lần theo xuống.

Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi chứa hàng, sau khi hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân, mấy cây cột bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không được vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi xuống dưới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi mừng quá vì tìm được chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy lại, trông giống như cũ, không có dấu vết gì khả nghi. Lúc đó chắc khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám ngủ và dặn kỹ Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho hen.

Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên trên đống cây, nhưng không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa biển”. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu, tôi chợt biết là tàu đã chạy. Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng mạnh. Đến một hồi nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang rẽ sóng ra khơi. Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.

Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam, thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi. Nhưng đến chiều thì Long bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong bụng không còn thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi phải lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc khoảng 8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận Việt Nam, nhưng vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình diện.

Một mình tôi lên trước, theo cầu thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mũi tàu nhìn lên phía phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì sợ họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng trên cùng và đi thẳng vô phòng lái.

Thấy tôi vừa bước vô phòng hoa tiêu, ông ta nỗi giận dậm chân đùng đùng, bấm còi báo động. Ông hỏi tôi là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam trốn từ trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin được tị nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy, nhưng cũng hiểu được phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt dính đầy dầu nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân của tôi và tôi đã học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác định được lý lịch của tôi. Tôi xin ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tị nạn, thì xin ông bỏ tôi xuống biển, chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.

Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là hiện còn có hai người nữa còn đang trốn dưới hầm tàu. Ông ta lại nỗi giận lên, kêu người đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa được dẫn lên ngồi trong góc, trông rất thãm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu. Xong rồi ông Thuyền trưởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty chấp nhận cho chúng tôi tị nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là tàu của Đan Mạch là đất nước Đan Mạch.

Một số thủy thủ đứng chung quanh, nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng tôi, họ đưa cho quần áo giày dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng, đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường nệm có hai tấm nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bửa ăn thật tuyệt diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp rất thơm ngon chưa từng có. Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất, tự do nhất, thoải mái nhất, mà tôi cảm thấy như được sống lại sau bao nhiêu ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần như tuyệt vọng.

Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu đó, chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu. Trước hết đến phòng ông thuyền trưởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn cộng sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết trên chiếc tàu này có nhiều người thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa Lan, Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân v.v….Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi xem hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết sức lịch sự và đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam không còn xài được nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ.

Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn, nhìn mặt trời lặn trong cảnh nước trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tưởng chừng như trên chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang lướt sóng thật êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái, khác xa với cảnh tượng của những chiếc ghe vượt biên bé nhỏ, chở đầy người, bập bềnh trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải lo sợ bị hải tặc hảm hiếp, cướp của giết người thật là ghê rợn.

Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong một vùng vịnh bao la, với vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì chúng tôi phải vô trong phòng và thuyền trưởng sẽ khóa cửa lại, để giữ chúng tôi trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có người đến thăm chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.

Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở khóa cửa phòng, thẩm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ, xong rồi họ đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh, nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng tiếng Việt Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp người đồng hương, sau này tôi được biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tị Nạn ở Singapore. Khi làm thủ tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ, và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu xét dễ dàng hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau thì có nguời của Cao Ủy Tị Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô Robin, nguời nuớc New Zealand.

Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm 1980. Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng mười nguời Việt Nam tị nạn cũng mới đến chừng vài ngày trước và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung như sau: “Đã giải phẩu xong bình an”, đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi an toàn. Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ tôi hết sức vui mừng khi nhận được điện tín này, phân vân không biết Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ mả tổ tiên để cúng tạ.

Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu. Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore 80% là người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.

Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại Tị nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins. Khi vừa bước vô văn phòng trại tị nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn treo trên tường mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm người mới tới đều vui mừng sung sướng đến rơi nước mắt, được hôn lên Lá Cờ Quốc Gia Dân Tộc và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến được bến bờ tự do.

Chúng tôi được lãnh tiền trợ cấp mỗi người 2.50 đồng một ngày, một đồng Singapore lúc đó trị giá vào khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn được phát mỗi người một chiếc chiếu, và cứ 6 người thì được phát một cái lò nấu ăn. Đây là một trại lính với nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc giữ gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.

Cuộc sống ở trại tị nạn này rất là thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số là người Ấn độ, bán đủ loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở đây có rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thước, có một con rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có người chui rào ra, lưới đuợc rất nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.

Những người đuợc đưa về trại này thường là chỉ được tạm trú ở đây khoảng 3 tháng, để làm thủ tục đi định cư, hoặc là những người từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dõi tin tức phát thanh trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để được phỏng vấn và khám sức khỏe.

Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ huy trại giao nhiệm vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các toà Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc v.v…Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để đi định cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông thường như ho, đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh v.v…Lúc đó có Bác sĩ Rạng trách nhiệm bệnh xá, ông cũng là người tị nạn và trước kia ông từng là bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở Phú lợi Bình Dương.

Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều người mất vợ mất con mất cha mất chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ mang máng tên là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn, vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm suốt cả ngày. Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn nào phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.

Sau khi đến trại được một tuần, tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình, trong đó có vài thước vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng 10 năm 1980 thì tôi được đi định cư qua Mỹ. Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan Mạch.

Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải của nước Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên được.

Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân tộc các nước trên thế giới, đã mở rộng vòng tay cứu vớt, trợ giúp và cưu mang chúng tôi, những người tị nạn trốn chạy khỏi chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân bản.

Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm thì tôi được vào quy chế thường trú, năm năm thì được vào quốc tịch. Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đơn xin bảo lãnh gia đình qua chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được Hoa Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi được đoàn tụ lại như xưa, đã thoát khỏi gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao dung.

Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phước cho.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 07/Nov/2018 lúc 7:27am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Nov/2018 lúc 4:23pm

Thầy Năm Chén    <<<<<

Tiểu Tử


Image%20result%20for%20Thầy%20Năm%20Chén%20-%20Tác%20giả%20Tiểu%20Tử


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Nov/2018 lúc 4:24pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Nov/2018 lúc 8:00am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Nov/2018 lúc 5:40pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Nov/2018 lúc 7:50am

Đứa Con Lai….Hải Tặc

Image%20result%20for%20boat%20people

Xong tú tài, tôi vào Saigon cư ngụ trong đại học xá Minh Mạng Chợ Lớn để tiếp tục việc học. Sau này có một anh sinh viên dự bị y khoa được xếp chung phòng.
Khi ra trường phải động viên vào quân đội, tôi nhường anh chân gia sư dạy kèm 2 học sinh trung học, một trai một gái. Họ là con của một ông Trung Tá bộ tổng tham mưu và bà chủ một công ty nhập cảng vải lụa.

Cuộc biển dâu xảy ra. Tôi và ông Tr/T đều bị nhập trại “tập trung học tập cải tạo”. Tôi “học tập” một thời gian không dài lắm, có lẽ vì cấp bậc nhỏ ít nợ máu. Ông Tr/T bị chuyển ra trại tù miền Bắc.

Được trả tự do nhưng không việc làm, lê lết ở các quán cà phê vỉa hè, một ngày nọ tình cờ gặp lại bạn. Bấy giờ anh đã là bác sĩ tại một bệnh viện thuộc quận nhất của thành phố.

Và câu chuyện bắt đầu từ đây.

Chuyện kể, khi cô học trò nhỏ không còn nhỏ nữa thì quan hệ giữa cậu cựu gia sư và tiểu thư tân sinh viên văn khoa đã bước vào giai đoạn anh anh-em em (âu cũng là điều dễ hiểu). Gia đình cả hai bên đều hoan hỉ, trông đợi ngày đại đăng khoa và tiểu đăng khoa.

Thế nhưng thời cuộc đã đảo lộn tất cả. Ông bố Trung Tá đi không biết ngày về. Bà mẹ mất cơ sở kinh doanh. Cậu con trai lớn tìm lãng quên trong những con hẻm nhầy nhụa. Tiểu thư tuy vẫn còn đậm nét tiểu thư nhưng chớm trầm cảm vì cuộc sống đã nhuộm đỏ giấc mơ hồng. Cậu bác sĩ chung tình đeo thêm gánh nặng phiền muộn.

Rồi phong trào vượt biển rầm rộ khắp nơi.

Trong lần đi thăm nuôi cuối cùng, bà Trung Tá đưa tiểu thư và cậu bác sĩ ra tận trại tù Hoàng Liên Sơn dò hỏi ý chồng. Ông Trung Tá bỗng trở nên lạc quan sau những năm tháng tuyệt vọng. Ông biết sức khỏe và bệnh trạng của ông, biết ngày tàn không còn xa. Ông không những đồng ý với vợ mà còn mong vợ phải thực hiện chuyến đi cho các con bằng mọi giá.

Bà đã được cha mẹ cậu bác sĩ thuận kết sui gia. Nhân tiện gặp ông, bà và ông tác thành luôn cho đôi trẻ. Đối với cả hai gia đình, họ đã nên duyên vợ chồng.

Ông xin các con hứa, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lúc vui buồn hay lúc cùng cực cũng phải gắn bó, không được chối bỏ nhau. Đôi trẻ kín đáo cúi đầu quỳ lạy thay lời thề chung thủy.

Bạn tôi cùng vợ và người anh vợ đăng ký chuyến đi bán chính thức của người Hoa. Khi ra đến bến bãi một sự việc diễn ra ngoài dự tính của nhóm tổ chức. Chỉ những người Hoa chính gốc mới được nhận. Người Hoa giả mạo bị loại ra.

Chủ tàu là một đại gia có mẹ già mang bệnh kinh niên nên cần thầy thuốc. Hắn hối lộ để xin đặc ân cho hai vợ chồng bạn tôi nhưng họ chỉ chấp nhận một người. Dùng dằng mãi, cuối cùng một mình bạn tôi lên tàu.

Chuyến hải hành tương đối êm ả đưa người chồng đến đảo Bidong Mã Lai. Người anh vợ và người vợ trở về buồn hiu hắt.

Anh may mắn được gia đình một luật sư làm việc trong chính quyền tiểu bang Michigan bảo lãnh qua Mỹ.

Sau hơn 2 năm ôn luyện bài vở, anh được nhận vào nội trú để hoàn tất bằng hành nghề.

Người vợ đi thêm 2 chuyến nữa không thành công.

Chuyến sau cùng chủ tàu gọi đi khẩn cấp. Người anh trai còn mải vui chốn giang hồ không kịp nhận tin, đành đi chuyến sau. Tôi đến chơi đúng thời điểm. Bà Tr/T cho tôi trám chỗ, đồng hành với vợ người bạn.

Đâu có ai ngờ một chuyến đi định mệnh đang chờ đợi!!!

Con tàu chạy vòng vo 2 ngày 3 đêm vẫn chưa nhìn thấy đất đảo như hoạch định. Tàu trôi, trôi như vô tận. Tài công thú nhận không có kinh nghiệm lái đường biển.

Buổi trưa, vừa nhai xong một nhúm cơm và uống một nắp nước do tàu cấp phát thì mọi người dưới hầm nghe nhiều tiếng chạy thình thịch náo động trên boong tàu. Qua kẽ hở, biết tàu đã bị hải tặc xâm chiếm không biết từ lúc nào. Họ hoàn toàn làm chủ tình hình. Trong vòng một tiếng đồng hồ không gặp kháng cự, những tên hải tặc đã đủ thì giờ lục lọi tìm kiếm vàng bạc và giở trò khả ố với những đàn bà con gái nằm la liệt trên sàn tàu mà trước đó đã được ưu tiên dời lên vì kiệt sức.

Sau khi đã chiến thắng được sự sợ hãi tột cùng ban đầu, một số thanh niên còn khỏe mạnh họp lại tính chuyện phản công. Đám hải tặc vẫn còn e dè, chặn cửa hầm chưa dám xuống.

Để chiến đấu, mỗi người tự trang bị vũ khí cho mình. Với kìm búa gậy sắt gậy gỗ, họ phá bật nắp cửa hầm, reo hò vùng lên quyết sinh tử khiến đám hải tặc rúng động. Biết không địch nổi số đông áp đảo, không đợi lệnh, các tên hải tặc chen nhau nhảy xuống biển bơi về tàu của chúng, xả máy rút lui.

Tôi cố tìm nguời vợ của bạn.

Một tên hải tặc mang vết sẹo dài trên vai trái bước ra từ phòng lái đầu hàng. Cô gái trong phòng nằm trên tấm nệm cao su vẫn còn loã thể chính là người tôi tìm.

Một tên nữa cũng chậm chân nên bị bắt giữ vì còn mải nhập thiên thai. Tên có sẹo có lẽ là đầu đảng, xá lạy xin đái công chuộc tội bằng cách hướng dẫn tài công lái đúng đường, cặp vào đảo Tarempa Nam Dương.

Ngoại trừ những người bị nhốt dưới hầm, tất cả đàn ông đều bị trói gô chân tay. Một phụ lái bị giết chết vì kháng cự. Chủ tàu bị ném xuống biển vì cố che chở cho con gái nhỏ sắp bị hãm hiếp. Hai phụ nữ hoảng hốt nhảy xuống biển tự vận để bảo toàn trinh tiết. Mười một phụ nữ trẻ bị liên tục thay phiên hãm hiếp, riêng người vợ của bạn tôi được tên đầu đảng giành độc quyền. Một nam thanh niên trượt chân rơi xuống biển và năm thanh niên khác bị thương khi chiến đấu. Hai hải tặc bị bắt giữ nhưng trốn thoát khi tàu vừa cặp bến vào đảo Tarempa.

Chính quyền địa phương đưa tàu qua đảo Kuku tạm trú. Một tháng sau được chuyển sang đảo Galang.

Chút vốn liếng tiếng Anh sót lại từ thời trung học giúp tôi tìm được một việc làm trong văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Có cơ hội thuận tiện, tôi tường trình trung thực những gì đã xảy ra.

Tôi thuyết phục các phụ nữ bị làm nhục ra trước ủy ban điều tra quốc tế đối chứng với lời khai của tôi nhưng chỉ có người vợ của bạn và một người vợ của anh thợ máy đồng ý. Tiếng kêu tuy yếu ớt được ghi nhận.

Người vợ của bạn tôi suy sụp khủng hoảng tinh thần cực độ khi biết đã mang thai. Cô nài nỉ tôi tìm mọi cách giúp phá nếu không sẽ tự vận. Tôi thật sự khổ sở giữa nên hay không nên. Nếu nên thì cũng không biết làm sao. Phương tiện y tế hạn chế, dễ gây hậu quả xấu cho người mẹ.

Sau một đêm dài trằn trọc tôi quyết định viết một lá thư kể toàn bộ sự việc diễn tiến trên tàu, nhờ gửi khẩn cho người chồng. Năm tuần lễ sau nhận được hồi âm. Anh cho biết vị luật sư bảo lãnh anh đã tích cực vận động với các dân biểu và nghị sĩ tiểu bang cũng như liên bang lên tiếng với bộ ngoại giao Hoa Kỳ, thỉnh cầu can thiệp trực tiếp trường hợp của vợ anh để xin được đi định cư trong thời gian sớm nhất trước khi tiên liệu xấu xảy ra. Anh tha thiết xin vợ đừng phá thai, sẵn sàng nhận vai trò làm cha.

Tôi đã được phái đoàn Canada chấp nhận và thông báo ngày đi định cư nhưng phải xin đình hoãn.

Sáu tháng vận động đã có kết quả. Anh bạn tôi đi cùng với nhân viên lãnh sự quán HK tại Singapore đến Galang. Qua thủ tục đặc biệt, mang được người vợ đến Mỹ.

Đứa bé được sinh ra trên đất Mỹ với khai sinh mang họ của bạn tôi.

Trong buổi hội ngộ tiệc thôi nôi, vợ chồng anh bạn và người anh vợ cùng tôi đồng thuận tuyệt đối giữ bí mật mọi chuyện để sự phát triển tâm sinh lý của đứa trẻ không bị ảnh hưởng và sẽ lớn lên như một người Việt Nam trong một gia đình Việt tỵ nạn.

Thỉnh thoảng có dịp thăm viếng tôi tưởng như nhìn thấy hạnh phúc thật sự trong gia đình họ. Cậu bé lớn lên trong tình yêu tràn đầy của cha lẫn mẹ.

Sinh kế đã làm giảm tần xuất liên lạc giữa chúng tôi một thời gian. Mỗi năm chỉ còn nhớ đến nhau qua những tấm thiệp xuân. Cho đến một lần, thay vì nhận được thiệp thì là một lá thư dài kể lại tai nạn thảm thương cướp mất người vợ.

Thường ngày người chồng nhắc nhở vợ dùng thuốc đều đặn vì hậu chấn thương trên biển cả khiến người vợ cần được săn sóc tâm thần và tâm lý trị liệu lâu dài.  Lần đó người chồng đi dự hội thảo chuyên môn ở tiểu bang xa nhà. Người vợ đã bỏ thuốc nhiều ngày, giữa đêm mưa gió đi lang thang ngoài bờ sông không tự kiểm soát được, ngã xuống nước trôi mất tích.

Vợ chết. Bệnh trầm cảm truyền qua anh. Mặc cảm có tội luôn luôn ám ảnh. Anh dồn hết tình thương cho đứa bé, nay đã trở thành một thiếu niên.

Đến lúc đứa con phải xa nhà vì học vấn anh không thể đương đầu với nỗi buồn gặm nhấm, trầm cảm nặng hơn.

Nhiều năm nữa trôi qua. Tin buồn khác lại đến. Bạn tôi qua đời sau một thời gian ngắn nhuốm bệnh. Anh biết bệnh mình trầm kha, nhưng buông xuôi không quan tâm chữa trị, có lẽ muốn gặp vợ để giữ trọn lời thề năm xưa.

*
Đứa con từ chuyến vượt biển của người vợ bạn tôi  năm xưa nay đã là người lớn. Cha mẹ đều mất. Bác ruột di cư sang Úc theo vợ. Tôi trở thành người thân duy nhất để chàng thanh niên, tức đứa bé ngày xưa, xả tâm tình. Chúng tôi xem nhau như chú cháu.

Những lá thư qua lại làm tôi lây những ưu tư của một người trẻ nghĩ về thân phận mình. Sau đây là một số trích đoạn từ những lá thư của cháu từ nước Mỹ với ông chú, thư viết bằng Anh ngữ, và do tôi trích dịch:
. . .

Chú ơi! Từ lúc bắt đầu hiểu biết cháu đã linh cảm có điều gì rất nghịch lý trong gia đình cháu. Hạnh phúc như con bướm lượn lờ trên những bông hoa mời chào, ngập ngừng muốn đậu rồi lại bay đi.

Cha cháu chiều chuộng cháu hơn những đứa trẻ cùng trang lứa. Mẹ cháu hay vuốt tóc, hôn cháu trong không gian tĩnh lặng, nói nhỏ, con của mẹ, mẹ yêu con, lặp đi lặp lại.

Nhưng cũng có đôi lúc cháu bắt gặp cặp mắt thất thần của mẹ nhìn ra cõi xa xăm.

Mẹ rất sợ sông, biển. Những kỳ đi nghỉ hè cha luôn luôn tránh vùng biển.

Cha săn sóc mẹ từ miếng ăn giấc ngủ. Mẹ biếng ăn, cha bỏ bữa. Mẹ mất ngủ, cha “hầu quạt”. Mẹ buồn, cha làm hề, dí ngón tay lên trán gọi mẹ là cô bé bướng bỉnh, mẹ mỉm cười gọi cha là cậu giáo khó tính, thế là buồn tiêu tan. Cha biết làm cho mẹ vui vẻ hoạt bát qua những viên thuốc mà cha gọi là thuốc tiên, bắt mẹ uống mỗi ngày (sau này cháu mới biết là những thuốc trị tâm thần).

Mấy đứa bạn của cháu thắc mắc tại sao cha mẹ cháu đều có nước da sáng, cao lớn, mũi thẳng mà cháu thì sậm da, người tròn thấp, cánh mũi to.

Cháu muốn quên mà không quên được cái hình hài không giống ai của cháu. Có phải cháu là con ngoại hôn của mẹ không chú? Hay cháu là con nuôi? Hay là cháu đến từ một hành tinh khác?
. . .

- Chú không hiểu tại sao cháu lại có những suy nghĩ lẩm cẩm như thế. Chuyện giống hay không giống là quyền của... ông trời. Cố học thành tài nối nghiệp cha.
. . .

Chú ạ. Cháu báo cho chú tin động... ông trời. Cháu đã xin thử DNA. Ông trời đã sụp đổ trước mắt cháu! Kết quả đúng như cháu hoang mang lo sợ. Cháu không có liên quan phụ hệ với cha cháu!
. . .

- Chú hiểu tâm trạng của cháu. Nếu chia sẻ được xin cho chú chia sẻ. Chú nhớ có đọc ở đâu đó:

Cha không được định nghĩa như người đã tạo ra đứa trẻ, mà khác hơn thế, là người dang rộng vòng tay và dành thì giờ nuôi nấng đứa trẻ bằng cả tâm trí và tình yêu. Huyết thống không luôn luôn làm nên người cha. Chữ cha phải thoát ra từ tấm lòng. Ai cũng có thể tạo ra một đứa trẻ nhưng cha đúng nghĩa nhất chính là người đã nuôi nấng đứa trẻ.

Không liên hệ máu mủ không làm cho người cha kém tình phụ tử. Xác nhận một người cha đích thực, không phải ở DNA, mà ở trong trái tim người ấy.
. . .

Cháu cám ơn chú đã mở mắt cho cháu. Nghĩ lại, cháu không còn vướng mắc chuyện... ông trời nữa. Nhưng chú ơi! Giòng máu đang chảy trong người cháu là của ai? Cháu muốn biết và cháu biết chắc chắn chú biết.
. . .

Lá thư của chàng trai khiến tôi phải trăn trở thao thức. Không thể chối cãi là tôi và cha mẹ cháu đã giấu diếm nguồn gốc của cháu.

Tôi sẽ tiếp tục giữ hay phá lời thề khi phải trả lời cháu?

Tôi đặt lên bàn cân, một bên là sự đòi hỏi chính đáng của cháu, một bên là lời cam kết với vợ chồng bạn. Cháu đã trưởng thành, có suy nghĩ chín chắn. Sẽ mang tội với cháu nếu vẫn giữ điều bí mật. Vì thế tôi khấn vái vong linh hai người bạn, xin đựợc giải lời thề giúp tôi thanh thản tiết lộ sự thật, từ tình sử thơ mộng của hai người cho đến thảm kịch trong chuyến đi định mệnh.
. . .

Cháu xin lỗi đã ngưng liên lạc với chú khá lâu. Cả năm nay cháu đi đi về về giữa Mỹ và Thái Lan.

Cháu thuê thám tử tư quyết tìm ra tên hải tặc đã mang tai họa cho gia đình cháu.

Bà ngoại cháu trước khi qua đời vẫn tin tưởng cha mẹ cháu sống hạnh phúc và rất hãnh diện về đứa cháu ngoại. Ông ngoại cháu đã chết trong trại tù không lâu sau lần thăm nuôi, chắc không yên tâm nhắm mắt.

Ông bà nội từng kỳ vọng ở đứa cháu đích tôn một ngày về vinh quy bái tổ, làm rạng danh dòng họ. Ở bên kia thế giới hai cụ có phẫn nộ vì chi nhánh con cháu chính thống đã thay máu từ đây?

Mọi người đều bị lừa dối.

Cháu có nhờ cô thông dịch viên, đang theo học khoa ngôn ngữ đại học Chulalongkorn, trợ giúp. Cô này có hoàn cảnh hơi giống cháu. Cha là hải tặc hoàn lương. Mẹ là thuyền nhân suýt bị nạn trên biển như mẹ cháu.

Nhờ thám tử và cô bạn, cháu đã tìm thấy và trực diện với người gieo giọt máu oan nghiệt cho mẹ cháu. Bây giờ ông ta đã trở thành một nhà sư, trụ trì ngôi chùa nhỏ trong một làng đánh cá.

Cháu tham khảo các luật sư của Mỹ và Thái với ý định đưa ông ra toà án để đòi lại công lý cho các nạn nhân, trong đó có mẹ cháu.
. . .
Chú ơi giúp cháu.

Tiến thối lưỡng nan!

Nếu bị kết án, ông sư già có thể phải vào tù, trả giá cho tội lỗi trong quá khứ. Nhưng điều đó có đổi lại bình an cho cháu không? Nên hay không nên tiến hành thủ tục pháp lý?

Cháu lâm vào tình trạng y hệt như chú khi xưa (phân vân giữa việc nên hay không nên giúp mẹ cháu phá thai).

Chú ơi, có bao giờ chú hối hận vì đã không giúp mẹ trục thai nhi cháu không? Nếu không có cháu trên đời thì sao chú nhỉ? Cha mẹ cháu sẽ sống trong thiên đàng hạnh phúc với những đứa con kết tinh từ tình yêu.

Chú có nghĩ rằng cháu đang nuôi đau khổ vì nan giải?

Chú ơi, cháu là ai?

Việt Nam hay ngoại tộc Việt Nam?

Thái Lan ư? Ô nhục!

Mỹ ư? Chỉ trên giấy tờ!

Những đứa con lai Mỹ dù có bị kỳ thị nhưng vẫn không bị khước từ giòng máu Việt. Còn cháu, cháu có đựợc cái hãnh diện giới thiệu với mọi người “tôi là người Mỹ gốc Việt”?

Cháu muốn ra biển hét thi với sóng, gào lên, hỏi ông trời! Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?
. . .

- Chú rất thán phục sự quyết tâm và ý chí của cháu. Có lương tâm dẫn dắt, cháu hãy đi theo, làm những gì cháu thấy nên làm. Nếu cháu muốn được tư vấn thì đừng chê quan niệm lỗi thời của chú nhé.

Thời của cha mẹ cháu cũng như chú, không thiếu những chứng tích của tội ác man rợ.  Cũng không thiếu những chứng tích đau thương bi thảm. Trong số này, có số phận của nhữntg đứa con lai hải tặc.

Người ta thường tìm cách che dấu thứ mà người ta muốn quên. Nhưng cháu, một trong những đứa con đó, đã dũng cảm nói lên tiếng nói của con người, bình đẳng như mọi người của thế gian này.

Giáo lý Phật Đà dạy ta dùng từ bi và tha thứ để đối phó với nghịch cảnh. Lòng từ bi không chấp nhận hành động sai nhưng có thể tha thứ cho người làm sai.

Chính cháu là người đau khổ nhất, không được gì, đúng không? Mong cho ông sư hải tặc rục xương trong tù? Tất cả chỉ làm tinh thần cháu kiệt quệ.

Cháu ạ, Kinh Pháp Cú 5 có câu:

Hận thù diệt hận thù,
Đời này không có được,
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.

Có phải cháu muốn tìm sự bình an? Nếu cháu chưa sẵn sàng mở lòng bao dung thì cũng đừng để tâm bị xáo trộn. Tâm là cốt lõi của cuộc sống. Với tâm thanh tịnh thì hạnh phúc sẽ tìm đến. Với tâm bất ổn thì đau khổ sẽ bám không rời.

Vị sư già cũng đi tìm bình an như cháu. Câu kinh tiếng kệ là những tiếng than khóc của  tạo thành một vòng kín vô hình nhốt ông. Ông ta đang thi hành hình phạt nặng nề nhất của lương tâm. Cứ để ông ta thụ án. Cháu đâu cần phải cố sức bắt tội nguời có tội. Vào tù hay thoát khỏi tù là quyền của...ông trời!
. . .

Thưa chú,

Chú đã giải tỏa đám mây u ám vần vũ trên đầu cháu. Cho cháu thấy ở phía trước một con đường sáng sủa hơn. Hành trang đeo trên vai cũng nhẹ hơn.

Cháu hối tiếc những ngày còn cha mẹ, cháu đã không mang đến cho các người tiếng cười hạnh phúc. Không có dịp thầm thì bên tai các người, cha mẹ ơi con yêu cha mẹ.
. . .

Cha cháu đã đón nhận cháu như một quà tặng quí giá của tạo hoá. Mẹ cháu cũng mang nặng đẻ đau như các bà mẹ khác. Chú tin rằng ơn này còn nặng hơn ơn nghĩa sinh thành.

Phải vinh danh những người cha vĩ đại có trái tim thánh. Phải cúi đầu ngưỡng mộ và cảm thông cho những người mẹ bất hạnh. Người mẹ can đảm, mạnh mẽ đứng dậy sau khi bị vùi dập, cùng với người cha cưu mang, nuôi nấng sinh linh “lạ”, thay giòng máu ô nhiễm trong hài nhi bằng giòng máu vô nhiễm của tâm hồn.
. . .

Chú đọc cho cháu thống kê của LHQ, tìm thấy trong thư viện, để cháu có cái nhìn tổng thể.

Khoảng 839,000 người Việt Nam đã vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh từ 1975 đến 1997. Phỏng chừng 300,000 đến 400,000 người không đến được bến bờ tự do.

Chỉ riêng năm 1981 Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ báo cáo: 15,479 thuyền nhân đến Thái Lan đi trên 452 con tàu. Trong đó 349 tàu đã bị hải tặc tấn công, trung bình mỗi tàu 3 lần. 578 phụ nữ bị hãm hiếp. 228 phụ nữ bị bắt cóc. 881 chết hoặc biệt tích.

Con số thai nhi do hải tặc không được báo cáo chính xác vì bản chất phụ nữ Việt hiền lành, chịu đựng. Đa phần do xấu hổ nhục nhã nên không khai báo.
. . .

Cháu đoán, những bào thai ấy nếu sống sót bây giờ đã trở thành những thanh niên, trung niên bằng hoặc hơn tuổi cháu. Họ có thể đã lập gia đình và có con cái.

Chú ơi, có ai mang cùng tâm trạng như cháu? Hỏi mãi một câu hỏi “Tôi là ai”?
. . .
Thảm trạng lịch sử đã sang trang chưa? Có nên hâm lại chuyện cũ không? Chú không biết.

Tội ác, theo thời gian, có thể dần dần bị quên lãng nhưng chứng tích tội ác là những đứa con lai... hải tặc hiện hữu khắp nơi.

Chú nêu vấn đề với cộng đồng, mong câu hỏi “Tôi là ai?” của cháu sẽ được trả lời.

Bằng lòng với số phận? Sống để bụng chết mang theo?

Nghĩ sao?

Nguyễn Cát Thịnh


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Nov/2018 lúc 7:57am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Nov/2018 lúc 11:29am

Nghĩa Tào Khang

Image%20result%20for%20trại%20tù

Trong trại tù có những ngày đói lả
Ăn bo bo, gạo ẩm độn sắn khoai
Có những con dòi bò qua bò lại
Miếng khô sình, bụng đói cũng rán nhai.


Image%20result%20for%20quang%20ganh

Nghe tin vợ ở nhà lam lũ quá
Lo cho đàn con chẳng đủ miếng ăn
Tiện tặn, chắt mót từng đồng từng cắc
Còn nhịn cơm, dành nắm gạo thăm chồng.


Related%20image

Hứa với lòng, ra tù mình đền đáp
Khổ cực này người vợ đã cưu mang
Nhưng dự tính chưa bao giờ làm được
Chút gì vui đền đáp lại cho nàng !


Image%20result%20for%20bird%20love%20image

Em yêu hởi ! Đừng trách anh bất nghĩa
Để đời này, anh mang nợ của em
Duyên mình thắm, bởi “tình chàng ý thiếp”
Nghĩa Tào Khang, tạo cuộc sống êm đềm.


Image%20result%20for%20heart%20rose

Cám ơn vợ lo cho tôi cuộc sống
Nguyện với lòng tôi chẳng bao giờ quên
Tôi còn sống tôi nguyện sẽ đáp đền
Công ơn vợ suốt đời tôi vẫn nhớ...


Song An Châu


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Nov/2018 lúc 12:04pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Dec/2018 lúc 7:32am

Tình Thư Của Một H. O.


Image%20result%20for%20lonely%20man%20pray%20pictures
Ánh nắng mặt trời xuyên qua khung cửa sổ làm Dũng choàng tỉnh. Ngước mắt nhìn đồng hồ, gần 9 giờ sáng. Dù muốn nằm nán thêm chút nữa, nhưng Dũng cần gọi phone cho người bạn tên Hùng, nên bật dậy nhanh đi vào phòng vệ sinh. Cầm điện thoại lên chàng bấm số:

- A lô, Dũng đây. Hùng có phải không?

- Hùng đây. Ông bạn tôi đó ư? Sao, khỏe không? Cuối tuần sao thức dậy sớm thế?
- Tôi vẫn khỏe, còn ông? Mấy tiệm nail của vợ chồng ông ra sao?
Rồi Dũng nói ngay mục đích cuộc gọi:
- Đêm qua đọc bốn câu thơ ông gửi qua email, cảm thấy hay tuyệt và có ý nghĩa quá. Ông lượm bài thơ nầy ở đâu thế?
- Hồi tháng rồi gia đình tôi đi dự lễ Vu Lan và nghe thuyết pháp ở ngôi chùa gần nhà. Bài pháp của sư cụ trụ trì có chứa đựng bốn câu thơ đó, hình như của Thiền sư Phước Hậu.
Không để Dũng cất tiếng, Hùng nói tiếp:
- Tôi biết ông phải thích bài thơ nầy, bởi vì ông đã nếm hương vị đạo pháp từ lâu. Chờ tôi đọc ông nghe bốn câu thơ nầy rồi hỏi ông vài câu.
Giọng Hùng rổn rảng đọc: 

"Kinh điển lưu hành tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Năm nay tính lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trong đầu một chữ Như ."

Hùng cười dòn dã trong phone:
- Đối với ông bạn của tôi có còn…." Chỉ giữ trong đầu một chữ Thư " hay không?
- Đến tuổi lục tuần rồi bạn tôi vẫn còn máu tếu. Ông có biết hôm nay là ngày gì của bà xã tôi không mà ông nói đùa như thế? Thôi bye nhe, tôi còn nhiều việc phải làm hôm nay.

Chữ "Thư" mà Hùng cố tình hỏi Dũng có thể xem là tên một tiểu thư trâm anh đài các, con nhà giàu sang và quyền quý. "Thư" còn có thể xem là những cánh thư tình màu xanh cho lứa tuổi yêu nhau, làm phương tiện chuyên chở tâm tình với nhau. Và đó còn là tên của người con gái mà Hùng là một chứng nhân cho cuộc tình của Dũng và Quế Thư, gần bốn thập niên trước. 

Sau cuộc chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972 chính quyền ban hành lệnh tổng động viên. Dũng và Hùng không đủ tiêu chuẩn học tiếp, phải vào trường sĩ quan Thủ Đức. 

Dũng hồi tưởng lại trong thời gian đợi chờ lên đường nhập ngũ, chàng thường có mặt hằng ngày ngồi tán dóc với đám bạn ở câu lạc bộ trong sân trường đại học Văn Khoa Sài Gòn. Thời gian nầy trường sắp hết hạn ghi danh cho niên khóa mới của các tân sinh viên. Trong mấy ngày liên tiếp ngồi bên ly cà phê, Dũng chú ý đến một cô gái không thể nào chen vào sát đến căn phòng phụ trách ghi danh. Cô gái nầy luôn vận chiếc mini jupe khá cao lộ đôi chân thon dài hấp dẫn, khuôn mặt trái soan với làn da trắng hồng có nét lai tây và đôi mắt to tròn, sâu, đen lóng lánh như hai hạt ngọc. Dù bản tính nhát gái nhưng biết cô gái đã mấy ngày qua chưa thể chen lấn để ghi danh học được, Dũng gắng lấy can đảm tiến đến trước mặt cô gái và ngỏ ý ghi danh học giùm cho cô gái. Cô gái ngước mặt nhìn Dũng rồi nhỏ nhẹ nói:
- Vẫn còn đông người chen lấn, làm sao ông ghi danh được?
- Ngày mai là hạn chót ghi danh, cô đưa hồ sơ cho tôi, bảo đảm bốn giờ chiều nay cô trở lại lấy hồ sơ mà tôi vừa ghi danh xong.
- Dạ, nhưng mà…
Để cô gái không nghi ngại Dũng chỉ tay vào căn phòng lo việc ghi danh và nói thật cho cô gái an tâm:
- Bạn tôi ở trong ban đại diện của trường, đang ngồi trong đó giúp việc ghi danh. Trưa nay tôi đến gặp hắn và nhờ ghi danh giùm cho cô. Cô đừng lo gì hết.

Buổi chiều gặp Dũng ở dưới câu lạc bộ Văn Khoa, Hùng đưa trả hồ sơ ghi danh của cô gái cho chàng rồi cười nói tếu:
- Xong rồi. Gớm, tên ai cũng thường có ba chữ, còn tên cô bạn mầy dài gấp đôi, tao viết mỏi cả tay!
Để rồi sau nhiều lần hẹn hò, tình yêu nở rộ lên trong lòng Dũng và Quế Thư bao giờ không hay. Có lẽ Dũng sắp đến ngày đầu quân vào quân đội, thời gian còn lại cho hai kẻ vừa nếm hương vị yêu đương quá ngắn ngủi, nên ngày nào chàng và Quế Thư cũng tìm cách gặp nhau. Trước ngày Dũng đi trình diện nhập ngũ, buổi chiều gió nhiều, mây đen che lấp hết ánh mặt trời như báo hiệu cơn mưa lớn sắp đổ xuống, Dũng đến lớp học của Quế Thư ở trên lầu ba đón nàng. Lớp học đã tan khá lâu, chàng trông thấy trong giảng đường chỉ còn Quế Thư và ông thầy người Mỹ đang trò chuyện với nhau. Thấy Dũng đến nàng ôm sách vở vội bước ra, trước cái nhìn không thân thiện của vị giáo sư người Mỹ. Sợ cơn mưa trút xuống chàng phóng xe nhanh đến rạp hát Eden. Đèn trong rạp vừa tắt, Quế Thư vùi đầu vào vai chàng, và những giọt nước mắt thấm ướt áo chàng.

Sau chín tháng thụ huấn ở quân trường Thủ Đức, Hùng vào sư đoàn bộ binh 21 ở tỉnh Chương Thiện, còn Dũng được chọn sư đoàn 7 bộ binh đóng ở tỉnh Mỹ Tho. Vì hoàn cảnh đất nước Dũng và Quế Thư phải tạm xa nhau, nhưng cả hai đều siêng năng thư từ , và chính những trang giấy màu xanh mỏng manh là chất keo sơn làm tình yêu giữa hai người bền chặt, thâm sâu hơn. 

Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt khiến Dũng rất khó được cấp phép về thăm người mình yêu. Sau gần trọn năm không gặp mặt nhau, vào khoảng ba giờ chiều ngày thứ bảy 28 tết năm Ất Mão 1975 một quân nhân gác cổng đi vào văn phòng sư đoàn, báo cáo với Dũng rằng có một thiếu nữ muốn gặp chàng. Nghe thế Dũng ngạc nhiên quá sức, tự nghĩ cô giáo Loan thường ghé thăm chàng ở trại gia binh, chứ có bao giờ đòi gặp chàng ở ngay văn phòng sư đoàn đâu. Tự nghĩ như thế nhưng chàng cũng đứng lên đi ra ngoài. Và ngoài sức tưởng tượng Quế Thư bằng xương bằng thịt, không màng hiểm nguy, từ Sài Gòn xuống đây thăm chàng! 

Đêm hôm ấy Dũng nhờ một thiếu úy khác trực giùm mình, trong căn phòng nhỏ hẹp và bừa bãi của chàng ở khu sĩ quan, hai người nằm ôm nhau tâm sự đến khuya bên tai nghe tiếng đại bác ầm ầm liên hồi. Nàng tiểu thư muốn ở lại với Dũng đến sáng thứ hai 30 tết mới trở về, nhưng Dũng lắc đầu dù trong lòng chàng chẳng muốn xa nàng, lòng buồn vô hạn bảo Quế Thư phải trở về sáng sớm ngày mai. Bởi vì chiến sự xảy ra trước mắt, kề cận sát bên mình, súng đạn bom nổ không chừa một ai, và do đó sự thương vong đến với người lính và thường dân chỉ trong tíc tắc. Tình yêu dành cho Dũng phải mảnh liệt lắm Quế Thư mới dũng cảm xuống đây thăm chàng, và cũng vậy, phải yêu Quế Thư thắm thiết lắm Dũng mới không sa ngã trước sự săn đón kiên trì của cô giáo Loan. 

Sáng hôm sau nhằm ngày chủ nhật 29 tết bến xe đò về thành phố Sài Gòn quá đông, Dũng phải năn nỉ chủ xe nhiều lắm mới có vé cho Quế Thư trở về. Cặp mắt to đen của Quế Thư đỏ hoe, nàng cứ luôn lấy khăn chặm mắt khiến lòng Dũng xốn xang yêu thương nàng vô vàn. Lòng trầm buồn đứng nhìn chiếc xe đò từ từ lăn bánh đưa Quế Thư về với nơi chốn an bình hơn, chờ đến khi xe chạy khuất dạng Dũng mới hấp tấp quay về căn phòng mình. Vừa mặc đồ áo trận xong chàng nghe tiếng gõ cửa, cô giáo Loan đến thăm với bánh chưng, bánh tét, kẹo mứt, trái cây, không thiếu món nào hết trong những ngày tết, nhất là luôn có hai cây thuốc lá Captain tặng chàng. Đã từ lâu Dũng biết tình cảm sâu nặng của Loan dành cho, nhưng vài lần chàng đã khéo léo nói xa gần cho Loan hiểu đời lính trận bấp bênh, tử thần ở trước mắt, cũng chẳng thuyết phục được Loan dang chàng ra. Trái lại Loan kiên nhẫn bày tỏ tấm lòng đôn hậu và hiền hòa của mình, mong mỏi chiếm được con tim chàng trong tương lai.

Chiến cuộc càng xảy ra khốc liệt ở vùng một và vùng hai, và sau cùng thành phố Sài Gòn phải đớn đau thất thủ. Vào lúc 10 giờ sáng thứ tư ngày 30 tháng 4, vị Tổng Thống sau cùng của miền Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng và kêu gọi quân đội khắp nơi buông súng, giải tán. 

Đúng một tuần lễ sau cũng tại bến xe đò mà mới hơn hai tháng trước Dũng đưa Quế Thư trở lại thành phố, hôm nay trong bộ đồ dân sự, chàng thất thểu trèo vào xe về Sài Gòn. Cơn mưa đổ xuống xối xả trên đường về thành phố. 

Khoảng 5 giờ chiều Dũng mượn xe em gái lái về hướng nhà Quế Thư. Mưa đã tạnh từ lâu mà sao như có mưa sa bảo táp trong lòng Dũng khi biết căn nhà Quế Thư đã có chủ mới! Quế Thư và toàn thể gia đình đã mất dạng trước ngày thành phố Sài Gòn đổi chủ thay tên.

*
Hùng và Dũng cùng trình diện để đi tù cải tạo. Hầu hết trại viên đều cảm thấy hạnh phúc trong ngày chủ nhật, vì ngày nầy trại cải tạo cho phép các bà mẹ, bà vợ, thân nhân của họ đến thăm và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho họ. Thật giống như lần Quế Thư đột ngột và bất ngờ xuống thăm Dũng vào buổi chiều 28 tết, lần đầu tiên cô giáo Loan lặn lội đường xa vào thăm chàng, hai tay xách hai túi quà nặng trịch khiến chàng cảm động hết sức. Và cứ thế Loan tiếp tục nhiệm vụ thăm nuôi Dũng như vai trò của một người vợ hiền, khiến Hùng nằm kế bên nhau trong trại phải buộc miệng:
- Mầy số đẻ bọc điều, cô giáo yêu thương mầy quá cở thợ mộc còn chờ gì mà không lấy làm áp trại phu nhân chứ!
- Tao chưa biết tin tức gì của Quế Thư, nỡ lòng nào phụ ải tình nàng hỡi mầy?
- Mầy tự dối lòng chứ ai không biết Quế Thư và cả gia đình đều may mắn di tản ra nước ngoài rồi, bằng không nàng phải vào đây thăm mầy rồi. 

Hơn ba năm sau với cấp bậc thiếu úy, Dũng và Hùng được phóng thích về với gia đình. Với tính năng động và lanh lẹn, Hùng lập đình với cô gái gốc Hoa và vượt thoát bằng đường biển vào cuối năm 1979, sau nầy được đinh cư ở thủ phủ Boston tiểu bang M***achusetts. Còn cuộc sống Dũng sau đó không đến nổi tệ, chàng mưu sinh bằng nghề dạy Anh ngữ cho các gia đình muốn thoát ly ra nước ngoài. Chàng vẫn còn được cô giáo Loan ghé thăm, nhiều lần Dũng không có mặt ở nhà, nàng vẫn chịu khó đợi chờ chàng về, khiến gia đình chàng phải thương mến và có cảm tình rất nhiều với Loan. Không nói ra Dũng cũng biết Loan mong mỏi nên duyên với chàng, vì vậy một hôm Dũng trải thẳng nỗi lòng mình cho Loan rõ:
- Loan à, thật là không hợp tình và hợp lý khi lấy em về làm vợ mà tâm tư anh cứ nghĩ đến bóng người khác.
- Em tự biết em quê mùa, xấu xí, không bằng vị tiểu thư xinh đẹp, đài các học cao của anh đâu. Nhưng em tự tin em sẽ mang hạnh phúc cho anh và hứa sẽ là người vợ phục vụ cho anh suốt đời suốt kiếp.

Khi nghe Loan nói như thế Dũng giương mắt nhìn nàng với sự ngạc nhiên và thán phục, không ngờ Loan cũng biết những điều Đức Phật dạy bảo. Nếu trong thời gian ba năm dài trong trại cải tạo Dũng không làm quen với kinh điển Phật pháp, thì hôm nay nghe Loan thốt ra lời nói trên, ắt Dũng phải lấy làm tự mãn chứ đâu có cái nhìn ngưỡng phục nàng. Bởi vì Dũng nhớ lại một thời Đức Phật đến dự lễ cúng dường tại nhà của trưởng giả Cấp Cô Độc. Lúc ấy Đức Thế Tôn nghe nàng dâu của cư sĩ Cấp Cô Độc đang lớn tiếng với chồng, nên nhân đó Đức Thế Tôn thuyết bài pháp về bảy loại vợ, trong đó loại vợ như nữ tỳ được Đức Thế Tôn tán thán và ca ngợi. 

Hơn 13 năm sau Dũng và Loan cùng đứa con gái 12 tuổi sang Mỹ theo diện HO, và đến tá túc với gia đình Hùng. Lúc ngồi trên phi cơ bay qua Mỹ, Loan nheo mắt nhìn chồng cười:
- Thế là anh có cơ hội gặp cô tiểu thư của lòng anh rồi nhé.
- Cô ta ở đâu đến nay anh cũng không biết. Giả dụ cô ta ở Mỹ, bộ em tưởng đất Mỹ nhỏ bé như xứ Mỹ Tho của em sao mà dễ gặp.
Tuy nói thế Dũng có chút mơ tưởng biết đâu duyên lành đến cho chàng trùng phùng với Quế Thư. Rồi chàng cứ miên man nghĩ tiếp, nhưng gặp được Quế Thư có ích lợi chi đâu, nàng chắc rồi cũng phải lấy chồng, có con, thời gian còn đâu nhớ về bóng hình cũ, kỷ niệm xưa? Giọt nước mắt của một tiểu thư tuôn rơi cho nỗi nhớ nhung xa cách năm nào, hẳn phải thay thế bằng những tiếng cười hạnh phúc bên chồng con trong nhà cao cửa rộng. Nhớ chi về dĩ vãng một thời tuổi trẻ chóng đổi thay! 

Vợ chồng Hùng có hai con, hiện là chủ tiệm Nail, cuộc sống sung túc và khá giả. Còn Dũng tự biết phận mình như trâu chậm uống nước đục, ở Boston quá khó tìm việc làm nên vợ chồng chàng phải đành giã từ lòng ưu ái và tốt đẹp của vợ chồng Hùng, di chuyển đến thành phố Garden Grove, California sinh sống. May mắn làm sao vợ chồng Dũng được một hảng điện tử nỗi tiếng nhận vào làm ***embly, lương bổng dĩ nhiên không cao nhưng cũng khiến một HO mới qua Mỹ như chàng cảm thấy mãn nguyện vô cùng. Cuộc sống của vợ chồng Dũng lẳng lặng êm đềm trôi, bình dị và hạnh phúc bên nhau. Thỉnh thoảng Dũng tình cờ gặp vài người bạn cũ học ở đại học Văn Khoa, chàng hỏi bóng gió tin tức về Quế Thư nhưng không ai biết gì cả. 

Thời gian trôi nhanh như gió thoảng mây bay, vợ chồng chàng sống vui vầy bên nhau đã hơn 10 năm nơi xứ người, cho đến một ngày Loan biết được hung tin khi bác sĩ khám phá nàng bị ung thư ngực đến thời kỳ trầm trọng. Bởi thấm hương vị Phật pháp từ lâu, nàng trầm tỉnh, không vật vã than khóc cũng không oán trách trời xanh, thấu hiểu sự vô thường theo nhau như sáng tối, như lật trở cái bàn tay, nên nàng an bình tự tại chấp nhận số phận nghiệt ngã. Gần một phần tư thế kỷ sống bên Dũng, Loan hết lòng thương yêu, lo lắng và săn sóc cho chồng cho con, đổi lại nàng được chồng quí con ngoan khiến lòng nàng cảm thấy an vui và ấm ám vô cùng. Một đêm nằm gọn trong lòng Dũng, bằng giọng nói nửa như đùa nửa như trối trăn Loan thì thầm:
- Nè ông xã, sau nầy ráng đi tìm cô nàng tiểu thư của anh nhe.
- Em đừng nên nói đùa, anh chỉ biết có em mà thôi. Không có ai, không còn ai ở trong hay ở ngoài anh hết. 
Ngước mắt âu yếm nhìn chồng, Loan nở nụ cười hiền hòa:
- Anh có bao giờ biết đã nhiều đêm tên tiểu thư được anh thốt lên trong cơn mớ ngủ hay sao?
- Em cứ trêu ghẹo anh mãi. Thôi khuya rồi anh tắt đèn để em ngủ trong vòng tay anh nhe.
- Mình có chịu em giúp tìm cô tiểu thư không?
- Hoàn toàn không. Em nhắm mắt ngủ đi. 
Dũng tin lời tiết lộ của vợ là sự thật, càng khiến chàng kính phục và yêu thương vợ thắm thiết. Loan đã không hề tỏ vẻ ghen tương hay giận dữ gì hết, vẫn một lòng chung thủy với chồng, săn sóc và chìu chuộng chồng hết cả tấm lòng sắt son. Vài tháng sau trong trạng thái tâm vắng lặng và tỉnh không, Loan nhẹ nhàng trút hơi thở trước mặt chồng con và thân nhân ngay trong nhà. 
Nói chuyện qua phone với Hùng về bốn câu thơ của thiền sư Phước Hậu xong, Dũng gọi phone nhắc nhở cho đứa con gái đang học bên New York biết hôm nay là ngày giỗ đầu tiên của Loan. 

Thời tiết vào mùa thu ở miền nam California mát mẻ và trong lành, Dũng một mình lái xe đến nghĩa trang Vườn Hồng, nơi an nghỉ ngàn thu của người vợ yêu quí. Gió chiều nay thổi mạnh, lá rơi rụng đầy khắp nghĩa trang phủ lấp bãi cỏ xanh rì và nằm dầy đặc bên phần mộ Loan. Đốt xong nén nhang cho vợ, hồn Dũng dật dờ đạp trên đống lá khô đi trở về bãi đậu xe với nỗi cô đơn và hui quạnh. Bước vào chiếc Honda Acord, Dũng đề máy xe và bật nhạc lên, bài ca " Ngẫu Nhiên" của Trịnh Công Sơn mà vợ chàng rất ưa thích phát ra: 

"…Mệt quá đôi chân này, 
tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi 
Mệt quá thân ta này, 
nằm xuống với đất muôn đời 
Kìa còn biết bao người, 
dìu dắt tới quanh đây 
Kìa còn biết bao người, dìu dắt tới quanh đây…." 

Câu cuối của bài hát chí lý quá! Trước sau, sớm muộn, ai rồi cũng dắt dìu tới quanh nghĩa trang Vườn Hồng. Dũng vừa lùi xe ra vừa vói tay vặn volume lớn lên một chút, bỗng chàng nghe một tiếng ầm không to lắm phía đằng sau xe chàng. Dũng biết xe chàng bị đụng chạm với một chiếc xe khác rồi. Tắt máy chàng bước ra xe, cùng lúc một người đàn bà vận chiếc jupe màu đen cũng bước ra chiếc xe Mercedes E350 vừa va chạm với xe chàng. Hình như người đàn bà nầy là người Á Đông, chàng nói " Hi" rồi bước đến xem xe mình bị đụng như thế nào. Vết đụng bị lỏm nhẹ ở ngay chính giữa phía sau xe, nên Dũng đoán rằng chàng hay người đàn bà vô ý lùi xe cùng một lúc mà đụng nhẹ vào nhau. Tự nghĩ đúng là lỗi của mình, bởi tâm tư Dũng chú tâm lắng nghe bài hát bài ca "Ngẫu Nhiên" nầy. Từ ngày Loan bạo bệnh mất đi, mỗi khi nghe bài ca nầy Dũng tưởng như người vợ dấu yêu đang thầm thì bên tai mình vậy. 

Lúc ấy người đàn bà tiến gần đến Dũng, không nói lời nào, nhìn chàng đăm đăm, hai hàng lệ rơi trên má bao giờ, rồi kêu lên: "Ông, anh Dũng phải không?". Vừa nghe qua thanh âm đó, chàng nhìn kỹ người đàn bà đứng đối diện và sửng sờ nhận ra là Quế Thư! Dũng kinh ngạc reo: 
" Quế Thư . Em đây sao?". Hỏi thế nhưng chàng dang hai cánh tay rộng ra ôm ghì Quế Thư vào lòng. Có cặp vợ chồng Mỹ già đi ngang qua tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy chủ nhân hai chiếc xe đụng nhau, lại ôm ghì lấy nhau với niềm hân hoan trong nước mắt ràn rụa lăn dài trên má người đàn bà! 
Quế Thư nghẹn ngào trong vòng tay Dũng:
- Ngày đêm em cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát cho được gặp lại anh, chỉ cốt nói cho anh hiểu lý do em rời anh.
- Anh vui mừng lắm gặp được em. 
Lau xong nước mắt Quế Thư nhìn Dũng đắm đuối hỏi:
- Anh viếng thăm mộ phần ai? Vợ anh phải không? Chị mất lâu chưa? 
- Phải, vợ anh đã mất được tròn một năm rồi. 
Nghe thế Quế Thư nói muốn đốt nén hương trước mộ Loan, đồng thời kể chàng nghe những gì xảy ra cho nàng kể từ ngày thành phố dấu yêu Sài Gòn đổi tên. Từ lúc bất ngờ gặp lại Quế Thư trong lòng chàng đã nhớ ngay đến lời nói của vợ chàng trước lìa đời, muốn giúp chàng tìm gặp nàng tiểu thư ngày xưa của chàng. Vì vậy chàng đồng ý sánh vai với Quế Thư chầm chậm đi bộ trở lại mộ phần Loan và chăm chú lắng nghe người yêu ngày xưa kể lại chuyện đã qua ở vào thời điểm hai người xa nhau. 

Với giọng nhỏ nhẹ và đều đều nàng kể như anh biết ba em là một viên chức cao cấp trong bộ Ngoại Giao. Vào ngày thứ năm 24 tháng tư năm 1975 ba em đã thu xếp cho gia đình em vào tòa đại sứ Mỹ trước và ông sẽ đi sau trong vài ngày tới. Mạ em không đồng ý, nói toàn thể gia đình cùng đi một lúc chứ không chịu để ba em đi sau một mình. Ba mạ cãi vã nhau một hồi, cuối cùng ba em bắt buộc chìu theo ý của mạ em khiến em nhẹ thở, bởi vì lúc ấy em lo lắng cho anh cùng cực lòng nào bỏ đi! Anh ơi, em vẫn còn nhớ như in những ngày kế tiếp, lòng em luôn nghĩ đến anh và hằng đêm cầu khẩn Phật Bà gia hộ cho anh vượt qua tai biến. Qua ngày thứ sáu 25-4 em có hai giờ với giáo sư Paul, em thay đồ đi đến trường. Lớp học có le ngoe chưa đến 10 người nên sau khi nói vài lời, giáo sư cho tan lớp học ngay. Paul giữ em lại, lúc ấy lớp học trống rỗng và ông ta tỏ tình với em. Thật sự em đã biết Paul có cảm tình đặc biệt với em từ lâu, nhưng Paul lớn gần gấp đôi tuổi em, hơn nữa con tim em đã trao trọn về anh rồi, lời nói của ông Paul quả là thừa thãi. Hôm đó Paul cho em biết Sài Gòn rồi cũng xảy ra giống như Campuchia thôi, và khuyên em phải nên tìm cách rời ngay Sài Gòn. Ông ta còn nói đã được lệnh chuẩn bị hồi hương vào cuối tháng nầy, và hỏi em có muốn về Mỹ với ông ta hay không? Sau cùng Paul đưa em số phone và căn dặn em cần gì hãy gọi cho ông ta trước tháng tư nầy. Nghe đến đây Dũng cắt ngang lời kể của Quế Thư:
- Ông Paul có phải là giáo sư đã ném cái nhìn kỳ quái đến anh lúc anh đến lớp học đón em, em còn nhớ không?
- Em không nhớ điều nầy.
- Và em đã gọi cho Paul vào phút cuối? 
Không trả lời Dũng Quế Thư tiếp tục kể như thể sẽ không có cơ hội nào nữa cho nàng thổ lộ tâm tư đã chôn kín bấy lâu nay. 
-Sáng sớm ngày thứ ba 29-4 khoảng gần 8 giờ sáng chiếc xe chở toàn thể gia đình em đã có mặt trước bên ngoài Tòa Đại Sứ Mỹ, đã thấy đám đông cố gắng chen lấn để lọt vào trong và bị lính Mỹ chặn lại hết, kể cả chiếc xe ba em có giấy thông hành cao cấp và đặc biệt cũng không được phép lái vào trong Tòa Đại Sứ. Khuôn mặt ba em thất sắc, tức giận lên đến cực điểm rồi tuyệt vọng quay về nhà. Bước vào nhà ba em to tiếng với mạ ngay, còn mạ ôm mặt khóc òa. Tâm trạng em lúc ấy hoang mang và mâu thuẫn quá, anh ở xa không biết được đâu, không khí bao trùng khắp nơi thành phố Sài Gòn với sự sợ hãi vô bờ, ai cũng tìm cách thoát đi, nhất là những người có quyền có thế như ba em. Bởi quá đỗi tuyệt vọng không vào Tòa Đại Sứ Mỹ được, ba em trút cơn giận dữ vào mạ, đến chưa bao giờ em thấy ba em hung tợn như thế. Nằm trong phòng nghe rõ lời lớn tiếng của ba và tiếng khóc của mạ, khiến lòng em chán nản và buồn bã quá. Vì vậy em lấy lá thư mới nhất của anh mà em vừa nhận được mấy ngày qua, em đọc đi đọc lại nhiều lần, anh viết bi quan và tiêu cực quá cho cuộc tình đôi ta khiến em khóc sướt mướt. Bỗng đâu đứa em trai chạy lên gõ cửa phòng nói có ông Mỹ nào cần gặp em. Gặp Paul ở dưới lầu, hắn nói rất nhanh, không cần em phải đi theo ông ta, mà chỉ muốn giúp đưa gia đình em vào phi trường Tân Sơn Nhất rồi ông ta phải quay gấp trở vào Tòa Đại Sứ. Khoảng chừng nửa giờ sau ba mạ, hai đứa em và em ngồi trong xe Paul và ông ta lái xe nhanh về hướng phi trường. 

Trên bãi cỏ xanh thênh thang hai người dừng chân trước phần mộ Loan. Nghĩa trang chiều nay đìu hiu vắng người, mặt trời từ từ chìm bóng, gió càng lúc càng thổi mạnh kêu rì rào bên tai, Quế Thư nhìn thẳng vào Dũng khuôn mặt thoáng nét u buồn như muốn khóc, ngập ngừng khá lâu mới thốt lên lời:
- Anh Dũng, anh cần phải biết về chuyện…
Thấy Quế Thư ấp úng không nói tiếp, buộc Dũng phải hỏi:
- Chuyện gì, anh đang lắng nghe em.
- Chị Quế Thư cũng đã nằm dưới lòng đất lạnh như vợ anh vậy!

Vừa nghe qua Dũng bỗng rợn tóc gáy, sửng sờ nhìn người đàn bà đang đứng đối diện. Dù là một quân nhân, đã chứng kiến nhiều cái chết và đã nghe nhiều chuyện hồn ma bóng quế trong trại tù. Thế mà nơi nghĩa trang rộng thênh thang, vắng bóng người và gió vi vu thổi liên tục, cũng khiến Dũng rùng mình, ớn lạnh khi nghe người đàn bà trước mặt bảo rằng nàng không phải là Quế Thư! Hít vào hơi thở thật sâu giọng Dũng run run hỏi:
- Vậy em, vậy cô là. .? 
- Em là Quế Phương, em ruột của chị Quế Thư. 

Trước sự ngạc nhiên và ngỡ ngàng của Dũng, Quế Phương nói với giọng u buồn:
- Anh chưa bao giờ gặp em, nhưng em đã nhìn thấy anh hai lần rồi ở tại nhà em. Lúc trông thấy anh và khi nghe anh gọi tên chị Quế Thư em đoán chắc là anh. Câu chuyện em kể anh nghe dựa vào quyển nhật ký của chị Quế Thư để lại và dặn dò em phải ráng tìm gặp anh và kể cho anh biết tự tình của chị.

Quế Phương cho biết nàng kém hơn chị nàng hai tuổi, vóc dáng thon gầy, khuôn mặt trái soan như chị và giọng nói của hai chị em nghe na ná giống nhau. Hơn nữa thời gian hơn ba thập niên trôi qua làm sao Dũng không nhận lầm nàng là Quế Thư. Bước chân nặng nề của hai người trở về nơi đậu xe, Quế Phương vẫn đều đều kể cho Dũng nghe về cái chết thương tâm của Quế Thư. 

Bằng vào những trang nhật ký của người chị để lại, Quế Phương hồi tưởng lại vào những năm tháng đầu tiên người Việt đến tị nạn trên xứ Mỹ vào năm 1975, Chính Phủ Mỹ đã lập ra ba trại tỵ nạn ở ba tiểu bang khác nhau và gia đình Quế Thư được đưa đến trại tị nạn Fort Chaffe ở tiểu bang Arkansas. Vì vậy đã không có sự khó khăn nào cho Paul kiếm tìm Quế Thư và Paul là người đứng tên bảo trợ cho gia đình nàng xuất trại về định cư ở thành phố Austin tiểu bang Texas với chàng. Sau đó Paul đã giúp tìm việc làm thích hợp cho ba mạ, làm đơn xin học bổng cho các chị em Quế Thư đi học và hơn một năm sau gia đình nàng hoàn toàn ổn định với cuộc sống mới trên đất khách. 

Nghĩa cử tốt đẹp của Paul đã hoàn toàn chinh phục song thân Quế Thư, nên khi Paul ngỏ ý xin cưới Quế Thư ba mạ nàng không những đồng ý, mà còn mạnh mẽ ép buộc Quế Thư phải bằng lòng lấy Paul làm chồng. Ba nàng luôn miệng nhắc nhở nếu Paul không xuất hiện vào phút chót đưa toàn thể gia đình vào phi trường Tân Sơn Nhất và rời khỏi Sài Gòn, chắc rồi ba nàng phải nằm trong trại cải tạo biết bao giờ trở về! 

Vì chữ hiếu Quế Thư phải đành để Paul giúp gia đình nàng rời bỏ Sài Gòn và xa rời Dũng. Nhưng lòng nàng vẫn còn nhớ còn yêu Dũng da diết và có mặc cảm phạm tội đã rời bỏ chàng không lời giả biệt. Quế Thư tự nghĩ con tim nàng đã thuộc hoàn toàn về Dũng, ngày nào chưa biết tin tức của chàng, nàng vẫn sống trong nỗi hy vọng đợi chờ mong manh ngày tạo ngộ với chàng. Do vậy dù ý thức được cái ơn lớn lao của Paul đối với gia đình nàng, nàng cũng không vì chữ hiếu thêm một lần nữa mà vâng lời song thân. Quế Thư mạnh mẻ khước từ lời cầu hôn lần thứ hai của Paul. 

Sự cương quyết từ chối của Quế Thư đã khiến ba nàng ngạc nhiên và tức tối, nên ông đã không tiếc lời đay nghiến nàng là đứa con gái bất hiếu đối với đấng sinh thành và bất nghĩa đối với Paul nữa. Mạ cũng cùng ý nghĩ với ba nàng, tuy không lớn tiếng nặng lời như ba nàng, nhưng đêm nào cũng vào phòng ngủ Quế Thư ủ ê than thở nếu không có sự giúp đỡ của Paul thì gia đình mình không biết giờ nầy ra sao. Sau đó mạ nàng ca ngợi Paul hết lời, coi chàng không khác gì ông thánh! Nhìn Dũng đang kiên nhẫn lắng nghe lời mình kể, Quế Phương nghẹn ngào kể tiếp một cách vắn tắt về cái chết của chị nàng. Trước căn bệnh trầm cảm đã cưu mang từ ngày xa quê hương và người tình, và trước sự ép buộc quá nặng nề từ song thân, một buổi chiều ở nhà một mình Quế Thư đã tự hủy mình bằng lọ thuốc ngủ. 

Quế Phương ngưng kể, lấy khăn lau những giọt lệ ứa trên mi, đôi mắt tỏa ra nét u buồn vời vợi nhớ về biến cố thưong đau xảy ra cho gia đình nàng bởi tinh thần thủ cựu của song thân. Gió không ngừng thổi mạnh nghe ào ào, lay động những chiếc lá vàng khô nằm dưới mặt cỏ bay tung tóe, cũng không mạnh bằng ngọn bát phong trong lòng Dũng đang nổi lên từng cơn cho sự kết thúc đời người quá não nùng, bi thảm của người tình dấu yêu năm xưa! 

Quế Phương không thể kể tiếp nữa và Dũng cũng chẳng muốn lắng nghe thêm, bước chân nặng trịch của hai người rồi cũng dừng lại nơi chỗ đậu xe. Đưa miếng giấy có số phone và địa chỉ nhà mình cho Dũng, Quế Phương buồn bã nói:
- Anh đến gặp em rồi em sẽ đưa cho anh báu vật mà chị Quế Thư cất giữ đến cuối đời. Đó là những cánh thư màu xanh của anh được chị Quế Thư giữ kín trong hộp bánh LU. Và quyển nhật ký với những trang giấy vàng đục, loang nhòe nước mắt cùng dòng chữ cuối nhờ em hãy gắng tìm gặp anh.
- Vâng, anh sẽ đến gặp em.
Trước khi đóng cửa xe Quế Phương âu yếm nhìn Dũng nhỏ nhẹ:
- Chồng em đã qua đời hơn ba năm rồi, đứa con trai của em đã sống riêng từ lâu. Em bây giờ đang sống cuộc đời còn lại thừa thãi và cô đơn quá. Mong anh đến với em, nhé anh.
Thấy vẻ mặt Dũng u buồn không trả lời mình, Quế Phương nói dọa:
- Em sẽ báo cáo với bảo hiểm xe nếu anh không gọi em đó!
- Vâng, anh sẽ gọi em trong nay mai.

*
Đứa con gái của Dũng mang hai ly trà xanh cho Hùng và Dũng đang ngồi bên nhau trong phòng khách, rồi lui ngay vào trong. Đôi bạn hình như không còn gì để nói, bởi vì Hùng về thăm bạn từ mấy ngày qua, đã được nghe Dũng cho biết quyết định giã từ cuộc sống tại gia và sáng sớm mai Hùng sẽ chở bạn lên chùa làm lễ xuất gia.

Hơn nửa năm qua không một lần nào Dũng gọi phone thăm Quế Phương kể từ ngày Dũng được nghe nàng kể cho biết sự hủy mình của chị Quế Thư, là người tình năm xưa của Dũng. Thật sự ý tưởng xuất gia đã nẩy mầm từ khi người vợ tình nghĩa của chàng bạo bệnh qua đời. Và khi được biết cái chết quá bi thương cho sự thủy chung của Quế Thư đối với mình, càng khiến Dũng dứt khoát thực hiện ý muốn xuất gia ở cuối đời. 
Nhìn mái tóc trắng xóa hết trên đầu Hùng, Dũng liên tưởng đến ngày mai trên đầu mình:
Ngày mai con xuống tóc 
Lánh xa đời ô trọc 
Nguyện cho khắp tất cả 
Niềm an lạc hạnh phúc 

Hùng nâng ly trà xanh lên nhìn bạn, thấy cái nhìn tự tại và hiền hòa của Dũng cũng cầm ly trà xanh trong tay nhìn mình. Đôi bạn tâm giao từ thời trung học nhìn nhau như thầm hiểu từ đây và mãi mãi từ đây, trong lòng Dũng:"Chỉ nhớ trong lòng một chữ như". Như có nghĩa là đấng Như Lai của muôn loài. 

Phạm Thái 
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Dec/2018 lúc 9:02am

Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku

baomai.blogspot.com
Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số.

Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng.

Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng – là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu.

baomai.blogspot.com

Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Henessey. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”.

Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng. anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

baomai.blogspot.com


Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:

– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?

Tôi khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!

– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?

Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.

Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.

Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:

– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm màu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận,  Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu.  Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân  kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm.

Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh.

Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.

Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:

– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?

Vị linh mục buồn bã:
– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.

Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.

Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.

- Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?

Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:

– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.
Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.

– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện một lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

baomai.blogspot.com

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặt.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc.

Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:

– Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.

Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.


Phạm Tín An Ninh




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Dec/2018 lúc 9:03am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2018 lúc 8:00am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22002
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Dec/2018 lúc 9:59am
Một lát cắt của chiến tranh


Image%20result%20for%20real%20burningchristmas%20candle

Nửa đêm, biển động! Hắn tỉnh dậy chậm chạp mặc quần áo rồi ra đứng trước ban thờ châm một nén hương, chỉ một nén hương cắm vào bát hương trên bàn thờ rồi cứ thế đứng lặng chăm chăm nhìn vào hai bức ảnh trên ban thờ. Một bức ảnh là một ông già, có lẽ là bố hắn. Lồng cùng bức ảnh là một tờ lịch đề ngày 18 tháng tư .Dưới bức ảnh ấy là vỏ của một chai thuốc trừ sâu được đặt trên những quyển sách chữ nho đã cũ nát cùng năm tháng. Bên trái ban thờ là ảnh một người đàn bà còn rất trẻ và cũng có một tờ lịch cùng đề ngày mười tám tháng tư . Dưới bức ảnh là một sợi dây thừng được xếp lại thành một bó dài.
Hắn cứ đứng như thế cho đến khi cái chấm đỏ cuối cùng trên cây nhang tắt hẳn , tàn của chiếc nhang không gãy rụng mà mà uốn cong về phía hắn. Đợi cho khói hương tan hết, hắn mở cửa đi ra ngoài bãi biển.
.Năm nào cũng thế, cứ đúng đêm nay hắn lại ra đứng suốt đêm bên bờ biển và hình như từ khi hắn đến ở đây năm nào vào đêm nay biển cũng động. Đêm mưa bão, bầu trời đen kịt. Những đám mây dông vần vũ che kín cả bầu trời. Xa xa phía cuối đường chân trời nhưng lằn chớp trắng lóa đang đua nhau rạch nát trời đêm . Những con sóng lừng đen ngòm cao năm sáu mét lừng lững từ ngoài khơi xa xô lại phía hắn rồi đâm sầm vào vách đã dựng đứng của một dải núi ăn ra biển để lại một cột nước trắng xóa . Những con sóng liên tiếp nhau như muốn xô đổ vách núi . Gió hú lên những tiếng hú dài điên loạn. Trời giận dữ! Biển cuồng nộ còn hắn cứ đứng lặng im bất động phóng tầm mắt hút về phía chân trời.
- Anh ơ...i
Một tiếng gọi vọng lên từ lòng biển sâu thẳm.
-Con ơ....i
Một con sóng lừng hất tung tiếng gọi con nức nở lên cao để ngọn gió điên cuống ném tiếng gọi ấy về phía hăn. Hắn nhô người vươn tay ra phía biển như muốn níu giữ, nắm bắt một cái gì. Rồi bỗng nhiên hắn nghe thấy một tiếng thì thào đứt quãng.
-Đ..ừ....tr...á...ch v..ợ c...on.

Trời bắt đầu mưa. Bỗng ai dó khoác lên vai hắn một chiếc áo mưa. Hắn quay lại. Con gái hắn. Hắn nhìn con gái một thoáng trong ánh mắt lộ ra một tia sáng cảm động rồi hỏi bằng một giọng trầm đục.
-Con về bao giờ thế?
-Con vừa về. Vào nhà không thấy bố con biết là bố lại ra đây. -Giọng cô gái bỗng trở nên cầu khẩn. -Về thôi bố! Trời bắt đầu mưa rồi.
Hắn cắn môi, nuốt khan một cái như định nói điều gì nhưng rồi hắn dừng lại chậm chạp cùng cô con gái quay lại ngôi nhà bên bờ biển.
-Năm nay bố vẫn không cho em con về giỗ mẹ hả bố?

Tiếng cô gái hỏi, hắn chỉ khẽ gật đầu. Một tia chớp bừng lên đủ giúp cho cô gái nhìn thấy hai hàm răng hắn nghiến lại. Tia chớp dội vào mắt hắn để rồi từ đấy hắt ra một tia sáng âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Cô gái im lặng không hỏi gì nữa. Cô sợ!
*
* *
Hôm sau nhà hắn có giỗ. Không có khách khứa, chỉ độc nhất có hai bố con. Hắn châm ba cây nhang cắm lên bát hương, không chắp tay khấn vái mà chỉ đứng lặng nhìn không chớp mắt vào hai bức ảnh, một ảnh ông già bố hắn và một ảnh một người đàn bà còn rất trẻ vợ hắn. Con gái hắn đứng cạnh chắp tay lầm nhầm khấn tuy là khấn rất nhỏ nhưng vì đứng ngay nên cạnh hắn vẫn nghe thấy rất rõ.
-Ông ơi! Mẹ ơi! Xin hai người hãy phù hộ cho bố con có thể quên đi!.
Nghe con gái khấn, tự nhiên môi hắn nhếch lên một nụ cười cay đắng và từ đôi mắt già nua, nhăn nheo, một giọt nước mắt, chỉ một giọt thôi, trào ra rơi xuống làn môi đã héo quắt và nứt nẻ một giọt mặn chát.
Hương tàn, con gái hắn hạ mâm cỗ xuống còn hắn rót rượu ra chén và uống! Con gái hắn ngồi cạnh, không nói gì chỉ thỉnh thoẳng gắp thức ăn vào bát cho bố và nói với giọng nằn nì.
-Bố ăn miếng này đi .
Còn hắn , hình như hắn không dám cãi lời con gái, hắn gắp lấy miếng thức ăn mà cô vừa bỏ vào trong bát đưa lên miệng. Mắt hắn đã kè đỏ.
-Có phải con vẫn muốn biết ông và mẹ con chôn ở đâu phải không?
Hắn bỗng hỏi. Mắt cô gái sáng lên, nhưng rất nhanh chóng cô đã che dấu được tia sáng đó.
-Vâng! - Cô nói nhỏ . –Con muốn xây mộ cho ông và mẹ bố ạ. Bố nói cho con biết đi.
Hắn đặt chén rượu xuống bàn trân trân nhìn con gái. Không ai đọc nổi ánh mắt ấy nghĩ gì. Đột nhiên, hắn cầm chén rượu còn đầy nguyên lên uống ực một nhát cạn trơn rồi hất hàm ra phía biển nói bằng một giọng khê đục.
-Ở đó!
Mắt cô gái hơi nhíu lại tỏ vẻ nghi ngườ.
-Sao bố bảo ngày ấy bố chôn ông và mẹ ở quê cơ mà.
Ừ! -Hắn khẽ gật đầu thừa nhận. –Nhưng rồi sau đó bố đã quay trở về quê đào trộm mộ hai người mang cốt về đây hỏa táng. Bố đã trộn tro của hai người vào nhau và mang rắc xuống biển.
- Vào đêm hôm nay hả bố
Cô gái hỏi, hắn khẽ gật đầu. Cô gái không hỏi gì nữa. Cô biết bố đã nói thật. Năm nào cũng thế cứ đúng đêm hôm giỗ là cô lại thấy bố mình ra đứng suốt đêm bên bờ biển
Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ! Một nỗi sợ vô hình ám ảnh cô. Đã bao nhiêu năm rồi bố cô luôn giấu kín điều này . Sao hôm nay ông lại nói ra? Cả hai im lặng ngồi ăn. Cái im lặng ngột ngạt của một cơn bão sắp kéo đến.
-Em con ….dạo này ….thế nào?
Hắn hỏi giọng ngắc ngứ khó nhọc. Hình như hắn phải dồn hết nghị lực để hỏi câu hỏi đó. Hỏi xong, hắn lại nâng chén rượu lên uống ực một nhát như để chiêu đi một cái gì vẫn còn vướng víu trong cổ họng. Cô gái nhìn bố. Cô đắn đo không biết mình nên nói với bố thế nào. Một cái gì lành lạnh chạy dọc sống lưng cô. Chưa bao giờ ông hỏi về đứa em trai của cô. Đây là lần duy nhất kể từ khi ông bỏ đi để lại toàn bộ tài sản rất lớn cho hai chị em với một mảnh giấy với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi.
“Con hãy chăm sóc em thay bố”
-Nó vẫn tốt bố ạ . Nó vừa nhận được học bổng nghiên cứu sinh sau tiến sĩ của trường đại học Harvard Có lẽ tháng sau nó đi Mĩ.
-Thế à!
Hắn buông hai từ gọn lỏn rồi lại nâng chén rượu lên. Cô gái đột nhiên giữa lấy tay hắn, cô quỳ sụp xuống ngước lên nhìn bố giọng run run.
- Đừng uống nữa! Con xin bố . Sao bố lại hận em con đến thế? Bố cho con biết đi. Cánh tay cầm chén rượu đang đưa lên bỗng dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn con gái. Mặt con gái hắn ướt đẫm. Hắn không nói gì , lặng lẽ gỡ bàn tay đang níu chặt tay mình của đứa con rồi loạng choạng đi về phía trước ban thờ. Hắn nhấc tấm ảnh của bố ra khỏi giá , cầm trên tay và nhìn như đóng đinh vào tấm ảnh.
- Bố nghe rõ rồi chứ? -Hắn lẩm bẩm. –Em con đã nên người. Dòng họ Đặng của bố đã có người tiếp nối. Bố có vui không? Còn con…?
Đột nhiên hắn gầm lên một tiếng. Một tiếng gầm thê lương như xé rách cả trời xanh. Hắn nâng bức ảnh lên cao rồi thẳng cánh quật bức ảnh vào cạnh chiếc bàn thờ. Bức ảnh vỡ tan. Bàn tay gân guốc của hắn nắm lấy một miệng thủy tinh to và sắc nhọn như một mũi dao găm, thẳng cánh đâm vào cổ mình.
- Bố !
Tai hắn còn kịp thoảng nghe một tiếng kêu đầy đau đớn của cô con gái.

*
* *
-Không!
Hắn hét lên một tiếng . Tiếng hét phá tan cái yên tĩnh của cái bệnh viện tuyến huyện vắng vẻ lức nửa đêm. Cô bác sĩ trực nhảy bổ đến gường bệnh. Người hắn quằn quại trong cơn mê sảng. Con gái hắn đang cố gắng ghì chặt lấy cánh tay hắn không cho cái kim truyền máu bật ra. Hắn lại nằm im, rồi một tiếng nấc rồi tiếp theo là một tiếng lầm bầm.
-Sao em lại bỏ con, bỏ anh. Anh có trách em đâu.
Cô bác sĩ nhìn vào mặt hắn. Trong cơn mê sảng nhưng một dòng nước mắt vẫn cứ ứa ra.
-Bố em hình như gặp phải một chấn động cực lớn về tâm lí thì phải. Chuyện gì vậy?
Cô bác sĩ nhìn con gái hắn thăm dò. Con gái hắn lắc đầu.
-Em cũng không biết chị ạ. – rồi như để cho người bác sĩ tin điều mình nói là thật. Cô gái nói tiếp. –Em cũng rất muốn biết chuyện gì đã xảy ra với bố em trong quá khứ nhưng ông không chịu nói.
-Chắc phải là một điều gì đó khủng kiếp lắm .
-Vâng ! Em cũng nghĩ thế.
Nói xong, con hắn thở dài lấy khăn khẽ lau dòng nước mắt trên mặt bố. Hắn nằm im, ngực lên xuống một cách khó nhọc. Miệng hắn cứ lầm bầm một điều gì đó . Con gái hắn quỳ hẳn xuống dưới đất ghé tai vào sát miệng hắn cố gắng nghe xem bố mình đang nói điều gì. Cô chỉ nghe thấy nhưng tiếng đứt quãng.
- Đừng …..em đồng ý ?….. nối dõi……dòng họ….
Rồi đột nhiên hắn chồm lên ngồi thẳng dậy, mắt mở trừng trừng, sợi dây truyền máu đứt tung máu phun ra lênh láng cả chiếc giường bệnh. Hắn thét to, Tiếng thét như một mũi dùi khoan vào màn đêm sâu thẳm.
-Ông chết đi!
Rồi hắn lại đổ vật xuống, người hắn quằn quại. Con gái hắn và cô bác sĩ trực đêm cố gắng ghì chặt lấy người hắn nhưng không được. Hắn vung mạnh hai cánh tay xô ngã cả hai người rồi hắn bật dậy đứng sừng sững giữa căn phòng, hai cánh tay hắn vươn lên cao ngửa mặt lên trời cười cuồng loạn. Những vòng băng ở vết thương sổ tung, máu phun thành vòi lên mặt con gái hắn.
-Cháy! Cháy rồi ! Cháy hết đi !
Hắn gào lên trong tiếng cười man dại rồi đột ngột, tiếng cười tắt ngấm, hắn đổ sập xuống nền nhà.
- Bố!
Con gái hắn kêu lên một tiếng rồi cứ thế gục vào ngực bố mình ngất lịm.

*
* *

Bàn thờ nhà hắn có thêm một bức ảnh mới. Ảnh hắn. Đứng trước ban thờ là hai chị em. Người em hình như chỉ nhỏ hơn chị mình có vài tuổi và có khuôn mặt giống ông nội như tạc.
_ Chị!
Người em gọi một tiếng khe khẽ, người chị khẽ quay người nhìn sang đứa em mình chờ đợi còn người em môi mấp máy như muốn nói một điều gì đó nhưng lại không dám nói. Anh ta sợ. Người chị cũng sợ. Không một ai dám nói lên một cái điều lờ mờ trong tâm trí . Người em thu hết can đảm, anh ta khẽ nắm lấy tay chị gái mình.
- Có điều gì xảy ra với bố vậy hả chị.? Có phải là lỗi tại em không. ?
Người chị nhẹ kéo em trai lại khẽ ôm lấy đứa em trai mình .
- Chị không biết điều gì đã xảy ra với bố. Nhưng chắc chắn là em không có lỗi. Lỗĩ là của chiến tranh.
- Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy chục năm rồi mà chị.
Người em hỏi. Người chị khẽ lắc đầu.
- Chưa đâu em ! Chiến tranh vẫn đang hiện diện trên mảnh đất này.
Người em không hỏi gì nữa. Anh ta biết , chị mình đã nói đúng. Tiếng súng đã ngừng mấy chục năm nay nhưng tiếng nổ của chiến tranh chưa dứt. Thỉnh thoảng ở một đâu đó trên mảnh đất đầy đau thương này lại có một tiếng nổ phát ra do chiến tranh để lại.
Hai chị em rời bàn thờ, họ mang đồ đạc của hắn ra kiểm lại. Kỉ vật của hắn không có nhiều. một vốc nhưng huân chương, một tờ giấy báo tử, một tấm bằng gia đình vẻ vang và một cuốn sổ ghi chép đã vàng úa theo thời gian.
Người em cầm tờ giấy báo tử lên chăm chú đọc. Lông mày anh ta nhíu lại. Anh ta đưa cho chị mình tờ giấy báo tử.
-Chị ! chị đọc cái tờ giấy báo tử này đi !
Người chị ngạc nhiên nhìn em.
-Sao có điều gì à ?
- Bố mất trước khi em ra đời.
Người chị vội vàng giật lấy tờ giấy báo tử trong tay em trai mình . Cô gái lặng người đi mắt không rời nói tờ giấy báo tử.
-Chị ! -Người em khẽ nắm lấy tay chị mình gọi nhỏ. –Có phải là..... ?
Người chị như bừng tỉnh, cô hấp tấp dùng bàn tay nhỏ nhắn của mình bịt miệng em trai lại.
-Em đừng nói gì cả !- Giọng cô nghẹn lại - Chị xin em !
Một thoáng ngắn ngủi, ánh mắt hai chị em gặp nhau và cả hai cùng bối rối nhìn đi nơi khác. Họ tiếp tục lục tìm trong những di vật mà người bố để lại một cái gì đó mà không ai dám nói ra nhưng cả hai đều mong muốn, một cái gì có thể phủ định cái điều mà họ đã manh nha nghĩ trong đầu.
- Chị !
Người em trai thoảng thốt kêu lên. Toàn thân anh ta run bắn . Mấy tờ giấy trong tay anh ta rung bần bật. Năm ngón tay anh co quắp lại chọc thủng cả mấy tờ giấy to bản loại năm hào hai ngày xưa mà anh ta đang cầm. Người chị vội vàng nắm chặt lấy bàn tay em trai mình cố gắng gỡ những ngón tay đang co rút bấu chặt lấy mấy tờ giấy để cho nó khỏi bị rách. Cô ôm lấy mặt bật khóc. Người em quỳ xuống , anh ta ôm chặt lấy chị mình nghẹn ngào.
-Chị ơi! Đó là lỗi của em.
Người chị đã bình tĩnh lại. Cô gái nhẹ nhàng vuốt tóc đứa em trai mình khẽ nói.
-Em đừng nghĩ vậy ! Không một ai có lỗi cả. Em chính là một sự hi sinh cho tình yêu. Em đọc lại những lời của mẹ đi.
Vừa nói , người chị vừa trải rộng tờ giấy ra trước mặt em trai mình. Tờ giấy viết bằng máu. Có lẽ người mẹ đã cắn ngón tay mình để viết lên trang giấy.
ĐỪNG TRÁCH BỐ. ! EM YÊU ANH NÊN KHÔNG THỂ ĐỂ CHO DÒNG HỌ ĐẶNG CỦA ANH BỊ DỨT MẠCH
- Thế còn ông ! Sao......
Người em giận dữ nói gần như quát lên nhưng đột nhiên anh ta bắt gặp ánh mắt tức giận của người chị nên vội vàng ngừng lại. Người chị nét mặt đanh lại hắt những tia mắt giận dữ vào mặt đứa em trai mình gằn giọng.
- Ông cũng không có lỗi. Em đọc đi ! Ông đã phải lấy cái chết của mình để tạ lỗi với bố. - Người chị trải tờ giấy thứ hai ra trước mặt em mình . Cũng là một tờ giấy năm hào hai được viết bằng máu.
ĐỪNG TRÁCH VỢ CON. DÒNG HỌ TA ĐỘC ĐINH. BỐ XIN LẤY CÁI CHẾT ĐỂ TẠ LỖI VỚI CON
Giọng người chị bỗng trầm hẳn xuống đau sót - Sự trường tồn của những dòng họ cũng giống như sự trường tồn của một dân tộc. Vì sự trường tồn đó nhiều khi ta phải đau đớn bước qua cái ranh giới của đạo đức.
- Vậy là không có ai phải chịu trách nhiệm trước những nỗi đau và mất mát của gia đình ta sao ?
- Có em ạ ! Đó là chiến tranh

*
* *

Đêm ! Biển lặng ! Hình như sau một cơn bão đi qua biển êm đềm hơn và đẹp hơn. Mảnh trăng non cưỡi trên đầu những ngọn sóng lăn tăn theo gió trải ra đến vô tận. Dưới ánh trăng, dải núi hiện lên sừng sững, uy nghi như một lồng ngực vạm vỡ đang ưỡn ra thách thức với sóng gió của biển cả.
Hai chị em đi từng bước ngắn chậm rãi tiến dần ra ngoài biển, vừa đi họ vừa rắc tro cốt của bố lên trên đỉnh những ngọn sóng. Sóng ôm lấy ông, Biển ôm lấy ông
- Ông ơi ! Bố ơi ! Mẹ ơi ! Con cầu mong ba người sẽ ôm lấy nhau trong biển cả.
Cô gái thầm nghĩ. Ngoài xa, một con tàu đi qua để lại một vệt lân tinh lấp lánh làm cho cô gái có cảm giác như biển đang cười.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 90 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.393 seconds.