Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2023 lúc 3:02pm
những%20cánh%20đại%20bàng%20sau%20cơn%20bão%20lửa%20–%20Phạm%20Tín%20An%20Ninh

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Apr/2023 lúc 3:08pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2023 lúc 7:21am

Giọt%20Máu%20Rơi%20Của%20Người%20Lính%20Chết%20Trẻ%20-%20Viết%20Về%20Nước%20Mỹ%20-%20Việt%20Báo%20Viết%20Về%20%20Nước%20Mỹ


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Apr/2023 lúc 7:21am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/May/2023 lúc 6:04am

Tháng Tư

 Tháng tư nước mắt nhạt nhoà

 Trời rơi sấm sét cửa nhà lung lay

 Cúi đầu nhặt hạt đắng cay

 Buông hai tay chịu rủi may của đời.


 Vành tang thiếu phụ tả tơi

 Cờ bay gắt nắng phố phơi nỗi buồn

 Sử ghi như một vở tuồng

 Đường ma vội chạy quỷ cuồn cuộn đi


Tháng tư còn lại những gì

 Mắt đăm phía biển tay tỳ sóng xô

 Trần gian thêm những nấm mồ

 Tháng năm vừa cũ tựa hồ chiêm bao


 Núi đồi rộn rịp nhà lao

 Bao nhiêu đau đớn kêu gào về đâu

 Tự tay đào lấy huyệt sâu

 Tương lai mù mịt quay đầu phương nao


 Tháng tư mất biệt trăng sao

 Cả thiên hạ khóc xôn xao ánh nhìn

 Thôi rồi đã tắt bình minh

 Một màu tối ám thình lình kéo qua


 Chẳng còn đâu những cành hoa

 Rau xanh trồng rợp đường qua giữa cầu

 Chắp tay đợi chuyện nhiệm màu

 Thần linh vắng mặt con tàu đã xa


 Tháng tư qua mỗi căn nhà

 Đèn hiu hắt sáng lòng hoà bóng đêm

 Bưng chén cơm nặng sầu thêm 

Chan giọt nước mắt đói mềm bước đi


 Nhìn quanh cũng chẳng còn chi

 Gió rung rinh mái gió ghì cửa đau

 Mong cho kiếp nạn qua mau

 Tháng tư đọng lại một màu thê lương


 Tháng tư gói ghém lên đường

 Hành trang rách nát ruộng vườn tả tơi

 Lệ buồn khóc giữa trùng khơi

 Bó tay lạy giữa thói đời đảo điên


          DODUYNGOC

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/May/2023 lúc 9:16am



Hôm nay 29/4/2023 tôi ngồi một mình trong phòng, trước mặt là màn hình computer. Ngày mai là ngày mà ai là người VN lưu vong đều phải nhớ. Trong tôi ngập tràn nỗi nhớ chồng. Thật tếu và mắc cỡ khi mình lại nói ra điều đó khi tuổi không còn trẻ. Hình bóng người lính đã bị bào mòn và không thể xuất hiện 48 năm rồi. Anh chàng đại úy phong sương ngày xưa của tôi đã chết. Chết cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái áo lính của chồng tôi mặc mỗi khi đi chăn trâu, cắt cỏ, cấy lúa trồng khoai ngoài đồng cũng đã rách nát không còn. Người lính đã tan hàng đã bị xóa sổ một cách bi đát, còn những người vợ lính thì sao? Nếu trẻ nhất họ cũng đã trên 65 tuổi, thời gian quá dài để thương đau đọng lại làm những tì vết không thể xóa mờ. Nước mắt không còn bao nhiêu để khóc cho cuộc đời còn lại.

Tôi lại nhớ đến những người phụ nữ của phe thắng cuộc . Chứng nhân có thật là những người trong gia đình chồng tôi. Họ được gì và mất gì sau khi tàn cuộc chiến.

......

Tôi đi theo mẹ chồng đến đốt hương bên ngoại. Ông bà ngoại của chồng tôi  có 5 cô con gái và một người con trai út. Mẹ chồng tôi là đứa con gái thứ hai trong gia đình. Cả 5 người con gái bây giờ đều đã già, con cháu thật đông, cuộc sống không giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đủ ăn đủ mặc. Người con trai út của ông bà ngoại chồng tôi đi theo Cách Mạng chống Tây hiện là bộ đội phục viên mang quân hàm thượng úy.

Chồng tôi đại úy ngụy, cậu chồng thượng úy cách mạng. Hai chức ngang nhau ở hai chiến tuyến đối nghịch. Thật sự tôi chưa từng gặp mặt ông thượng  úy này chỉ nghe mẹ chồng mừng vui báo tin ông còn sống và  vội vã thu xếp về quê theo lời nhắn gửi của ông.

-Mụ yên tâm về làng, mọi việc có bầy choa lo. Không răng mô.

Tôi về quê chồng, chưa quen khí hậu nơi này, chưa biết tắm sông, chưa quen giặt đồ ở bến, chưa biết nấu cơm bằng rơm, chưa quen ăn nước ruốc, hai vai còn sưng to vì tập gánh nước từ dưới sông về nhà. Chỉ mới mấy ngày để tập tành mọi thứ, mẹ chồng tôi đã dẫn tôi đến lạy bàn thờ bên ngoại. Nhà bên ngoại cách nhà bên nội chỉ qua một con đường, ngăn cách bởi cái ao hồ. Cho nên muốn qua ngoại phải đi con đường vòng, qua mấy nương vườn nhà người khác, cái chợ, cây đa, đình làng, ra đường lộ đi một lúc mới tới nhà. Nếu đứng ở bên nhà ngoại kêu to, ới một tiếng lớn là nhà bên nội có thể nghe.

Khi cha chồng tôi xin hỏi cưới mẹ chồng. Lễ hỏi đã xong mà cha chồng tôi phải đến nhà vợ làm rể ba năm mới được cho cưới. Làm rể ngày xưa không dễ, phải làm như việc nhà mình, tận tụy và siêng năng mới cưới được vợ. Cha chồng tôi là con con trai đích tôn, là con cầu con khẩn của dòng họ hiếm hoi con cái. Được cái cha chồng tôi rất hiền, bên đàng gái muốn gì ông cũng chìu để cưới được vợ. Mẹ chồng tôi giỏi giang, buôn bán tháo vát lo cho gia đình nên bên ngoại không muốn gả liền để còn nhờ cậy. Thật không may, cưới được mấy năm cha chồng tôi mất sớm. Dù tuổi đời còn trẻ, mẹ chồng vẫn ở vậy lo cho ba đứa con và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng.

Nghe kể lại, mùa xuân năm nào đó ghe tàu của Tây chạy tuần tra dưới con sông Ô Lâu trước nhà bên nội, du kích quân núp ở nhà dân xả súng bắn tàu. Lính Tây nổi giận đổ bộ lên bờ đốt sạch nhà cửa, ruồng bố du kích. Lửa cháy khắp làng. Mẹ chồng tôi chỉ kịp lôi ba đứa con chạy núp dưới ao hồ, tính chạy lên dẫn cha mẹ chồng chạy trốn nhưng ngọn lửa đã bùng lên dữ đội, lính Tây cầm súng ruồng bố la hét om trời. Mẹ chồng tôi ôm con không dám khóc, bụm miệng các con không cho la. Căn nhà của gia đình và những nhà lân cận cháy phừng phừng trước mặt. Tây rút đi, xác ông bà nội chồng tôi cháy co rút tội tình. Năm đó mùi thây người khét lẹt bao trùm không gian, ngày đại tang của cả làng. Nhà nào cũng có mất mát cũng có người chết thật thê lương.  Đó là ngày 12 tháng giêng năm nào tôi không biết. Chỉ biết đó là ngày kỵ giỗ ông bà  nội chồng.

 

Tôi đến đây để ra mắt tổ tiên bên chồng nên tôi đảo mắt tìm bàn thờ. Nơi thờ phụng tổ tiên nhà miền Trung không giống miền Nam. Miền Nam ngay gian giữa nhà trang trọng đặt bàn thờ, bước vào nhà là thấy ngay như muốn nhắc nhở khách tới nhà phải biết lịch sự, phải tôn trọng tổ tiên gia chủ. Bàn thờ là một bộ tủ thờ rất đẹp chạm khắc tinh xảo ( hoa văn và chất lượng gỗ tùy theo kinh tế của gia chủ). Tủ thờ cao khỏi đầu người, trên bàn thờ bộ lư đồng để giữa, bát nhang để phía sau, hai chân đèn bằng đồng để hai bên. Dĩa đựng trái cây khá to được đặt trên một cái giá ba chân thật đẹp. Hai bên là hai bình bông để cúng. Tủ thờ phía trước chạm trổ, cửa mở ở hai bên hông dùng để chứa những vật trang trọng quý giá. Ngày lễ hay Tết bàn thờ rực rỡ hoa trái, hương đèn.

Nhà người miền trung khác hẳn, vị trí bàn thờ cũng ở giữa nhà nhưng được được che bằng một tấm màn ngăn cách. Phía trước đặt một bộ bàn ghế dài dùng để tiếp khách. Chỉ trong những ngày kỵ giỗ tấm màn mới được kéo ra để gia đình làm lễ. Bàn thờ hơi thấp được đặt phía trong với nhiều bát hương đặt cao thấp khác nhau theo thứ tự vai vế gia phả trong gia đình. Bàn thờ miền Nam chỉ có một bát hương để cắm nhang, bàn thờ miền Trung có rất nhiều bát hương nên trông có vẻ âm u và hơi ...dễ sợ.

 

Tôi vén màn đi vào và đốt hương. Không biết bát hương nào là của ông bà ngoại. Thôi thì cắm hết và ...thật vô duyên không biết phải khấn gì với ai, tên họ gì. Tôi hồi hộp và lúng túng chỉ biết niệm lâm râm Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Mẹ chồng tôi giới thiệu tôi chào Mợ Tuấn. Mợ thấp người, khắc khổ và nhìn rất lam lũ. Hai người đàn bà có chồng ở hai phía Quốc - Cộng chào nhau. Mợ Tuấn là một người phụ nữ xứng đáng được mẹ chồng tôi trân trọng. Mặc dù cậu là con trai độc nhất trong gia đình được cha mẹ và các chị thương yêu bảo bọc, nhưng cậu bỏ tất cả gia nhập hàng ngũ kháng chiến chống Pháp lúc mợ vừa cấn bầu đứa con trai đầu lòng. Mợ ở nhà làm ruộng, phụng dưỡng cha mẹ chồng cho đến ngày ông bà ngoại chồng tôi mất. Con trai mợ hiện giờ đã cưới vợ sắp sửa sinh con thì được tin chồng vẫn còn sống và chuẩn bị trở về đoàn tụ. Mợ vui vẻ tươi cười với những tin vui chiến thắng. Ngồi nghe mợ nói chuyện, niềm vui chờ sum họp với chồng, tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận của mình. Đây cũng là gia đình nhưng người phụ nữ trước mặt chờ tin vui. Tôi và chồng là những người đối lập sẽ nhận những bất trắc, trả thù vì  mình là Ngụy.

 

Gia đình thứ hai tôi đến để đốt hương và ra mắt là nhà của chú Minh, chú họ của chồng tôi. Ông cố chồng sinh được hai người con trai. Ba chồng tôi là con nối dõi của người anh, chú Minh là con nối dõi người em. Nghe thì xa nhưng với gia phả trong họ tộc thì rất gần. Vì cha chồng tôi và hiện giờ chồng tôi đang là trưởng tộc. Người chú họ này cũng bỏ nhà đi kháng chiến, người vợ mới cưới phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ chồng và cũng sinh được một con trai độc nhất. Điều khác giữa mợ Tuấn và thím Minh là mẹ chú Minh vẫn còn sống nhưng hai mắt đã mờ. Con dâu của thím Minh vừa sinh đôi hai đứa cháu trai cực kỳ kháu khỉnh dễ thương. Bà cố đang đong đưa hai cái nôi mà người ở đây gọi là dứng. Đó là cái nôi trẻ con nhưng có bốn sợi dây được móc lên cao, muốn ru người ta nắm bốn sợi dây và lắc. Nghe tiếng má chồng tôi, mụ nghiêng người lắng nghe:

- Mụ Thi về khi mô rứa? Có vợ thằng Trai về khôn?

Tôi lên tiếng chào và bước tới nắm tay mụ. Bàn tay nhăn nheo của những người già lao động quanh năm. Mụ chỉ bàn thờ cho mẹ con tôi vào thắp hương và báo tin chú Minh đã liên lạc nhưng chưa về đến nhà. Tôi ngồi nhìn hai thằng bé, cưng quá là cưng với gương mặt bụ bẫm. Mẹ chồng tôi còn mê chúng hơn vì tôi chỉ sinh được con gái, còn đây là hai đứa cháu trai.

Quan niệm " Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" đúng vô cùng ở những gia đình này. Con trai cưới vợ đẻ con, con dâu mặc dù không có chồng bên cạnh vẫn chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi con duy trì huyết mạch nối dõi tông đường.

Những người  như mợ Tuấn, thím Minh hay mẹ chồng tôi là những người đàn bà điển hình trong xã hội VN. Khi đã lấy chồng họ sống và hy sinh cả đời cho gia đình nhà chồng. Đối với họ chăm sóc mồ mả gia nương nhà chồng, đẻ con trai và duy trì nòi giống là nhiệm vụ mà họ phải tuyệt đối làm tròn.

Vì gia đình bên chồng tôi chuyên về nghề mộc, nên dựng lại căn nhà với đầy đủ vật liệu là chuyện dễ dàng. Chỉ một tuần lễ trên nền nhà bỏ hoang ngôi nhà tôi đã được thành hình. Dựng lại căn nhà xong, chưa kịp xếp đặt mọi thứ,  chồng tôi được lệnh khăn gói đi học tập cải tạo. Từ đó không có tin tức, không thấy trở về để biết mặt và chào hỏi hai người thân cách mạng đã kêu gọi anh về đây: "Không răng mô, về làng  có bầy choa lo".

 

Chú Minh về làng trước, chú ra dáng là một bộ đội Bác Hồ. Chú không nói về cấp bậc trong quân đội nhưng để trả lời cho câu hỏi vì sao mấy chục năm chú không liên lạc với gia đình thì thím Minh được nghe sự thật đau lòng: "Chú đã lập gia đình với một nữ đồng chí bộ đội và lễ tuyên bố được đảng đứng ra tổ chức"

Chú Minh về thăm mẹ, thăm gia đình rồi vội vã về lại Bắc. Chú không thể can thiệp hay giúp đỡ gì thằng cháu sĩ quan Ngụy đang không biết được giam giữ ở đâu. Hành trang chú mang về Bắc là một số vật dụng của gia đình tôi khi chú ỉ ôi với mẹ chồng tôi: "Mụ về đây không có điện thì để lại làm gì, mụ cho lại các cháu của Mụ ngoài ấy."

 

Từ lúc chú Minh về rồi đi, thím Minh như một người khác, thím gầy rạc đi trông thấy. Sự uất ức oán hận khiến người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó thay đổi. Chỉ cần ai đến nhà, hỏi thăm chú Minh thì cơn giận trong thím trỗi dậy, sự ghen tức khiến thím nói những điều không tốt về người chồng thím từng tôn trọng. Người mẹ chồng tội nghiệp của Thím không thể làm gì hơn chỉ biết khóc và chịu đựng những cơn giận dữ của con dâu. Gia đình ngày trước sống bình yên hạnh phúc bao nhiêu bây giờ chìm đắm trong bầu không khí oán hờn thiếu đi sức sống.

....

Rồi cậu Tuấn cũng về làng. Người con trai sinh ra cậu chưa một lần gặp mặt giống cậu như khuôn đúc. Hai cha con ôm nhau mừng rỡ. Mợ Tuấn được chồng chìu chuộng hết lòng. Mợ sống những ngày hạnh phúc nhất sau mấy chục năm vò võ nhớ mong. Mợ trẻ ra, tươi tắn và chăm chút bản thân hơn. Tôi đã thấy nụ cười và ánh mắt rạng ngời của mợ mà thật thương cho thân phận đàn bà. Mẹ chồng tôi và các người chị của cậu Tuấn dành cho cậu những đón tiếp yêu thương và long trọng nhất. Người em trai quý tử của gia đình đã trở về, chức lớn trong chế độ mới làm họ thấy mình hạnh phúc hẳn ra. Rồi thì những ngày về thăm quê cũng hết, như bong bóng lên cao sẽ vỡ, cậu Tuấn trước khi về lại miền Bắc, thú nhận với các chị mình đã có một gia đình ấm êm với ba đứa con đã trưởng thành cả trai lẫn gái. Cậu chỉ về đây để thăm còn gia đình chính thức đang ở ngoài kia.

 

Ôi những người đàn ông bội bạc đã làm tan nát trái tim của những người vợ thủy chung son sắt. Mợ Tuấn ngất xỉu khi nghe sự thật. Mợ không hung hăng hờn giận như thím Minh, mợ chỉ khóc và lặng lẽ sống trong câm nín tủi thân. Mẹ chồng tôi và các dì, dượng không biết phải nói gì. Sự thật bây giờ cũng không thể làm gì khác. Những đứa cháu dù sao cũng ruột thịt, mấy chục năm xa nhà cậu cũng phải có người chăm sóc. Và thế các mụ đồng ý chấp nhận gia đình bên kia, cậu về tay không nhưng khi cậu đi ê hề là quà cáp các mụ gửi về cho em dâu, cho cháu. Cậu Tuấn thành công đại thành công.

 

Khi mẹ chồng tôi nhắc đến đứa con trai tội nghiệp không biết bây giờ ra thế nào. Cậu Tuấn khuyên mẹ chồng tôi nên chờ đợi. Những người có tội với nhân dân phải nhận hình phạt. Nếu học tập tốt, thông suốt đường lối cách mang sẽ được khoan hồng về sớm.

 

Từ ngày cậu Tuấn ra Bắc lại, mợ Tuấn và các chị bên chồng không còn khắng khít như xưa. Đối với mợ, các chị chồng chấp nhận bên kia là không công bằng với mợ.  Những gì mợ đã cống hiến cho gia đình coi như không còn giá trị. Gần như cả cuộc đời của mợ đã chờ đợi hoang uổng. Bây giờ mợ đã thật sự mất chồng, chỉ toàn tâm toàn ý lo cho con trai và các cháu.

Hòa bình đã trở về trên mảnh đất chịu nhiều thương tổn của chiến tranh. Người lính của hai bên đã rời xa chiến trường. Người vợ của phe  thắng cuộc cũng như bên thua được gì và mất gì? Như Mợ Tuấn hay thím Minh đoàn tụ với chồng trong u uất, oán hờn. Như tôi chia ly chồng trong nước mắt. Bao nhiêu bi ai đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của người phụ nữ VN.

Chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt nhưng những dư chấn cho cuộc chiến ý thức hệ mãi mãi vẫn còn. Tôi đã sống trọn vẹn những ngày tháng vất vả gian lao chờ chồng  trong chế độ mới. Những nhân vật chính tôi kể trên đây đều là thật và đã thành những người muôn năm cũ. Không ai đúng hoặc sai hoàn toàn. Mỗi người đều bị ràng buộc bởi vòng xoay của chiến tranh ý thức hệ và vô thường trong cuộc sống.

 

Đàn bà chúng tôi luôn luôn là nạn nhân trong cuộc chiến. Người đàn ông không thế nào hiểu được sự kiên trì chịu đựng của phụ nữ khi  hy sinh cho người mình yêu thương. Trái tim phụ nữ cũng bằng thịt nhưng sự dũng cảm nhiều khi sắt đá cũng phải chịu thua.


Nguyễn thị Thêm

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/May/2023 lúc 9:17am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/May/2023 lúc 1:37pm
Gả Bất Cần - Huỳnh Tâm Hoài     <<<<<<
Silhouette%20of%20a%20lonely%20man%20at%20dusk%20near%20a%20river%20-%20Free%20Stock%20Video



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/May/2023 lúc 2:37pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/May/2023 lúc 9:36pm

NHỮNG NGÀY NÀY NĂM ẤY

4784%202%20NgayNayNamAyTrang%20Chau

       Tôi nhớ mãi buổi làm việc cuối cùng ở phòng mạch, đường Tổng Đốc Phương ở Chợ Lớn, vào chiều thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975. Bệnh nhân hôm đó đông hẳn lên.Hỏi ra mới biết các phòng mạch chung quanh đều đóng cửa, các bác sĩ đi hết. Cô Bảy, cô y tá người Việt gốc Hoa, lo lắng hỏi tôi:

-Ông có tính đi không?

-Tôi có một, hai đường dây nhưng chưa quyết định đi. Chờ xem tình hình ra sao đã.

       Tôi nói cho cô Bảy an lòng, nhưng tôi có linh cảm đây là buổi làm việc chung cuối cùng. Chiều nay trước khi đến phòng mạch tôi đã khám bệnh từ 5 đến 6 giờ ở trạm y tế của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, còn được gọi là Nhà Kiếng, của ông Trần Quốc Bửu. Địch đã về đến Long Khánh. Ông Nguyễn Bá Cẩn, người của ông Bửu, vừa lên làm Thủ Tướng. Hôm ấy người đến chờ xin được ông Bửu tiếp đứng chật ra cả sân sau. Ông Bửu vừa từ Hoa Kỳ trở về.Tôi lo lắng muốn biết tình hình ra sao, liền gọi cô Linh, cô y tá của trạm y tế nói riêng:

-Tôi muốn gặp “ anh Tám”, nhờ cô lên hỏi anh có cần tôi lên đo áp huyết không.

Cô Linh đi độ 5 phút rồi trở về với một người cận vệ của ông Bửu. Anh này nói:

-Bác sĩ theo em, đi cửa riêng, anh Tám chờ bác sĩ.

       Tôi theo chân người cận vệ của ông Bửu lên lầu trên, đi dọc theo một hành lang. Ngang qua hai phòng khách, tôi liếc thấy nhiều ông bận đồ lớn ngồi chờ. Tôi được đưa vào phòng riêng của ông Bửu. Tôi thấy ông đang lặng lẽ đứng xé từng xấp giấy vất xuống một thùng cạc tông lớn để dưới chân. Hình như ông không biết đến những người khách đang chờ xin gặp ông . Nhìn thấy tôi ông nở một nụ cười. Nụ cười của ông Bửu lúc nào cũng điềm đạm.

-Em đó à, đo giùm áp huyết cho anh đi.

       Tôi biết bệnh của ông Bửu rất rõ. Ông đã đưa cho tôi xem bản sao hồ sơ bệnh lý của ông được thực hiện ở bệnh viện Walter Reed lúc ông sang Hoa Kỳ. Tôi cứ dựa vào đó mà theo dõi . Đo áp huyết cho ông Bửu xong, tôi hỏi ngay:

-Tình hình ra sao anh Tám. Có hy vọng gì không?

       Ông Bửu tiếp tục xé giấy vất xuống thùng. Gần cả phút nặng nề trôi qua. Lần đầu tiên tôi thấy tình hình thật sự đen tối.

-Người Mỹ họ không ủng hộ mình nữa. Chắc phải liên hiệp. Em nên đi ra nước ngoài.Nếu chưa có đường đi thì nên liên lạc thường xuyên với gia đình anh , chừng nào anh đi thì đi cùng.

       Tôi tin lời ông Bửu nói. Trên đường đi đến phòng mạch tôi như người mất hồn. Tôi cảm thấy ân hận đã bỏ lỡ dịp ra đi bằng máy bay tuần trước. Sắp đến giờ đóng cửa cô Bảy hỏi tôi:

-Thứ hai ông có đến làm việc không?

-Có chứ, trừ phi tình hình thay đổi

-Nếu ông đi thì phòng mạch này ai trông coi?

       Tôi sực nhớ đã trả tiền mướn địa điểm cho nguyên năm. Tôi liền viết giấy ủy quyền cho cô Bảy trông coi phòng mạch cho đến hết hạn và cho cô tất cả đồ đạc trong phòng mạch.   Tôi đưa cô Bảy về nhà cô. Ngồi trên xe cô Bảy khóc. Đã mấy mươi năm trôi qua,mỗi lần nhớ lại ngày cuối cùng làm phòng mạch ở đường Tổng Đốc Phương ,tôi vẫn hình dung ra được những giọt nước mắt của người nữ y tá trung thành và tận tụy.

       Trên đường về,tôi ghé cư xá sĩ quan Chí Hòa. Tôi muốn gặp ông Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y để báo tin. Ông hay tâm sự với tôi ông có đường đi nhưng vì trách nhiệm ông chưa thể đi. Ông nói có lẽ ông sẽ để gia đình ông đi trước. Tôi đến nhà ông Chỉ Huy Trưởng lúc 8 giờ tối. Chừng nửa giờ sau thì ông về.Tôi lập lại với ông những lời ông Bửu nói với tôi và góp ý:

-Nếu đi thì anh nên đi luôn với gia đình. Tình hình này chần chờ người trước người sau có khi kẹt.

       Sau này liên lạc lại được với ông ở hải ngoại ông cám ơn tôi đã đến cho tin, giúp ông có một quyết định kịp thời.

Nhưng tôi không có dịp đi cùng ông Bửu. Tôi nghe nói sáng 30 tháng 4 ông Bửu mới rời Sàigòn trên một chiếc xà lan do tàu Đại Hàn kéo.

       Đêm 28 tháng 4 địch pháo dữ dội phi trường Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 29 tháng 4 là một sáng bàng hoàng cho dân Sàigòn. Yên chí mình có đường dây đi với ông Bửu tôi bình tĩnh lái xe vào Trường Quân Y xem tình hình. Cổng vẫn có lính gác. Tôi đến văn phòng tôi. Chẳng có văn thư nào để đọc hay ký cả. Lệnh cấm trại 100% của Cục Quân Y vẫn hiệu lực. Đến giờ này tôi biết một số bác sĩ của Trường đã ra đi, đi trước cả ông Chỉ Huy Trưởng. Tôi đứng ở cửa văn phòng mình một lúc thì gặp trung tá Tá, sĩ quan hành chánh. Ông hỏi tôi, giọng đầy lo lắng:

-Tình hình có sao không hả bác sĩ?

Tôi trả lời ông như một người am hiểu tình hình:

- Chắc là phải liên hiệp nhưng rồi cũng mất, trung tá ạ. Trung tá có đường đi nên đi.

-Tôi nghe ông Chỉ Huy Trưởng đi rồi thì phải.

       Tôi gật đầu. Tôi khuyên trung tá Tá cũng như tôi đã khuyên ông Chỉ Huy Trưởng những gì ông Bửu đã khuyên tôi. Tôi thổ lộ điều tôi biết cho trung tá Tá vì hai lẽ: ông là người có nhiều huy chương nhất Trường Quân Y vì ông đã từng phục vụ lâu năm trong quân đội Pháp trước khi sang quân đội VNCH và vì ông có một người con trai đang là sinh viên quân y ngành dược. Qua ông và rồi qua con ông, một số sinh viên quân y đang bị cấm trại có thể tìm cách ra khỏi Trường để tìm đường đi. Với chức vụ Trưởng Khối Tâm Lý Chiến của Trường tôi không thể công khai nói với mọi người nên tìm đường đi ra nước ngoài.

       Cho một tin như thế tôi có thể bị truy tố. Tôi rời văn phòng về nhà lúc 12 giờ trưa. Về đến nhà thì vợ tôi vừa hốt hoảng vừa trách tôi:

-Làm thế nào bây giờ anh? Phải đi chứ không thể ở lại được. Đáng lẽ để em và con đi tuần trước cho rồi, cứ cản mãi..

Tôi trấn an vợ tôi:

-Em yên tâm, có đường dây đi rồi, đi với ông Bửu.

-Chừng nào?

-Để xem tình hình sao đã.

-Coi chừng để trể ông đi mất là hết đường.

       Tôi cho thêm mình một chữ nếu nữa.Nếu đêm nay tình hình không yên tỉnh thì sáng mai sẽ lên nhà ông Bửu. Vừa lúc ấy một chiếc xe hoa kỳ màu đen, bảng trước có gắn một sao hải quân đỗ ngay trước nhà.

       Xe của phó đề đốc Thăng, ông anh cột chèo với anh tôi. Vợ chồng anh Thăng đang ở Cần Thơ, nhưng chị Thăng gọi điện thoại lên cho vợ anh tôi, cho biết có một đoàn tàu của hải quân sẽ rời hải quân công xưởng và khuyên nên vào ở nhà chị, đối diện với cổng vào hải quân công xưởng, để khi có cơ hội là đi.

        Cũng vừa lúc ấy anh Thành, thiếu tá không quân, phi công trực thăng, anh cột chèo với tôi, chở vợ và hai con trên chiếc vespa đến tôi hỏi đường đi. Anh Thành nói:

-Anh định vào Tân Sơn Nhất nhưng không vào được. Có đường nào cho tụi này đi cùng.

Vợ tôi giục tôi:

-Đi với anh chị Trang cho rồi, anh!

Tôi trả lời buông xuôi:

-Ừ, đi thì đi.

       Đằng nào cũng đi, vậy thì đi với ai cũng vậy. Gia đình ông anh tôi 5 người, gia đình tôi 4 người, gia đình anh Thành 4 người, phía bên ông cụ tôi và bà kế mẫu 8 người. Ngoài chiếc xe của phó đề đốc Thăng, còn có chiếc Fiat của tôi, chiếc Toyota của anh tôi. Tất cả 21 người chen chúc nhau trên 3 chiếc xe đó. Sàigòn ở khu bến tàu lúc bấy giờ vẫn yên tĩnh.Lính gác ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân mở hàng rào chắn cho đoàn xe chúng tôi vào. Chúng tôi tạm trú trong nhà phó đề đốc Thăng và chờ đợi. Không biết lúc nào thì có lệnh cho qua cổng hải quân công xưởng để xuống tàu. Bốn giờ chiều vẫn không có tin tức gì thêm. Ông cụ tôi sốt ruột muốn về. Ông nói:

-Hôm qua chúng nó pháo Tân Sơn Nhất, tối nay có thể chúng pháo vào hải quân công xưởng. Nếu không đi được, qua đêm ở đây nguy hiểm lắm.

Tôi nói với ông cụ tôi:

-Ba ráng chờ, con nghĩ thế nào cũng có tàu đi.

       Ông cụ tôi bỏ vào nhà trong. Tôi bước ra ngoài, lang thang trên một đoạn đường Lê Thánh Tôn. Bất ngờ gặp tướng Tôn Thất Xứng. Ông bận đồ xi-vin. Tướng Xứng vồn vã hỏi:

-Ba có đi cùng không cháu?

-Dạ có, ông đang ở trong nhà anh Thăng. Chờ lâu quá ông có ý định muốn về nhà.

Tướng Xứng la lên:

-Chết! Chết! Nói ba đừng về. Cứ ở đây. Tình hình tuyệt vọng rồi, chú biết.

-Để cháu vào nói ba cháu ra gặp chú.

-Ừ, mau lên nghe cháu.

       Khi tôi đưa được ông cụ tôi ra chỗ tôi vừa gặp tướng Xứng thì ông không còn ở đó nữa. Ông cụ tôi lặng lẽ trở vào nhà. Chừng nửa giờ sau anh tôi gặp tôi và nói :

-Ba mợ và mấy em về nhà rồi. Phải nhờ tài xế lái xe anh Thăng đưa ra, lính gác mới mở cổng. Bây giờ ở cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân có lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập.

       Tôi cũng tự hỏi mình có nên liều mạng nằm đây chờ không. Tư hỏi rồi tự trả lời :Nằm đây thì còn hy vọng đi, về nhà là kẹt chắc. Ông anh tôi, cảnh sát; tôi, gốc nhảy dù ở lại chắc khó sống lắm. Ba tôi, tuy là tướng,nhưng ông về hưu lâu rồi, chắc không sao.

Đúng 5 giờ chiều, trên không xuất hiện hai chiếc phản lực hình cá thu, bay lượn quanh tòa đại sứ Mỹ.

       Chừng mười lăm phút sau, tiếng trực thăng nghe mỗi lúc một gần. Rồi đoàn trực thăng từng chiếc, từng chiếc bay qua đầu chúng tôi, sà xuống trên nóc tòa đại sứ Mỹ. Mọi người nhốn nháo :

-Mỹ di tản toà đại sứ!

       Hai chiếc phản lực nhào xuống thấp, xé gió nghe quặn cả ruột! Một tràng M16 nổ dòn ở cổng Bạch Đằng rồi một tràng M16 khác nghe phía cổng Cường Để.

-Ai bắn vậy?

-Lính mình bắn vào trực thăng di tản à?

-Không phải đâu, chắc dân chúng tính tràn vào, lính hải quân bắn cảnh cáo.

Tôi hỏi khẻ anh tôi :

-Anh có súng không?

-Tao chỉ có một khẩu rouleau nhỏ phòng thân.

       Tôi nghĩ đến cảnh hỗn loạn trong các cuộc di tản tại miền Trung trước đây. Tôi nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu lính gác hải quân không cản nổi làn sóng người tràn vào. Tôi chỉ nghĩ thoáng đến đó mà không dám nghĩ gì thêm.

Vào khoảng sau 6 giờ chiều cổng hải quân công xưởng mở. Anh tôi quýnh quáng :

-Có lệnh cho xuống tàu! Gọi điện thoại cho ba mợ hay, hỏi ông bà có muốn đi trở lại không.

Anh tôi nói và làm . Giọng anh run run :

-Có lệnh cho xuống tàu rồi. Ba mợ có đi không, tụi con chờ để nhờ người đưa vào.

Anh tôi nghe một lúc rồi gác máy:

-Cậu Kế sẽ lấy chiếc Fiat của chú đưa ba mợ và mấy em đến cổng Bạch Đằng. Tôi sẽ nhờ chú tài xế của anh Thăng ra đón và năn nỉ lính gác. Nếu cần tặng họ chiếc Fiat của chú. Chiếc Toyota của chị còn đây cũng tặng họ luôn. Cô chú có con dại vào trước đi.

-Xuống cầu tàu nào và đi chiếc nào vậy anh?

- Thì thấy người ta lên chiếc nào mình lên chiếc đó.

       Hôm ấy là hôm tôi gặp mặt ông cụ tôi lần cuối cùng. Về sau anh tôi kể lại: Xe đưa ông cụ tôi bị kẹt lại trên đường Hai Bà Trưng, gần hảng nước đá. Cậu tôi gọi điện thoại vào cho anh tôi. Anh tôi nói phải cố đến gần cổng mới đón vào được. Tình hình bây giờ gần như hỗn loạn, lính gác đã bắn ngang chứ không còn bắn chỉ thiên nữa. Ba mợ và mấy em tôi phải quay về. 14 năm sau những người trong gia đình tôi đã lần lượt đoàn tụ, trừ ba tôi. Chúng tôi nhận được điện tín ngày ông lên đường đoàn tụ và ngày ông mất cách nhau 48 tiếng! Không biết ông cụ tôi không có duyên đoàn tụ với con cái hay có cái gì níu kéo ông lại, không muốn ông gởi xác nơi xứ người.

       Gia đình tôi theo làn sóng người tràn vào hải quân công xưởng. Đi một quãng chúng tôi đứng lại chờ. Gia đình anh Thành vào kế tiếp, có thêm chị Thoa,chị vợ thứ hai của tôi, với 3 đứa con cùng đi với vợ chồng trung tá Nam. Chúng tôi họp lại thành một nhóm. Chờ thêm môt lúc không thấy gia đình anh tôi đâu. Tôi chưa bao giờ vào hải quân công xưởng nên không biết có bao nhiêu cầu tàu và con đường nào dẫn xuống cầu tàu nào.Chúng tôi đi trên con đường nhỏ một đoạn khá xa và gặp một nhóm người bồng bế nhau đi ngược trở ra.Tôi hỏi ngay một người đàn ông, dáng bơ phờ,tay nách một em bé gái chừng 2 tuổi đang dãy dụa khóc:

-Không thấy tàu hay sao mà trở ra?

-Có một chiếc nhưng đông nghẹt. Chỉ có nước dẫm lên nhau mà chết. Kinh nghiệm ở Đà Nẵng một lần rồi. Sợ lắm! Chúng tôi đi về đây.

       Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau.Nhưng tất cả lòng muốn đi mạnh hơn ý muốn ở lại hiện rỏ trong các ánh mắt.Chúng tôi cứ đi lần theo theo hướng của những người đang lẻ tẻ đi ngược trở ra. Đến cuối đường chúng tôi thấy một con tàu lớn với hàng trăm người đang chen lấn trên bờ.Tôi lo thầm trong bụng: đông thế này làm sao lên liền cho được. Nếu tàu nhổ neo ngay thì mình còn xa cả mấy chục thước! Tôi nói với mọi người trong nhóm:

-Mỗi gia đình lo lấy cho nhau. Ai lên trước được sẽ giúp người sau. Coi chừng trẻ con khi lên tàu.

       Trên không hai chiếc phản lực vẫn vần vũ. Từng đoàn trực thăng chốc chốc lại bay qua đầu chúng tôi. Sài Gòn bây giờ là một vùng tiếng động khốc liệt. Tôi đã từng hồi hộp trong vài cuộc đổ quân gặp sự chống trả của địch, nhưng hôm nay trong tiếng gầm thét của hai chiếc phản lực nhào lộn, tiếng tình tịch của cánh quạt trực thăng, tôi không mang tâm trạng căng thẳng của cuộc đổ quân, mà là một tâm trạng rã rời, uất ức, cô đơn đến ghê rợn, của một cuộc tháo chạy, tháo chạy ngay từ thủ đô của đất nước mình, để dấn thân vào một vùng đất lạ nào tôi chưa được rõ.

       Chúng tôi nhích từng chút về hướng chiếc tàu. Khoảng cách còn chừng 5 thước. Số người thối chí bỏ ra về khá nhiều cho tôi hy vọng có thể lên được tàu trước khi tàu rời bến.Tôi ẵm đứa con trai đầu lòng, bé Ngọc, mới 3 tháng, trong vòng tay phải; cái túi xách đeo ở vai phải; tay trái tôi sẽ dùng để nắm dây bước lên tàu. Hai cái xách còn lại, vợ tôi, một cái đeo vai, một cái cầm ở tay phải. Vợ tôi bám sát lưng tôi.Tàu đậu cách bến chừng một thước. Một thanh gỗ vuông rộng chừng hai mươi phân được bắc ngang làm cầu. Một sợi dây thừng, to bằng ngón chân cái, được căng từ lan can tàu xuống cái khoen sắt để buộc dây tàu nằm trên bờ. Chiếc cầu khỉ ngắn ngủn này là nơi tôi chứng kiến một thảm cảnh: Khi tôi men lại được gần thanh gỗ, thì trước tôi, một người đàn bà, vai mang một một em bé gái nhỏ trên lưng, tay phải dẫn một đứa bé trai chừng bốn, năm tuổi bước lên thanh gỗ. Nói là đi nhưng thật ra chúng tôi bị khối người phía sau đẩy tới. Lúc đứa bé nắm tay mẹ tiến lên thì trên tàu bỗng dưng có một người đàn ông chen lấn đi ngược xuống. Thanh gỗ nhầy nhụa bùn đất trở nên trơn trượt. Thằng bé, không biết hụt chân hay trượt chân, vuột khỏi tay mẹ nó, rơi tõm xuống sông. Nó chìm nghỉm. Tiếng bà mẹ thất thanh:

-Cứu con tôi với! Cứu con tôi với!

       Không một ai đáp ứng lời kêu cứu. Tôi nghe lạnh cả người, mồ hôi toát ra đầy trán. Tay phải tôi siết chặt bé Ngọc, nó dãy lên khóc vì nghẹt thở. Tôi biết lúc này không cẩn thận là ngã xuống sông tức khắc.

Người đàn bà không chịu bước, nhìn xuống mặt sông, tiếp tục la cầu cứu. Tôi hét lớn:

-Đi lên tàu rồi tính! Cứ đứng lại, bị đàng sau dồn, rớt xuống sông chết cả đám bây giờ!

       Tôi tiến sát người đàn bà, dung đầu gối phải thúc bà đi tới. Tôi bước lên được tàu. Người đàn bà,hai tay nắm chặt lan can tàu, nhìn xuống mặt sông khóc thảm thiết. Tôi nới tay siết bé Ngọc, nó thở được, nín khóc. Sờ nắn xương sườn nó, thấy nguyên vẹn, tôi yên tâm.

       Cả nhóm chúng tôi lên tàu an toàn. Khoảng 7 giờ tối thì dứt tiếng phản lực lẫn tiếng trực thăng. Yên lặng và bóng tối mờ mờ bao trùm cảnh vật. Đến 9 giờ tối, tàu không còn ai lên nữa.Tôi thấy thương cho người đàn bà có đứa con rớt xuống sông ban nãy. Giá biết đến giờ này tàu vẫn chưa đi hà tất phải chen lấn nhau và đứa bé khỏi mất mạng một cách thê thảm. Một nguồn tin truyền miệng đến tai tôi rằng tàu này hư máy có thể không đi được làm cả nhóm lo lắng. Tôi len lỏi trong đám đông kiếm các sĩ quan hải quân hỏi tin tức. Tôi gặp hai người: trung tá Minh, chồng của nhà văn Điệp Mỹ Linh, và trung úy Lý, sĩ quan cơ khí, anh của dược sĩ Vỹ, trước đây cũng ở Dù với tôi. Minh cho tôi hay anh nghe Bộ Tư Lệnh Hải Quân có tổ chức một đoàn tàu đi sang Phi Luật Tân, nhưng anh không biết chiếc này có nằm trong đoàn tàu ấy hay không. Lý cho tôi biết tin đích xác hơn về con tàu: Tàu đang ở thời tu chỉnh đại kỳ, nhưng ông hạm trưởng, thiếu tá Tánh, trong thời gian qua có đốc thúc sửa chữa. Giờ này đang ráp máy thứ nhất. Tàu sẽ chạy một máy. Lý nói thêm:

-Tôi đang phụ sức vào đây. Tàu sẽ chạy rất chậm vì chạy có một máy và vì người quá đông. Hy vọng 12 giờ đêm máy sẽ ráp xong.

       Tàu rời hải quân công xưởng lúc 1 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4. Gặp lại trung úy Lý, mồ hôi nhễ nhại nhưng nụ cười thỏa mãn:

-Ráp máy xong tôi sợ nó trục trặc không chạy thì khốn. Mình đi trên sông Lòng Tảo. Hải trình này an ninh hơn nhưng ngại ở điểm lòng sông có chỗ cạn. Mắc cạn là nằm chịu chết vì tàu một máy lại chở quá nặng nên không cách gì lui được. Khoảng trưa mai mình sẽ ra tới Vũng Tàu.

       Đúng 2 giờ sáng địch tấn công Nhà Bè. Những bồn xăng trúng đạn bốc cháy dữ dội. Giờ hấp hối của Sài Gòn bắt đầu. Tôi thương vô hạn những người lính Cộng Hòa giờ này còn ở vị trí chiến đấu.Chống trả mà biết là vô vọng thì đau khổ dường nào! Tôi úp mặt khóc một mình. Bao nhiêu năm chiến đấu để rồi vào giờ phút này mới biết số phận đất nước mình chỉ là số phận một con tốt thí trên bàn cờ quốc tế! 13 năm sau, cũng ngày 30 tháng 4 này, khoảng 5 giờ chiều, tôi đang ngồi trực ở phòng lái của chiếc tàu Mary’S Kingstown được hội Y Sĩ Thế Giới gởi đi vớt thuyền nhân, thì thuyền trưởng Francois, tay cầm ống nhòm, leo lên đứng cạnh tôi. Tàu đang chạy sát lằn ranh hải phận Việt Nam. Ông đưa ống nhòm lên quan sát một lúc rồi nói với tôi:

-Ông hướng ống nhòm về hướng tôi chỉ, nhìn cho kỹ, sẽ thấy Côn Đảo.

       Tôi hướng ống nhòm về phía bờ biển Việt Nam, điều chỉnh cho hình ảnh thật rõ thì quả thật thấy Côn Đảo hiện ra mờ mờ như bóng mây. Tôi nghe lòng mình xôn xao. Hình ảnh con tàu năm nào đã đưa tôi rời khỏi nước lại hiện trở về. Con tàu đã đi thâu đêm trên sông Lòng Tảo, xa dần Sài Gòn đang bị địch siết chặt vòng vây. Tôi đã thầm cầu nguyện tàu đừng hỏng máy bất chừng, đừng mắc cạn và nhất là đừng gặp địch.

       10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, qua máy thu thanh trên tàu, chúng tôi bàng hoàng nghe tướng Dương Văn Minh đọc lời kêu gọi buông súng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn ra rả không ngừng. Nghe bài hát tôi không thấy vòng tay mình lớn ra mà chỉ nghe tim mình thắt lại. Cái hy vọng mong manh về một chính phủ liên hiệp, sau lời kêu gọi của tướng Dương Văn Minh, bây giờ với tất cả mọi người thật sự là mây khói. Riêng chúng tôi, những người trên tàu, còn một hy vọng: thoát ra khỏi nước. 2 giờ chiều, tàu ra đến cửa biển Vũng Tàu. Mọi người vừa mừng vừa hội hộp.Bờ biển Vũng Tàu bây giờ như một cảnh chợ chiều.Cả trăm chiếc thuyền, ghe lớn ghe nhỏ lêu bêu đầy mặt nước. Có chiếc ghe gắn máy đuôi tôm, không người lái, cứ lạch tạch chạy vòng vòng trên biển như chiếc ghe ma.   Tàu tiếp tục chạy. 4 giờ chiều tàu ra tới hải phận quốc tế. Mọi người trên tàu vỗ tay mừng thoát nạn. Câu hỏi được đặt ra là bây giờ đi đâu? Ý định ban đầu của hạm trưởng Tánh là đi Tân Gia Ba. Nhưng với tình trạng tàu chạy một máy hiện nay cộng với cả ngàn người trên tàu, thực phẩm và nước ngọt ít oi thì không thể nào thực hiện cuộc vượt trùng dương được.Trung tá Minh nói:

-Họp ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân tôi nghe tin có một đoàn tàu hải quân sẽ đến một điển hẹn ở ngoài khơi Côn Đảo. Ở đó sẽ có hải quân Hoa Kỳ hộ tống đoàn tàu Việt Nam qua Phi Luật Tân. Đoàn tàu của hải quân Việt Nam sẽ được giao lại cho hải quân Hoa Kỳ.

       Tàu hướng về Côn Đảo với vận tốc 4 hải lý một giờ. Trên đoạn đường ra Côn Đảo tôi chứng kiến thêm một cái chết thứ hai: Cái chết của phi công lái chiếc phi cơ trinh sát. Anh liên lạc với tàu cho biết trên phi cơ có hai người. Tàu cho biết trên tàu có một toán người nhái sẵn sàng vớt họ sau khi nhảy ra khỏi phi cơ. Phi công cho biết phi cơ sẽ hạ thấp vòng đầu cho người hạ sĩ quan cơ khí nhảy, vòng thứ nhì anh sẽ nhảy. Vòng đầu máy bay bay rất thấp, là là mặt nước. Một người nhảy ra.Muơi giây sau một cái đầu nhoi lên khỏi mặt nước. Chúng tôi trên tàu vỗ tay reo hò. Hai người nhái phóng xuống biển vớt anh lên một cách thông thạo. Ở vòng nhì máy bay không hạ thấp như lần trước. Khi máy bay ở thế song song với tàu người phi công nhảy ra. Anh không rơi thẳng mà rơi lộn vòng. Mọi người im lặng chờ đợi. Một số người la hoảng:

-Trồi đầu lên! Trồi đầu lên!

       Mặt biển vẫn im lìm. Tôi nghĩ người phi công đã bất tỉnh sau khi va chạm mạnh vào mặt nước. Cái chết ở thời điểm này được chứng kiến không nước mắt và được quên đi rất nhanh.

       Trưa ngày 1 tháng 5 tàu ra đến Côn Đảo. Nhìn lên đảo thấy người đứng lố nhố và cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ . Tàu chạy thẳng ra khơi. Khoảng 4 giờ chiều, những tiếng la gần như đồng loạt vang lên trên tàu:

-Hạm đội Mỹ! Hạm đội Mỹ!

       Tin của trung tá Minh chính xác. Đoàn tàu chiến Mỹ, trắng xóa, trải kín cả chân trời. Tàu đánh điện xin tiếp tế lương thực, nước uống và thuốc men. Trên tàu lúc bây giờ đếm ra có 10 bác sĩ. Chúng tôi họp nhau thẩm định tình trạng sức khỏe của đồng bào. Tiêu chảy và viêm mắt khá nhiều. Một người đàn bà mang thai đến ngày sinh cần chuyển gấp sang tàu Mỹ. Chúng tôi cũng cần sữa cho trẻ con. Tôi được giao phó báo cáo tình trạng sức khoẻ và nhu cầu thuốc men.

       Tàu tiến dần về một khu trục hạm rồi tắt máy nằm song song với chiếc tàu Mỹ. Thủy thủ, sĩ quan Mỹ đứng kín cả boong tàu nhìn chúng tôi. Họ cười với chúng tôi; chúng tôi cười với họ. Tôi cố tìm mà không hiểu nỗi nghĩa nụ cười của đôi bên. Tôi nghe có chút gì cay đắng trong lòng. Tôi không biết phải coi họ là gì của mình bây giờ? Những người bạn đồng mình hôm qua! Đúng rồi hôm qua, hôm qua !

       Sáng hôm sau mười mấy chiếc tàu của hải quân Việt Nam được sắp lại thành đoàn. Chiếc tàu của chúng tôi vì đông người, vì chạy có một máy, nên được một chiếc tàu khác của hải quân Việt Nam cột giây kéo cho đi nhanh thêm và được ưu tiên sắp đi đầu. Theo lục lệ của hải quân, hai chiếc phản lực, cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó, lượn mấy vòng, rồi đoàn tàu bắt đầu di chuyển đi Subic Base của Phi Luật Tân.

       Sau 13 ngày trên biển, tàu đến hải cảng Subic Base của Phi Luật Tân. Có lệnh phải hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống trước khi cập bến vì Phi Luật Tân đã thừa nhận thể chế mới ở Việt Nam. Chúng tôi làm lễ hạ cờ và hát quốc ca. Có lẽ đây là buổi chào hạ cờ duy nhất mà mọi người hiện diện, già trẻ, lớn bé, dân sự lẫn quân sự, đều nước mắt chan hòa. Tôi có làm một bài thơ chỉ có 4 câu:Tôi đứng trên boong tàu/ Chào quê hương lần cuối/ Nước mắt bỗng tuôn dâng/ Khi màu cờ hạ xuống.

       Chúng tôi được chuyển từ chiếc HQ 400 sang một chiếc tàu buôn của Mỹ. Đi thêm 2 ngày thì tới đảo Guam. Tối hôm đó tôi ngồi thao thức rất khuya trước lều. Tôi nghĩ đến những ngày sắp tới. Tôi thấy mình đang trắng tay. Gia tài còn lại là 20 mỹ kim, đổi được từ tháng lương cuối cùng trước khi rời nước.

       Bây giờ làm thân tị nạn, tôi sẽ phải đi đâu, xin định cư xứ nào? Xin đi Pháp thì có thể tôi sẽ dễ dàng lấy lại bằng hành nghề nhưng nghe nói đời sống kinh tế bên đó khó khăn. Ở Canada nghe có tỉnh bang Québec nơi đó người ta nói cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh, khí hậu lạnh nhưng đời sống dễ chịu. Lúc đó tôi không hề nghĩ đến chọn nước Mỹ. Không biết có phải vì vốn liếng Anh ngữ của tôi không dồi dào bằng vốn liếng Pháp ngữ hay còn có một lý do thầm kín nào khác thì tôi không rõ.

       Chẳng biết câu châm ngôn thời đi Hướng Đạo:’’ Hướng đạo sinh vui tươi trong lúc khó khăn’’ có giúp tôi giữ được vui tươi trong những lúc khó khăn hay không , nhưng câu châm ngôn ngắn gọn mà giản dị của thời đội Mũ Đỏ:’’ Nhảy Dù! Cố Gắng!’’quả thật đã giúp tôi rất nhiều. Cố gắng bình tỉnh, cố gắng nhẫn nại, cố gắng hy vọng. Tôi đã cố gắng bình tỉnh trả lời ông sở di trú ở đảo Guam khi tôi đến xin định cư ở Québec, Canada. Ông nhìn hồ sơ của tôi rồi nói:

-Đất nước chúng tôi không ưu tiên cho thành phần ở trong Quân Đội.

Tôi nhớ tôi đã trả lời ông:

- Tôi ở một nước đang có chiến tranh, ngoại trừ trẻ em và người cao niên, đàn ông thuộc thành phần còn lại đều phải ở trong quân ngũ.

Ông ta bồi thêm câu thứ hai:

-Tỉnh bang Québec hiện đang thừa bác sĩ. Rất có thể qua đó ông không hành nghề trở lại được.

Tôi cũng đã bình tỉnh trả lời:

-Tôi sẽ hết sức cố gắng để trở lại nghề. Nhưng nếu không được ít ra tôi và gia đình tôi cũng được sống trong một xứ có tự do.

       Bốn ngày sau gia đình tôi cùng với khoảng 200 tị nạn người Việt đầu tiên được bốc từ đảo Guam sang thành phố Montréal của tỉnh bang Québec. Sau hai tuần nhận được trợ cấp, tôi được ông di trú thúc đi kiếm việc làm. Tôi được giới thiệu đi làm bán thời gian ở một bệnh viện tâm thần. Tôi làm ca đêm, thuộc ‘’équipe volante’’, trại nào thiếu người tôi được gởi đến. Tuy chức vụ chỉ là phụ y công, với đồng luơng cao hơn đồng lương tối thiểu 40 xu, tôi cũng phải qua một khóa huấn luyện một tuần để biết cách làm giường, cách thay quần áo cho bệnh nhân,cách đỡ bệnh nhân ngồi dậy v..v.. Nếu có những ca đêm rơi đúng vào các trại bệnh nhân ổn định, gặp các bà y công tốt bụng, biết tôi là bác sĩ tị nạn chưa hành nghề lại được, họ làm hết mọi việc, tôi chỉ ngồi ôm sách học. Nhưng nếu ca đêm nào rơi đúng vào trại bệnh tâm thần nặng, tôi phải ngồi canh ở một chiếc ghế đặt giữa hành lang, dưới ánh đèn mờ mờ. Bệnh nhân ở trại này mỗi người được giữ trong một phòng riêng, có khóa bên ngoài.Trong phòng không có vật dụng nào ngoài cái bô vệ sinh. Cái giường ngủ cũng làm bằng xi măng. Tôi không rõ họ được nuôi ăn như thế nào. Làm ca đêm ở trại này tôi không những không học được mà còn hầu như không ngủ được vì những tiếng hú, tiếng hét chốc chốc lại vang lên trong đêm khuya. Một kỷ niệm từng khiến tôi ‘’lạnh người’’ làm tôi nhớ mãi. Ở trại này, buổi sáng trước khi chấm dứt ca trực của mình, người y công chính giao tôi nhiệm vụ mở khóa phòng từng bệnh nhân, lấy cái bô vệ sinh của họ đem đi đổ. Một buổi sáng, mở khóa cửa phòng của một bệnh nhân, bước vào trong tôi không thấy anh ta đâu. Tôi hết hồn vì nếu bệnh nhân đã thoát ra khỏi phòng thì tôi sẽ gặp rắc rối.

-Bonjour!

       Tôi giật mình quay người lại thì thấy người vừa chào tôi, trần truồng như nhộng, lông lá đầy mình, đứng núp sau cánh cửa, hai tay chéo nhau như cố che kín hạ bộ của mình, nhìn tôi với cặp mắt dò xét.Tôi vội vàng khom người với tay kéo cái bô vệ sinh, mắt vẫn không rời người bệnh kèm thêm một nụ cười cầu thân. Xong, tôi rút nhanh ra khỏi phòng và khóa cửa.

       Tôi đã sống với nghề phụ y công trong 10 tháng. Cho đến khi thi đậu nội trú.Y Sĩ Đoàn Québec vào đầu năm 1976 mở một khóa huấn luyện 3 tháng nói là để trình bày về nền y khoa ở Québec cho nhóm bác sĩ Việt Nam , lúc đó có khoảng 80 người. Sau khóa huấn luyện, Y Sĩ Đoàn Québec mở một khoa thi đặc biệt dành cho các bác sĩ Việt Nam. Có 40 người được chấm đậu. Tôi may mắn có tên trong số người này. Tiếp đó Y Sĩ Đoàn Québec thông báo 4 Đại Học Y Khoa ở Québec cho biết chỗ nội trú dành cho các bác sĩ Việt Nam niên khóa 1976-1977 là 20 chỗ. Tôi lại may mắn có tên trong số người được chọn. Tôi được gởi đi làm nội trú cùng 3 bác sĩ Việt Nam khác ở Đại Học Y Khoa Sherbrooke, cách Montréal chừng 100 câysố. Tại đây có thêm 5 bác sĩ ngoại quốc, 4 ở Nam Mỹ, 1 ở Bắc Phi, sang tu nghiệp vừa nội trú vừa thường trú. Chúng tôi họp thành một nhóm mà chúng tôi gọi đùa là ‘’ Peloton des Légionnaires’’ ( Tiểu Đội Lê Dương ). Nội trú người bản xứ được thi lấy bằng hành nghề vào năm thứ tư. Vì thế khi làm nội trú họ không phải lo thi cử gì cả. Các nội trú hay thường trú gốc Nam Mỹ hay Bắc Phi họ cũng thi lấy bằng hành nghề.       

       Nhưng đậu thì cũng tốt, không đậu cũng chẳng sao. Đằng nào trước khi trở về nước họ cũng được cấp chứng chỉ đã tu nghiệp ở Canada. Riêng với nhóm nội trú Việt Nam thì chuyện thi lấy bằng hành nghề là một vấn đề sinh tử. Cho nên ngoài trực gác, chăm sóc bệnh nhân, phụ mổ, chúng tôi còn phải lo học thi. Đêm nào tôi cũng phải thức đến một hai giờ sáng để học. Và may mắn đã đến cho 3 trong 4 nội trú Việt Nam chúng tôi năm đó. Kể từ tháng 9 năm 1977 tôi chính thức trở lại nghề trên quê hương thứ hai của mình.

       Mới đó mà đã gần nửa thế kỷ xa quê hương! Chừng nào tôi mới về thăm? Có lẽ phải chờ cái ngày mà miền Bắc chân thật nhìn nhận, vào thời điểm 30 tháng tư năm 1975, họ cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ quốc tế, chỉ khác hơn miền Nam một chút, họ được chọn làm con tốt sang sông, thế thôi.

TRANG CHÂU

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/May/2023 lúc 9:17am

Chị Sui & Chị “Sui” hấp dẫn!!

 BM

Sui gia là mối quan hệ đặc biệt từ chỗ không quen biết nhau rồi thì kết thông gia, đi đến chỗ tương kính và thân thiết  như người trong một gia đình. Đây là nét đẹp văn hóa và phong tục của người Việt mà người Mỹ không có. Riêng tôi, có lẽ vì không có duyên nên anh sui thì có mà cũng như không. Ngược lại, tôi lại có duyên với chị sui. Phải nói ngay để tránh hiểu lầm: Duyên ở đây không phải là duyên nợ theo quan niệm thông thường mà là duyên nợ văn chương.


BM


Đầu năm Quý Mão 2023 tôi có in một tập truyện, và tặng cho chị sui tôi một quyển. Tôi nói chị hãy đọc, nếu có phê bình và góp ý thì càng hay. Chị nói: Tôi ít học, chữ nghĩa không đong đầy một lá mít thì lấy đâu ra mà phê bình với lại góp ý. Tuy nhiên, chị cũng nói thêm là có thể chia sẻ với tôi một đôi điều về quyển sách sau khi đọc. Mười ngày sau chị đưa cho tôi bài viết tay đầy ba trang giấy khổ A4 với nét chữ nắn nót rất đẹp. Điều làm tôi ngạc nhiên là chỉ trong vòng mười ngày mà chị đọc xong quyển sách dày hơn ba trăm trang cùng với bài chia sẻ rất hay. Bài này được Việt Báo online ở Cali đăng ở trang Văn học Nghệ Thuật mục đọc sách ngày 15/3/2023. Chị nói nhờ đọc sách tôi mà chị nhớ lại những kỷ niệm xa lắc xa lơ tưởng đâu đã mất từ hơn tám mươi năm trước, lúc chị chín, mười tuổi. Chị nhớ Ba Mươi Sáu Phố Phường, nhớ cầu Thê Húc, hồ Hoàn Kiếm, nhớ những lúc đi ăn kem, ăn lục tào xá, một loại chè củ năng của người Tàu. Mỗi năm đến ngày Tết Trung Thu được mặc bộ quần áo đỏ rộng thùng thình cùng với các bạn hát bài Ai Yêu Bác ************ Hơn Thiếu Niên Nhi Đồng trong khi đi quanh hồ Hoàn Kiếm.


BM


Tôi thật sự bất ngờ và nể phục khi biết chị sui tôi có thể viết bài nhận định rất văn chương về một quyển sách dày 335 trang bao gồm nhiều đề tài khác nhau như vậy. Cái hay là chị biết phân tích và tổng hợp để vẽ lên chân dung tác giả. Điều này là bình thường đối với một nhà văn. Ở đây chị sui tôi không phải là nhà văn, chưa từng viết văn và đã ở vào cái tuổi 88 chớ ít gì, năm rồi chị mới vượt qua một căn bệnh hiểm nghèo mà ai cũng sợ, không muốn nhắc đến tên. Chị nói sau đi đọc sách tôi, chị hiểu tôi hơn, tôi cũng vậy, tôi hiểu chị nhiều hơn, vì “văn là người ” mà.


Từ sự hiểu biết người ta mới đi tới cảm thông và ân tình mới sâu đậm thêm hơn. Trong bài chia sẻ ngắn, chị có nhắc sơ lược đến hoàn cảnh gia đình từ lúc còn bé đến khi lấy chồng, sau ngày 30 tháng 4 năm 75, và thời gian định cư ở Mỹ, là ba cột mốc quan trọng của đời chị, đã in sâu vào tâm hồn chị. Chị nói thêm, được định cư ở Mỹ là niềm hạnh phúc mà cũng là một đau khổ tột cùng, một phiền muộn không nguôi vì ông chồng chị đã bỏ chị, bỏ luôn bốn đứa con để chạy theo những người đàn bà khác! Chồng chị là anh sui của tôi, người mà tôi nói có cũng như không. Do đó mà tôi thông cảm với chị nhiều hơn, gắn bó với gia đình chị nhiều hơn. Hàng năm chị tổ chức mừng lễ Giáng Sinh tại nhà đều mời cả gia đình tôi tham dự, đến ngày sinh nhật tôi thì chị tặng hoa. Không biết bao nhiêu lần, gia đình tôi và gia đình chị cùng đi chơi xuyên bang với nhau, cùng có với nhau những giờ phút, những tháng ngày vui vẻ. Những lần hai đứa cháu nội của chị, và là cháu ngoại của tôi đi thi đấu  quần vợt hay biểu diễn, tranh giải âm nhạc thì cả tôi và chị đều cùng đi tham dự để cổ vũ, khuyến khích hai đứa cháu của mình.


BM


Từ lúc con gái tôi kết hôn với con trai út của chị thì tôi có tìm hiểu và biết được phần nào hoàn cảnh gia đình chị, nhất là ông chồng đã bỏ cả gia đình, không nhìn anh em ruột thịt, xa lánh cộng đồng, đi xây dựng gia đình với một người đàn bà khác. Chuyện này trong cộng đồng  ở địa phương người ta biết và bàn tán với nhau rất nhiều. Riêng chị vẫn giữ im lặng, kể cả với gia đình tôi. Còn tôi, để tôn trọng sự riêng tư của chị nên từ 19 năm nay, từ ngày kết thông gia, làm sui với chị, chưa bao giờ tôi hỏi chị hay là đề cập đến chuyện này. Giờ đây chị đã nói tới trong một bài viết nên tôi mạnh dạn ngỏ ý muốn biết thêm về sự thật.


BM

Chị nói rất buồn khi nhắc tới gia đình chị. Chị theo đạo Công Giáo. Tôi đem triết lý về duyên nợ và  hỷ xã của nhà Phật để thuyết phục chị. Chị nói cái dở của chị là đã không làm được như vậy. Tôi rất hiểu và thông cảm hoàn cảnh của chị. Tôi nói tôi viết bài không phải vì chị, vì tôi hay vì bất cứ ai, cũng không có ý phiền trách ai. Tôi muốn ghi lại một chương trong cuộc đời chị để cho con cháu sau này biết được một sự thật, sẽ yêu thương và kính trọng chị hơn. Tôi hy vọng khi chị nói ra được sự thật, trút bỏ được gánh nặng thì tâm hồn chị sẽ nhẹ nhàng thanh thản để sống vui vẻ hơn với con cháu trong những tháng ngày còn lại.


Cuối cùng chị hứa là để suy nghĩ lại. Định mệnh của mỗi cá nhân không thể nào thoát ra khỏi định mệnh của một dân tộc nhưng trường hợp của chị sui tôi thì bất hạnh quá, đáng thương quá, mặc dầu chị hết mực yêu chồng, thương con và chu toàn mọi trách nhiệm của mình, của một người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa trong  hoàn cảnh khó khăn nhất. Tôi rất ngưỡng mộ về điều đó và muốn ghi lại điều đó, muốn chia sẻ với chị về điều đó.


BM


Vào một ngày đầu tháng 4/2023 chị gọi điện thoại hẹn sẽ tiếp tôi ở nhà chị lúc 2 giờ chiều. Tôi đến đúng giờ. Chị đã chuẩn bị sẵn mọi thứ giống như để tiếp một khách quí: với hoa, bánh trái và trà sâm. Lần này chị không tiếp tôi ở phòng khách mà ở phòng sinh hoạt gia đình, nơi có chiếc bàn dài, mà cả gia đình thường tụ tập mỗi khi có sinh hoạt, tiệc tùng. Có lẽ chị muốn có một không khí thân tình và ấm cúng khi nói chuyện. Chị nói sau khi đã suy nghĩ và có sự khuyến khích của các con, hôm nay chị sẽ kể hết sự thật trường hợp của chị cho tôi nghe, những điều chị chưa từng kể với ai bao giờ. Tôi đề nghị cho một đứa con gái của chị cùng tham dự và ngồi bên cạnh mẹ để trao đổi thêm những gì cần thiết, còn tôi thì ngồi phía đối diện để lắng nghe và ghi chép. Và chị bắt đầu kể.


BM


 “Tôi sinh trưởng tại Hà Nội năm 1935, năm nay 88 tuổi. Thời trẻ tôi có nhiều cơ hội để bay từ Bắc vào Nam và ngược lại. Lúc 18 tuổi tôi vào Nam học nội trú về thể dục nhịp điệu một năm ở trường Gia Long. Ra trường tôi được giữ lại làm giáo viên tại trường. Khi hiệp định Genève năm 1954 chia đôi đất nước được ký kết tôi ở luôn tại nhà người cô ruột tại Sài Gòn, cha mẹ tôi thì vẫn ở Hà Nội. Tôi có hai người bạn là cháu của ông Trần Văn Chơn ở đường Cường Để. Ông Chơn sau này là Đề Đốc, đã hai lần được bổ nhiệm làm Tư Lênh Hải Quân, lần thứ nhất vào năm 1957, lần thứ hai vào năm 1966. Tôi thường lui tới chơi với hai ngưởi bạn ở nhà ông Chơn thì gặp ông chồng tôi sau này. Ông là người Huế cũng tới đây để dạy kèm cho hai người cháu của ông Chơn. Từ đó tôi và ông quen nhau. Sau đó ông gia nhập Hải Quân, còn tôi thì tiếp tục đi dạy ở trường Lạc Hồng Sài Gòn. Năm 28 tuổi tôi mới làm đám cưới với ông. Hai năm sau, tức là năm 1965 thì sinh đứa con trai đầu lòng, sau đó thì sinh hai cô kế và đến năm 1973 thì sinh thằng út. Lúc này thì tôi mua nhà ở đường Hòa Hưng, quận 10 ở cho đến sau này. Chồng tôi vẫn phục vụ binh chủng Hải Quân và cấp bậc sau cùng là trung tá. Ông từng là hạm trưởng các chiến hạm từ nhỏ đến lớn, nếu tôi nhớ không lầm là các chiếc 302, 406...Chức vụ cuối cùng ông đảm trách là Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân ”.


BM


Nghe chị kể tới đây tôi xin phép ngắt lời chị để nêu lên thắc mắc là có sẵn tàu ở tại bộ tư lệnh Hải Quân ngay bến Bạch Đằng sao ông không đưa gia đình đi vào những ngày cuối tháng tư năm đó? Chị nói: “Gia đình đã chuẩn bị sẵn và đã tập trung ở nhà người bà con trên đường Tự Do gần bến Bạch Đằng để chờ giờ ra khơi, thì giờ chót Ba chồng tôi liên lạc được với một người con dòng thứ hai, là cán bộ có chức vụ ở ngoài Bắc nên ông bà không chịu đi và cả gia đình phải ở lại nên bị kẹt cả đám. Nhà tôi thì đi “học tập” một tháng theo thông cáo của chính quyền mới. Sau này mới biết là đi tù, đi tù mà phải đóng tiền, thật là một điều lạ và khôi hài hết sức! Tôi có thăm ông một lần ở Thủ Đức rồi năm sau tôi được tin ông đã chuyển ra Bắc, hồi nào tôi cũng không hay.


BM

Thời gian ông ở ngoài Bắc tôi thăm ông được năm, sáu lần. Sau đó tôi dùng tiền, vàng lo cho ông được về sớm. Nói là sớm nhưng mãi tới năm 1980 ông mới được thả. Mỗi lần đi thăm ông ở các trại tập trung ngoài Bắc thì tôi dắt theo hoặc là đứa con út, hoặc là chị nó, lúc đó chừng năm, bảy tuổi, còn mấy đứa khác thì ở nhà chăm sóc ông bà nội và chăm sóc lẫn nhau. Thường thì tôi đáp máy bay từ Sàigòn đến sân bay Nội Bài rồi về nhà mẹ tôi ở khu Lắp Ghép Hỏa Xa Hà Nội. Ở đây tôi mới chuẩn bị thức ăn như bánh mì khô, cá khô, đường, sữa vân vân... rồi mướn người gánh gồng, băng rừng, vượt suối đến những lán trại để thăm ông.


Mỗi lần gặp nhau ở những lán bằng tranh, ván bằng đất mà họ gọi là Nhà Hạnh Phúc chừng một tiếng đồng hồ, không nói chuyện được nhiều vì lúc nào cũng có cán bộ  ôm súng canh chừng sát bên. Cũng có những lúc tôi ra ga Bình Triệu đi tàu hỏa ra Hà Nội. Khi đi tàu hỏa thì tôi bắt chước người ta, mua thật nhiều buồng cau ra ngoài đó bán, tiền lời có khi đủ để trang trải cho chi phí chuyến đi. Tôi nhớ có lần tôi dắt theo thằng út, lúc cháu năm tuổi đi ra Bắc thăm ba nó. Trong khi tôi ngồi nói chuyện với ông thì cháu cầm mấy viên kẹo chạy đến đưa cho người lính gác và nói con cho ông mấy viên kẹo này, ông thả ba con về nha ông...”


BM


Lời của chị sui làm tôi bất ngờ và vô cùng xúc động! Lời con trẻ sao mà ngây thơ và cay đắng quá. Thông thường thì người lớn dùng kẹo để dụ con nít, ở đây con nít dùng kẹo để năn nỉ người lớn! Tôi không biết dùng ngôn từ nào để nói lên hết ý nghĩa sự việc diễn ra thật bất ngờ trong hoàn cảnh này. Tôi chỉ có thể nói được là tôi thương cháu và tội nghiệp cho cháu lắm. Nếu tôi là anh vệ binh kia, tôi sẽ không nhận kẹo của cháu mà thả cho ba cháu về thôi.


Rồi chị kể tiếp: “Có một lần, trên đường đi thấy một đám tù cải tạo đang ngồi nghỉ ở ven rừng, bất ngờ cháu chạy đến đưa mấy đồng bạc cho một người. Vệ binh nhìn thấy hỏi đi đâu thì cháu nói con thấy một con bướm, chạy vào bắt mà không được”. Thằng bé thông minh đó giờ đây đã 50 tuổi, giờ là con rể của tôi, có hai bằng thạc sĩ. Câu chuyện xảy ra đã 45 năm giờ chị mới có cơ hội kể lại mà tôi nghe chừng như vừa mới xảy ra, tôi tưởng tượng và thấy được hình ảnh của con rể tôi lúc đó, sao mà nó dễ thương đến vậy. Xin được một lần cám ơn chị sui!


BM


Sau mấy phút giải lao ăn bánh, uống trà tôi thấy chị sui rất thư giản và thoải mái còn tôi thì hào hứng đề nghị chị nói về trường hợp chồng chị được thả. Chị nói: “Đối với tôi, ngày 30/4/1975 như là từ trên trời rớt xuống! Tôi là một phụ nữ chân yếu tay mềm, là giáo viên tiểu học, hàng ngày chỉ có “gõ đầu trẻ” thôi mà cũng bị gán cho cái tội ngụy quyền phản động, bị phường gọi đi học tập cải tạo, bị thúc ép đi “kinh tế mới”. Tôi còn nhớ đề tài đầu tiên là phải thành khẩn khai báo rõ ràng lý lịch bản thân. Chồng hay vợ ở đâu? Làm nghề gì? Ngoài ra, phải khai năm người quen biết. Nghề nghiệp, địa chỉ, họ sống thế nào?  Nếu họ là ngụy thì phải động viên họ đi vùng kinh tế mới để chồng con họ đi học tập cải tạo được về sớm. Nhớ lại sao mà kinh hoàng quá. Thật vậy, có lúc tôi như người mất trí. Lúc đó tôi còn dạy ở trường Thiên Hộ Dương, quận 8 Sài Gòn.


BM

Đã đến giờ lên lớp thì lò mò lên chợ Xóm Cùi và đứng ngẩn ngơ ở đó. May thay, có cô bạn thân nhìn thấy, gọi tên tôi và nói: “Giờ này sao mầy đến đây để làm gì?”. Rồi cô bạn dắt tôi về nhà cho ăn uống. Từ từ tôi mới hoàn hồn, mới biết rằng mình đã bỏ dạy ngày hôm đó. Quá nhức đầu, chán chường và mệt mỏi, tôi phải xin nghỉ dạy để ra ngoài vật lộn với cuộc sống, nuôi cha mẹ chồng, bốn đứa con, đứa lớn nhất mười tuổi, đứa nhỏ nhất mới có hai tuổi, cùng với một ông chồng là trung tá Hải Quân đang bị giam cầm ngoài Bắc, có lúc cũng phải cưu mang, cho những gia đình bên chồng từ miền Trung vào tá túc ở nhà tôi. Lúc đầu tôi bán dần đồ nhà để sống qua ngày, khi không còn gì để bán thì đi bán chợ trời. Có lúc lên tận Gò Dầu Tây Ninh mua thịt, dầu, đậu phọng đem về thành phố bán. Thịt thì quấn vòng quanh bụng như cái ruột tượng của mấy bà già xưa ngoài Bắc. Giờ nhớ lại sao thấy nó tang thương và xấu hổ làm sao. Trên đường về, nếu bị tịch thu thì mất trắng vì lúc đó chính sách “ngăn sông cấm chợ” được thi hành triệt để. Cùng với số phận của đồng bào miền Nam, sau ngày lịch sử đó thì tôi mất trắng. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm một đời gửi tiết kiệm ở ngân hàng không lấy ra được. Những số tiền chi dùng hàng ngày để ở nhà thì sau nhiều đợt đổi tiền gần như không còn giá trị. Bao nhiêu gánh nặng chỉ mình tôi gánh chịu, không ai tiếp tay giúp đỡ. Như có lần tôi nói với anh, có lúc tôi đi buôn chuyến, bán chợ trời, bán bánh mì lưu động, mấy đứa nhỏ ban ngày đi học, tối đến thì đi bán đậu phọng rang trước khám Chí Hòa.


BM

Ăn cơm thì độn khoai sắn, có khi thay bằng bo bo, là thực phẩm của gia súc nhập từ Liên Xô, trẻ con ăn không được. Lâu lâu được mua vài lạng thịt tiêu chuẩn ở phường đem về kho mặn cả gia đình ăn một tháng chưa hết vì mỗi ngày thì thêm ít nước vào, cả nhà cứ chang nước mà ăn, nên thịt vẫn còn nguyên”.


Kể tới đây thì chị ngước lên trần nhà, hai con mắt đỏ hoe, chừng như muốn khóc. Tôi đặt tay lên tay chị, an ủi. Tôi tự hỏi: Có ai biết được gia đình một trung tá có ngày phải ra nông nỗi này? Dừng lại ít lâu cho qua cơn xúc động rồi chị tiếp tục: 


“Trong lúc túng quẩn thì tôi nhớ ra là còn chôn một số vàng trong nhà nên cùng với con gái lớn đào lên để lo cho chồng. Lại một phen hú hồn khi tìm không thấy số vàng nơi tôi chôn và cẩn thận làm dấu trước đây. Thì ra nó đã đi đến một chỗ khác, gần đó với số lượng đầy đủ. Người giới thiệu và làm trung gian lo cho chồng tôi là một bác sĩ làm ở bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Ông này là con rể của mẹ tôi, tức là anh rể tôi...”. Thì ra tác giả của bài viết này đã có đến nhà thăm ông khi cùng với chị sui tôi đi tham quan Hà Nội vào cuối năm 2011, hình ảnh tới nay tôi vẫn còn lưu giữ.


Chị sui kể tiếp : “Khi chồng tôi được thả thì cũng chính ông anh này dùng xe nhà để đón chồng tôi về và đưa chúng tôi đến Hà Nội thăm mẹ tôi trước khi tôi và chồng đi tàu hỏa vào Nha Trang ở nhà người em ruột của chồng tôi vài ngày. Tôi nhớ là chúng tôi có đi tắm biển Nha Trang trước khi về Sàigòn vào năm 1980. Sau khi được thả về  với gia đình, chồng tôi làm nghề đóng tàu khoảng hai năm thì cả gia đình ra Nha Trang ở nhà một người em chồng để vượt biên từ Vũng Rô. Chuyến đi bị bể, chỉ mình chồng tôi đi thoát còn mấy mẹ con tôi kẹt lại, phải quay về, lại hủ hỉ với nhau trong căn nhà cũ, nơi chứng kiến bao nỗi thăng trầm của thời cuộc, biết bao thiệt thòi, mất mát của gia đình, giờ thì tang thương thật sự vì tiền bạc, của cải đều vét sạch để lo cho chồng được tự do, cứu ông ra khỏi nhà tù để....”


BM


Chưa nói hết câu thì chị sui dừng lại. Tôi nghe được tiếng thở dài với tất cả nỗi niềm của chị. Chị không muốn nói tiếp về chồng chị mà chuyển sang nói về đứa con trai lớn. Chị nói thời gian sau khi ông chồng tới Mỹ thì chị sắp xếp cho đứa con lớn vượt biên bằng đường bộ qua ngã Kampuchia để sum họp với ba nó. Tôi hỏi khi còn ở Việt Nam chị có biết anh sống như thế nào ở Mỹ không?


Chị nói: “Biết chớ, ông ở đâu, làm gì đều có người cho tôi biết. Ở Mỹ ông được những người anh em ruột thịt của ông giúp đỡ nhiều lắm. Họ sponsor, bảo lãnh, tạo công ăn việc làm cho ông, mọi thứ... Cũng cần nói thêm là Quân lực Việt Nam Cộng Hòa có ba binh chủng chính mà binh chủng nào cũng có sĩ quan cao cấp và ưu tú xuất thân từ gia đình của giòng họ bên chồng tôi. Có thể tôi không nhớ hết, nhưng ít ra cũng có một trung tá Hải Quân là chồng tôi, một trung tá Không Quân mặc dầu lớn tuổi nhưng khi đến Mỹ vẫn tiếp tục đi học có bằng Master và làm việc trong các cơ quan của chánh phủ và quốc tế, chính người này đã giúp đỡ gia đình tôi nhiều nhất, một trung tá tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến, từng là Tham Muu trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống thời đệ nhất Cộng Hòa, một trung tá  phụ trách Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một thiếu tá Hải Quân có uy tín, rất tích cực trong mọi sinh hoạt cộng đồng..”.


BM


Tôi có suy nghĩ cuộc đời của chị sui tôi là một câu truyện dài nhiều tập và tôi đang gợi ý để chị kể nốt tập cuối. Chị tiếp tục:


“Năm 1991 chồng tôi bảo lãnh cho tôi và mấy đứa con qua Mỹ đoàn tụ gia đình theo diện ODP, ra đi có trật tự. Vừa đặt chân tới Mỹ chưa kịp thở, tiếng Anh tiếng Mỹ còn bập bẹ, nghề nghiệp thì không. Không hiểu sao ông lại hối thúc tôi đi làm ngay trong khi ông ở Mỹ đã mười năm mà còn long bong. Tôi có quen với hai vợ chồng làm ở xưởng sản xuất đồ trang sức giả giới thiệu tôi vào làm chung với số lương tối thiểu khoảng hai đồng rưởi một giờ. Tôi làm được một, hai năm gì đó thì vào mùa tuyết tôi bị trượt té gãy tay nên phải nghỉ làm một thời gian. Hai vợ chồng tôi quen thì vẫn tiếp tục, sau này họ ra mở và làm chủ tiệm phở có tên là Le ở khu chợ người Việt tại Uptown Chicago.


BM

Thời gian này thì một người anh chồng đang lãnh thầu dọn dẹp vệ sinh, lau chùi các building ở down town, trung tâm thành phố Chicago, anh đem tôi vào làm một giờ được 4, 5 đồng. Tôi làm ở đây đến năm 2000 thì hưu trí. Với đồng lương ít ỏi của người có thu nhập thấp mà hàng tháng phải chi trả nào tiền nhà, tiền điện, tiền nước, vân vân... đồng thời phải phải lo việc học hành cho bốn đứa con còn nhỏ nơi xứ lạ quê người. Tôi lâm vào khủng hoảng giống như thời kỳ sau “giải phóng” 1975, giống như người chới với giữa dòng sông. Mấy đứa nhỏ phải lao ra cứu mẹ. Đứa con lớn đi học ban ngày thì tối về đi giao bánh pizza, cô gái lớn đi làm ở bệnh viện, cô gái út đang học College Devry mà cứ chạy ngược, chạy xuôi quyết đi tìm việc, dầu là lương thấp nhất cũng làm. Có lần hai mẹ con gặp nhau ngoài đường, ôm nhau mà khóc. Cũng may là các con tôi đều học giỏi. Cho đến khi tất cả có công ăn việc làm thì tôi mới đỡ khổ, mới mua được cái building ba tầng lầu mà anh đang ngồi đây, mấy mẹ con ở hai tầng còn một tầng cho thuê cho tới ngày nay”.

 

Vậy chớ chồng chị lúc đó ở đâu và làm gì ? Tôi thắc mắc.


Chị cười, nói: “Có nhiều chuyện để nói, vui lắm. Bảo lãnh mẹ con tôi qua đây được chín tháng thì ông bỏ nhà ra đi. Trước đó, không biết là từ bao giờ, ông cặp bồ với một bà. Khi gia đình tôi qua thì ông cho tiền và mua xe cho bà này đi Texas sinh sống. Tưởng ông dàn xếp như vậy là để quay về với gia đình, nhưng không. Trong thời gian ông làm công tác thiện nguyện ra phi trường đưa rước đồng hương mới tới Mỹ để định cư thì ông lại quen với gia đình của hai chị em. Cô chị có chồng làm nghề sửa xe, còn cô em có chồng người Mỹ. Chồng tôi cặp bồ với cô chị. Ông thường viện cớ đi làm, thực ra là đến với cô ta. Con trai tôi có người giúp chỉ đường đến tận nơi cư trú của hai người. Người này dặn tôi khi nào thấy chồng sửa soạn ra đi thì đi ra xì lốp xe. Tôi làm theo lời ông mà đâu có được, tôi lấy đinh đóng cũng không thủng được lốp xe. Cái cô mà chồng tôi theo đuổi không phải tay vừa. Trong một lần đối thoại với tôi cô ta thách thức: Tao giựt chồng mầy đó. Mầy làm gì được tao!


Tôi đến nhà mẹ cô để cầu cứu. Mẹ cô tỏ ra biết điều, ủng hộ tôi, nhưng cũng không làm gì được. Thời gian chồng tôi còn ở nhà thì không khí gia đình rất căng thẳng. Ông công khai hướng dẫn, giúp đỡ nhân tình làm thủ tục ly dị chồng.

 

Tôi không đồng ý và nói chuyện gia đình người ta ông can thiệp vào để làm gì? Thế là ông đánh tôi rồi ra ngân hàng rút hết tiền và xách cái vali quần áo đã chuẩn bị sẵn, rời khỏi nhà. Cuối cùng thì tôi nhờ luật pháp can thiệp. Khi đến văn phòng luật sư thì được hứa hẹn đủ điều, nghe ngon lành lắm. Mỗi lần hứa hẹn đều phải đóng tiền. Tôi đã mất mấy ngàn đồng mà chẳng thấy kết quả gì. Cùng lúc đó, chồng tôi cũng tìm đến luật sư tiến hành thủ tục ly dị với tôi. Có điều hi hữu là ông luật sư mà chồng tôi tìm đến cũng chính là ông luật sư mà tôi đã đến nhờ làm thủ tục thưa chồng về tội bỏ phế gia đình, chạy theo gái đã có chồng. Tôi và chồng đều là thân chủ của cùng vị luật sư. Vậy thì ông bênh ai và bỏ ai khi mà chồng tôi thì có nhiều tiền hơn tôi? Tự biết mình là người thua cuộc, tôi không còn quan tâm đến vụ kiện nữa, kể cả đơn xin ly dị của chồng tôi không biết nó đi tới đâu và kết quả thế nào. Tôi chưa bao giờ nhận được giấy triệu tập ra tòa để nghe xét xử về việc này. Ba mươi năm nay, tôi cùng con và các người anh em của chồng không ai biết tin tức gì về ông, cũng không ai thấy ông xuất hiện ở đâu cả”.


BM


Lời kết: Bài này được viết vào những ngày cuối tháng 4 năm 2023, đánh dấu 48 năm ngày mất nước. Khắp nơi trên nước Mỹ, nơi nào có đông người Việt, có tổ chức hội đoàn thì người ta long trọng tổ chức lễ tưởng niệm “Tháng Tư Đen”. Do đó, câu chuyện về chị sui tôi không chỉ có ý nghĩa trong gia đình mà còn có ý nghĩa lịch sử nữa. Chị là người vợ lính tiêu biểu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì sa cơ, thất thế mà phải gánh chịu nhiều đau thương, mất mát từ sau ngày oan nghiệt đó, kể cả sau khi đặt chân tới nước Mỹ. Nghĩ tới chị, tôi nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Bính:

 

BM

Từ ngày chồng đi tù, chị ở nhà một mình phải đương đầu với biết bao gian khổ để nuôi dạy bốn đứa con còn nhỏ, lo tiếp tế, thăm nuôi ông chồng ngoài Bắc, làm nhiệm vụ với cha mẹ chồng và bà con bên nhà chồng. Chị rất xứng đáng để được vinh danh. Biết bao lần chị nói là rất buồn khi đề cập tới chuyện gia đình, nên tôi cũng ngại. Tuy nhiên, khi nói ra được nỗi niềm, khi trút bỏ được cái gánh nặng của một quá khứ không vui thì tâm hồn chị thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn, chị nhìn thấy và nói lên được nhiều khía cạnh khôi hài của vấn đề. Điều này làm tôi mừng lắm. Cầu xin Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria ban cho chị nhiều hồng ân, nhiều niềm vui và may mắn trong những tháng ngày trước mặt bên cạnh con cháu và những người thân yêu.


https://baomai.blogspot.com/

Đối với những người anh em bên chồng chị, tôi rất ngưỡng mộ. Chồng chị giờ đây cũng gần 90, đã đến lúc ngồi tính sổ lại cuộc đời, được gì và mất gì? Những cái được là tiền tài, danh vọng, địa vị, chức vụ cuối cùng cũng chỉ là hư ảo. Cái mất lớn nhất là mất đi tình cảm của những người thân yêu. Trở về với chính mình không bao giờ là quá muộn. Tôi vẫn nuôi hy vọng vào một ngày nào đó, được một lần ngồi nhậu với anh sui.




Duy Nhân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Jun/2023 lúc 8:07am

TẤM PONCHO



Nguoi%20linh%20QLVNCH.jpg
Sáng Chúa nhựt, tự dưng thấy nhơ nhớ hương vị café và những bản nhạc vàng xa xưa, tôi bèn ghé lại quán ”Yếu Nhân vỉa hè” trong làng TPB. Chủ là một chàng Trâu Điên (TD2/TQLC), giờ đã chống đôi nạng gỗ!

Vô tình ngồi cạnh một thầy giáo dạy Toán cấp Ba. Chú ấy (Thầy Ch., trước 75 còn nhỏ lắm) quay sang hỏi chuyện: – Hồi xưa anh có đi lính không? Lính gì, học ở đâu? v.v… Trả lời xong, chú hỏi tiếp: Anh còn nhớ cái Poncho ? Tại sao hồi đó “nhà binh ta” không trang bị cho lính cái áo mưa cài nút gọn gàng mà lại cấp phát miếng vải “cao su”to tướng, chính giữa khoét một lỗ chữ O, rồi gắn vào đó “cái túi xẻ hông”. Mặc vào, rộng thùng thình, ló cái đầu tròn tròn, nhìn y chang con bạch tuộc ?
Sau khi tôi giải thích sơ sơ về lai lịch và tính “đa năng” của nó. Ông thày này gật gù đắc ý nói:
Tuyệt quá! Sao chưa thấy ai viết gì để “tuyên dương công trạng” cho Nó nhỉ ? Từng là lính, Anh viết, kể đi ! Ít ra cũng có một người đang tò mò muốn đọc: Đó là … Em !
Tôi thấy ý kiến hay, nên khe khẽ gật đầu.
Thế là …

Tấm Poncho.
Ngày bước chân vào quân trường, khi được khoác lên mình bộ treillis, không ai còn lạ gì tấm poncho.
Nó chỉ là miếng vải ép nhựa hình chữ nhật. Vô tri, nhưng lại khá chung tình. Luôn gắn bó với anh lính tác chiến, bất kể ngày đêm, mưa nắng trong suốt cuộc đời.
Đâu chỉ đơn thuần là cái áo để che mưa, như mọi người thường nghĩ. Nó còn rất nhiều công dụng:
Khi mới”vào đời”:
Hạnh phúc nhất.
– Trong Vườn Tao Ngộ. Ngày chủ nhật, ngày thân nhân tới thăm. Nó là chiếc“chiếu hoa”trải ra đón khách. Đôi khi còn trở thành dụng cụ “che chắn tầm nhìn”, bảo vệ cho những kẻ yêu nhau được kín đáo, được tự do bộc lộ nỗi nhớ nhung sau những ngày dài xa cách.
– Khi học về hành quân dã trại. Thêm hai cây cọc đứng, nó hóa thành mái lều nho nhỏ, xinh xinh.
– Thú vị nhất là khi học nơi rừng núi. Ban đêm, với hai đoạn dây dù, nó trở thành chiếc võng để nằm thư thái ngắm trăng sao.
– Khổ sở nhất: Lúc bị “ăn”hình phạt “Tượng đá trùm poncho” (đứng nghiêm giữa trời trưa nắng cháy), hoặc “Poncho bách bộ” (mặc áo mưa cài kín, chấm ngón tay vào đỉnh chiếc nón sắt úp giữa sân trường cát nóng, còng lưng xuống cuốc bộ vòng quanh) thì … Má ơi!…lúc đó, nó chẳng khác chi cái áo giáp sắt đang nung. Tuy không phải là tắm mà sao nước từ khắp châu thân cứ nhỏ giọt tựa mưa rào!

– Ngày tập vượt sông. Dùng tấm poncho, bọc hết áo quần giày nón… vô trong, nó trở thành chiếc phao hữu dụng.

Ra hành quân, nó còn được “sáng chế” ra nhiều lợi ích khác nữa:
– Bọc nước từ dưới suối xa về cho đơn vị sử dụng.
– Đóng quân trên cao độ. Bi-đông lại khô nước. Chính nó là phương tiện góp nhặt, mang về những giọt sương đêm quý hiếm.
-Thêm một hoặc hai cành cây đủ dài, “chế biến”nó để khi thì làm cáng, lúc làm võng tải thương.


– Đêm khuya trời lạnh, mưa dầm, nó là chiếc mền lý tưởng giữ ấm “giấc ngủ tạm thời” cho người chiến sĩ ngoài trận địa, bên hố cá nhân, trong giao thông hào.
– V.V. và v.v ….
– Có những người, vừa đền xong nợ nước, vĩnh viễn ra đi tại chiến trường còn chưa im pháo giặc.
Đường về hiểm trở. Giặc chặn tứ bề. Không còn phương tiện tản thương. Thôi đành …Chào anh ở lại !
Đáng quý nhất.

https://dongsongcu.files.wordpress.com/2016/04/truc-thang-kqvnch-cho-xac-quan-nhan-tu-tran-goi-trong-poncho.jpg?w=671&h=449
Chính tấm poncho ấy, lại được dùng để gói trọn thân xác người “Anh hùng Vị quốc Vong thân”. Thay thế lá Quốc kỳ phủ kín đời anh, để rồi …vội vã đưa Anh về với lòng đất Mẹ!
Poncho hỡi! Ngươi là gì của Lính?
Là bạn, là thù, là người yêu câm lặng hoặc là “hóa thân” của lý tưởng Tự Do ? Sao ngươi mãi bám theo người chiến sĩ QLVNCH tới tận phút cuối cuộc đời và có lẽ còn sang cả kiếp sau?!
Xin đa tạ lời gợi ý, khơi nguồn,
từ chú em chưa tới tuổi lính ngày xưa,
một ông thầy trong thời hiện tại !

Lâm Viên 20


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Jun/2023 lúc 8:10am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Jun/2023 lúc 9:04am

Bi Khúc Cho Bidong- Malaysia…


The%20Island

1-

Đã qua rồi ba mươi năm hay bốn mươi năm
những vết thương vẫn còn đang mở
nỗi buồn xưa ai còn nhớ?
rơi rớt bâng quơ theo lớp bụi thời gian
khi buổi chiều nào ngồi nhìn qua khung cửa
một ảnh hình xa khuất bỗng hiện về
gõ nhẹ vào tim
tâm hồn ngây ngất
Bidong…

2-

Chân lướt qua những đồi dốc,những bờ biển vàng phơi,
những bóng dừa lã ngọn.
rặng thông u trầm
đất nở bao nấm mồ hoang
xơ rơ hàng cột long house nghiêng ngã
không gian tỉnh lặng
một thời quá vãng
loang lỗ muộn phiền
còn chế ngự mãi trong hồn những người bỏ nước lưu vong. ?

3-

Câu chuyện ông lão trong bức tượng ở Bidong
như một truyện truyền kỳ
người nghe sững sờ,kinh ngạc
giữa hiện thực và bất thực
giữa hợp và tan
chỉ trong sự biến chuyển của đồng tử con người

4-

Trên đồi tôn giáo
đưa tầm nhìn bao la
cánh buồm tỵ nạn
vươn ngất cõi trời xa…
sóng vỗ rì rào
lời van xin,hối tiếc
lời kêu than, tuyệt vọng
Thượng đế mãi ở trên cao
có bao giờ thấy biết ?
đại dương tàng chứa xác thân người…
quê hương chỉ còn trong nước mắt
Bidong ơi!

5-

theo làn hương khói ai đã ra đi ?
khu A, khu B,khu E, khu F
theo nỗi uất hận bi thương ai sẽ không về?
huyết thư trên mộ…
dòng thời gian lặng lờ
cầu Jetty loanh quanh nỗi nhớ
đất có hồn ai, đất lên tiếng thở
cho Bidong,
vùng kỷ niệm,
vùng hơi thở tự do được hồi sinh
còn thấm đẫm đến bao giờ ?…

Lâm Hảo Dũng


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Jun/2023 lúc 9:05am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22125
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jun/2023 lúc 11:18am

Người Lính Già Nhớ Thương Chiến Hữu


 

(Viết cho hương linh cố Trung Tá Thiết Giáp Châu Văn Quan)

Quan ơi !
Thời khói lửa về trên đất nước
Bạn và tôi dấn bước chiến chinh
Chung Tiểu Đòan lưu động khinh binh
Lặn lội khắp bốn vùng chiến thuật.

Đời chiến binh vô cùng khổ cực
Nhưng chúng mình vì nước xả thân
Bạn và tôi thoát chết mấy lần
Trong những trận Lai Khê, Long Mỹ.

Tình chiến hữu có chung, có thủy
Hai chúng mình chiến đấu bên nhau
Nguyền sinh tử cùng chung số phận
Hai chiến hữu bên Trời lận đận

Đêm bên nhau gối súng tâm tình
Có lắm khi vì bạn quên mình
Bát nước chia hai cùng đỡ khát
Đêm sương lạnh núi rừng bát ngát
Điếu thuốc bẻ đôi sưởi ấm lòng 

Rồi đến ngày hai đứa chia tay
Bạn và tôi đổi thay đơn vị.

Bạn đầu quân vào ngành Thiết kỵ 
Súng đại liên, thiết giáp tung hoành
Khắp chiến trường suối rộng rừng xanh
Bạn đuổi giặc cứu dân, giữ nước.

Tàn cuộc chiến, giã từ vũ khí
Nuốt căm hờn, chịu cảnh lao tù
Từ giã đời, miền núi thượng du
Xong một kiếp người trai yêu nước!

Bạn nằm xuống nơi miền sơn cước
Tôi lìa quê, sống kiếp lưu vong
Nơi xứ người tôi lắm long đong
Rừng Bắc Việt, bạn yên giấc ngủ 
Ngủ đi QUAN! ngủ giấc ngàn Thu
Miền cực lạc, hồn bạn viễn du
Dưới trần thế, quê hương cơ cưc.

Cứ mỗi năm đến Ngày Quân Lực
Kỷ niệm xưa về lại với tôi
Người Lính Già Nhớ Thương Chiến Hữu
Nén hương lòng khói bốc lên khơi.

Hoa Đô, Ngày Quân Lực.
Trần Công/Lão Mã Sơn.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.461 seconds.