Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Jul/2020 lúc 2:10pm

 

Niềm Đau của Mẹ có con vượt biên mất tích

(Trân trọng niềm đau của Mẹ VN)


Đêm đen đặc bốn bề quạnh - quẽ
Mẹ con mình thỏ - thẻ bên nhau
Tiễn con dạ Mẹ héo xào
Con đi, Mẹ ở... nghẹn - ngào lòng con!!
Kể từ đó, nước - non trắc - trở
Mẹ nhớ con biết thuở nào vơi
Ngẩng lên há miệng kêu trời
Trời cao vấp - với ...có đời nào nghe
Cúi xuống đất quanh hè gọi khẽ
Đất câm câm chẳng hé một lời
Đất dầy trời rộng chơi vơi ...
Đau nầy đằng đẵng muôn đời không phai ...!!!


***

Vàng mấy chỉ trao tay dặn nhỏ:
“- Giấu trong lưng phòng có gian - manh
 - Cha con lao - lý rừng xanh
 - Đây còn chút - đỉnh để dành mẹ thăm”
Dùng - dằng mãi không cằm lại nói:
“- Mẹ cất đi no đói thất thường
- Các em còn phải lo lường
- Phần con đã đủ Mẹ đừng bận tâm
- Mẹ ốm yếu cần chăm sức khỏe
- Rồi hãy xem phương kế làm ăn
- Cho con kính gởi lời thăm
- Chúc Cha qua nổi nhọc - nhằn lưu - ly
- Giờ đã tới, con đi nghe Mẹ
- Đến Mã - Lai con sẽ nhắn tin...”

Nói xong, lặng - lẽ băng mình
Biến vào bóng tối mông mênh âm - thầm
Ôi ! Trời hỡi tơ tằm dằng - dặc ...
Ngó theo con ruột thắt gan bào
Biển Đông sóng giậy xôn - xao
Xốn - xang dạ Mẹ cồn - cào buồng tim
Lòng tha - thiết im im  khấn nguyện
Cho con yêu vượt biển trọn lành
Nào hay số phận mong - manh
Bao nhiêu mơ ước tan - tành khói sương ...!!!


***

Buồn thơ - thẩn Mẹ thường trông biển
Nhớ lại thời... cái chuyến con đi
Vơi vơi ... trời nước thấy gì
Biển xanh mịt mịt tà - huy mờ mờ
Thương con trẻ tuổi thơ non dại
Mới mười lăm đã phải bôn - ba
Con ơi hận nước thù nhà
Chỉ vì quốc - nạn hóa ra đoạn - trường ...!!!

***

Mười năm hỡi còn vương bóng trẻ
Ở tận đâu cho Mẹ rõ tin
Hay là con đã trầm mình
Biển sâu thăm thẳm ngậm hình bóng con
Hay thịt nát xương mòn hải đảo
Gió mây nương mộng báo Mẹ tường
Trời ơi! Thương quá là thương
Rứt ra núm ruột nghe dường xé gan ...!!


***

Thôi, con hãy ngủ an con nhé
Nơi quê nghèo mặc Mẹ héo hon !!
Con ơi nước chảy đá mòn
Còn đây lòng Mẹ xót con đời đời ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi con ơi ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi Quyên ơi ...!!!
Âm - thầm Mẹ gọi Nam ơi ...!!!


............................................

Nguyễn - Minh - Thanh

 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Jul/2020 lúc 8:57am

545 -LK- Anh ở đây -NS Thục Vũ +Vũ đức Nghiêm   <<<<<


17%20Năm%20Trong%20Các%20Trại%20Cải%20Tạo%20Của%20CSVN%20%28tiếp%20theo%20và%20hết%29%20|%20Huỳnh%20...


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Jul/2020 lúc 9:42am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Jul/2020 lúc 12:21pm

 

 

“Còn sống…
tôi còn khóc,
tôi còn thương quê hương tôi!”*

- Quý ơi… Quý!

Tiếng người đàn bà vang lên từ bên trong xóm nhà gần bờ biển.

Không nghe con ơi hỡi vâng dạ chi cả. Chị bỏ sàng tôm khô trên khạp nước, rồi bước ra con đường đất nhỏ. Đưa bàn tay lên che nắng. Chị nheo mắt nhìn ra biển và hướng về mấy đứa trẻ con chòm nhom chơi “tạt lon” ở ngoài đầu xóm gọi lớn thêm lần nữa.

- Quý ơi… Quý!... Ba mầy dìa kia kìa!

Trò chơi “Tạt lon” giản dị, chỉ cần cái lon, chiếc dép và chút ít khoảng trống. Dùng gạch vụn hay phấn kẻ thành vòng tròn, hoặc vuông chừng hai gang tay, làm dấu cho chỗ đặt cái lon. Từ chỗ cái lon phóng chừng 4, 5 bước dài, vạch một đường ngang làm mức đứng để tạt lon. Khởi đầu, ai chơi thì đứng ở khung kẽ của lon thảy chiếc dép của mình về vạch ngang này. Dép đứa nào gần vạch nhất được phần tạt trước. Ngược lại, dép đứa nào xa vạch nhất sẽ phải làm đứa canh giữ cái lon. Nhiệm vụ giữ lon, coi vậy chứ cực và bực lắm, như là một hình phạt. Mấy đứa được phần tạt lon, hớn hở chạy đứng chỗ vạch ngang và lần lượt dùng chiếc dép của mình tạt mạnh về hướng cái lon, sao cho dép trúng lon, làm cho nó bị văng ra khỏi khung kẻ, càng xa càng tốt. Mỗi khi lon bị tạt văng ra ngoài vòng, lăn lon con, đứa giữ lon phải chạy theo lon mà lượm đem về đặt lại chổ cũ ngay, đồng thời phải lẹ mắt, lẹ chân và lanh tay mà rượt và tìm cách chạm vào người đứa đi lượm chiếc dép của mình, trước khi nó nhặt xong chiếc dép chạy được về phía sau vạch; không bắt ai được thế mình thì cứ giữ lon và chạy lượm lon tiếp tục. Hễ bị đứa giữ lon chạm trúng người, thì phải thế chỗ, làm kẻ giữ lon. Cứ thế, sau tiếng lon bị tạt trúng lăn lon con, lóc cóc, là tiếng chân chạy huỳnh huỵch, là rộ lên tràng reo la, cười đùa, trêu chọc của bên thắng cuộc. Cuộc chơi của trẻ thơ hồn nhiên vang inh ỏi cả một góc xóm. “Tạt lon” không nhất thiết chỉ dành cho bọn con trai, mấy đứa con gái cũng tham dự; tiếng cười la trong trẻo của con gái hình như vang xa hơn mấy đứa trai.

Tôi phải công nhận con Nhí tạt lon rất hay, hay hơn con Lượm và hay hơn cả bốn đứa con trai trong nhóm. Nó không chọi mạnh như mấy đứa con trai. Bọn con trai, nhún nhún, nhảy nhảy, tung người lên, cứ thẳng cánh tay mà tung chiếc dép tới; thường thì trớt quớt, chiếc dép bay xẹt qua cái lon, nằm công kênh tuốt ngoài xa. Mấy đứa chọi trật, chạy lên đứng lóng nhóng bên chiếc dép thua cuộc của mình, chờ cơ hội từ con Nhí, đứa duy nhất trong nhóm còn chiếc dép trên tay. Con Nhí đã thấp nhỏ, nó còn khom khom xuống, tay cầm chiếc dép nằm ngang, dí dí đằng trước mắt mình vài cái định hướng cái lon, rồi vung tay, phang chiếc dép.

Vụt một cái. Cái lon bị chiếc dép tạt ngang, văng ra khỏi vòng cả thước, rồi lăn ton ton thêm một lúc, nghe thật vui tai. Con Nhí lẹ lắm, nó lắt choắt, phóng cái vèo lên ngay sau chiếc dép, khòm lưng lượm chiếc dép chạy về phía sau. Thằng Quý chạy lượm cái lon vừa đặt xuống vị trí, vừa ngó tìm con Nhí, thì “bang” con Lượm phía trên thừa cơ hội phang chiếc dép, trúng cái lon. Cái lon bị tung lên, lăn lóc cóc. Thằng Quý lại lịch phịch chạy đuổi theo cái lon. Tiếng chân nó có nặng nề. Nó mệt lắm rồi. Đám con trai lột trần trùi trụi. Thằng Quý đổ mồ hôi, lưng nó ướt đen bóng, mặt quạo đeo, vừa chạy lượm lon vừa quơ quào hốt đại theo bóng mấy đứa thừa cơ hội nhặt lấy dép mà chạy ùa về. Đã vậy, thằng Sữu và đám con trai chạy về mức hết, còn nhảy lưng tưng làm trò chọc thằng Quý. Thằng Quý chạy lượm cái lon, đập mạnh cho nó đứng giữa vòng tròn xong, mắt lườm con Nhí:

- Không cho con gái chơi tạt lon!

Con Nhí biết nó nói mình, chứ không phải nói con Lượm. Nó không chịu thua:

- Ơ… Hồi giờ… có ai cấm con gái chơi tạt lon đâu?

- Tao cấm đó!

- Vậy chứ đứa nào theo năn nỉ con Lượm với tao…?

Thắng Quý bị bắt giữ lon lâu quá nên mệt. Mệt nên đổ quạu, rồi nói càn, giờ thì ấm ớ, mắc cở lắm; nó chưa biết phải trả lời sao thì con Nhí lại đàn áp nó:

- Xí í í í!

Con Lượm được thế, phụ họa với con Nhí, hất mặt, “Xí” thêm một cái dài không kém và kèm theo cái nguýt cũng dài thậm thượt. Dù muốn bênh thằng Quý lắm, đám con trai cũng ậm ừ nín chịu.

- Quý ơi là Quý!... Tàu dìa!

Trong thoáng yên lặng ấy, con Nhí nghe mẹ thằng Quý gọi, bèn kêu lên:

- Tàu dìa!

Nghe mấy chữ “tàu dìa”, cả đám khựng lại, ngó ra biển. Rồi bọn trẻ nhảy tưng tưng vui mừng:

- Tàu dìa!... tàu dìa! tàu dìa!... tàu dìa!...

Đám trẻ ngưng chơi tạt lon, quên mất chuyện cãi vã nhau, bỏ cái lon đứng trong vòng tròn, cùng ùa chạy ra cầu tàu, đón tàu về.

Mấy chiếc tàu đánh cá vào cận bờ, động cơ giảm tốc độ, tiếng phành phạch vang dội rồi thưa thớt dần.

Trời về chiều đã tắt nắng.

Nghe tiếng đám trẻ con gọi nhau “tàu dìa!” và kéo nhau chạy ra cầu tàu, chị Thà ngó thấy trong đó có thằng Quý, con của chị. Chị Thà có vẻ vừa ý, thôi, không gọi nữa, quay vào trong nhà.
Sực nhớ mớ tôm của mình, chị đi ra cửa để lấy sàng tôm khô phơi nắng trên khạp nước từ hồi sáng, bưng nó đem vào bên trong nhà.

Từ giống tôm đất thiên nhiên đến cách luộc và phơi đã làm cho tôm khô Cà Mau được ưa chuộng lắm. Con tôm luộc nước thật sôi một lúc rồi mới cho muối vào luộc tiếp, sau đó mới đem ra phơi nắng; nắng mặt trời vùng đất mũi, tận cùng ở cuối phía Nam.

Thế nhưng, mớ tôm của chị là loại quá nhỏ, nhà cầm quyền chê, không thèm thu mua. Sau khi phơi vài vắng, con tôm đã nhỏ, càng teo rút nhỏ lại thêm, lớn hơn hạt cơm đôi chút. Tuy nhỏ, nhưng nhỏ hay lớn gì cũng vậy, giống tôm đất vùng biển, luộc chín và phơi khô bằng nắng miền biển, có màu đỏ au, thịt khô chắc nhưng mềm ngon trong miệng và hương vị thơm ngon rất đặc biệt. Nhiều món ngon miệng, bắt mồi từ tôm khô của vùng này: cơm cháy tôm khô kho quẹt, tôm khô củ kiệu, gỏi xoài xanh tôm khô, gỏi cóc chua cay, …

- Mẹ!...

Có tiếng thằng Quý gọi. Chị quay lại. Thằng Quý đứng tần ngần, tay cầm đôi dép, tay xách cái thùng đựng mớ cá vụn, nhìn chị mà ấp úng.

- Gì đó?.... Bỏ thùng cá ngoài sàn nước, rồi đi rửa chân, mang dép vô, chiều tối rồi!... Ba đâu?

- Còn dưới bến…

- Mần gì dưới?

- Ba mắc “mần việc” với công an…

- Cái gì?!...

Chị Thà để cái sàng tôm lên bàn, quày quã rời nhà, đi xuống bến. Chị lo quá, không biết chồng mình phạm cái tội gì mà bị công an “mần việc”. Thằng Quý bỏ đại thùng cá xuống nền nhà, hai tay cầm hai chiếc dép lẽo đẽo theo mẹ:

- Nghe nói… ghe nhà con Lượm… nghe nói… Ba nó đi rồi!

Chữ “đi” mà thằng Quý mới nói, bây giờ rất là phổ thông, sau khi cộng sản chiếm miền Nam của chị, nhất là trong vùng ven biển này. Chỉ mỗi một chữ ngắn ấy, nó kể lại cả một chuyện dài đầy thương tâm; cho dù người ra đi có đến được bến bờ tự do hay ra đi mà không bao giờ đến. Nó báo cho những người còn lại phải khôn hồn mà tránh liên lụy. Kinh nghiệm sống dưới cái chế độ cộng sản này là như vậy. Không nghe, không nói, không thấy, không biết gì hết vẫn có lợi hơn cho mình. Mấy cái vụ “đi” này không lạ gì với chị, cũng không phải là lần đầu xảy ra trong cái xóm biển này. Nghe thằng Quý nói vậy, chị Thà khựng lại, cầm tay thằng Quý, quay trở về nhà:

- Thôi,... đi dìa!

- Mình không xuống bến với Ba à?

- Xuống mần chi!

Chị biết chồng chị có thừa kinh nghiệm để đối phó với mấy cái vụ “mần việc” của bọn công an về vụ ghe và ngư phủ trong đoàn đã vượt biển. Thằng Quý không biết tại sao mẹ nó không còn muốn xuống bến, nhưng nhìn mặt mẹ nó nghiêm trọng quá, nó không dám cãi lời hay hỏi han chi thêm. Trong phút chốc, nghĩ lại tội nghiệp thằng Quý, chị buông lơi tay con, vói tay lấy đôi dép và cầm cho con; chị dịu giọng:

- Dìa nhà, Mẹ tắm rửa cho con, rồi ăn cơm… Chút Ba dìa.

Mấy chiếc thuyền đánh cá nhỏ cột trên bến, nhấp nhô in mình trên ánh đỏ thẫm của hoàng hôn. Ba người mặc đồng phục công an kéo nhau về trạm. Mấy người đánh cá trong xóm, ra khơi đánh cá với ba của con Lượm hồi sáng sớm, giờ cũng lục đục tản hàng, về nhà.

Đi ngang ghe tôi, anh Thà dừng chân, đưa cái thùng nhựa trên tay lên:

- Hốt một mớ ăn cơm!

Tôi tuột xuống phía sau ghe, lấy cái thau và đi ra mũi ghe. Anh Thà vói lấy cái thau, xúc và đưa lên cho tôi một thau đầy vun mực ống nhỏ lẫn lộn các thứ cá vụn vặt chưa lựa ra.

- Cám ơn anh Thà nghen.

- Ơn nghĩa gì… chút đỉnh vậy mà!

- Anh cho nhiều quá vậy.

- Tui còn đây nè, lo gì…

Dân đánh cá bây giờ nghèo hơn, sống chật vật hơn. Họ không còn được bán cá của mình như hồi còn tự do; bây giờ hải sản kiếm được phải bán cho nhà nước. Chế độ cộng sản làm cuộc sống họ thêm khó khăn, nhưng không thay đổi được bụng dạ chất phát và tình người chan hòa của dân làng miền Nam.

- Lựa cá ra kho là đủ ăn cơm chiều rồi… Chắc tụi tui phơi nắng một mớ mực, hôm nào chạy xuống đây, mình lai rai!

- Ừa… tối nay dìa hả…

- Dà, nhân viên trạm ăn cơm xong, xuống hàng, thì tụi tui dìa.

- Rồi… có chuyến, chạy ghe xuống đây… mình nhậu!

Anh Thà cười hề hà hứa hẹn rồi xách cái thùng lên:

- Thôi. Tui dìa… để bả trông.

Tôi không hỏi và anh Thà cũng không nói; ai cũng biết không nên bàn nhắc về chuyện trốn đi của anh Bá, ba của con Lượm, trong lúc này. Nhưng trong anh và tôi cũng đều cầu mong cho chiếc ghe đánh cá bé nhỏ của ba con Lượm đến bến bờ tự do bình an. Bây giờ, ai cũng mong có cơ hội thoát đi được như anh Bá. Chúng tôi cũng muốn trốn đi từ hơn năm nay rồi. Anh Thà chắc cũng mong trốn thoát với chị Thà và thằng Quý. Nhưng thoát đi một mình đã khó, mang vợ con xuống ghe để theo cùng thì không phải dễ, càng khó hơn gắp bội phần. Tội nghiệp chị Bá và con Lượm chắc khóc vùi lúc này. Anh Bá thoát đi được, thì chị Bá và con Lượm còn có cơ hội sang với anh và được làm người tự do.

Con chim hải âu muộn màng, đơn độc chao lượn gọi đàn. Những tia nắng cuối cùng của ngày loáng thoáng, lấp lánh trên mặt sóng. Bến tàu thưa vắng, không còn tàu thuyền ra khơi hay trở về bến. Chỉ trong vài phút ngắn, mặt trời đã khuất hẳn. Gió mơn man thì thầm tiển biệt. Ngày tàn. Đêm đen phủ trùm. Ngày mai trời lại sáng trên biển. Nhưng đêm đen của cộng sản bạo tàn vẫn còn phủ trùm trên quê hương tôi.

Triền miên, giông bão biển Đông thét gào
Cuốn đi cánh hoa đào, dạt trôi nơi nao
Trùng dương như khóc, như than cho đàn con
Biển sâu là mộ chôn, con ơi ôi đọan trường
Trời đêm sao rơi, nước mắt ôi long lanh
Khổ đau không vơi, tóc đã phai màu xanh
Xa nhau mãi từ đây, chia ly mãi từ đây
Yêu thương và nhung nhớ dâng tràn đầy
Sương bao phủ đầy trên quê hương khổ aỉ
Yên vui giờ đổi lấy lầm than kiếp đọa đầy
Mịt mờ hôm nay, nào ai biết tương lai

Còn sống, tôi còn khóc, tôi còn thương quê hương tôi
Còn sống, anh còn nhớ, anh còn thương em ơi
Còn sống, ba còn nhớ, ba còn thương con ơi *

Bùi Đức Tính

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Aug/2020 lúc 12:48pm

Vĩnh Biệt Kinh Tế Mới


Hình internet

Có lẽ mẹ con chúng tôi là những người đi Vùng Kinh Tế Mới trong những đợt đầu tiên, và cũng có thể chúng tôi là những người đi Vùng Kinh Tế Mới trong các đợt sau cùng.
Vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Ba mẹ và bảy anh em chúng tôi, lớn nhất là tôi mười bốn tuổi và bé nhất thì chưa đầy một tuổi, bồng bế, cột dính vào nhau hòa theo đoàn người xe hỗn loạn trên quốc lộ 1 chạy vào Sài Gòn. Đến Cam Ranh, giữa rừng người chen lấn chúng tôi leo lên được một tàu nhỏ của Nhật trong tiếng kêu la, khóc thét, trong tiếng súng gần của lính VNCH, tiếng súng xa của bộ đội Cộng Sản. Tàu này chuyển chúng tôi ra Hạm Đội 7. Vào đến Sài Gòn nhưng không được cập bến nên chuyển hướng ra đảo Phú Quốc. Từ đảo ba tôi liên lạc xin vào nhận nhiệm sở mới ở Sài Gòn qua đường Cần Thơ.

Ba tôi loay hoay chạy quanh giữa một Sài Gòn hỗn loạn. Cho đến lúc Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì gia đình chúng tôi lạc mất nhau. Phải mấy ngày sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Chúng tôi vào tá túc nhà của một người đã chạy ra nước ngoài trong khu gia binh. Một thời gian sau, ba tôi bị đi tù “Cải Tạo” biệt tích. Mẹ và bảy anh em chúng tôi bơ vơ giữa Sài Gòn xa lạ với hai bàn tay trắng, không có một đồng bạc hay một miếng “mẻ” vàng, theo cách nói của mẹ tôi. Chúng tôi phải đi xin ăn, tôi mắc cỡ nên đi cách xa các em tôi một quãng, đợi các em tôi xin xong thì dắt các em về”. Trong thời gian này, mẹ tôi rất hoang mang lo sợ, gầy xộc hẳn đi. Mẹ con chúng tôi mang đầy ghẻ chóc “bộ đội”, sống không bữa no, chẳng biết làm gì, không tiền không biết đi đâu về đâu. Tối đến mấy mẹ con ôm nhau khóc sướt mướt. Đã vậy vào một buổi sáng, một đoàn bộ đội tiến đến tiếp thu nhà, đuổi mấy mẹ con ra đường. Chúng tôi sống lang thang, đứa xin ăn, đứa nhận bánh bán trả tiền sau.

Khi chính quyền Cộng Sản lập danh sách đi Kinh Tế Mới trong khu gia binh, chúng tôi là những người thuộc diện đi đầu tiên bởi vì chúng tôi không nhà, không hộ khẩu. Nghe Cán Bộ nói cho nhà, cho đất lại còn cấp cho sáu tháng gạo nữa. Vì vậy, chúng tôi có lẽ là những người đi Vùng Kinh Tế Mới trong những đợt đầu tiên của cuộc đời mới.
Ngày lên đường, một hàng xe dài chờ mọi người chất đồ đạc lên xe. Ai cũng tất bật, kẻ khiên người vác, nào là bàn ghế, giường tủ, chén bát và hàng hàng trăm thứ lỉnh kỉnh. Riêng mấy mẹ con chúng tôi chỉ vài túi vải đựng áo quần và đôi cái nồi đen đúa. Đặt biệt là có tấm ván ép mỏng bề mặt bằng khoảng một giường nhỏ, của ai vất bên đường mà mẹ tôi nhặt đem theo để làm giường ngủ.
Đoàn xe lên đến Bình Long, rời đường nhựa len vào dưới tàng cây rậm rạp của rừng cao su bạt ngàn. Qua khỏi rừng cao su đến cánh rừng tre nứa âm u. Để mấy chục gia đình xuống giữa mấy dãy nhà nhỏ lợp tôn, chung quanh không có vách, rồi đoàn xe lăn bánh chạy mất hút.

Chúng tôi được cấp dao chặt cây, cuốc cào và mấy chục ký gạo. Nhận được nhà, mẹ con đem áo quần, nồi niêu vào, đặt tấm ván ép giữa nhà. Ăn xong bữa cơm muối thì trời sập tối, sương mù bao quanh. Mấy mẹ con chùm chăn nằm sắp hàng trên tấm ván, ngủ đêm đầu tiên trên vùng Kinh Tế Mới. Càng về khuya càng nhiều sương lạnh bao phủ. Tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng Nai Mang kêu thất thanh trong rừng, lạo xạo tiếng thú ăn đêm quanh nhà, tiếng nghiến rít của rừng tre gìa kèn kẹt. Chúng tôi lo sợ chập chờn ngủ trong tiếng thì thào của đêm đen. Sáng ra người mấy mẹ con loang lổ ướt lạnh, phần vì sương đêm, phần vì các em nhỏ của tôi đái dầm chảy dài trên tấm ván ép.

Những ngày sau, mẹ và tôi dùng cuốc và dao để phát quang những đám cây khoai Mài, khoai Nần, cỏ dại loang lỗ hố quanh nhà. Chúng tôi phát hiện nhiều rào que thấp cắm chung quanh một cái cọc, có tấm ván nhỏ vẽ hình sọ người với một chữ “Mìn” lẫn lộn trong cây cỏ dại. Có nhiều nơi chỉ còn có cái que nhỏ cắm bên cạnh một khối thép hoen rỉ nửa chìm nửa nổi. Mẹ tôi vội kêu tất cả anh em chúng tôi lại, cấm chúng tôi bước ra các đám cây cỏ, chỉ được đi trên những đường mòn nhỏ...Những ngày kế tiếp mấy mẹ con ở trong nhà không dám bước ra ngoài. Mẹ tôi ngồi hàng giờ, ngày qua ngày nhìn sâu vào rừng không nói năng, đôi lúc nước mắt mẹ chảy dài. Anh em chúng tôi ít cười nói ồn ào vì sợ mẹ la, đôi lúc chúng tôi cũng khóc theo mẹ.

Vài người gan dạ vào rừng hái măng rau về ăn, rồi càng lúc càng đông người đi. Chúng tôi thì chỉ cơm canh muối, rồi cũng không chịu nỗi mẹ gởi tôi và em gái kế cho một người nhà bên cạnh theo họ đi lấy măng, hái rau. Sáng sớm tôi cầm dao, em gái tôi cầm 1 cái bao tời nhỏ, đi theo người đàn ông hàng xóm vào rừng. Trong rừng có rất nhiều măng, mọc giữa những bụi tre, Lồ-Ô to lớn san sát che kín mặt trời. Có những cây tre cao vút, lại có nhiều cây nghiêng ngả ngang dọc la đà đủ các tầm cao thấp. Nhiều cây nằm dài trên mặt đất, cho nên rất khó đi đứng và khó mà lấy được măng. Chúng tôi chui bò vào những bụi tre rậm rạp cố len lỏi để gai tre khỏi cào vào tay vào mặt bẻ những búp măng to dài. Có lẽ người hàng xóm và anh em tôi qúa mải mê tìm măng, nên đã thất lạc nhau. Hai anh em tôi sợ qúa, kêu la vang rừng nhưng không có ai trả lời. Chúng tôi vừa đi vừa khóc, phần sợ thú dữ phần sợ trời sắp tối. Tôi quyết định bỏ bớt măng lại cho nhẹ và đi như chạy về hướng ngược lại của mặt trời lặn, vì buổi sáng chúng tôi vào rừng với mặt trời mọc sau lưng. Hai anh em vừa chạy vừa khóc, chạy riết không biết bao lâu. Trời nhá nhem tối thì chúng tôi nghe tiếng mẹ tôi xa xa. Chúng tôi chạy đến gần thì thấy mẹ đứng sau nhà, day mặt lên trời hướng về đám rừng khóc la, kêu hú như điên dại. Gặp chúng tôi mẹ đánh hai anh em tôi túi bụi, khóc cười nước mắt ướt dầm dề.


Tối đó chúng tôi được ăn một bữa cơm ngon gồm có canh măng và măng kho. Mẹ gầy nhỏ, tóc tai rối bời ngồi suốt đêm nhìn chúng tôi ngủ. Sáng ra khi mặt trời chưa mọc, ánh sáng lẫn lộn sương mai. Mẹ thức chúng tôi dậy, tôi thấy áo quần và gạo đã được chia đều ra từng bao nhỏ, những cái nồi cũng đã được bỏ vào bao cẩn thận. Mẹ phân công tôi dắt ba em, hai trai một gái đi trước. Còn mẹ thì dắt ba em gái nhỏ đi sau, cách chúng tôi một quãng độ hai ba trăm mét. Mẹ dặn nếu có ai hỏi thì bảo rằng về thăm ngoại, và cho một em chạy lui báo cho mẹ biết, để mẹ trốn vào ven rừng hai bên đường.

Hồi hộp, sợ hãi chúng tôi bước những bước nhanh trên thảm lá ẩm ướt. Nhiều thú nhỏ ăn đêm nhìn chúng tôi một thoáng, rồi lủi nhanh vào bóng tối. Mỗi lần mệt, chúng tôi trốn vào những bụi cây để nghỉ... Chúng tôi nghỉ rất nhiều lần bởi vì phải thay phiên nhau cõng các em nhỏ. Với nhiều lần nghỉ như vậy, chúng tôi vượt qua rừng dày, rừng thưa và rừng cao su. Thỉnh thoảng vài người bắt gặp chúng tôi, họ ngạc nhiên khi thấy bầy trẻ chúng tôi nhớn nhác đi như chạy.

Nhưng họ cũng không kêu gọi hay hỏi han gì. Chiều đến chúng tôi ra đến đường lộ. Một xe tải cho qúa giang về thị trấn và đêm đó chúng tôi ngủ ở bến xe.Trời sáng, mẹ bán ít gạo đón xe về Sài Gòn. Lang thang ở Sài Gòn mấy ngày, mẹ tôi gặp người quen cho biết cả ông bà nội, ông bà ngoại đều đã về mua đất ở hai làng quê hẻo lánh nằm giữa Cam Ranh và Nha Trang để làm nông.

Mẹ xin một xe khách trả ít tiền để về Cam Ranh. Trên xe chỉ có mẹ tôi là được ngồi trên ghế bồng em gái út, còn chúng tôi thì ngồi dưới sàn xe. Đứa đằng trước, đứa đằng sau, ngồi lẫn lộn với hàng hóa, vịt gà rồi ngủ gà ngủ gật. Đến Cam Ranh, chúng tôi thức giấc lục tục xuống xe. Khi xe đã chạy xa, mẹ phát hiện thấy thiếu mất một đứa em trai. Mẹ khóc thét lên, rồi bỏ chúng tôi ngơ ngác chạy về hướng xe đã khuất, vừa chạy vừa vò đầu bức áo khóc la thảm thiết. Chúng tôi tay dắt nhau, tay xách đồ, bồng bế lếch thếch chạy theo mẹ và cũng đua nhau khóc la thảm thiết không kém. Trời xập tối không một bóng người, không còn thấy bóng dáng mẹ, chúng tôi chạy mệt, khóc khản tiếng đành ngồi bệt bên vệ đường. Một lúc sau mẹ quay lại không nói năng, mắt đỏ hoe bồng bé út dắt chúng tôi bỏ đường quốc lộ đi về hướng ngọn núi xa mờ.Vượt qua mười mấy cây số đường đất dưới trời đêm, mẹ con tìm đến được nhà ông bà ngoại.

Ông bà ngoại tôi có tới mười sáu người con, mẹ tôi là con gái đầu và rất nhiều cậu dì nhỏ tuổi hơn cả chúng tôi. Có điều đặt biệt là cả mười sáu người con đều không mất người nào. Gặp lại ông bà ngoại cùng các cậu dì, mẹ tôi khóc òa kể lể về chuyện lạc mất một đứa con trong khi về đây và cứ nhắc đi nhắc lại rằng sợ khi ba tôi về sẽ trách mẹ. Những ngày kế mẹ tôi cứ khóc ngày khóc đêm, hết nắm tay người này lại đấm lưng người khác trong nhà van xin hãy đi tìm dùm em tôi. Ông bà ngoại cùng các cậu dì rất là khổ sở vì biết bao nhiêu là mối lo. Nào là vấn đề hộ khẩu, công an, du kích hết rình mò lại hạch hỏi tạm trú tạm vắng, nào là không biết lấy gì để ăn. Nhà ông bà ngoại đã đông nay lại thêm bảy tám mẹ con chúng tôi nữa. Cơm gạo đối với chúng tôi hầu như chỉ còn thấy trong cơn mơ những lúc ngủ. Chúng tôi ăn hết Sắn khoai trong nhà ăn ra Sắn khoai ngoài vườn. Ăn cả rễ lá khoai Sắn, rồi ăn luôn rễ chuối, thân cây chuối. Món thường ăn nhất là canh lá khoai Lang cắt nhỏ hòa với bột Sắn. Ông bà ngoại buồn lo, đâm gắt gỏng khi thấy mẹ tôi khóc suốt ngày suốt đêm. Còn các cậu dì thấy mẹ tôi đâu thì tránh đó, vì sợ mẹ tôi bắt đi tìm kiếm em tôi. Nếu mà nắm được ai, mẹ khóc lóc van xin đi kiếm em tôi, người đó cứ đi một vòng ra khỏi nhà, rồi về nói là không tìm thấy.

Trong nhà ông bà ngoại lúc đó, có một ông Dượng chồng của dì tôi là một lính Không Quân VNCH rất cao lớn, cũng về tá túc ở đây. Dượng thấy mẹ tôi ngày nào cũng khóc lóc thẫn thờ, bèn khăn gói áo quần, khoai sắn làm lương thực, dắt xe đạp đi kiếm em tôi. Dượng đạp xe theo quốc lộ 1 dọ hỏi dọc đường. Vượt mấy chục cây số ra tới Nha Trang, mà vẫn không có tin tức gì về đứa em thất lạc.

Dượng la cà ở bến xe Nha Trang thì có người cho hay rằng, trước đây có thấy một bé trai độ bảy tám tuổi ngủ quên trên xe đò, khóc dữ lắm. Chủ xe bèn giao cho một đoàn bộ đội đang trên đường đi, nghe đâu đóng quân ở Tuy Hòa chuẩn bị ra Bắc. Biết đúng là cháu mình, dượng tức tốc đạp xe ra Tuy Hòa cách Nha Trang mấy chục cây số. Đến Tuy Hòa, lần tìm được chỗ bộ đội đóng quân, dượng vào trình bày hoàn cảnh của mẹ con chúng tôi. Bộ đội xác nhận là có nuôi một đứa trẻ thất lạc và cho em tôi ra nhận diện. Sau khi em tôi được hỏi và nhận đúng là người nhà thì bộ đội cho dượng đem em về. Sau mấy ngày tìm kiếm, dượng và em tôi về đến nhà khi mấy mẹ con đang mót khoai ngoài vườn. Nghe tin đã tìm lại được em về, mẹ tung rổ rễ khoai chạy băng băng như cắt qua các luống đất gập ghềnh, vừa chạy lại vừa khóc.

Từ khi tìm được em tôi mẹ hết khóc, cả nhà ai cũng mừng. Nhưng chỉ được một hôm cả nhà lại buồn lo cho miếng ăn hàng ngày. Mẹ hết suy lại tính, không muốn dành ăn của các em nhỏ. Nên mẹ quyết định chúng tôi sẽ ra đi, dù rằng không biết đi đâu. Lần lừa mãi rồi cũng phải khăn áo ra đi. Ngày chia tay, ông bà ngoại cùng các cậu dì cho mẹ con chúng một bịch khoai khô, kèm theo thật nhiều nước mắt.

Ra khỏi nhà ông bà ngoại, chúng tôi lếch thếch cùng mẹ dọc theo đường đất bụi bặm. Trời nắng gắt, mồ hôi nhớt nhác, ghẻ lở ngứa ngáy, gãi đến chảy máu đỏ dính loang lổ áo quần như là có hoa. Chân bỏng rát, đầu thì ghẻ chí ngứa ran, các em gái tôi phải cạo đầu cho hết chí Chúng tôi ngồi nghỉ bên vệ đường như kẻ ăn xin. Hết mệt lại đi, chúng tôi tìm về được nhà ông bà nội trời vừa tối. Dưới ngọn đèn dầu tù mù, mẹ khóc lóc kể lể trước vẻ mặt cố dửng dưng của ông bà nội. Còn cô tôi thì tránh xa chúng tôi, ngồi khuất lờ mờ trên giường, hình như sợ đám ghẻ trên người chúng tôi vậy. Tối đó mấy mẹ con ngủ dưới đất một giấc say sưa vì mệt. Hôm sau chúng tôi được ăn một bữa no, ông bà nội cho mẹ con ít tiền. Ông nói ông không nuôi nổi thân ông làm sao nuôi một mẹ bảy con chúng tôi được. Ông bà nội tôi có sáu người con, bốn trai hai gái, ba tôi là con trai đầu. Ba tôi và chú kế là sĩ quan An Ninh Quân Đội VNCH, còn hai chú sau là Cảnh Sát. Có điều lạ là bốn người con trai của ông bà nội tôi không ai có một căn nhà riêng cả. Mẹ tôi nhiều lần nhắc ba tôi kiếm một căn nhà để ở và cũng là để dành cho con cái, nhưng ba tôi luôn phất tay nói “Đời còn dài”. Hai chú nhỏ sau là cảnh sát nhưng làm việc đâu ở Dakto, Dakbek gì đó. Ba tôi và chú kế thì hết việc trong sở, lại lo điều tra chống tham nhũng. Chống tham nhũng được gì đâu không biết, chứ mỗi lần moi ra một vụ là mỗi lần gia đình tôi lại theo ba tôi bị chuyển đi Tỉnh khác, Vùng khác. Có lần còn ở tù, có lần sém chết phải tự xin thuyên chuyển đi nơi khác. Vì vậy gia đình tôi hết ở khu gia binh, khu sĩ quan hay ở hẳn trong sở, nhưng nhiều nhất là ở nhà thuê. Ba năm cuối trước ngày 30 tháng 4 ba tôi bị chuyển về Ninh Hòa, nhưng ở nhà thuê gần một chợ quê.

Từ giã nhà ông bà nội, mẹ con chúng tôi ra đi mà chẳng biết đi đâu. Lang thang mấy ngày, mẹ con về đến nhà ông bà ngoại. Lần này gặp lại nhau ai cũng khóc, nhưng ít nước mắt hơn. Được ít hôm ông bà ngoại lại cho khoai sắn khô, để làm luơng thực đi đường. Và lần chia tay ra đi này, mẹ con chúng tôi biết rằng sẽ khó quay trở lại.

Mẹ tôi quyết định trở về vùng Kimh Tế Mới Bình Long. Chúng tôi đi ra ga xe lửa, vô tới Sài Gòn mẹ đổi ý. Chúng tôi không đi đâu chỉ ở trong sân ga, rồi lên tàu về Nha Trang. Tàu đến Nha Trang không có nơi để về, nên lại đi vô Sài Gòn. Cứ thế, hết đón tàu đi vô rồi lại đón tàu đi ra. Chúng tôi như những người sống trên tàu vậy. Một hai lần đầu nhân viên trên tàu còn hỏi vé đuổi xuống. Sau thấy hoàn cảnh của mẹ con chúng tôi, lại thấy mẹ con ngồi lì dưới sàn tàu, đói rách ghẻ lở nên họ lơ đi. Thỉnh thoảng có người cho đồ ăn, có người cho tiền. Không như các em tôi ôm nhau ngủ trong tiếng sập sình như bầy chó con. Tôi ngồi cách xa mẹ và các em làm như một người xa lạ. Nhưng nhìn cách ăn mặc, bộ dạng tôi ai cũng biết tôi ở trong đám ăn xin đó.

Có một lần mẹ con xuống ga Tháp Chàm ở Phan Rang, đi vào trong thành phố xin ăn. Đi suốt ngày không được gì, anh em chúng tôi đói lả khóc rinh rích. Bụng tôi đau âm ỉ từng cơn, bao tử lép kẹp như dính vào xương. Nhưng tôi vẫn phải cõng em trên lưng, chân ê ẩm bỏng rát chỉ mong được nằm lăn ra đất. Trời đêm nhiều sao, mấy mẹ con nằm trên một sạp gỗ trong chợ vắng vẻ. Các em tôi đói, khóc mệt, ngủ vùi miệng nhai nhóp nhép. Kê một cục gạch trên đầu, nghe tiếng lạch bạch của một mái tôn, tiếng ồng ộc trong bụng, mấy ngụm nước lạnh không làm no, tôi không ngủ được. Một người đàn ông trung niên áo quần lôi thôi lếch thếch, tò mò nhìn mấy mẹ con rồi tiến đến hỏi chuyện mẹ tôi. Nghe mẹ kể hoàn cảnh, ông ta bảo mẹ thức anh em tôi dậy theo ông đi đến một gánh cháo gà. Ông ta mua cho mỗi người một tô cháo trắng. Tuy không có thịt gà, nhưng mùi thịt và mỡ gà làm chúng tôi không thể ăn chậm được, vèo một cái là hết sạch. Mẹ tôi thì vẫn ăn cái cách chậm rãi của mẹ, thấy các em ăn xong mẹ chia cho các em mỗi đứa một ít. Trả tiền xong, người đàn ông nọ dắt mẹ con tôi về lại sạp chợ ban nãy. Ông ta nói mẹ theo ông vào trong này chút xíu để ông ta cho tiền. Vào sâu giữa chợ hoang vắng, mù mờ, tôi thấy ông ta tay ôm, tay cầm lấy tay mẹ dằng co. Tôi vội chạy vào, đến gần tôi nghe tiếng mẹ tôi khóc năn nỉ, lưng gập lại dật tay ra, miệng nói “không! không! xin ông”. Còn ông ta nói rít nho nhỏ trong cổ họng “trả tiền cháo lại”. Tôi chạy đến đứng giữa nhìn thẳng vào mặt ông ta, sợ qúa hai tay hai chân tôi cứ run lên bần bật không nói được gì. Ông ta cũng không nói, nhìn tôi trừng trừng như đánh gía một cái gì đó... Mẹ tôi nói trong nước mắt “Cám ơn bác đã cho ăn cháo đi con”. Tôi lí nhí cám ơn. Rồi hai mẹ con đi như chạy về thức các em dậy, chúng tôi dắt díu chạy vội ra ga xe lửa. Tim đập thình thịch tôi quay lại, vẫn thấy bóng đen của người đàn ông nhìn theo chúng tôi.

Không thể cứ lang thang hoài được. Mẹ đem chúng tôi về cái làng nơi ở trước ngày chạy giặc. Ở đây hầu như mọi người đều biết mặt nhau. Nên nhiều người vừa ngạc nhiên vừa tò mò nhìn bà vợ sĩ quan và đoàn con tàn tạ đi qua đi lại nơi ở cũ. Nuốt tủi nhục mẹ con đi vào căn nhà thuê thủa nào, gặp một người đàn bà lạ từ trong nhà đi ra. Bà ta cho biết là đang mướn căn nhà này. Nhìn vào trong, tôi thấy đôi ba vật dụng của nhà tôi xưa kia. Mẹ tôi muốn xin lại ít vật dụng, nhưng bà ta lắc đầu không biết chúng tôi là ai rồi đóng cửa lại. Chúng tôi sang nhà bà cô họ của ba tôi xin ở nhờ vài hôm, nhưng vợ chồng con cái bà cô họ không cho. Năn nỉ thật lâu, họ chỉ cho ở trước hiên nhà. Tất cả đồ đạc của nhà tôi trước kia hầu như là đã được khuân về đây. Mẹ xin họ thương tình cho lại ít đồ đạc để bán nuôi con, nhưng hai vợ chồng lắc đầu nói gì tôi không muốn nhớ. Nhìn vào trong nhà họ, tôi thấy hàng giầy dép của ba mẹ, của chúng tôi sắp thẳng tắp, trong khi chúng tôi đi chân đất. Mẹ xin cô dượng cho mỗi đứa chúng tôi một đôi nhưng họ cũng không cho. 

Trước đây cô dượng vẫn cậy quyền của ba tôi, vừa được ba tôi giúp thật nhiều, đổi đời lòng người cũng đổi thay. Mẹ giận qúa không thèm ở nhờ trước hiên nhà họ, đem chúng tôi ra ngủ ngoài các sạp chợ. Chợ làng này nhóm vào mờ mờ sáng và tan vào lúc một hai giờ chiều. Lúc đó chợ vắng, chỉ còn người quét chợ và chúng tôi. Tất cả các sạp ở chợ này chỉ có mái lợp bằng tôn hoặc bằng tranh. Riêng ở giữa chợ có một cái Ki-ôt bàn hàng vuông vít mỗi bề ba mét là có vách tường, không cửa sổ, chỉ độc một cái cửa nhỏ ra vào. Người chủ không dùng tới, thấy mẹ con tôi đêm đêm ngủ trống trải nên cho mấy mẹ con vào ở nhờ.

Nơi ở đã có, nhưng lấy gì để sống. Mẹ tôi đi mua chịu chuối xanh về dấu chín đem bán, hoặc luộc lên cắt thành từng chùm ba hoặc bốn qủa mà bán. Rồi mẹ lại còn mua thêm mía cắt thành từng khúc ngắn bán cho con nít. Thật là kỳ lạ, đây là thôn quê vậy mà bán rất chạy. Sau buổi chợ, mẹ quay lại nghề mà mười mấy năm trước khi lấy ba tôi, là đi đến các tiệm may nhận may thuê. Tôi và các em đi lượm mót củi ở trong một nghĩa địa gần đó để nấu ăn. Tối đến trên chiếc chiếu lớn lấm tấm cáu và máu, chúng tôi nằm ngủ ngang dọc. Cánh cửa luôn mở rộng vì hơi người chật chội, vì mùi chuối ủ rơm bốc lên hầm hập, mùi máu ghẻ tanh tanh, mùi nước tiểu đái dầm khai nồng của các em nhỏ, mùi cá thịt. Tôi không ngủ được, vì vậy tôi hay ôm tấm chăn ra ngủ ngoài các sạp gỗ. Trời mờ sáng, khi bắt đầu họp chợ là tôi lẩn ra nghĩa địa. Chờ cho đến khi chợ tan tôi mới về, vì tôi sợ những người đi chợ, sợ đám trẻ con sàng sàng ngang tuổi anh em chúng tôi, tò mò nhìn vào đám rách rưới bên trong Ki-ốt. Nhất là sợ những thằng bạn, những đứa con gái học cùng lớp với tôi trước đây. Thoáng một cái tôi không còn là tôi.

Mẹ thấy tôi cứ ngoài nghĩa địa, ngoài rừng Đước bờ sông, bắt ốc, hái củi trốn tránh người quen. Nên mới nhờ hai vợ chồng dì dượng em mẹ tôi, cho tôi theo làm than trên núi. Kể từ đó, tôi mới biết thế nào là lao động vất vả để kiếm miếng ăn. Dì dượng và tôi ở một cái chòi trên núi. Suốt ngày cưa chặt cây củi, khiêng vác, đào lò đốt than, gánh xuống núi bán. Cả người, tay chân tôi lúc nào cũng ê ẩm. Không ngày nào là không có thương tích, nhiều khi vết thương tay làm độc cương mủ cầm chén cơm, đôi đũa không nổi.

Mấy tháng sau, mẹ nhắn tôi về để đi Kinh Tế Mới. Dân địa phương ở đây đã mấy đợt đi Kinh Tế Mới. Chính quyền thôn xã đã nhiều lần động viên, đe dọa nhiều tháng trời nhưng mẹ tôi cứ lì ra không chịu đi. Họ phải đưa mẹ và một số người ngoan cố lên xem thử vùng Kinh Tế Mới. Thấy vùng này gần, người đông cũng không có đạn mìn thời chiến tranh còn sót lại, nên mẹ và mười mấy gia đình cuối cùng chấp nhận lên vùng Kinh Tế Mới này.

Một con đường đất mới ủi chui sâu vào rừng rậm, là con đường bộ đội dùng để khai thác và chuyên chở gỗ về đồng bằng. Phái đoàn cán bộ bỏ mười mấy gia đình chúng tôi xuống giữa đường rừng. Họ đo bề ngang mỗi quãng 25 mét và chỉ vào rừng gìa âm u nói “Đây là đất thổ cư, đất trồng trọt hoa màu của đồng bào”. Và họ lên xe đi về. Mọi người chỉ còn biết lắc đầu kêu trời.

Hồi trước đi Kinh Tế Mới ở Bình Long chúng tôi còn được cấp dao rựa, cào cuốc còn lần này họ chỉ phát gạo tùy theo đầu người mỗi tháng. Không biết mẹ tôi mua lại của ai được một cái rựa cùn. Hai mẹ con thay phiên nhau cực lực phát quang rừng gìa mà phải làm thật nhanh cho kịp với bà con hàng xóm để cùng đốt rẫy một lần. Nói sao cho siết nỗi cực nhọc của hai mẹ con chân tay yếu ớt, cả đời chưa bao giờ biết khai hoang phát rẫy. Mười lăm ngày vớì nhiều mồ hôi nước mắt trộn lẫn máu mủ, tay chân phồng dộp. Sau khi ngọn lửa ngút trời thêu rụi rừng cây đổ nghiêng đổ ngã, chúng tôi có một mảnh đất. Mảnh đất phủ một màu tro than, ngoằn nghèo rễ cây, ngổn ngang cây đá, cùng những thân cây to đen không cháy hết.

Tôi vẫn nhớ như in ngày mùa hè hôm đó. Giữa nắng trời gay gắt, mẹ và tôi chặt cây, gom củi chân bước ngập tro than hầm nóng, mặt mũi da thịt ướp dày tro đen. Gần chiều bỗng một cơn mưa dông bất thần, những hạt mưa rơi lụp bụp trên mặt thảm tro. Chung quanh bốc lên khói hơi của đất hoang, của rừng gìa, của tro than nồng nồng bịnh hoạn. Mẹ và tôi vội chạy về với các em, đang ở nhà một người lên đây trước, cho chúng tôi ở nhờ trong khi khai hoang làm nhà. Tối đó, mẹ tôi sốt nặng phải đem ra trạm xá. Trạm xá Kinh Tế Mới chỉ là một cái chòi lá vách ván, vài ba lọ thuốc đếm được, một cái giường và một bà mụ gìa được gọi là y tá. Sau khi chích thuốc, cho mẹ tôi uống thuốc, bà y tá nói mẹ tôi bị sốt rét vài ngày sẽ khỏi. Rồi bà ta đi về nhà ngủ. Chúng ngồi ngủ quanh mẹ trên giường. Người mẹ hết nóng lại lạnh, nằm co quắp run cầm cập suốt đêm. Đó là hình ảnh cuối cùng mà tôi được nhìn thấy mẹ còn sống. Không như lời bà y tá đoán, mấy ngày sau bịnh tình mẹ tôi càng nặng phải chuyển lên bịnh viện Huyện. Tôi phải ở nhà giữ các em nhỏ, đứa em gái kế tôi đi theo chăm sóc mẹ. Ở bịnh viện Huyện mấy ngày, mẹ tôi được chuyển lên bịnh viện Tỉnh. Hai ngày sau, mẹ tôi cô đơn chết trong khi em gái tôi chạy ra ngoài pha nước sôi. Tính ra mẹ tôi đi Kinh Tế Mới lần này được một tháng.

Được tin, ông bà nội ngoại vội mướn xe chở xác mẹ tôi về lo đám tang chôn cất vùng nhà ông bà ngoại, vì vùng Kinh Tế Mới ở đây chưa có nghĩa địa. Chúng tôi nheo nhóc về nhà ông bà ngoại, khóc lóc, bu quanh xác mẹ... Đám tang mẹ tôi không có gì cho người ta ăn uống. Trái lại bà con chòm xóm của ông bà ngoại người cho khoai, người cho sắn. Không có hòm, người ta cho mẹ tôi một tấm ván ép mỏng khoảng một phân, cưa ra đóng thành hòm.

Ngày đưa xác mẹ ra nghĩa trang, chúng tôi đứa nào đứa nấy khăn tang trắng ố vàng dài qúa mông. Người ta khiêng hòm trên vai đi trên con đường gập ghềnh, quanh co ra nghĩa địa nằm cao trên một đồi núi cỏ cây lấp sấp cách xa mấy cây số. Chúng tôi đứa đằng trước, đứa đằng sau, có đứa đi cả dưới hòm của mẹ. Xác mẹ được đem chôn vào lòng đất lẫn hàng ngàn tiếng khóc, hàng ngàn nước mắt của anh em chúng tôi và cũng chôn luôn niềm an toàn được mẹ chở che. Ngay lúc mộ mẹ vừa đắp xong, thì sự cô đơn, nỗi lo sợ bất an bắt đầu lảng vảng chung quanh hay đâu đó trong lòng tôi.

Lo xong cho người chết, nội ngoại hai bên họp bàn lo cho người sống là chúng tôi. Nội ngoại bàn chia anh em chúng tôi ra làm hai, một nửa sống với nội một nửa sống với ngoại. Hỏi ý tôi thế nào, tôi xin nội ngoại hai bên nuôi các em tôi, còn tôi xin được lên lại vùng đất Kinh Tế Mới. Nơi mảnh đất mà mẹ tôi đã bỏ mạng sống. Các em đều đòi đi theo tôi, cuối cùng anh em tôi đành phải chia ba.

Tôi cùng hai em, một trai một gái lên lại vùng Kinh Tế Mới. Chúng tôi vào rừng đào củ, hái rau để ăn. Vào rừng chặt cây, chặt củi. Vào rừng cắt Tranh để dành làm nhà. Nói là nhà chứ thật ra ngày ông nội, ông ngoại lên giúp chúng dựng nhà mấy ngày, chỉ dựng được cái chòi Tranh cao vuông vứt bốn mét xoay lưng về hướng núi rừng. Và nhà chỉ có một vách mặt trước, vì hết Tranh. Xong việc hai ông nội ngoại ra về.

Đêm đầu tiên trong căn nhà đầu tiên của anh em mồ côi chúng tôi, ba anh em tôi ngủ không được yên giấc. Trời tối đen dày đặc. Mưa không buồn nhưng mưa ầm nước ào, trĩu nặng mái Tranh như muốn đè bẹp căn nhà. Gío hú, gío thốc từ sau hướng không có vách che, mang theo mưa bay vào làm tắt đống lửa giữa nhà. Ba anh em ôm nilon, chăn mền chạy ra đứng trước mái hiên ngủ gật gà. Như trêu ngươi, gío trở chiều, anh em lại vội khăn gói chạy vào trong nhà. Và cứ chạy ra hàng hiên ngủ một chốc, lại chạy vào nhà mơ một lát. Vài lần như vậy người cả ba anh em nửa ướt nửa khô.

Đến nửa đêm, mưa tạnh gío êm. Tiếng côn trùng chui ra từ sũng đất râm ran. Đom đóm xanh xao vật vờ quanh quẩn. Xa xa ngọn núi sau nhà, ẩn hiện những cặp mắt lúc xanh biếc, lúc rực đỏ. Tiếng con gì bay ngang quẹt phải mái Tranh, luống cuống một chốc rồi bay mất hút vào bóng đêm. Hai em lăn ra ngủ vùi, tôi bó gối nhìn vào rừng đêm mịt mùng, lo lắng sợ hãi. Nỗi sợ lúc mơ hồ, lúc hiển hiện bao quanh. Suy nghĩ mung lung, bỗng nhiên thấy thời gian, không gian như lập lại. Cũng tiếng Nai Mang thất thanh trong đêm tối, tiếng côn trùng ỉ ôi, tiếng sột soạt thú rừng kiếm ăn, tiếng tranh giành sự sống của đêm nào trên vùng Kinh Tế Mới Bình Long. Nhưng cuộc sống và con người thì đã đổi thay.

Qua mấy mùa mưa nắng. Chúng tôi kiếm ăn như thú rừng, chân tay mọc thêm u nần. Dân số của vùng Kinh Tế Mới vơi dần. Riêng xóm chúng tôi, có đêm ngủ thức dậy thấy biến mất cả một gia đình. Có gia đình mười người, bỗng một hôm nhân khẩu chỉ còn có năm, rồi hai, cuối cùng không còn ai. Có nhà thì ban ngày ban mặt, mướn xe tải rộn ràng dọn đồ đạc lên xe, chưa hết lời chia tay, quay qua ngoảnh lại thì thấy nhà đã thành nhà hoang. Những căn nhà dọc theo hai bên con đường xưa rộn tiếng người, gìơ vắng vẻ, chỉ còn mỗi túp lều của ba anh em chúng tôi. Những căn nhà không người chăm sóc, mưa nắng, gío bão sụp đổ mau lẹ. Có căn mục nát, rồi đổ ầm xuống một cái thế là xong. Có căn tung vách, tróc nốc chỉa những cái cột siêu vẹo lên trời. Có căn chỉ còn chơ vơ bốn vách để bầy Sóc, bầy Thỏ đôi lúc chạy đùa bên trong.

Qua mấy mùa nắng mưa. Chúng tôi sống như Kinh như Thượng, áo quần mục dần theo thời gian. Màu xanh của cây rừng phủ chụp, lan nhanh trên những vườn tược, trên những căn nhà sụp đổ hoang tàn. Con đường đất rộng lớn xưa nhiều xe cộ qua lại, thưa dần rồi dứt hẳn. Cây cỏ đua chen mọc lên, biến nó trở nên con đường mòn nhỏ cho người dân tộc đi qua. Anh em chúng tôi cố gắng giữ mảnh đất của mẹ cho khỏi rừng xanh bao phủ. Chúng tôi đã gĩư được mảnh đất khỏi màu xanh rừng rú, nhưng đã lạc mất tuổi thơ, tuổi xuân xanh nơi núi rừng vùng Kinh Tế Mới này.
II.
Anh em chúng tôi ít khi nghĩ đến ngày, tháng, năm. Nhưng thời gian vẫn vun vút trôi qua. Chúng tôi thêm tuổi, cây rừng thêm lá, kinh tế mới thêm nhà hoang.


Nhà tôi
Các em thêm tuổi thì chỉ muốn về sống chung với tôi, anh em xum vầy dù đói khổ. Thêm tuổi nhưng chúng tôi vẫn khù khờ hơn những đứa cùng trang lứa. Thỉnh thoảng chúng tôi đốn củi, chẻ tre vác xuống phố bán để mua thực phẩm. Một tuần đôi lần, chúng tôi cầm đèn dầu xuống trường học của kinh tế mới để học bổ túc văn hóa vào ban đêm. Hoặc xuống họp nông hội, tuy nhỏ nhưng tôi không vào đoàn thể thanh thiếu niên của “Bác”, bởi vì tôi là chủ hộ. Những lần đi học như vậy, bọn trẻ tuy có đứa cũng làm bạn với chúng tôi, nhưng đa số là chọc ghẹo, ăn hiếp chúng tôi. Người lớn thì nhìn chúng tôi vừa tò mò vừa thương hại. Tôi thường tránh né những lời thương hại của họ, chúng làm tôi mặc cảm và thấy mình nhỏ bé. Mà mọi người cũng không thể nhìn khác được, bởi vì áo quần chúng tôi mặc không thể gọi là áo quần được. Chúng được vá víu vụng về, bất kể màu sắc, cũ hay mới, quần hay áo. Có khi tay áo vá vào ống quần, hay ngược lại ống quần bóp nhỏ biến thành tay áo. Đi đứng phải cẩn thận, nếu không muốn chúng rách tung ngoài đường.


Đặc biệt đôi dép của tôi là khó làm cho mọì người nín cười được. Đó là một đôi dép nhựa đứt quai màu nâu, ai vất bỏ trong rừng. Nó to rộng quá nên tôi cắt gọt cho vừa. Vì dùng dao và bị gọt mất lớp nhựa láng bên ngoài nên trông rất nham nhở. Sau đó tôi khoét lỗ, lấy dây rừng sỏ làm quai dép, mỗi lần đứt quai lại lấy dây rừng xỏ lại. Vậy mà nó cũng theo tôi được mấy năm. Cũng vì áo, vì quần mà tôi bị mất mối tình đầu.

Ba nàng chết trận đã lâu, mẹ con nàng đơn chiếc đi kinh tế mới. Một hôm ba mẹ con nàng đi đốn củi, ghé vào nhà tôi xin nước uống. Thấy hoàn cảnh chúng tôi cũng đơn chiếc như nhà bà, nên mẹ nàng nói rảnh thì xuống nhà bà chơi cho đỡ buồn. Mới gặp nàng lần đầu, trong lòng tôi rộn ràng, vu vơ cảm giác thân quen như tìm lại được hạnh phúc thủa gia đình còn đông đủ. Cảm giác khó tả đó cứ dâng lên mỗi lần gặp nàng. Thường sau một ngày lao động, đám con trai, con gái mới lớn hay tụ tập lại nhà nàng chơi. Lần đầu mới tới nhà nàng tôi rất ngượng, sau cũng quen. Bọn con trai đàn ca, chọc cười, tán gái. Con gái thì viết thơ, coi bói, làm duyên. Tôi không nói gì với nàng nhiều, chỉ biết nhìn nàng và giúp mẹ nàng làm hết việc nhà. Mẹ nàng thường thưởng công và đãi chúng tôi món bánh tráng chấm mật đường. Từ đó tôi mê cả món mật đường của mẹ nàng và nàng. Tôi thường đến chơi, giúp cuốc đất trồng khoai, nhổ mì gọt sắn, việc lớn việc nhỏ trong nhà nàng đều có tay tôi dính vào. Tụi bạn có đứa chọc tôi “Việc nhà thì nhác việc cô bác thì siêng”. Ai cũng xem như tôi làm rể nhà nàng. Nhờ lì, ít nói, siêng làm nên nàng yêu tôi. Bọn con trai hết còn dám tán tỉnh nàng. Đi đâu tôi cũng hãnh diện, khoe khoang nàng là người yêu của tôi.

Mùa hè năm đó, chúng bạn rủ nhau đi tắm suối. Quần đùi bên trong của tôi rách quá, nên tôi về nhà lôi cái váy đầm học trò, đồ viện trợ duy nhất còn sót lại, mới như chưa mặc một lần. Cái váy xếp ly đó, ngắn cách đầu gối một gang tay, bằng vải ca-tê mỏng màu xanh lá non, sọc trắng. Không biết tại sao chúng tôi có nó lâu rồi nhưng không mặc. Có lẽ kiểu cách của chiếc váy không phù hợp với dân lao động chúng tôi. Tôi xòe nó ra, đặt xếp đôi trên bàn, cắt một miếng hình tam giác dưới vạt, khâu lại thành cái đáy quần đùi. Xỏ hai chân vào cái quần đùi mới may, mang quần dài vào, tôi chạy lại nhà nàng cùng đám bạn đi tắm suối. Tới suối bọn con gái mặc luôn quần dài và cả áo mà tắm. Con trai chúng tôi thì ở trần, mặc quần đùi. Khi tôi cởi áo, quần dài ra thì cả bọn, trai lẫn gái đều sửng sốt, trợn mắt nhìn tôi chằm chằm. Tôi nhìn xuống chân. Trời ơi! Không như tôi nghĩ, nó không biến thành cái quần đùi, mà vẫn là cái váy xếp, xòe rộng lất phất trong gió. Ngượng quá tôi nhảy ùm xuống nước trong tiếng cười rộ của tụi bạn. Họa vô đơn chí. Nhảy xuống nước cái quần đùi của tôi bọc không khí vào trong, nổi phùng lên như một cái phao dù màu xanh bao bọc quanh tôi. Lũ bạn bò lăn ra cười. Điên tiết tôi đè cái “dù” xanh của tôi xuống, lặn một hơi thật xa không thèm tắm gần bọn chúng. Bơi mệt tụi nó lên bờ nằm nghỉ. Lò dò đi lên, nhìn xuống chân, tôi giật thót cả người. Cái quần đùi của tôi ướt, mỏng dính, bó sát lấy thịt da như không mặc gì. Tôi vội ngồi thụp xuống nước. May quá chưa có đứa nào thấy. Nguyên ngày cho đến chiều, tôi ngâm mình dưới nước, không một lần lên bờ. Mặc cho tụi bạn kêu réo, xin lỗi, mặc cho nàng năn nỉ, tôi nhất định ngâm mình dưới nước. Trời chiều, không kiên nhẫn với tôi nữa, mấy đứa bạn bỏ về hết. Chỉ còn mình nàng, nàng năn nỉ tôi đưa nàng về. Tôi vẫn không chịu lên bờ, giận tôi nàng đi về một mình. Cẩn thận nhìn quanh không còn ai, tôi đi lên bờ, chui vào bụi rậm vắt quần đùi cho khô, mặc quần dài vào rồi chạy một mạch về nhà.


Nàng
Về nhà buồn, mặc cảm. Nghĩ thân phận mồ côi nghèo hèn, thân mình còn lo còn không nổi, làm sao nghĩ đến lo cho nàng. Không thể giải thích cho nàng những điều khó nói, từ đó tôi không đến nhà nàng nữa. Gặp nàng xa xa, tôi tránh đi đường khác. Nếu không tránh được nàng, tôi làm mặt xa lạ như chưa bao giờ biết nhau. Năm sau, một gã thanh niên từ thành phố lên cưới nàng, đem cả gia đình nàng về thành phố. Từ đó không bao giờ tôi còn được găp lại nàng nữa.


Cuộc sống niềm vui thì ít, sự buồn thì nhiều. Cũng may, chúng tôi còn trẻ và không có nhiều giờ rãnh để buồn. Nhưng điều phiền phức thì khó có thể tránh né. Một trong những điều phiền phức đó là tôi không nhận ra được các em gái tôi đã lớn, đã thành thiếu nữ. Cho đến lúc thấy bọn con trai trong làng kéo đến nhà tôi chơi càng lúc càng đông, tôi mới biết. Đó cũng là lúc tôi thấy trách nhiệm “Quyền huynh thế phụ” của mình nặng hơn cả trách nhiệm cơm gạo.

Điều phiền của tôi lúc đó là bọn công an, xã đội, du kích thôn xã. Mỗi tối chúng chia nhau đi tuần khắp làng, rồi trở về điểm hẹn tập trung là nhà tôi. Chắc vì nhà tôi không có người lớn. Chúng cứ gõ cửa xét nhà bất kể giờ giấc, bắt tôi thức dậy thắp đèn lên, chúng soi dọi đèn pin lên trần, dưới gầm, vào giường các em, bới móc thúng rỗ, nồi nêu, áo quần kể cả những miếng vải vụn của các em gái tôi chúng cũng không từ. Vừa lục soát như nhà không người, chúng vừa nói cười hô hố. Có nhiều đêm chúng ngồi trước sân nhà tôi, ăn uống cười nói oang oang, nồng nặc mùi rượu, hứng lên lại gõ cửa xét nhà.

Sợ nhất là mấy thằng say xỉn, phá làng phá xóm. Băng quậy phá toàn những đứa xưa chăn trâu xứ này. Lợi dụng chăn trâu, chúng bới cơm, đem thuốc nuôi cha ông, bà con của chúng là cán bộ, du kích trốn trong rừng. Bây giờ cha ông, bà con của chúng là Tỉnh Ủy, Huyện Ủy, Chủ Tịch, Công An, nhỏ nhất cũng Bí Thư Xã. Bọn chúng một chữ cũng không biết, không làm gì được, chỉ làm biếng nên suốt ngày rượu chè say sưa. Chuyện ăn hiếp người dân, phá làng phá xóm, muốn đánh ai thì đánh của chúng thì không sao kể hết được. Những ai không biết, nghe một hai chuyện của chúng thì đã khiếp, thấy đâu tránh đó. Một bận có nhóm bộ đội đóng quân khai thác gỗ gần làng, xuống làm quen con gái trong xóm. Nhóm bộ đội và tụi nó kình nhau, thấy bộ đội có súng nên chúng nhịn. Đêm sau phục kích hai bộ đội trên đường về trại, chúng xông ra thủ sẵn tre vót nhọn đâm hai bộ đội chết tại chỗ. Cán bộ ở trên xuống bắt chúng về điều tra, mấy ngày sau thấy chúng về nhà phây phây, lại có thêm tiền nhậu lớn nữa. Từ đó chúng càng phá làng phá xóm hơn. Có lần sau khi nhậu say, chúng ra lịnh làm lễ “Tắt Đèn”... Chẳng ai hiểu gì hết, sau mới biết là khi chúng đi đến xóm nào thì xóm đó phải tắt hết đèn, nếu nhà nào không tắt đèn, chúng sẽ xông vào đập phá nhà đó. Nhiều khi làm lụng ngoài nương rẩy về, vừa mới dọn cơm tối ra ăn, chưa kịp ăn mà nghe chúng đi ngoài đường gào lên “Tắt Đèn!” thì phải tắt đèn ngay. Cũng may chúng chỉ làm lễ “Tắt Đèn!”có vài lần thì chán không muốn chơi nữa.


Em tôi
Bọn chúng cũng đến nhà tán tỉnh, chọc ghẹo các em gái tôi thường. Chúng xin đưa em gái tôi đi chơi, tôi không chịu, tụi nó tức lắm nhưng vì đang tán em gái tôi nên chúng nhịn. Theo hoài không được, chúng nó rình sáng sớm em tôi gánh rau Lang ra chợ bán. Bọn nó bao vây định cưỡng ép, em tôi vất gánh rau chạy về được. Tôi làm đơn kiện ra xã, thì ủy ban xã chỉ gọi hai bên lên giải hòa rồi thôi. Từ đó chúng hay tới nhà tôi quậy phá luôn, có lần đập phá đồ đạc, còn hăm dọa đốt nhà. Đi trình báo công an, công an cũng không tới giải quyết. Một hôm chúng đến bao vây nhà, đòi tôi đi mua rượu cho chúng uống. Tôi ngồi trên giường trả lời không có tiền, thì tên đầu đàn cung tay đánh một cùi chỏ vào giữa mặt tôi. Tôi té lật ngang, tay ôm mặt, không đau nhưng tôi choáng váng không thấy gì một thoáng. Định thần trở lại, tôi thấy máu từ trong mũi mình chảy ra đỏ cả mặt cả áo. Các em tôi khóc la kêu cứu xóm làng. Tay ôm mặt tôi gượng ngồi dậy trên giường như không có gì xảy ra. Thằng đầu đàn lại hỏi “Mày có chịu đi mua rượu không?” Tôi lắc đầu. Nó nắm tay lại giơ lên cao đấm vào đầu tôi, tôi bật ngửa, trong đầu máu như sôi lên nóng ran. Lồm cồm ngồi dậy, máu trong mũi tôi lại chảy ra. Thấy tôi ngồi lên, nó lại hất hàm hỏi tiền, tôi lại trả lời không có tiền. Thực sự là chúng tôi không có tiền, nhưng nó tưởng tôi ngoan cố. Nó vung chân đạp thẳng vào bụng tôi, tôi nghe miệng tôi thoát ra một tiếng “Hự” khô khan, ruột như rách ra. Tôi đứng dậy, cố giữ hai chân cho vững, tay vịn vào thành giường. Nó bước lui một bước, trợn mắt nhìn, tôi nói, Nếu các anh không muốn chúng tôi sống ở đây, ngày mai chúng tôi sẽ khăn gói ra đi. Chúng nó chửi tôi thêm mấy câu tục tỉu nữa, rồi kéo nhau đi. Tôi nằm vật ra giường, thấy mình mẩy đau quá, nhất là cái mũi. Nhìn lên trần nhà, vừa đau vừa ức, nước mắt tôi chảy ra ròng ròng không cầm được. Tôi khóc như một đứa con nít. Không biết sao, từ đó chúng không quậy phá nhà tôi nữa.


Một trong những niềm vui hiếm hoi, nhưng to lớn của chúng tôi là nhận được thư của ba tôi báo tin còn sống. Ba tôi hiện đang “cải tạo” tại trại tù thuộc tỉnh Thanh Hóa tận ngoài Bắc. Trong thư ba viết vẫn khỏe, khuyên chúng tôi cố gắng sống chờ ba về, và nếu có thể thì đi thăm ba một chuyến, hoặc gởi ít quà cho ba... Đọc thư ba chúng tôi mừng quá, cứ như người bơi kiệt sức thấy bến bờ. Chúng tôi liền viết thư cho ba, tha hồ trút hết buồn đau, côi cút. Tôi quyết định phải đi thăm ba tôi một lần, nhưng tiền đâu, quà thăm nuôi đâu mà đi. Chúng tôi trở lại nghề ăn xin. Ông bà ngoại cho một bao cát (loại bao dùng đựng cát, làm hầm chống bom đạn) khoai lang luộc, xắt lát phơi khô. Ông bà nội cho con chó giữ nhà, làm thịt, đem kho mặn để ăn cho được lâu. Ông nội cũng còn cho một xị rượu đế, bỏ ít rể cây vào rồi ghi bên ngoài chai là rượu thuốc trị đau lưng. Chúng tôi đi đến các nhà bà con, người quen hay các bạn cũ của ba tôi mà chúng tôi biết để xin tiền. Cuối cùng cũng gom được ba bao cát quà nhỏ và một ít tiền. Quà thì chỉ khoai khô, sắn bột, gạo rang, bánh tráng và ít đường cát. Nói chung chỉ toàn sản phẩm của thôn quê. Tôi gánh hai bao, em gái tôi vác một bao cùng lên đường.

Đường đi ra Bắc thăm cha thật gian nan không kể xiết. Trời lạnh, áo không đủ ấm, chúng tôi phải luôn quấn tấm nylon quanh mình, lúc đi cũng như khi ngủ. Chúng tôi hết đi tàu lửa, rồi đi xe hàng trăm cây số. Đi ghe qua sông, qua suối, lại đi bộ hằng mấy chục cây số mới đến được trại tù heo hút. Dọc đường gặp những người cũng đi thăm tù, thuê người gánh hàng bao tải thực phẩm. Hai anh em tôi nhìn lại ba bao quà tí xíu của mình mà buồn. Cán bộ nói sẽ cho cha con ăn chung một bữa cơm. Chúng tôi vội thổi cơm, nấu đồ ăn dọn sẵn chờ ba chúng tôi ra ăn. Ba tôi mặc bộ đồ tù đi ra, phải một lúc chúng tôi mới nhận ra nhau, rồi cứ ngồi nghẹn ngào khóc suốt cả buổi thăm nuôi... Nói chuyện không được bao nhiêu thì hết giờ. Tôi rút hết tiền ra trao cho ba tôi, chỉ chừa lại chút ít đủ để ăn trên đường về. Ba tôi tháo gỡ quà ra cho cán bộ xét, rồi cất gánh đi vào, đi vài bước lại quay nhìn chúng tôi. Đợi ba tôi khuất bóng, chúng tôi chuẩn bị đi về. Trên đường ra khỏi trại tù “cải tạo”, tôi thấy nhiều người tù ăn mặc phong phanh cuốc đất trong cái rét kinh hồn của miền Bắc, cái rét mà người ta nói là cá cũng phải chết nổi lên mặt nước. Một người tù gìa đứng gần lề đường, nháy mắt với tôi chỉ vào một bụi rậm. Nhìn vào trong bụi cây, thấy một bó thư, tôi vội lượm nhét vào bụng. Nhìn quanh thấy yên, tôi cởi áo ấm và lấy tấm ni-lon dùng để che mưa gió của tôi nhét vào bụi rậm. Đi một đoạn tôi cúi xuống tháo đôi giầy vải ném vào lề đường. Mấy người tù gần đó thấy vậy vẫy tay chào cám ơn. Trên đường về chúng tôi nhẹ nhàng quá, không còn gì. Nhưng càng đi càng lạnh, máu ở bàn chân như đông cứng lại. Chân tôi từ từ sưng đỏ lên, không còn cảm giác. Đường về càng dài hơn, phần không có tiền đi xe đành đi bộ, phần chân đau cứ đi vài cây số lại phải nghĩ. Chúng tôi quá giang xe, đi tàu chui (không vé) về tới thành phố Vinh thì may sao gặp một chiếc tàu chở than đá vào Huế. Chúng tôi nằm lăn trên than ngủ vùi. Đến Huế chúng tôi nhảy xuống sông Hương, tắm rữa cho sạch bụi than. Rồi lại đi tàu chui mà về Nam . Về đến nhà hai bàn chân tôi sưng đỏ, căng bóng lên hết mấy tuần. Cứ mỗi lần nhìn vào hai bàn chân sưng húp, đỏ như hai bắp chuối sứ, là tôi lại chảy nước mắt vì sợ và nhớ ba tôi. Gần mười năm ba tôi ở tù “cải tạo”, chúng tôi chỉ đi thăm được hai lần như vậy.

Kinh tế mới này ruộng thì ít, rừng rẫy thì nhiều vậy mà cũng bị đưa vào hợp tác xã nên đời sống ở đây càng tệ hại hơn. Người làm lụng trực tiếp thì ít, người lao động gián tiếp thì nhiều. Nông dân chỉ làm lấy lệ, vì làm điểm nhiều nhưng lúa gạo chẳng bao nhiêu. Nhân số cán bộ sấp sỉ nhân số xã viên. Từ tổ trưởng, tổ phó lên đội trưởng, đội phó. Từ thôn trưởng, thôn phó lên xã trưởng, xã phó. Rồi còn kiểm soát tổ, đội, thư ký, kế toán, thủ trưởng (chủ nhiệm hợp tác xã), thủ phó, thủ qủy, thủ kho v.v.. Nói chung đi đâu cũng đụng cán bộ. Cán bộ chẳng làm gì, ôm cặp sách chỉ tay năm ngón. Cán bộ chỉ đi bắt bớ, đi tán dóc, tán gái, la cà uống cà phê. Vậy mà cuối vụ, lãnh lúa gạo vẫn nhiều hơn xã viên. Mấy năm sau hợp tác xã giải tán, cán bộ chia nhau đất ruộng tốt, dành cho nông dân xã viên phần ruộng xa đất xấu.

Phần anh em chúng tôi cũng vậy, sống nhờ rừng nhờ suối... Sống trong rừng riết, chúng tôi biết nhìn cây, nhìn rong rêu đoán hướng đi. Biết bẫy thú rừng để ăn. Biết phân biệt rau qủa rừng nào ăn được, cái nào không. Nấm nào độc, nấm nào lành. Vào rừng không có nước biết chặt cây lấy nước uống. Hái trái rừng làm xà phòng giặc áo quần... Tóm lại chúng tôi cứ như là sinh trưởng trong rừng vậy, chẳng còn chút hơi hướng thành phố. Thế mà anh em chúng tôi cũng có vài lần suýt chết vì rắn rết chui vào gầm giường, vì ăn trúng độc. Có một lần đào được mấy củ nần, đem ngâm dưới suối chưa tan hết chất độc, đói quá luộc lên ăn. Trưa hôm ấy cả mấy anh em đều lăn ra hôn mê không còn biết gì. May có người đi rừng ngang qua, báo bà con dưới xóm lên cứu chữa. Cũng có lần ăn hột đậu rựa, vì không làm kỹ, anh em tôi chóng mặt, nhức đầu, ói mửa nằm la liệt. May bữa đó tôi ăn ít, tuy có say sẫm nhưng cũng còn sức đi xuống kêu cứu với xóm làng.

Cuối cùng ba tôi cũng được thả về. Ba tôi đi thăm ông bà nội ngoại, rồi gom các em nhỏ cùng về xum họp một nhà. Chúng tôi mừng lắm, nhất là tôi, như trút bỏ được gánh nặng, thấy từ đây cuộc sống sẽ khá hơn. Ba tôi vừa làm cha vừa đóng vai mẹ. Sắp xếp việc trong việc ngoài, nấu nướng bữa ăn hằng ngày cho chúng tôi đi rừng kiếm gạo, kiếm tiền. Tưởng rằng cuộc sống sẽ tốt hơn, nhưng không nó cũng vậy mà còn tệ hơn. Ở vùng kinh tế mới này ba tôi là người có cấp bực lớn nhất của chế độ cũ đi tù về, nên du kích, công an hay rình mò, mời lên mời xuống hoài. Nhà thì nhỏ, người thì đông, ba tôi lấy tre làm thêm giường. Nhà thêm người nhưng gạo tiền, khoai sắn chẳng thêm ra. Ba tôi gần mười năm trong tù đã quen nếp sống đói khổ một mình. Nay ra ngoài thấy cuộc sống khó khăn hơn, đói khổ một nhà nên đâm ra khó tính, gắt gỏng la mắng anh em tôi suốt ngày. Chúng tôi cứ nghĩ dại, chắc ba bị tiêm thuốc tẩy não nên tính tình mới thay đổi như vậy. Cuộc sống cha con, anh em chúng tôi cứ trôi qua trong căng cứng phiền muộn, no đầy tủi cực.

Mấy năm sau, nhiều người lo thủ tục giấy tờ đi Mỹ diện H.O. Ba tôi sợ, không tin cộng sản nên không chịu làm giấy tờ ra đi. Bởi vì có mấy người bạn cùng tù “cải tạo”của ba tôi, loan báo tin tức chương trình H.O. trước khi nhà nước công bố nên bị bắt đi tù trở lại. Sau này nhiều người đã đi Mỹ rồi, ba tôi cũng không nhúc nhích gì. Cho đến lúc ông bác họ của ba tôi qua Mỹ gởi thư về nhiều lần khuyên bảo, ba tôi mới muộn màng đi tìm hiểu lo thủ tục giấy tờ xuất cảnh. Cái khó khăn bấy giờ của cha con chúng tôi là tiền đâu để lo thủ tục. Ba cùng tôi chạy đến anh em, bà con họ hàng xin xỏ vay mượn. Được chừng nào thì lo chừng đó, thiếu lại chạy đi xin, đi mượn nữa. Thật tình cha con chúng tôi cũng không hy vọng gì mấy. Làm hồ sơ thì làm chứ không có đủ tiền để lo lót đến nơi đến chốn làm sao đi được, chỉ cầu may. Chúng tôi cứ nghĩ rằng, kiếp chúng tôi không thể nào thoát khỏi cảnh rừng rú này.

Chờ đợi mấy năm, nhận được giấy báo, rồi giấy phỏng vấn, gia đình chúng tôi vẫn không tin là thật. Cứ như mơ chúng tôi chạy vay tiền bạc, vào Sài Gòn phỏng vấn, khám sức khỏe. Lòng luôn phập phồng lo lắng trục trặc hay có sự gì đổi thay. Số chúng tôi luôn không được suông sẽ, phải ở lại thêm sáu tháng để tôi uống thuốc chữa bịnh phổi. Cái khó của chúng tôi là không tiền và ở ngoài Trung quá xa Sài Gòn. Đành chấp nhận, chạy ra chạy vô, chắp vá tiền bạc. Cuối cùng chúng tôi cũng bò lết tới được ngày ra đi.

Dù không biết ngày mai ra sao, không nghề nghiệp, học vấn, tiếng Anh không có gì, chúng tôi cũng có lo lắng qua Mỹ làm gì để sống. Nhưng chắc một điều là sẽ sung sướng, tự do hơn ở đây rất nhiều, nên chúng tôi thấp thỏm chờ đợi ngày đi. Ngày đi Mỹ đã tới, chúng tôi bỏ nguyên lại nhà cửa, vật dụng, bỏ lại những thứ rách rưới đã bao năm cùng chúng tôi. Vài bộ áo quần vào Sài Gòn, như là hành trang bước vào một giấc mơ. Chỉ sợ khi tỉnh giấc, lại phải quay về vùng kinh tế mới sống nốt đời hoang dã.

Điều may mắn hiếm hoi đến trong cuộc sống mọn hèn của chúng tôi, làm chúng tôi không dám tin rằng, đời mình mà cũng có ngày hôm nay. Ngồi trên máy bay rồi, tôi cũng chưa chắc sẽ được đi Mỹ. Cho đến lúc máy bay rời khỏi mặt đất, tôi mới dám nói lời: Vĩnh biệt kinh tế mới.

Phước An
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Aug/2020 lúc 2:42pm

Người Bảo Trợ Của Tôi


Chu%20Nghia


Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo CS, gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. 15 đầu trọc: Không thân nhân bảo trợ. Tôi đã trải qua.


Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt. Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường. Ngày đi không thể dời. Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha.

 

 Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không 1 người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.

Rồi đoạn cuối của cuộc hành trình đã đến. Theo chân các hành khách, tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay.


Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và VN, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì một bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm.
Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi đươc bà Mỹ bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở về một apartment mà bà đã thuê sẵn.

Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: Từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… mọi vật dụng cần thiết đều có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá bóng với cái TV cà rịch cà tang… Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game.

Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết (qua người VN dịch lại) là tiền nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi.
Sau khi đã chỉ dẫn những cách xử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điều không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt v.v… mọi người từ giã ra về, riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ. Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà…

Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài.
Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An Sinh Xã Hội, khám sức khỏe, nộp giấy tờ cho 2 con tôi đi học và hướng dẫn vợ con tôi, chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống, nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chủ Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi, sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi

Căn nhà bà ở một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà, tôi đươc hiểu rõ về lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ở Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ở PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích.

 Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được 1 người nông dân VN cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được !
Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷ niệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả 1 vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ.

Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ VN nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở VN đã hấp dẫn chồng bà.
Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn VN mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm.
Tình thân giữa gia đình tôi và bà bảo trợ càng ngày càng thấm thiết. Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi.
Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viên, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà.

Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác.
Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Hồng Thập Tự. Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi.

Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái.

Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở VN. Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người VN đang gánh chịu.
Khi biết có bão lụt ở VN, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gởi tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện Việt Nam.

Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung Tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiều hơn.
Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi được biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây.

Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong cộng đồng VN chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay.
Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên VN có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

Càng gần gũi biết về bà tôi càng thương bà hơn. Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà.
Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là 1 thiếu nữ trẻ đẹp.
Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy.

Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay. Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui”
Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn.

Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo VN và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết ơn Bà.
 Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người.
Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm VN một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết.

Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn về thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp hè thì quá tốn kém.
Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng vé máy bay cho cả gia đình tôi. Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi đã mang ơn bà nhiều qúa.
Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi VN, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy.
Bà nói được đi VN là bà mãn nguyện lắm. Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến VN. Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.
Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống. Một buổi chiều thứ Sáu như thường lệ trên đường từ Hội Hồng Thập Tự về nhà, xe bà đã bị 1 xe truck do một tài xế VN đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân.
Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu. Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành.

Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà. Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và 2 ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn.
Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân VN đang sống duới chế độ phi nhân của CS.

Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm đông để đưa tiễn bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàng, tôi thấy măt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn đuợc ôm từ biệt bà lần cuối và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em!”

Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt. Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, 2 con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương.
Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm 1 chút an bình.
Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh).
Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người VN gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy…

Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả đươc. Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống.
Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen. Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị.
Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy.

Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đô la cho Cô Nhi Viện ở VN.
Khi gia đình tôi dọn về căn nhà của bà, tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy.
Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được.

Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: Sống vì mọi người

Nguyễn Tam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Aug/2020 lúc 7:58am

Chuyện Kể Của Chồng 




Có lần mình hỏi chồng: Lý do (bây giờ người ta hay gọi là "động cơ") nào để anh quyết định tham gia đấu tranh?Lão trả lời: Vì 3 cô gái điếm người Việt ở Campuchia.
Thú thật, khi ấy mình rất bất ngờ, có phần hụt hẫng và bối rối. Tưởng câu trả lời phải to tát, lý tưởng, chính trị ghê lắm chứ. Lão cũng biết khi trả lời như thế sẽ khiến người đối diện tỏ ra khó hiểu. Từ khó hiểu sẽ dẫn đến thái độ tò mò. Câu chuyện về thân phận ba cô gái điếm được chồng mình kể lại, quả là bi thương. Chồng mình bảo "Vì chứng kiến những phận đời vỡ nát ấy mà anh muốn góp phần nhỏ bé vào cuộc đổi thay đất nước. Hy vọng đất nước mình khá hơn, có dân chủ, có tự do để không còn những cô gái VN phải sang xứ người làm điếm. Không còn cảnh người Việt phải sống tha hương, chịu mọi khổ sở, thiệt thòi, hoặc chết thảm nơi xứ người nữa. Đơn giản thế thôi".

Ba cô gái ấy tên là Hương, Trầm và Yến, nhưng cũng có thể đó chỉ là những cái tên giả. Cả ba người đều có cha là những người lính từng phục vụ trong quân đội VNCH. Sau năm 1975, vì gia cảnh éo le nên họ phải phiêu dạt sang Campuchia làm gái. Họ gặp nhau và kết nghĩa chị em. Cô Hương bằng tuổi anh Tú, sinh năm 1968. Vài năm sau ngày SG bị "giải phóng", gia đình cô Hương cả thảy 4 người lên tàu vượt biên. Chuyến tàu gặp cướp biển và Hương đã chứng kiến cảnh mẹ mình bị hãm hiếp, ba và anh trai bị cướp biển dùng báng súng đập vào đầu cho đến chết rồi quăng xác xuống biển. Nhắc đến cuộc đời ba cô gái, có lúc hai vợ chồng hỏi nhau "Không biết trong ba người, ai có số phận khốn khổ, nghiệt ngã nhất?".

Yến sinh năm 1972 quê Mộc Hóa, Long An. Vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, năm 13 tuổi Yến đã phải theo mẹ đi “tải hàng lậu” thuê cho người ta từ biên giới Campuchia về Việt Nam. Ba Yến là một cựu quân nhân VNCH. Sau tháng 4/1975, ông bị bắt đi tù cải tạo. Khoảng một năm sau ông được thả. Ra tù, ba của Yến tham gia vào một tổ chức chống cộng và bị bắt năm 1979. Anh Tú nói rằng không biết ông tham gia tổ chức nào, bị kết án mấy năm nhưng đã ở tù 6 năm, từ 1979 đến 1985 thì mãn án, theo lời kể của Hương và Trầm. Một năm sau khi ra tù, ông qua đời vào tháng 4/1986. Kể từ khi ba qua đời, mẹ Yến ngày càng suy sụp tinh thần, có lúc hóa điên. Một mình Yến tiếp tục công việc tải hàng lậu cho người ta để nuôi mẹ, nuôi thân. Một buổi chiều tháng 2/1987, sau khi đi làm về Yến không thấy mẹ đâu. Linh tính báo cho cô biết điều không lành xảy ra. Cả đêm Yến đi tìm mẹ nhưng không gặp. Sáng hôm sau, người quen báo tin đã tìm thấy mẹ cô nằm chết bên mộ của ba.

Năm 16 tuổi, Yến yêu Hùng, con trai của một trong những chủ buôn lậu mà Yến làm thuê. Hùng lừa Yến sang Nam Vang và bán cô cho một mụ tú bà người Việt. Yến tìm cách trốn khỏi nhà chứa nhưng bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn. Khoảng 1 năm sau Hùng lại mò đến nhà trọ của Yến ở Nam Vang. Hắn khóc lóc, van xin và lại thề thốt. Mủi lòng vì thấy Hùng bây giờ đã thành người tàn tạ (hắn chống nạng vì bị gãy một chân), Yến lại tha thứ và cưu mang Hùng. Vài tháng sau Yến báo tin cô có bầu, Hùng lại một lần nữa ruồng bỏ, phụ bạc người yêu. Suốt thời gian Yến mang bầu và sinh con, đều do một tay Hương (đi làm gái) nuôi nấng. Đến khi thằng Hên lên 1 tuổi, mẹ con Yến và Hương dắt díu nhau lên Koh Kong. Phận làm gái vẫn đeo đuổi họ. Ở đây, họ gặp Trầm. Vì thương cảm hoàn cảnh của nhau, ho kết nghĩa chị em, lo cho nhau như người thân ruột thịt.
Yến chết, một cái chết thảm thương và đau đớn. Suốt ba ngày không thấy Yến về phòng trọ, Trầm và Hương phải bỏ tiền thuê người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải “làm thêm”, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường. Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng (1). Vì chủ chứa- một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp ngồi dự cho đỡ tủi. Anh Tú kể đoạn thằng bé Hên 4 tuổi vừa khóc, vừa chửi, vừa kể lể bằng cả ba thứ tiếng Việt, Khmer và Thái, vừa lấy tay đạp đổ bát nhang và di ảnh của mẹ khiến tôi chảy nước mắt. Nó cho là mẹ Yến đã lừa nó, không đưa nó về thăm ngoại mà đã vội chui vào hòm nằm trốn. Rồi một gã người Việt đưa mấy tên lính Campuchia đến phạt vạ vì dám tổ chức tang lễ ở nơi không được phép. Trầm và Hương lại phải giàn xếp bằng cách hứa ngủ với mấy thằng lính để “trừ nợ”, để đám tang của Yến được suôn sẻ. Hôm sau, đưa tro cốt của Yến lên chùa xong, cả hai người chị kết nghĩa của Yến là Trầm và Hương phải ngủ với mấy tên lính Campuchia như đã hứa.

Hồi tưởng lại chuyện xưa, chồng tôi bùi ngùi: “Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Khi sống, Yến không có nổi một ngày vui, vậy mà định mệnh nỡ lòng nào vẫn ném cho cô một cái chết đầy bi thảm. Với anh, Yến chỉ là một người quen như bao người quen khác đã đi ngang qua cuộc đời. Và cuộc đời cô cũng ngắn ngủi hơn những cuộc đời anh đã gặp. Nhưng đến hôm nay, dù đã bao nhiêu thay đổi, dù đã gần 30 năm trôi qua, anh vẫn không thể quên được mảnh đời tàn tạ của Yến, không quên được đám tang buồn tủi của Yến ở xứ người”. Nói chuyện với vợ mà như tự nói với mình vậy.
Kết thúc câu chuyện về ba cô gái điếm, chồng tôi bảo: “Đấy, giờ em hiểu vì sao anh rất thương và tôn trọng phụ nữ. Cho nên dù em có bắt nạt anh đến mấy anh cũng nhường. Nhường thôi chứ đừng tưởng là anh sợ nhá”.Câu chuyện cảm động như thế mà vẫn cài thêm một ý đe vợ vào được.

Phạm Thanh Nghiên
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2020 lúc 9:51am


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Aug/2020 lúc 10:01am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Aug/2020 lúc 10:00am

TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU...


Việt%20Nam%20Ăn%20Chay:%20Vườn%20Nhạc:%20Trăng%20rụng%20xuống%20cầu%20-%20Hoàng%20Thi%20Thơ%20...
Sau ba tháng học hè ở Sài Gòn, chuyến xe đò Nhan Nhựt đưa nàng trở lại Vĩnh Long, đến bến Mỹ Thuận, nàng thích làm kẻ bộ hành lang thang cuốc bộ qua phà chờ xe. Đúng lúc có đoàn công binh cũng sang sông thì thời gian chờ đợi dài thêm.

Thế là nàng có thời gian quan sát người qua lại, người vội vã tức mình cau có, người đi chơi bình thản nhìn xa, nghĩ gì, tìm gì? Chắc là mỗi tâm trạng khác nhau!

Từ trong cái ồn ào náo nhiệt đó, len lỏi và gây sự chú ý của nàng là tiếng hát trong trẻo người vợ hòa với tiếng trầm ấm của chồng cộng thêm ngón đàn réo rắc của ông. Nàng quay về hướng ấy thì bắt gặp dáng dấp yếu đuối của ông dẫn đường cho bà, họ tìm kế sinh nhai trên chuyến phà. Tiếng hát ấy đã quá quen thuộc trong những chuyến đi, cho nàng một thoáng nhẹ nhàng khi chờ đợi, dìu nàng vào một cuộc sống bình an, một sức sống trỗi dậy. Trong túi tiền hẹp té của nàng, nàng cũng không quên cảm ơn người đã đem tiếng hát thanh thoát làm vui cho kẻ lạ, nhẹ cho vào chiếc lon vài đồng xin hậu tạ. Ông cất tiếng:

- Cám ơn cô.

Uyên tự hỏi “Ông bà là ai, con cháu có không? Không ai rõ về họ, hay chẳng mấy ai để mắt quan tâm?" Nàng cảm nhận một điều, người chồng là đôi mắt của vợ, hình ảnh này biểu hiện lòng thủy chung và nương tựa lẫn nhau. Lời ông thốt tiếng “cảm ơn cô” đã để lại nét thanh cao trong cuộc sống bần hàn của họ.

Chuyến phà chiều nay về quá muộn, trời chạng vạng tối, lại gặp ông bà, cũng từ hôm ấy nàng thầm gọi ông bà là đôi danh ca Ngọc Cẫm và Nguyễn Hữu Thiết, tiếng ca mang về một khung trời thanh bình trong chiến cuộc hôm nay.

Đêm nay bao con thuyền về đâu xuôi mái
Ai ca dưới trăng ngà gần xa vắn dài
Mái chèo khoang thai, trên sông hai màu
Con thuyền về đâu
Ô hay! Sao trăng rụng xuống cầu
Vì đâu? Ô hay, sao trăng rụng xuống cầu

Nhìn dòng sông Mỹ Thuận, cánh hoa lục bình tim tím lững lờ trôi, ánh trăng bắt đầu len vào ráng chiều soi làn nước lóng lánh sắc màu, trên dòng nước ngà như một cơ thể sống, lan nhẹ vào lòng. Nàng, một cô bé chưa va chạm với đời, chưa biết gian nan thử thách, chỉ biết nhìn trời mây nước bao la rồi thả tâm tình mơ mộng miên man, hòa theo lời ca tiếng nhạc.

Đêm nay bao con thuyền về ngang bến vắng
Cô em hát lên rằng dừng chân hỡi chàng
Hỡi chàng chiến đấu!
Nắng mưa dãi dầu
Đừng vội về đâu
Trăng vui nên trăng rụng xuống cầu
Vì đâu trăng vui nên trăng rụng xuống cầu

Bài hát chưa kịp hết, phà đã gần bờ, nàng vội cho vào lon vài đồng để tỏ lòng biết ơn của người cho và người nhận. Chiếc lon hôm nay vang lên hai tiếng vọng, nàng ngẩn đầu nhìn vội xem người đồng cảm ấy là ai?

Trong bộ quân phục hoa rừng, chiếc ba lô trên vai của người lính, trông anh oai hùng làm sao, gương mặt trẻ măng như một thư sinh, trên tay cây đàn cũng nghệ sĩ vô cùng.

Ngạc nhiên hơn, hôm nay nàng nhận thêm được ba tiếng “cảm ơn cô” từ người đồng cảm. Kèm theo ánh mắt rộn ràng làm nàng lúng túng. Rồi líu ríu đáp lời “cảm ơn chú”.

Nàng rảo bước rời phà… người ấy rảo theo.

- Cô bé nè, bộ tôi già lắm sao?

Trời ơi, hỏi chi mà khó trả lời, chẳng lẽ khen người ta trẻ. Nàng nhẹ lắc đầu.

- Vậy sao gọi tôi là chú?

- Dạ, tại má ở nhà hay gọi “chú lính”.

Trong tiếng cười người ta làm nàng thẹn đỏ mặt, có gì sai đâu nè. Lên xe, nàng thở phào nhẹ nhỏm “thoát nạn không phải bị hạch hỏi lôi thôi…”

Xe lăn bánh, bỗng nàng nghe tiếng xin đổi chổ với người ngồi cạnh, thì ra là “chú”. Trời ơi, mặt trời đã khuất từ lâu, sao vẫn chiếu… cố thế này.

- Xin phép cô bé nhé!

Nàng nói thầm “đã ngồi rồi còn xin với xõ gì nữa”.

- Cô bé nè, ở nhà má gọi “chú” đấy là “chú em”.

- Vậy bây giờ Uyên gọi “chú anh” vậy.

- À Uyên! Xin hân hạnh làm quen với Uyên, tên đẹp quá!

Nàng không dám mất lịch sự, thầm bảo lòng “xạo quá chú ơi”. Nàng cũng chả hiểu vì sao lại buột miệng xưng tên, có lẽ nào… người ta đã tạo được niềm tin nhanh đến thế sao?

- Xin giới thiệu anh tên Huấn. Được nghỉ phép về thăm quê ngoại.

Trên đoạn đường ngắn trò chuyện ngượng ngùng, xa lạ…từ từ nhường chỗ cho thân quen và gần gũi. Anh bắt đầu kể về đời sống nhà trường, quân trường, chiến trường, những ước vọng cho quê hương, tương lai trong cuộc đời chiến binh bình dị.

Nàng cũng huyên thuyên kể chuyện học đường, chuyện thường tình của con gái sáng nắng chiều mưa, không biết lúc nào cả hai đã trao đổi những mẩu chuyện ngộ nghĩnh, nhịp nhàng mang đến niềm vui.

Xe đổ bến Vĩnh Long, nàng nghe tiếng anh thở dài, một chút luyến tiếc, nàng ái ngại nhìn, lần đầu bất chợt rùng mình vì ánh mắt chạm nhau, và cũng run run nhip tim… man mác buồn vui lẫn lộn. Nàng không dám hỏi anh về đâu, nhà Ngoại anh ở chổ nào nhưng lòng rất muốn. Nàng ngại ngần vì là… con gái. Con gái thì sao nhỉ? Anh mang hành lý hộ nàng, vẫy gọi cho chiếc xe lôi để về nhà.

- Uyên muốn xe về đâu?

- Về Kho Dầu Cũ.

Bác phu xe hỏi:

- Kho Dầu Cũ mà khúc nào cô?

- Dạ, ngang nhà xe Vĩnh An đó bác.

Chào tạm biệt, xe đi rồi nàng nuối tiếc ngẫn ngơ, vì cái điểm kỳ lạ của con gái... Giả vờ, vô tình hay mắc cở? Còn cơ hội gặp lại anh chăng? Nghiêng người nhìn lại anh đứng tiễn nàng, ánh mắt dịu dàng, nụ cười hiền hậu, bất chợt nàng cảm nhận hình như có điều gì thay đổi trong tâm tư, cái thơ ngây, vô tư hình như đã nhuộm màu…lưu luyến.

Đêm nay ánh trăng treo trong vắt, tự nhiên cái êm ái, ngọt ngào… nàng tự hỏi lòng “Con thuyền về đâu? Ô hay, vì sao tim em rụng xuống cầu có phải chăng!?"





Đêm qua, cuộc hội ngộ đầu tiên như đã thôi miên, nàng ngủ no say… Sáng nay mắt nhắm mắt mở nàng tưởng vẫn còn mơ, trong phòng khách kế bên, nghe tiếng má nàng trò chuyện, vui vẻ, cởi mở, rồi tiếng nói quen thuộc làm nàng vừa lo sợ vừa reo vui. “Chú ấy”.

Lắng nghe những mẩu đối thoại của má và người ta. Nàng bỗng bật cười, thầm nói “đáng đời hôm qua làm bảnh tra hỏi người ta, hôm nay bị má thẩm vấn cho biết”.

Nàng sửa soạn tỏ ra nhàn nhã, nhưng cũng không kém phần vội vã gặp anh và cố tình gây tiếng động.

- Chắc nó thức rồi, cháu ngồi chơi.

Tiếng chân má bước gần đến gỏ cửa phòng.

- Uyên ơi, con có bạn đến tìm.

Nàng mở cửa phòng, giọng nói vờ như ngáy ngủ.

- Dạ, bạn con đến lúc nào, sao má không đánh thức con?

- Bạn con muốn để con ngủ, má trò chuyện cho biết gia đình cậu ấy.

Đấy là chiến thuật của má, mỗi khi nàng có bạn trai đến nhà, má là người đầu tiên tiếp đón, má rất tôn trọng con cái, là tuýp người xưa nhưng tâm hồn rất trẻ trung, hoà nhã với tất cả bạn bè của con. Sau mỗi lần điều tra khéo léo, nếu ai yếu bóng vía thì chạy mất. Má nàng không bao giờ ngăn cấm con quen biết bạn trai nhưng phải mời về nhà trò chuyện đàng hoàng, để má dể kiểm soát đấy mà, sau khi má tiếp xúc thì thể nào cũng có đôi điều ý kiến về phong cách của bạn con, rồi tùy con quyết định. Nhưng kết quả thì muôn lần ý kiến má vẫn thu phục được con.

Nàng ra tiếp chuyện, tủm tỉm cười:

- Anh khác hôm qua nhiều quá.

- Khác gì cơ?

- Hết là chú rồi.

Anh cười:

- Cảm ơn Uyên.

- Sao anh biết nhà Uyên?

- Uyên cho ông chạy xe lôi địa chỉ tối qua mà.

- Anh...quá quắt!

- Lính mà em!

- Lính thì sao?

- Anh ranh mãnh “lính tính liền” không mất thời gian.

- Nàng nũng nịu “anh chế nhạo người ta!”

- Anh mặc màu áo học sinh, trông anh ai bảo là chiếc sĩ lặn lội với gió sương.

- Anh sợ em gọi anh là “chú ” nên giả dạng thường dân đấy.

Thế là ngày nào anh cũng ghé thăm nàng, vì thời gian về phép không nhiều với hai tâm hồn cùng một hướng đi. Má nàng rất quý anh, vì anh dễ thương hay vì anh là lính chiến trường? Vâng cả hai đều đúng!

Anh xin phép đưa nàng về thăm Ngoại ở Cổ Chiên, vườn cây xanh ngát, không khí trong lành. Đêm nóng nhưng gió mát từ sông thổi lên làm tan dịu đi cái oi bức, ngồi tựa vai nhau nhìn ra dòng nước, trăng đang soi mình trên con nước, lóng lánh chập chờn, anh nhịp nhàng đánh đàn, cất tiếng hát. Chất giọng ấm nồng, nàng lạc vào một vùng trời thanh bình, lòng lâng lâng, hạnh phúc chan hoà.

...Hỡi bao con đò!
Đêm nay trăng soi trên sông lờ đờ
Mang theo bóng cờ
Ngày về chiến thắng ánh trăng làm thơ
Hỡi! Trăng mơ màng
Sao trăng êm soi trên con thuyền chàng?
Trăng rơi đầu làng.
Đợi thuyền chiến thắng sóng tách đôi hàng
Hò khoang! Hò huê!

Ước mơ ấy có phải là ước mơ của bao người lính chiến, cùng là mơ ước của những người yêu của lính? Tiếng đàn vừa ngưng thì cái tĩnh lặng bao trùm lên hai tâm hồn, nàng biết mình sắp làm người chờ đợi bước chân anh. Còn anh trên vai mang nặng tình quê hương, chiếc ba lô chứa thêm một khối tình và một kỷ niệm nhớ đời trên chuyến phà. Chuyến phà ân tình phải không anh!?. Xa xa dòng nước yên ả trôi... nhưng đôi lòng dường như dậy sóng.





Sau những ngày hạnh phúc quen nhau, yêu nhau, anh khăn gói lên đường, làm tròn bổn phận người con của Tổ Quốc. Một chuyến đi xa …xa biệt, những cánh thư từ chiến trường về là động lực giúp nàng miệt mài với bài vở, những đêm khuya chiếc radio với chương trình Dạ Lan, nàng âm thầm rơi nước mắt…nhớ anh nhớ quá đi thôi. Rồi lo sợ...rất sợ khi nghe “Ngày mai đi nhận xác chồng/ Say đi để thấy mình không là mình…” (Lê Thị Ý). Sau mỗi đêm học xong, nàng không quên viết cho anh một lá thư dày, nén nỗi buồn để kể chuyện vui, cho anh quên đi ngày tháng xa nhau, xoa bớt những âu lo cho vận mệnh nước nhà.

Thư từ chiến trường càng ngày thưa…thưa dần …khi chiến cuộc ngày càng leo thang. Ruột gan nàng nôn nao, cồn cào…lo lắng. Đêm thâu ngồi học bài, bất chợt nàng lo nghĩ xa xôi… nhưng cố tìm một chút gì gần gũi bên anh qua ánh sáng của hỏa châu. Nhưng tư tưởng lại nhanh chóng tan nhanh như ánh sáng ấy... từ từ rơi và tắt lịm trong màn đêm.

Rồi cái ngày nàng thấp thởm lo âu cũng đến, khi hay tin những địa danh Miền Trung từ từ bị mất, nàng như kẻ vô hồn, tình hình diễn tiến càng lúc như trời long đất lỡ.

Tháng Tư 1975 thật sự đã bặt tin anh… Những chuyến tàu từ xa xôi đổ về trên bến Bạch Đằng ở Sài Gòn đều có mặt nàng. Nhưng hỡi ơi! Nàng luôn là người cuối cùng rời bến trong thổn thức xót xa. Khốn cùng nàng hy vọng một điều dại dột, thôi thì anh trở về dù “trên đôi nạn gỗ” hay là… ít ra cũng còn thấy anh lần cuối…dù là “cỗ áo quan”…Còn đau xót nào hơn nữa không anh!

Một năm trôi qua, nàng nuốt lệ, tự oán trách mình sao chưa lần nào được đến nơi đóng quân của anh…để chia sẻ, để hưởng những mặn nồng gian khổ có nhau.

Làm sao được, vì nàng chỉ là cô học trò nhỏ, một người yêu bé bỏng, yêu anh, nàng chấp nhận đợi chờ, chờ đợi một lời hẹn ngày anh trở về trong chiến thắng để được trọn một đêm trăng vui. Chiến thắng chẳng đến và người cũng bặt mù khơi. Có phải vì lời thề chiến thắng mà anh đã phải trốn nàng, đã không chấp nhận được cái thất hứa hôm nào? Giờ này anh ở đâu? Anh có còn đủ thời gian, nghị lực và chút riêng tư để nghĩ đến người con gái này hay không? Hay là anh đã mãi mãi ôm ý nghĩ về nàng đi qua cõi bên kia? Những câu hỏi cứ chất chồng, dày đặc mà Uyên không bao giờ tìm được câu trả lời.

Đêm vẫn đi qua trong cuộc đời lam lũ của người dân xứ bại chiến. Những lo âu của một ngày mới sẽ lại đè nặng lên đôi mắt mọi người. Uyên vẫn thừ người nhìn dòng đêm dần cạn. Nàng tự nhắn nhủ. “Anh ơi! Trăng không vui nên trăng rụng mất rồi. Thế là anh ra đi biền biệt. Anh ở đâu, em phải làm sao? Đã thật sự mất anh? Rồi mai đây đường đời em biết làm sao khi một mình lặng lẽ bước đi?”

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một và không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia (Nguyễn Trung Kiên)

Uyên thầm lặng bước ra đi, bỏ lại những tang tóc muộn phiền, bỏ lại những dấu chân kỷ niệm. Nàng đành ra đi với mảnh đời đơn độc. Rồi lặng lẽ một chiều trở lại lối xưa. Ba mươi năm trước cũng dòng sông này, con nước kia nhưng người xưa không còn, chiếc phà Mỹ Thuận cũng đã theo anh trôi đi biền biệt. Bỏ lại đây, thay vào chiếc cầu tân kỳ, tiện lợi, rút ngắn thời gian, thay đổi cả không gian. Cầu bắt nhịp đôi bờ cho người từ phương xa về, nhưng sao không xoay lại được thời gian, không bắt nổi một nhịp tình trên bến xưa?

Nàng trở lại Cổ Chiên, thăm ngoại nhưng ngoại anh đã vĩnh viễn ra đi, trong xóm không ai biết gì về anh cả, mưa sụt sùi, như hờn tủi cùng nàng. Lê bước đi lòng nặng chịt, lên chuyến phà Đình Khao để tìm lại chút dư hương. Người ướt như chuột lột, mưa đầy mặt hay là nước mắt nàng tuôn!

Dòng sông cũng nặng nề chầm chậm trôi, hạt mưa rơi tạo thành những cánh chuồn chuồn trắng xoá dòng sông. Nàng bỗng thấy bóng anh lờ mờ ẩn hiện từ những bọt vỡ toang hoang, cũng từ tiếng bọt vỡ như là tiếng đệm đàn lướt theo giọng hát của anh. Dòng sông trôi đi và anh cũng trôi theo từ bọt sóng vỡ.

Đêm nay là đêm cuối cùng ở Sài Gòn, nàng rời Việt Nam trở về nơi xa xôi bên kia đại dương, tiếp tục thui thủi sống thêm những ngày tháng thầm lặng...mà những đêm chợt thức giấc nàng như bị chôn vùi vào bốn bức tường lạnh ngắt. Xua đuổi đi bi lụy nàng tìm đến tụ điểm nghe nhạc, yêu cầu bài hát Trăng Rụng Xuống Cầu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ để tìm một niềm nhớ, lấy một nỗi buồn hòa với gương mặt hiền từ, ánh mắt thiết tha trong di ảnh của anh.

Một người nghệ sĩ với ngón đàn ngọt ngào, giọng hát lúc bổng lúc trầm, nàng chừng tỉnh táo. Có phải là anh? Chợt bàng hoàng, hình dáng người chiến sĩ ngày nào làm sao xóa được trong tim, anh hiên ngang, lịch lãm. Hôm nay hình dáng của người nghệ sĩ vóc dáng hao gầy, nhưng nét kiên cường vẫn không mất nơi anh.

“Huấn ơi! “Anh đã về từ ngục tối hay mộ sâu…” thật sự em vẫn còn anh sao?”

Nàng lảo đảo...len lõi qua những bàn vào bên trong, hỏi xem có đích thực là anh. Đúng là anh rồi! Tim nàng đau thắt, lòng rối như tơ vò. Đầu óc hỗn loạn. Phải làm sao, hoàn cảnh anh như thế nào, cuộc sống ra sao? Bao nhiêu câu hỏi không tài nào tháo gỡ được.

Tiếng vỗ tay vang vội thức tỉnh nàng. Anh bước vào, nàng đứng bật dậy nhìn anh trân trối. Người chủ bảo:

- Anh Huấn có người quen tìm.

- Ai thế anh?

Anh, vẫn nụ cười đôn hậu, cũng giọng nói ấm nồng, nhưng ánh mắt thiết tha, linh động đã tắt, anh không còn nhận diện ra nàng. Nàng cũng không nhìn được anh vì nhoà nước mắt. Nàng không thốt nên lời, muốn ôm chầm lấy anh, nhưng hoàn cảnh anh có cho phép nàng làm điều đó hay không?

Dường như anh cũng linh cảm và trong tư thế không thăng bằng, chao đảo. Nàng vội đưa đôi tay mình làm điểm tựa cho anh. Anh lạc giọng hỏi nhỏ:

- Uyên?

Trong không gian này, với tiếng nhạc xập xình cũng không lấn át được tiếng đập của đôi tim. Im lặng kéo dài, cố ngăn tiếng nấc, nàng run rẩy trong tay anh.

Anh im lặng, hơi thở dồn dập, môi mím chặc hằn trên trán những đường gân nổi cộm nhưng anh lại cố kềm giọng nghẹn ngào, tay anh vỗ nhẹ tay nàng, lời tha thiết dỗ dành.

- Uyên phải không?... Có phải là Uyên ở Vĩnh Long?

- Dạ!...Chính em.

Sắc mặt anh biến đổi như tươi hẳn, như âu lo. Rồi như thuở nào, anh vẫn với giọng chăm sóc êm đềm vì cảm thấy sự xúc động của Uyên trong bàn tay mình, anh nhẹ giọng.

- Bình tỉnh đi em.

Anh khuyên nàng nhưng anh có bình tỉnh không? Vì đôi tay anh run run xúc động như đang gãy những nốt nhạc vồ dập, và lạnh toát trong tay nàng.

Nàng không còn kềm chế, oà trong nức nở. Lòng rên rỉ, dòng máu trong người nàng cũng chợt đóng băng. Nỗi nhớ nhung, chờ đợi bao năm, bây giờ bị nỗi vui mừng và xúc động ôm quàng chặc lấy và không còn cục cựa. Để chỉ còn là tiếng thổn thức và nước mắt chảy tràn đi niềm tâm sự. Cả hai lặng đi, không biết bao lâu rồi anh lên tiếng mời Uyên về nhà.

Theo anh về nhà, căn nhà nhỏ đơn sơ, nhưng ngăn nắp, anh sống với hai người bạn cùng là thương phế binh, đây là căn nhà của một người bạn được đi theo diện HO, thân nhân họ đã cho các anh trú ngụ. Cả đời người không dài bằng mười năm trong lao khổ, đã tàn phá một đời anh, cướp đi đôi mắt của anh. Những dấu tích của kẻ chiến bại đã thành vết sẹo triền miên trên trên đôi mắt thâm sâu một ngày nào. Uyên càng nhìn anh càng nghe lòng tan nát. Nàng hỏi:

- Sao anh trở thành nghệ sĩ?

- Anh trở về, thì mất tin tức của em, ngoại cũng không còn, một thời gian ngắn đôi mắt anh mờ dần không chửa trị được, may anh có ngón đàn và giọng hát, những bạn bè giúp đở cho anh có một công việc làm để sinh nhai. Nhưng em đừng quá bận tâm. Tuy mắt anh không thấy nhưng lòng anh vẫn sáng ngời như ngày nào.Vẫn thấy được những gì mà anh đã từng quí trọng cũng theo ánh sáng mà ra đi. Người trai năm nào cũng vẫn nằm trong anh, nên anh vẫn ngưởng mặt nhìn đời.

Càng nói gương mặt anh càng cau sắc lại như dáng dấp của chàng trai kiêu hùng thuở nào. một người bất khuất năm xưa.

Uyên cho anh biết là từ khi không tìm được anh và tình cảnh nhà tan cửa nát nên nàng phải ra đi. Giờ gặp nhau đây nhưng nàng phải trở về vùng đất mới, nơi mà nàng tìm được những tự do an nhiên dù phải nói bằng tiếng người. Nhớ đến mai phải trở về, Uyên nghẹn ngào:

- Mai em đi rồi anh. Em sẽ phải làm sao?

- Em bình tỉnh và yên tâm, hãy làm như em đã làm, em đi và em sẽ về mà. Anh luôn là người chờ đợi bước chân em.

- Đấy là điều em nói trước đây.

- Đúng thế, nay chỉ thay đổi vị trí em và anh thôi mà, phải không em!?

- Nhưng…

- Không nhưng gì cả, hạnh phúc là những giây phút còn lại này, chúng ta hãy trân quý đi em. Em đừng bận tâm.Tuy khả năng anh kém hơn xưa, nhưng bản năng anh không mất. Anh luôn cố gắng tự tạo một niềm vui để sống.

Đúng là anh! Can đảm và hiên ngang, kiên cường trong mọi hoàn cảnh sống, sự lanh lẹ, cái tinh tế càng đậm nét trong anh.

- Uyên à, anh không ngại bất cứ chướng vật nào vì anh đã tìm lại đôi mắt mình trong trái tim em.

Nàng yêu anh như chưa bao giờ được yêu vì nàng cũng tìm được chính mình trong trái tim anh. Ngày nay anh đem tiếng hát mình làm vui cho cuộc đời trong bóng đen tăm tối. Chung quanh tụ điểm này cũng có biết bao trái tim yêu đang thổn thức lắng nghe anh hát. Có khác gì hai người họ cũng đã sống và yêu qua tiếng hát của bà cụ mù lòa trên chuyến phà xưa. Miên man suy nghĩ, nàng chợt giật mình vì tiếng tằng hắng của anh.

- Anh bây giờ già dặn nhiều.

- Thế là từ nay em gọi bằng “chú anh” phải không?

Hai đứa òa cười, tuổi đời chồng chất, trang sách ký ức cũng khá dày, cùng đọc cho nhau nghe cũng hồi hộp, xúc động lẫn bâng khuâng.





Ba mươi năm sống trên đất tạm dung, thời gian lạnh lùng trôi. Nàng thường thở than “sao mà thời gian dài quá!”. Nhưng đêm nay nàng lại sợ thời gian ngắn ngủi. Ngồi tựa bên anh dường như cả hai không dám thở vì sợ trời sẽ xé tan màn đêm để thắp ánh mặt trời.

- Đêm nay là Rằm phải không em?

Uyên không trả lời mà ôm chầm anh nức nở. Đôi tay rắn chắc của anh lại xoa dịu nỗi đau, vỗ về...cả hai không nói nên lời, có lẽ sự yên lặng là hạnh phúc và cần thiết trong lúc này.

Bên anh, nàng cảm nhận lòng thanh thản và bình an, phong cách của anh vẫn như hôm nào tiễn nàng nơi bến xe Vĩnh Long, nụ cười đầm ấm, thiết tha, nụ cười anh thay cho bao lời muốn nói, anh truyền cho nàng một sức lực phi thường…để mạnh mẽ bước đi.

Trăng đêm nay treo trong vắt nhưng không như trăng của Lý Bạch hay trăng Hàn Mạc Tử. Mà sẽ là trăng của bến nước Cổ Chiên năm nào, soi sáng một dòng sông, xuyên suốt hai tâm hồn cho thuyền tình ghé lại bến mơ.


Kim Oanh, Melbourne



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Aug/2020 lúc 10:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Aug/2020 lúc 9:38am

Nợ "Ấm Ớ" 


Xin thưa ngay với bạn đọc là chữ “NỢ ẤM Ớ” tôi viết ở đây hoàn toàn đứng đắn, hoàn toàn không có dụng ý giễu cợt, chỉ vì không biết dùng chữ nào khác để diễn tả câu chuyện dưới đây:
“Tôi không hề nợ ông bạn này một thứ gì, tiền cũng không mà “ân tình” lại càng không! Thế mà tôi đã phải xuống nước năn nỉ ông ta, nhận là mình nợ, và cũng đã…trả cho ông ta gấp cả chục lần cái mà mình không hề NỢ!”
Câu chuyện tuy hơi dài dòng, nhưng đối với những ai đã đi tù ‘cải tạo’, có lẽ dễ thông cảm hơn.

Ngày 22 tháng 5 năm 1980, sau gần 4 năm tù và nhiều lần chuyển trại, tới Hóc Môn thì tôi nhận được “Lệnh Tha” và được phóng thích 2 ngày sau đó, tình cờ lại trùng vào đúng ngày sinh nhật của tôi.
Sở dĩ tôi nằm tù 4 năm, lâu hơn các chuyên viên khác một năm vì từng bị kỷ luật.
Cuộc đời tù ở Hóc Môn tương đối nhàn hạ và nhờ dư đất canh tác, nên một số “cải tạo viên” giỏi về mưu sinh, đã trồng rau, bầu, bí, mướp… v…v hoặc nuôi gà, vịt, để ‘cải thiện’.

Nhân vật ‘chủ nợ’ cuả tôi trong câu chuyện, là một ông Thiếu úy già, gốc Hạ sĩ quan, đi lính từ thời Tây, hơn tôi khá nhiều tuổi, dân Nghệ An, có cái tên rất lạ và dễ nhớ là “Nguyễn Văn RA”.
Ban đầu ông Ra có biệt danh là ‘Ra-ăng-ten’, sau được gán thêm một biệt danh nữa là “Ra Vịt”, cả hai đều không phải tên Tây, mà chỉ vì ông có nuôi một đàn vịt 7, 8 con. (đây là một ‘đặc ân’ cuả tên trưởng trại giam dành cho “Ra Vịt”, nhờ công tác chính cuả ông là làm ‘ăng-ten’, chuyên báo cáo ‘tư tưởng’ và ‘hành động’ cuả các trại viên cho bọn cán bộ).
Đời sống thiếu thốn trong tù và gốc gác “chó ăn đá gà ăn muối”, cùng quê hương với ************, nên ông Ra xem đàn vịt là một gia tài cực lớn, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình để bảo vệ … mấy con vịt!

Thú thật cho tới ngày hôm nay, tôi cũng chưa từng gập người đàn ông nào ‘đẹp người, đẹp nết’ hơn ông ‘Ra Vịt’. Nhan sắc của ông thuộc loại tổng hợp của ‘hồn thiêng sông núi’ !
Và ông rất hãnh diện về nhan sắc trời cho này, mà một anh bạn đã mô tả rất chính xác:
-Cứ đem đôi mắt ti hí và đôi môi trông như cái ‘L … trâu đến tháng đẻ’ của thủ tướng Phạm văn Đồng, gắn vào khuôn mặt dài như mặt ngựa cuả Tổng Bí Thư Lê Duẩn là thành một bức chân dung hoàn chỉnh của đồng chí Nguyễn Văn Ra (!).
Thế nhưng ông Ra vẫn lấy làm tiếc vì bộ răng vẩu đã làm cho giọng nói của ông thiếu đi…’cái uy’ của đồng chí tổng bí thư!
Điều không may cho tôi là ông ‘Ra ăng-ten’ lại làm “tổ trưởng” và chỗ nằm ngay cạnh tôi.
Sống cạnh ông này thật đến khổ, vì ban đêm ông đem nhốt mấy con vịt cho ngủ chung trong mùng, do sợ bày vịt đi lạc hoặc bị đánh cắp.
Tôi mất ngủ vì mùi vịt hôi, ám khắp người mà trong trại giam lại thiếu nước tắm ! Mùi vịt thì lâu rồi cũng quen, nhưng lũ vịt cứ lục đục và cạp cạp cả đêm thì chịu, không tài nào quen được.

Đó là chưa kể ban đêm tôi ngủ mà cứ phải đưa tay bịt chặt phía bên dưới, do những cơn ác mộng xảy đến thường xuyên: giữa đêm lũ vịt đói với những cặp mỏ dài và cứng như thép, tốc mùng xông vào, bạ gì mổ đấy, thì có khi mình lại mất khả năng có người ‘nối dõi tông đường’, trong lúc vẫn còn độc thân, chưa vợ con gì cả!
Thêm nữa ở cạnh ông này, tôi bỗng dưng phải … tu ‘tịnh khẩu’ vì lý do tự vệ!

Nói cho ngay, ban đầu ‘Ra Vịt’ đối với tôi cũng khá dễ chịu, do ông ta bị ‘cô lập’, vì chẳng ai dại gì mà ‘dây với hủi’, nên chỉ còn mình tôi phải ngồi chịu đựng để nghe ông ta độc thoại.
Câu chuyện đắc ý nhất ông ta kể cho tôi nghe cả trăm lần:
“… Sở dĩ tui có tên RA là vì ở ‘quê Bác’, chẳng hiểu sao đàn bà đều … đẻ khó ?! nên khi mạ tui chuyển bụng sanh tui, ba tui cứ đứng cạnh vưà dậm chân vừa hét … ‘mạ mi, RA mau đi !’, Thế là tui … phọt Ra”

Nuôi vịt trong tù là một công việc cực kỳ vất vả, do đất Hóc Môn khô cằn, rất khó kiếm đồ ăn cho vịt, nên mỗi ngày ông Ra lại phải chầu chực xin chút cơm thừa cuả bọn cán bộ. Tuy nhiên coi bộ cũng rất khó khăn, vì bọn việt cộng có thói quen thường liếm đến hạt cơm cuối cùng để khỏi phải rửa bát ! Những ngày thiếu cơm, vì lo vịt đói, ông Ra phải chầu chưc ở cầu tiêu của trại, dùng chiếc vợt múc giòi bưng lên cho bầy vịt cuả ông … sơi.

Chắc nhiều người chưa từng được chứng kiến cảnh mỗi khi ông khệ nệ đặt đĩa giòi xuống, đàn vịt cũng phải rùng mình … bỏ chạy.
Ngoài công việc nuôi vịt, ‘Ra ăng-ten’ còn một thú vui khác là mỗi đêm trước khi ngủ, ông móc trong ba-lô ra tấm hình cô con gái cưng, ngắm nghía say sưa rồi chìa cho tôi xem, xuýt xoa khen ngợi vẻ đẹp của con gái vì trông cô ta… giống y như bố !!!

Dù xấu tính nhưng kể ra ‘Ra Vịt’ cũng có tầm nhìn xa không thua gì… bác Hồ: chỉ những sĩ quan còn trẻ và độc thân – trong đó có tôi – mới được ông mang hình con gái ra khoe và đối xử ‘nương tay’ đôi chút, dành cho những công việc ít nặng nhọc và không báo cáo những ‘phát ngôn linh tinh’. Xem như một cách … đầu tư để kén rể !

Tôi đang sống yên lành nhờ cái mác độc thân, bỗng một hôm ‘Ra Vịt’ chuyển sang xem tôi là kẻ thù ‘không đội trời chung’! Chỉ vì một buổi sáng, chẳng hiểu sao khuôn mặt luôn khó đăm đăm của ông ta tự nhiên nhẹ nhõm hơn, và ông ‘ban ơn’ cho toàn đội được nghỉ lao động một ngày.

Thái độ xoay chiều 180 độ này được một anh bạn trẻ vui tính giải thích:
-Đêm qua nghe tiếng vịt kêu, thức dậy đi đái, qua chỗ ông Ra nằm, nhìn vào mùng thì thấy ông ta đang …”ấy” vịt ! nên sáng ra mặt mũi mới … tươi tỉnh đến thế !
Nhiều anh có thể vì tò mò hoặc muốn trêu chọc, còn vạch đít lũ vịt ra xem có con nào bị … bệnh trĩ , giống ông Ra, chủ của nó không?!

Cũng chẳng biết lời đồn bắt đầu từ ai, nhưng ông Ra cứ cả quyết tôi là tác giả, vì chỗ nằm ngay kế bên.
Đó là chưa kể, tôi may mắn hơn, thời gian đó được các anh, em ở bên Mỹ gửi tiền về ‘thăm nuôi’ đều đặn, nhưng tôi lại lờ ông ta đi, không ‘biết điều’ chút nào.

Cũng từ đó ông ta thù tôi ra mặt. Tất cả những công việc nặng nhọc nhất đều trút lên đầu tôi, kèm theo là những báo cáo tôi thuộc thành phần ‘tư sản, ngoan cố, học tập không tiến bộ…’
Kể ra đối với những người đói khổ kinh niên, nếu có bần tiện hoặc xấu tính một chút cũng là điều có thể hiểu được. Nhưng tôi nhất định không cho ông ta một chút gì chỉ vì khinh ghét loại người sẵn sàng chà đạp lên mạng sống của người khác, miễn dành được chút quyền lợi về phần mình.

Trở lại câu chuyện “NỢ”
Ngày tôi nhận được ‘Lệnh Tha’, cùng với vài chục anh em khác, theo thông lệ những người may mắn được về trước sẽ gom góp địa chỉ những anh em còn ở lại, giúp liên lạc và nhắn tin tới gia đình họ và để lại tất cả vật dụng và tiền bạc cho các bạn thân.
Thường cũng có một buổi ‘Liên Hoan’ nhỏ được âm thầm tổ chức mừng bạn mình được tha sớm.

“Giặc lái” Mai Văn Kỳ, biệt danh “Kỳ rỗ”, người bạn tù thân nhất của tôi tình nguyện công tác này. Kỳ Rỗ, lái máy bay C 130, là một ‘tay chơi’, vô cùng liều lĩnh nhưng hiểu đời và rất tốt bụng. Anh ta liên lạc với một thằng bộ đội nhóc con, (đã bắt đầu biết lợi dụng thời cơ và ăn hối lộ) nhờ mua một bi-đông rượu đế và một con vịt để trổ tài đánh tiết-canh ‘đãi’ tiệc chia tay.

Dĩ nhiên giá con vịt và bi-đông rượu này ít nhất phải gấp 3 lần giá trị thực. Nhưng trong tù, miếng ăn giá trị hơn tiền nhiều. Việc mua bán, trao đổi được thực hiện ở hai bên hàng rào kẽm gai của trại giam và một lời hứa miệng với thằng bộ đội nhận tiền mua giúp:
-Nếu lỡ các anh bị bắt thì chớ khai em ra! Các anh sẽ bị nguy hiểm hơn em nhiều.

Tôi không hề biết chuyện mua bán đãi đằng này. Nếu biết tôi đã cản ‘Kỳ Rỗ’, vì hàng ngày chứng kiến cảnh đàn vịt cuả ‘Ra ăng-ten’ ăn giòi, thấy … ớn quá.
Hệ Lụy là ở chỗ đúng hôm đó, đàn vịt cuả ‘Ra Vịt’ bị mất 2 con và lúc chúng tôi bắt đầu vào tiệc thì bị ‘Ra ăng-ten’ bắt gập.
Tình ngay lý gian: cả đám chúng tôi chẳng có ai nuôi vịt! Nhưng lại không thể khai ra lý do tại sao có vịt mà ăn!?

‘Ra ăng-ten’ nổi cơn lôi đình. Chưa bao giờ tôi thấy cảnh một người đàn ông ‘Khóc cho con vịt vừa … nằm xuống chiều qua’ thật tình, và hung dữ đến thế!
‘Ra Vịt’ nhào đến như muốn xé xác tôi kèm theo những lời chửi thề cực kỳ tục tĩu:
-Đụ mạ ! Bọn trí thức ‘ngụy quân’ chúng mày toàn là một lũ … ăn cắp.
–Tao sẽ báo cáo cán bộ cho chúng mày bị nhốt rục xương… v…v
‘Kỳ rỗ’ nổi điên vác ngay con dao vừa cắt cổ vịt, định … cắt cổ “Ra Vịt”. Cũng may chúng tôi kịp can lại.

Tình thế thật khó cho tôi vì nếu tên ăng-ten này báo cáo cho tụi cán bộ việt cộng thì chắc tôi cũng không có ngày về. Nhất nhật tại tù…
Sau cùng, một vị Tu Sĩ Tuyên Úy Phật Giáo, suốt đời ăn chay, đã bình tĩnh đứng ra…’nhận tội’ trộm vịt do quá … thèm tiết canh!
Chúng tôi gom góp tất cả tiền có được, đưa cho ‘Ra…Vịt’ để đền và ‘dâng’ luôn đĩa tiết canh với con vịt luộc cho ông ta vì cũng chẳng còn hứng thú gì.

Trông thấy cảnh ‘Ra Vịt’ vừa khóc vừa ngồm ngoàm nhai như một người sắp chết đói, tôi bỗng thấy buồn nên an ủi anh ta:
-Anh Ra ạ, gia đình tôi bên ngoài dư ăn. Khi nào anh được thả, cứ ghé nhà tôi, tôi sẽ cho anh đủ tiền để ăn thịt vịt một tháng.
Điều kỳ lạ là anh ta không tin lời tôi hứa, bắt tôi viết lời ‘cam kết’ này lên giấy là tôi đã … NỢ anh ta một tháng thịt vịt !!!
Khoảng 2 năm sau, một hôm ‘Ra…Vịt’ đạp xích lô (nghề mới của anh ta) đến nhà tôi đòi tôi ‘thưc hiện’ lời cam kết trong ‘giấy nợ’.
“Đã hứa là phải giữ lời !” nên suốt một tháng trời, mỗi buổi chiều, tôi và ‘Kỳ Rỗ’ chễm chệ ngồi trên xích lô do ‘Ra Vịt’ đạp ra nhà lòng chợ, ngồi nhậu rượu đế với thịt vịt.

Tôi rất hài lòng về việc làm này, nhờ đọc ở đâu đó lời khuyên:
“Nợ là phải trả, nếu kiếp này không trả thì kiếp sau cũng sẽ phải trả”
Trong câu chuyện này tôi không hề nợ “Ra Vịt” một thứ gì hết: Tiền cũng không mà “ân tình” lại càng KHÔNG.
Nhưng tôi vẫn cứ … ‘tạm ứng’ ra mà trả cho anh ta món “NỢ ẤM Ớ” này, vì ‘duyên khởi trùng trùng’.
Nếu kiếp sau mà tôi có gập lại anh ta thì cũng chả sao ! Cùng lắm thì vẫn có thể lại khoác tay nhau ra ngoài quán nhậu rượu đế với thịt vịt, chẳng hận thù gì.
Nhưng LỠ chẳng may mà gập phải con gái của anh ta thì … BỎ MẸ. !

NHH
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22097
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Aug/2020 lúc 10:04am

Dành Gửi Cho Ai Một Nụ Cười 

Hình minh họa

1.
Đô thành Saigon là nơi tôi lớn lên, ký ức về Saigon của tôi chứa đầy kỷ niệm tuổi thơ. Saigon có những buổi chiều gió mưa, đạp xe đi học về, người ướt đẫm. Saigon có nhiều bạn bè, trong những ngày vui liên hoan cuối năm học. Saigon có một người con gái tóc dài, tôi từng mến yêu trong lứa tuổi học trò.
Năm đó là năm 1966, tôi mới 17 tuổi, đang học lớp Đệ Tam trường Pétrus Ký, thứ hạng trong lớp không tệ, nhưng tôi đã chập chửng vào đời bằng những bước chân rất rụt rè. Vì là con nhà nghèo, tôi không dám có nhiều hoài bão tuổi trẻ như bao nhiêu bạn bè khác. Chúng nó, đứa muốn làm bác sĩ, đứa muốn làm kiến trúc sư, trong khi đất nước còn chiến tranh loạn lạc. Nếu trong lúc đó có ai hỏi tôi ước mơ gì không, tôi sẽ không trả lời được.

Dù còn là học sinh, dù cuộc sống rất khó khăn, nhưng tôi vẫn là đứa con trai đang lớn, đã bắt đầu biết mộng, biết mơ, biết nhớ một ánh mắt, biết mong một nụ cười.
Ánh mắt nụ cười ấy từ một người con gái có cái tên thật đẹp và giản dị: Hà
Hà bằng tuổi tôi, rất xinh xắn, ngây thơ. Cô đang bán bánh mì ở khu xóm lao động sâu trong hẻm đường Trần quang Khải mà gia đình tôi đang cư ngụ. Hà cùng với Mỹ ( là em gái của Hà) đều là học sinh trường trung học Văn Hiến nổi tiếng trong khu vực. Ngoài giờ học, Hà bán bánh mì, chắc là phương tiện sinh sống duy nhất của gia đình.

Tôi bị Hà thu hút bằng tấm lòng hiếu thảo và ý chí vươn lên của một cô gái nhà nghèo, nghèo cũng giống như tôi. Đi học về, xe đạp của tôi thường dừng lại ở xe bánh mì. Tôi lấy cớ mua bánh mì để nhìn ngắm mái tóc óng mượt, đen nhánh, xoả dài qua vai, mái tóc tôi cho là đẹp nhất trên thế gian.

Tôi với Hà ban đầu là quen biết, sau là bè bạn. Em gái của Hà thường nhờ tôi hướng dẫn bài vở, nên sự lui tới của tôi, người lớn không ngăn cấm. Thỉnh thoảng tôi có ghé nhà thăm viếng khi mẹ Hà bị bệnh, hoặc đến chúc mừng gia đình những dịp lễ tết. Rồi thì, tôi đã yêu thích Hà lúc nào tôi cũng không hay.

Tôi nhớ tôi đã cùng một số bạn thành lập một nhóm văn, và tôi tập tành viết truyện làm thơ. Bài viết nào của tôi cũng đề “tặng Hà” như là không để người khác dành phần. Tôi viết nhiều bài về Hà như là để trút nỗi niềm yêu.

Và tôi đã thật hạnh phúc với những bánh mì không tốn tiền khi nghe Hà nói: “Tôi mới vừa đọc một bài của anh nhắc đến tôi, hôm nay tôi không lấy tiền, đừng nói ai nghe nha, bà già đánh tôi chết”.

Sau hơn một năm quen biết, tình yêu của tôi đối với Hà càng lúc càng sâu đậm. Ngày nào không gặp Hà, tôi đứng ngồi không yên. Tôi hay canh đón Hà tại nơi nhận bánh, để trao Hà những phong thư, trong thư tôi gửi những lời nhớ nhung và những mơ ước về tương lai rực rỡ sau khi thành danh. Hà chưa hề viết thư đáp trả. Chắc con gái dễ e thẹn nên chưa viết đó thôi.

Có một đêm khoảng mười giờ, tôi đang học bài trên căn gác, khi nhìn xuống thấy Hà và em gái đang đứng trước nhà mà không dám gõ cửa. Không hiểu cách nào mà hai chị em biết đường đến nhà tôi.
Mừng rỡ tôi chạy xuống mở cửa, vì trời tối tôi không tiện mời Hà vào nhà. Hà nói Hà đến thăm tôi và gửi tôi lá thư. Trời ơi, đây là lần đầu tiên Hà gửi thư cho tôi. Tôi đứng sửng như người không hồn, nhận thư của Hà, sau đó thì Hà từ giã. Tôi quên hẳn tôi đang ở đâu, lặng lẽ rất lâu mới bước chân trở lên gác.

Lá thư ấy là lá thư duy nhất tôi nhận của Hà trong suốt cả cuộc đời. Tôi giữ mãi lá thư trong nhiều năm sau này, đến khi có những biến cố làm thất lạc. Trong thư Hà thân mật nói chuyện với tôi cả bốn trang giấy học trò, nói rất nhiều điều, khuyên tôi ráng học, Hà sẽ luôn ở bên tôi an ủi khuyến khích, hy vọng tương lai tôi rực rỡ. Hà có nói câu này: “Nếu không ráng học, người ta không còn thương nữa, ráng chịu”.
Tôi nghĩ như thế là Hà đã yêu tôi. Con gái thường e lệ mà. Tâm hồn tôi từ đó tràn ngập niềm vui.

Môt buổi chiều mùa hè năm Mậu Thân 1968, tôi gặp Hà báo tin tôi đã thi đậu Tú Tài 2, Hà nói với tôi: “Chúc mừng anh nha, tối nay tụi mình đi chơi đi”.
Trời ơi, tôi như trên trời rơi xuống, vừa được tin thi đậu, vừa được người yêu hẹn đi chơi. Tôi vui như điên dại, cứ trông mau đến tối, ra ngõ trên đường Nguyễn Huy Tự để đón Hà.
Tôi không nhớ mình đã xoay sở cách nào mà đã có sẵn một mớ tiền trong túi, cũng đủ đưa Hà đi ăn uống, cùng san sẻ niềm vui thành công đầu tiên của tôi khi bước vào đời. Tôi dự định sẽ tìm một quán cà phê thanh vắng, tâm sự đến khuya, hứa hẹn những điều còn đang ấp ủ.

Đây là buổi hẹn hò đầu tiên trong cuộc đời con trai của tôi, sao hôm nay, tôi được làm vai chính mà lại hồi hộp đến như vậy.
Tôi co ro, vì lần đầu tiên trong bộ đồ Tây bỏ thùng với giày da, tim đập thình thịch khi nhìn thấy Hà từ trong ngõ bước ra, cũng với chiếc áo dài trắng, tóc xoả dài qua vai, giản dị, nhưng đẹp lộng lẫy hơn bao giờ hết. Tôi vẫy gọi chiếc taxi mà các ngón tay run bần bật. Tôi mở cửa sau cho Hà vào xe, rồi bước lên ghế trước, vì nhớ xem trong một phim nào đó, người ta đã làm vậy. Nhưng anh tài xế ngăn lại: “Em ra sau ngồi đi, ai lại ngồi phía trước”.

2.
Tôi nghe lời anh tài xế, bẽn lẽn mở cửa sau phía bên kia vào xe, ngồi bên cạnh Hà. Hà không dùng nước hoa mà sao mùi da thịt toả ra thơm ngát. Khi xe chuyển bánh, có hơi lắc lư, vai tôi chạm nhẹ vào vai Hà, sao mà êm ái đến ngất ngây.
Chạy được một quãng, anh tài xế ngừng xe hỏi, các em muốn đi đâu. Tôi gợi ý Hà cùng đi ăn tiệm. Hà trả lời không muốn đi ăn, chỉ muốn đi chơi ở công viên.
Cũng để chìu ý Hà, tôi nhờ anh tài xế cho xe đến công viên Phan đình Phùng góc Pasteur. Sở dĩ tôi biết công viên này vì tôi đạp xe đi học ngang qua đây hàng ngày.

Trời đêm tháng tám nhiều gió, mát mẻ. Ánh trăng chỉ được nhìn thấp thoáng qua các ngọn cây, Ngõ vào công viên mới chừng hơn tám giờ tối mà tôi thấy trai thanh gái tú dập dìu. Tôi và Hà cùng bước đi rất chậm trên con đường lát sỏi. Tôi có cảm giác vô cùng sảng khoái và hạnh phúc, thỉnh thoảng lại nhìn xuống chân để thưởng thức thật lâu cái hình ảnh tôi và Hà đang song hành sánh bước. Cầu trời cho chúng con sánh bước trọn đời. Con đường lát sỏi giống như đường lên cõi bồng lai. Tôi chưa thể nói với Hà câu gì, vì còn đang bận nuốt từng giọt hạnh phúc vào sâu tận đáy tim.
Suốt đoạn đường hai đứa tôi đi qua, các ghế đá đều bị chiếm chỗ bởi các cặp tình nhân, họ đang hẹn hò tình tự với nhau. Tôi hy vọng cũng được tận hưởng một buổi hẹn hò tuyệt vời hôm nay, dù ở chừng mực thế nào cũng vui.

Đi đến cuối con đường lát sỏi, cũng là cuối công viên, bên kia hàng rào là đường Phan Thanh Giản, tôi chọn được một ghế đá vừa vắng vẻ, vừa sạch sẻ, hai đứa cùng ngồi xuống vì thật ra đã mõi chân rồi.
Những câu nói tôi sắp sẵn trong đầu tự nhiên bay đâu mất. Từ lâu tôi có ước mơ được hôn lên mái tóc óng ả của Hà, nhưng hôm nay không tài nào tôi dám thực hiện. Tôi nhìn Hà, nhìn thật lâu, tôi nghĩ là Hà cũng đang rất vui cũng như tôi đang rất vui. Tôi chờ đợi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ của Hà, đánh dấu ngày kỳ ngộ của hai đứa.

Nhưng không, ô kìa, Hà đang khóc. Tôi nhìn thấy rõ hai giọt nước mắt dưới ánh đèn yếu ớt của công viên. Tôi vừa lo âu vừa thắc mắc, không biết đã xảy ra chuyện gì, sao bỗng dưng Hà lại khóc?
Hà dùng khăn tay chậm nước mắt, rồi nói: “Mình không lấy nhau được, anh ơi, mẹ tôi nói mẹ không gã tôi cho anh”.
Tôi nghe như lùng bùng trong lỗ tai. Lặng thinh một hồi thật lâu tôi mới lên tiếng: “Chuyện gì vậy Hà? Tôi có lỗi gì sao?”
“Không anh, gia đình tôi đã nhận lời anh Ngô, anh ấy đóng quân ở chi khu Hoài Nhơn, chúng tôi đã làm đám hỏi hai tháng nay rồi”.

Tôi nghe rất rõ từng lời nói của Hà. Trời ơi, sao đột ngột vậy trời. Gió đêm lồng lộng mà mồ hôi tôi tuôn ra như tắm. Bao năm vun đắp hy vọng, lẽ nào trong chốc tất cả đều tan biến, có lẽ nào?
Tôi cảm thấy có một cái gì nghẹn nghẹn trong cổ họng, cố gắng lắm mới gượng hỏi: “Sao hai tháng nay Hà không nói cho tôi biết, lúc nào cũng cười đùa với tôi, làm tôi hy vọng, sao ác với tôi vậy?”
Hà vừa khóc vừa phân trần: “Tôi sợ anh buồn ảnh hưởng kỳ thi, mẹ tôi ép làm đám cưới ngay, nhưng tôi đâu chịu. Tôi đòi chờ anh thi đậu xong, mới ra Bình Định làm đám cưới. Tôi đòi dữ lắm, mẹ tôi mới chìu tôi”.

Trời ơi, chết tôi rồi. Tôi thật sự không thể kềm chế hai dòng nước mắt tuôn xuống má. Rất lâu, tôi vẫn ngồi chết lặng, tứ chi rã rời.
Hà bớt khóc và nói nhiều điều sau đó, những lý do mà gia đình Hà không chấp nhận tôi, vì công việc làm của gia đình tôi có điều gì đó mâu thuẩn với gia đình nhà Hà, vì ba má tôi con đông, vì … Nhưng tôi có cần phải giải bày gi không, khi Hà đã làm đám hỏi cả hai tháng nay rồi? Hà càng nói, nước mắt tôi càng chảy, được một lúc thì hai đứa đều lặng thinh, không ai nói lời nào nữa.
Sau đó, Hà nói chị Ba chị Sáu của Hà cũng quý tôi, nhưng không thể vượt qua quyết định của gia tộc. Tôi kể cho Hà nghe rất nhiều đêm tôi nhớ Hà không ngủ được. Tôi hỏi: “Nếu tôi thi không đậu, Hà có đi lấy chồng không?” Hà bảo: “Tôi tin rằng anh thi đậu, mới xin gia đình nán lại ngày về quê”…
Rất nhiều điều chúng tôi kể cho nhau nghe, không thể nói hết.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, đồng hồ tay của tôi chỉ hơn 12 giờ đêm, hai đứa đều đã tỉnh táo không còn khóc nữa. Mọi chuyện đến nước này phải chấp nhận thôi.

Tôi đề nghị đưa Hà về, Hà lắc đầu: “Kể từ ngày mai mình không được phép gặp nhau nữa rồi, anh để tôi ngồi với anh thêm chút nữa nha”.
Tôi hỏi lại: “Ở nhà không chờ sao?” Hà trả lời: “Thì, mặc kệ đi”.
Tôi chống tay gục đầu nghe theo, vì đúng là ngày mai tôi không còn lý do gặp Hà nữa rồi, tôi cũng không biết làm sao tôi vui sống nếu không được nhìn thấy Hà. Sao mà hoàn cảnh nghiệt ngã thế này?

Theo yêu cầu của tôi lần cuối, Hà đưa bàn tay cho tôi nắm một lần, một lần trong cuộc đời, vì mãi về sau này, tôi không còn có cơ hội nào nữa. Bàn tay mịn màng ấm áp này của Hà mãi mãi sẽ không bao giờ thuộc về tôi.
Đến hơn 1 giờ sáng, xe cộ không còn nữa. Tôi và Hà quyết định đi bộ cùng nhau về nhà. Hai đứa rảo bước chầm chậm trên đường phố Saigon tĩnh mịch vào giữa khuya, dù lòng nặng trĩu, nhưng cũng cố gắng lôi kéo thêm giây phút còn được nhìn thấy nhau, qua những bước chân song hành.

3.
Việc Hà đi chơi tối với tôi hình như được mẹ cho phép, nhưng hơn nửa khuya Hà chưa về nhà, đã làm cho gia đình rất lo lắng. Mẹ và chị Hà không biết dùng phương tiện gì để đi tìm Hà nhiều nơi, kể cả nhà một số bạn bè, thầy dạy. Chuyện này về sau tôi mới biết, là do chị Dung, con của thầy Ái dạy sử địa, hôm gặp tôi chị khóc ròng và kể lại tôi nghe.
Sau đó, tôi không biết Hà đã làm đám cưới như thế nào, còn tôi thì bắt đầu thèm cuộc sống đi nắng về sương, cà phê và khói thuốc.
Tình yêu tan vỡ nhất thời làm sao tâm trí có thể mờ phai. Vóc dáng ngây thơ, mái tóc mềm mại của Hà hàng ngày vẫn hiện diện trong nỗi nhớ khốn khổ của tôi. Có một buổi chiều lang thang, tôi cảm thấy như vũ trụ vỡ tan khi nghe những lời nhạc của Phạm Duy rót mạnh vào lòng:
“Em đã chết cho anh vào cuộc tình
Cuộc tình ta nơi thế giới bên kia
Anh theo em vào cõi chết chốn mây mờ
Vì cõi chết không ai dành em nữa…”
Thật sự tôi đã không thể dành giật được Hà trong cõi sống hôm nay.
Lúc này, chiến sự trong nước gia tăng. Bộ Quốc Phòng có lệnh tổng động viên.
Tôi quyết định nhập ngũ, chấm dứt những ngày thật dài không định hướng, nhưng có lẽ cũng để được sớm lìa xa đô thành, không còn phải nhìn thấy những hàng cây, con đường, góc phố, in dấu tích kỷ niệm đau lòng của thuở từng yêu đương trong lứa tuổi học trò.
Những tưởng mưa nắng quân trường sẽ làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi đã cố luyện tập để quên những chuyện buồn quá khứ, nhưng thật sự, việc đó không dễ dàng. Nhớ nhung là bệnh nan y, nó cứ đeo bám theo tôi trong từng giấc ngủ.

May thay, tôi vẫn còn có nhiều niềm vui từ bạn bè trong khoá học, và từ những lá thư thăm viếng của gia đình. Những niềm vui đó cũng tạm ấm lòng trong những ngày tháng bơ vơ đất khách.  
Tình yêu đã chắp cánh bay từ lâu. Nhưng trong những giây phút lắng đọng tâm hồn, tôi vẫn không thể nào quên chiếc áo dài trắng thơ ngây ngày xưa, với những khi chuyện trò, đùa nghịch. Nhớ rất nhiều những hôm tôi đến nhà Hà thăm viếng rụt rè, nhớ những bữa cơm đạm bạc chị Ba mời, nhớ những buổi chiều tôi giúp Mỹ làm bài tập …

Nhớ quá, rồi không biết có động lực vô hình nào đó, xui tôi viết thư thăm mẹ và các chị em Hà, những người đã đối đãi rất tốt với tôi trong những ngày tháng cũ.
Và không ngờ, tôi nhận được thư hồi âm của Mỹ.
Thư Mỹ viết, tựa như thư của một đứa em ruột, gửi cho người anh trai đang ở phương xa: “Hôm thư anh được gửi đến nhà, chị Hà có về thăm mẹ và đọc thư, chị ấy bảo em viết hồi âm, nhắn lời chị hỏi thăm anh”.
Trời ơi, Hà vẫn còn nghĩ đến tôi. Trải qua bao nhớ mong, lời nhắn của Hà giống như là ánh sáng qua kẽ lá, giúp kẻ lữ hành như tôi tìm được lối đi trong màn đêm mù mịt.

Tôi liền viết tiếp thư cho Mỹ, ngoài việc chúc Mỹ thi cử thành công, tôi còn có dụng ý cố tìm biết ít nhiều tin tức của Hà, dù cũng vẫn hiểu rằng Hà đang hạnh phúc bên chồng.
Những điều tôi viết trong thư, không phải tôi chỉ viết riêng cho Mỹ, mà tôi cố ý muốn gửi gấm về Hà. Tôi hy vọng là Hà vẫn nghe được tiếng lòng tôi. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc, mặc dầu có chen lẫn ít nhiều đớn đau.

Những khi vừa tan buổi tập, nhìn tia nắng lãng đãng trên bầu trời, tôi vẫn cứ muốn biến thành cánh thiên nga kia, tung tăng tít trên chín tầng mây, hoàng hôn bay về tận quê xưa, để được nhìn mặt người yêu, dù nay đã thuộc về người.
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau.
Với nỗi nhớ nhung tột cùng, bỗng nhiên tôi khát khao được làm người thân hay họ hàng của Hà. Như câu chuyện được viết, có chàng Jérome trở về nông trang xưa, qua một khung cửa hẹp, như một người làm vườn, để được lén nhìn người tình Allisa, mà số phận vĩnh viễn không thể còn gặp gỡ. Đó cũng là hạnh phúc, cho dù hạnh phúc chỉ trong giây phút rồi tàn.

Tôi lại ước mơ được hoá thân, được trẻ lại vài năm, trở thành một chàng thiếu niên mới lớn, được gia đình Hà xem như là em, là cháu của Hà. Lúc đó, tôi sẽ biến thành người trong thân tộc, sẽ được về nông trang, bước qua khung cửa hẹp, và sẽ có hạnh phúc được nhìn thấy Hà hàng ngày.
Có lẽ đó chỉ là một ý tưởng viễn vông, câu chuyện thần thoại, câu chuyện đó không có chỗ đứng cho tôi, cũng không phù hợp với đạo lý thông thường.
Và thế là tôi buông xuôi, bằng lòng hai tay nắm giữ chỉ một vạt nắng, chỉ một vạt nắng thôi, của cả một vầng thái dương, soi thẳng vào hạnh phúc thênh thang của khoảng sân rộng nhà người.


4.
Cuối năm 1972, thấm thoát cũng đã đến ngày mãn khoá. Sau khi mãn khoá tôi sẽ ra chiến trường. Thanh niên trong thời chiến, chuyện tử sinh không còn quan trọng. Dù có trải qua thời gian, nhưng kỷ niệm tình yêu ngày xưa vẫn cứ còn mãi bên mình.
Mỹ có gửi thư chúc mừng ngày tôi ra trường, đồng thời nhắn tin dùm ông anh rể, chồng của chị Ba, mới đổi về thủ đô làm công chức, anh chị có ý định gặp tôi nếu tôi có dịp về Saigon.

Tôi được nghỉ phép ở Saigon 15 ngày trước khi trình diện đơn vị.
Hôm nay với quân phục lính mới, tôi đến nhà anh chị Ba trên đường Ngô tùng Châu Quận 3, theo giờ được mời. Người mở cửa tiếp tôi, rất bất ngờ, lại chính là Hà.
Hà bảo hai đứa con nhỏ ra cúi đầu chào chú. Tôi rụt rè chào Hà, giọng run run vì ngạc nhiên: “Anh Ngô khoẻ không Hà?”
“Dạ vẫn khoẻ”. Hà đáp lời. “Anh Ngô phải đi hành quân xa. Tôi tạm đưa hai đứa con về ở nhà chị Ba”.
Tôi hỏi qua về cuộc sống. Hà bảo tất cả đều ổn. Hà nói thêm, hôm nay gặp nhau cũng chỉ tình cờ nhưng rất là vui.
Tim tôi đập như muốn vỡ lồng ngực. Người vui nhất phải là tôi mới đúng. Không phải bấy lâu nay tôi chỉ muốn được nhìn thấy Hà hay sao? Không phải bấy lâu nay nhớ nhung luôn đè nặng trong các giấc ngủ trằn trọc hay sao? Bây giờ, không phải Hà đang đứng trước mặt tôi bằng xương bằng thịt hay sao?

Gặp lại Hà chính là hạnh phúc. Và tôi đang tận hưởng hạnh phúc ấy qua từng giây. Lòng tôi xúc động bồi hồi. Tôi có nhiều câu hỏi, nhưng tôi không còn nhớ tôi đã hỏi Hà những câu gì. Chỉ nhớ khi hỏi Hà sẽ ở Saigon bao lâu, mơ hồ tôi nghe Hà nói rằng: “Saigon yên ổn hơn, tôi muốn có thời gian dài để săn sóc các cháu”.
Có lẽ vì tôi quá vui nên tôi có hơi mất tự chủ, lúng túng khi đối diện với Hà. Tôi bỗng giật mình khi anh chị Ba bước ra chào tôi, mời tôi vào tiệc ở phòng khách. Tiệc hôm nay lại làm tôi bất ngờ. Chị Ba nói đây là tiệc mừng ngày tôi ra trường. Tôi vô tư cảm ơn anh chị về sự tận tình.
Tôi phải trả lời cho mọi người về rất nhiều câu hỏi về tôi. Tiệc diễn ra cũng khá vui.
Anh Ba hỏi tôi: “chừng nào em lập gia đình?” Tôi thật thà đáp lại: “Chắc cũng sớm thôi anh. Có thể em sẽ làm lễ hỏi ngay trong kỳ nghỉ phép này”. Chị Ba tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi hỏi ngay: “Hai đứa quen nhau lâu chưa em?”
Tôi dài dòng giải thích: “Dạ, bà chị họ của em thấy sắp ra đơn vị sợ không có thì giờ cưới vợ, nên giới thiệu một cô làm cùng ngành. Chị ấy đòi làm lễ hỏi cho em luôn, nhưng em vẫn còn đang suy nghĩ”.

Anh chị Ba và cả Hà đều nói lời chúc mừng tôi. Tôi thấy Hà rời bàn tiệc sớm, đến lo cho hai đứa con. Sau khi tiệc tan, anh chị Ba vào phòng trong, phòng khách chỉ còn tôi với Hà.
Tôi và Hà đang rất gần nhau, nhưng ranh giới thì rất lớn. Có những điều chất chứa trong lòng lâu nay, chỉ chờ có dịp gặp nhau thổ lộ. Bây giờ đã gặp đây rồi, sao không thể nói được gì với nhau?
“Em bây giờ như xa một tầm tay
Biết nói gì khi tình đã vụt bay
Tháng mười hai trời còn mưa muộn
Anh lang thang đứng lặng ở cuối trời” (Vũ Hoàng)
Tôi chỉ nhìn Hà. Tôi cố nhìn cho thoả lòng bao nhiêu ngày mơ ước. Hà không giấu được nét tiều tuỵ của thiếu phụ đang xuân, khi ẳm bồng con nhỏ. Nhìn mái tóc chưa kịp chải gọn, phủ xoà trên vầng trán còn nguyên nét ngây thơ, mà lòng tôi thấy cảm thương vô cùng.

Đôi mắt Hà buồn rười rượi, gợi cho tôi nhớ lại giọt nước mắt đêm hẹn hò ngày nào, dưới ánh đèn hiu hắt của công viên. Giọt nước mắt ấy bao nhiêu năm dài cứ chập chờn trong giấc ngủ của tôi. Kỷ niệm xưa bất giác hiện về, khiến cho người tôi run lên, môi nghe mằn mặn.

Cố nén xúc động, tôi vuốt tóc cháu bé, an ủi Hà: “Hà đừng buồn. Chia cách chỉ một thời gian thôi. Cũng như tôi, vài hôm nữa tôi phải rời đô thành đi vào chiến trường như bao nhiêu người khác”.
Tôi kể cho Hà nghe những câu chuyện về bạn học ngày xưa, chuyện trong quân trường, và cả những dự tính cho cá nhân tôi trong những ngày sắp tới khi ra đơn vị. Hà là người rất dễ xúc cảm, thỉnh thoảng lấy khăn lau nước mắt, sau mỗi câu chuyện kể của tôi.
Chúng tôi chuyện trò lâu lắm như không muốn dứt ra, như người thân lâu ngày mới gặp lại.

Chuyện vãn cũng tàn. Khi Hà đưa tôi ra ngõ để đi về, buổi chiều Saigon nắng muộn, tôi bùi ngùi, tưởng như đang chia tay người yêu bé nhỏ thuở còn tuổi học trò. Nhưng hoàn cảnh hôm nay đã khác, khác ở chỗ, đau đớn hơn, chia tay lần này thật sự là lần chia tay vĩnh viễn.
                                              
5.
Thế rồi tôi ra đơn vị, bình thản nhảy vào lửa đạn như bao thanh niên khác. Tôi có rất nhiều may mắn khi phải đối diện với những cơn hiểm nguy ngoài chiến trận. Đến khi nghiệp lính tạm ổn định, tôi lập gia đình, và tôi đã cố quên những kỷ niệm thời tuổi trẻ yêu đương. Nhưng dù có cố quên tôi lại càng nhớ.

Và đã có một sự thật làm cho tôi hết sức bất ngờ, tôi chỉ biết được, sau khi ra khỏi tù cải tạo. Người bạn kể lại rằng trước ngày tôi ra trường, chiến tranh rất khốc liệt tại miền Trung, chồng Hà tử trận, Hà phải đem hai con nhỏ vào Saigon. Hôm gặp lại tôi tại nhà anh chị Ba, vì thấy tôi sắp có hạnh phúc, Hà đã cố tình lặng thinh, không hé lộ hoàn cảnh.

Sự thật đã diễn ra ngay trước mắt, mà người trong cuộc như tôi, lại không thể nào nhìn thấy. Tiếc nuối hay không, thì cơ hội cũng đã qua rồi.
Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt rưng rưng, nét mặt buồn xa xăm của Hà khi tiếp chuyện với tôi trong ngày hôm đó.
“Ai nhớ chăng ai
Những gì tha thiết nhất trong đời
Những gì không nói nên bằng lời
Tim ta thì chơi vơi, hồn ta tìm nơi nơi
Lòng ta luôn nhớ đời” (Hoàng Thi Thơ)
Làm sao tôi có thể quên những việc đã xảy ra trong ngày gặp gỡ bất ngờ này? Và tôi cũng không thể nào hiểu được Hà và tôi đã không duyên nợ nhưng sao kỷ niệm thuộc về Hà suốt đời tôi cứ mãi vấn vương?

Bốn mươi mấy năm qua rồi, hôm nay nhìn lại, trong ký ức tôi, bức tranh tình yêu tuổi học trò ngày nào là một bức tranh tuyệt đẹp.
Câu chuyện giữa tôi và Hà có thể vẫn còn có những điều tôi chưa biết hết, nhưng đến lúc này, những điều đó có còn quan trọng nữa không?
Bây giờ tuổi đã cao. Là con người, ai cũng sẽ phải trở về cát bụi. Cho nên nếu còn gặp lại, Hà ơi, xin hãy dành gửi cho nhau một nụ cười và một tình bạn tri âm tươi đẹp nhất trên thế gian này.

TỪ SƠN
(Tháng 8/2020)
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.414 seconds.