Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Jan/2019 lúc 8:48am

Image%20result%20for%20Mùa%20Xuân%20của%20Người%20Điên


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 02/Jan/2019 lúc 8:51am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 04/Jan/2019 lúc 1:41pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 12/Jan/2019 lúc 11:27am
Mùa xuân trong dĩ vãng

Image%20result%20for%20Phiên%20Gác%20Đêm%20Xuân


Trên vọng gác của căn cứ nơi đơn vị đóng quân , Châu mân mê trong tay tấm thiệp xuân , hình vẽ được in trên tấm thiệp  người lính đứng nghiêm bồng súng, miệng cười tươi , tay  nâng cánh chim bồ câu trắng chuẩn bị xoải cánh tung bay vào bầu trời tự do , thấp thoáng xa xa cánh rừng thưa trên dảy núi chập chùng ,hình vẽ gần hơn  một cội Mai già hoa nỡ vàng rực , vài hình bóng các cô gái đồng bào dân tộc thiểu số đang du xuân trên con đường làng , sau hàng rào hoa kẽm gai anh lính chiến vẫn dõi mắt về chốn xa  nơi hậu phương  .

       Mãi nhìn tấm thiệp chúc xuân không thấy chán , Châu thầm ước :
 " Phải chi đơn vị cho mỗi người thêm một tấm thiệp nữa thì hay biết mấy , tiếc thật mình gửi thiệp này đi rồi sẽ không còn thấy hình ảnh thật đẹp của người lính với mùa xuân nữa rồi " .

     - Chèn ơi , Châu mày đang gác mà hồn để đâu đâu vậy , nhớ bà xã rồi phải không? , tao đến nãy giờ mà mày không hay , thiệt tao sợ mày luôn .

    Nghe tiếng Tôi trách móc thằng Châu giật mình , nó dấu vội tấm thiệp xuân vào cuốn nhật ký Châu liền phân trần :

      - Mầy làm thầy bói hồi nào hay quá vậy ? Tao nhớ lúc mình chưa vào lính tụi mình còn vô lăng Ông Bà Chiểu đưa tay cho ông thầy bói mù sũ quẻ ,  bộ mầy học lóm nghề tử vi của ổng hay sao mà đoán trúng phóc vậy ?

  Tôi đắc chí , lên mặt với thằng Châu :
   - Mầy hổng biết thiệt hả , lúc trước tao xin ông ta có 2 trang cuối  của cuốn sách tử vi thôi đó , nếu được thâu nạp là đệ tử giờ này đời tao chắc chắn lên hương rồi , dễ gì mầy thấy tao ở đây với mầy như bây giờ .

    Thấy tôi nói chuyện như người "cõi trên" , thằng Châu nó kéo tôi xuống mặt đất liền:

   - Thôi dóc tổ đi ông ơi , tao có nhớ vợ con một phần , nhưng nhớ ba má tao có phần nhiều hơn mày ơi , không khí tết cận kề mà không biết ba má tao sống ra sao , thôi đành thôi trời sanh voi sanh cỏ chứ biết làm gì bây giờ .

  Nghe thằng Châu nhắc người thân trong gia đình nó , trong lòng tôi áy náy vô cùng vì tự dưng gợi lại cho nó cái nỗi buồn trong ngày giáp tết .

  Ông bà Năm cắt cỏ chỉ có hai thằng con trai để nối dõi tông đường , Châu được sinh ra trong ngôi nhà lá nghèo nàn , quanh năm ông bà Năm sống tạm bợ với đồng tiền cắt cỏ mướn cho ông Tám xe ngựa , ngày nào cũng vậy mới tờ mờ sáng sau khi uống xong ly cà phê đen từ quán cà phê của Bà Tư ở đầu ngỏ , hai ông bà lụm cụm kéo chiếc xe có hình dáng giốmg như xe ngựa , thay vì dùng ngựa để kéo xe , vì nhà quá nghèo nên ông Năm đã phải làm thay phần việc của con ngựa , ông đưa vai vào kéo xe thay cho ngựa , giao kèo giữa ông Tám chủ đàn ngựa đua ở trường đua Phú Thọ và ông bà Năm một ngày phải cắt bốn bao cỏ đủ loại mang về  giao cho ông Tám , nếu ngày nào hơn bao nào thì ông tám trả thêm tiền bao đó , lương cắt cỏ ông bà Năm sẽ được phát vào ngày hai mươi lăm hàng tháng . Thật tội nghiệp cho ông năm,theo những người hàng xóm thuật lại  từ ngày  bà  Năm  mang  bầu thằng Báu em trai của thằng Châu  , ông Năm mừng rơn hôn vào bụng bầu của bà năm , rồi  tuyên  bố chắc nịch :

  - Từ nay bà cứ ở nhà nghỉ ngơi , để tui đi làm một mình được rồi , nhớ cẩn thận kẻo động thai tội nghiệp con .

  Vì muốn có thêm tiền tẩm bổ cho vợ con , ông Năm kéo xe đi thật xa , đến chiều về khi mặt trời ngấp nghé ẩn mình vào đường chân trời , thì  trên xe ông Năm đã chất cao nghiệu những bao cỏ xanh um. Khi về gần đến nhà kéo xe lên con dốc dài, một mình ông gò lưng thở dốc ông bám chặt đôi chân xuống mặt đường nhưng không thể nào đưa cái xe vượt qua cái dốc dài nọ , ông loay hoay mãi may nhờ có những người khách bộ hành thấy ông vất vả họ xúm lại phụ ông đẩy cái xe về đến nơi. Có một hôm về đến cái dốc này trong khi trời mưa thật lớn , bầu trời đen ngịt, gió giật từng cơn , chỉ còn một mình ông Năm với chiếc xe đầy cỏ ướt sũng nước mưa , ông xoay sở như thế nào không biết khiến xe cỏ lật ngang  , đồng thời cái càng xe hất ông văng xa gần ba thước . Ông nằm bất tỉnh trong cơn mưa , may nhờ hôm ấy tan sở ba tôi vừa về đến ngang đây thấy ông Năm thoi thóp nằm trong vũng nước cạn , không kể mưa gió ba tôi quăng vội chiếc xe đạp sườn nhôm vào bụi tre gai bên vệ đường , chạy đến sốc nách dìu ông Năm vào hàng hiên căn nhà gần dó , chủ nhà cũng hào hiệp không kém ba tôi , ông cùng vợ đem khăn lau khô cho ông Năm , rồi thay đồ xức dầu nóng , còn trao cho ông Năm và ba tôi hai ly trà tàu nóng hổi bốc khói thơm lừng . Khi trời dứt cơn mưa cả 3 ông già cùng nhau dọn dẹp đưa chiếc xe cỏ về đến nhà, sau khi biết đầu đuôi câu chuyện , bà Năm hai tay xoa xoa cái bụng bầu miệng thì ríu rít :

    - Chời ơi , thiệt là  " dợ " chồng tui mang ơn hai ông anh có tấm lòng nghĩa hiệp quá sá cở , gặp người khác mưa gió như vậy họ chưa chắc dang tay cứu ông Năm nhà Tui , xin hai anh nhận một xá này gọi là tạ ơn đã cứu mạng chồng tui .

  Người hàng xóm tốt bụng đáp lời :

- Gì mà tạ ơn bà Năm ơi , bà làm tụi tui ngại quá , chòm xóm với nhau không hà , à sẵn bà vợ tui nấu nồi cháo cá ở bển , tôi về đem qua cho ông Năm ăn giải cảm .

    Nói xong ông ù chạy nhanh trở về nhà , còn lại nơi đây ba tôi hỏi han tình cảnh gia đìmh ông bà Năm , khi biết rõ ông bà sống rất chật vật trong nghèo khó , với đồng lương công chức cũng không khá giả gì ba tôi cũng giúp ông bà Năm hàng tháng một số tiền để ông bà bớt cơ cực phần nào , khi nghe cái ý định của ba tôi như thế , vẻ mặt ông bà Năm ngời lên niềm hân hoan rồi bà Năm đáp lời :

  - Mèn ơi , chú Chín tính như vậy thiệt tình hổng biết lấy chi đền đáp , dợ chồng tui cảm ơn chú chín dữ lắm à nghe .

  - Bà vợ tui nói " dậy " chí phải đó chú chín , kiếp này tụi tui mang ơn chú lắm , nếu có kiếp sau tui nguyện trả lễ chú chín đúng mức luôn đó " 

- Thôi mà ông bà Năm ơi , anh Hai lúc nãy ảnh nói đúng đó , lối xóm mà , tối lửa tắt đèn có nhau , có gì đâu mà ông bà Năm ngại ngùng  rồi ơn với nghĩa  , thôi tui xin kiếu nha , bửa khác tui sẽ đến thăm ... 

    Đêm về trên cao độ vùng Tây nguyên , sương khuya lạnh ướt mọi vật , tiếng côn trùng rả rích trong đêm nghe buồn não ruột , đồng đội của tôi đang chìm vào giấc ngủ bình yên . Trên vọng gác thép súng lạnh cóng trong tay , chiếc áo jack ket không ngăn nổi cái lạnh bên ngoài khiến tôi run lẩy bẩy sau những đợt gió thổi qua. Chăm chú nhìn qua màn sương mỏng trên bầu trời những ánh sao đêm đang lập loè chiếu sáng , cố xua đi cái lạnh tôi quan sát toàn bộ vị trí nơi mình gác , không phát hiện được những bất thường , an tâm tôi luồn tay vào túi rút gói thuốc lá châm một điếu hút cho ấm lòng. Việc này là điều cấm kỵ trong khi gác , nhưng với cái khí hậu khắc nghiệt này khiến tôi phá lệ làm càn , tôi chụm hai tay thật kín khi hút thuốc để tránh thành mục tiêu bất đắc dĩ của họng súng vô hình nào đó .

  - Ầm ..ầm... Tiếng mìn claymore ngoài vòng kẽm gai phòng thủ nổ vang lên , rồi tiếng súng nổ liên thanh từ các vọng gác kế cận nhắm vào ánh sáng loé lên nơi quả mìn phát nổ , tôi giật mình và theo phản xạ tôi cũng xổ một tràng đạn về hướng trên , tiếng ai đó vang lên :

  - Ngừng bắn , ngừng bắn ..

  Hàng loạt trái sinal cầm tay được phóng lên thắp sáng cả một góc trời , những cánh dù trắng nhỏ đong đưa trong gió soi sáng cho toán tiền sát viên ra khám phá mục tiêu.

  - Ô ông ba mươi to lắm anh em ơi . Nào  phụ mình khênh  vào , hay lắm tết này mình có món " Thịt cọp kho nước dừa rồi ", úi giời nó nặng bỏ bu luôn .

  Sáng hôm sau , các đơn vị bạn gần đó đổ xô đến căn cứ chúng tôi để tận mắt chiêm ngưỡng ông ba mươi , có người tỏ ra am tường về loài ác thú này họ nói :

  - Mấy anh cắt râu cọp và đốt bỏ đi,  mấy anh em người thượng họ nói nếu râu cọp này gói trong áo của mấy cái mụt măng trong rừng thì vài tuần nó sẽ tiết ra chất sền sệt cực độc không thua nọc rắn hổ mang , nên tốt nhất đốt bỏ liền để tránh bị người khác lạm dụng hại người . 

  Chúa sơn lâm nằm bất động trong sân đơn vị chúng tôi , chú cọp này nặng gần trăm ký . Anh em lóc da , lóc thịt rồi chia đều cho mỗi phòng ban mỗi nơi nhận thịt về tùy nghi sử dụng , riêng bộ da và xương tôi nghe nói được tháp tùng  Trực thăng UH1A  chở về bán cho mấy người Hoa ở Qui Nhơn họ làm thú nhồi bông và nấu cao hổ cốt . Tiền thu được các xếp chúng tôi  cho mua sắm  những món hàng thực phẩm  dùng cho ngày tết , trưa hôm ấy trên chiếc trực thăng tiếp tế , đơn vị chúng tôi có đầy đủ món ăn thức uống cho ba ngày tết .

    Trên cao độ này chúng tôi ngại nhất là chuyện tắm giặt , vì đường đi để " Hạ sơn " rất nguy hiểm , chúng tôi phải đi theo lối mòn với những cái dốc cao rợn người , chỉ cần sơ xẩy là té lăn bò càng như chơi. Mưa thì trơn trợt , trời nắng thì những hòn đá cuội cản lực ma sát trên đường đi , lắm lúc cả đám té chổng gọng ,nhưng đi riết thì cũng quen. Tôi còn nhớ một lần nọ thèm ly cà phê nóng phía dưới phố , sau ca gác tôi rủ rê thằng Châu xuống núi hưởng một chút thú vui nơi hạ giới , trên đường đi thằng Châu trượt chân té xuống thốn cả đôi chân , đau nhức vô cùng mặt mày nó nhăn nhó như khỉ ăn ớt. Đường đi xuống còn một đoạn dài tôi đành phải cõng nó trên lưng , lần mò một đoạn mồ hôi ra như tắm , lựa nơi tương đối bằng phẳng tôi đặt thằng Châu xuống , nó vừa rời khỏi lưng tôi , tôi có cảm giác như Tôn Hành Giả vừa thoát khỏi ngọn núi do Phật tổ như lai đè năm nào .

  Trong lòng bối rối , không biết làm sao thoát ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan này , thời may có một nhóm thanh niên thiếu nữ người Ba na đi tới , thấy cử chỉ bất thường của chúng tôi một người trong bọn họ vội hỏi :

  - Jơ , mấy anh trai có làm sao không ?

  Như bắt được vàng tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho họ nghe , các cô gái nghe xong cười rú lên rồi họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Ba na làm tôi sượng sùng không hiểu họ nghĩ gì , mà tại sao lại cười , nhìn khuôn mặt chúng tôi lúc nấy giờ trông thảm hại , anh thanh niên lúc nảy giải thích :

  - Mấy cô cười anh đó , anh cõng bạn không xong  , nếu lấy vợ Ba na làm sao cõng vợ qua suối , qua nương để làm rẫy  được .

  Tôi ngượng chín người ,trong bụng thầm nghỉ :

  " Thấy mạnh hiếp yếu hé , lấy thịt đè người hé ".

  Tôi chưa kịp phản ứng sau câu nói của chàng thanh niên nọ , anh ta nói tiếp :

  - Mấy anh em tụi mình lên núi phát rẫy làm nương trồng cây bắp  , thôi để chúng mình thay phiên cõng giúp , anh đi trước dẫn đường .

  Vậy là ước ao uống ly cà phê với tiếng nhạc xập xình không thành , đoàn người chúng tôi vật vã sau gần hai giờ mới trở về đến nơi. Tôi cảm ơn các chàng trai cô gái Ba na dễ mến kia , để đền ơn  họ tôi tặng cho các bạn ấy một số gạo sấy và dăm ba hộp thịt. Các bạn từ chối nhưng tôi cố ép như thể hiện lòng biết ơn , họ cảm động nhận lấy , họ xiết tay tôi thật chặt rồi lần lượt từ giả ra về , riêng các cô sơn nữ duyên dáng gật nhẹ đầu chào kèm theo những nụ cười thật tươi khiến lòng tôi xao động ngất ngây khôn tả. Tôi cố nhìn theo hướng của họ di chuyển và thầm mong có ngày đẹp trời nào đó khi thằng Châu bình phục chúng tôi sẽ đi theo hướng đó để đến nói lời cảm ơn lần nữa , nhân tiện có dịp thắt chặt thêm tình cảm với các cô sơn nữ kia .

    Sáng hai mươi lăm tết , trong giờ chào cờ và sinh hoạt đơn vị , ông thượng sĩ già trịnh trọng thông báo :

  - Ngày mai có biệt đoàn văn nghệ từ Sài Gòn ra giúp vui , anh em ăn mặc chỉnh tề , lịch sự, đây là chương trình cây mùa xuân chiến sĩ , họ mang theo cái tình cái nghĩa của đồng bào nơi hậu phương ra cho chúng ta , nhất cử nhất động anh em cố gắng đừng làm những gì khiến họ không vui để giữ thể diện cho đơn vị . Anh em rõ chưa nào ?

  - rõ.......... 

  Nghe tin này ai trong chúng tôi cũng nôn nao khôn xiết , vì lâu lắm rồi chúng tôi chưa được nhìn các bóng hồng của Sài Gòn hoa lệ , không nghe được giọng miền nam quen thuộc , đêm ấy cả đơn vị ai nấy cũng thao thức mong sao trời mau sáng để được diện kiến với người Sài gòn .

    Sáng hôm sau , khi ánh bình minh vừa hé ở phía đàng đông , từ xa tiếng cánh quạt trực thăng như xé gió vọng đến  , khi thấy rõ mồn một cả hợp đoàn 5 chiếc tiến đến gần bãi đáp dã chiến , lòng chúng tôi rộn ràng hồi hộp cố nhìn cho rõ những con chim sắt khổng lồ chỉ sợ những hình ảnh này sẽ vụt mất đi như trong giấc mơ , gió cuốn bụi bay mịt mù khi những con chim sắt đáp xuống yên vị . Lần lượt các cô gái văn nghệ sĩ rời trực thăng tiến thẳng về hội trường của căn cứ , tiếng vỗ tay chào đón vang lên cả góc trời , cái vẫy tay chào , cái huýt gió đầy phấn khởi của những chàng Tân binh trẻ tuổi , khiến  không khí núi rừng bỗng rộn rịp tưng bừng ...

  Sau một ngày tập dợt lại cho nhuần nhuyễn các tiết mục , chiều đến mọi người ăn uống sớm hơn mọi bữa , tắm rửa kỹ lưỡng , có những anh lính diện bộ đồ quân phục mới cáu chưa mặc lần nào , nếp ủi hồ thẳng tấp  khiến pli quần  áo bén ngót như dao cạo  , rồi có chàng địu đàng chút xíu , họ  lôi những chai dầu thơm dấu kín dưới đáy chiếc ba lô ra xịt lên khắp người mùi thơm nồng lan tỏa trong không khí khiến tôi có cái cảm giác như nghe mùi nước hoa các cô gái sử dụng trong snack bar ở Sài gòn dạo nào .

    Khi ánh đèn phụt tắt , một chút lắng động trong không gian , âm thanh duy nhất trong lúc này là tiếng chạy của chiếc máy phát điện nỗ ầm ầm nơi cuối căn cứ .

Khi đèn rực sáng ,  trên sân khấu xuất hiện dàn đồng ca , họ hát  những bài ca ngợi quê hương đất nước & con người  , từng tràng pháo tay tán thưởng sau mỗi bài hát chấm dứt.

      Từng lời ca tiếng nhạc vang lên , ánh đèn màu nhấp nháy  , tuy âm thanh ánh sáng không đầy đủ như ở rạp hát nhưng với chúng tôi như thế thật là hạnh phúc lắm rồi , càng về đêm không khí càng tưng bừng , các anh lính trẻ ban chiều còn nhút nhát nhưng khi những điệu nhạc lời ca đã thấm vào lòng thì mấy anh chàng xung phong lên sân khấu nhảy nhót theo các cô ca sĩ thật hào hứng  không khí vui tươi được kết thúc đúng 0 giờ ,ai cũng tiếc nuối  ngẩn ngơ có người còn than thở :

  - Đúng là thời gian qua mau như tên bắn, mới đó mà kết thúc rồi . Tiếc thật !

  Đêm ấy hầu như cả đơn vị thức trắng đêm ,  chủ và khách cùng nhau chia nhóm ra trò chuyện , ăn uống , xin địa chỉ của nhau để sau này còn thư từ cho nhau. Vậy đó mới gặp nhau chưa được bao lâu thì mọi người đành phải chia tay từ biệt , lúc này tâm trạng của Ngưu Lang ,  chức nữ ngày xưa gặp nhau một lần trong năm rồi chia tay như thế nào thì không rõ , chứ cái buổi chia tay với biệt đoàn văn nghệ với đơn vị chúng tôi cũng tràn đầy nước mắt. Với chúng tôi những giọt nước mắt cảm động rơi rớt trên gương mặt non choẹt của những chàng trai khi thấy cái tình nghĩa  hậu phương dành cho mình quá lớn , năm hết tết đến ở Hậu phương ai cũng tất bật lo cho gia đình nhà của , vậy mà các anh chị em nghệ sĩ dành thật nhiều tình cảm cho những người lính quanh năm đối mặt với gian lao , với chết chóc , họ đã đem lời ca tiếng nhạc sưởi ấm cho anh em chúng tôi nơi tiền đồn heo hút gía lạnh này thì làm sao các chàng trai trẻ kia cầm được nước mắt. Còn các anh chị em văn nghệ sĩ họ thật sự đến với chúng tôi bằng cả tâm huyết của những con người , họ yêu thương đồng loại , khi thấy điều kiện sống của anh em nơi tiền đồn , thấu hiểu sự cô đơn thiéu thốn tình cảm của những người chọn binh nghiệp làm con đường đi cho mình.Riêng  các anh chị em trong biệt đoàn  cũng đã khóc , khóc trong hạnh phúc vì đã thấy  chúng tôi ăn  món ăn tinh thần quý hiếm này do họ mang đến từ hậu phương  một cách cuồng nhiệt nhưng không kém phần trân quý .

  Khi những chiếc Chinook ( Xi Núc)  rướn mình quạt tung bụi mù rồi trườn đi trên không trung , ai nấy trong đơn vị chúng tôi đều buồn rầu ủ rủ , dường như chúng tôi vừa đánh mất vật gì vô giá mà chưa biết bao giờ mình sẽ tìm lại được . 

    Còn lại ít phút giây sau cùng của năm cũ sắp trôi đi , đứng dưới sân cờ trong căn cứ  ngước nhìn bầu trời tối đen như mực  , chúng tôi đếm ngược thời gian khi chiếc đồng hồ dạ quang đeo trên tay của xếp chúng tôi chỉ đúng không giờ , không ai bảo ai đồng thanh hô to :

  - Chúc mừng năm mới , Happy new year .( PH&HA hô to)

    Ông Thượng sĩ già xử lý thường vụ của đơn vị thắp ba cây nhang thơm to tướng ông đứng trước bàn thờ cúng giao thừa tôi thấy ông miệng lâm râm khấn vái cắm nhang xong ông chắp tay sá bốn phương tám hướng , ông cầu xin hương linh tiền nhân , anh linh các chiến sĩ đồn bào đã bỏ mình vị quốc vong thân , ông tha thiết cầu xin các đấng thiêng liêng gia hộ cho non nước yên bình , anh em trong đơn vị được an lành may mắn trong năm mới . Tiếng pháo được đốt lên , tiếng nỗ chát chúa loé sáng trong màn đêm , mùi thuốc pháo thơm nồng khién chúng tôi nhớ lại những mùa xuân trong quá khứ .

  - Ô anh em nhìn kìa , bên tiểu đoàn y bắn pháo bông kìa , mấy chả ở bên đó chơi xộp quá , năm nay xếp mình tiết kiệm chỉ cho xài pháo thường thôi .

  Nhìn theo hướng tiểu đoàn y rồi quay sang hướng đơn vị z , các nơi thi nhau dốt pháo cúng giao thừa . Bất chợt tiếng máy c***ett từ Hầm truyền tin vọng ra bài hát Happy new year do ban nhạc abba bất hủ trình bày , thật sự chúng tôi cảm thấy thích thú trong lòng khi được thưởng thức bài hát thật hợp tình hợp cảnh lúc này .

  Tụ tập tại hộ trường căn cứ , xếp lớn vui mừng chúc tết đơn vị và tất cả mọi người, ai cũng được xếp lì xì cái bao đỏ chét mà dày cộm . Rồi rượu chát , champa được khui nổ lốp bốp , bánh tét bánh chưng dưa hành củ kiệu đầy đủ , cây mai to lớn nằm giữa hội trường , bấy nhiêu đó thôi khiến chúng tôi thật sự ấm lòng khi sống xa gia đình trong mùa xuân năm ấy ...

 Xuân thoáng qua , cái tết vừa tàn thì thằng Châu nó phát điên lên khi nhận được bức điện tín do người bà con đánh đi từ Sài gòn gửi lên . Họ cho nó hay tin trong một lần chở cỏ về gần đến nhà , chuẩn bị rẽ vào ngõ hẻm để kết thúc một ngày vất vả cắt cỏ mưu sinh , ông bà Năm và thằng Báu không còn nữa , họ đã đi thật xa ...

  Cầm tờ giấy nghỉ phép thường niên mười ngày trên tay , mắt ngấn lệ thằng Châu quảy cái ba lô nó chào tạm biệt tôi :

  - Tao về lo tang lễ cho gia đình , chắc là không kịp nhưng cũng phải về , mầy ở lại mạnh giỏi , nhớ cẩn thận giữ mình nghe mậy , mấy ngày nay hai bên đấu pháo với nhau tao thấy ớn quá .

  Tôi làm ra vẻ anh hùng :

  - Ối pháo phiết nhằm nhò gì mầy  ơi , trời kêu ai nấy dạ?, ai cũng có số hết , nhưng mầy đừng lo , ông thầy bói mù Lăng ông Bà chiểu phán rồi mầy hổng nhớ hả . 

  Đang rầu chuyện gia đình , vậy mà khi nghe tôi nói chuyện theo cái giọng tưng tửng bất cần đời thằng Châu cũng suýt bật cười khi tôi nói tiếp :

  - Năm đó xem quẻ xong ổng còn xem tướng tao nữa đó , ổng nói dáy tai tao dài như tai Phật sống thọ lắm , nghe nói đâu khoảng trăm ngoài thì mới có thể chầu ông bà , còn mạng tao là Trường lưu Thủy , ổng giải nghĩa là con sông chảy dài    không bao giờ hết nước , sau này hậu vận khấm khá lắm .

  Nghe đến đây thằng Châu ráng gân cổ cãi lại tôi :

  - Nữa sợ mầy luôn , lúc nào cũng bói toán , khá đâu chưa thấy ỉ y coi chừng đó mầy ơi , thôi tao đi đây thằng quỷ , nhớ cẩn thận nghe mậy ...

  Tiễn chân thằng Châu hạ san quay về cỏi " trần tục " , nào tới giờ hai đứa tôi sống , ăn , ở cùng chung trong căn hầm trú ẩn này , hôm ấy thiếu hình bóng nó tôi cảm thấy mình cô đơn thật sự dẫu rằng quanh đấy còn nhiều đông đội , đêm đó nhìn lên nóc hầm qua ánh đèn vàng vọt tôi thấy hai con thằn lằn đùa giởn với nhau , chúng thật sự hạnh phúc khi có đôi có bạn , tôi chợt thèm cái hạnh phúc thật đơn sơ như hai chú thằn lằn kia , vì lúc nào chúng cũng có đôi có bạn .

  Sau này khi quay trở về đơn vị , thằng Châu nó kể lại cho tôi :

  - Tao về đến nhà thì mọi việc đã an bày , nhìn trên bàn thờ ba tấm ảnh của người nhà , nét mặt trong tấm hình có vẻ như vui mừng thấy tao trở về .

 Dì bảy người bà con bạn dì với bà năm cắt cỏ đứng ra lo hậu sự , trong lúc thuật lại diễn biến tai nạn dì Bảy  nói :

  - Đó Châu coi , mấy người tài xế lái xe mà nhậu nhẹt rồi cầm lái là gây họa cho mình và cho người nữa . Tội nghiệp anh chị Năm với thằng Báu , nạn nhân bất đắc dĩ của thằng cha này , cảnh sát làm ăn kết và tống giam nó rồi , thiệt xui xẻo  thôi con đừng buồn.

  Đưa vợ con về sống  trong căn nhà của ông Bà Năm để sớm hôm nhang khói thờ phượng , ngày Châu trở lại đơn vị nó cứ dùng dằng trong lòng nửa đi nửa muốn ở lại , biết được nỗi buồn của chồng mình , không để chồng phải mang tiếng xấu trong thời chinh chiến , vợ thằng Châu nhỏ to tâm sự , phân tích phải trái Khiến Châu xiêu lòng và nhận ra phiá trước còn đồng đội , còn quê hương .

  Ngồi trên chiếc xe đò của hảng Phi long Tiến lực , Châu vẫy tay chào người vợ thân yêu và đứa con bé bỏng , nó thầm cám ơn Bà Sáu má vợ của nó đã sinh một đứa con biết rõ câu tục ngữ :

  - Nợ nước , trước tình nhà .

    Trước thềm xuân , đêm giao thừa này chắc câu chuyện tôi vừa kể cho các bạn nghe có lẽ nó in hằn mẵi trong tôi cho đến ngày rời xa cỏi tạm này .

 
Hai Hùng SG


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 12/Jan/2019 lúc 11:29am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Jan/2019 lúc 6:02pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jan/2019 lúc 9:37am

Bến Cũ


Huy gặp Diệp lần đâu tiên trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập binh chủng Không quân. Anh được đơn vị bình chọn là phi công đạt nhiều thành tích nổi bật trong năm.
     
Là một phi công trẻ, bô trai, hào hoa nên Huy được giới nữ sinh xếp vào loại “người yêu lý tưởng”. Anh có chiều cao vô địch trong nhóm phi công, vì thế bạn bè thường gọi anh là “Huy Bamboo”. Huy còn là tay chơi đàn dương cầm nổi đình đám trong các buổi trình diễn văn nghệ do đơn vị Không quân tổ chức.
     
Phần trao hoa cho các chiến sĩ xuất sắc do toán nữ sinh trường Trung học Sao Mai phụ trách. Lúc choàng vòng hoa cho Huy, Diệp không thể nào với tới, bởi anh cứ trong tư thế đứng nghiêm, thẳng lưng, ngẩng cao đầu. Bản Lục Quân Hành Khúc do ban quân nhạc hòa tấu đã chấm dứt. Mỗi quân nhân xuất sắc đều có vòng hoa trên cổ, riêng cặp Huy Diệp vẫn còn đứng tại chỗ giương mắt nhìn nhau. Sĩ quan phụ trách đến bên Huy nhắc khéo :  “Ðưa đầu cho cô bé tròng vòng… vào cổ đi”.  Huy lấy mũ, cúi xuống đặt trán mình trên mái tóc của Diệp, cả hàng quân cười khúc khích, khiến nàng ngượng chín người.
     
Thực ra, Huy cố ý trêu cô nữ sinh có mái tóc dài đen tuyền che một phần khuôn mặt trái soan với má lúm đồng tiền trông rất “liêu trai”. Hai người quen nhau từ đó. Sau khi đậu bằng tú tài, Diệp ghi tên vào đại học Huế.

Qua năm thứ hai họ làm lễ cưới. Dự tính lấy xong bằng cử nhân văn chương, Diệp mới chiụ sinh con. Nhưng vận rủi ập xuống. Cuối tháng 3/75, Vùng 1 chiến thuật mất vào tay cộng sản Bắc Việt. Chuyến bay cuối cùng không may bị đạn cộng quân bắn trúng, trực thăng của Huy phải đáp khẩn cấp và anh bị quân Bắc Việt bắt làm tù binh. Dù bị kẹt lại trong lao tù cộng sản, nhưng lòng Huy vẫn cảm thấy thỏa mãn vì đã kịp thời gởi vợ anh, Trương Hoàng Diệp ra đảo Lý Sơn để di chuyển vào Sài Gòn.

Diệp được bạn của Huy tận tình đưa nàng ra hạm đội sớm sủa. Ðến Hoa kỳ, nàng được một gia đình người Mỹ da trắng ở tiểu bang Washington bảo trợ. Thời gian đầu, cuộc sống tuy có phần chật vật, nhưng đỡ hơn nhiều so với những gia đình còn ở trong khu tạm trú.  Dù phải qua những năm dài vất vả vừa làm vừa học, Diệp đã tốt nghiệp và đựơc giới thiệu vào làm trong hãng Boeing.
***

Ngày ra tù, cha mẹ vợ báo cho Huy biết Diệp vừa lấy chồng. Như mũi dao đâm vào tim, tay chân anh rụng rời, chẳng còn lòng dạ nào ở lại dùng cơm tối với gia đình vợ. Huy ra về với cõi lòng tan nát.  Không có lý do gì để trách Diệp, anh chỉ buồn cho số phận hẩm hiu của mình. Huy đã có dự định sẽ vượt biên để được đoàn tụ với vợ. Giờ thì niềm hy vọng ấy đã tiêu tan. Nhưng lòng khao khát tự do vẫn không ngừng thôi thúc anh ra đi.
     
Tháng Chín năm 1985, Huy cùng với bảy người bạn tâm đồng ý hợp nhất, tổ chức vượt biển trên chiếc xuồng một “lốc” mong manh giữa mùa mưa bão. Năm ngày lênh đênh trên biển, thuyền mang tám kẻ dũng cảm ấy tấp được vào bờ của một làng ven biển thuộc Mã-Lai. Họ được tàu của Mã-Lai đưa đến hải cảng Trengganu và chuyển qua đảo Pulau Bidong.

Tại đây, Huy chưa biết định cư tại quốc gia nào. Bất ngờ, được thư của Diệp gởi đến, Huy vô cùng ngạc nhiên, làm sao cô ấy biết được mình ở đây? Có thể Diệp cần chữ ký của mình trong đơn ly dị chăng? Huy hồi họp mở thư ra xem :
“Kính gởi anh Huy,
Qua thư thầy me, em biết được anh đang ở trại tị nạn Pulau Bidong, nhưng không biết anh có được vào Mỹ không. Nếu anh muốn định cư tại Hoa Kỳ em sẵn sàng đứng ra bảo trợ cho anh với tư cách của một cousin. Như anh biết đó, em không thể nào sống đơn chiếc mãi. Ðợi chờ anh chỉ là nỗi vô vọng. Càng nhớ anh, em càng thấy nỗi trống vắng xót xa. Cuộc sống lênh đênh của em trên xứ người, nhờ vào sự đỡ đầu của một người Mỹ và định mệnh đã đưa đẩy em vào một nẻo đường mới. Chồng em hiện nay là giám đốc trong phân xưởng Boeing, người đã nâng đỡ em ngay từ buổi đầu.   Ông ấy ly dị vợ lúc năm mươi tuổi. Ban đầu chỉ là lòng kính trọng, sau thấy thương hại hoàn cảnh lẻ loi của ông, vì vậy em chấp nhận lời cầu hôn của ông ấy.   Bà vợ cũ đã lấy chồng khác, giao lại đứa con gái cho ông chăm sóc. Hiện giờ nó đang học High school.

Giai đoạn đầu ở Mỹ khó khăn lắm anh ạ, thật lòng em muốn giúp anh vượt qua chặn đường đó. Cuộc sống của em hiện giờ tương đối ổn định. Em hy vọng anh bỏ qua tự ái của người đàn ông thường tình mà nghĩ đến tương lai sáng lạn của mình.  Hãy quên đi những kỷ niệm đã qua. Giờ xin anh xem em như một người em họ. Với danh nghĩa nầy, em hi vọng sẽ giúp anh có nhiều cơ hội thành công…
     
Nhận được thư, anh nên trả lời gấp để em còn kịp làm thủ tục hồ sơ bảo trợ. Anh nhớ khai với Cao ủy tị nạn có người cousin là Diep Truong Thomas theo địa chỉ trong thơ. Em gởi anh cái check 500 USD để tiêu dùng.
     
Mừng cho anh đã thoát được cảnh lao tù khổ nhục và giờ đây đất nước tự do đang chờ đón anh.            
Em Trương Hoàng Diệp
***

Thẫn thờ đặt bức thư trên bàn, nét chữ của Diệp như nhảy múa trước mắt Huy. Hình ảnh của nàng vẫn còn đầy ắp trong trái tim nồng cháy của Huy, thế mà trong thư Diệp viết lại thản nhiên, như không vướng bận chút tình cảm nào, thẳng thắn và thực tế đến độ tàn nhẫn.
     
Từ ngày đến đảo, Huy chẳng thiết tha gì được vào đất Mỹ mà sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ quốc gia Tây phương nào. Tuy nhiên, khi đọc thư của Diệp, anh lại quyết định đến Hoa Kỳ. Huy muốn gặp Diệp một lần và muốn nhìn xem tận mắt cuộc hôn nhân mới của nàng hiện giờ ra sao. Dẫu biết lần chạm mặt trước thực tế bẽ bàng nầy có thể gây thêm thương tích cho trái tim mình. Lòng nhớ thương và tính tò mò đã thôi thúc Huy đồng ý đề nghị của Diệp đứng ra bảo trợ.

***

Ðúng ngày lễ Giáng sinh, Huy đến phi trường Seattle được Diệp cùng người chồng William Thomas và đứa con gái riêng của chồng, Christina đón tiếp. Cuộc hội ngộ với người “anh họ” khá niềm nở. Diệp ôm chàng trong phép xã giao của người Tây phương rất tự nhiên và chân tình như đứa em họ đích thực.
     
Kết hợp với lễ nửa đêm đón Chúa Hài Ðồng là buổi tiệc tiếp đón Huy đầy thân tình. Khách mời, người nào cũng mang quà Christmas đến chúc mừng Huy. Diệp không mời khách nhiều, chỉ giới hạn một số bạn bè thân thiết của chồng.

Trước cảnh gia đình hạnh phúc của Diệp, Huy nghe trái tim mình se thắt nhưng với lòng tự trọng, anh vẫn giữ thái độ bình thản.   Mọi người hân hoan vào tiệc. Tiếng dương cầm ngân vang bản nhạc Ðêm Thánh Vô Cùng do cô bé Christina độc tấu, rồi tuần tự là những bản nhạc tình du dương, âm thanh êm đềm như quyện vào men rượu nồng làm tăng thêm nỗi ngất ngây cho thực khách.
Ðã ngà ngà say, tâm hồn nghệ sĩ bị kích thích, Huy đứng dậy đến bên chiếc piano xin phép cô bé được đàn một bản.  Dù đôi bàn tay bị chai sần sau những năm lao động khổ sai trong tù, dù đã mười năm không tập luyện, mười ngón tay anh lướt trên phím ngà bản nhạc “Histoire d’un amour” như xuất thần trỗi lên âm điệu réo rắt làm say đắm lòng người.

Cô bé Christina trố mắt nhìn Huy đầy thán phục. Trái tim Diệp không biết có còn rung động trước âm thanh mang đầy những kỷ niệm xưa mà hai người đã từng bên nhau “anh đàn em hát” ? Bản nhạc vừa dứt, cơn say ập tới, Huy gục đầu trên bàn phím. Ông Thomas dìu Huy vào phòng ngủ đã chuẩn bị sẵn từ mấy ngày qua.
     
Buổi sáng thức dậy, Huy ngạc nhiên trước căn phòng được trang hoàng khá sáng sủa. Mấy bộ áo quần mới treo trong tủ và một số đồ dùng hàng ngày được sắp đặt rất tươm tất trên các kệ. Huy dạo quanh một vòng. Ðây là loại phòng dành cho người độc thân, có đủ tiện nghi từ phòng tắm đến bếp ga và cả lối đi riêng hoàn toàn biệt lập với căn nhà chính.
      
Hai ngày nghỉ lễ, William đưa Huy cùng với đứa con gái đi xem các thắng cảnh ở vùng Seattle được mệnh danh là thung lũng Hoa Hồng . Cô bé đi bên Huy líu lo giới thiệu tên của các thắng cảnh và về lịch sử của vài công trình xây dựng có tính tượng trưng cho thủ phủ của tiểu bang Washington. Diệp ở nhà mua sẵn thực phẩm để trong tủ lạnh cho Huy tự nấu ăn.
     
Vào ngày lễ đầu năm dương lịch, Huy cùng gia đình ông bà Thomas đến dự tiệc tại nhà bạn thân của vợ chồng họ. Anh được giới thiệu là cousin của Diệp từ đảo mới qua, mọi người bắt tay chúc mừng.
Sau hai tuần lễ nghỉ ngơi, Huy ngỏ ý với Diệp sẽ tìm thuê một nhà khác. Nàng ân cần khuyên nhủ :
– William rất quý mến anh. Ông ấy muốn giúp đỡ anh có hoàn cảnh thuận lợi để trở lại trường học. Nếu anh đặt nặng tương lai của mình và thắng được tự ái, chắc chắn anh sẽ có cơ hội tốt để tiến thân.
Diệp ngừng nói, nhìn Huy như dò ý rồi tiếp :
– Căn phòng đó là do ông ấy quyết định dành riêng cho anh ở hoàn toàn miễn phí. Khi nào cuộc sống ổn định, có việc làm hẳn hoi, chừng đấy anh muốn thế nào cũng được. Hôm qua Bill dự tính chờ khi anh lấy xong bằng lái sẽ tặng anh chiếc xe Ford đời cũ của ông để anh đi học và đi làm. Em thấy đó là phương tiện cần thiết đối với anh hiện giờ.
     
Qua những lời khuyên của Diệp, Huy cảm nhận được trong đáy lòng nàng, một tình cảm sâu kín nào đó bị ngăn chận vì hoàn cảnh. Diệp thật lòng không muốn Huy vấp ngã bởi những khó khăn mà nàng đã trải qua và những kinh nghiệm thất bại của những người đến trước.   Ðó là lý do chính đáng thúc đẩy chàng ở lại. Và giờ đây, Huy biết mình phải làm gì. Ðối với anh, hiện tại là phương tiện, mà tương lai mới là cứu cánh. Cứu cánh đó sẽ là phần thưởng dành cho cả quãng đời còn lại của anh.
   
Dường như trong tiềm thức, Huy không muốn xa Diệp và cả Diệp cũng không muốn rời Huy, dẫu cuộc sống của hai người đã có lằn ranh phân định và tình cảm của cả hai có bức tường đạo nghĩa ngăn cách.
***

Huy đã tìm được công việc làm bán thời gian và ghi tên học tại trường college. Sáng đi, tối về, Huy và Diệp ít khi gặp nhau. Thỉnh thoảng, Diệp tổ chức những bữa ăn thân mật cuối tuần mời Huy cùng với gia đình dùng cơm tối. Sau những bữa cơm như thế, Huy thường được ông Thomas và Christina yêu cầu chơi đàn.
     
Có lần Huy giới thiệu bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn đã được dịch lời qua nhiều thứ tiếng trên thế giới.  Huy vừa đàn vừa hát, đến điệp khúc: “..Trời còn làm mưa sao em không lại. Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau , hằn lên nỗi đau bước chân xin em về mau?
Diệp vội quay mặt nhìn qua khung cửa sổ. Huy vẫn tiếp tục hát :
“ Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, Làm sao em biết bia đá không đau, Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau !..”Diệp nhìn Huy với ánh mắt trách hờn, rồi bỏ vào phòng. Chỉ một lần ấy rồi thôi, Huy đã khước từ những bữa cơm sau nầy.
     
Cô con gái của William đã qua mấy khóa học piano, nhưng ngón đàn vẫn còn non kém, cô bé rất thích được nghe Huy đàn và nhờ anh chỉ vẽ thêm. Huy thì ngại ngùng mỗi lần vào phòng khách nên đã nhiều lần từ chối lời khẩn cầu của cô bé .
     
Christina vừa mới ghi tên vào đại học năm thứ nhất, nhưng sức học của nàng lại kém hơn Huy một bực. Vừa giỏi toán lại vững vàng về lý thuyết và thực hành môn đàn Piano nên Christina luôn quanh quẩn bên Huy , dần dà anh trở thành thầy dạy kèm bất đắc dĩ.
     
Chiếc dương cầm ở phòng khách cũng được mang xuống phòng của Huy để Christina tập luyện hàng ngày. Vào những đêm cuối tuần, tiếng dương cầm thánh thót và giọng cười rộn rã của cô bé vang lên từ phòng của Huy đã làm dịu bớt nỗi quạnh vắng của tháng ngày qua.
Lắng nghe tiếng đàn ngày một điêu luyện của con gái, ông Thomas rất vừa lòng và thầm cảm ơn Huy đã giúp ông bớt phần lo lắng.
     
Trong cuộc thi biểu diễn dương cầm toàn trường, Christina đoạt giải nhất về kỹ thuật và phong cách trình diễn. Hôm ấy, cô bé đã đích thân trao cho Huy một bó hoa hồng và cảm ơn chàng như một người thầy đã có công rèn luyện nàng tạo được thành tích ngày hôm nay.
Ông Thomas xem chừng rất hãnh diện. Riêng Diệp, dường như nàng không được khỏe, nụ cười có vẻ gượng gạo, và gương mặt bớt phần tươi tắn.

Sau hai giờ làm bài tập và chỉ thêm toán cho cô bé, Huy ngồi vào chiếc đàn piano dạo bản L’amour c’est pour rien. Ðiệu nhạc tango làm xao xuyến tâm hồn, Christina bỏ viết đến phía sau lưng Huy rồi thản nhiên choàng tay ôm cổ chàng. Bản nhạc vừa chấm đứt, cô bé xoay người Huy về phía mình rồi đặt nụ hôn nồng cháy vào môi chàng. Màu mắt xanh ánh lên nỗi đam mê, cô bé nhìn anh với cơn kích thích. Huy bàng hoàng đứng lên, vội vã bắt tay chúc ngủ ngon và tiễn nàng ra khỏi cửa.
     
Hôm sau, Huy ngỏ ý với ông Thomas và Diệp sẽ dọn đi ở nhà khác với lý do cho tiện đường đến sở làm và gần trường hơn.  Ngày lễ Thanksgiving, Christina bay qua Virginia thăm bà mẹ ruột đang sống với ông chồng sau. Nhân đó, Huy cũng dọn nhà sang chỗ ở mới. Ông William tỏ ý luyến tiếc. Phần Diệp, nàng chẳng nói gì, chỉ đưa mắt nhìn Huy ngờ vực khi chàng bắt tay ngỏ lời cảm ơn.
Huy cố tình giấu Christina chỗ ở mới của mình, chỉ ghi riêng số điện thọai và địa chỉ để lại cho vợ chồng Diệp.
     
Từ khi Huy ra đi, Christina thường hay buồn bực, gắt gỏng với mọi người. Mỗi một biến đổi tình cảm nhỏ nhặt của cô bé cũng không thể nào lọt qua mắt của Diệp. Việc dời nhà của Huy đã giúp cho Diệp tin vào suy đoán của nàng là đúng.

***

Ngày Giáng sinh đã về, đánh dấu ba năm tròn trên đất Mỹ, Huy đã vượt qua được một cách dễ dàng những khó khăn ban đầu. Giờ đây, anh đang học năm thứ ba kỹ sư điện tại trường Ðại học UW. Huy đã lấy được giải học bổng của hãng Boeing dành cho sinh viên xuất sắc trong hai năm cuối cùng Ðại học.
Sáng Chúa Nhật, tâm trí thảnh thơi, Huy đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và đọc tờ báo địa phương, chợt có tiếng gõ cửa thúc bách, anh vội vàng mở hé cánh cửa nhìn ra, Christina đột ngột tông cửa vào, với ánh mắt rực lửa cô nàng hét lên:
“Tại sao anh trốn em ? Tại sao anh bỏ em ? Tại sao ? Tại sao” ?
     
Vừa nói nàng vừa đẩy Huy lùi về phía sau. Anh cố đứng trụ lại, cô nàng càng xông tới. Miệng Huy không ngớt van lơn : “Xin cô bình tĩnh, xin cô bớt nóng..”.  Nhưng Christina chẳng ngừng tay, vẫn ra sức xô chàng. Ðến cuối phòng, Huy bị chiếc sofa cản chân nên cú đẩy sau cùng khiến anh ngã nằm lên ghế. Christina nhào tới nằm đè lên mình Huy và ôm lấy đầu anh hôn tới tấp trên mắt, trên môi rồi úp mặt mình vào vai Huy. Cô bé thì thào trong hơi thở đứt quãng, nghẹn ngào :
– Em yêu anh và anh biết em yêu anh đến mức nào, sao nhẫn tâm với em.     
Huy cảm thấy mềm lòng, đưa tay vuốt mái tóc vàng óng mượt của cô bé, khuyên giải :
– Cô còn quá trẻ và có cả một tương lai sáng lạn đang chờ phía trước, còn tôi chỉ là bóng đêm mịt mùng, ngày mai là những tháng năm dài lao đao. Cô chẳng được gì khi vướng víu vào tình yêu không cân xứng.
     
Christina vụt đứng lên, chạy đến khóa cánh cửa còn hé mở từ lúc nàng vào và nhanh tay cởi bỏ hết áo quần. Một thân thể nở nang đầy hấp lực, lồ lộ làn da mịn màng với bộ ngực căng đầy như tượng thần Vệ Nữ đứng trước mặt Huy thách thức.
     
Anh  vừa trở thế nằm dự định đứng lên. Không để vuột mất cơ hội, Christina sấn tới và tự tay lột bỏ bộ pyjama của chàng đang mặc.  Huy hoàn toàn bị khuất phục bởi những kích thích tột độ của nàng.
     
Từ hôm đó, sau giờ tan học, Christina thường ghé vào nhà trọ của Huy mãi đến khuya mới về nhà. Thấy con gái độ nầy đi về thất thường, ông Thomas dò hỏi, cô bé cho biết đến nhà Huy nhờ hướng dẫn toán. Tin ở con gái mình và người anh họ của vợ, ông cảm thấy an tâm.
     
Ra khỏi sở làm, Diệp lái xe thẳng đến nhà trọ của Huy. Nàng đứng tần ngần một chặp lâu rồi đưa tay gõ vào cánh cửa. Christina xuất hiện nơi khung cửa. Diệp lạnh lùng hỏi :
– Cô làm gì ở đây ?
– Thăm anh Huy.
– Ðâu cần cô thăm ?
Christina bốp chát
– Tại sao không !
– Tôi cấm cô.
– Ô hay, bà ghen đấy à ?
     
Diệp dang tay tát vào má Christina toé lửa. Cô bé trố mắt kinh ngạc rồi dùng cả hai tay tấn công trả đũa. Từ trong phòng Huy nghe tiếng cãi vã và tiếng đánh nhau, vội vàng chạy ra. Huy thấy Diệp ôm mặt khóc, còn Christina giận dữ đóng sầm cửa lại, ra khỏi nhà.
Huy hấp tấp đến bên Diệp hỏi :
– Nó đã làm gì em ?
Thay vì trả lời, nàng đấm vào ngực Huy thùm thụp, tức tối la lên :
– Anh vô tình ! Anh tàn nhẫn ! Anh độc ác !

Huy nắm lấy đôi tay Diệp giữ lại nhưng nàng cố vùng ra rồi ôm chầm lấy Huy, vùi mặt vào ngực chàng khóc tức tưởi.
Huy ôm chặt Diệp vào lòng, lặng lẽ nghe hơi ấm của người yêu ngấm vào trái tim giá lạnh suốt mười bốn năm của mình. Từng giọt lệ nóng âm thầm lăn trên má chàng. Nước mắt tình yêu của hai người đã được chắt lọc từ trái tim thử thách ở hai phương trời giờ đây kết tụ.
***

Gia đình ông bà Trương Hoàng Mẫn đến phi trường Ðà Nẵng đón vợ chồng cô con gái Trương Hoàng Diệp từ Mỹ về thăm quê hương sau mười tám năm xa cách.
Ánh nắng của tiết trời sắp vào Xuân nhuộm vàng cả phi cảng. Chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam vừa hạ cánh trên phi đạo, mọi người hồi hộp đợi chờ.
Ông bà Mẫn hết đứng lại ngồi, mắt đăm đăm nhìn ra phi đạo khi chiếc máy bay vừa dừng bánh.  Hành khách lần lượt xuất hiện trên cửa phi cơ.
Những khuôn mặt rạng rỡ của người Việt ly xứ sắp được đoàn tụ với gia đình nổi bật giữa đám người địa phương trầm mặc. Trong đoàn người hối hả rời sân bay tiến vào khu hành khách, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của một người Mỹ mà gia đình ông bà Mẫn đặc biệt chú mục.

Chợt Diệp đột ngột xuất hiện, một tay kéo chiếc vali nhỏ, tay kia với túi xách đựng tả lót và bình sữa. Nàng đang dớn dác tìm người nhà.
Bỗng người em gái của Diệp reo lên :
– “ Chị Diệp kia kìa !” Cùng lúc cả nhà nhận ra, gọi to lên :
– “Cô Diệp ! Chị Diệp ! Thầy Me đứng đây nè !”
     
Trước nỗi vui mừng đoàn tụ không ai để ý đến Huy đang bồng con đứng phía sau vợ. Bà Mẫn ôm con gái vào lòng để rơi những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Ông Mẫn là người đầu tiên nhận ra sự có mặt của Huy, vội vàng đến siết chặt tay chàng :
– Con Diệp về thầy me chỉ mừng một, khi thấy con cùng về là niềm vui tăng lên gấp mười lần hơn cho gia đình ta.
Bà Mẫn bồng cháu ngọai từ tay Huy trao qua, vừa nựng cháu vừa trách yêu :
– Bố mẹ cháu hư lắm, cái việc trọng đại một đời mà giấu ông bà suốt mấy năm nay.
Diệp nhoẻn miệng cười với mẹ :
– Chúng con bàn tính với nhau là dành cho thầy me một dịp bất ngờ, như một món quà để tạ lỗi thầy me suốt bao năm đã phải trăn trở về việc con lấy chồng khác.
Diệp âu yếm nhìn Huy rồi quay sang mẹ nói tiếp :
– Ông William Thomas là ân nhân của con, vì vậy con đặt ơn nghĩa lên trên tình yêu dành cho ông ấy. Cách đây ba năm, đứa con gái của ông bỗng nhiên bỏ nhà ra đi, ông lên cơn nhồi máu cơ tim rồi qua đời.
Mẹ Diệp thì thầm : “Nguyện cầu Thiên Chúa dìu dắt linh hồn ông ấy sớm về cõi thiên đàng”. Ông Mẫn cùng làm dấu Thánh giá với vợ rồi nói với vợ chồng Diệp :
– Âu cũng là định mệnh !

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Jan/2019 lúc 8:52am

Image%20result%20for%20Trai%20Năm%20Thê%20Bảy%20Thiếp

 

Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết sau đây được trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019, hiện đang phát hành khắp nơi.


***

Người ta bảo rằng, tới một độ tuổi nào đó, người già lại trở thành trẻ con.

Có những người 70, 80, 90 tuổi bị bệnh mất trí nhớ, cư xử ngu ngơ như trẻ lên 2, lên 3.

Một số khác thì do tuổi đời chồng chất, bộ nhớ trong đầu họ không còn chỗ để chứa nữa hay sao ấy, mà họ chỉ nhớ chuyện ngày xửa ngày xưa cả 40, 50 năm về trước rõ mồn một, còn như chuyện hôm nay, mới nói 5 phút trước, 5 phút sau đã quên lững mất rồi, thế không phải như trẻ con là gì?

Cách đây gần 10 năm, mỗi thứ Ba hàng tuần tôi tới nhà Dưỡng lão gần tiệm để làm Nails cho bà Picow. Rồi sau khi bà mất, mỗi khi có dịp, tôi lại tới, nhưng chỉ đi quanh quẩn, nói chuyện vu vơ với những người ở trong đó, đặc biệt là người Việt nam, vì tôi nghĩ "chắc là họ cô đơn lắm," nhờ vậy tôi nghe được nhiều chuyện khá thú vị.

Ông Bảy.

Tôi không gặp ông Bảy thường xuyên, nhưng mỗi lần gặp, ông đều nói chuyện lâu, rất lâu nữa là khác. Hồi mới gặp ông, người ta nói với tôi là ông được 85 tuổi, giờ thì ông khoảng 95, nhưng trông còn quắc thước lắm. Lúc nào ông cũng áo quần chỉnh tề, dáng dấp phong cách rất sang.

Ông bị điếc nặng, thời gian đầu mới quen ông, mỗi lần nói chuyện, tôi phải nói thật to, như hét vào mặt thì ông mới nghe được. Một thời gian sau, bảo hiểm y tế cho ông cái ống nghe gài vào tai, thì có đỡ hơn một chút. Nhưng mấy cô y tá cứ phàn nàn, rằng nhiều lần đi tắm, ông quên lấy cái ống nghe ra, vậy là nó bị ướt, bị hư, không nghe được nữa. Mà xin bảo hiểm thì phải có thời gian, vậy là ông buồn thiu, ngó tội nghiệp lắm.

Tháng rồi, tôi đang vào thăm ông, thì cũng có gia đình người bạn cũ của ông tới thăm. Bạn ông đã mất, giờ chỉ có vợ của bạn, bà Linh, và cô con gái tên Sương thỉnh thoảng lại tới thăm vì thấy thương cho hoàn cảnh đơn chiếc của ông.

Cô Sương đem dĩa Táo tàu ra mời, “Mời Bác.”

Ông lịch sự nói, “Mời chị.”

Bà Linh, “Dạ mời anh. Anh cẩn thận nghe, vì trái táo ni có hột, khéo cả mắc cổ đó.”

Ông cười tủm tỉm, ánh mắt sáng lên trông tinh quái, nghịch ngợm lắm. Rồi tôi nghe ông nói,

-“Chị hả miệng ra, tui đút trái táo vô, chị ăn thử coi có mắc cổ không nghe!”

Bà Linh ngượng đỏ mặt, “Dạ, không, không! Anh cứ ăn đi, đừng lo cho tui,” vừa nói vừa lắc đầu lia lịa.

Được vài câu, thì hình như ông không nhớ mình đang làm gì. Ông ngồi trầm ngâm.

Một lát sau, cô Sương lại mời ông ly chè khoai tía. Bà Linh dúi vào tay ông ly chè nhỏ, “Dạ mời anh.”

Đón lấy ly chè, mặt ông tươi trở lại, nét tinh nghịch trong mắt ông lại ánh lên, nhưng dường như ông không nhận ra bà là người quen, khi tôi nghe ông hỏi, “Thế chị tên chi?”

Bà Linh nhỏ nhẹ, “Dạ, tui là vợ anh Linh đây.”

Tôi đoán ông không hiểu, hay không nhớ, nên tôi nghe ông bỡn cợt, “Linh mô tui không biết. Mà thôi, mời chị. Hay chị để tui đút cho nghe!”

Bà Linh lại đỏ mặt, “Dạ, dạ, không, không, mời anh cứ tự nhiên.”

Thấy tôi đứng lớ ngớ ở góc phòng, cô Sương ghé tai tôi nói nhỏ,

“Ui cha, mô ra mà tình dữ rứa?” Cả hai chúng tôi cùng không nhịn được cười.

Họ ngồi chơi một lát thì ra về, còn lại mình tôi với ông Bảy, tôi mới hỏi, “Sao ông đùa với người quen, ông không sợ họ giận hả?”

Ông trả lời ngây ngô, “Tôi có nhớ họ là ai đâu! Khi nghe bà ấy mời táo, tự nhiên tôi nghĩ trong đầu, “Cái hột táo to rứa làm răng mà nuốt cho xuống cái cổ họng được, bà ni lo “Voi chết không hòm!” Chừ mà đôi hột táo vô thẳng miệng bà, cho bả nghẹn cổ họng thì chắc là vui lắm đây!”

 

Tôi căn vặn tiếp, “Rồi khi bà ấy mời chè, ông còn đòi đút cho bà ấy ăn, không khéo bà ấy giận vì ông quá sỗ sàng đó!" Mặt ông ngơ ngác như đứa trẻ bị la oan, “Nói thật với cô, có lúc tâm trí thiệt mù mờ, không nhớ họ là ai? Chỉ thắc mắc sao mà họ tốt ghê, cứ mời mình ăn hoài. Mình phải lịch sự mời lại mới đúng là người thanh lịch, chứ không có ý gì khác! Có lúc tôi nhìn những người chung quanh, có người ngó quen quen, nhưng không cách chi nhớ tên hay vì sao mình quen họ cả. Khi họ nói chuyện với nhau, tôi chỉ cố lắng nghe xem họ nói gì mà ai cũng cười, vui vẻ, (vì cái máy nghe cứ rồ rồ, không phân biệt từng tiếng được.)

Một hôm khác, vào thăm ông, tôi đùa,

"Hôm nay mình nói chuyện tình yêu ông nghe, ông đẹp trai phông độ thế ni, hồi trẻ chắc lăng nhăng lắm, phải không?”

Ông Bảy kể:

"Năm tôi 42 tuổi, từ Quảng trị được thuyên chuyển vào Sài gòn làm việc cho Tổng nha Cảnh sát. Trong phòng tài chính tôi làm, ngoài những nhân viên đã đứng tuổi, thì có cô Lan thư ký chuyên lo việc đánh máy giấy tờ, còn rất trẻ, mới tròn 20 tuổi.

Lan người Hà nội, gia đình di cư vào Nam năm 1954, nói tiếng Bắc rặt. Ban đầu tôi không thích giọng của Lan bởi vì, giọng nói của cô ấy trái ngược với khuôn mặt đẹp chân chất của mình, giọng cô nghe rất đanh đá, chua ngoa!

Những lúc rảnh việc, tôi thường hát nghêu ngao trêu Lan:

“Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ, này cô em tóc đờ mi gạc xông…” Thì cô ấy lại làm bộ nguýt, háy trông càng đáng yêu hơn.

Thật ra Lan lớn hơn con gái đầu của tôi mấy tuổi, mấy người bạn cùng phòng hay trêu chọc, tôi lại phân bua, “Cô ấy chỉ đáng tuổi con gái tôi thôi."

Qua một thời gian làm chung, tôi đoán Lan cũng mến tôi. Chúng tôi gặp nhau 8 tiếng một ngày, 6 ngày một tuần, nên dần dà trở nên thân thiết. Đó là chưa kể buổi trưa, chúng tôi cùng nhau ra quán gần đó ăn cơm bình dân, cuối tuần rảnh rỗi, lại rủ nhau đi coi phim. Mà tôi thì cô biết rồi đó, mê coi phim lắm. Tôi có thể coi phim suốt ngày, chỉ cần nhai bánh mì uống nước đá cũng được.

Ông bà mình ngày xưa hay nói, “Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, thiếp gần chàng cũng áy náy chân tay!” Đúng quá phải không cô? Lan biết tôi có gia đình ở Quảng trị, nhưng vẫn yêu tha thiết, đúng là:

“Nào ai định nghĩa được tình yêu?

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…” (“Vì sao?”-Xuân Diệu)

Ngắt lời ông Bảy, tôi tò mò hỏi, “Cô ấy mới lớn, ngây thơ, gặp ông đẹp trai, từng trải thì yêu ông là phải rồi. Nhưng cá nhân ông thì nghĩ sao? Ông có gia đình, vợ con rồi mà? Hay vì họ ở xa nên ông thấy cô đơn? Sao ông không tìm cách đưa họ vào Sài gòn sống luôn?”

Ông Bảy nhìn tôi hồi lâu, ra vẻ đăm chiêu, suy tư dữ lắm.

“Tôi nghĩ gì ư? Thời tôi lớn lên, Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng! Có gì lạ đâu, chuyện đàn ông có gia đình, rồi có thêm bà hai, bà ba, phòng nhì, phòng bốn hả cô? Từ cha tôi, cho tới chú bác của tôi, mà ngay cả anh em trai tôi, ai cũng có hai ba bà vợ hầu. Mà ngay như tôi đây, cũng đâu có ghét vợ hai, vợ ba của cha tôi? Tôi yêu quý các bà thiếp của cha tôi như mẹ mình, tôi nói rất thật lòng đó cô à.”

Tôi lại hỏi, “Thế vợ ông có biết không? Ông giữ bí mật chuyện tình yêu vụng trộm của mình được bao lâu? Thời đó tin tức chậm chạp chứ không như chừ, ông há?"

"Đúng rồi,” Ông nói.

"Tôi ít khi về Quảng trị, phần vì tốn tiền, tôi chỉ là công chức, lương lãnh hàng tháng gởi về cho vợ lo nuôi con, chỉ giữ lại một ít để trả tiền thuê nhà, tiền ăn uống, đổ xăng. Mà tính tôi dễ lắm, ăn uống đạm bạc quen rồi. Ăn để mà sống chứ đâu phải sống để mà ăn, phải không cô?

Vé máy bay đắt, mà hồi đó không có tàu lửa đi từ Sài Gòn ra Quảng trị, nên chỉ còn cách đi xe đò. Nhưng đi xe thì lâu và mệt lắm, thành ra có khi cả năm tôi mới về một lần.

Tết năm 1975 tôi thu xếp về thăm nhà. Chuyến bay trưa, từ sân bay Phú Bài tôi đi xe buýt về Huế, rồi từ Huế đi xe đò ra Quảng Trị.

Vừa bước chân vào nhà, đứa con gái nhỏ chạy ra reo mừng, “Ba về, ba về, ba có mua đồ chơi không ba? Răng lâu rứa ba mới về?”

Tôi đáp, “Công việc bận bịu quá, không cách chi dứt ra được, thành ra ba không về.”

Đột nhiên, giọng vợ tôi từ phía sau bếp vang lên, “Chơ không phải vì con quỷ đó không để cho ông về à? Răng ông không đi luôn đi? Về làm chi?”

Tôi không đáp lại một lời nào, ai dại gì đi cãi lại người phụ nữ đang ghen, đúng không cô?

Bọn nhỏ loay hoay mở vali tìm quà, vô tư không biết ba mẹ chúng giận nhau. Đó là lần đầu tiên không khí trong nhà thật nặng nề, không ai nói với ai lời nào.

Bà giúp việc nhà cả hơn mười năm, nói với tôi, “Làm cho ông bà lâu ni, lần đầu tiên tui nghe ông bà to tiếng đó tề.”

Đó là cái Tết buồn nhất mà tôi từng trải qua. Vợ chồng tôi không nói với nhau một lời, cho tới ngày tôi vào Sài gòn lại.

Rồi mấy ngày sau, trên tivi, đài truyền thanh loan tin chiến tranh bùng phát dữ dội ở miền trung, (khắp nơi thì đúng hơn) đầu tháng 3 năm 1975 gia đình tôi di tản từ Quảng Trị vào Đà Nẵng. Suy nghĩ mấy ngày, tôi quyết định mua vé bay ra Đà Nẵng tìm gia đình.

Trong lúc bao nhiêu người từ miền Trung tìm cách vào Sài gòn để tìm đường đi ra nước ngoài, máy bay chyến nào cũng chật cứng, thì chuyến bay từ Sài gòn ra vắng hoe! Cả chiếc Boeing thênh thang mà chỉ có 10 hành khách. Trong đầu tôi dằn vặt bao nhiêu điều, vì nhiều người đã khuyên tôi đừng đi ra ngoài ấy, vì chiến tranh khốc liệt lắm, tôi về, biết có trở lại Sài Gòn được nữa không?

*

 

Tôi hỏi, “Vậy là cho tới tháng 4 năm 1975, ông và gia đình đã ở xa nhau 10 năm sao? Vợ chồng thì phải ở gần nhau chứ?”

-“Không hẳn như vậy. Mỗi năm tôi về thăm nhà một lần, bà vợ tôi bị bệnh bướu cổ, phải vào Sài gòn chữa bằng phóng xạ ở bệnh viện Grall, cả mấy năm đó chứ. Mùa Hè năm 1972, Quảng Trị bị bom cày nát, nhà cửa bị san bằng, gia đình tôi di tản vào Sài gòn, cứ nghĩ là sẽ ở lại luôn, vậy mà vợ tôi nhất định về quê lại đó cô à. Bà ấy sinh ra và lớn lên ở Quảng Trị, công việc buôn bán, nhà cửa, gia đình anh chị em đều ở quanh thành phố đó, khó mà dứt ra được."

“Ông kể tiếp chuyện những ngày tháng 4 năm 1975 đi.” Tôi thúc ông kể tiếp, kẻo sợ ông quên!

-“Tối hôm trước khi bay ra Đà Nẵng, tôi và Lan đã thức trọn đêm nói chuyện. Chúng tôi hy vọng, tình hình sẽ lắng xuống như mấy năm trước, và mơ ước ngày đất nước hết chiến tranh.

Nhưng mà cuộc đời có những ngả rẽ thật bất ngờ! Không ai nói trước được!

Tôi về Đà nẵng được 10 ngày thì Đà nẵng thất thủ! Và 2 tuần sau, một buổi chiều, lúc tôi đang đạp xe từ nhà ông anh về, thì có 3 người mặc bộ đồ màu xanh lá cây đậm, đội mũ cối, đi dép cao su quai, chặn xe tôi lại từ đầu hẻm, hỏi tên tuổi tôi, rồi yêu cầu tôi về nhà lấy ít tư trang vật dụng, để theo họ “tập trung học tập, cải tạo tư tưởng.”

Trước sự ngơ ngác của cả gia đình tôi, họ đã dẫn tôi đi.

Đi đâu? Chính tôi cũng không biết!

Ban đầu người ta đưa tôi vào trại giam ở gần chợ Cồn, rồi sau đó đưa lên Tiên Lãnh, vùng núi non hiểm trở, hoang sơ của tỉnh Quảng Nam.

Không thể kể hết nỗi khổ cực lúc đó đâu cô. Cứ tưởng tượng một vùng núi hoang vu, chúng tôi đốn cây, dựng láng, lợp mái để làm nhà ở. Nước thì ra suối gánh về. Làm việc nặng nhọc suốt ngày, mà mỗi bữa người ta chỉ phát cho một chén, không phải chén cơm đâu nhé. Trong chén chỉ có một nhúm nhỏ cơm, còn lại là khoai, sắn. Chén không đầy đâu, chỉ lưng hai phần chén thôi. Và một ngày chỉ có 2 chén như vậy, để cầm hơi! Chuyện ăn đã khổ, chuyện ỉa càng khổ hơn. Mà khổ nhất là mỗi khi có người bị tiêu chảy. Để dễ quản lý tù nhân, (Người ta gọi chúng tôi là tù nhân chính trị!), cầu tiêu đơn sơ được dựng ngay bên cạnh chỗ ngủ của cả trại, cho nên, buổi tối mà có người bị đau bụng đi re, thì cả láng phải ngửi mùi, nghe tiếng của “nỗi lòng”, và bệnh đó lây lan cũng rất nhanh nữa.

Bữa ăn thường chỉ có canh rau lõng bõng nước, mà rau khoai lang đó, cũng được tưới bằng phân người, giờ nghĩ lại thấy ghê quá!

Một năm chúng tôi được ăn thịt một lần, vào dịp Tết, cán bộ được phép mổ con heo hay con bò thì tuỳ năm đó nuôi con gì. Tôi được may mắn, có vợ tôi thăm nuôi, bà ấy đem cho tôi kim chỉ để vá áo quần rách, thuốc chống sốt rét, thuốc trị tiêu chảy, cá nục kho khô, muối mè, đậu phụng, mỡ heo rán... Có năm vợ tôi đi thăm dịp Tết, thêm mấy đòn bánh tét, bánh chưng của người bạn gởi cho.

 

Trong trại (tù cải tạo) có một anh chàng được mang biệt danh, “Thực Thất Thử”, hỏi ra mới biết vì anh chàng thèm ăn quá, đi làm lao động, bắt được 7 con chuột con, lấy lá nướng ăn, bị cán bộ bắt được, phạt cách ly!

Còn có ông An kia thì thèm thịt quá, ăn trộm đuôi heo khi đang lo phụ bếp nấu ăn bữa Tất niên, cũng bị “bêu danh” trước cả trại bởi vì cán bộ quả quyết, “Heo thì phải có đuôi, phạt một lần cho tởn!"

Ôi, có những năm tháng của cuộc đời sao tối tăm mù mịt, con người ta sống, không khác chi những con vật, lây lất, không ước mơ, không kỳ vọng, bởi vì trong đầu luôn luôn ám ảnh bởi “Cái Đói”, nó cồn cào suốt ngày, từ khi mở mắt cho tới khi được phép ngã lưng!

Trong một lần thăm nuôi, vợ tôi báo cho tôi biết, cha tôi đã qua đời. Tôi buồn khóc vật vã mấy ngày. Cha tôi chết, tôi không được về thọ tang! Tôi thật là một đứa con bất hiếu! Người bạn tù nằm cạnh tôi an ủi, “Tụi mình bị tù, dù là tù chính trị, dù chỉ vì tụi mình làm việc cho chính phủ miền Nam, thì làm sao được như người bình thường để về thọ tang cha! Không ai trách anh đâu!" Tôi loay hoay lấy cái áo cũ, cắt một phần cánh tay áo, thành từng miếng hình vuông, một đầu tôi cắt lua tua, rồi may lên phía sau lưng, và hai bên cánh tay áo giống như áo tang tôi đã từng mặc trong đám tang mẹ tôi, và ông bà nội của tôi nữa đó cô à.

Mấy năm đó, sao toàn nghe cả chuyện buồn! Nhà cửa bị lấy mất, vợ và 2 đứa con gái phải vào Huế sống nhờ với gia đinh em trai của tôi. Anh trai tôi ở Đà Nẵng mất đột ngột vì tai nạn xe, gia đình đứa con gái lớn đi vượt biển mất tích, đứa con trai kế đi lính cũng chết mất xác vào những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Một lần, tôi nói với vợ, “Bà đừng đợi tôi về, tìm cách gả chồng cho hai đứa con gái út kẻo tụi hắn lỡ thời, ở goá tội nghiệp.” Lúc đó tụi nó khoảng 20, 23 rồi.

-“Thế thời gian đó cô Lan có bao giờ đi thăm nuôi ông không?” Tôi lại hỏi.

“À, cô ấy có ghé thăm lúc tôi đang bị giam ở chợ Cồn. Tôi khuyên Lan nên quên tôi đi, tìm người để lập gia đình, chứ thời buổi như thế này, biết tôi có trở về được không? Sau đó thì tôi hoàn toàn bặt tin tức của Lan.”

“Thế năm nào thì ông được tha về?” Tôi càng tò mò muốn biết thêm về cuộc đời của ông Bảy.

Có một lần đi trong rừng lao động, chúng tôi đi thành hàng dọc, trời mưa, đường trơn, tôi sảy chân, rớt xuống cái hố sâu, tôi sợ quá la to, “Cứu tôi với, cứu tôi với!” Nhưng không ai nghe tôi cả. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, cứ niệm chú Quan Âm luôn miệng, “Nam mô đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm bạch y quan thế âm bồ tát."

Trời tối dần, tôi vừa lạnh, vừa đói, vừa sợ, thì tự nhiên nghe có tiếng người lao xao. Tôi cố ráng sức la to, “Tôi ở dưới này, cứu tôi với!” Một lát thì thấy mấy người cùng chạy tới, họ quăng dây xuống, kéo tôi lên. Ông Bình, cán bộ của trại nói, “Anh Bảy định trốn trại à?” Tôi trả lời ngay, “Dạ cán bộ, tôi già, đi đứng vụng về, nên rớt xuống hố, chứ trốn trại thì lấy chi mà sống?”

Về trại, mấy người bạn tù mới kể lại. Cả đoàn đi một lát thì ông Cường, là người thường nằm cạnh tôi, mới hỏi, “Anh Bảy đâu rồi? Có ai thấy anh Bảy không?” Ông Hùng là người đi sau lưng tôi lúc đi rừng nói, “Đi một đoạn, tôi vẫn còn thấy anh Bảy, nhưng lúc trời đổ mưa, tối thì không còn thấy nữa.” Vậy là họ báo cho cán bộ của trại biết, và quyết định đi trở lại con đường cũ để tìm tôi.

Tôi cám ơn họ rất nhiều.

Đến tháng 9 năm 1985, nhân dịp quốc khánh của nước Việt nam, tôi được tha về. Vợ chồng đứa con gái lên đón tôi về, người tôi chỉ còn da bọc xương. Tôi thường có râu quai nón, lâu ngày không cạo râu, giờ râu ria rậm rạp, tóc tai thưa thớt, chắc là ngó thảm não lắm. Dừng lại ở quán ăn nơi thị xã Tam Kỳ, con gái tôi cứ dặn lui dặn tới, “Ba ăn từ từ thôi, đừng ăn nhiều một lần mà đau chừ.” Tôi thèm ăn từ bắp su luộc cho tới chén nước mắm, chén cơm, chén cháo… Cái miệng thèm ăn, hơn 10 năm tôi không có một bữa ăn no, cô à!

Sau đó thì tôi ở nhà, để phụ vợ bán bánh kiếm tiền đi chợ. Hai đứa con gái đã có gia đình riêng. Rồi khoảng cuối năm 1987, một buổi tối nọ, có một vị khách bất ngờ xuất hiện ở nhà tôi. Ông ta là công an của bộ, từ Hà nôi vào, yêu cầu tôi viết lại toàn bộ hệ thống hành chánh, chức vụ, tên tuổi, bất kể ai mà tôi còn nhớ. Ông ấy hỏi, “Thế bây giờ, cho bác đi Mỹ, bác có muốn đi không?”

Trong bụng tôi, vừa mừng vừa lo. Mừng vì hy vọng được đi Mỹ, theo như tin tức từ đài BBC tôi vẫn nghe lén hằng đêm. Lo vì sợ bị đặt bẫy của công an!!!

Tôi trả lời nước đôi, “Dạ, tuỳ mấy ông thôi. Tôi già rồi, không dám nghĩ gì cả.”

Mấy tháng sau, tôi được gởi giấy mời qua công an thành phố Huế, làm thủ tục đi H.O.

Chỉ có 2 vợ chồng tôi đi, lúc đó tôi 65 tuổi. (1988)

Trước khi đi Mỹ, hai vợ chồng tôi vào Sài gòn sống gần 5 tháng, phần để kiểm tra sức khoẻ, phần để vợ tôi chữa răng, vì răng bà ấy hư nhiều, phải mổ để làm răng giả. Tôi tìm lại được thông tin của Lan. Và tôi quyết định đến thăm cô.

Lan ngỡ ngàng khi nhận ra tôi! Lan đã lập gia đình được 10 năm, có 2 con. Chồng Lan là cũng là người Hà nội, nhưng mới vào 1975, đi dạy ở trường đại học, nên cuộc sống cũng khá tươm tất. Trước khi chia tay, tôi dúi vào tay Lan số phone nhà của đứa con gái, dặn rằng, lúc nào cần liên lạc với tôi thì hãy gọi cho nó.

Hai vợ chồng tôi tới Mỹ, ngoài tiền trợ cấp, chúng tôi làm thêm chả giò, chả lụa để bán kiếm tiền giúp cho 2 đứa con gái còn kẹt lại ở Việt nam. Còn Lan, qua thư từ, email, tôi được biết hai vợ chồng không hạnh phúc, bởi vì "Lan lấy một người mà Lan không yêu! Và chồng Lan biết rõ điều đó.” (Lan viết cho tôi.)

Năm 1990 khi biết tin hai vợ chồng Lan chia tay. Tôi nói dối với vợ, để cho tôi về thăm quê một mình. Sau khi thăm con gái ở Đà nẵng, tôi đã vào Sài gòn thăm Lan. Tôi nói, “Lúc nào tôi cũng yêu Lan.” Chúng tôi cùng nhau đi chơi gần 2 tuần, tôi chỉ ra lại Đà Nẵng, để bay về Mỹ trước 2 ngày. Tôi đã có những giây phút thật là hạnh phúc bên Lan, cứ ngỡ như 15 năm về trước vậy. Nhưng mới về nhà được mấy ngày thì tôi nhận được email của Lan.

-“Suốt đời này, Lan chỉ yêu có một mình anh Bảy. Nhưng giờ đây, Lan chỉ muốn được sống môt mình, Lan luôn mang mặc cảm đã lấy cắp tình cảm của anh dành cho vợ. Nên Lan muốn sám hối. Chúc anh may mắn. Đừng tìm Lan nữa.”

10 năm sau khi qua Mỹ, (1998) chúng tôi bảo lãnh gia đình hai đứa con gái.

Tháng 5 năm 2005, vợ tôi mất. Bác sĩ bảo bà ấy không bị bệnh gì cả, bà ấy chỉ yếu dần rồi ra đi, trong vòng một tháng, được 72 tuổi. Cơ thể con người đâu đã già ở tuổi ấy được cô nhỉ? Tôi tuy không phải là bác sĩ, nhưng tôi biết bà ấy bị bệnh gì nè, cô có đoán ra được bà ấy bị bệnh gì không? Trầm cảm! Bà ấy buồn vì tôi yêu Lan. Điều tôi không hiểu là sao bà ấy không thông cảm cho tôi? Từ xưa tới giờ, tình cảm của tôi dành cho vợ vẫn y nguyên, không có gì thay đổi cả. Tình yêu giống như bầu khí quyển, chứ không phải là một cái bánh, mà nếu có ai chia xẻ thì mình sẽ bị mất phần!

Tôi đã yêu cả 2 người đàn bà, có ai hiểu cho nỗi khổ của tôi không? Tôi cũng đâu có muốn vậy, tình yêu nó tự đến đấy chứ! Biết làm sao được hả cô?

"Sau khi vợ mất, tôi tiếp tục sống một mình, không muốn làm phiền con cái, vì tính tôi thích độc lập, nhưng được 2 năm thì tôi bán nhà, chia cho hai đứa con gái một phần, rồi tôi dọn vào khu nhà dành cho người già, khỏi lo điện hư, nước hỏng, khỏi lo cắt cỏ, tưới cây, mà lại có bạn già ở chung quanh cũng vui. Thời gian đầu, tôi lái xe, sau này thì không. Hàng tuần, có chiếc xe buýt của khu nhà, chở mọi ngừơi đi chợ, đi chơi bowling, đi coi phim. Tôi tự nấu ăn, chứ nếu tôi ăn đồ Mỹ thì người ta cũng có phục vụ trong phòng ăn chung đó cô.” Ông kể tiếp.

Chợt nhớ lần tôi dẫn ông đi khám mắt, tôi hỏi, “Này, ông có nhớ lần tôi dẫn ông đi khám mổ mắt không? Lần đó ông làm tôi hơi ngượng với mấy cô nhân viên lắm đó.”

Ông cười, “Nhớ chứ, cám ơn cô.”

Chuyện thế này, sau khi ghi tên ở cửa sổ phòng ngoài, một cô y tá dẫn ông vào phòng trong. Cô ấy đo nhiệt độ, huyết áp, và hỏi những câu hỏi thông thường như: Có đau ở đâu không? Có uống thuốc gì?…

Xong xuôi, cô nói, “Bác sĩ Marian sẽ gặp ông trong giây lát, ông có cần hỏi tôi thêm điều gì không?”

Mỉm cười rất điệu đàng, ông đáp, “Cám ơn cô đã lo cho tôi. Tôi không có câu hỏi gì, nhưng tôi muốn nói với cô một điều, không dính líu chi tới bệnh trạng của tôi, có được không cô?”

Tôi đoán, cô y tá hơi bị ngạc nhiên vì nghe ông già người châu Á nói tiếng Anh khá rõ, và một câu hỏi hơi lạ thường, nhưng có lẽ nhìn khuôn mặt dễ mến, đẹp lão của ông, cô không thấy bực bội, mà trái lại thấy vui vui, nên dễ dãi cười thành tiếng, “Ồ, có gì đâu mà ông phải rào đón dữ vậy, ông cứ tự nhiên hỏi. Cái gì tôi biết thì tôi trả lời, cái gì không biết thì đành chịu thôi.”

Vẫn với nụ cười mỉm chi trên môi, ông chậm rãi nói, “Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi thấy ai có cặp mắt đẹp, tinh anh như đôi mắt của cô!”

Cô y tá cười sung sướng nói “Cám ơn” và bước ra khỏi phòng, vì cô phải lo cho bệnh nhân kế tiếp thì phải.

Tôi cười như nắc nẻ, “Nè, mắt ông bị bệnh, thì tôi có biết, nhưng tôi không ngờ là bệnh nặng dữ vậy đó!”

-“Ý cô là sao? Mắt tôi bị cataract thì cũng là bệnh thông thường của người già thôi mà?” Ông ngây thơ hỏi lại.

“Mắt của cô y tá đó bị bé, hai con nhìn hai hướng, vậy mà ông bảo là đẹp, tinh anh thì tôi chịu thua ông rồi đó! Ông xạo vừa vừa thôi! Xạo quá họ bảo mình đểu thì kỳ lắm!” Tôi vẫn còn ôm bụng cười.

-“Cô thiệt là! Đàn bà phụ nữ, có ai không thích được khen! Nghe một câu khen ngợi, dù có giả dối một chút, thì cũng dễ lọt tai hơn là một câu chê bai chứ! Cô tin tôi đi.” Ông trả lời.

Mấy phút sau thì cô bác sĩ Marian bước vào. Cô Mỹ trắng, còn trẻ, cỡ 35 tuổi, thanh mảnh dễ nhìn. Sau khi khám lui khám tới hai con mắt của ông, cô viết xuống tờ giấy chỉ dẫn để lấy hẹn ngày mổ, và những gì cần chuẩn bị. Trước khi kết thúc, như lệ thường, cô hỏi, “Ông về nghĩ ngơi cho khoẻ, y tá sẽ gọi lại cho ông 2 ngày trước khi mổ, ông có cần hỏi tôi điều gì không?”

Mỉm cười duyên ông nói, “Cám ơn bác sĩ đã khám cho tôi. Tôi không có gì thắc mắc cả, tôi chỉ muốn nói là trong đời tôi, chưa bao giờ tôi thấy ai có cặp mắt đẹp, tinh anh như đôi mắt của cô!”

Cô bác sĩ cười tươi, bắt tay ông, và nói cám ơn.

Trên đường về, tôi nói, “Cái văn phòng bác sĩ đó nhỏ chút à, cả bác sĩ lẫn nhân viên cỡ 6 người là cùng. Tôi dám cam đoan với ông, là trưa nay, khi họ tụ tập ăn trưa họ sẽ nhắc tới ông cho mà coi! Và họ sẽ nói là ông ba xạo! Ha ha ha. Ông khen 2 cô giống đúc nhau luôn, một cô bị lé, một cô không lé, tôi thua ông rồi đó!”

Ông có vẻ giận vì bị tôi “sửa lưng,” nhưng vẫn chống chế, “Đàn bà có ai không thích được nịnh đầm, được khen, cô sao khó tính quá!!!”

Chọc ông cho vui thôi, chứ tôi biết ông là người rất tao nhã, bặt thiệp. Tôi biết ông nhớ bà lắm, vì tôi có đọc được mảnh giấy nhỏ, ông viết để bên cạnh bức ảnh thờ của bà trong cái tủ nhỏ đầu giường, “Giờ này em đang ở đâu? Em có ok không?”

Tôi hỏi bâng quơ, “Ông nè, nếu ông được gặp bà lại, thì ông sẽ nói gì với bà?”

-"Những ngày cuối cùng, vợ tôi yếu nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt ICU bệnh viện, tôi ngồi một bên giường, cầm tay bà ấy, tôi đã khóc và hát bài hát mà cả hai chúng tôi yêu thích, “Nếu có điều gì vĩnh cữu được, thì em ơi, đó là tình yêu của chúng ta…” ("Mãi mãi bên em"- Từ công Phụng.)

Vợ tôi lúc đó không nói được vì bị đặt ống thở qua cổ, nhưng ánh mắt yếu ớt của bà vẫn như còn giận hờn, khiến lòng tôi tan nát…

"Thế còn cô Lan thì sao, ông hoàn toàn không liên lạc với cô ấy nữa à?” Tôi hỏi.

-"Tôn trọng ý nguyện của Lan, tôi không dám làm phiền cô ấy nữa. Tháng ba năm 2006 thì tôi nhận được tin cô ấy mất vì ung thư. Từ đó đến nay, tôi cũng không nghĩ đến chuyện yêu ai nữa, mà có ai điên gì đi yêu ông già như tôi hả cô?"

Tôi đùa, “Lúc đó ông chưa tới 83, chắc tại ông không muốn thôi, chứ biết đâu có người còn thích ông?"

Ông nhìn tôi có vẻ nghiêm nghị, "Cô đã nghe kể chuyện đời tôi, thế thì theo cô, tôi có phải là mẫu người đàn ông thích lăng nhăng không? Hay chỉ là người đa tình, nên bị khổ luỵ vì yêu? Tôi đã làm đau khổ, không chỉ một mà là hai người đàn bà, tôi yêu hết mực!”

Tôi nghe ông hát ê a: “Nếu trên đời này, có điều gì vĩnh cữu được, thì em ơi, đó là tình yêu của BA chúng ta…”

Tôi không biết nên cười hay giận ông già lém lĩnh này đây!


Minh Nguyệt Graves

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Feb/2019 lúc 10:34am

Bài Thơ Tình Dang Dở
3104%201%20BaiThoTinhDangDoLNTD


      Dãy núi, hàng dừa xanh, và bãi cát trắng phía tây ven biển như chạy ngược về sau, con tàu lầm lũi vươn mình lướt nhanh về phía trước, tạo thành những đợt sóng giạt ra hai bên sườn tàu, bọt trắng xoáy cuộn. Thấp thoáng cuối đường chân trời, những dọi núi, hải đảo đứng im lìm giữa trời mây nước. Đứng trên boong tàu, nhìn lá quốc kỳ tung bay phất phới trong nắng vàng gió lộng, tiếng rì rầm của máy tàu, tiếng sóng vỗ ì ầm, Vũ để hồn xuôi về dĩ vãng. Kể từ khi thôi học, gia nhập quân chủng hải quân, chàng đã được chứng kiến bao cảnh đời khác biệt, bao đổi thay thời cuộc. Bước chân Vũ đã trải qua những thành phố tráng lệ của nền văn minh hiện đại, hay những nơi hoang dã, cuối bãi đầu ghềnh.
      Năm ngoái, có dịp đi công tác vùng hai duyên hải, chàng đã được ngắm phong cảnh hoàn toàn khác biệt với miền Nam, quê hương sinh trưởng của chàng với những hàng dừa, ruộng lúa bạt ngàn như tấm thảm xanh, trải dài đến tận chân trời. Non nước miền Trung, phong cảnh hữu tình với những ngọn đèo cheo leo giữa trời- mây- nước, bên bãi biển cát trắng của Nha Trang, Cam Ranh, Đại Lãnh, Vũng Rô. Bao kỳ quan thiên nhiên làm ngẩn ngơ lòng mặc khách tao nhân.
      Trong chuyến công tác đó, chàng đã gặp được Yến Phi, người tình đã làm thay đổi ít nhiều cuộc sống tình cảm của chàng.
      Chiều hôm ấy... Sau chuyến tuần tiễu hai tuần quanh vùng Hòn Dung, Hòn Yến, Hòn Chà Là, chiến hạm chàng về nghĩ bến tại Cầu Đá. Trong lúc Vũ bận rộn duyệt xét lại công điện, bỗng có tiếng trung sĩ Minh:
- Hạm Phó, có giấy mời Hạm Trưởng đi party. Nhưng Hạm Trưởng đã về nghĩ phép ở Sài Gòn. Ông có muốn đi thế không?
- Ý kiến hay! Gì chứ party thì không thể bỏ qua. Vũ vui vẻ tán đồng.
Nói xong, chàng bước vội vào phòng truyền tin, dùng máy vô tuyến gọi Cự và Tú cùng đi.

 o0o  

3104%202%20BaiThoTinhDangDoLNTD



      Câu Lạc Bộ Hải Quân hôm hay nhộn nhịp. Nhìn quanh, Vũ thấy quan khách tham dự đa số là Sĩ Quan Hải Quân, ngoài ra còn có nhiều sĩ quan khác thuộc các binh chủng Bộ binh, Không quân. Cư giới thiệu Vũ với chú ruột của chàng, ông Hùng cựu Đại tá Quân y và ba người con gái của ông đang đứng bên cạnh là Xuân Mai, Yến Phi, và Thúy Quỳnh. Cả ba cô, cô nào nhan sắc cũng sắc sảo mặn mà. Xuân Mai tóc ngắn, gương mặt trái xoan, môi mọng đỏ, đôi chân dài, có vẻ đẹp gợi tình của cô gái tân thời. Thúy Quỳnh cô em út có khuôn mặt tròn, bầu bĩnh, hiền thục, đẹp ngây thơ và hồn nhiên. Yến Phi dáng người thon nhỏ, suối tóc huyền đen nhánh xõa bờ vai, đôi mắt buồn thăm thẳm, cánh mũi hơi cao, phảng phất nét tây phương. Khác hẳn với hai người chị và em mặc Jupe màu hồng và bleu marine, Yến Phi mặc chiếc áo dài trắng có hình nổi dệt lá trúc cùng màu trắng. Chiếc áo làm nàng thêm thùy mị, đoan trang. Cả ba cô đều đi giày cao gót màu đen, trông rất xinh đẹp và quyến rũ.
      Mọi người bước ra sàn nhảy. Cự khiêu vũ với Xuân Mai trong lúc Tú đưa tay mời Thúy Quỳnh. Đến trước mặt Yến Phi, Vũ lên tiếng:
- Hân hạnh được biết Yến Phi,
- Chào anh Vũ, em vẫn thường nghe anh Cự nói về anh.
- Tôi có thể mời Yến Phi nhảy bản nầy được không?
Yến Phi đứng lên và hai người cùng bước ra sàn nhảy. Nhạc slow lãng mạn, lả lơi,


Ngày ta gặp gỡ phút giây ban đầu
Tình sao êm ái, ngỡ như giấc mơ
Nhớ thương là thế dâng kín một trời
Đã thương người hỡi, nhưng sao ngại nói. (1)


Vũ dìu Yến Phi thật dịu dàng, điệu nghệ.
      Nhạc vừa dứt, Yến Phi định về chỗ ngồi, nhưng Vũ mời nàng thêm bản nữa. Vũ ôm Phi hơi sát trong tay chàng, lời nhạc tha thiết, chan chứa đam mê,


Đêm nay ai đưa em về
Đường khuya sao trời lấp lánh
...Người yêu ơi trong tình muộn
Người yêu ơi trong tình buồn
Trọn tình yêu ta đã cho nhau. (2).


-Yến Phi khiêu vũ rất đẹp, Vũ khen.
-Anh Cự, Anh Tú dạy em đấy. Cũng may nhờ anh khéo dìu nên em đã không đạp chân anh! Khiêu vũ không phải là sở trường của Phi. Em thích đi bộ hơn.
- Với anh, khiêu vũ là một môn thể thao đầy nghệ thuật. Vũ nói.
      Sau bản nhạc, Vũ và Phi trở lại bàn. Dưới ánh đèn mầu, Vũ thấy Phi đẹp tuyệt vời. Mải mê ngắm nàng chàng như quên hết mọi việc xung quanh dù lời ca và tiếng nhạc rất ồn ào. Phi ngỡ chàng mệt nên hỏi:
- Anh đang nghĩ gì đó? Mệt phải không?
- Vũ chợt tỉnh: Ồ không! Nhạc ồn ào quá, anh đau đầu chút thôi. Khói thuốc làm anh hơi ngộp.
- Anh có muốn ra ngoài cho thoáng tí không?
- Muốn lắm chứ. Anh cũng định hỏi Phi đi dạo với anh.
      Vũ và Yến Phi cùng đứng lên và bước ra ngoài. Hai người sánh bước, đi dạo một vòng quanh Câu Lạc Bộ. Vũ đưa Yến Phi đến bên chiếc ghế đá hơi xa con đường vào Câu Lạc Bộ. Gió biển vi vu trên mấy hàng cây thùy dương cổ thụ. Trăng cuối mùa lơ lửng, ướt lạnh hàng phi lao. Ngoài khơi, sóng biển lóng lánh như tráng bạc.
Vũ ái ngại,
-Em có thể ở lại ngoài nầy với anh thêm chút nữa được không?  
-Được chứ, Yến Phi vừa nói vừa mỉm cười.
      Yến Phi và Vũ cùng ngồi xuống và Phi tâm sự. Phi cho biết nàng hiện là sinh viên văn khoa Sài Gòn, đang nghỉ hè, đã hơn 20 tuổi, nhưng chưa có người yêu. Nàng cũng cho biết Tú bạn chàng cũng nhiều lần tỏ tình cùng nàng, nhưng nàng chỉ xem Tú như một người anh.
      Sương đêm xuống nhiều khiến hai người cùng cảm thấy lạnh, Phi ngồi xích lại gần chàng. Vũ thì thầm gọi tên Phi. Chàng cuối xuống hôn nhẹ lên mái tóc Yến Phi. Vòng tay chàng nồng ấm. Vọng lại từ Câu Lạc Bộ lời ca lả lơi mời gọi:


Đừng xa em đêm nay đêm rất dài...
...Hãy ôm em trong tay cho biết anh cần em
Và hãy nói anh vẫn yêu em
Hãy yêu em đêm nay cho quên hết đi ngày mai...
...Hãy ôm em trong tay cho em biết anh cần em. (3).
o0o


      Những ngày công tác ở Nha Trang thật là hạnh phúc đối với Vũ, những lần nghĩ bến, chàng đưa Phi đi thăm viếng thắng cảnh địa phương, những bãi biển cát trắng, núi xanh, điểm tô phong cảnh nên thơ, hữu tình. Viếng nhà thờ Nha Trang, Cảng Cầu Đá, Hải Học Viện,...Du ngoạn Cam Ranh, Đại Lãnh, Vũng Rô. Hai người cùng xem ciné ở rạp Tân Tân, Minh Châu, thưởng thức món mì vịt tiềm của người Tàu ở gần rạp ciné Tân Tiến.
      Chàng cũng đưa Yến Phi đi thăm các địa danh Lạc An, Ngọc Hội, Thành, được ăn xoài tượng, xoài thanh ca, thanh long, mít; đến Tư Bông, thưởng thức món lươn xào. Vào Ninh Hòa nếm món nem ngon nổi tiếng. Thăm trường Võ Tánh, Kim Yến. Trong lần du ngoạn tắm biển ở đảo Bích Đầm, Yến Phi bắt sò biển, nàng bị sò kẹp làm trầy tay chảy máu; Vũ đau xót cầm tay Yến Phi đưa lên miệng hút dòng máu đỏ như chàng vẫn thường làm với mấy đứa bạn ở quê khi chúng bị sướt tay. Yến Phi ngượng đỏ mặt để yên cho Vũ trị bệnh, cả hai cùng cảm thấy lòng rạt rào xao xuyến. Tình yêu giữa Vũ và Phi mỗi ngày thêm đậm đà chồng chất, trong khi tình bạn giữa chàng và Tú ngày càng xuống dốc. Cuối cùng, Tú làm đơn xin thuyên chuyển về Phú Quốc, xa lánh Nha Trang. Trong tiệc chia tay. Tú hát bài Cho Người Tình Lỡ, lời ca như cay đắng, dỗi hờn:


... Yêu rồi tình yêu sao chua cay
Men nào bằng men thương đau đây
Hỡi người bỏ ta trong mưa bay...
...Phương trời mình đi xa thêm xa
Nghe vạn mùa thu sau lưng ta (4).


Hơn bao giờ hết, Tú thắm thía câu:

“Tình bạn chỉ là một đức hạnh, tình yêu mới là một đam mê “(5).
o0o


      Ba tháng công tác Vùng Hai Duyên Hải rồi cũng trôi qua, Vũ đưa tàu về Sài Gòn và tiếp tục những ngày tháng lênh đênh trên biển cả.  Chàng đã nhận được thư của Yến Phi. Lời thư tha thiết thương yêu. Bận bịu với công vụ, Vũ hứa với Phi Yến sẽ lo việc hôn phối khi hoàn cảnh cho phép. Thời gian thấm thoát hơn hai năm lặng lẽ trôi qua.
      Trong lá thư cuối cùng, Yến Phi cho Vũ biết là nàng phải sang ngang không thể chờ đợi thêm. Nàng phải vâng lời cha kết hôn cùng vị bác sĩ ở Nha Thành, vì ông nầy đã dày công giúp đỡ gia đình nàng trong cơn khủng hoảng về tài chánh cũng như đã tận tình chăm sóc cho cha nàng trong khi ông mang trọng bịnh.   
      Một thời gian sau, Vũ kết hôn với người con gái cùng quê mà hai gia đình đã hứa sẽ kết tình thông gia khi hai trẻ lớn khôn. Vũ và Mai cũng thương nhau, nhưng tình cảm không sâu đậm như Vũ thường mơ mộng. Mai là y tá, hai người quí mến nhau, thường trao đổi những ý kiến về cuộc sống. Tình cảm vội vã trong những lần về phép đã mang lại kết quả là Mai thụ thai và sinh cho chàng bé Thy.
      Sau ngày Miền Nam bị mất vào tay cộng sản Bắc Việt, cũng như nhiều sĩ quan trong Quân Đội Cộng Hòa, Vũ bị đưa ra Bắc học tập cải tạo. Riêng Mai, nàng được gia đình bảo lãnh định cư tại thành phố Houston. Nàng trở lại Đại Học và tốt nghiệp University of Houston.
      Sau bảy năm lưu đày qua nhiều trại cải tạo, cuối cùng rồi Vũ cũng được tha và sang Hoa Kỳ đoàn tụ cùng gia đình năm 1997.
      Hơn một năm rưởi sau ngày đến Hoa Kỳ, Vũ chẳng bận rộn gì mấy, ngoài thời giờ lau chùi, quét dọn giúp Mai tại văn phòng của nàng. Thỉnh thoảng chàng cũng viết một vài bài thơ đăng báo, đưa cho vợ xem, nhưng Mai bảo chàng nhảm nhí, tốn thời giờ vô ích. Vũ cố gắng học tiếng Anh, nhưng đầu óc như rỗng tuếch, nói năng lạng quạng, chẳng người Mỹ nào hiểu được chàng khi đàm thoại cùng họ. Mấy người bạn giới thiệu Vũ đi học trường huấn nghệ, lấy được vài chứng chỉ sữa computer, sử dụng máy tiện. Nhưng khi Vũ đi tìm việc, chẳng ai muốn mướn khi nhìn thấy mái tóc bạc hoa râm của chàng, dù văn phòng thuê người có đăng hàng chữ Equal Opportunity trên đơn xin việc.
      Sống ở một nơi mà giá trị mỗi người được đánh giá bằng tiền bạc, thế lực, và chức vụ, Vũ như là một gánh nặng, làm xấu hổ Mai và bé Thy trong xã hội mà họ đang ở.  Sự xa cách giữa Vũ và vợ con, càng ngày càng thêm lớn rộng. Cuối cùng hai người quyết định chia tay. Mai cũng rộng lượng, tặng chàng số tiền khá lớn để tự túc mưu sinh. Như thanh thỏa món nợ ân tình.
      Ly dị vợ xong, Vũ dọn về sống cùng Tâm, người bạn tù, cả hai cùng hành nghề cắt cỏ. Tiền bạc cũng đủ sống qua ngày. Mấy đứa con của Tâm thấy chàng đơn độc tội nghiệp, chúng mua tặng chàng chiếc computer củ để chàng có thể vào Internet, đọc truyện, xem hình, đăng thơ hay “chatting” giải trí.
      Thành phố Houston thật sống động và đông người Việt. Vũ cảm thấy thán phục trước sự thành công của người đồng hương. Những con đường trong phố cũng mang tên Việt như Công Lý, Nguyễn Huệ, Tự Do...  Những ngôi chợ Việt Nam buôn bán sầm uất... Chùa Việt Nam, Linh Sơn,... Nhà thờ La Vang, Lộ Đức, sinh hoạt cuối tuần thật nhộn nhịp. Nhiều người Việt Houston tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc và thành công trên nhiều lãnh vực đặc biệt là thương trường và học vấn.... Vũ dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống, chàng cảm nhận Houston như là thành phố của riêng mình.


3104%203%20BaiThoTinhDangDoLNTD


      Cả gia đình Tâm đã đi xuống vùng Southwest, tham dự hội chợ do nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể tổ chức, gây quỷ xây trường học cho trẻ em Việt Nam tại địa phương. Hôm qua, trong phần sinh hoạt cộng đồng do đài phát thanh loan đi: Cuối tuần nầy, ngoài nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể, nhà thờ Lộ Đức cũng tổ chức hội chợ Tri Ân.  Ngày thứ bảy cuối tuần ở nhà một mình thật vắng lặng. Vũ thay đồ, lái xe đi về hướng nhà thờ Lộ Đức. Phong cảnh thật là nhộn nhịp, người ra kẻ vào, tấp nập từng đoàn xe nối đuôi nhau.  Cờ xí bay rập rờn trong nắng mai. Hai chiếc lều khổng lồ chứa đầy người tham dự. Những gian hàng hội chợ, trò chơi cùng gian hàng mua bán, và gian hàng thực phẩm với nhiều món ăn thuần túy dân tộc như chả giò, chả cuốn, bánh xèo, bún riêu... xôi, chè...Tiếng nhạc, tiếng người mua, kẻ bán chào hàng, tạo thành một hoạt cảnh sống động.  
      Trên sân khấu, ca sĩ Vũ Khanh đang đang trình diễn nhạc phẩm Phượng Hồng của Vũ Hoàng: Thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu.(6) Giọng ca ngọt ngào và đầm ấm. Phía sau, hậu trường sân khấu, chàng còn thấy có sự hiện diện của ca sĩ Hoàng Oanh, Khánh Ly, Lâm Nhật Tiến, Ninh Cát Loan Châu, Dạ Nhật Yến, Mạnh Quỳnh và Phi Nhung.
      Bước sang chiếc lều bên cạnh, chàng dừng lại trước gian hàng thả thơ. Gian hàng trang trí đơn sơ, nhưng tao nhã và nghệ thuật. Trên bục gỗ cao là khung gỗ, trên đó có tập giấy như tấm lịch treo nhà rất to, cao độ một thước, chiều ngang khoảng nửa thước. Sát hai bên khung gỗ là hai chậu hoa mai và tre kiểng. Hai cô gái xinh đẹp mặc áo dài trắng lật từng trang giấy cho hoạt náo viên có thể đọc được bài thơ trên tập giấy.


Em ngồi đó, đỏ môi sầu
Bao giờ em đến với bầu trời thơ
Em ngồi đó thuở bâng quơ
Nói rằng em vẩn thẫn thờ *........... anh. (7)


      Hoạt náo viên nhìn về hướng khán giả, vừa cất cao giọng nói trên máy vi âm:
-Nói rằng em vẫn thẫn thờ.*...... Chữ gì sau đó ? đợi anh? mong anh ? trông anh? hay chờ anh? Ai nói đúng sẽ được thưởng $20 và tập Bài Thơ Tình Dang Dở của nữ sĩ Yến Phi với chữ ký của tác giả. Nêu đoán sai, bạn chỉ mất $1.
Bên cạnh Vũ, cô gái có mái tóc nhuộm nâu đưa tay nói: “ mong anh.
Hoạt náo viên nói:
- Rất tiếc là cô đã đáp sai. Xin mời vị kế tiếp.
Vũ đưa tay, chàng nói: “Chờ anh”.  
Hoạt náo viên:
-Anh đáp đúng, xin mời tác giả bước ra ký tên và trao tặng tập thơ.
      Có bóng người thiếu phụ từ sau hậu trường bước ra. Vũ ngạc nhiên đến ngây người: Yến Phi của chàng đây rồi! Vẫn suối tóc huyền, khuôn mặt kiêu sa, vầng trán thông minh, và chiếc mũi xinh xinh phảng phất nét tây phương; vẫn cái dáng thon thon bước đi tha thướt đầy quyến rũ đó.
-Em đó ư, Yến Phi. Anh Vũ đây, bao năm bây giờ mới được gặp lại em.
Sau phút ngạc nhiên, người thiếu phụ lên tiếng :
-Anh Vũ, chúng ta về thôi, về nhà chúng ta sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Nàng xin lỗi khán giả và kiếu từ bước đi. Vũ lặng lẽ theo nàng.
      Yến Phi dừng xe lại trước ngôi nhà hai tầng cao và rộng trong khu Woodwind Lake. Nàng cho biết, sau ngày ''giải phóng'', nàng theo chồng sang định cư ở Houston. Chồng nàng, Huy được việc bác sĩ tại bệnh viện Memorial Hospital. Ba năm trước, Huy bị bệnh ung thư và từ trần. Yến Phi dùng hết thì giờ vào việc viết lách và làm việc thiện nguyện giúp đỡ đồng bào. Tập Thơ Tình Dang Dở nàng viết để kỷ niệm mối tình giữa nàng và Vũ.
Vũ đưa tay mở sách, chăm chú đọc mấy vần thơ cuối bài:


Bao giờ đục hóa ra trong,
Nước trôi một hướng ta về cùng em
Dệt bao giấc mộng êm đềm
Cùng trôi vào biển, cùng tìm tương lai. (8)


      Buổi chiều cuối thu nhạt nắng. Cây phong trước nhà đổi màu vàng ối, báo hiệu cuối mùa. Gió thu hiu hắt làm lã chã rơi mấy chiếc lá úa trên sân cỏ. Từ chiếc radio cuối phòng khách, vọng lại lời ca trầm ấm bài Mười Năm Tình Cũ  như thông cảm niềm tâm sự của hai người.


“Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ
Mây bay bao năm tưởng mình đã quên
...Nhưng em yêu ơi, một vùng ký ức
 Vẫn còn trong ta cả một trời yêu.” (9)
3104%204%20BaiThoTinhDangDoLNTD
Lê Ngọc Trùng Dương
________________________________________
1/ Nhạc. Quốc Vượng. 3/ Nhạc. Đức Huy. 4/ Nhạc. Thanh Bình. 9/ Nhạc. Trần Quảng Nam.
2/ Nhạc Nhật Ngân phổ thơ Nguyễn Ánh.
5/ Không nhớ tên tác giả.
6/ Nhạc Vũ Hoàng phổ thơ Đỗ Trung Quân.
7&8/ Thơ. Khúc Ngân Tiêu.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Mar/2019 lúc 5:41am

Anh đã chết bên cạnh tôi


Từ lâu, tôi có ý tưởng muốn viết về một người, một người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng hình ảnh còn ám ảnh trong tôi. Người đó tuy xa lạ với mọi người nhưng rất quen thuộc với các bạn ở các Phi đoàn Quan sát. Nhất là Quý vị ở Trường Phi hành. Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha trang.

 

Riêng Không đoàn 41, chẳng ai không biết đó là cố Thiếu tá Nguyễn tuấn Dị, người mà tôi hằng thương mến.

 

Vào năm 1965, tôi đã gặp và nói chuyện với anh vài lần ở Trung tâm Huấn luyện Không quân. Anh là Huấn luyện viên, sau đó anh du học Hoa kỳ.

 

Rồi năm 1967, tôi lại được gặp anh, lần gặp gỡ này thật lạ lùng. Sau khi tốt nghiệp Hoa tiêu Khu trục ở Hoa kỳ về, tôi cứ nghĩ anh là người hùng Khu trục AD 6. Nhưng ngờ đâu anh lại về Phi đoàn Quan sát với tôi, một Phi đoàn tiếng tăm, Huy chương nhiều, mà xui xẻo cũng không ít.

 

 

Lần gặp gỡ này, tuy không bỡ ngỡ gì, nhưng cảm tình giữa tôi và anh lại tràn đầy. Anh coi tôi như một thằng em, vui buồn đều có nhau. Đáp lại tôi coi anh như một người anh thật sự, tất cả tâm tư, thắc mắc đều nhờ anh chỉ bảo, nhất là về chuyên môn trong ngành. Về địa hạt này anh đúng là ông Thày của tôi, chính vì điểm anh thương tôi, nên anh đã chỉ hết cả những kinh nghiệm trong suốt những năm tháng bay bổng trên vùng trời miền Trung, núi rừng trùng điệp.

 

Một buổi tối, vào mùa mưa anh đến gõ cửa phòng tôi. Hồi đó chị và bé Hoàng chưa ra Đà nẵng, hãy còn ở Nha trang, anh tâm sự với tôi :

– Kỳ ơi, anh nhớ Chị và cháu quá, anh nằm ngủ không được, mò sang nói chuyện cho đỡ buồn. Kỳ này, anh nói thật đừng buồn nhé, mày với thằng H. hơi tốc kê đấy. Nhưng anh lại thương hai đứa mày nhất đó. Anh coi như em út trong nhà vậy.

 

Qua sự cởi mở đó, anh và tôi cùng ngồi trên giường tựa lưng vào tường. Sở dĩ có sự ngồi như vậy vì khu Cư xá Sĩ quan độc thân của chúng tôi tại Không đoàn 41 chẳng có bàn ghế gì cả. Một thằng vỏn vẹn một giường sắt và một tủ đựng quần áo.

 

– Kỳ này, số tao Trời bắt ở Phi đoàn Quan sát. Hồi ở Hoa kỳ về, tao cứ tưởng thoát nợ chứ ?

– Ờ, tại anh có duyên với Phi đoàn Quan sát mà, anh đừng đổ tội cho Trời mà khổ to đó.

 

Khi nghe tôi nói thế anh chỉ mỉm cười không nói. Lúc này mặt anh thật buồn, có lẽ một phần vì nhớ gia đình, một phần câu chuyện mà anh tâm sự với tôi.

 

Trời Đông lạnh, gió thổi ào ào, và thêm mưa rả rích trên mái tôn xi măng.

 

Tôi biết anh đang buồn nên không khơi chuyện gia đình anh và chuyển qua chuyện bay bổng…

 

Và chính đêm này anh đã kể lại cuộc đời bay bổng của anh cho tôi nghe :

Hồi năm 1961, ra trường anh cũng chỉ là Quan sát viên. Thời gian đầu anh dồn tất cả cho công việc khó khăn này, vì anh nghĩ, một cuộc hành quân, thắng hay bại phần lớn nhờ người Quan sát viên. Mặc dầu những bước đầu đầy bỡ ngỡ như tôi trước đây, rồi dần dần quen đi. Làm Quan sát viên phải phán đoán và nhận xét về vùng hành quân thật mau lẹ cần nhiều sáng kiến, mới mong thắng địch dễ dàng.

 

Anh kể tiếp :

– Mày biết không ? Chính lần bị thương đó, tình yêu của tao sao nó đẹp thế, nó tràn đầy thương mến, và cũng mang nhiều hy sinh. Nó bao la như biển. Lần bị thương này cũng nhiều nước mắt. Ngày đầu tiên chị đến thăm tao, tao khóc, khóc thật đấy. Khóc vì mừng được nhìn lại người tao yêu sau một năm xa cách. Khóc vì anh chưa cho chị hay, chị đã đến với anh một cách bất ngờ, nhưng đúng lúc. Chị đã an ủi anh lần này thật nhiều.

 

Tao thương Chị từ khi tao còn là Sinh viên Sĩ quan ở Quân trường. Hồi đó Chị mới 16 tuổi đẹp như mùa Xuân, tuổi của mộng mơ. Tao thường trốn đi phố và cùng rủ chị trốn học. Hai đứa ra ngồi bờ biển nghe sóng vỗ, nói chuyện tâm tình.

 

Rồi ngày anh bị thương, chị đã được tin qua một người bạn, tức tốc chị xin phép gia đình vào Sài Gòn thăm anh rồi ở luôn đấy săn sóc cho anh. Mặc dù lúc đó anh chị chưa đính hôn, tình yêu cao cả ở chỗ đó.

 

Nói tới đây anh nhìn đồng hồ :

– Chà 12 giờ rưỡi rồi. Thôi, mày ngủ đi, sáng mai còn đi biệt phái.

 

Anh đẩy cửa bước ra ngoài. Sau khi đóng cửa và tắt đèn, tôi nằm một mình trong bóng tối, nghĩ đến tình yêu của anh chị Dị, sao mà đẹp thế. Rồi chìm vào giấc ngủ.

 

Những ngày sống bình thản trôi qua. Chính những ngày này càng làm đậm thêm tình giữa anh và tôi.

 

Mỗi buổi sáng cũng như tối, những ngày mưa dầm, tôi và anh là những người chỉ thích cà phê đen, uống nhiều đến nỗi, anh em trong Phi đoàn thường trêu : – “Uống cà phê đã đến lúc ngấm ra ngoài da rồi đó !”

Anh có nước da ngăm đen, bánh mật, đúng nghĩa đen dòn, đen một cách duyên dáng, của những người phong sương, nắng cháy.

 

Anh em trong Phi đoàn cũng thường nói :

– Anh nào chưa biết mùi cà phê cô Dung ra sao cứ việc lại gần anh Dị là biết ngay. Khỏi cần xuống Câu lạc bộ. (Cô Dung là cô bán Câu lạc bộ cho Phi đoàn 110, đó cũng là nơi tôi và anh, giờ rãnh rỗi ngồi uống cà phê)

 

Sau những ngày nhung nhớ vợ con, anh đã cố gắng thuê một căn nhà nhỏ ở đường Lê đình Dương, cho chị và cháu ra ở cho vui.

 

Ngày vợ con anh ra, tôi không có nhà, buổi tối đi bay về, tôi thấy gia đình anh đã có mặt tại căn phòng chật hẹp của tôi rồi. Đúng là chiếm nhà bất hợp pháp, vì có vụ chiếm nhà này, tôi đành phải đi ngủ lang thang mấy phòng thằng bạn đã đi biệt phái.

 

Sau ít lần tiếp xúc, thường vào buổi tối cảm tình đã xâm chiếm trong tôi cũng như lần gặp lại anh Dị vậy – nhất là bé Hoàng.

 

Nói về chị Dị, tôi không biết phải diễn tả sao cho đúng sự thật khi tiếp xúc, chị là một người vui tính, chính sự vui vẻ này, mà cảm tình của tôi dành cho chị thật nhiều. Chị cũng coi tôi như em chị vậy. Chị đã kể cho tôi nghe những cực khổ cũng như những vui buồn trong thời gian anh chị thương nhau, lấy nhau, rồi bé Hoàng chào đời. Rồi anh đi du học và giờ đây lại theo anh ra vùng hỏa tuyến này, phải bỏ tất cả những công việc đang làm.

 

Tôi nghĩ chị thật là một người đàn bà can đảm, một người đàn bà theo đúng nghĩa Á đông.

 

Hôm anh chị dọn ra phố, thật vui. Đồ đạc vỏn vẹn vài xách tay, ít dụng cụ làm bếp và cái giường sắt của Tiếp Liệu cho.

 

Xe chuyên chở là cái xe Vespa cũ kỹ thời xa xưa của anh, và cái xe Mini Lam của tôi, cái Vespa mà tôi thường nói đùa :

– Xe anh mang vô Viện bảo tàng được rồi đó. Có lẽ được giá anh ạ.

 

Anh đã vênh mặt lên trả lời với tôi :

– Tao cưng nó sau bà xã, đụng đến nó là bỏ mạng sa trường nghe cưng. Từ nay cưng đừng có ngồi lên đằng sau xe của tao nhé !

 

Mặc dầu mỗi lần đạp máy, nổ kêu ầm ầm, nhưng mỗi lần đi đâu tôi đều được ưu tiên ngồi đằng sau anh. Còn xe tôi để lại Phi đoàn, vì anh chê xe tôi yếu quá, trông không hùng tráng tí nào. Tới đây tôi xin được tiết lộ bí mật rằng, mặc dầu cũ kỹ nhưng mỗi lần anh đi biệt phái hay công tác, chị ỡ nhà vẫn rửa và lau chùi bóng loáng.

 

Trở lại vụ dọn nhà của anh Dị và bé Hoàng. Thật thảm hại cho cái xe bé nhỏ. Đằng trước chỗ để chân là cái sắc, chị ngồi phía sau với một mớ xoong chảo, còn xe tôi chở bé Hoàng. Phía trước mặt cũng không được tha, chở một sắc tay chứa đồ lặt vặt. Hai anh em phải di chuyển hai lần mới “Hoàn thành công tác”.

 

Trưa hôm đó tôi ăn cơm với anh chị tại ngôi nhà mới này. Bữa cơm đạm bạc nhưng vui và thật ngon miệng, gồm cá kho và rau muống luộc.

 

Trong bữa ăn, chị xin lỗi vì chị mới ra chưa quen chợ, chú ăn đỡ vậy. Bữa nào rỗi, chị mua món Nai đồng quê làm cho hai anh em ăn.

 

Sở dĩ chị biết tôi thích món này vì anh Dị kể cho chị nghe, những ngày anh mới tới đây, tôi có đưa anh đi ăn món Quốc hồn, Quốc túy này ở Thanh Bình vài lần.

 

Ăn xong, tôi xin phép về phòng nghỉ, buổi chiều tôi có phi vụ, thả truyền đơn, hơn nữa nhà chật đồ đạc còn tùm lum, tôi có ở lại cũng chẳng có chỗ nào ngả lưng.

 

Từ ngày anh chị dọn ra phố, tôi ít có dịp gặp chị và cháu, nhưng ngày nào tôi và anh cũng gặp nhau và vẫn sinh hoạt với nhau đều đều. Lâu lâu có ngày nghỉ, tôi mới ra thăm chị và bé Hoàng ít phút cho đỡ buồn. Vì không khí gia đình làm tôi thấy ấm lại, trong những ngày xa nhà. Nhất là bé Hoàng thấy tôi là chạy ra đón liền.

 

Kỷ niệm êm đẹp làm tôi nhớ mãi trong kiếp bay bổng. Những lần anh và tôi cùng biệt phái tăng cường Huế. Chúng tôi ít đi ăn cơm ở quán. Chúng tôi thường mua bánh mì, nước ngọt và tré, vừa ăn, vừa kể chuyện hành quân, chờ giờ cất cánh, như trận đánh Chợ Gạo ,Thủ Thừa. Anh dạy tôi các mánh khóe đánh lừa địch, buộc địch phải lộ diện.

 

Trong cuộc hành quân ở Ashau một lần tôi hướng dẫn Khu trục bằng trái khói Pháo binh, anh đã chưởi tôi thậm tệ. Vì tôi lười một phần cũng vì tôi ngại xuống liệng trái khói. Anh nói :

– Mầy sợ Việt cộng nó bắn hả ? Lần sau ở nhà, tao đi một mình. Sao mầy không kêu tao xuống, mầy thả trái khói, nhờ Pháo binh làm chi ? Nguy hiểm cho mình và cả Khu trục nữa ?

 

Hạ cánh xong, khi còn ngồi trên tàu, anh giảng dạy thêm cho tôi biết về nguy hại của sự dùng Pháo binh. Vì Pháo binh không chính xác, nguy cho cả Phi cơ đang bay cùng quân bạn rất gần mục tiêu.

 

Phải công nhận trong nghề bay bổng, anh Dị là người rất hăng say. Không bao giờ anh từ chối một phi vụ nào ? Một lần đi tăng cường tại Huế, tôi cùng đi với anh, 5 giờ rưỡi chiều, chúng tôi cất cánh từ Huế về Đà Nẵng, khi về đến đèo Hải vân, chỉ còn 5 phút nữa là hạ cánh. Nhưng nhận được lệnh hành quân qua đài Panama, phải ra Đông hà hướng dẫn Phi tuần vì quân bạn đang bị địch tấn công. Mặc dù đây là Phi vụ từ chối được, vì L.19 phải về đáp trước 6 giờ rưỡi. Hơn nữa L.19 thiếu phi cụ để bay trong những đêm không trăng sao của những ngày cuối tháng.

 

Anh hỏi tôi :

– Kỳ, có thể đi được không mầy ?

– Tùy anh, tôi sao cũng được.

Mặc dù nói thế nhưng tôi cũng thấy hơi run trong bụng.

 

Khi hướng dẫn quân bạn chiếm mục tiêu trong bóng tối xong, tôi nhìn đồng hồ đã thấy 9 giờ đêm.

 

Trên đường về chúng tôi bay thật thấp để nhận địa thế và hướng đi. Anh lái, tôi làm công tác dò đường, chỉ hướng đi và báo cáo vị trí con tàu với đài Panama.

Phi trường Đà Nẵng (1960)

 

Khi hạ cánh ở phi trường Đà Nẵng, tôi thấy nhẹ người, đồng hồ chỉ đúng 10 giờ rưỡi. Có điều an ủi nhất trong phi vụ này là sự lo lắng của Thượng cấp cũng như anh em trong Phi đoàn. Sự đón tiếp nồng nhiệt của Trung tá Tư Lệnh Phó. Đại Úy Chỉ huy trưởng Phi đoàn và anh em ngay ngoài bến đậu phi cơ làm chúng tôi cảm thấy hãnh diện.

 

Đối với anh em trong Phi đoàn, anh luôn luôn bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho anh em Phi hành, chính vì cảm tình đó, toàn thể Sĩ quan đều đồng lòng bầu anh là Chiến sĩ CTCT đầu tiên của Phi đoàn.

 

Khi đã là Chiến sĩ CTCT, đáng lý anh sẽ ít bay bổng, để lo công việc cho anh em, nhưng anh luôn luôn đi bay và bay bất cứ phi vụ nào. Anh vừa bay vừa tranh đấu cho quyền lợi anh em trong Phi đoàn.

 

Đặc biệt từ khi là Chiến sĩ CTCT anh hay đi tăng cường các Biệt đội, để biết các khó khăn về tinh thần cũng như vật chất để giúp đỡ kịp thời

 

Từ khi tôi về Phi đoàn Quan sát, tôi nhận xét trong những người bạn hiền lành vui vẽ và dễ thương thì anh là người được anh em trong Phi đoàn quý mến nhất, cũng có những người rời bỏ Phi đoàn ra đi, cũng không quên được anh. Riêng cái chết của anh Dị làm tôi xúc động. Đến phút cuối cùng anh vẫn còn hy sinh để cứu mạng sống của tôi. Trước khi từ giã cõi đời anh còn nói với tôi :

– Kỳ ơi, tao bị trúng đạn rồi…

 

Rồi anh gục trên cần lái !

 

Anh đã bị tử thương trong phi vụ hành quân ở Điện Bàn – Hội An. Sau khi chúng tôi gây tổn thất nặng nề cho Cộng quân, anh đã bị trúng đạn phòng không trong lúc hướng dẫn quân bạn chiếm mục tiêu.

 

Anh mất đi, để lại cho anh em một sự tiếc thương vô vàn.

 

Phi đoàn 110 nói riêng. Không Quân nói chung, mất đi một Chiến hữu gan dạ, một người Chỉ huy tư cách và Can trường.

 


Đỗ Đức Kỳ
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Mar/2019 lúc 5:47am

Con tàu chỉ có một người

  Image%20result%20for%20Con%20tàu%20chỉ%20có%20một%20người

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung tù “cải tạo”. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi.. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cụm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đỡ đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.

 

Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.

 

Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.

 

Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra.. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.

 

"Anh yêu quý,

 

Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.

 

Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.

 

Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.

 

Vợ anh

 

Lê Thị Hồng"

 

Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.

 

Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.

 

Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v.... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.

 

Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.

 

Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

 

"Hồng em,

 

Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.

 

Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước..

 

Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.

 

Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.

 

Chồng em

 

Nguyễn Hữu"

 

Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.

 

Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"

 

Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. "

 

"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."

 

Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa."

 

Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."

 

Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."

 

Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.

 

Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.

 

Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày.. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.

 

Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

 

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.

 

Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.

 

Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".

 

Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.

 

Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.

 

Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng nghịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.

 

Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù đày, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện..

 

Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.


Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

 

 

Phan Xuân Sinh

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Mar/2019 lúc 5:49am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2019 lúc 8:11am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.314 seconds.