Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 90 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2017 lúc 3:55am

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 30/Apr/2017 lúc 3:17am
CHIÊU NIỆM THÁNG TƯ

Image%20result%20for%20vuot%20bien

Tháng Tư có kẻ ra biển đứng
Tháng Tư có kẻ ra biển đứng
Lớn tiếng kêu than vọng đất trời
Nên gió gào thét sóng gào thét
Hải âu cánh dạt mịt mù khơi


Image%20result%20for%20Tháng%20Tư%20buồn

Tháng Tư có kẻ bầy hương án
Nến thắp đôi hàng chiêu niệm ai
Ta nghe thảm thiết lời kinh khổ
Nhang khói gọi hồn sông núi ơi

Image%20result%20for%20tuong%20nguyen%20khoa%20nam%20tuan%20tiet

Tháng Tư nghe tiếng hờn ai oán
Anh hùng hào kiệt thác oan khiên
Chương sử trăm hồi chưa chép hết
Còn động trời NAM tiếng sấm rền

Related%20image

Tháng Tư nắng đỏ thấm sắc máu
Hỏi người còn nhớ cuôc binh đao?
Bạn ta chết dữ không bia mộ
Phách tán hồn xiêu ở chốn nào?

Image%20result%20for%20vuot%20bien

Tháng Tư hảo hán cũng rơi lệ
Nước mắt đã đấy một biển đông
Tràn lấp càn khôn mờ nhật nguyêt
Thành lời thống hối tạ non sông


Image%20result%20for%20lonely%20man

Tháng Tư kể chuyện người biệt xứ
Mấy chục năm xa lạc dấu quê
Tuyết sương từ độ phơi tóc trắng
Chẳng biết có không một nẻo về

Image%20result%20for%20Tháng%20Tư%20buồn

Chúng ta ơi những đời vong quốc
Gặp nhau lại thấy Tháng Tư buồn
Kinh Kha sao chẳng qua sông Dịch
Sao cứ đứng ngồi nhớ cố hương?

BĐQ Nguyễn Văn Chúc


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 30/Apr/2017 lúc 3:28am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 13/Jul/2017 lúc 4:49pm

Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7 (Đào Nam Hòa.)

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.

Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!

Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.

Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn. Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm
sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.

Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mì…

Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!
Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp. Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.

Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.) Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic!
Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông! Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.
Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.
Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.
Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.
Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.
10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc. Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:
-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
- Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi. Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận. Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975! Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa
con còn ở lại.
Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế…Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nguệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:
Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng
tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ. Cuối đời của một sĩ quan,
từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:
- Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!
Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.
Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!
Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!

Đào Nam Hòa
Related%20image


Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 13/Jul/2017 lúc 4:52pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 17/Mar/2018 lúc 12:32pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2018 lúc 1:29pm

NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ VÀ NHỮNG VẾT THƯƠNG KHÔNG BAO GIỜ LÀNH

Bài chuyển từ NSS
____________
NGUYỄN DUY AN
Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.(Xem : Graduation)
Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
- Duy à… Có chuyện rồi!  Ðại Úy Morrow cần gặp riêng Duy.
Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài.
Tôi vừa bắt tay Đại Úy Morrow vừa hỏi:
- Mời Đại Úy ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
- Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 người ‘homeless’ cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng được. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những nguời này có vẻ không đàng hoàng… nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.

- Ồ… Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm, không sao đâu, để tôi xuống gặp họ.
- Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ ‘ngầu’ lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và ‘càm ràm’ với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần… Anh tính sao?
- Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào ‘cafeteria’ uống ly nước, chắc không sao chứ?
- Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở ‘cafeteria’. Anh không ngại chứ?
- Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với Đại Úy Morrow xuống nhà gặp ‘khách’, tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.
Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường xá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thường đi làm bằng xe ‘Metro’. Một buổi sáng thứ sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con trước ngày tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang ‘rên rỉ’ bài Hạ Trắng:
Gọi nắng… trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say
Lối em đi về… trời không có mây
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy…
Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ ‘homeless’ đang ‘ngất ngưỡng’ thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh… Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
- Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?
- Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
- Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhung khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.
- Ông…
- Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao?
- Tôi không quen gọi người lạ như thế. Hay gọi nhau là ‘anh tôi’ được không?
- Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?
Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.
- Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.
- Mày không sợ hả?
- Sợ gì?
-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.
- Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
- Ði đi. Hẹn gặp lại.
Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành ‘bạn’ từ dạo đó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.
Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở ‘hạch hỏi’. Ðã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial).
Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.
Vừa gặp mặt, Norman xiết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng:
- Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám ‘cớm dổm’ ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
- Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là nguời Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân ‘homeless’ của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
- Mời các bạn xuống ‘cafeteria’ uống nước và nói chuyện.
- Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
- Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
- Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt ‘một ông già Bắc kỳ’ thứ thiệt.
Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những người đang có mặt trong ‘cafeteria’ sáng hôm đó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:
- Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có ‘preview’ cuộn phim ‘Inside the Vietnam War’ trước khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không?
- Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
- Ðài của tụi mày chỉ có trên ‘Cable’ và ‘Direct-TV’. Dân ‘homeless’ tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé ‘preview’ mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Ðược không?
- Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
- Lần này khác… vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người ‘bạn’ cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang ‘Explorer Hall’ cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội trường chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé ‘preview’, tôi đã liên lạc nhờ mấy nguời trong nhóm ‘Audio & Video’ của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội trường, tránh xa những vị ‘tai to mặt lớn’ trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.
Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng xiết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi nguời.
Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội trường. Ba nguời bạn của tôi vẫn ‘án binh bất động’ dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc… trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị ‘dân Mỹ’ và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài nguời chung quanh cùng khóc theo!
Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người chung quanh rồi vội vàng ‘kéo’ ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót ‘khật khưỡng’ bước theo tôi như ba cái xác không hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu ‘Inside the VietNam War’ nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh ‘homeless’ đã cùng tôi đi xem ‘preview’ hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.
Có lẽ đã tới lúc nguời Mỹ nhận thức được ‘món nợ phải trả’ cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
Nguyễn Duy An
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Mar/2018 lúc 2:41pm
Em Tôi    <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Mar/2018 lúc 2:47pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 24/Mar/2018 lúc 4:48pm
Đốt  Nén Hương Lòng   <<<<<<
Nam Thảo




Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 24/Mar/2018 lúc 4:51pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 26/Mar/2018 lúc 7:12am

Hẻm Cụt 


Tôi nghe phong thanh “… Trước năm một nghìn chín bảy mươi lăm. Ba Nhảy là lính, không biết đi lính chi, đóng quân ở Định Tường. Trong một lần đụng trận bị thương cưa bỏ một cái chân bên trái”. Anh ta chống nạng đi bán vé số mỗi ngày, tính tình vui vẻ, hòa nhã… Mỗi lần gặp hay chào tôi – đại ca!

Tôi về Sai Gòn sống trong cái một hẻm cụt nơi vùng ngoại ô quận T.. nầy chưa được nửa năm. Nơi đây là quê vợ, bên nhà vợ tôi nghèo miếng vườn bên nhà vợ đang ở hơi rộng rộng, trong vườn trồng toàn chuối sứ cây nào cây nấy cao nghệu… Trước sân có trồng cây mận, cây ổi, các cây đều cho trái. Một cái nhà thấp lè tè vừa kê đủ: một cái giường tre nhỏ, một cái di-văng nhỏ, không bàn ghế, bên hông có một cái chái bếp nhỏ đi vô đi ra đụng đầu. Phía sau vườn cũng có một cái nhà nhỏ đủ kê một cái giường lớn và một cái tủ nhỏ đựng quần áo. Hai vợ chồng tôi ở “thoải mái” trong cái ổ tò vò đó! Hai cái nhà làm bằng cây cừ tràm, cây tre tầm vông, vách che bằng lá dừa nước, lợp tôn cũ, nền tráng ciment. Người xưa nói “Thà ở xó chuồng heo còn hơn theo quê vợ”. Tôi không biết sự sĩ diện của mấy đấng đàn ông thuở trước cao đến đâu? Họ có mối hận tình hay “Trọng nam khinh nữ”… để rồi phán một câu có vẻ hằn học miệt thị như vậy! Đối với tôi cái quan niệm đó đã quá lỗi thời, ở bên nội hay bên ngoại cũng được, miễn là thuận tiện cho công việc làm ăn, ở bên nào cũng phải làm việc cật lực cho có lợi tức… Không lợi dụng tình cảm, tiền bạc của hai bên cha mẹ để mà dựa dẫm, ăn bám thì có chi đâu mà ngại? “Đời cua cua máy. đời cáy cáy đào”! Không ai nuôi ai đến suốt đời bao giờ, sĩ diện mần chi cho thêm hao tổn tinh thần?


Tôi biết nghề mộc tay nghề thuộc hạng xoàng xoàng: đóng tủ bàn ghế, làm nhà… Sau ngày “thống nhất” mọi người dân thi đua phá rừng làm rẫy, lấy gỗ, lấy củi, đốt than… đem ra chợ bán để sống qua ngày đoạn tháng chờ tiến lên xã hội mới sung sướng. Than gỗ còn dùng để thay thế xăng dầu cho các loại xe hơi… do “ciment” khan hiếm – từ thôn quê cho đến thành phố đều làm nhà, làm sàn gác toàn bằng gỗ. Mấy năm đầu “bao cấp” mua gỗ từ “Cửa Hàng Quốc Doanh” cũng không phải dễ dàng, làm đơn chờ dài cổ mới mua được, mua xong trước khi chở về nhà còn phải lấy bùn, lọ nồi… bôi lên thân cây gỗ cho cũ xì lỡ khi có gặp đội “Quản lý kinh tế thị trường” kiểm tra, thì nói – mua cây gỗ cũ về sửa nhà. Sau thời bao cấp ở thành phố Sài Gòn đi bất cứ con đường nào cũng thấy vựa cây ván, vựa than củi…, vựa cây cừ, tre tầm vông, thang tre, tấm cót tre, giấy dầu lợp nhà, lá dừa nước… tha hồ mà mua chẳng có ai thèm xét hỏi. Chợ buôn bán cây gỗ ván các loại lớn nhất Sài Gòn ở phía sau Bưu Điện Chợ Lớn, chợ nằm chình ình giữa các con đường – “Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Thi, Mạc Cửu, Trần Văn Kiểu…” Lan ra cả các khu chung quanh. Máy cưa, máy bào, máy cắt xẻ gỗ, phục vụ cho ngành mộc chạy ầm ầm suốt ngày, xe ba gác máy, xe ba gác đạp, xe xích lô đạp, xe xích lô máy, xe lam, ghe xuồng… sẵn sàng đưa hàng đến tận địa chỉ của người mua ở bất cứ nơi đâu trong thành phố… Suốt con đường Trịnh Hoài Đức từ bưu điện Chợ lớn cho đến cầu Ba Cẳng, hai bên – chuyên buôn bán các mặt hàng phục vụ cho ngành mộc đủ các loại…

Đường đi vô nhà bà mẹ vợ tôi ở là con hẻm nhỏ dọc theo phía sau lưng trường tiểu học Phú Hưng, qua hai cái cua gấp thông ra chợ Xóm Than. Nhà mẹ vợ tôi ở ngay đầu cái cua thứ nhất, bên hông nhà có cái lạch nhỏ ăn thông ra kênh lớn nước thủy triệu vô ra hằng ngày. Sau ngày “giải phóng” người ta xây nhà bít kín đầu hẻm phía chợ Xóm Than, lần hồi người ta cũng lấp luôn cái con lạch để cất nhà chồng lên… trời mưa nước không có lối thoát, ngập cả xóm!
Nghe bà mẹ vợ “thổ địa” của tôi kể:
– “Vùng nầy trước kia là đất ruộng. Năm 1966, ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho xây hàng loạt các dãy nhà lô liên kế, diện tích mỗi căn nhà: rộng bốn thước, dài mười hai thước, tường xây bằng gạch lốc, mái lợp tôn Fibro. (Ciment) Chủ yếu để bán rẻ cho: nhân viên công chức, dân chúng, khu gia binh, thương phế binh ở”.
Căn nhà cuối cùng chắn cái hẻm cụt là căn nhà lá của người thương phế binh “ngụy” – Ba Nhảy. Bên trong hẻm cụt còn có cái ao rau muống khá rộng, quanh bờ ao có trồng nhiều cây dừa cho trái sum suê, nước cống của mấy nhà trong hẻm chảy ra cái ao rau muống đó, lâu ngày nước trong ao đen thui như xì dầu. Đám rau muống chết toi! Ao nầy là của nhà bà: Hai Cổ Cò. Đêm tối, nhất là những đêm trời mưa dầm…, nằm nghe giàn đồng ca: ếch, nhái…”hòa tấu” mà buồn thúi ruột!

Bà mẹ vợ của tôi đã già, hằng ngày bà bắt ghế ngồi trước hiên nhà ngắm mây bay, gió thổi… bà để cái tủ thuốc lá nho nhỏ bán cho mấy người hút thuốc lá lẻ, thỉnh thoảng có vài người lạ không biết cái hẻm đã cụt nên chạy xe vô trỏng. Từ đó bà già vợ tôi tự nhiên có nhiệm vụ “thông báo” cho những người lạ:
– “Hẻm nầy là hẻm cụt bà con ơi”…!

Mấy bác tài: xe ba gác, xích lô, người đi bộ, thấy bà già nhiệt tình nên mua vài năm ba điếu thuốc coi như là trả ơn cho tấm lòng thật thà, nhân hậu! Đồng thời nói bâng quơ một vài câu bóng gió pha chút giận hờn, bất mãn, nhưng cam phận:

– “Thời buổi nầy ai có tiền, có quyền, có thế lực, muốn bít…, muốn chặn…, muốn chiếm chỗ nào mà chẳng được, ai đâu dám nói, dám kiện… Kiện hay nói ra cũng chẳng đi đến đâu không khéo lại rước họa vào thân”!

Tôi tuy mới về ở bên nhà vợ đi mần chưa được nửa năm nhưng đã “nổi tiếng” thật thà, ít nói. Đặc biệt là đóng bàn tủ ghế hay sửa chữa… tôi lấy giá phải chăng, còn sửa mấy cái lặt vặt tôi không bao giờ tính tiền. Cây gỗ cũ các loại tôi trữ lại để dành, tôi sẵn lòng cho bà con mượn che rạp mỗi khi có chuyện “Quan, Hôn, Tang, Tế”. Sở dĩ tôi ít nói và ít giao tiếp bởi tấm thân của tôi mang một cái… “lý lịch ngụy quân – ngụy quyền”. Đã từng được may mắn đi “cải tạo” nhiều năm! Chuyện chỉ có… “đơn giản” như vậy thôi mà!… Ngoài vợ tôi ra, ở trong cái hẻm nầy mọi người không ai biết tôi là thằng cha căng, chú kiết từ nơi nào tới? Vấn đề: tạm trú, tạm vắng… bà mẹ vợ của tôi lo liệu hết, bà mẹ vợ tôi có một người anh ruột đi mần “kách mệnh” tập kết ra Bắc hồi… 1954. Ngày “… vinh quang muôn năm” áo gấm vô Nam, ông dẫn theo một cô vợ người Bắc trẻ măng nhỏ hơn ông chừng… hai mươi mấy tuổi, với ba đứa con nhỏ. Qua năm sau ông nghỉ hưu nhưng gia đình còn hưởng nhiều “bổng lộc”, ánh hào quang “cách mạng” vẫn còn miệt mài lan tỏa rộng khắp trong giòng tộc bên vợ. Nghe nói vậy chứ tôi chưa hề gặp mặt ông cậu vợ bao giờ… Tôi cũng nghe bà mẹ vợ kể: thời chống Pháp bà cũng có bưng… mấy thúng lựu đạn cung cấp cho “kách mệnh” ở tận trong đồng chó ngáp…? Tôi nghĩ… “lựu đạn, chứ có phải khoai lang đâu mà bưng đến mấy thúng…”?

Tôi sống bên nhà vợ lúc đầu lạ nước lạ cái, cũng may tôi gặp ông già Năm! Ông là bạn thân của cha vợ tôi, cũng đồng là bạn thân của bà mẹ vợ của tôi nữa. Ông cha vợ của tôi “khắc khẩu” với bà mẹ vợ của tôi nên bỏ về “chợ Đào – gạo Nàng Thơm” cất cái nhà lá giống cái y chang cái chòi giữ vịt, sống mình ên trên miếng đất nho nhỏ của gia tộc để lại, ông sống dzậy đã lâu năm lắm rồi! Thỉnh thoảng hai ông bà có gặp nhau nhưng coi bộ hai người còn… “bẽn lẽn” lắm! Khắc khẩu chuyện chi không biết? Vậy mà hai ông bà sinh một hơi những chín đứa con, ngỏm củ tỏi lúc còn nhỏ hết sáu đứa, còn sống ba đứa: hai gái, một út trai. Ông già Năm quê ở Phước Lộc, Nhà Bè, do không muốn làm “cách mạng” bỏ ruộng lên thành phố ông mua được một căn trong dãy nhà lô làm chỗ sinh sống và nuôi các con ăn học. Ông làm nghề thợ mộc kể cả đóng xuồng. Uy tín của ông ở vùng Xóm Đầm nầy rất lớn. (không phải xóm chuyên nhảy đầm, mà là xóm đầm lầy) Ông thấy tôi hiền lành lại cũng biết nghề mộc như ông, ông mến lắm! Ông nói: “Nếu tôi bằng lòng, ông sẽ nhận tôi làm con nuôi ngang hông của ông”. Tôi bằng lòng, vậy là ông đi kiếm việc, nhận việc… rồi hai tía con: một già, một trẻ cõng đồ nghề cùng nhau đi mần, mần chỗ nào ông cũng khoe… “Tui có thằng con “lãng tử hồi đầu”! Tay nghề mộc của nó còn giỏi hơn tui nữa đó”. Tôi không biết nhiều về hoàn cảnh của những người sống trong con hẻm cụt nầy; cho dù có biết chút ít thì cũng để bụng, chứ bà xã của tôi không cho tôi giao tiếp thân mật với họ! Chắc bả lo cho cái “lý lịch ngụy đen thui, đen thủi” của tôi. Nghĩ cũng đúng, vì ở thời buổi “kách mạng” lên ngôi ai biết ai, ai tin ai… Ăn nói hớ hênh là dễ vô tù cải tạo như bỡn!

Nơi đầu hẻm cụt là ngã ba, buổi sáng sớm ở nơi đây trở thành cái chợ nhỏ, bán thức ăn, đồ uống do mấy bà, mấy cô ở trong hẻm cụt đem ra bán. Vợ của người thương phế binh “ngụy” sáng sớm cũng ì ạch cùng đứa con gái đẩy cái xe ra đầu hẻm, bày bàn ghế nhưa bán cà phê, thuốc lá…Xe lam, xe ba gác, xe xích lô, xe hon da, xe hon da ôm, xe đạp… đậu dài dài, ăn uống xong là tỏa đi khắp các nẻo đường quê hương kiếm cơm. Nào là gánh bún của chị Sáu Giò; gánh hủ tiếu của chị Tư Tỏi; trẹt bánh tét, bánh ú của bà Hai Méo; thúng xôi vò của cô Bảy Lủng; sàng hột mít luộc, hột sầu riêng luộc của bà Bảy Còng, nồi cơm tấm của cô em Cà Cuống. Xa xa chút nữa có hàng phở ngoài hàng hiên của chị Hai Phượng, giá rất ư là bình dân! Còn thêm gánh đồ xẻ của chị Năm La, đồ xẻ là các loại trái cây xẻ nhỏ ra cho vô bịch “nylon”. Mấy năm trước còn có mâm khoai lang luộc, sắn luộc, của bà mẹ vợ tôi bày bán.


Buổi sáng ngồi ăn uống nơi cái chợ nho nhỏ nầy được nghe tin tức nóng hổi miễn phí – đủ thứ chuyện trên trời dưới đất… Ngay bên hông nhà lão Tương trên cây cột đèn điện ốm nhom đã oằn lưng cõng một mớ dây nhợ chằng chịt đủ các loại, vẫn chưa tởn, lại còn đành hanh chất lên thêm ba cái loa phường “to đùng”! Sáng sáng… chiều chiều… ra rả tra tấn hai cái lỗ tai đến phát ớn! “Thống nhất” lâu rồi mà còn léo nhéo… “con gái Sài gòn đi tải đạn – con gái Sài gòn đi vót chông …” . Cái chợ nhỏ nầy lúc nào ồn ào…, ồn ào quá đổi, trường học phải trám hết các cửa sổ… Công an khu vực đôi ba lần đe dọa đòi đẹp nhưng đâu rồi cũng hoàn đấy.

Mùa mưa, mưa to… con hẻm cụt nầy nước ngập quá gối, mấy bà mấy cô xăn quần sát tới tận bẹn lội bì bõm từng bước… sợ lọt xuống hố ga, thoải mái “vô tư” khoe cặp đùi trắng hếu…! Mấy ông có máu…dê tha hồ “rửa mắt” khỏi phải tốn tiền “bo”. Trước hiên, nhà nào cũng xây một con lươn chắn nước cao hay thấp tùy theo chỗ nền hẻm nông sâu. Nhà nào cũng chuẩn bị “gàu” tát nước mưa, trông quang cảnh tát nước giống y chang những ngày đi đào mương thủy lợi… Đám con nít “hồ hởi” nhào ra tắm mưa, đùa giỡn vui chơi thật là sung sướng, bọn trẻ kiếm ở đâu ra mấy cái ruột xe nhỏ, rồi nằm lên bơi từ đầu hẻm cho tới cuối hẻm. Một đám trẻ loi nhoi, lóc nhóc lội bì bõm chạy theo sau hò reo…té ngã la inh ỏi… tạo thành sóng lớn ùa nước vô nhà, cha mẹ chúng nó la ơi ới…! Nước ngập kéo theo nước cống thơm lừng…trời ngưng mưa, khoảng một hai giờ sau nước rút đi. Quang cảnh khi nước rút đi rồi trông thật tiêu điều… Để lại nào là: rác rến, bịch nylon, vỏ dừa khô, bông băng vệ sinh, xác chuột chết sình chương thấy mà phát khiếp. Đồ dùng trong nhà đều nhảy tót lên giường, lên bàn ngồi rung đùi… mùi nước cống còn phảng phất hương hoa phải lo lau rửa… tốn thêm tiền nước máy. Trong hẻm cụt bao năm nay mua điện, mua nước máy của nhà lão Tương bán, lão kinh doanh bán nước. Nhưng có ai đó nói rằng lão “bán nước” là lão ta gào lên…
– “Vợ chồng tui “đổi nước” lấy tiền…! Chớ tui không bao giờ bán nước…! Các người hiểu chưa…? Kẻ nào nói vợ chồng tui “bán nước” là…là… tui… kêu lính bắt bỏ tù mọt gông! Bỏ tù rục xương! Bỏ tù không có ngày về…”!
Mọi người xầm xì:
– “Vợ chồng lão Tương bán nước rõ như ban ngày…, vậy mà còn chửi người ta, còn hăm dọa kêu lính bắt người ta…? Thứ hàm hồ…, ông bà xưa nói “Một thằng nói ngang… ba làng cãi cũng không lại”. Quả thiệt là đúng mà! Không sai chút nào….? “Đổi nước”… với bán nước, tựu trung cũng là lấy tiền, chỉ khác nhau cách nói để che giấu hành động mà thôi. Chỉ có dzậy mà cũng chửi… người ta cho được.”!

Mùa nắng, nước ngập theo kiểu mùa nắng. Nhà nước gọi là “cường triều, triều cường”. Thủy triều âm thầm lên, âm thầm rút, chơi theo kiểu: đánh “du kích” hay nói một cách bay bướm hơn là “em chợt đến, rồi em… chợt đi”. Đôi khi nước thủy triều cũng nằm ăn vạ vài bữa mới chịu rút. Nước thủy triều dâng lên cũng mang theo “hành trang” đủ mọi thứ hằm bà lằn chẳng khác chi nước trời mưa ngập. Người trong hẻm cụt tái diễn lại cảnh “tát nước đêm trăng”! Chợ nhỏ ở ngoài đầu hẻm nền đất hơi cao, bà con ngồi chò hỏ trên ghế uống cà phê, ăn hủ tiếu… “vô tư” bởi quá quen với lũ.


***
Đầu hẻm cụt là “quán rượu tử thần” của vợ chồng nhà lão Tương, vợ chồng lão chuyên bán: Rượu thuốc, rượu sắn, rượu rắn, rượu bắp, rượu pha cồn tạp nhạp, và bia lên men “hòa bình – bia 36 – bia con cọp Gò Vấp, rượu nhẹ có ga Chương Dương. Mồi nhậu có các loại thịt khô, cá khô…, ngoài ra, khoảng đầu giờ chiều có gánh bún thập cẩm của chị Sáu Sún. Trong nồi nước lèo của chị có đủ mặt bá quan văn võ thủy lục, như: Đầu cổ gà, đầu cổ vịt, chân gà, chân vịt, lòng gà, lòng vịt, giò heo, xươn heo, huyết heo… Nghe chị nói dưới đáy… nồi có: ngêu sò ốc hến “chem chép” nữa…! Không biết từ thời gian nào mà một số con “ngọc hoàng” quy tụ về cái quán rượu tử thần của nhà lão Tương, sáng sớm đã tập trung lại uống rượu, chai rượu giấu dưới gầm bàn, người lạ đi ngang qua cứ tưởng họ ngồi uống cà phê, còn người địa phương lạ chi mấy trự con “ngọc hoàng” nầy… Họ ngồi uống đến chín mười giờ sáng là tan hàng! Chừng ba bốn giờ chiều họ lại “họp giao ban” đến tối mịt!

Tên “Quán Rượu Tử Thần” là do tôi đặt, và được âm thầm truyền tụng ra… vợ chồng lão Tương nghe được – Tức lắm! Thỉnh thoảng hai vợ chồng ra đứng trước nhà hoác mồm ra chửi xiên, chửi xéo… như chó sủa trăng. Đâu có biết ai là tác giả? Mãi đến sau nầy khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận, hàng hóa tư bản nhảy vô “xâm lăng” nhất là các loại bia, rượu ngoại… Vợ chồng lão Tương bấy giờ không bán rượu đế tử thần nữa, quay sang “kinh doanh nhà hàng ăn uống”, bán các loại bia rượu “xịn”…! Mướn đầu bếp về nấu các món ăn, món nhậu rất ngon, mướn mấy em tiếp viên trẻ đẹp mặc đồng phục chạy bàn…, mấy em “tiếp thị bia” các loại cũng trẻ đẹp, cũng mặc đồng phục váy ngắn thiệt ngắn… sẵn sàng nâng ly, cụng ly, cùng với khách… Đám con “ngọc hoàng” trôi dạt theo đám lục bình để rồi, lần lượt… từng em…từng em… khăn gói về chầu thượng đế hết ráo…! Vợ chồng lão Tương cuối cùng rồi cũng biết tôi là người nói câu: “Quán rượu tử thần”, nhưng câu chuyện đã qua quá lâu, hơn nữa lão lại mang ơn tôi “thiết kế” cho lão cái nhà hàng “một trệt, một lầu” khá đẹp! (khách nhậu say xỉn khen đó nghen!). Cuối tuần, thứ bảy tôi còn kéo bạn hữu đến nhậu lai rai “ủng hộ”…nên vợ chồng lão Tương xoa xoa hai tay cười xuề xòa nịnh nọt… Sở dĩ tôi bỏ nghề mộc là vì không có ai kêu tôi mần nữa, thành ra tôi phải đi học lấy cái bằng “xây dựng” rồi “chạy” xin giấy phép hành nghề, chuyển qua “thầu xây cất”.


Tôi xây cho bà mẹ vợ một ngôi nhà “cấp bốn” nho nhỏ nhưng khang trang, tôi cũng xây cho tôi một căn nhà cấp bốn be bé ở kế bên nhà bà mẹ vợ. Tôi được nhập “hộ khẩu” vô hộ khẩu gia đình bên vợ sau hơn mười lăm năm tạm trú. Tui bàn với bà xã: cho vợ chồng Ba Nhảy gởi nhờ cái xe bán cà phê. Bà xã tôi nói – đã có ý đó từ lâu. Lúc nầy bà con trong hẻm có nhiều cảm tình đối với tôi, gặp chỗ nào họ cũng chào anh Tư… anh Tư… Bà xã thấy tôi đã quen với cách sống nơi cái hẻm cụt nầy nên bà… “xả cảng, xả cùm” để cho tôi được đi lại tự do cùng với mấy ông hàng xóm, chiến hữu lai rai một vài chai bia hay tham dự: thôi nôi, cúng giỗ…thoải mái chứ không còn “quản chế” như trước đây nữa! Người ta nói: “Người con gái đi lấy chồng bị mất cái chi”? Đừng nghĩ tầm bậy, tầm bạ… nha bà con. Mấy cô đi lấy chồng thì mất cái tên “khai sinh” chứ mất cái chi, sau đó mất cái chi chi…đố ai mà biết. Riêng tôi từ khi lấy vợ, ở bên quê vợ – tôi mất cái tên cúng cơm của tôi luôn, tôi trở thành… “anh Tư”! Vợ tôi là thứ tư đó mà!

Hôm nay, hai vợ chồng người thương binh Ba Nhảy lại nhà mời đám giỗ… Đồng thời cũng hỏi mượn: cây, tấm bạt che rạp để bày bàn tiệc ra ngoài hẻm.!
Người thương phế binh Ba Nhảy – chủ nhà nói:
– Anh về đây ở cũng đã lâu, bác Năm ở đẳng, (năm là tên thứ mẹ vợ tôi) cũng như vợ chồng anh chị Tư giúp đỡ chòm xóm rất nhiều việc… Nhưng anh em chúng tôi chưa có dịp mời anh Tư ngồi uống với nhau một cách “hợp pháp”! Hợp pháp đây có nghĩa là… được các bà vợ cho phép nhậu thoải mái không như mấy lần trước đang uống rượu nửa chừng các bà mượn lý do nào đó… sai con kêu dzìa! Đồng thời tui giới thiệu sơ sơ…”qúa trình hoạt động bản thân” của anh em tụi tui cho anh Tư biết thêm. Tui tên Nghiêm, còn tên thường gọi là Ba Nhảy, đi lính Địa Phương Quân, bị thương năm 1972, cưa quăng đi mất một cái giò rồi! Quê Định Tường, nghề nghiệp bán vé số. “lý lịch trích ngang” có bấy nhiêu.
Tui xin giới thiệu tiếp nghen anh Tư:
– Đây là Sơn, Thiếu úy Địa Phương Quân, bị thương chột một mắt, quê Giồng xoài, Bạc Liêu, làm nghề vá sửa xe…
Ba Nhảy giới thiệu chưa dứt lời, Sơn thiếu úy đã vội vàng đứng lên dơ tay phân bua:
– Anh Tư ơi… tui tên thật là Sơn, chỉ là lính thôi, em bị thương mù một mắt nên anh em trong hẻm “đặc cách” gắn thêm cho cái lon “Thiếu úy”! – Thiếu úy là… “chột” một mắt đó anh Tư ơi! Chết tên luôn “kể từ dạo ấy”… anh Tư ơi! Mọi người cười vang…!
Ba Nhảy ra hiệu giữ trật tự – giới thiệu tiếp:
– Đây là Chín Cu, tên thật là Bảnh, thằng chả có nghề điêu khắc vàng bạc, làm “gia công” cho khách hàng ở nhà. Trước đi lính Nghĩa Quân, bị thương đứt nửa bàn chân đi cà thọt, quê Cần Đước. Cuộc nhậu nào Chín Cu cũng góp vui hậu hỉ!

– Còn đây là Hai Bánh, hay Hai Liếm cũng được, đi lính được một năm thì “giải phóng”! Ngồi buồn nên lấy xoài ra ăn, xoài vừa chín tới mà chấm với muối Tây Ninh – ngon hết biết! Thòm thèm nên liếm mấy hột muối còn sót lại trong đĩa mà mơ mộng… Mấy bà đi qua thấy vậy đặt luôn cho cái tên: “Hai Liếm”! Ngoài liếm muối ra hắn không còn liếm… chỗ nào nữa! (cười) . Quê Tây Ninh. Thật ra, tên cúng cơm là Thành, còn cái tên Hai Bánh, là… là…

Thành…! Kể cho anh Tư và anh em nghe câu chuyện đó… đi thành! Ba Nhảy giục:
– “Chiều hôm đó tui đang tìm khách nầm chuyến cuối, chợt có một ông khách nói giọng Bắc… ăn mặc khá tươm tất, ông ta vẫy tay gọi tui lại và nói như ra lệnh: “Này, thằng đạp xích lô …! (ngày trước “giải phóng” người miền Nam kêu là – bác xích lô) Đi đến cầu Băng Ky bao nhiêu tiền đấy?”. Tui nói đúng giá nhưng ông ta so kè tới lui… chỉ còn có phân nửa! Tui nói giá tiền ít như dzầy, thì chỉ chạy được có… hai bánh thôi nha, muốn đi thì lên xe…! Ông ta tưởng tui nói chơi cho dzui…! Vậy là ông ta xách túi xách nhảy tót lên xe nằm vắt chân chữ ngũ, rồi ca: “Trường sơn tây anh đi… thương em… thương em…”. Tui nghe ổng hát mà muốn… nổi máu! Chạy gần tới Cầu Đỏ tui nói “ông ấy ơi…ông chịu khó níu hai bên thành xe cho chắc chắn dùm tui nghe, tui chạy hai bánh đây”! Nói xong tui đảo… đảo… giật… giật… cái xe! Ông ta tưởng tui chạy hai bánh thiệt ổng hoảng hồn quay đầu ra sau “Tôi.. tôi… đồng ý… đồng ý…trả…trả…thêm… Nàm ơn… nàm ơn… chạy đủ ba…ba… bánh. Ông móc tiền ra…” !
Hai bánh kể xong vẻ mặt tỉnh queo! Còn tôi và anh em thì được một trận cười bể bụng…!
Ba Nhảy chỉ tay về hướng cuối bàn giới thiệu tiếp:
– Ngồi cuối bàn, đó là: Lâm – Bắt Heo (Không biết bắt heo nào?), trước kia có đi lính Biệt Động Quân, ở Biển Hồ, Pleiku sáu tháng. Bị thương nơi chân đi cà thọt, rồi giải ngũ năm 1973, quê U Minh.
– Ngồi kế anh Tư, là Ba Ngôn, có khiếu mần thơ… Trước có làm cán bộ XDNT. “Giờ đây mình hãnh tiến, làm con dân tộc Việt, khoát áo đen tuyền xây dựng nông thôn” Bị thương rồi giải ngũ. Sau 1975 có đi “cải tạo”, quê Kiến Tường. Hiện nay buổi sáng phụ vợ bán hủ tiếu, buổi chiều chạy xích lô, ai kêu đâu chạy đó!
– Còn đây là chú Út Say, “Việt Kiều Kampuchia” hồi hương. Lý do năm 1970 bị người Kampuchia “cáp duôn” chặt đầu, nên bỏ của chạy lấy người, trước sống trong làng Việt kiều Kampuchia ở xã Mỹ Xuân… Sau chú chuyển về đây đi mần thợ hồ, đã “nghỉ hưu”. Bị ma Miên hay ma Việt… nhập vô trong người, chú ca hát lảm nhảm suốt ngày đêm:

– “Mời em lên, lên tàu hỏa, chúng mình đi

Đi, khắp nơi… mà không… tốn tiền”!

Nay tỉnh rồi! Mấy câu chú hát lúc trước, người lớn, con nít đều thuộc lòng. Họ cũng mơ ước được mời lên… xe hỏa… đi khắp nơi mà không tốn tiền!
Ba Ngôn – có vẻ như “bức xúc” chuyện chi trong lòng? Vội vàng đứng lên giơ tay xin có ý kiến:
Mơ ước của chúng ta bao lâu nay là mong làm sao được chính quyền cho: Gắn đồng hồ nước, gắn đồng hồ điện, vô hộ khẩu…! Mắc mớ chi lại mơ lên… “tàu hỏa” để đi chơi vậy hả…? Chẳng lẽ nhịn đói để mà đi chơi sao…? Lâu nay trong cái hẻm cụt nầy mọi người đi mua nước để ăn uống, giá mắc gấp… năm bảy lần “giá nhà nước” từ quán rượu tử thần của vợ chồng nhà lão Tương! Điện đóm cũng câu nhờ của vợ chồng nhà lão Tương, giá điện cũng mắc gấp… năm bảy lần “giá nhà nước”! Mỗi lần chả say sỉn, đi ăn đám… không ai kéo cầu giao điện, vậy là chúng ta ăn cơm bên ánh đèn dầu, tội nhất là mấy đứa nhỏ ngồi học bài cũng dưới ánh đèn dầu tù mù…! Cả con hẻm cụt nầy không nhà nào mua sắm nổi một cái “truyền hình” để xem, mà có sắm được truyền hình thì cũng đâu có điện mà sử dụng! Ghiền bóng đá, phim ảnh… chạy đi coi ké khắp – bốn vùng chiến thuật! Còn chuyện vô “hộ khẩu” (hậu khổ) thì chưa dám mơ ước. Sử dụng cái “sổ tạm trú” là may lắm rồi! Mong có “hộ khẩu” là có tất cả! Khi cần tiền cầm cái hộ khẩu đó đi “thế chấp vay tiền” cũng dễ dàng! Ngày trước, chính quyền miền Nam chỉ dùng một tờ giấy, đó là: “Tờ Khai Gia Đình” rất đơn giản, chỉ kiểm soát về mặt an ninh mà thôi, còn về mặt đời sống – Tờ Khai Gia Đình không làm trở ngại sự sinh hoạt mua bán hằng ngày của người dân. Thêm một việc nữa, là cái hẻm nầy bao nhiêu năm nay – mưa sình, nắng bụi, cần tráng bê tông, đặt đường ống thoát nước. Họp tổ dân phố, dân nêu ý kiến biết bao nhiêu lần rồi, nhưng chẳng thấy “cán bộ” trên phường quan tâm. Lúc nào mấy ông cán bộ ở trển cũng hứa hẹn, nào là “Nhân dân và chính quyền góp công, góp tiền để làm”. Nhưng có đâu?!
Nghiêm – Ba Nhảy với nét mặt hơi buồn buồn, nói:
– Ba Ngôn – “bức xúc đại trà” như dzậy là đúng với nỗi lòng mong ước của mọi người lâu nay đó thôi. Nhưng mọi chuyện cứ để nằm im đó, chúng ta “có quyền” ngồi đợi! Bây giờ mời tất cả nâng ly chúc mừng ngày “chết” của cha tui, ngày xưa cha tui tử trận trong một lần hành quân! Mẹ tui lãnh tiền tử tuất nuôi anh em chúng tui, rồi mẹ tui cũng chết quách đi rồi! Nhưng có một điều tui rất buồn là mẹ tôi trước khi chết bà quên “di chúc” lại cho tui được rõ… Cái tên Ba Nhảy nầy là do cha tui đặt, hay là mẹ tui đặt? Tại sao lại phải “nhảy” đến ba lần? (cười) Đến đời tui, tui cũng làm lính Quốc Gia, bị thương cụt một chân, sau 1975 đi lang thang rồi về ngụ tại cái hẻm cụt nầy, thì cũng xem như cuộc đời lính “ngụy” của tui đã đi vào hẻm cụt! Nào nâng ly, cạn đáy anh em ơi!
Hai Bánh, tự Hai Liếm lên tiếng:
Chúng em có biết chút ít về anh Tư, anh Tư có đi “cải tạo” nhiều năm nên âm thầm xem anh như một người đại ca. Dù cuộc chiến đã qua lâu rồi và chúng ta là kẻ “chiến bại”, nhưng không hẳn chúng ta gục ngã, thời gian sẽ trả lời. “Hữu xạ tự nhiên hương” phải không anh Tư? Hôm nay nhân đám giỗ ông già anh Ba Nhảy, lần nào cũng vậy, anh em chúng em không ngồi lại thì thôi, chứ đã ngồi lại với nhau rồi, có chén rượu, là… hát hò, đờn ca… Bữa nay có anh Tư càng vui hơn!

Bạn Ba Ngôn đâu? hát một bản tặng anh Tư nghe coi! Hai Bánh nói như ra lệnh! Ngôn – tằng hắng… rồi cất tiếng hát…
– “Tôi là lính xa nhà đi trấn sơn khê hai mùa mưa sa mù che kín nẻo đường về. Xin đừng oán và hãy mến thương tôi, trăm lần không bao giờ tôi giận cuộc đời…”!
Tiếng đàn của Ba Nhảy và tiếng hát của Ba Ngôn vừa dứt. Anh em vỗ tay giòn tan…
– Cạn ly đi anh Tư ơi! Sao anh cứ ngồi thừ người ra mãi vậy? Giờ thì đến, Hai Bánh – Hai Liếm nầy hát nha!


“…Bao thương nhớ từ độ anh vui bước quân hành

Nửa năm anh viết lá thư xanh bảo rằng
Sẽ về phố phường
Mừng rơi nước mắt ướt mi người tôi thương…


Một nỗi buồn man mác từ đâu ùa về trong lòng mọi người, cầm ly rượu trên tay anh em nhìn nhau bồi hồi nhớ về từng kỷ niệm tình yêu lính trận của một thời năm xưa. Ôi, hẹn… – Sẽ về phố phường… Cái hẹn quả thật là: Tha thiết, lãng mạn…!
– ” Anh đã về phố phường rồi đây em ơi! Trong cái hẻm cụt ngủn không lối thoát nầy đây em ơi! Em bây chừ ở nơi đâu? Những lá thư tình ngày xưa xa ấy bay về phương trời nào rồi hở em…?”!

Tôi uống hết ly rượu rồi nhìn mấy anh em “nhà ngụy” mà trong lòng dậy lên một tình cảm vô cùng trìu mến… Họ trôi dạt về cái hẻm cụt nầy như rắn mất đầu, nhìn đâu đâu cũng thấy sự lạc lõng bơ vơ! Không một ai quan tâm! Không một ai đoái hoài giúp đỡ! Tất cả tự bươn chải kiếm sống từng ngày để mà sống; để mà chữa bịnh, chữa vết thương ngoài thân thể cũng như tự xoa dịu vết thương hằn sâu trong lòng! Người sống đã vậy, còn người chết ở trên rừng chưa tìm ra hài cốt! Ngay nghĩa trang quân đội Biên hòa nằm sờ sờ bên đường bao năm vẫn bỏ bê!
Không cần đợi anh em yêu cầu. Tôi nhờ Ba Nhảy đàn cho tôi hát:

“…Tôi tiễn anh như bao anh hùng hiên ngang ra sa trường.

Vì yêu quê hương anh lặng lẽ bước chân đi…”!



Nhớ những ngày đổi lên Kontum, Pleiku vào mùa mưa. Mưa kéo dài lê thê lướt thướt, mây mù sương khói thi nhau phủ kín khung trời, gió núi hắt từng hạt nước vô mặt lạnh buốt đến tê tay. Ngồi trong quán cà phê Dinh-Điền nhìn cái phin cà phê cũ rích méo mó nhăn nhúm, nghiêng nghiêng nằm cheo leo trên miệng cái ly. Từng giọt… từng giọt…cà phê bịn rịn buông rơi… Tiếng ca ấm áp truyền cảm đến ngùi ngùi của cô ca sĩ Trang Mỹ Dung, chở theo nhiều mùa mưa ở tận trong rừng sâu núi thẳm đem về vung vãi khắp phố núi cao nguyên heo hút… Đâu chỉ có hai mùa mưa rồi thôi…? Phải không cô ca sĩ Trang Mỹ Dung? Không có tiếng còi tàu nào giữa đêm khuya chỉ có tiếng súng, tiếng đại bác… Hai đường sắt chạy song song đến tận sân ga là đôi giày “saut” dính đầy bùn đất đỏ đang mơ mộng trên phố núi…! Ngồi trong quán cà phê nhìn hạt mưa bay qua khung cửa sổ…, khói thuốc vàng tay không sưởi nổi tâm hồn. Từng nhịp tim thổn thức u hoài – nhớ về một lần tiễn đưa, một lần hẹn ước!

Ba Nhảy ngưng đàn, lấy tay đập… đập… vô thùng đàn nói – Giọng anh Tư còn rung động lắm, không phải giọng rượu rè rè… như giọng tụi tui.
Tôi nhìn anh em một lượt rồi nói tiếp:
– Những bài hát viết về: Người lính, về tình yêu, về quê hương, đất nước của các nhạc sĩ, ca sĩ miền Nam. Sau ngày “thống nhất” cách mạng gọi một cách, miệt thị, là: “nhạc sến, nhạc vàng, nhạc ngụy” – cấm hát? Cách mạng cấm, nhưng người yêu nhạc từ Nam chí Bắc vẫn ngang nhiên hát… lời ca, tiếng nhạc, giai điệu mượt mà xuất phát từ trái tim đầy tính nhân bản, yêu thương… thấm sâu vào lòng quê hương… Vậy thì tại sao nói nền âm nhạc miền Nam là nhạc: “phản động, là văn hóa đồi trụy”? Bây giờ có còn ai ngồi ngâm nga hát… “Bài ca năm tấn – Sóc bom bo – Anh Ba Hưng…”. Cuối cùng rồi nhà nước cũng đã nhận ra “chân lý” chấp nhận sự thực – cho phép hát! Không cho phép cũng không được, lời ca tiếng nhạc đã vượt không gian, vượt thời gian, bay bổng qua bên kia bờ đại dương – tồn tại mãi mãi! Như vậy, đứng về mặt: “Âm nhạc, Văn hóa văn học, Nghệ thuật, Báo chí…”. Miền Nam tự do đã… thắng! Chúng ta không cô đơn trong cái hẻm cụt nầy phải không các anh em?

Mọi người vỗ tay…! Nghiêm – Ba Nhảy nói:
– Anh Tư đại ca phân tích quá đúng, trên cả tuyệt vời! Anh Tư không nói ra thì tụi tui cũng không biết chi hết! Anh Tư đã cho bọn em được mở mang trí não. Cảm ơn đại ca anh Tư nhiều! Nào, hãy cạn ly! Ba Nhảy “hồ hởi” so dây hát luôn một hơi:
“…Sài gòn đẹp lắm, Sai gòn ơi! Sai Gòn ơi…! la lá la…! Sài Gòn…”. Tất cả vỗ tay hát theo, không khí thiệt là vui…!


***

Đất vườn của bà Hai Cổ Cò còn rộng. Đất nhà bà là đất hương hỏa ông bà để lại, có bằng khoán, nhưng bây giờ là “đất của toàn dân” đã được “quy hoạch”! Gia đình bà cần tiền kêu bán cái ao giá rẻ như cho: Hai chỉ rưỡi vàng! Nhưng chẳng mấy ai dám đến mua! Ông Sáu Ngoảnh “cò nhà đất” nghe tin chạy vô mua liền! (một lần ngoảnh đã buồn, ngoảnh đến sáu lần, quá vô tình) . Ông thuê xe ba gác chở cát vô “giải phóng bằng phẳng, phân lô bán nền”. Miếng đất ao đó phân ra được mười lô, mỗi lô rộng bốn thước nhơn cho mười sáu thước. (4×16). Ông bán mỗi lô nghe đâu đến: Một “cây” vàng? Ông chi phí “thuốc men” các cái… cũng còn lời khẳm! Toàn là người lạ – giàu tiền, lắm bạc… ở đâu đến mua! Ông Sáu Ngoảnh bán đất viết bằng “giấy tay”, ông cam đoan sẽ “hợp thức hóa giấy tờ chủ quyền đất” cho người mua.

Người dân trong vùng “quy hoạch” lâu nay ai cũng thuộc lòng mấy câu:
– “Cụm dân cư khu vực nầy sẽ được giải tỏa xây chung cư… Cấm cất nhà kiên cố, hay mua bán sang nhượng. Người dân nào muốn: chống dột, chống thấm, thay nền, đảo ngói… phải làm đơn xin phép lên ủy ban nhân dân Phường!”.

Phường đã ra “nghị quyết” như vậy mà ông Tám Ngoảnh nầy còn dám ngang nhiên mua bán đất tỉnh queo? Ông ta có ngán ai đâu nà! Mấy người mua nền đất cũng “vô tư”mua, có ngán ai đâu nà! Thiệt là chẳng hiểu nổi! Khoảng đâu ba bốn tháng sau người dân trong hẻm cụt thấy mấy ông bà mua nền đất – kéo chở “vật tư” thợ hồ đến “ngang nhiên” xây nhà ào ào…
– “Chuyện nầy hơi kỳ lạ thiệt đó à nghen? Tại sao không thấy các ông: – công an khu vực – mấy ông cán bộ ở trên Ủy ban nhân dân Phường xuống lập biên bản dzậy cà”? Chắc là mấy ổng ấy bận trăm công nghìn việc chưa biết đó thôi!

Vậy là dân trong hẻm bắt chước xây nhà, sửa nhà, dù là xây nhà “cấp bốn” tạm bợ… Một buổi chiều trời mưa rơi rơi… ngồi nhìn nước ngập đầy hẻm mà buồn da diết! Mọi người thấy bà “Tổ trưởng dân phố” xăn quần lội bì bõm… đến từng nhà, báo Tin mừng…!
– ” Rằng tới ngày kia…Các ông cán bộ ở trên Ủy ban nhân dân Phường, Quận, xuống định giá mỗi hộ vui lòng đóng một số tiền – (Dân và nhà nước cùng làm): Gắn đồng hồ nước, gắn đồng hồ điện, đặt cống thoát nước, phủ bê tông con hẻm. Dựng một cái cổng tại đầu hẻm – trương bảng Tổ Hẻm Văn Hóa”!

Dân sống trong con hẻm mừng như bắt được vàng…! Mọi người nhốn nháo bàn tán xôn xao cả mấy hôm liền… đến quên cả ăn, quên cả ngủ… đúng là niềm vui to lớn đã đến! Khi bình tỉnh trở lại, tính ra thì thấy số tiền đóng góp cũng… nhiều… nhiều… khi đó mọi người mới nhìn nhau cau mày lo lắng! Lo tiền đóng cho nhà nước đã đành, còn cái lo nữa là – Tráng bê tông hẻm thì phải nâng nền hẽm lên cao ít nhất cũng phải nửa thước. Vậy là phải nâng nền nhà, không nâng nhà mưa ngập trở thành cái ao nuôi cá! Nhưng nghĩ đi, nghĩ lại… lâu nay nhà nước thường hay nói:
– “Sau cuộc chiến tranh trường kỳ chống Mỹ xâm lăng cứu nước, đã thống nhất, nhưng đất nước ta còn nghèo! Kêu gọi đóng góp là thể hiện lòng yêu nước…”.

Vậy là mọi người im lặng “hồ hởi” phấn khởi… chạy đi gom tiền. Ai thiếu tiền thì… đi vay, đi mượn… dù tiền vay mượn lãi có cao ngút trời cũng ráng chịu để nắm bắt cho bằng được cái “mơ ước” bao năm nay cho thật nhanh, để vụt lần nầy thì không biết đến bao giờ mới có dịp may khác. Sắp tới đây sẽ không còn cái cảnh. Mỗi buổi sáng sớm, mỗi chiều tối, mọi người già trẻ đứng – Xếp thùng, xếp xô… dài dài bên hông nhà của vợ chồng lão Tương đợi đến phiên hứng cho được một thùng nước mà ngao ngán tình đời! Nước chảy quá yếu, hay cúp nước thì càng thê thảm hơn!

Hôm toán thợ của “công ty nhà nước” hoàn thành công việc: Cán bê tông, nước đã chảy, điện đã sáng, mọi người vui như trẩy hội…! Ngoài đầu hẻm có hai người – một nam, một nữ đứng dòm vô… Đó là, hai vợ chồng nhà Lão Tương!
Sau một thời gian chờ đợi…! Gia đình tôi mới được đi định cư ở nước ngoài “…được đi thì cứ đi, cây cột đèn biết đi nó cũng đi!”.Gia đình làm bữa cơm chia tay.
Tôi nói với ông cậu vợ rằng:
– Mấy năm nay thằng cháu rễ của cậu mần “ngụy nằm vùng, bắc cóc” cháu gái của cậu, cậu có buồn không?
Hai cậu cháu cụng ly…! Ông cậu vợ cười… khà… khà…!
– …Cái thằng Tư nầy hỏi… thiệt là ngộ nghen! Lâu nay cậu tụi bay vẫn thấy thằng Tư “nằm vùng bắt cóc” đứa cháu gái thân yêu của cậu mỗi ngày đó chớ…! Cả nhà cùng cười…! Hỏi cô Năm – mẹ của tụi bay coi, chưa bao giờ ông cậu nầy nghĩ tụi bay là…”ngụy” nầy, “ngụy” kia! Qua bển mần ăn khá, khi nào có dịp về thăm nhớ cho cậu chai rượu Tây đó nghen!

Mới có bốn năm năm xa cách mà tin dữ dồn dập bay qua: “…Nào là: Chín Cu chết do ung thư gan… nào là: Út Say, Việt kiều Kampuchia chết già… Lâm Bắt Heo cũng chết do té xe bị “chấn thương sọ não”! Sơn – Thiếu úy, đời nhà về cầu Ông Thìn…? Thành – Hai Bánh, tức Hai Liếm theo vợ về quê ở cầu Đa Khoa nào đó…? Ba Ngôn, cùng vợ con chuyển xuống Long An…? Riêng Ba Nhảy còn “bám trụ” nhưng sức yếu, không còn chống nạng đi bán vé số nổi nữa, ở nhà phụ vợ bán cà phê nhưng cũng ế ẩm bởi đàn ông thanh niên bây chừ, thích uống – cà phê ôm, cà phê võng, cà phê đèn mờ… Đã có vài người nhiều tiền “gạ gẫm”… mua cái nhà cấp bốn của Ba Nhảy với giá “cao” để cơi nới… Không biết lần nầy Ba Nhảy sẽ nhảy về đâu…? Bây chừ Ba Nhảy đâu cần “di chúc” của mẹ để hiểu cái tên “Ba Nhảy” là do ai đặt cho nữa? Phải nhảy nhiều lần chứ đâu phải… ba nhảy rồi thôi! Vợ chồng nhà lão Tương – đáo cuộc gia mê, “hồi đầu thị ngạn”! Gõ mõ… ăn chay…!

Thuở con hẻm cụt chìm sâu trong màu đen tăm tối thì anh em chiến hữu vô ra vẫn còn thấy mặt nhau. Bây giờ nước điện đầy đủ, đường hẻm cao ráo… mọi người lại bỏ ra đi mỗi người mỗi phương? Hẻm cụt mà ở cũng không yên! Tôi chợt nhớ đến câu hát: “Thượng đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền…”! Các bạn hữu – huynh đệ chi binh của tôi ơi, mấy chục năm qua chúng ta sống với nhau trong tình đồng đội, tình láng giềng chứa chan như bát nước đầy! Anh em chúng ta âm thầm chịu đựng tủi nhục trước sự đổi thay một cách oan nghiệt, chúng ta không đổ thừa, không thù hận, nuối tiếc. Chúng ta vui vẻ chấp nhận đi cho hết một vòng lịch sử. Tổ quốc lúc nào cũng cần những người chiến sĩ vô danh! Tổ quốc lúc nào cũng ghi ơn những người con bỏ mình để gìn giữ quê hương đất nước!
Dù là ở nơi xa, nhưng Tư tôi lúc nào cũng mang cái hẻm cụt nặng trĩu ở trong lòng!

Trang Y Hạ

Lúc nào cũng nhớ các bạn
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2018 lúc 11:47am

Chuyến xe tang về quê chồng


Giao Chỉ – San Jose
(Lời kể lại của Lệ Hà)
Cố Trung Úy Dù QUÁCH VĂN SỞ
Khóa 24 Trường VBQGVN
San Jose ngày 29 tháng 04 năm 2009.

Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện năm 1975. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày.

Đó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, võ bị Đà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Đường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.
Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai
.
Xác anh, giờ ở phương nào?
Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đã di tản. Ở một vài nơi quân ta còn kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ còn di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng còn thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đã tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Hòa.
Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên tìm chồng tại nghĩa trang Biên Hòa. Đây là lần đầu tiên em tìm về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta còn làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng còn ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy tìm xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn còn đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn còn đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em tìm được xác anh Quách Văn Sở, đã được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Hòa. Đã hơn 30 năm rồi, em vẫn còn nhớ hình dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không còn nữa. Sau khi thấy rõ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu tìm xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài Gòn, bây giờ anh đã vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đình, về nơi anh đã ra đời.
Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đã hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em tìm mọi cách để thuê xe chở quan tài. Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi tìm được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ trang và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.

Chuyến xe tang về quê chồng
Đưa xe tải về nhà, dọn những gì có thể đem đi được, từ giã cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Đó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đã thay đổi. Tất cả các xác chết đã bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn còn. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc thì vứt đống dưới đất. Người lính chung sự Việt Nam Cộng Hòa mặc đồ dân sự vẫn còn đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đã có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh thì em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quãng đường dài. Đó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.
Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Lòng dạ nào mà nhìn thấy hai bên đường. Mắt em mở nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ.
Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn hò, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào võ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Đà Lạt, Sài Gòn tình yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn phòng phủ thủ tướng. Đâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu thì làm đó. Chiến tranh ở đâu thì không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đình trẻ với đứa con trai.
Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.
Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng còn thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nhìn theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thằng rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận.

Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang
Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân võ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Đoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa.
Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đã tử trận. Còn cậu út nhất định đi võ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Đống vốn là thân quyến thì cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.
Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đã làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đã một mình đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ.

Nước non ngàn dặm ra đi
Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang vì muốn giấu lý lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mã Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm thì vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xã sau này, hai bên lập gia đình và có thêm hai cháu.
Thưa với bác Lộc rõ, em có duyên số với Võ bị và Rạch Giá. Ông xã hiên nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường võ bị Đà Lạt. Con cái của gia đình em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đã lập gia đình và có thêm các cháu nội ngoại.
Ông xã em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đã làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ hình ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.                                                       

Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu
Đã 34 năm qua, em còn lưu giữ hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đình của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Hòa Thám. Có chữ ký của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ ký của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra còn giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Đống. Trung úy Sở còn tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. Vì lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đã làm thay đổi vận mệnh của cả gia đình. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên võ bị Đà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giã cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đình còn giữ suốt 34 năm qua. Nay đã đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. Còn một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu.

Tâm nguyện cho tương lai
Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư võ bị ngày xưa đã thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đã 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đình và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Đà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu võ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang.
Và em tạ ơn trời đất còn có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đã từng sống trong trại gia binh.
Em cám ơn các bác đã nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.



Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 27/Mar/2018 lúc 12:42pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2018 lúc 4:43pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 90 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.286 seconds.