Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22166
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Apr/2015 lúc 8:16am
Lời Kinh Đêm & Xác Em Nay Ở Nơi Nào  <<<<<





Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Apr/2015 lúc 8:56am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 23/Apr/2015 lúc 10:14am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22166
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Apr/2015 lúc 10:03pm

Thuyền Nhân Việt Nam


Thuyền nhân Việt Nam là một sự kiện chấn động chưa từng có trong lịch sử nước nhà  và chỉ xảy ra sau ngày  30 tháng Tư năm 1975  khi hàng triệu người Việt Nam đã ồ ạt dùng  thuyền nan, thuyền gỗ mong manh  đi xuyên biển Đông để xin tỵ nạn Cộng Sản tại các xứ Tự Do Dân Chủ không Cộng Sản bất chấp sống chết hiểm nguy.
Đảng Cộng Sản VN đang chuẩn bị một ngân quỹ lớn để bắn pháo bông ăn mừng ngày chiến thắng 30 tháng 4. Không biết bao nhiêu người Việt Nam thiếu hiểu biết mà ăn mừng chiến thắng này và bao nhiêu người Việt có lương tâm tri nghĩa sẽ cảm nhận sự cay đắng khi thấy sự nhẫn tâm của Đảng Cộng Sản cầm quyền đang vui đùa hân hoan hớn hở trên nổi đau thân phận và sinh mạng của cả dân tộc.

I. Bao nhiêu Thuyền Nhân Việt Nam đến được trại tỵ nạn?
Thật không ngờ , theo Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc (UNHCR) dù tỉ lệ vượt thoát thành công đến được các trại tỵ nạn không quá 35 %, tổng số thuyền nhân Việt Nam ở các trại tỵ nạn dành cho thuyền nhân lên đến hơn 700 ngàn người theo con số chính thực được ghi nhận trên toàn cõi Đông Nam Á.Trong hai mươi năm (1975-1995), chi tiết tổng số thuyền nhân cho mỗi giai đoạn năm năm sẽ là như sau:
Cộng với con số hơn 42 ngàn người đi vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan thì tổng số người Việt Nam xin đào thoát xin tỵ nạn Cộng Sản lên đến 800 ngàn người.


Thống kê Tổng số Thuyền Nhân Việt Nam

Nếu tỉ lệ thành công đến được bến bờ tự do của thuyển nhân Việt Nam là 50% thì có nghĩa là có khoảng 800 ngàn người Việt đã bỏ mình trên đường đào thoát, trong khi Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc (UNHCR) khẳng định là chỉ khoảng 35% số thuyền nhân là vượt thoát thành công thì tỉ lệ tử vong sẽ là bao nhiêu?
Ngay cả thú vật cũng chẳng bao giờ ăn mừng trên sự chết chóc của đồng loại thì chẳng lẽ nào nay 90 triệu người dân Việt Nam lại tệ hơn cả thú vật, hoan hỷ ăn mừng chiến thắng với pháo bông do Cộng Sản bắn lên -một chiến thắng đẩy đưa toàn dân tộc lao ra biển Đông xin tỵ nạn, chết chóc lên đến hơn cả triệu người?
Chỉ riêng thảm họa hải tặc hãm hiếp đè nặng lên nổi nhọc nhằn của thuyền nhân Việt Nam, số liệu điều tra của UNHCR, chỉ trong ba năm 1981 đến 1983 về nạn hải tặc của Thái Lan không thôi đã như sau:

Bản Thống Kê 2: Nạn nhân hải tặc Thái Lan 1981-1983


Xin được ghi chú là bản thống kê trên chỉ đề cập đến số người bị giết và mất tích trực tiếp bởi hải tặc Thái Lan, còn số người thuyền nhân Việt Nam bị chết vì đói, vì chìm tàu hay tự tử sau khi bị hải tặc tấn công không được tính tới.
Như vậy, tổng số người bị giết và mất tích do hải tặc Thái Lan trong ba năm 1981 đến 1983, theo số liệu của UNHCR đưa ra sẽ là như sau : 571+ 155 + 43 + 443+ 153 = 1365 người.
Trong khi Liên Hiệp Quốc và các tổ chức NGOs bất vụ lợi (NGO: Non Government Organizations: các tổ chức phi chính phủ) đã phải lên tiếng và nhảy vào can thiệp trước thảm họa hải tặc từ Thái Lan cũng như từ nhiều nơi khác đối với Thuyền Nhân Việt Nam vì lý do nhân đạo thì Cộng Sản Hà Nội không một chút tỏ ra thuơng xót cho chính dân tộc mình ngoài việc rủa xả căm hờn bọn người “phản quốc, chết là tự chuốc lấy!“ .
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, sự kiện Thuyền Nhân Việt Nam là sự kiện lịch sử lớn thứ hai liên quan đến mọi quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Trại tỵ nạn dành cho thuyền nhân Việt Nam mọc khắp các quốc gia trong vùng gần suốt 20 năm và là một mối nhục quốc thể quá lớn cho một dân tộc nổi tiếng quốc gia bảo thủ, bám đất giữ làng, đánh chết không đi.
Không có cộng sản, người dân Việt Nam với cá tính bám đất giữ làng không ra đi bỏ xứ kinh khiếp đến thế!
Hai mươi năm chiến tranh khốc liệt, không có một người dân Việt Nam Cộng Hòa nào bỏ xứ đi vượt biên nhưng họ đã ra đi ào ạt sau chiến thắng 30 tháng Tư, lấy sanh mạng của mình để bầu phiếu cho giá trị của tự do dân chủ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa mà nhẽ ra thuộc về họ nhưng đã bị tướt đoạt.
II . Lộ Trình Vượt Biên Và Xin Định Cư của Thuyền Nhân Việt Nam:
Bản Đồ Hải Lộ của Thuyền Nhân Việt Nam -UNHCR

Chưa có những nghiên cứu cụ thể tuyến đường vượt biển nào có xác xuất thành công cao nhất cho Thuyền Nhân Việt Nam vì hầu như tuyến đường nào cũng là chết chóc hiễm nguy và cướp bóc.
Dựa vào bản thống kê 1, trong suốt 20 năm 1975-1995 , thì tuyến đường Mã Lai đứng đầu số Thuyền Nhân Việt Nam vượt biển thành công với gần một phần tư triệu người. Thật bất ngờ, Hồng Kông lại đứng thứ nhì với hơn 195 ngàn Thuyền Nhân. Indonesia, một quốc gia hết sức thầm lặng đã chứa hơn 121 ngàn thuyền nhân trong hai mười năm trên cả Thái Lan bốn ngàn người.
Nhà cầm quyền Hà Nội cũng không thống kê số tàu Vượt Biên mà bộ đội biên phòng đã bắn vỡ tàu cho chết. Báo SGGP ghi nhận là có gần hơn 108 người chết tại cầu Chữ Y Sài Gòn.
Có khoảng năm ngàn người bị bắn chìm tàu mà chết tại cửa ngõ đồn Vàm Láng, Gò Công theo ước tính của cựu tù nhân vượt biên, dân cư và bộ đội biên phòng Cộng Sản ở đây. Đương nhiên, con số chính thức về tội ác của Cộng Sản Hà Nội khi bắn chết thuyền nhân bao giờ cũng cao hơn và sẽ bị lấp liếm cho đến khi có các cuộc điều tra kỹ lưỡng từ các tổ chức thỉnh nguyện hay các sử gia nghiên cứu.
Từ trại tỵ nạn, Thuyền Nhân Việt Nam tùy hoàn cảnh cá nhân mà có chọn lựa định cư. Sau đây là bản thống kê tổng số thuyền nhân Việt Nam định cư ở các nước theo số liệu của UNHCR :
Bản Thống Kê 3: Quốc Gia định Cư của thuyền Nhân Việt Nam 1975-1995
Hành động nhận các thuyền nhân của các quốc gia trên không những là thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc họ mà còn khẳng định quan điểm chống lại thảm họa Cộng Sản của các quốc gia này.
Điều đau lòng là đã có 109 ngàn thuyền nhân Việt Nam xuất thân từ miền Bắc Việt Nam, theo gót đồng bào miền Nam đi vượt biên xin tỵ nạn Cộng Sản đã bị từ chối quy chế tị nạn và bắt buộc phải hồi huơng. Cộng Sản đã làm cho ai ai cũng lầm tưởng là cứ hễ người dân miền Bắc, người nào cũng là Cộng Sản, có dây mơ rể má với cộng sản và cần phải chối bỏ quy chế tị nạn.
Thực tế, những thuyền nhân từ miền Bắc Việt Nam cũng điều chịu cùng cảnh ngộ sống chết trên biển cả để đến được bến bờ tự do như bao nhiêu thuyền nhân khác. Họ phải có quyền được tỵ nạn như những thuyền nhân khác.
Điều này lại càng làm thấy rõ Cộng Sản chỉ đem đến sự khinh bỉ của thế giới đối với dân tộc Việt Nam ta, mà những người miền Bắc chống Cộng Sản đang phải gánh tiếng oán này một cách nặng nề nhất.
Sau khi định cư ổn định ở các quốc gia liệt kê trên, các Thuyền Nhân Việt Nam đã làm đủ mọi nghề, trở nên thành đạt và gởi tiền về cứu đói thân nhân mình, vốn rách nát te tua, góp phần vực dậy kinh tế nước nhà và đặc biệt, chính các Thuyền Nhân đã nỗ lực bảo lãnh thân nhân mình thoát khỏi thảm họa Cộng Sản, sang sanh sống ở các quốc gia tư do để có một tương lai tốt đẹp hơn.
Hà Nội từng gọi Thuyền Nhân Việt Nam là “phản quốc”, những người mà bộ đội biên phòng Cộng Sản bắn thẳng tay không thuơng tiếc, bỏ tù không thuơng tiếc; nay Cộng Sản Hà Nội gọi Thuyền Nhân Việt Nam là “Việt Kiều Yêu Nước” một cách hết sức trơ trẽn!
III. KẾT
Thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc (UNHCR) đã cho thấy hơn 700 ngàn người Thuyền Nhân Việt Nam đã đến được bến bờ tự do định cư rất nhiều ở Hoa Kỳ với hơn 400 ngàn người cũng như đã có hơn 100 ngàn người phải hồi huơng cưỡng bức với lý do là nguyên quán miền Bắc, không đủ điều kiện định cư.
Con số 700 ngàn Thuyền Nhân Việt Nam đến được bến bờ Tự Do đồng nghĩa với hơn cả triệu Thuyền Nhân bỏ mình trên biển cả nếu tỷ lệ vượt thoát thành công không quá 35% như UNHCR loan báo. Báo cáo của UNHCR cũng cho thấy thảm họa cướp biển làm gia tăng mất mát, khổ đau và nhục nhã lên thân phận của một dân tộc đang gáng chịu thảm họa Cộng Sản.
Ngày nay, dân tộc Việt Nam sẵn sàng bắn vào những ai thoát qua biên giới Việt Trung xin tỵ nạn để lấy lòng Bắc Kinh và bắn pháo bông để ăn mừng chiến thắng đã xua đuổi chính dân tộc mình, đồng loại của mình ra biển Đông ti nạn. Đó là sự khác biệt giữa một dân tộc toàn là NGƯỜI như các quốc gia đã nhận cả ngàn Thuyền Nhân Việt Nam đi định cư vì lòng nhân đạo và khác vọng Tự Do và một dân tộc TỆ HƠN THÚ VẬT vô tri vô nghĩa vô nhân sẵn sàng hoan hỷ trước chiến thắng đẩy cả dân tộc mình vào khổ đau phải lao ra biển Đông tìm đường tỵ nạn, chết chóc lên đến cả triệu người.
Cho dù có lấp liếm, sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM vẫn là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam và cho cả vùng Đông Nam Á. Đây là một sự kiện lịch sử mà cần phải đưa vào chương trình dạy trong trường học cũng như cần phải điều nghiên kỹ lưỡng như các sự kiện lịch sử quan trọng khác từ cổ đến kim của dân tộc Việt Nam.
Mọi tầng lớp dân tộc hiện nay của Việt Nam và thế hệ mai sau cần phải hiểu rõ sự kiện Thuyền Nhân như là một quốc nhục để củng cố lại tinh thần tự hào dân tộc tính của mình, ráng phấn đấu xây dựng Việt Nam thành một mảnh đất -Tư Do Dân Chủ không Cộng Sản và thịnh vượng để khỏi phải xảy ra thêm một lần nữa thảm cảnh toàn thể dân tộc phải lao ra biển cầu xin lòng nhân đạo của nhân loại cứu giúp.
st.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2015 lúc 6:18pm

H.O. Ông Là Ai? 

Cây bút của Ông Robert L. Funseth, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, thương thuyết gia của chính phủ Hoa kỳ đã ký các văn bản với chính phủ Cộng Sản Việt Nam, giúp hàng nghìn cựu tù nhân chính trị được đến định cư tại Hoa Kỳ. (Tài liệu của Bà Khúc Minh Thơ)

Vào thập niên 90, trong cộng đồng người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ, người ta quen thuộc rất nhiều với danh từ H.O. Đây là một đợt di dân vĩ đại, dành cho quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tập trung của Cộng Sản sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 được đến định cư tại Mỹ, qua sự thương thảo giữa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và chính phủ Cộng Sản Việt Nam.

Chúng ta không có con số chính thức, nhưng theo tài liệu của Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, có khoảng 350,000 người đến Mỹ theo các danh sách H.O.

Tuy phía Mỹ đã ấn định tiêu chuẩn của cựu tù nhân “cải tạo” được ra đi phải chịu cảnh tù đày tối thiểu là ba năm, nhưng về sau mua một cái giấy chứng nhận thời gian ở tù chỉ tốn vài ba chỉ vàng, nên cũng có những “H.O. non” và “H.O. quốc doanh” lọt vào. Nước Mỹ tuy vậy, không đủ khả năng gạn lọc hay truy tìm cho ra lẽ, bằng chứng là có những cựu tù nhân chính trị “hợp tác với địch đánh chết bạn tù” vẫn lên máy bay vào Mỹ ung dung. Người Mỹ cũng rộng lượng, người ta kể chuyện một “con lai giả” hay “lai Tây” cũng lọt sổ, vì viên chức phỏng vấn người Mỹ đã hóm hỉnh rằng,“Ồ! Chúng ta là người Mỹ cả mà.” Bỏ chế độ Cộng Sản ra đi được người nào hay người đó.

Đi vào văn chương thì đã có “Ông H.O.” của Hà Thúc Sinh nói về sinh hoạt của người tù chính trị trên đất Mỹ, “Hành trình của Một H.O.”của Đặng Trần Huân kể lại “đoạn đường chiến binh” qua các “bãi mìn và dưới hỏa lực” của các loại giấy tờ, tổ chức dịch vụ của nhà nước Cộng Sản. Vậy “ông H.O” là ai?” Phải chăng là cái ông áo quần tàng tàng, mặt mũi hom hem, buồn bã, thân thể gầy yếu, đi thì lúc nào mặt cũng cúi gầm xuống, hay đứng đợi chuyến xe bus trên tuyến đường Bolsa hay lượm báo Việt trong các khu chợ Việt Nam và những năm 90.

Ngày nay cái hình ảnh H.O. đó đã tan biến, hòa hợp vào trong nhịp sống thường ngày của cộng đồng Việt Nam, có còn chăng là năm ba ông H.O. nay đã đến giai đoạn dưỡng già, ngồi uống cà phê nói chuyện chiến tranh thế giới, chuyện Việt Nam hôm nay, hay nhẩn nha đứng mua cái vé loto luôn luôn với dòng chữ “cash value” vì chuyến tàu sắp đến ga, làm gì để có thời giờ chia món tiền trúng này ra trong một đoạn đường dài 28 năm.

Nhưng với những năm đầu của thập niên 90, H.O. là một phong trào, một hiện tượng, một biến cố, một đợt sóng lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Trước đây là chuyện di tản vào Tháng Tư, 1975, và sau đó là chương trình ODP, những làn sóng người Việt ngày đó dễ hòa tan nhanh chóng trong số đông, nhưng H.O. là một đợt di dân vĩ đại. Phố xá, chợ búa đông đúc hẳn lên, xe bus nhiều người đi hơn, các cơ sở xã hội làm việc không hết, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ có hàng loạt người khách ngồi chờ, kinh tế Bolsa có chiều hướng đi lên thấy rõ.

Nhiều người sốt ruột vì lâu nay đi làm ăn vất vả, bỗng dưng có một số đợt người đến gặp lúc xã hội Mỹ dang tay rộng mở, giúp đỡ tới một năm trời trợ cấp, nhất là trợ cấp y tế, điều mà nhiều người đi làm khác cũng đang gặp khó khăn. Không phải ai cũng có liên hệ với chính quyền hay quân đội cũ và có người trong gia đình đã bị tù đày nên không khỏi có cái nhìn thiếu thiện cảm, thiếu rộng lượng với lớp người chưa du nhập vào đời sống Mỹ kịp thời. Trong khi nhiều nhà báo nhắc tới và ca tụng H.O. là những người chịu thiệt thòi đáng được cộng đồng tri ân, thì nhiều người lại cho rằng, “H.O. là gì? Chạy không kịp mới trở thành H.O.” Một bạn H.O. than với tôi, “Mình tàng tàng thì người ta nói “đúng là H.O.” Mình mặc được cái áo đắt tiền, đi cái xe đẹp một tí, thì người ta mỉa mai: “H.O. mà cũng sang nhỉ!”

Gia đình nào có thân nhân bảo lãnh thì đỡ hơn, số còn lại do các nhà thờ hay các hội đoàn bảo trợ, lãnh giúp tiền trợ cấp nhưng chỉ thuê giúp một cái apartment rẻ tiền, cho một bộ nệm cũ hay bộ bàn ghế chợ trời.
“Ơn ai một chút chẳng quên,” mình qua đây như vậy là tốt phước rồi. Chúng ta đã được nghe bao nhiêu chuyện than phiền về cách phục vụ thiếu thiện chí hay bắt bẻ, “ma cũ bắt nạt ma mới” của các cán sự xã hội mà gia đình H.O. nào cũng đã phải nhiều lần bước đến bàn giấy của họ. Các ông bà này bắt bẻ tận cùng, còn khó hơn cả cán sự xã hội Mỹ hay Mễ.

Tiện đây, cũng phải nhắc đến thiện chí của nhiều chủ nhân, nhiều khi muốn giúp đỡ đồng hương bằng cách bắt đầu thuê một số anh em H.O. làm việc trong các nhà hàng, cắt cỏ hoặc xây dựng nhà cửa, nhưng dần dà phải bỏ cuộc vì số anh em mới sang, sức lực đã bao năm hao mòn trong các nhà tù Cộng Sản, không năng động và dễ bảo như nhân công người Mễ, lại tính người Việt hay để ý đến công việc và thu nhập của nhà chủ nên dần dần bị đào thải. Nhiều ông chủ than phiền, “Anh em mình thích nghỉ trưa, hút thuốc nhẩn nha cả tiếng đồng hồ, lại hay thắc mắc về thu nhập của chủ, đem so bì với số lương của mình.” Bây giờ qua một thời gian gạn lọc, chỉ có một số anh em còn lại, chịu khó đứng làm việc trong chợ, giúp việc nhà hàng ăn, hay làm việc trong ngành xây cất, đã có đời sống ổn định.

Khoảng thời gian 1990-1998 là lúc các gia đình H.O. đến định cư ở Mỹ nhiều nhất, cung cấp nhân lực cho các dịch vụ chăm sóc người già, nuôi người bệnh, giữ trẻ tại các tư gia. Các gia đình H.O. hiện nay đã ổn định khi con cái của họ đã lớn khôn, cho ta thấy hiện nay kiếm người phụ việc nhà như ngày trước rất khó khăn. Một vấn đề xã hội khác, là vào những năm trước 1990, số thanh niên vượt biên nhiều hơn phái nữ, nên có tình trạng trai thừa gái thiếu trong cộng đồng Việt Nam. Những đợt gia đình H.O. đến Mỹ đã tạo được những cuộc hôn nhân tốt đẹp và điều hòa được vấn đề khó nghĩ này của xã hội di dân. Tục ngữ Việt Nam có câu, “Trời sinh voi, sinh cỏ,” nên trong giai đoạn anh em H.O. mới định cư tại Mỹ, nghề “nails” bắt đầu phát triển và thịnh hành đã đưa đến công ăn việc làm không ít cho nhiều gia đình di dân mới mẻ này, và với các đức tính “chịu khó, khéo tay, cần cù,” nhiều người đã có một đời sống khá sung túc.

Các gia đình H.O. đã cung cấp nhân công cho các shop may, người trẻ thì chạy máy, người già thì cắt chỉ, nhặm lẹ thì xếp hàng, đóng gói, mà cho đến giờ này vẫn còn đứng vững với thời gian. Đúng là “Trời sinh voi, sinh cỏ,” “ở xứ Mỹ này có nghèo chứ không có đói.” Các gia đình có chồng, cha đi “cải tạo,” đã biết cái khổ của bữa rau, bữa cháo, nên sang đây, phần lớn các gia đình này đều “chịu thương, chịu khó,” chẳng mấy chốc mà đã có một cuộc sống ổn định.

Tính từ người cựu tù nhân chính trị bước chân đến Mỹ vào năm 1990, đến nay đã được 25 năm. Hai mươi lăm năm, là thời gian dư để cho một em bé sinh ra trên đất Mỹ tốt nghiệp đại học. Riêng thành phần cựu tù nhân chính trị sang đây, mặc dù tuổi đã cao, tinh thần đã mệt mỏi, vẫn có người tốt nghiệp đại học với các học vị như Ph.D, Master, Bác Sĩ, Nha Sĩ... như một nha sĩ đã hãnh diện quảng cáo cho phòng mạch của mình là “Nha Sĩ H.O. 11” (đúng ra là H.11). Còn về sự thành đạt của con các “Ông H.O.” thì chúng ta phải có một cuốn sách mười nghìn trang loại “Vẻ Vang Dân Tộc” mới ghi hết. Có những gia đình H.O. ra đi chậm, mãi đến những năm 1994-95 mới đặt chân tới Mỹ, vậy mà có đến ba bốn người con đều đã tốt nghiệp nha sĩ, y sĩ hay dược sĩ, tiến sĩ. Lẽ cố nhiên, khoa bảng chưa đủ để nói tới điều gì ích quốc, lợi dân, nhưng ít ra những gia đình này cũng theo kịp những người đi trước để khỏi mang mặc cảm thua thiệt.

Mong rằng các em đã là những người thân có cha, anh là nạn nhân của chế độ Cộng Sản, là những người đã có thời gian sống dưới chế độ này, đã biết nỗi khổ đau riêng của dân tộc mình, và chung của con người, sẽ có một lối sống và suy nghĩ cho xứng đáng với những sự hy sinh của cha anh và nỗi nhọc nhằn của cả dân tộc.


Huy Phương & Võ Hương An
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2015 lúc 4:02am

Tháng Tư Ngày Đó 


Tháng ba Đà Nẵng trong cơn sốt. Ngôi trường tôi dạy tạm thời cho học sinh nghỉ học.
Đoàn người tị nạn từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị chạy vào lũ lượt. Trường mở cửa để làm trại tiếp cư.

Căn nhà tôi ở đối diện với trường học,  rất gần nhà nên đó là lý do tôi nhất định xin về dạy tại đây. Dù bên Ty Giáo Dục Đà Nẵng đã bố trí tôi dạy tại trung tâm thành phố. Con nhỏ tên Khanh dạy chung trường với tôi đã khuyên tôi từ tháng trước:
-Em nói với riêng chị, Đà Nẵng sẽ mất về phía bên kia. Chị nên rút hết tiền nhà băng ra và tìm cách cho anh ở nhà đừng về đơn vị. Quân Giải phóng sắp về.
Tôi nhìn Khanh bằng đôi mắt nghi ngờ. Đã từng ở vùng xôi đậu, tôi hiểu hai bộ mặt của một con người. Tôi nói:
-Em làm việc cho phía bên kia hả?
Nó cười:
-Em mà làm gì. Em nghe người ta nói.
Thế là Khanh rút tiền ngân hàng, dẫn nhóm tôi đi Chợ Cồn ăn uống một bửa thịnh soạn, mua tặng cho mỗi đứa một bộ áo dài đồng màu hoa và lơi dần không đi dạy. Khi đoàn người tị nạn về trường. Khanh chỉ có mặt  tại trường vài lần để xem tình hình và nhắc tôi lần nữa:
-Chị đã làm như lời em dặn chưa? Hãy tin em. Em coi chị như chị ruột nên mới nói. Xem em nè.
Nói xong Khanh  xòe hai bàn tay đã cắt móng sạch sẽ không sơn màu mè đỏ rực như lúc trước. Nó ôm tôi thật chặt. Cho địa chỉ nhà dặn khi nào cần tìm nó. Xong nó biến mất không tới trường.

Tôi lúc đó chạy qua chạy về phụ sắp xếp và giúp đở cho bà con trong nỗi lo sợ. Thế nhưng tôi nói ra thì mẹ chồng không tin, còn chồng thì ở mãi đơn vị với bao nhiêu tin xấu từ hậu cứ đưa về.
Đêm đêm pháo dội về ầm ĩ vì nhà tôi gần phi trường Phước Tường. Đêm nào cũng ôm con chạy xuống hầm trú ẩn. Tôi cũng như mọi người dân ở đây sống trong hồi hộp vô cùng.

Tin từ radio loan về quân ta đã tháo chạy nhiều nơi và Đà Nẵng trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Thiên hạ đua nhau tháo chạy về bến tàu, nhà cửa bỏ trống, mọi người không còn màng làm ăn. Chợ thưa dần và dường những tên nằm vùng đã chính thức lộ mặt. Chồng tôi vẫn còn ở bộ chỉ huy trung đoàn. Mọi tin tức về anh chập chờn. Ai chạy mặc ai, chúng tôi chỉ ngồi nhà chờ tin anh.
Đà Nẵng hổn loạn, bọn hôi của nhào vào những nhà chạy loạn lấy đồ, những chiếc xe đạp, xe hon da, xe ba gạc xuôi ngược với đủ thứ đồ dùng gia đình trên đó . Và Đà Nẵng đã xuất hiện những người mang trên tay những băng đỏ và tin xấu đưa về. Chồng tôi vẫn bặt tăm

Nhà tôi cũng là một trại tạm cư, ba gia đình bên chồng từ Quảng Trị vào lánh nạn. Gia đình Mụ Xếp với cô con gái thật đẹp. Gia đình anh Bi với hai vợ chồng và 5 đứa con nhỏ. Gia đình chú Đen 2 vợ chồng với đứa con. Mẹ chồng tôi đã mua gạo và thức ăn khô dự trữ để phòng khi hữu sự. Gia đình mụ Xếp bán vải nên đồ đạc mụ đem gửi không phải ít. Vợ chồng anh Bi sáng sớm là bỏ đi ra ngoài, bầy cháu tôi phải lo chăm sóc.

Trong cơn hổn loạn đó, chồng tôi về với một đoàn lính tráng mặc mày xơ xác đầy mõi mệt và kinh sợ. Họ súng ống  còn đầy đủ vì từ căn cứ về. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân không liên lạc được với Đại đội cũ của mình, anh đích thân lên đồn để kéo họ về vì tình tình đã không bảo vệ được. Lịnh trên tuyên bố bỏ Đà Nẵng.
Tôi  lo làm cơm nước thức ăn cho một đại gia đình tối tăm mặt mũi. Ăn cơm xong, chồng tôi quyết định cùng anh em ra bến tàu về Sài gòn.

Tin về là ở  bến tàu rất hổn loạn, quân nhân và dân tràn về không còn chỗ chen chân. Mọi người tranh nhau tìm một chỗ để thoát khỏi Đà Nẵng.  Nghe nói có nổ súng và có người chết.

Má chồng tôi lưỡng lự không muốn đi vì còn phần mộ tổ tiên ở quê. Mấy gia đình tạm cư nhà tôi họ ở lại chờ tình hình. Gia đình tôi nói lời từ biệt và gửi nhà lại cho họ. Mấy người lính đi thành một vòng  cung bảo vệ đưa gia đình ông thầy ra bến tàu. Đi được một quảng đường , hòa mình vào dòng người di tản má chồng tôi không đi tiếp. Dừng ngay giữa đường, bà nói:
-Thôi! Vợ chồng mi đi đi. Mạ không đi nữa, mạ về có chết ở cươi mạ cũng chịu. Còn sống thì mạ về quê lo phần mộ tổ tiên ông bà.
Là con một, mẹ anh ấy đã ở vậy nuôi con từ lúc chồng mất thật sớm, chồng tôi không thể làm đứa con bất hiếu. Anh quyết định ở lại, từ giả đồng đội,  vợ chồng tôi rẻ đoàn người chạy đi, để  ngược lại về nhà. Đó là ngày 28/3/1975

Về nhà được một chút, mừng vì nhà không bị người ngoài vào hôi của. Chưa biết phải làm gì trong tình thế hổn loạn, thì xe chở người bên kia, cờ xí rợp trời, reo la inh ỏi chạy ngang đường. Đà Nẵng đã thật sự thất thủ. Tới tối, những người lính lục đục trở về nhà tôi trong sự sợ hãi, mọi việc đã kết thúc. Tôi lôi đồ thường dân của chồng phân phát cho họ. Mấy anh em quăng  quân trang, súng, đạn xuống  cái hố kế ao rau muống sau nhà. Cuộc đời binh nghiệp chấm dứt hôm nay.

Chồng tôi cố thủ trong nhà để chăm mấy đứa cháu và con. Tôi đi chợ nấu ăn tất bật cả ngày.Những người lính cũng chỉ biết ngồi nhà nghe radio, thỉnh thoảng ra ngoài nghe ngóng. Không khí trong nhà trầm lại, nặng nề. Dường như có một bàn tay vô hình siết chặc cổ. Đau đớn, ngộp thở không thể vẫy vùng. Những người cùng quê ra khỏi nhà mỗi ngày, chôm đồ cũng có, tìm bà con cũng có và họ dọ dẫm tìm đường về lại Quảng Trị

Cuối tháng ba, đầu tháng tư  những người bà con bên chồng tôi từng đi tập kết đã có mặt ở Đà Nẵng. Họ tìm cách liên lạc và nhắn tin khuyên má chồng tôi về lại quê . Những người tạm cư nhà tôi lần lượt về nhà họ ở Quảng Trị. Khi đi họ ít đồ. Khi về nhiều hơn. Chỉ có nhà tôi gạo cũng lưng, thức ăn cũng hết và tiền bạc cũng không còn là bao. Bây giờ đã đến lúc manh ai nấy bơi.

Có vài người lính gia đình ở miền Trung đã rời nhà tôi tìm cách về lại gia đình. Những người sống trong Nam vẫn ở lại nhà tôi chờ đợi. Họ là những người bạn, người em chân thành dễ mến. Họ cũng như tôi đang hướng về Sài Gòn với tất cả thương yêu và lo lắng.
Má chồng tôi quyết định về lại quê nhà để ổn định đời sống. Tôi tìm Khanh, nhỏ bạn dạy chung. Đến nhà mới phát hiện nhà  Khanh  là ổ nằm vùng. Ba em ấy là thành ủy và  gia đình thuộc thành phần  cốt cán của chính quyền mới.

Khanh  khuyên tôi đừng về quê, hãy ở lại Đà Nẵng vì ở thành phố chính sách cho "lính ngụy" sẽ khác hơn. Tôi không thể cưỡng lại quyết định của mẹ chồng và chồng nên đành phải ra đi. Khanh dẫn tôi đến Ty Giáo Dục Đà Nẵng. Giữa cơn hỗn loạn, giấy tờ văn thư tung tóe mà em vẫn xin cho tôi được giấy thuyên chuyển từ ty giáo dục Đà Nẵng về Quảng Trị. Đưa giấy tờ cho tôi. Khanh dặn:
- Em khó khăn lắm mới có được giấy này. Chị phải giữ kỹ, không thể xin cái thứ hai.  Vì khi ổn định,  thành phần cán bộ cốt cán sẽ thay đổi . Chị nhớ chỉ trao cho Ty Giáo Dục Quảng Trị, không đưa cho bất cứ ai ở cấp Xã, huyện. Chị phải đi dạy vì chị là một nhà giáo giỏi.

Khanh ôm tôi lưu luyến và từ biệt.  Còn tôi trong vòng tay ấm áp đó tôi chợt rùng mình. Thì ra bên cạnh mình là người của phía bên kia. Thật đáng sợ. Kể từ hôm đó. tôi không hề biết tông tích hay liên lạc với Khanh cho đến bây giờ.

Đúng như Khanh đã nói, tiền gửi ngân hàng của gia đình tôi không lấy được một đồng. Nhưng với tính cả tin, mẹ chồng tôi vẫn nuôi hy vọng chính phủ mới sẽ trả lại cho mình, vì mình gửi ngân hàng nhà nước. Mình là dân, nhà nước nào, chính phủ nào cũng đối xử với dân như nhau mà thôi.

Căn nhà của tôi đã được tháo gỡ, Đồ đạc chất một đống trước sân. Che vài tấm tôn làm chỗ ngủ ban đêm và trưa nắng. Tôi như người mộng du làm việc liền tay mà đầu óc không tỉnh táo. Tôi sẽ về đâu, gia đình tôi ra sao. Có còn tiếp tục đi dạy không? Dạy cái gì khi mình không còn chỗ đứng.

Mẹ chồng tui mừng vui ra mặt. Bà chỉ có một thằng con trai. Bây giờ im tiếng súng không còn chiến tranh. Hòa bình về rồi, quê hương là vòng tay ấm áp ôm những người xa xứ về lại bên mồ mã tổ tiên, ông bà.  Sum họp với bà con, làng nước. Sửa sang lại nhà từ đường và vun quén lại mãnh đất bà từng sinh ra và lớn lên. Những ý nghĩ đó làm mẹ chồng tôi rộn rã mừng vui.
Những người bên kia tìm cách liên lạc về:
-Mụ trở về làng mền đi. Không răng mô. Chi chứ việc của hắn có bầy choa lo, vợ hắn đi dạy tại làng. Mụ chừ yên tâm khỏi lo chi súng đạn. Đảng sáng suốt lắm. Mụ sợ chi.
Chú chồng tôi từ quê cũng nhắn vào:
- Mụ về làng đi. Tui cho một sào lúa sắp chín ngoài đồng. Mụ về  gặt mà ăn, chờ mùa sau.
Ôi! những tin thật tốt, những tấm lòng mở ra như như hoa như gấm xóa đi bao nhiêu lời khuyên chân tình của tôi. Tôi khuyên gia đình chồng tôi khoan về quê, cứ ở lại đây chờ tình hình. Người ta sao mình vậy. Xem sao đã rồi hãy tính. Nhưng tiếng nói của tôi rơi vào vô vọng. Khi mẹ chồng tôi buông một câu như đinh đóng cột với sự đồng tình củachồng tôi:
- Mi muốn ở lại thì ở. Tao và hắn sẽ đem con bé về quê. Mi mần răng thì cứ làm.
Tôi ở lại ư? Nhà đâu mà ở, tứ cố vô thân biết sống với ai. Còn con tôi, núm ruột yêu thương tôi không thể xa cách. Tôi ngậm ngùi buông xuôi số phận.
Mẹ chồng tôi cả tin nên không mua gạo đem về quê. Gạo nhà dự trữ đã  gần hết, Má chồng tôi chỉ cần gạo đổ vào các thùng đạn để chén, dĩa kiểu cho khỏi bể mà thôi. Khi tôi nói bà mua vài bao gạo đem về quê, bà lắc đầu cười rạng rỡ:
- Về làng mình ăn gạo mới con hè! Chi chớ lúa mới gặt về ,chà ra, nấu cơm ăn với ruốc và rau luộc thì ngon chi lạ. Ai lại chở củi về rừng.

Một người lính miền Nam là đệ tử ruột của chồng tôi, theo chuyến xe tải má chồng tôi mướn, cùng chuyển đồ đạc gia đình tôi về quê. Em ở lại phụ dựng nhà xong mới từ giả tìm đường về với gia đình. Chúng tôi sau này ở trong Nam cũng cố gắng đi tìm nhưng không gặp lại. Chúng tôi đã biệt tin em tới bây giờ. 

Chúng tôi trình diện chính quyền địa phương. Ông Bí thư, ông Chủ Tịch đều là người làng. Cả hai nhìn chúng tôi như những con vật bị ghẻ lở. Họ soi mói nhìn tôi, một người phụ nữ ngụy quyền miền Nam có một đứa con lai Mỹ. Dù đứa con gái ấy tôi không sinh ra nhưng tiếp tay nuôi dưỡng tàn dư Đế quốc thì tội còn nặng hơn lỡ bước có con với Mỹ. Ông Chủ tịch xã giơ hàm răng vàng khè cáu thuốc lào cười vào mặt tôi:
-O có tội. Tội nặng lắm. Phải đi học tập, phải học tập thông suốt mới được.

Chồng tôi bị đòi phải đưa ra tất cả huy chương anh đã được. Phải bằng vàng, bằng đồng thực sự. Họ không tin những huy chương đó chỉ là tượng trưng. Giấy tờ chứng minh chúng bảo không hợp lệ. Lại một phen cãi vã sôi nỗi của chồng tôi và nhóm cán bộ ngu ngốc mới từ miền Bắc vô. Chồng tôi bị ghi sổ bìa đen vì dám cãi tay đôi với cán bộ.
Các Chú và cậu chồng tôi phán những câu thật mới mẻ:
-Mi là đại úy, có tội với Đảng với đồng bào. Mi đi học tập cải tạo tư tưởng tốt sẽ được chính phủ khoan hồng về sum họp gia đình. Gia đình mi ở nhà có bầy choa lo.
Thế là chồng tôi khăn gói đi tù tận miền Bắc thâm sơn nước độc suốt hơn 8 năm trời.

Má chồng tôi bán nữ trang để mua gạo ăn ngay tuần đầu tiên dọn về. Bà bị rơi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Bà không còn cười sảng khoái như trước. Bà khóc tức tưởi và bệnh thật nặng. Trong bà niềm hối hận  thương con, thương dâu xen lẫn với sự cực khổ lo nuôi gia đình làm bà đau yếu triền miên.

Tôi bị trấn lột hết giấy tờ tùy thân kể cả giấy thuyên chuyễn đi dạy.  Họ cho tôi đi học tập chính trị tại Đông Hà 3 tuần. Ở nhờ  nhà dân, mọi sự tự túc.  Con bé ở nhà khát sữa không có mẹ. Không có sửa Similac để bú, sửa hộp mua cũng dè sẻn. Bà nội cho uống nước cháu pha đường đở đói. Ở đây tôi lên cơn sốt vì sữa căng cứng không biết sao giải quyết. Cuối cùng phải cho con người dân bú thép dùm. Những buổi học chính trị nhàm chán, những bài giảng huấn vô lý và ngang ngược. Nuốt vào lòng bao bất mãn tôi chịu đựng để còn về với con. Một người trong khóa học hỏi một câu ngô nghê:
- Xin hỏi cán bộ.  Mặt trận giải phóng miền Nam đặt thủ đô ở nơi nào?
Thế là hôm sau anh ta khuất bóng. Nghe nói đã được lịnh thuyên chuyển đi học tập nơi khác rồi. 
Sau hơn 3 tuần đi học chính trị tại Đông Hà tôi chính thức gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Ông chủ tịch nói với tôi :
- Giấy tờ đi dạy của O tui giữ. O phải tập lao động chân tay. O lao động tốt thì chồng O sớm về. O ngoan cố, chồng O không được khoan hồng.

Cái mắc xích giữa người ở nhà và đi tù ràng rịt như vậy nên tôi đành chịu nhịn sang sông. Tôi đã biết thế nào là lao động vinh quang. Biết thế nào là chăn trâu, cắt cỏ, đạp nước ruộng sâu,  cấy lúa sâu bao nhiêu cho mỗi vụ mùa. Nhất là biết thế nào là đỉa đeo hay cầm vằng cắt lúa.

Tôi tham gia hợp tác xã, làm xã viên ăn cơm nhà đi lao động, lúa chỉ được chia khi vụ mùa kết thúc. Sau khi đóng thuế cho Xã, trả nợ phân, lúa giống, thuốc trừ sâu... còn lại mới chia cho xã viên. Lúa được chia theo công điểm lao động cộng lại suốt vụ mùa. Điểm  lao động được bình bầu sau mỗi ngày làm việc. Mà bình điểm lao động mới nhiêu khê. Sau một ngày làm việc, cả nhóm ngồi lại và mỗi người tự nhận xét mình làm hôm nay đáng bao nhiêu điểm. Mỗi xã viên nhận xét số điểm ấy có xứng đáng hay không. Đồng ý thông qua hết, thư ký mới ghi vào sổ. Bình tới bình lui, tranh nhau từng điểm một. Hôm nào về nhà cũng tối om. Tôi đi bờ ruộng không quen cứ bị sụp chân lọt xuống ruộng hoài.  Hai chân mốc cời, gót chân nứt nẻ. Ôi còn đâu cái thời điệu đàng mang guốc cao đứng trên bục giảng.

Tôi là dân chưa hề biết ruộng đồng nên công điểm có là bao.  Nhất là cái khoản bình điểm tôi thấy như tập cho người ta tranh chấp nhỏ mọn với nhau . Tôi không bao giờ tự cho điểm mình. Tôi nói tôi tới học làm, ai cho bao nhiêu cũng được. Do đó cuối mùa lúa tôi chỉ được 100 ký thóc và vài gánh rơm đem về chụm lửa.

Mẹ chồng tôi phải bán lần nữ trang để mua gạo và thức ăn. Bà bắt đầu buôn bán lại để có đồng ra đồng vô nuôi cả gia đình. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào sự bươn chải của bà mẹ già tội nghiệp. Tôi không biết buôn bán, tôi không quen ai ở đây,lại phải đi lao động hợp tác xã nên thật tội nghiệp mẹ chồng tôi cực khổ nuôi con, nuôi dâu và nuôi cháu.

Một lần cả ba bà cháu đều bệnh. Mẹ chồng tôi đau buồn ,sức yếu không ngồi dậy được, toàn thân đau nhức. Tôi đun rơm nấu ba nồi nước. Một nồi nước lá thuốc, một nồi nước chè xanh, một nồi nước trà tươi để bà cần thứ gì thì có. Sáng sớm lo cho mẹ chồng xong, tôi để con bé nằm bên nội, cõng con bé lớn đi trạm xá. Đoạn đường làng thật xa. Hai chân con như muốn quẹt dưới đất. Những cơn ho làm con bé như muốn ngất đi. Làn da trắng tái lại tội tình. Đến nơi khai bệnh để lấy vài viên xuyên tam liên đem về. Buổi chiều bồng con bé em đi trạm lần nữa cũng để lấy vài viên xuyên tam liên tán ra cho uống. Biết rằng thuốc cũng chẳng trị được gì, nhưng có sự chứng nhận của trạm, tôi mới được phép ở nhà chăm con. Nhìn căn nhà trống vắng, nhìn ba người nằm rũ riệt vì đau.Tôi muốn chết cho xong. Tôi ra giữa trời khấn tứ phương, tôi xin cho tôi một lối thoát, tôi xin cho mẹ chồng và hai đứa con tôi bình an. Tôi như muốn điên lên vì bao nghịch cảnh. Tôi như một người máy ra vườn hái đủ loại cây cỏ kể cả dây tơ hồng. Tôi chặt ra, phơi khô rồi rang thủy thổ. Tôi nấu nước cho cả ba người cùng uống. "Liều mạng". Tôi nhủ thầm. Thế mà mẹ chồng tôi ngồi dậy được, con bé lớn giảm ho, con bé em bớt sốt, những ban đỏ nổi lên rồi từ từ lặn. Một sự trả lời diệu kỳ từ ơn trên. Tôi cảm thấy mình vững tin hơn về sự sắp đặt an bài từ cõi vô hình. Tôi mạnh dạn đối diện thực tế. Tôi cứng cỏi hẳn lên. Tôi phải gánh vác cùng mẹ chồng thăm nuôi chồng nơi rừng sâu nước độc và lo nuôi con khôn lớn.

Tôi được tin Sài Gòn thất thủ vào một buổi chiều trên đường từ ruộng về nhà. Xa xa đã nghe loa của Xã vang vang báo tin toàn thắng.  Tôi khựng lại để nghe một lần nữa rồi lặng người đi. Vậy là toàn cỏi VN đã là của Cộng Sản. Đành chấp nhận như một định mệnh đã an bài. Trong tôi nhen nhúm một niềm vui đoàn tụ song thân. Bên bờ sông Ô Lâu nhìn dòng nước êm đềm trôi tôi lại nghĩ đến Sài gòn trong cơn hổn loạn như Đà Nẵng trước đây. Nhưng tôi thật sự không thể tưởng tượng được sự hỗn loạn đó kinh khủng đến thế nào.

Chồng tôi vẫn biền biệt. Hình như anh đã được chuyển ra Bắc nhưng nơi nào chưa có tin về. Tôi ôm con vào trong lòng. Con bé ốm yếu xanh xao tội nghiệp. Mọi thứ đã chấm dứt hôm nay. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ được trở lại nghề dạy học. Tôi biết con đường phía trước sẽ đầy dẫy chông gai và tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết tin tức chính xác về Sài gòn. Chỉ biết tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và toàn cõi VN đã rơi vào tay Cộng Sản.

Con bé lớn tôi đi học. Tờ giấy khai sinh kèm theo hồ sơ đóng một cái mộc đỏ" Con ngụy quân, ngụy quyền" của nhà trường làm tôi chới với. Làm sao thoát khỏi mấy chữ đỏ này trong suốt cuộc đời. Con bé em lớn dần và bập bẹ nói. Mỗi khi đi ngang cỗng chào của xóm có hình ông Hồ và bảng "Độc lập, tự do, hạnh phúc" Cháu lại bập bẹ " Muôn năm, muôn năm". Trời ơi! những câu hô hào khẩu hiệu hàng ngày trên cái loa trước trụ sở Ủy Ban đã dạy con tôi hai chữ này. Mọi thứ nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ cho tôi thấy sự khác biệt của nền giáo dục tôi từng học và dạy nó khác bây giờ như thế nào.

Học tập  và giáo dục chính trị dường như thường xuyên cho mọi người dân. Buổi tối đi làm về chưa kịp ăn cơm đã nghe kẻng đội vang lên báo tin lên Ủy Ban học tập.  Có khi không kịp tắm rửa thay đồ, mọi người tay cầm con cúi (là rơm bện thật chặc dùng để đốt lên làm đuốc đi đêm) để đi họp. Trên chiếc bàn con, đèn dầu leo lét, cán bộ miền Bắc quần chẻn áo ngắn nói như vẹt. Vừa dai, vừa dài vừa vô lý kéo dài trong cái ngáp mệt mõi và ngủ gật của bà con xã viên. Tan buổi họp, từng đoàn người như những bóng ma với đóm lửa lập lòe đi vào từng xóm. Những hàng tre  trúc thấp thoáng ánh lửa như âm hồn phảng phất trở về.

Tháng tư năm 1975 người con gái Biên Hòa hoàn toàn đổi đời để sống cho chồng và cho con. Tôi quên hết quá khứ và dần dần giọng tôi cứng lại. Tôi nói bằng âm hưởng của người Quảng Trị, gương mặt sạm đen, chân mốc cời  nứt nẻ. Tôi đã biết chăn trâu, ra lịnh cho trâu đi hay đứng lại. Tôi đã quen với đỉa và những câu nói tục tỉu của những người nông dân nói trây khi xuống đồng hay gặt lúa. Tôi đã biết cười mỉm khi nghe những bài lên lớp thần thoại Liên Sô vĩ đại hay sự trù dập của những người cầm quyền. Nhất là tôi đã biết thế nào là bão lụt  và cái lạnh cắt da miền Trung  để rèn luyện bản thân mình.

Bây giờ đã là 40 lần 30/4 lại về. Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc, bao nhiêu người con gái đã bị làm nhục vì hải tặc Thái Lan. Những vết hằn chiến tranh thành sẹo, thành hậu chấn theo mỗi mùa tháng tư lại về. Những khúc phim cũ được quay lại ngay chính từ mỗi con người để khắc khoải không nguôi.

Tôi đang ở đây, một nước Mỹ xa lạ trở thành quê hương. Những người láng giềng nhiều chủng tộc khác nhau. Con tôi bây giờ đang là những người quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ. Màu cờ con tôi phục vụ không phải là màu cờ của Tổ Quốc VN.

Các cháu tôi đã được sinh ra và lớn lên với quốc tịch Mỹ , nói tiếng Mỹ và sống theo người Mỹ. 40 năm cho hơn nửa đời người, con bé 5 tháng tuổi trong ngày 30/4/75 bây giờ là một phụ nữ trung niên. Chồng tôi bây giờ là một người lính già bệnh hoạn .Thân xác và tâm thần sa sút nặng nề. Những ám ảnh những ngày tù tội đè nặng quá khứ vô phương vùng vẫy. Tôi sống trong sự tuyệt vọng về bệnh tình của chồng dù đây là một nước văn minh có điều kiện về y tế tiên tiến nhất trên thế giới

40 năm qua thời gian cũng làm phôi phai nhiều thứ. Tuổi đời chồng chất và tôi cũng hiểu được nghĩa của hai chữ vô thường.Cuộc sống mỗi người đều do nghiệp và duyên của mình tạo thành. Tôi chấp nhận những gì đã xảy ra cho mình, cho gia đình và cố gắng làm tốt bổn phận mình.

Tôi  cám ơn đất nước đã cưu mang gia đình tôi để chúng tôi có cuộc sống tự do. Các con và cháu tôi đến trường mà không bị cái lý lịch ngụy cản bước tương lai. Tôi đã có quá nhiều thứ trong cuộc sống nhờ bàn tay giúp đở của những người không hề quen biết. Ông Trời đã xếp đặt cho những kẻ thua cuộc lại có thể đứng thẳng lên hảnh diện vì lý tưởng của mình. Những chiếc áo lính, những cái nón, những bản nhạc... Tất cả những gì của Mỹ Ngụy bây giờ lại là những món đồ giá trị được yêu thích và đáng trân trọng. Những người con Ngụy thế hệ thứ hai đã làm rạng danh cha ông tham gia vào dòng chính của quốc gia tạm dung. Đã là những con người tài năng, giỏi giang đóng góp tài sức và trí tuệ cho đất nước cưu mang mình. Con tôi hảnh diện vì lý tưởng Quốc Gia của cha mình và dù lá cờ vàng không được tung bay tại quê hương VN nhưng nó lồng lộng rực rỡ mọi nơi trên thế giới.

Xin cám ơn những người đã tranh đấu cho người lính được đến Mỹ theo diện HO. Cám ơn những người đã dũng cảm đứng lên cất cao tiếng nói tự do của người Việt Nam. Cám ơn  anh, cám ơn chị, cám ơn mọi người đã cho chúng tôi đến đây để sống một cách lương thiện và đầy tình người.
Cám ơn với tất cả ngậm ngùi vì VN sau 40 năm vẫn còn là một quốc gia nghèo đói không có bình đẳng và tự do.

Nguyễn thị Thêm.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2015 lúc 11:42am

Chờ Mong Tờ Điện Tín

boat-people

Sau 1975 những người còn ở lại miền Nam Việt Nam không biết những ai đã nghĩ ra và những ai đã là người đầu tiên ra khơi vượt biển đi tìm tự do ? để cho dòng người đi sau tiếp nối không bao giờ ngừng nghỉ nếu các trại tị nạn không đóng cửa chấm dứt chương trình cưu mang những người vượt biển.

Ai cũng mơ ước, cũng tính đường đi tìm tự do tùy theo hoàn cảnh khả năng tài chính của mình. Bao nhiêu người đã may mắn đến bến bờ và cũng bao nhiêu người bất hạnh bỏ xác ngoài biển khơi ...

Tôi nhớ mãi một câu chuyện vượt biên dù đã mấy chục năm qua rồi .

Khỏang năm 1983 nhà tôi quay trở lại bán cà phê và nước ngọt, lúc này công nhân viên của nhà máy Z751 ( tức "Lục quân công xưởng" trước 1975) không đông đảo như nhân viên và lính tráng trước kia, nhưng khách hàng vẫn khá đông là bà con lối xóm.

Chú Bích là người hàng xóm hay ra uống cà phê tại quán tôi . Nhà chú ở trong hẻm, bước ra khỏi hẻm đi vài căn là tới qúan cà phê nên rất thuận tiện cho chú .

Lần nào ra quán chú cũng dẫn theo thằng con út tên Báu khỏang 10 tuổi và gọi cho nó một chai nước ngọt, hai bố con ngồi uống như hai người bạn, bố uống xong cà phê trước thì đợi thằng con uống xong phần chai nước ngọt hai bố con mới ra về, dù nó vừa uống vừa nói huyên thuyên với bố đủ thứ chuyện thật lâu .

Có lần hai bố con đang uống trong quán thì thằng Báu thấy ông bán cá Lia Thia cá Xiêm dắt xe đạp đi ngang qua, nó vùng chạy ra xem và đòi bố mua . Chú Bích bỏ dở ly cà phê đen nóng bước ra ngoài, ông bán cá đã đứng lại đợi khách, thằng Báu ngắm nghía đã đời từng con cá sắc màu đang bơi ngoe nguẩy trong những bịch ny lông treo tòn ten đầy trên khung giây thép cứng chở sau xe của ông bán cá rồi mới chọn cho mình 1 con cá Xiêm vừa ý, thằng bé khôn thật cá Xiêm đắt tiền hơn cá Lia Thia và đẹp hơn, trẻ con nào cũng thích.

Khi trở vào quán ly cà phê của chú Bích đã nguội tanh mà cả bố và con cùng vui. Chú thương con và chiều con lắm.

Thằng Báu giống bố, đẹp trai giống bố. Hình ảnh hai cha con đi đâu cũng có nhau đã quen thuộc với tôi cũng như với mọi người hàng xóm, ngay cả khi chú Bích mang chiếc xe đạp ra tiệm sửa xe thằng Báu cũng lót tót đi theo, tôi cũng đang chờ vá chiếc xe đạp tại đây và nghe thằng Báu nói với bố:

- Mai mốt con lớn con làm nghề sửa xe đạp, sửa xe cho bố không lấy tiền,

Lời nói ngây thơ mà chí hiếu, tôi nghe còn cảm kích nói gì chú Bích, chắc chú rất mát lòng.

Hai cha con thật thân tình và gần gũi như bóng với hình.

Chú Bích là đại úy của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ngày 30 tháng Tư năm 1975 chú đang nằm điều trị tại Tổng y viện Cộng Hòa.

Khi quân Việt Cộng chiếm bệnh viện và xua đuổi những thương bệnh binh chế độ cũ ra ngoài, chú trở về nhà với vết thương điều trị dở dang ....Nhưng nhờ thế mà chú không thể đi trình diện tập trung "học tập cải tạo" được,. ủy ban phường đã cho chú Bích ở nhà dưới sự quản chế của địa phương, chú Bích không thể đi đâu xa hay vắng mặt lâu được.

Mấy năm qua, từ ngày miền Nam bị "giải phóng" chú Bích chỉ ở nhà, làm việc nhà trong khi vợ chú bôn ba làm việc hết tổ hợp này đến tổ hợp khác để nuôi chồng và 3 con. Không ai hiểu vì sao chú không đi làm khi sức khỏe đã tương đối khá .

Vậy mà một hôm hàng xóm kháo nhau rằng chú Bích dẫn thằng Báu đi vượt biên. Người đời thính tai và tinh ý thật, nhà nào có ai đi vắng chẳng dấu được lâu, nếu một hai tháng không trở về thì một là đi vượt biển trót lọt, hai là chết biển hay là vào tù ...

Bởi thế có ai đó đã chế ra câu " Con đi được con nuôi má, con chết biển thì nuôi cá, và con ngồi tù thì má nuôi con "

Xóm tôi thời điểm đó đã có hai gia đình có con đi vượt biển bị mất tích.

Nhà bà Tịnh đứa con gái đi chuyến tàu chưa ra tới khơi xa đã bị đắm, nghe đồn những xác chết trôi tấp vào Mũi Né Phan Thiết, bà Tịnh đã tất tưởi ra Phan Thiết ăn chực nằm chờ thuê người đi tìm xác con gái mấy ngày mà không được..

Nhà bà Trí thì tang thương hơn, cả con và cháu là 5 người, họ ra đi biền biệt không một tăm hơi gì. Bà Trí chờ mong tin và đau khổ đến héo hon gầy rộc đi như một xác mắm khô. Nhưng bà vẫn can đảm một năm sau lại cho thằng con trai đi vượt biên tiếp, chuyến này trời không phụ lòng bà, chuyến tàu nó đi đã cặp bến bình yên.

Bà Trí từng tuyên bố với người bạn thân: " Tôi cho các con đi vượt biển để tìm tương lai, các con đi được thì dù tôi có ra chợ ăn mày hay ai mang tôi ra chợ bắn chết tôi cũng chịu "

Tôi thông cảm cho hoàn cảnh chú Bích lắm, vì gia đình tôi cũng đang "xây mộng" cho các em đi vượt biển nên cầu mong nếu tin đồn ấy là sự thật thì hai cha con chú được bình yên đến nơi đến chốn.

Chú Bích không dẫn con đến quán tôi uống cà phê suốt hai tuần lễ liền. Có lẽ giờ này hai cha con chú đang lênh đênh ngoài biển khơi rồi ?

Bây giờ thì hàng xóm đã hiểu ra, chú Bích không đi làm vì không muốn bị ràng buộc bởi công việc để dễ dàng toan tính chuyện vượt biên.

Nhà cô Bích thì cửa đóng then cài để tránh sự dòm ngó của hàng xóm và công an khu vực.

Cho đến tuần lễ thứ tư thì hàng xóm lại kháo nhau:

- Chú Bích đến đảo rồi.

- Hai cha con thật may mắn.

- Cũng may cho ông đại úy, ở nhà bị công an quản chế, cứ mỗi tháng phải ra trụ sở công an trình diện một lần, đi đâu phải xin phép, tù giam lỏng như thế ai mà chịu nổi, mấy năm qua tuy mang tiếng là hết hạn quản chế nhưng công an khu vực vẫn thỉnh thoảng đến nhà thì khác gì bị quản chế đâu.

Có bà không tin hỏi lại cho chắc ăn:

- Sao bà biết là đại úy Bích đến đảo rồi ? mà đảo nào ?

- Chẳng biết đảo nào, miễn là đến xứ tự do. Sáng qua chính mắt tôi thấy cô Bích hớn hở nấu cà ri gà, chắc mấy mẹ con ăn mừng vì được tin chồng vượt biển thành công.

- Sao bà biết cô Bích nấu cà ri gà ? bà có vào bếp nhà cô Bích không ?

Bà kia quyết liệt:

- Tôi đi chợ thấy cô Bích mua 1 con gà và bó xả ..

Một bà có mấy đứa con đi vượt biển may mắn đến nơi đã tỏ ra hiểu biết:

- Nay mai cô Bích có điện tín thì biết ngay, không đảo Bidong Mã Lai, thì đảo Galang Indonesia, không đến Songkla Thái Lan, thì đến Phi Luật Tuân, Hồng Kông ...

Thế là tin đồn bố con chú Bích đi vượt biên đến nơi và ở nhà vợ chú đã nấu món cà ri gà ăn mừng bung ra, càng lúc càng lan rộng, mấy người hàng xóm đến quán tôi uống cà phê truyền tai nhau thoải mái thì làm gì mà công an khu vực và uỷ ban phường không biết.

Công an phường đã gọi cô Bích lên để chất vấn và dọa sẽ cắt hộ khẩu chồng con cô, cô Bích một mực chối cãi nói rằng hai vợ chồng bất hòa cãi nhau rồi ông chồng giận dỗi mang thằng út đi đâu cô không hề biết.

Tới giờ phút này thì khó có thể dấu diếm được nữa, với niềm vui mừng cô Bích đã tâm sự kín đáo với vài người hàng xóm thân là chú Bích và thằng Báu đi vượt biển, hai người cùng chuyến tàu đã đánh điện tín về nên cô rất mừng, chỉ yên trí đợi điện tín của chồng gởi về thôi .

Thế là tất cả những tin đồn đều là sự thật, kể cả chuyện nhà cô Bích nấu cà ri gà ăn mừng. "Tình báo" hàng xóm thật bén nhạy .

Ngày nào cô Bích cũng mong chờ anh đưa thư đi qua, thậm chí nhà không có thư cô Bích cũng vẫy anh đưa thư để hỏi thăm là có điện tín hay thư từ gởi đến địa chỉ nhà cô không?

Chắc cô Bích e rằng anh đưa thư để thất lạc tờ điện tín của chồng cô đâu đó, vì mỗi ngày qua mà vẫn bặt vô âm tín.

Vài tháng đã trôi qua, niềm vui mừng của gia đình cô Bích đã xẹp xuống bớt, cô băn khoăn và lo lắng ra mặt, ai hỏi thăm thì cô chỉ trả lời đang chờ đợi điện tín của chồng, cô đặt nghi vấn là có thể chú Bích làm mất chỉ vàng mang theo nên không còn tiền để thư từ hay đánh điện tín nữa? Hoặc chú muốn làm gia đình bất ngờ đợi đến Mỹ mới báo tin chăng?

Cô Bích đã bám víu vào những lý do mong manh ấy để hi vọng, để đợi chờ.

Và rồi không ai dám lên tiếng hỏi thăm cô Bích về tin chồng con của cô nữa, chỉ sợ làm cô hoang mang thêm và lo lắng thêm.

Nhưng cô Bích vẫn không ngừng hi vọng, cô vẫn chờ anh đưa thư mỗi ngày đi qua nhà ...

Anh đưa thư qúa quen thuộc với địa chỉ những người trong xóm, anh hiểu thấu tim gan người ta, biết tâm lý của người ta, nhà nào có thư thường tức thư nội địa trong nước Việt Nam thì anh làm xong nhiệm vụ một cách mau chóng, chẳng trông mong gì, nhà nào có thư từ nước ngoài gởi về anh hớn hở mang tới và bao giờ cũng nhận được tiền thưởng của người nhận thư dù chưa biết trong thư nói gì.. Nhất là nhà có người đi vượt biên gởi điện tín báo tin đã đến trại tị nạn là anh càng lãnh thưởng nhiều, anh biết mình sẽ là người đầu tiên báo tin vui, anh biết cách làm người ta sốt ruột mới chìa tờ điện tín ra.

Có lần anh mang tờ điện tín cho bà Sáu hàng xóm cạnh nhà tôi, 2 đứa con bà đi vượt biên 4-5 tuần lễ mà chưa có tin, gia đình bà như ngồi trên chảo lửa, anh đưa thư thong thả chống chân xe đạp và càng thong thả mở cái túi đeo trên vai đựng đầy thư từ rồi lại thong thả nói khi cả nhà bà Sáu đã đứng trước mặt anh nãy giờ::

- Điện tín... từ Mã Lai nè ...ai ra ký tên nhận giùm.

Cả nhà bà Sáu cùng vỡ òa niềm vui mừng không cần dấu diếm, nhận tờ điện tín và dúi vào tay anh đưa thư một nắm tiền không cần đếm..

Sau này anh đưa thư sắm xe Honda loại xịn đi đưa thư chắc là nhờ anh ky cóp những bổng lộc này.

Anh đưa thư đã mang tin vui đến cho nhiều người, nhưng nhà cô Bích thì không, nhìn vẻ mặt cô Bích hi vọng và thất vọng mỗi ngày khi không có thư từ, anh đưa thư cũng mủi lòng, anh né không dám đi ngang qua nhà cô Bích nữa mà đi lòng vòng lối khác để giao thư cho được yên thân. Tôi hỏi điều này thì anh đưa thư xác nhận:

- Tôi không nỡ nhìn cô Bích thất vọng chị à, mỗi lần thấy tôi cô Bích không hỏi nữa chắc vì cô ngại đã hỏi nhiều lần mà không có gì, nhưng cô vẫn nhìn tôi với ánh mắt chờ mong ...

Tôi chỉ biết thở dài:

- Cô Bích cũng có lý chứ, biết đâu tin vui đến muộn ? Không lẽ người đi cùng tàu đến nơi mà cha con chú Bích không đến nơi.

Đã nhiều lần cô Bích đến hai gia đình họ hàng bên chồng có người thân đi cùng chuyến tàu với chồng con cô để hỏi thăm tin tức nhưng vẫn không biết gì hơn.

Rồi họ đã đi định cư ở nước ngoài do được bảo lãnh từ lâu, mà cô Bích vẫn chưa nhận được điện tín của chồng.

Điều bí ẩn ấy bao trùm lên gia đình cô Bích và hàng xóm suốt nhiều năm trời.

*******************

Năm 1991 gia đình tôi sang Mỹ định cư diện HỌ5, và hơn 10 năm sau tôi tình cờ bắt liên lạc được với người bạn thân cùng xóm tên Hằng sống ở Houston, Texas. Hằng di tản sang Mỹ từ năm 1975, Hằng là cháu ruột của chú Bích.

Sau những lần chuyện trò hỏi thăm nhau từ qúa khứ đến hiện tại kể từ khi biến cố 1975, tôi mới chợt nhớ ra và hỏi Hằng về chú Bích và đã biết sự thật đau lòng.

Chuyến tàu chở hơn 70 người đi vượt biển bị lạc hướng lênh đênh nhiều ngày trên biển, xăng dầu, thực phẩm và nước uống dự trữ hầu như cạn kiệt, thuyền trôi tự do và chờ chết chùm, không chết vì biển thì cũng chết vì đói khát, mọi người lo sợ khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện ngày đêm tùy theo tôn giáo của mình, cả tàu tuyệt vọng và bi thảm như đại tang..Họ suy xụp cả thể xác lẫn tinh thần, đoàn người như những bóng ma trong con tàu trôi vật vờ vô định cả ngày lẫn đêm.

Chiếc tàu trôi dạt vào gần một hòn đảo thì mắc cạn, ai nấy đều mừng rỡ coi như vừa chết đi sống lại, đám đông kéo nhau lên đảo, nước ngập lên tới cổ tới ngực tùy chỗ nông sâu.

Chưa biết trên đảo có gì nhưng biết là không bị chết chìm ngoài biển khơi là mừng rồi.

Giữa cảnh chen lấn nhau lên bờ thằng Báu xảy chân ngã xuống biển, khi người ta biết và cứu được thì nó đã chết đuối rồi. Chú Bích ôm xác con lên bờ khóc lóc một cách điên dại.

Dù mệt mỏi và đuối sức, những người đồng hành cũng giúp chú Bích để xác thằng Báu vào một khe đá và lấy những tảng đá nhỏ khác che chắn lại coi như một nấm mồ.

Một nhóm khác đi dạo thử trên đảo để xem xét tình hình, họ nói đây là đảo hoang chỉ toàn là san hô và đá tảng với vài loại cây mọc thưa thớt chẳng thể tìm đâu ra lương thực hay nước uống cả.

Bây giờ đám thuyền nhân lại lo chết đói chết khát trên hòn đảo hoang vu rộng lớn này. Họ quyết định rủ nhau đi tìm chỗ nào cao ráo nhất để đốt vải, đốt áo làm khói hiệu may ra có tàu nào trông thấy mà đến cứu còn hơn ngồi chờ chết.

Mọi người đi, nhưng chú Bích không chịu địChú Bích bây giờ như một người điên, chú ngồi khư khư bên xác thằng Báu với đôi mắt vô hồn và miệng thì không ngớt lẩm bẩm một câu duy nhất:

- Cứu con tôi! cứu con tôi! cứu con tôi!

Mọi người xúm vào khuyên giải và năn nỉ chú:

- Đằng nào cháu cũng chết rồi, anh hãy đi theo chúng tôi để tìm sự sống?

Hai người cháu họ của chú cũng vừa rơi nước mắt vừa vỗ về chú như vỗ về một đứa trẻ con:

- Chú ơi, chú để xác thằng Báu ở đây, đi với tụi cháu, chúng ta phải đi khỏi nơi đây may ra sẽ sống sót ...

Nhưng chú Bích vẫn khăng khăng từ chối, chú lảm nhảm gọi tên con và khóc tu tu thảm thiết.

Thật không ngờ một người lính tác chiến từng vào sinh ra tử, chỉ sau những ngày lênh đênh trên biển với bao căng thẳng lo âu, bao suy nhược tinh thần và thể xác cộng thêm cái chết bất ngờ của thằng con thâu yêu mà người đàn ông can trường ấy bỗng hóa thành điên dại.

Không thể thuyết phục được chú Bích đoàn người để chú ở lại bên xác con và kéo nhau đi tìm chỗ khác trên đảo. Họ lôi thôi lếch thếch dắt díu nhau, bồng bế nhau, lôi kéo nhau đi trên những tảng đá nhọn gập ghềnh cả nửa buổi trời đến nỗi nhiều người chân chảy máu hay sưng vù lên ...

Tới một chỗ khá cao, tầm nhìn ra biển rộng hơn thoáng hơn thì họ dừng lại. Khi trông thấy bóng con tàu nhỏ xíu ngoài xa họ đốt áo cho khói lên liên tục nhưng chiếc tàu vẫn vô tâm không hề hay biết.

Sáng hôm sau họ tỉnh dậy sớm thì thấy một con tàu đang lù lù đến rất gần, nhiều người mừng vui qúa hét hò lên vang trời vang biển, nhiều người khác thì lo đốt áo làm khói hiệu và cả đám đông kéo nhau đứng trên những tảng đá cao nhất để giơ tay vẫy vẫy cầu cứu.

Tất cả những người trên chuyến tàu đã được cứu thoát như một phép nhiệm màụtrừ hai cha con chú Bích. Cùng đi môt chuyến tàu, cùng trải qua những gian nan nguy khốn vậy mà số phận đã nghiệt ngã với hai cha con chú, không được đến bến bờ mơ ước cùng với họ..

Có người thương tâm nói với thuỷ thủ trên tàu về trường hợp chú Bích, nhưng họ nói nếu không nhớ đích xác ở đâu thì họ không có thì giờ đi tìm được, và có những nơi trên đảo con tàu không thể đến gần vì san hô và đá ngầm.

Các thủy thủ cũng cho biết đây là đảo hoang không có con người và các phương tiện sinh hoạt khác.

Chuyến tàu của Indonesia đã đưa đoàn người vượt biển đến đảo Galang xong họ tiếp tục cuộc hành trình.

Hai người cháu họ của chú Bích đánh điện tín về cho gia đình, sau đó họ khuyên gia đình dấu kín cái chết thương tâm của cha con chú Bích trong nhiều năm, đợi thời gian như liều thuốc nhiệm màu từ từ chữa lành vết thương của gia đình người bất hạnh, mãi những năm sau này họ mới cho cô Bích biết .

Hằng đã liên lạc với hai người cháu họ ấy ở Mỹ và được biết sự thật chuyến đi vượt biên này từ họ ....

Hơn 30 mấy năm qua tờ điện tín mà cô Bích mong đợi không hề đến và không bao giờ đến.

Không ai biết tin gì về cha con chú Bích, nhưng ai cũng có thể suy đoán đoạn kết vở bị kịch là chú Bích đã chết đói chết khát bên cạnh xác con trai mình trong tình trạng tâm thần điên loạn.

Cha con chú Bích đã thoát khỏi Việt Nam, chú Bích đã thoát khỏi cảnh công an quản chế giam lỏng.

Nhưng họ chỉ đi được nửa cuộc hành trình, đã bỏ xác nơi đảo hoang.

Hai cha con chú Bích vẫn bên nhau như ngày nào nơi mái nhà xưa, nơi hàng xóm cũ.

Xung quanh hai cha con chú là biển khơi bao la. Sóng và biển sẽ ru hai linh hồn bơ vơ kia giấc ngủ ngàn đời, ngàn đời

Nguyễn Thị Thanh Dương

GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 28/Apr/2015 lúc 3:01pm

Tình Người Của Hải Quân Hoa Kỳ Trong Biến Cố 30/4/75

Hàng Không Mẫu Hạm Midway quyết định đẩy trên 10 triệu US Chiến Cụ xuống biển lấy chỗ cho Phi Cơ L 19 do T/T Lý Bửng đáp trên sàn HKMH cứu 7 Con Người trên phi cơ đó

https://www.youtube.com/watch?v=wfUj6udXAGU




Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp


image
Ông Lý Bửng (phải) cùng ông Larry Chambers (thứ 2 từ trái sang), người đã giữ chức thuyền trưởng tàu USS Midway lúc ông Bửng đáp xuống 39 năm trước. Ảnh chụp ngày 5-4-2014


image
Những người thân trong gia đình ông Bửng và gia đình ông Chambers.
Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.

image
Chiếc máy bay bà già mà Thiếu Tá Bửng đáp xuống ngày 30/4/1975
Th/Tá Lý Bửng: Chiếc USS Midway này đã quá cũ nên chính phủ Mỹ đưa qua San Diego, biến nó thành cái Bảo Tàng Viện như một chứng tích của cuộc chiến. Trong đó một phần cũng do cái chuyện đáp L19 của tôi làm cho nhiều người tò mò đến xem, nên họ đã làm một cái L19 khác giống như chiếc tôi lái và để trên HKMH cho du khách xem, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam.



Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 28/Apr/2015 lúc 3:30pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 30/Apr/2015 lúc 8:09am
Vì Tự Do Họ Phải Ra Đi & Số Phận Của Những Người Ở Lại  <<<<<<<



Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 30/Apr/2015 lúc 8:16am
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2016 lúc 8:46am

Tập Thơ Buồn Của Người Lính VNCH..(Thơ Lính ST)


Đọc những bài thơ của Lính để nhớ tới các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa !...  


“Đây Là Tiếng Nói Nước Việt Nam
Phát Thanh Từ Thủ Đô Sài Gòn …”




Cho đến nay, tiếng nói đó vẫn còn
Vang vọng mãi trong trái tim “Người Lính”
Là hình ảnh của một thời ổn định
Là tiền đồn của Thế giới tự do

Của miền Nam nước Việt rất ấm no
Là thành lũy mang hồn thiêng sông núi
“Người Lính” trẻ đã một thời dong ruỗi
Đem Tình người, Tình lính trấn biên cương



Vẫn một lòng chung thủy với quê hương
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng
“Người Lính” chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng
Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần


Enlarge this image


Trọn một lòng chỉ vì Nước, vì Dân
Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc
Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc
Đến Cà Mau mưa, lũ ngập đồng sâu

Vết giầy saut lội bất cứ nơi đâu
Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống
“Người Lính” chúng tôi mang trái tim hào phóng
Của tuổi đời đẹp nhất: lúc đôi mươi


Enlarge this image


Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng
Trong gian truân vẫn nồng ấm nụ cười
Dù đôi lúc có hoang mang, phẫn nộ
Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh

Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh
Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt trận
Rồi cũng đến lúc chào thua số phận
Khi tàn vong đành nước mất, nhà tan


Enlarge this image


Vì thế cùng, lực tận phải sang bang
Thân nhược tiểu, xót thầm, ôi ngang trái
“Người Lính” chúng tôi không hề chiến bại
Chỉ chào thua định mệnh đã an bài



Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại
Chờ bình minh quang phục của ngày mai...
còn tiếp....
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 15/Mar/2016 lúc 4:52am
Những Bước Chân Người Lính Việt Nam Cộng Hoà!...

Trên Bốn Vùng Chiến Thuật..




Anh đi chiến dịch xa vời
Mỹ Tho, Phú Quốc, Đầm Dơi, Định Tường
Anh đi dãi nắng dầm sương
Vùng Bốn Chiến thuật dậm đường đã qua

Gò Công, Bà Rịa, Biên Hoà
Tây Ninh, Bà Rá, Đức Hoà, Long An
Anh đi mưa gió chẳng màng
Vùng Ba Chiến thuật gian nan không sờn

Pleime, Phú Bổn, Qui Nhơn
Tam Quan, An Lão, Bồng Sơn, Trà Bồng
Anh đi trèo núi băng sông
Vùng Hai Chiến thuật cũng không vắng chàng

Ba Gia, Quảng Ngãi, Việt An
Khe Sanh, Quảng Trị, Hội An, Phong Điền
Anh đi đánh trận triền miên
Vùng Một Chiến Thuật địch quân kinh hoàng

Anh đi bảo vệ giang san
Một đời lính chiến vẻ vang tung hoành
Em thương anh Lính Mũ Xanh
Bốn vùng Chiến thuật dấu chân anh còn.



Bước đi ai bước âm thầm
Xe anh lăn bánh lặng trầm trong mưa
Anh hồi tưởng lại thuở xưa
“Dấu chân“ chinh chiến say sưa diệt thù

Ngày xưa “dấn bước“ lãng du
Một đời ngang dọc chiến khu coi thường
Hậu Giang, Bình Định, Hiền Lương
Bước chân anh khắp nẽo đường Việt Nam

Xe anh lăn bánh hôm nay
Nhưng tròn trách nhiệm làm trai chiến trường
Xưa tung cánh Ó bốn phương
Tuổi chiều xế bóng tìm đường thảnh thơi

Nào ai đoán trước cuộc đời
Có ai biết được sao dời đổi thay
Cuộc đời ít ngọt nhiều cay
Ta hãy chấp nhận đừng ray rức buồn...

còn tiếp....

GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.445 seconds.