Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh
Message Icon Chủ đề: Đập gương xưa tìm... chút dư hương cũ. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 9
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2015 lúc 5:59am

Nhớ món ngon Sài Gòn

Có nhà văn nào đó cho rằng khi viết về ẩm thực bụng phải đói mới ‘lột tả’ hết cái ngon của món ăn. Tôi rất tâm đắc với ý kiến này. Hồi còn trong trại tù cải tạo, cái bụng lép kẹp lúc nào cũng sôi ùng ục, tôi và vài người bạn tù có “tâm hồn ăn uống” vẫn thường kể cho nhau nghe những món khoái khẩu của mình. Ăn “hàm thụ” sao mà ngon thế. Phải nói ngon gấp nghìn lần ăn… thực thụ!
Thời cải tạo qua đi nhưng thời điêu linh lại kéo tới. Vào thời đó, cái để đút vào mồm chỉ toàn khoai mì chạy chỉ với bo bo, còn được mệnh danh là… cao lương. Ngồi nhấm nháp cao lương mà cứ tức anh ách. Ai đó đã khéo chơi chữ mà đặt tên, mỉa mai không khác gì cái món ‘mầm đá’ của ông vua ngày xưa!
Nhưng rồi cũng qua đi cái thời ăn để mà sống, người ta bỗng nhớ đến thời… sống để mà ăn ở Sài Gòn hoa lệ ngày nào.

Theo tôi, một trong những món ngon đó phải kể đến phở. Mặc dù phở có xuất xứ từ miền Bắc nhưng phở Sài Gòn thường ăn kèm với giá, ngò gai, húng quế vẫn ngon hơn phở Hà Nội thiếu hẳn các loại rau thơm mà lại không có giá.
Vào đến Sài Gòn ngày xưa có con đường tên Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), một đầu là đường Tự Do (Catinat), đầu kia là đường Hai Bà Trưng (Paul Blanchy). Tiệm Phở Bắc được bán trong khuôn viên nhà thờ Hồi Giáo này, nên có tên là Phở Turc.
Sài Gòn 1954, lúc người Bắc mới vào Nam, những tiệm Phở Bắc hãy còn đếm được trên đầu ngón tay. Đó là mấy tiệm Phở Thịnh đường Gia Long, Phở Turc đường Turc, Phở Minh đường Pasteur và Phở 79 ở đường Frère Louis (sau này đổi tên thành đường Võ Tánh và đến 1975 lại đổi thành Nguyễn Trãi thuộc quận 1).
Ngay bên hông rạp Casino có một hẻm nhỏ, đi vào hẻm đó là một dẫy nhà, đa số là nhà dân Bắc Kỳ di cư sớm, từ những năm 1920. Tiệm Phở Minh nằm ở dãy nhà đó.
Phở Minh có cả phở bò lẫn phở gà nhưng đặc biệt hơn cả còn có bài thơ do thi sĩ Trần Rắc đề tặng. Bài thơ được cắt chữ, đóng khung kính, treo trên tường. Bài thơ Đường luật có 4 câu đầu như sau:

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành,
Trần Minh Phở Bắc đã lừng danh.
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn,
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh.

Thi sĩ Trần Rắc chính là ông chủ tiệm giày Trần Rắc đường Lê Thánh Tôn, gần Khám Lớn Catinat năm xưa. Tiệm giầy Trần Rắc, và cả mấy tiệm giầy ở đường này, đều có cửa sau đi vào hẻm ‘ẩm thực’ Casino.
Việt Nam ta đúng là… ra ngõ gặp nhà thơ. Đến như ông chủ tiệm giày cũng có thể làm thơ về phở chứ chưa dám nói đến Tản Đà là người viết nhiều về nghệ thuật ăn uống!
Trên đường Mạc Đĩnh Chi (M***iges), gần bên hông Tòa Đại sứ Mỹ, còn có phở Cao Vân, dù tiệm phở này không nằm trên đường Trần Cao Vân (Larclause) cách đó không xa. Theo tôi, phở Cao Vân (25 Mạc Đĩnh Chi) chỉ thuộc loại ‘thường thường bậc trung’ nhưng được nhắc tới cùng với phở Minh vì Cao Vân cũng có một bài thơ ca tụng phở của thi sĩ Tú Mỡ được viết bằng sơn ngay trên tường.

Trong các món ăn Quân Tử Vị
Phở là quà đáng quý trên đời

Chủ của phở Cao Vân ngày nay là một ông cụ Bắc Kỳ hom hem theo năm tháng. Ông không còn đứng ra nấu phở nhưng chiều chiều thường ngồi nhậu lai rai với các ‘chiến hữu’ để hưởng nhàn!
… Trên đường Pasteur có Phở Hòa, khá nổi tiếng. Ban đầu, lúc khai trương năm 1960, tiệm phở này mang tên Hòa Lộc. Có lẽ sau này khách ăn cứ gọi tắt là Hòa nên Hòa Lộc biến thành Hòa theo kiểu gọi tên một chữ cho dễ nhớ thường thấy ở các tiệm phở (?).
Phở Hòa chỉ chuyên loại phở bò, nếu vào đây mà tìm tô phở gà thì không có. Khách phải chịu khó ra đường Hiền Vương (bây giờ đổi tên là Võ Thị Sáu), đến tiệm Hương Bình, ‘chuyên trị’ phở gà.
Nói đến phở Sài Gòn tại khu vực trung tâm, phải nói đến tiệm Phở 79, ngay tại số nhà 79 trên đường Võ Tánh. Khoảng năm 1952, tiệm Phở 79 mở cửa, khi đó nền nhà của tiệm còn thấp hơn mặt đường. Chỉ vài năm sau tiệm phát đạt, chủ nhân mua hai nhà bên cạnh, mở lớn thành tiệm Phở 79 khang trang và có thể nói là một trong những tiệm phở sạch nhất Sài Gòn thời đó.
Trường Sinh ngữ Quân đội có chi nhánh ở đường Nguyễn Văn Tráng rất gần với Phở 79 tại khu vực Ngã Sáu Sài Gòn. Đám giảng viên chúng tôi thường xuyên ăn sáng, ăn trưa và cả ăn tối mỗi khi ‘ứng chiến’ tại trường.
Phở tại đây được đánh giá là… ‘ăn được’. Nếu ai ‘ăn không được’ thì chịu khó đi thêm vài bước ra Ngã Sáu, nơi đây có đủ các món ăn chơi thuộc loại bình dân, từ phở, hủ tíu cho đến mì và có cả xe… bánh mì mua về trường nằm gặm trong những đêm ứng chiến!
Gần ngã tư Phú Nhuận có phở Quyền trên đường Võ Tánh (thuộc quận Phú Nhuận), cách cổng phụ của Tổng tham mưu chừng 100 mét. Tôi thường ghé ăn nơi đây mỗi khi về trụ sở chính của Trường sinh ngữ trong Tổng tham mưu. Nước phở ở đây rất đậm đà, vị ngọt là của xương ống chứ không phải vì bột ngọt. Phở Quyền còn có cả món ‘tái sách tương gừng’ được xếp vào loại… trứ danh.
Con cháu của một số gánh phở nổi tiếng Hà Nội đã vào Nam lập nghiệp năm 1954, trong cơ hội lịch sử này có phở Tàu Bay. Vốn là quán phở do ông nội mở vào 1950 ở Hà Nội, khi di cư vào Nam, ông chủ quán được người bạn thân tặng cho chiếc mũ bay. Ông thường xuyên đội nó, khách thấy lạ, gọi ông “Tàu bay” rồi chết tên thành tên quán.
Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ ngày nay vẫn bán và khách quen ngày nào vẫn chịu khó mò đến đây để tìm lại hương vị đặc thù. Phải nói Phở Tàu Bay rất… hiếu khách. Gọi thêm nước béo, nhà phở đem ra cả tô chứ không bằng chén nhỏ như những tiệm khác. Tô đặc biệt của Tàu Bay lại là tô ‘Xe Lửa’, bánh và thịt trên mức hậu hĩnh.
… Kể từ khi người Bắc di cư vào Nam, tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tíu, vốn là món ‘đặc sản’ của miền Nam. Các tiệm hủ tíu nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ tíu Thanh Xuân đường Tôn Thất Thiệp (gần chùa Chà Và), hủ tíu Phạm Thị Trước ở đường Lê Lợi (khúc gần Pasteur), hủ tíu Gà Cá ở đường Hàm Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ tíu Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực…
Có người đến hủ tíu Phạm Thị Trước gọi thêm bánh pâté chaud ăn kèm, cũng giống như hủ tíu Gà Cá. Tuy nhiên, mỗi tiệm hủ tíu đều có hương vị riêng khiến một khi khách đã ‘kết’ thì khó đi ăn nơi khác. Hủ tíu Sài Gòn sáng nào cũng đông người đến thưởng thức, không cần đợi đến những ngày cuối tuần.
Thường thì hủ tíu có bánh mềm, chỉ riêng hủ tíu Thanh Xuân hay Mỹ Tho thì thêm bánh dai, nấu khô hay nước, tùy theo ý thích của khách. Chỉ nhìn dĩa rau dọn lên trước thì cũng thấy bắt mắt: giá, hẹ, rau cần tàu, tần ô và vài cọng xà lách. Thêm vào đó, mùi nước lèo xông lên như đập vào khứu giác thực khách làm cho bụng cứ gào thét…
Người bồi bàn bưng mâm ra để tô hủ tíu trên bàn, mùi nước lèo xông lên mũi, nếm thử ‘nghe’ được mùi thơm của nước lèo, thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay. Hủ tíu Thanh Xuân thì phải có rau tần ô, rau cần tàu, giá sống. Hủ tíu Phạm Thị Trước hay Thanh Thế cũng thế, nhưng không có rau tần ô. Riêng hủ tíu Gà Cá thì chỉ có giá sống.
Tuy nhiên, các thứ hủ tíu nếu thiếu vài miếng tóp mỡ và cải bắc thảo thì hình như thiếu mất cái gì đó. Nước lèo vừa ngọt của xương, vừa béo của chất tủy từ ống xương, thoang thoảng chút mùi của con mực, tôm khô, hào khô và củ cải. Những thứ ấy quyện vào nhau thành một thứ nước lèo hấp dẫn.
Hủ tíu bình dân thì có những xe hủ tíu bán dạo. Từ mờ sáng cho đến khi màn đêm buông xuống, nghe tiếng rao… lòng thấy nao nao!

* * *

Đối với tôi, một món cũng thuộc loại ‘khoái khẩu’ ở Sài Gòn là… bánh mì thịt nguội, trong đó có cả jambon, xúc xích, patê ăn kèm với sốt mayonaise và đồ chua! Bánh mì thịt nguội ăn sẽ ngon hơn nếu bạn có thì giờ ngồi nhẩn nha tại tiệm: các loại thịt bày trên đĩa trắng tinh kèm thêm một cục sốt bên cạnh dao, nĩa sạch bóng. Bẻ một miếng bánh mì còn nóng, trét sốt lên trên rồi một lớp patê, sau đó cắt một miếng jambon… đưa vào miệng. Tuyệt cú mèo!
Một trong những tiệm bán bánh mì thịt nguội có tiếng ở Sài Gòn từ năm 1954 và còn tồn tại đến ngày nay là Hòa Mã. Tiệm Hòa Mã nằm trên đường Cao Thắng, gần khu vực Bàn Cờ, nơi có những địa điểm nổi tiếng như Kỳ Viên Tự, Tam Tông Miếu, Trường Aurore, Cư Xá Đô Thành, Nhà Bảo Sanh Đức Chính…
Ngày nay, Hòa Mã không khác xưa là mấy. Hòa Mã cũ kỹ, bảng hiệu phai màu theo năm tháng vì đã tồn tại hơn 50 năm kể từ ngày mở cửa. Nhiều người nói chủ nhân Hòa Mã là người đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn… Tiệm Hòa Mã gọi ổ bánh mì thịt của mình là cát-cút, dùng theo tiếng Pháp c***ecroute, bữa ăn lót dạ, bữa ăn nhẹ. Những năm 60, giá bán một ổ bánh mì Hòa Mã là 3 đến 5 đồng, ổ lớn có bơ tươi thì 7 đến 10 đồng.



http://thoibao.com/wp-content/uploads/2015/03/tiem-banh-mi-Hoa-Ma.png

Tiệm bánh mì Hòa Mã (Ảnh chụp năm 1960)



… Xe bánh mì Tám Lự gần chợ Bàn Cờ chỉ bán từ xẩm tối đến đêm khuya. Một ổ bánh mì Tám Lự dài cỡ 4 tấc, hai gang tay, tối ăn vào no đến sáng. Bánh mì ngon, ngoài pâté chả lụa, pâté foie, bơ Bretel còn thêm dưa leo, ngò, hành lá, nước tương, muối tiêu, ớt xắt. Ngày xưa khách chỉ cần nói: “Cho một Tàu lặn hay một Tiềm thủy đĩnh đi, anh Tám!” là khách sẽ có ngay một ổ bánh mì nóng giòn, thơm phức.
Nếu muốn sang hơn thì lên Bánh mì Pâté Tòa đô chính trên đường Nguyễn Huệ hoặc tiệm bánh Hương Lan trên đường Tự Do hay ngồi Thanh Bạch đường Lê Lợi (gần Bệnh viện Sài Gòn). Chỉ cần gọi đĩa bánh mì thịt nguội kèm theo một ly cà phê sữa đá là đủ no cho đến trưa. Thanh Bạch vẫn là nơi lý tưởng để vừa ăn sáng vừa ngắm cảnh người Sài Gòn sửa soạn cho một ngày mới.
… Sài Gòn xưa có hai tiệm Thanh Bạch, một ở đường Lê Lợi, bên rạp xi-nê Vĩnh Lợi. Tiệm Thanh Bạch thứ hai ở đường Phạm Ngũ Lão, trong dẫy phố trệt dưới tòa soạn nhật báo Sàigòn Mới năm xưa. Ngoài bánh mì ốp-la, ôm-lết, thịt nguội, Thanh Bạch có bánh mì bò kho, hủ tíu và đặc biệt là món suông. Bún suông dùng xương heo để nấu nước lèo, và đặc biệt ở đây là dùng tôm tươi lột vỏ, bỏ đầu, bằm nhuyễn sau đó vo lại thành sợi dài (như sợi bún). Nước lèo ở đây rất trong, ăn kèm với rau sống…
Nhà hàng Tài Nam trên đường Ohier (Tôn Thất Thiệp) nổi tiếng với món đuông chà là chiên bơ rất ngon nhưng cũng rất mắc tiền. Theo nhà văn Sơn Nam, vua chúa cũng còn thèm ‘con đuông chà là’, tên chữ là ‘hồ đa tử’. Hồ đa là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang thường mọc miền nước mặn Nam bộ, giống như cây cau kiểng. Cây dừa rừng có ‘củ hũ’, tức đọt non, đến mùa sau Tết thường xuất hiện con đuông, giống như con nhộng. Đuông ăn đọt dừa non nên to, mập và thường được bắt trước khi nở thành bướm.
Sơn Nam viết: “Đem đuông nướng trên vỉ sắt, cho héo, rồi ăn, chấm với nước mắm nhĩ nguyên chất. Con đuông béo ngậy vì tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là.
… Vùng Thanh Đa (Bình Thạnh) nổi tiếng khắp Sài Gòn với món cháo vịt, gỏi vịt. Vào buổi tối người Sài Gòn hay ra bán đảo Thanh Đa trước là để đón những luồng gió mát từ sông Sài Gòn thổi vào và khi về, ghé mấy quán cháo vịt, gọi thêm đĩa gỏi vịt ăn kèm. Nếu là ‘bợm nhậu’ thì gọi thêm chai bia Con cọp BGI để… đưa cay. Nếu ngại ra Thanh Đa thì trên đường Hồng Thập Tự cũng có khu bán cháo vịt thuộc loại… ‘ăn được’. Thịt vịt tại đây khá mềm, nhai kỹ thấy ngọt và đặc biệt không thấy mùi hôi vốn có của thịt vịt. Có thể họ tuyển loại vịt chạy đồng nên không hôi (?).
Đinh Công Tráng là một con đường nhỏ gần nhà thờ Tân Định nhưng cũng đi vào lịch sử ăn uống của Sài Gòn với món bánh xèo. Bí quyết của bánh xèo nằm ở kỹ thuật pha bột, sao cho khi chiên lên, bánh giòn tan khiến người ăn có thể cảm được cái thú nghe miếng bánh đang được nhai dưới hai hàm răng. Lớp bột gạo pha chút nghệ khi đổ vào chảo dầu tạo nên một tiếng ‘xèo’ khiến ta hiểu được tại sao lại gọi là… bánh xèo!
Ngày nay, đường Đinh Công Tráng trở thành ‘đường bánh xèo’ nhưng người sành ăn thì chọn quán bên tay trái, nếu đi từ đường Hai Bà Trưng vào. Quán không tên nhưng người ăn vẫn nhớ vì nó đã đi vào ‘bộ nhớ’ của người Sài Gòn từ bao năm nay. Những quán đối diện bên kia đường trông có vẻ lịch sự hơn, sạch sẽ hơn nhưng vẫn chịu cảnh vắng khách vì là kẻ… hậu sinh.
Khu Dakao có tiệm bánh cuốn Tây Hồ (127 Đinh Tiên Hoàng), gần chợ Đa Kao, quận 1, nổi tiếng. Tại đây, mỗi bàn có để sẵn một thẩu nước mắm và một chồng chén nhỏ để khách tùy nghi sử dụng, thêm nhiều hay ít ớt bằm theo sở thích riêng của từng người. Tuy nhiên, có khách lại thích chan luôn nước mắm vào đĩa để bánh cuốn thấm nước mắm, đậm đà hơn.
Chả quế và giò lụa được cắt thành miếng lớn, để riêng trong một đĩa nhỏ. Khách có thể chỉ ăn bánh cuốn nhân thịt mà không đụng tới đĩa giò chả, như vậy người phục vụ nhìn vào đĩa chả còn nguyên mà không tính tiền. Nếu cần, có thể gọi thêm đĩa bánh tôm hoặc bánh cuốn không nhân.
Sài Gòn cũng có bánh cuốn Thanh Trì kiểu Bắc, mỏng như tờ giấy, ăn với ‘ruốc’ (chà bông) và nước mắm phải kèm với vài giọt cà cuống mới là ‘sành điệu’! Còn bánh ướt là kiểu bánh cuốn bình dân ở Sài Gòn, cũng ăn kèm với bánh tôm chiên, giò, chả và rau, giá. Những xe bánh ướt được đẩy đi khắp Sài Gòn, có cả nồi hấp nên lúc nào bánh cũng nóng và người bán bao giờ cũng chan nước mắm vào đĩa thay vì chấm kiểu ‘thanh cảnh’ như bánh cuốn Thanh Trì.
Lại nói thêm, đường Albert (vào thời Đệ nhất Cộng hòa đổi tên thành Đinh Tiên Hoàng) khá dài nên dọc theo con đường này có nhiều địa chỉ ẩm thực nổi tiếng. Tiệm ăn Chez Albert (lấy tên theo con đường), Cà phê Hân, Mì Cây Nhãn (tên đặt theo cây nhãn hồi đó còn trồng trước sân), Thạch chè Hiển Khánh (nơi sưu tầm rất nhiều thơ ca tụng thạch chè)… Tôi chắc chắn còn bỏ quên khá nhiều điểm ăn uống khác nữa trên con đường này.
Ở góc đường Tôn Thất Ðạm và Hàm Nghi, trước kia vào thập niên 30 có một quán cháo cá nổi tiếng một thời. Buổi chiều cho đến gần khuya, khách đến ăn rất đông, nhất là khi cải lương, hát bội, hát bóng vãn hát. Theo Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Tạp Pín Lù, quán cháo cá này của người Tàu, gốc Quảng Đông, “cha truyền con nối suốt bốn năm thế hệ, trót trăm năm chớ không phải chơi…”. Cháo tại đây nấu bằng gạo tấm hầm với cá, xương heo và thịt tôm hùm để thành một thứ hồ sền sệt khiến “người đau mới mạnh dùng không sợ trúng thực, người mệt mỏi ăn vào cảm thấy nhẹ bụng, mau tiêu. Tô cháo cá Chợ Cũ quả là một ‘tô thuốc tráng thần’…”
Cháo nóng hổi bốc hơi nghi ngút. Vừa thổi vừa húp xì xụp mới thấy được cái thú vị của món cháo cá Chợ Cũ. Thịt cá giòn, thơm, lẫn lộn hương vị của hành, tiêu, gừng và có thể ăn với ‘dầu chá quẩy’. Thú thật, tôi là người thích thịt hơn cá nhưng thỉnh thoảng được thưởng thức món cháo cá vẫn thấy ngon đến toát mồ hôi!
Có một tiệm cháo giò heo khá nổi tiếng trong ngõ đường Phan Đình Phùng (ngày nay là Nguyễn Đình Chiểu). Tiệm không có tên, chuyên bán cháo từ 6 giờ tối tới một, hai giờ sáng. Khách của tiệm này đa số là khách chơi đêm, khách đi nhảy, khuya về đói bụng đến ăn tô cháo nóng.
Tôi lại nhớ đến món phá lấu ở góc đường Lê Lợi-Pasteur, nơi đây còn có xe bò bía và nước mía Viễn Đông. Bán phá lấu là một chú Tàu và ‘cửa hàng’ của chú chỉ vỏn vẹn một cái khay tròn, trên đó bày đầy đủ nội tạng heo: lòng, dồi, gan, bao tử, ruột non, ruột già, tim, phèo, phổi… Trông thật hấp dẫn, ngửi thơm phức và ăn vào thì giòn tan. Phá lấu nói chung có vị hơi ngòn ngọt, gan thì bùi bùi, lòng thì hơi dai dai nhưng khi nhai kỹ mới thấy ngon… thấu trời xanh!


http://thoibao.com/wp-content/uploads/2015/03/monan-371.pngPhá lấu bán tại góc đường Lê Lợi-Pasteur , cạnh nước mía Viễn Đông


Nghệ thuật làm phá lấu chắc chỉ mấy chú ba mới đáng hàng sư phụ. Phá lấu làm tại nhà cũng ướp húng lìu, ngũ vị hương nhưng không thể nào so sánh với phá lấu góc nước mía Viễn Đông. Từng miếng phá lấu được ghim sẵn bằng tăm, chấm với tương đỏ trộn tương đen. Khách ăn xong chú Ba chỉ nhìn tăm mà tính tiền nhưng tuyệt không bao giờ sai. Quá bộ vài bước là xe nước mía tươi mát đang chờ… để kết thúc một chuyến ăn hàng bên lề đường.
Gần nước mía Viễn Đông có xe thịt bò khô của ông Năm (theo tên gọi của khách quen) và sau 1975 ông dời về đường Tự Đức (nay đã đổi tên là đường Nguyễn Văn Thủ) thuộc khu Dakao.
Dân chơi Sài Gòn thường xếp hạng: “Ăn quận 5, nằm quận 3, xa hoa quận 1” nên viết về món ngon Sài Gòn mà bỏ qua khu vực Chợ Lớn là cả một thiếu sót lớn. Dọc đường Trần Hưng Đạo nối với đường Marins (Đồng Khánh) thuộc địa phận quận 5 có những nhà hàng, tửu lầu nổi tiếng một thời như Arc-en-Ciel, Đồng Khánh, Á Đông, Bát Đạt.
Theo tôi, Chợ Lớn nổi tiếng hơn cả là đường Lacaze mà người Việt hay gọi trại là La Cai, tức đường Nguyễn Tri Phương sau này. Khu La Cai có mì vịt tiềm hầm thuốc bắc, một trong những món ‘tủ’ của người Hoa. Bên cạnh đó còn có những tiệm hủ tíu mang tên Mỹ Tiên, Cả Cần và tiệm bánh bao Bà Năm Sa Đéc.
Đêm đến có các quán sò huyết dọc theo lề đường. Khách bình dân ngồi ăn nhậu thoải mái giữa dòng xe cộ ồn ào bên ánh đèn nê-ông từ các nhà hàng, vũ trường sang trọng của Chợ Lớn “by night”!
… Thôi thì đời người có lúc hưng lúc thịnh cũng như vận nước có khi thịnh khi suy. Viết lại món ngon Sài Gòn chỉ để thỏa mãn kiểu “ăn hàm thụ” như đã nói ở trên. Giờ có cho ăn thực thụ chắc cũng chẳng thấy ngon như thời còn trai trẻ. Tất cả chỉ còn là… hoài niệm!
Nguyễn Ngọc Chính
(Hồi ức một đời người
)


http://thoibao.com/nho-mon-ngon-sai-gon/





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/May/2015 lúc 12:37am

NGƯỜI SÀIGÒN
 
ĐI MÁY BAY

50 NĂM TRƯỚC

Thứ ba, 21/4/2015

***
 
        Nhiếp ảnh gia, phóng viên ảnh Bill Eppridge (1938 - 2013) người Mỹ, làm việc cho tạp chí Life từ năm 1960 đến năm 1972. Ông là một trong những phóng viên nổi bật thế kỷ 20, ghi lại những sự kiện quan trọng giai đoạn này như cuộc chiến tranh Việt Nam, phong trào dân quyền ở Mỹ... Bill Eppridge đã ghi lại những hình ảnh về một chuyến bay dân sự ở Sài Gòn, tại sân bay Tân Sơn Nhất năm 1965.
 
 
Nửa thế kỷ trước, con đường dẫn đến sân bay Tân Sơn Nhất chạy giữa cánh đồng và rặng cây. Xe buýt đưa đón khách đến sân bay. Hành khách được kiểm tra an ninh ngay bên đường - ngày 14/7/1965.
 
 
Bên trong khu vực sảnh sân bay Tân Sơn Nhất bấy giờ.  
 
 
Nơi làm thủ tục cho một chuyến bay từ Sài Gòn đi Huế.
 
 
Hành khách sau khi làm thủ tục xong được vào khu vực chờ bên trong trước khi lên máy bay.
 
 
Hành khách đứng chờ được hướng dẫn đường lên máy bay.
 
 
Nữ tiếp viên hàng không trong trang phục áo dài, mũ lệch và găng tay trắng đang trực tiếp dẫn khách lên máy bay.
 
 
Những hành khách xách theo hành lý ra máy bay. Bên phải bức ảnh là vị khách đặc biệt, thiền sư Thích Nhất Hạnh, người choàng khăn màu tối.
 
 
Đồng phục của nữ tiếp viên hàng không miền Nam Việt Nam (Air Vietnam) là áo dài màu xanh da trời chít ngang phần eo, một kiểu áo dài đặc trưng của phụ nữ Sài Gòn những năm 60 thế kỷ trước.
 
 
Thời điểm này, hành khách phải tự di chuyển một đoạn khá xa từ khu vực làm thủ tục đến máy bay chứ chưa có hỗ trợ từ xe hay cầu ống như hiện nay.
 
 
Trong ảnh, một người khuyết tật cũng tự di chuyển ra máy bay.

***



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 08/May/2015 lúc 4:51pm







ACTV
Association Culturelle Traditionnelle Vietnamienne
Kiều History
UNESCO a conservé et cl***é cette œuvre Kim Vân Kiều de NGUYEN DU parmi les œuvres patrimoniales de l’humanité (1965).
 

VFTV Viet Face TV - Australie 12/09/2013

 
VietFace Show Part 1 – Quách Vĩnh-Thiện.
 
VietFace Show Part 2 – Quách Vĩnh-Thiện.

http://www.youtube.com/watch?v=f1sQgV73bi8

Australie - Sydney SBTN.

SBTN - Publiée le 11 oct. 2013

Truyện Kiều được phổ nhạc và giữ trọn từng chữ trong Thơ.

Thái Hòa phỏng vấn Quách Vĩnh-Thiện - SBTN Úc Châu thực hiện.

 
 
Sách Truyện Kiều Thơ và Nhạc
 
 

Truyện Kiều : Thơ và Nhạc

Nguyễn Thanh Liêm

Nguyễn Thanh Liêm – Quách Vĩnh Thiên – California 2010.

Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du ra đời đến nay đã có trên dưới hai trăm năm. Trong suốt thời gian hai trăm năm đó Truyện Kiều vẫn luôn đứng vững ở vị thế số một trong nền văn học Việt Nam. Cho đến hết thập niên đầu của thế kỷ 21, Đoạn Trường Tân Thanh vẫn được xem như một tác phẩm vô tiền tuyệt hậu, có nghĩa là trước đó chưa có và sau đó cũng chưa có một tác phẩm nào khác ngang bằng hay vượt qua được. Tạo được một tác phẩm như vậy Nguyễn Du quả thật là một thiên tài có một không hai của nền văn chương nước nhà. Từ lúc tác phẩm này ra đời đến giờ không biết đã có bao nhiêu người đọc, đã có bao nhiêu người học và thuộc lòng?

 

Không có con số thống kê để biết rõ, nhưng theo sự ước tính của nhiều học giả, giáo sư, nhà văn, nhà thơ thì con số đó có thể, nếu không đến một trăm phần trăm, thì cũng phải tám chín mươi phần trăm dân chúng. Nói như một nhà văn thời tiền chiến thì “Từ xưa đến nay, không có quyển chuyện nào phổ thông cho một nước bằng chuyện Kiều, từ bực tài cao học rộng cho đến người chí thiển học sơ, từ bực khuê các giai nhân cho đến con sen, con đỏ, ai cũng xem, ai cũng đọc, ai cũng ngâm nga, mỗi người đọc một cách, hiểu một cách, thích một cách. Nhiều người đọc đến đem ra làm vật dụng hằng ngày: người ta mừng nhau bằng Kiều, khóc nhau cũng bằng Kiều, chuyện Kiều là sách đố, chuyện Kiều là sách bói...” (Song An Hoàng Ngọc Phách, bài đọc ở hội Khuyến Học Bắc Ninh, 1935). Đó là tình trạng người ta biết và thích Truyện Kiều hồi trước 1945.

 

Sau này, vì chiến tranh, loạn ly, vì thời thế và tình hình chính trị không cho phép cho nên số người đọc Truyện Kiều, thưởng thức tài nghệ của Nguyễn Du có phần giảm bớt. Riêng ở Miền Nam tự do, việc dạy Đoạn Trường Tân Thanh trong học đường, cũng như việc nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn được giới trí thức đặc biệt chú ý trước biến cố lịch sử 1975.

 

Từ sau 1975 đến nay trong sinh hoạt văn hoá của người Việt hải ngoại, Nguyễn Du với Truyện Kiều, cũng như những tác giả khác trong văn học Việt Nam, ít có cơ hội được nói tới. Tuy nhiên trong thầm lặng vẫn có một ít người nhớ và nghĩ tới Đoạn Trường Tân Thanh và tác giả của nó. Trong những năm 2003, 2004, 2005, tập san Dòng Việt ở Nam Cali cho ra đời 3 Tuyển Tập Phê Bình Đoạn Trường Tân Thanh với cả thảy gần bảy mươi (đúng ra là 68) bài viết của nhiều học giả, giáo sư, văn thi sĩ, từ xưa đến giờ. Thật ra thì 68 bài viết mới chỉ là con số nhỏ đối với khoảng trên dưới 600 bài về Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân Thanh theo tin tức thu lượm được. Trong lúc đó, ở lãnh vực khác của nghệ thuật, lại có một người đã ròng rã gần năm năm trời đem hết tài năng của mình ra phổ nhạc trọn cả tác phẩm hơn ba ngàn câu thơ lục bát của Nguyễn Du, kết thành một bộ đĩa 7 CDs với 77 bản nhạc về Kim Vân Kiều. Người đó là kỹ sư/nhạc sĩ Quách Vĩnh Thiện mà Hàn Lâm Viện Âu Châu gần đây vừa mời làm thành viên sau khi tác phẩm Kim Vân Kiều, của nhạc sĩ hoàn thành.

 

Bỏ ra gần năm năm trời, ròng rã sáng tác để phổ hơn ba ngàn câu thơ lục bát của Nguyễn Du thành 77 bản nhạc, Quách Vĩnh Thiện đã hoàn thành một công trình nghệ thuật thật vĩ đại. Từ trước đến giờ chưa có một nhạc sĩ nào làm được việc đó, và về sau cũng chưa chắc sẽ có người làm nổi việc này. Ở đây không phải chỉ có đủ kiên nhẫn, chịu khó làm việc, hay có động cơ ham muốn thúc đẩy, mà còn phải có óc sáng tạo, tính nhạy cảm, óc tưởng tượng, năng khiếu âm nhạc, và nhất là lòng thương cảm đối với Đoạn Trường Tân Thanh và nhất là với thiên tài Nguyễn Du. “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” Câu hỏi của Nguyễn Du khi ông khóc cho nàng Tiểu Thanh đã có câu trả lời từ sau khi tác phẩm bất hủ của ông ra đời. Từ Mộng Liên Đường chủ nhân đến Chu Mạnh Trinh và nhiều văn thi sĩ sau này đã có nhiều người chia sự thương cảm của ông đối với người tài tử, giai nhân, hay nói rộng ra, con người ở trên trần gian này. “Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?”.

 

Thật sự nếu nghĩ cho kỹ thì đâu có phải chỉ tài tử, giai nhân mới bị định mệnh vùi dập, mà hể đã là người thì phần đông người ta đều bị khốn khổ vì định mệnh, đều bị chung số phận “bạc mệnh” như nhau. Nếu ở địa hạt văn chương đã có người thương cảm khóc với Tố Như, thì ở địa hạt âm nhạc nay cũng có người đồng cảm. Quách Vĩnh Thiện chính là người đồng cảm đó. Bảy mươi bảy bản đàn phổ từ toàn tác phẩm ĐTTT đã nói lên điều đó.

 

Sách “Truyện Kiều : Thơ và Nhạc” ra đời hôm nay vừa để vinh danh thiên tài Nguyễn Du sau gần, hay trên, hai trăm năm ĐTTT ra đời, vừa đánh dấu sự xuất hiện tác phẩm phổ nhạc Kim Vân Kiều của Quách Vĩnh Thiện. Cho nên sách gồm hai phần chính: Phần Một chứa đựng trên 20 bài viết của các học giả, giáo sư, văn thi sĩ nổi tiếng từ trước tới giờ về thiên tài Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, và Phần Hai gồm 10 bài viết về nhạc sĩ Quách Vĩnh Thiện và tác phẩm phổ nhạc Kim Vân Kiều của người nhạc sĩ/Hàn Lâm Viện sĩ này.

 

Về Phần Một, vì điều kiện và phương tiện hạn chế, chúng tôi chỉ xin đăng một số ít bài xem như tiêu biểu cho một số khuynh hướng/quan điểm quan trọng mà thôi. Từ trước đến giờ đã có rất nhiều bài viết có giá trị về tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh và tác giả Nguyễn Du. Sự lựa chọn một ít bài của chúng tôi ở đây hoàn toàn chủ quan, và không theo những tiêu chuẩn khoa học nào cả. Có điều những bài chúng tôi lựa chọn dù là từ nhiều quan điểm cũng như khía cạnh khác nhau, vẫn có một mẫu số chung là góp phần vào việc vinh danh Truyện Kiều là một tuyệt phẩm, một kiệt tác, và Nguyễn Du quả là một thiên tài [1], [2]. Với sức sáng tạo mạnh mẽ, óc tưởng tượng phong phú, một con tim dễ rung cảm, một tâm hồn cao đẹp và với khả năng tổng hợp khéo léo, thiên tài Nguyễn Du đã vận dụng cả vốn văn hoá xã hội mà môi trường và hoàn cảnh đã cung ứng cho ông để dựng nên tác phẩm vô tiền tuyệt hậu.

 

Từ câu chuyện ngắn của Dư Hoài về một nàng Kiều kỷ nữ, và từ một chương hồi tiểu thuyết 20 hồi của Thanh Tâm Tài Nhân [3], óc sáng tạo của Nguyễn Du đã dựng nên câu chuyện Đoạn Trường Tân Thanh với bao nhiêu tình tiết éo le, khúc chiết, làm nổi bật vai trò phi lý của định mệnh đối với thân phận bi đát của con người. Óc tưởng tượng phong phú đã giúp tác giả tạo nhiều hình ảnh thi ca tuyệt vời trong việc biểu tả các hạng người, các cảnh vật, các tâm trạng vui buồn của nhân vật chính. Tính dễ rung cảm giúp Nguyễn Du tạo ra tâm lý nhân vật Thúy Kiều thật xuất sắc, rất hợp lý với chuỗi cảm nghĩ và hành động đưa đến cuộc đời đầy gian truân, khốn khổ, đầy nước mắt của con người ở mọi nơi, mọi lúc.

Nguyễn Du có học kinh sách của Nho gia, nhưng không bắt buộc phải theo đúng con đường của Trình Tử hay Chu Tử.

 

Nguyễn Du có đọc có thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, nhưng ông không bắt buộc phải đi đúng con đường giải thoát của Đức Thích Ca. Ông còn tin ở Trời, ở định mệnh, ở sự sắp đặt của Trời cũng như tin ở nhân quả nghiệp báo, như đa số người dân Việt cùng tin. Tinh thần cao đẹp đã giúp ông vượt qua tư tưởng của riêng một tôn giáo để đi đến tinh thần tổng hợp tam giáo, vượt qua khung cảnh của Việt Nam thế kỷ 19 để đi đến tinh thần nhân bản với hình ảnh của cuộc đời và con người ở mọi nơi, mọi lúc. Tác phẩm của ông có giá trị ngàn đời, và có giá trị trên nhiều nước ngoài Việt Nam. Hơn hai mươi bài viết trong Phần Một sẽ cung ứng nhiều bằng chứng cho thiên tài Nguyễn Du và tác phẩm bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh như vừa trình bày. Ban biên tập sách này xin hết lòng cám ơn các tác giả có bài viết đăng trong Phần Một này nếu chúng tôi không liên lạc được với tác giả để xin phép.

 

Phần Hai gồm những bài nói về tác giả Quách Vĩnh Thiện và về công trình phổ nhạc lớn lao của nhạc sĩ. “Nhân bất phong sương vị lão tài”, cuộc đời từng trải phong sương dâu bể của người nhạc sĩ được Thanh Vân vẽ lại khá đầy đủ. Dòng nhạc Quách Vĩnh Thiện đi vào Đoạn Trường Tân Thanh, óc sáng tạo của tác giả, tâm hồn dễ rung cảm, lòng thương cảm của tác giả đối với thiên tài Nguyễn Du và thân phận bạc mệnh của Thúy Kiều, sẽ được các nhạc sĩ, giáo sư, nổi tiếng như Trần Văn Khê, Lê Mộng Nguyên, Trần Quang Hải, Anh Bằng, Cao Minh Hưng, Đỗ Bình, Nguyễn Văn Huy, Trọng Minh, Dáng Thơ và Việt Hải nói đến đầy đủ trong Phần Hai của quyển sách. Ban biên tập xin có lời cám ơn chân thành gởi đến tất cả quý vị.

 

Nhân vô thập toàn, việc làm của con người, dù có cố gắng đến đâu cũng không tránh hết được những sai lầm, thiếu sót.

Ban biên tập quyển sách này rất mong sự thông cảm của quý độc giả, quý đồng hương, và sự chỉ giáo của quý vị để cho quyển sách được hoàn thiện hơn nếu có cơ hội tái bản.

 

Nguyễn Thanh Liêm

 

Phụ chú :

 

[1] Một số ít nhà phê bình, hoặc đứng ở quan điểm luân lý của nho gia hoặc tựa trên học thuyết mác xít để chỉ trích nội dung của tác phẩm, nhưng không một ai phủ nhận giá

trị nghệ thuật của thiên tài Nguyễn Du. Cụ Ngô Đức Kế, trong bài “Luận Về chánh học cùng tà thuyết’ đã có nhận xét rằng: ”Nói về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du thời vẫn là hay thiệt ; song cái lối văn vần ngâm nga ngợi hát, chỉ là một lối trong đạo văn chương, văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình thời có vẽ “ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi”, tám chữ ấy không tránh đằng nào cho khỏi. Trong khi đó Nguyễn Bách Khoa viết:  “Thế là do yếu tố chiến bại mà nói ra yếu tố đoạn trường của Truyện Kiều. Đã thua, đã thất bại đến đầu hàng, thất bại đến phải tiêu ma, thì sao không đoạn trường cho được?

. . .Truyện Kiều quả đã chứa đựng một trời sầu thảm và ai oán không bờ bến”. Thật ra thì những sầu oán, bi thương, những thất bại khổ đau của con người, hay nhân vật trong tác phẩm văn chương thuộc về đề tài của tác phẩm, và đề tài không phải nghệ thuật, thành ra thất bại, bi thương, sầu khổ trong Đạn Trường Tân Thanh không là dấu hiệu của sự thất bại, hay yếu kém về nghệ thuật của tác giả Nguyễn Du.

 

[2] Mổ xẻ nhân cách, hay tâm lý, hay tâm sinh lý của con người, phần đông các khoa học gia đều chấp nhận có hai yếu tố quyết định. Trước kia thì hai yếu tố đó là di truyền (heredity) và môi trường hay ngoại cảnh (environment).

Ngày nay người ta dung từ ngữ tự nhiên (nature) và giáo dục (nurture) thay vì di truyền và môi trường để gọi hai yếu tố quyết định tâm lý của con người. (Judith Rich Harris: “The nurture ***umption” ; Peter J. Richerson: “Not by Genes Alone” ; Barbara Rogoff: “The Cultural Nature of Human Development” ; Steven Pinker: “The Blank Slate”)

Yếu tố môi trường /ngoại cảnh hay giáo dục giữ vai trò vô cùng quan trọng. Con người sinh ra và lớn lên trong khuôn khổ văn hoá xã hội nào thì sẽ phải được dạy dỗ, đào tạo nên một phần tử của xã hội, văn hoá đó. Tiến trình xã hội hoá (socialization) qua ba nguồn giáo dục gia đình, học đường, và trường đời, đã cung ứng cho con người cả một kho ngữ vựng (và văn phạm), một hệ thống giá trị xã hội, một nền học thuật tư tưởng, bao nhiều những cách thế xử sự ở đời. Cả một cái vốn văn hoá xã hội mà con người thu nhận được từ những người xung quanh từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành là do quá trình xã hội hoá mà ra. Nếu người ta được sinh ra trong một gia đình thế gia, vọng tộc, có nhiều người (cha mẹ, anh em, họ hàng) khoa bảng, quan trường như Nguyễn Du thì tất nhiên người ta sẽ học được rất nhiều những từ ngữ trí thức, bóng bẩy, lối diễn tả suông sẻ, chải chuốt, cả một ngôn ngữ của một “chi văn hóa” (subculture) đặc biệt của xã hội quan quyền, sang trọng. Khi bước chân vào trường học, chắc chắn Nguyễn Du phải được học với những ông thầy gỉỏi, có tiếng ở trong vùng. Nguyễn Du cũng sẽ có cơ hội đọc nhiều kinh sách, tác phẩm văn chương giá trị, có nhiều dịp trau đổi ý kiến, tư tưởng với những người có học thức, thuộc giới trí thức lúc bấy giờ.

 

Hệ thống giá trị xã hội, những tư tưởng về thiên mệnh, thuyết chính danh, thuyết trung dung, tư tưởng tu-tề-trị-bình, luân lý tam cương ngũ thường, tứ đức tam tùng của Nho giáo (từ Khổng, Mạnh, đến Trình, Chu), thuyết vô vi, nhàn hạ của Lão Trang, hay Tứ Diệu Đề và Thập Nhị Nhân Duyên cùng với lẽ vô thường, luật nhân quả, nghiệp báo, vv. .. của Phật giáo, tất cả những tư tưởng/triết lý đó đều có đầy trong ký ức (xem như thư viện tinh thần) của Nguyễn Du. Từ cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19 Thơ Nôm đã đến thời cực thịnh. Các tác phẩm lớn đã ra đời. Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Hoa Tiên truyện đã có mặt trên văn đàn, v.v... Thời ly loạn, cuộc bể dâu, cảnh tranh quyền đoạt lợi trong phủ Chúa triều Lê Mạt, sự nổi dậy của Tây Sơn, sự đánh chiếm Thăng Long của Nguyễn Huệ, sự sụp đổ của nhà Lê, sự thống nhất đất nước của Nguyễn Ánh, tất cả bức tranh bi thảm của người dân Việt thời chiến tranh ly loạn phải hằn sâu trong tâm tư Nguyễn Du. Tất cả những dữ kiện, hình ảnh, tín liệu, tư tưởng đó đều thuộc yếu tố môi trường/hoàn cảnh mà Nguyễn Du đã thu nhận được từ quá trình xã hội hoá.

 

Đây là yếu tố cần thiết góp phần vào việc dựng nên đời sống tâm lý của Nguyễn Du, nhưng yếu tố quan trọng này chưa phải là đủ để quyết định một thiên tài. Các khoa học gia nghiên cứu về di truyền, về genes, về cấu trúc não bộ của con người cho biết những yếu tố này có phần quyết định trong đời sống tâm lý của con người nhưng không thể nói được bộ óc hay genes của một thiên tài khác với người thường như thế nào? Những trắc nghiệm tâm lý thường dùng ở Mỹ bây giờ như Stanford Binet, những aptitude tests, những interest inventories có thể cho biết chỉ số IQ, số điểm percentiles ở một địa hạt nào, hay sở thích của người ta ra sao, v.v... nhưng cũng không trắc nghiệm được một thiên tài.

Tuy nhiên một số các nhà tâm lý có thể nhận ra những hoạt động tâm lý vượt trội của một thiên tài ở địa hạt nghệ thuật như óc sáng tạo, óc tưởng tượng, khả năng phân tích/tổng hợp, trực giác, tính nhạy cảm (dễ cảm xúc), v.v...

 

[3] Câu chuyện có thể là một vay mượn, có thể lấy từ chuyện phong tình của Dư Hoài hay Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Hoa nhưng đây không phải là một tác phẩm dịch mà là một tác phảm có phần sáng tạo quan trọng của Nguyễn Du. Chuyện của Dư Hoài chỉ là câu chuyện ngắn có mấy trang kể lại cuộc đời của một ca kỷ có thật ở trên đời tên là là Vương Thúy Kiều. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một quyển chương hồi tiểu thuyết gồm 20 hồi. Ở đầu mỗi hồi có 2 câu đối làm tiểu đề như phần nhiều những truyện Tàu mà ta thường thấy. Truyện Kiều của Nguyễn

 

Du có tất cả 3254 câu lục bát, không phân thành hồi như chương hồi tiểu thuyết. Thành ra Nguyễn Du sáng tác hay phóng tác nhiều hơn là dịch thuật. Đã sáng tác, hay dù là phóng tác đi nữa thì yếu tố sáng tác, yếu tố tạo cái gì mới mẻ vẫn có ở nơi tác giả.

 

 
 
Nguyễn Thanh Liêm
 

Nguyễn Du ( 1766-1820 )

Phạm Quỳnh ( 1892-1945 )

Câu nói nổi tiếng

Truyện Kiều còn, tiếng ta còn ;
Tiếng ta còn, nước ta còn.
PHẠM QUỲNH (1892 - 1945)

Kiều History – Part 1.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Traduction française : Léon Lê Đình Bảo, Nguyễn Văn Vĩnh.
Léon Lê Đình Bảo.
Kỹ Sư – Ecole des Mines.
(1955 – 10/02/2009)
Nguyễn Văn Vĩnh
(1882-1936)
Kiều History – Part 1.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 01 – Les deux soeurs Thúy Kiều, Thúy Vân :
Kiều History 02 – Thanh Minh Đạp Thanh – La pure clarté de clémence :
Kiều History 03 - Hồng Nhan Bạc Mệnh – Beauté de rose :
Kiều History 04 – Gentleman Kim Trọng :
KIều History 05 - Gặp Gở Làm Chi – Pourquoi ai-je rencontré cet home Kim :
Kiều History 06 - Kiếp Nhân Duyên – La destinée resultant du Karma :
Kiều History 07 - Mộng Triệu, Mạch Tương – L’interprétation des songes, la source des larmes :
Kiều History 08 – Le gentleman Kim Trọng, la belle Thúy Kiều :
Kiều History 09 – Rày Gió Mai Mưa – Aujourd’hui, le vent et demain, la pluie :
Kiều History 10 - Lượng Xuân – La générosité du printemps :
Kiều History 11 - Lửa Hương – Le feu d’encens :
 
 
Kiều History – Part 2 :
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 12 – Lòng Xuân - Cœur Léger :
Kiều History 13 – Chung Tử Kỳ - Un grand connaisseur en musique :
Kiều History 14 – Liêu Dương Ville :
Kiều History 15 – Ba Đông - Les Trois Hivers :
Kiều History 16 – Bên Tình Bên Hiếu - Côté Amour, Côté Piété Filiale :
Kiều History 17 – Ép Cung Cầm Nguyệt - Son et Sonate d’une complainte :
Kiều History 18 – Tơ Duyên - Le fil de la vie sentimentale :
Kiều History 19 – Mảnh Hương Nguyền - Un débris de l’encens :
Kiều History 20 – Mr Mã Giám Sinh :
Kiều History 21 – Madame Tú Bà :
Kiều History 22 – Đoạn Trường - Coeur déchiré :
Kiều History – Part 3 :
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiu History 23 - Gương Nhật Nguyệt - Le miroir du Soleil et de la Lune :
 

Kiều History 24 - Lầu Xanh - La Maison de joie :

 
Kiều History 25 - Phong Trần - Vents et poussières :
 
Kiều History 26 - Túc Nhân - Le Destin :
 
Kiều History 27 - Buồn Trông - Un regard triste :
 
Kiều History 28 - Sở Khanh, le Don Juan :
 
Kiều History 29 - Phù Dung – Hibiscus :
 
Kiều History 30 - Quyến Gió Rủ Mây - Séduire le vent, entraîner les nuages :
 
Kiều History 31 - Tống-Ngọc Tràng-Khanh, les snobs :
 
Kiều History 32 - Le saule de Chương Đài :
 
Kiều History 33 - Thuc Sinh, le lettré :
 
 
Kiều History – Part 4.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 34 - Phận Bèo Mây - Vogue le destin par nuages et marais :
Kiều History 35 - Đêm Ngắn Tình Dài - Nuit courte, amoureux pour toujours :
Kiều History 36 - Tay Đã Nhúng Chàm - La main prise au piège :
Kiều History 37 - Tài Tử Giai Nhân - La belle et l’élégant :
Kiều History 38 - Yếm Thắm Trôn Kim - Faits dévoilés :
Kiều History 39 - Trăng Hoa - Fleur éphémère et Lune fugace :
Kiều History 40 - Càng Mặn Càng Nồng - L’ardeur d’un cœur ardent :
Kiều History 41 - Lâm Tri - L’être omniscience :
Kiều History 42 - Phi Phù Trí Quỷ - L’éphémère :
Kiều History 43 -Tam Đảo Cửu Tuyền - De la Terre à l’enfer :
Kiều History 44 - Túc Trái Tiền Oan - Haines et Dettes :
 
Kiều History – Part 5.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 45 - Tương Phùng - Les amours retrouvées :
Kiều History 46 - Phách Lạc Hồn Xiêu - Âmes éperdues :
Kiều History 47 - Loan Phòng - Lieu Privé :
Kiều History 48 - Trạc Tuyền, nom de baptême bouddhique :
Kiều History 49 - Thiếp Lan Đình, le manoir cloîtré :
Kiều History 50 - Kim Ngân - Or et Argent :
Kiều History 51 - Hằng Thủy - Eau du Gange :
Kiều History 52 - Thành Hoàng Thổ Công - Génies tutélaires, génies de la Terre :
Kiều History 53 - Râu Hùm Hàm Én - Tu Hai à la face de tigre et au profil d’hirondelle :
Kiều History 54 - Cá Chậu Chim Lồng - Oiseau en cage, poisson dans le bocal :
Kiều History 55 – Le palais Cung Nga et la Lune :
 
 
 
Kiều History – Part 6.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 56 - Phượng Liễn Loan Nghi - Char impérial orné de Phénix :
Kiều History 57 - Nghĩa Trọng Nghìn Non - Reconnaissance infinie :
Kiều History 58 - Hại Nhân Nhân Hại - Nuire aux autres, vous sera rendu :
Kiều History 59 - Tiền Định – Prédiction :
Kiều History 60 - Gấm Vóc - Belles Soieries :
Kiều History 61 - Thành Hạ Yêu Minh - Engagements sous les remparts :
Kiều History 62 - Hương Lửa Ba Sinh - Trois vies antérieures :
Kiều History 63 - Tơ Đào - Soie Rose :
Kiều History 64 - Nghiệp Duyên - Relation Karmique :
Kiều History 65 - Phách Quế Hồn Mai - Hantée de beaux rêves :
Kiều History 66 - Phù Tang - Cérémonie des funérailles :
 
Kiều History – Part 7.
Version avec la traduction française et anglaise :
 
Kiều History 67 - Lai Sinh - Vie future :
Kiều History 68 - La cité Lâm Thanh :
Kiều History 69 - Châu Trần, familles alliées :
Kiều History 70 - Động Địa Kinh Thiên - Remuer Ciel et Terre :
Kiều History 71 - Chiêu Hồn - Invoquer l’âme :
Kiều History 72 - Minh Dương - Terre des vivant, Monde des ténèbres :
Kiều History 73 - Tái Thế Tương Phùng - Résurrection et Retrouvailles :
Kiều History 74 - Vật Đỗi Sao Dời - Le temps s’est écoulé :
Kiều History 75 - Đáy Biển Mò Kim - L’aiguille dans une botte de foin :
Kiều History 76 - Khổ  Tận Cam Lai - Le temps des amertumes.
Kiều History 77 - Chữ Tài Chữ Mệnh - Talent et Destinée :
Kiều History 78 - Chữ Tài Chữ Mệnh - Talent et Destinée (Vọng C) :
 
 
 
Voyage en Images et en Musique :
 
 
Quách Vĩnh Thiện

Quach%20Vinh%20Thien

Quách Vĩnh Thiện

Membre de la SACEM France

( Société des Auteurs, Compositeurs et Éditeurs de Musique )

Quach%20Vinh%20Thien%20-%20Union%20European%20-%202

Quach%20Vinh%20Thie%20-%20Union%20European%201

Membre de l'Académie Européenne des Sciences, des Arts et des Lettres.

European Academy of Sciences, Arts and Letters.

Hàn Lâm Viện Âu Châu Khoa Học, Nghệ Thuật và Văn Chương.

Quach%20Vinh%20Thien%20Medaille%20AESAL

Quach%20Vinh-Thien%202013

Voyage en Image et en Musique :

Président
ACTV
Association Culturelle Traditionnelle Vietnamienne
( Hội Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam )






__._,_.___

Attachment(s) from Chau Nguyen | View attachments on the web

10 of 15 Photo(s) (View all Photos)





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 08/May/2015 lúc 4:57pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 07/Jun/2015 lúc 8:25pm

Đi tìm

không gian đã mất

26/05/2015

http://kienviet.net/wp-content/uploads/2015/05/sai-gon2-giaoduc.net_.vn_.jpg

Mới đó, thế kỷ 21 đã cắm được cột mốc 15 năm. Những năm đầu 2000, nghe còn là lạ cái từ “xuyên thế kỷ ”. Nghe còn thấy ngại ngần khi phải dùng từ “thế kỷ trước” để nói mươi năm gần đó. Vậy mà, giờ đây, những cái từ như thế là bình thường, không háo hức hay cường điệu. Ngẩn ngơ nhận ra điều đó thì cũng là lúc nhận ra mái tóc hoa râm và nỗi buồn xa vắng qua đôi kiếng lão. Ngẩn ngơ trông thấy không chỉ người thân, người quen mà phố xá xa gần cũng đã đổi thay vùn vụt.


Người trung niên ra phố bây giờ, không thể không lo ngại cảnh xe cộ đông đúc, người ngợm ầm ĩ, và rồi cần cẩu rơi, tai ương bủa vây bất chợt. Thế nhưng, lo ngại nhất là đi giữa phố quen mà lạ lẫm, đi giữa chốn xưa mà thấy lạc đường.  Bởi vì qua thế kỷ 21, nhiều cảnh vật, kiến trúc thân thiết bỗng ra đi hay biến dạng nhanh chóng.

 

http://kienviet.net/wp-content/uploads/2015/05/img_5409.jpg

Khu vực Nhà thờ Đức Bà và Bưu Điện : nhiều kiểu kiến trúc cũ và mới không hòa hợp.


Những cuộc bể dâu

Có những góc phố, kể cả một khối phố - định hình hơn 100 năm nhưng một ngày kia bỗng dưng thay hình đổi dạng hoàn toàn. Ở Sài Gòn, một trong những cuộc “bể dâu” đó đang diễn ra ở góc Đồng Khởi - Lê Thánh Tôn. Khu vực này là một đỉnh đồi nhỏ hiếm hoi giữa trung tâm thành phố, nơi nhiều thế hệ một thời thong dong đi bộ hay đạp xe từ Nhà thờ Đức Bà đổ xuống Nhà hát Thành phố. Trên con dốc ấy, lạ lùng từng có một “vườn treo” rợp bóng cây giữa phố. Ngôi vườn chỉ khoảng 200 mét vuông, có cả  cổ thụ, phượng vĩ, cườm thảo và những bồn hoa cổ. Nó còn có một bục sân khấu nhỏ làm nơi hòa nhạc và những chiếc ghế đá đơn sơ nhưng vẫn đủ lãng mạn cho những cuộc hẹn hò.

Công viên này có từ thời Pháp, sau 1954 mang tên Chi Lăng. Bên cạnh công viên là khu nhà Sở học chính Nam Kỳ (sau đổi thành trụ sở Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa và rồi Sở Giáo dục TP.HCM). Khu nhà học chính trông rất yên tĩnh với hai biệt thự kiểu Pháp cổ kính và một tòa nhà làm việc xây theo lối Art Deco 1960, cùng một sân vườn xanh mướt. Phía sau khu nhà học chính trên đường Lý Tự Trọng là ngôi trường Lasan Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa), có kiến trúc kiểu Gothic Roman. Trường Taberd xây dựng từ cuối thế kỷ 19, bên trong còn nguyên những dãy nhà xưa trầm mặc như tu viện.  Trở lại công viên Chi Lăng, phía đối diện trên đường Đồng Khởi là một cư xá cao tầng khá lớn màu xám tro, mang dáng dấp Art Deco 1930 -1940, không hoa văn tỉa tót, thường thấy ở New York. Tầng trệt tòa nhà từng là những cửa hiệu café, may mặc, gallery tranh sang trọng.


Đường Nguyễn Huệ mới thiếu những dấu nhấn văn hóa.


Có lẽ khi mới quy hoạch Sài Gòn, người Pháp đã nhận ra được vẻ độc đáo của đỉnh đồi xanh này. Cho nên khi thiết kế con đường Catinat (Đồng Khởi) chạy thẳng từ Trường thi Gia Định (địa điểm 4 Duy Tân), họ đã không quên tạo ra “bộ tứ” không gian thanh thoát đó. Nó như một nhịp lắng của cung đường chuyển từ khu vực tôn nghiêm Nhà thờ Đức Bà ra khu vực thương mại nhộn nhịp. Cái không gian có một không hai ấy vẫn còn tồn tại đến thập niên đầu của thế kỷ 21. Song chỉ khoảng năm năm trở lại đây, nó đã dần dần “bay lên trời”!

Đầu tiên là khu nhà học chính, cả mặt trước và mặt sau ra đi nhường đất cho Vincom - tòa tháp đôi tân kỳ, ngạo nghễ. Trong lúc xây dựng tòa nhà Vincom, người ta lại “bóc dỡ” toàn bộ công viên Chi Lăng và đến lúc trả lại thì đây chỉ còn là một chiếc vườn lơ thơ cây cối non trẻ! Một cách nào đấy rất sổ sàng, công viên Chi Lăng đã trở thành một chiếc sảnh ngoài trời, một chiếc cổng ra vào cho tòa nhà Vincom.  Hai ngôi biệt thự cổ kính của Sở Giáo dục bị “hóa kiếp” thành một cao ốc bình thường nép mình bên Vincom đồ sộ. Và rồi, mới cuối năm trước, bất ngờ tòa nhà cư xá Art Deco đối diện công viên lại bị đập bỏ để chuẩn bị cho việc mở rộng “trung tâm hành chính thành phố”. Nghe nói một công ty du lịch lớn đã đề nghị giữ lại tòa nhà lịch lãm này để làm khách sạn nhưng ý kiến này đến giờ chót vẫn phải “chào thua”. Gần đây, đã có một số phương án kiến trúc đề xuất xây thêm một tòa nhà đồ sộ và tân kỳ không kém Vincom tại khu đất trên để mở rộng tòa thị chính hiện thời. Nếu như những khối nhà khổng lồ và lạc điệu với kiểu dáng kiến trúc Pháp cổ điển tiếp tục mọc lên quanh góc Đồng Khởi - Lê Thánh Tôn, Đồng Khởi - Lý Tự Trọng thì không gian này hẳn nhiên biến đổi 360 độ. Và lúc ấy, phải chăng những “hàng cây thắp nến” dọc theo các con đường sẽ ra đi ngậm ngùi như trên đường Nguyễn Huệ ?


Thương xá Tax đóng cửa chờ đợi phá bỏ hay cải biến một phần.


Không dừng lại ở những góc phố nên thơ nêu trên, những cuộc “bể dâu” đã loang rất nhanh cho khu vực quanh đấy.  Sau Vincom một lúc, khu nhà bốn mặt tiền – Thương xá Eden, cũng đã “bay lên trời” sau nhiều tranh cãi. Tại đây, người ta dựng nên tòa nhà Union square hoành tráng, may mắn không quá cao tầng và cục mịch như Vincom. Ở Shopping center này, cả tầng cao lẫn tầng hầm có nhiều thương hiệu hàng tiêu dùng cao cấp nổi tiếng thế giới. Song những thương hiệu đó không thể thay thế được những tên tuổi văn hóa Sài Gòn bất hủ, từng hiện diện nơi này hơn 60 năm như cà phê Givral, cà phê La Pagode, nhà sách Xuân Thu, rạp hát Eden… Giá mà tòa nhà lộng lẫy Union Square có cách gìn giữ được hình ảnh kỷ niệm, kể cả việc tái tạo lại những không gian xưa vô giá thì thế hệ trước vẫn có nơi chia sẻ sống động những kỷ niệm thị dân ngọt ngào với những thế hệ sau của Sài Gòn.

Bên cạnh Union square, quảng trường Lam Sơn phía trước Nhà hát Thành phố nay đang bị quây kín, không rõ sẽ mọc lên cổng lên xuống Ga Metro như thế nào và có cần thiết không. Và gần đấy, tâm điểm giao lộ Nguyễn Huệ - Lê Lợi (bồn phun nước) và Nguyễn Huệ - Mạc Thị Bưởi (cột đồng hồ) cũng không còn. Cả hai công trình ấy đã tồn tại trên nửa thế kỷ như là hai land mark - cột mốc của khu trung tâm nay bị thay thế bởi khoảng không – con số zero đúng nghĩa. Cả con phố đi bộ mới lát gạch đắt tiền thay chọ nhựa đường, rộng lớn và thênh thang, thiếu vắng những hàng cây xưa, thiếu vắng những điểm nhấn văn hóa. Thương xá Tax trên đường Nguyễn Huệ cũng đang hồi hộp chờ xem phán quyết bể dâu cuối cùng. Ban đầu, đã có dự định đập nó hoàn toàn để thay bằng một cao ốc 40 tầng hoành tráng nhưng rồi người dân lên tiếng, kể cả giới ngoại giao nên UBND TP.HCM đã có quyết định nếu có xây mới tòa nhà này thì chủ đầu tư phải bảo tồn được phần mặt tiền và kiến trúc cổ bên trong đại sảnh. Thậm chí rất nên làm, rất đáng làm nếu phục hồi được dáng vẻ kiến trúc ban đầu của thương xá Tax thời Pháp (như cách đã làm với Nhà hát Thành phố). Mong rằng, quyết định sẽ không bị thay đổi và nhà đầu tư sẽ không tìm cách đặt dư luận trước “sự đã rồi”.


Một phần góc phố Đồng Khởi- Lý Tự Trọng chưa bị biến đổi.


Nghèo văn hóa và lịch sử

Ở Sài Gòn còn có thể kể ra nhiều cuộc “bể dâu” khác đã và đang diễn ra trong cảnh quan và kiến trúc. Chẳng hạn, Lăng Cha Cả (vòng xoay Cộng Hòa - Hoàng Văn Thụ) - một kiến trúc Việt Nam thế kỷ 19 đã ra đi vào những năm 1980, bị thay thế bằng một tượng đài quả đất thô kệch. Hay như công viên nhỏ mang tên Vạn Xuân - trên đường Pasteur, đã biến thành một phần sân của CLB thể thao Phan Đình Phùng từ hơn 20 năm trước. Và gần đây, một tòa nhà cổ ba tầng một thời từng là bảo tàng, về sau là trụ sở Ngân hàng Dầu khí trên đường Lê Duẩn, bên cạnh Diamond Plaza, bị đập bỏ ngay sau khi vừa trùng tu để xây cao ốc căn hộ - văn phòng.

Chúng ta vẫn đang tiếp tục hồi hộp, lo lắng cho tương lai của nhiều cột mốc ký ức quan trọng. Ở phía trước chợ Bến Thành, tượng Trần Nguyên Hãn đã được dời ra công viên Phú Lâm (quận 6), biết bao giờ trở lại? Nơi đây, không hiểu vì sao người ta phải xây lối ra vào Metro ngay giữa giao lộ trong khi công viên 23/9 thừa thải mặt bằng tiện dụng hơn rất nhiều? Cũng tại đây, mong rằng tòa nhà Hỏa xa Đông Dương là một phần không thể thiếu ở quảng trường Diên Hồng sẽ không bị đôi mắt tài phiệt nào nhòm ngó để phá bỏ. Đặc biệt, chợ Bến Thành - một biểu tượng phổ biến của Sài Gòn, ra đời từ năm 1914,  từ lâu đã nằm trong tầm ngắm của những thế lực kim tiền. Mong rằng chợ Bến Thành sẽ không bị những lời đường mật đề nghị xây mới, nâng tầng quyến rũ. Nhiều ngôi trường xưa như trường Bác Ái (Đại học Sài Gòn trên đường An Dương Vương, quận 5), trường Dược, trường Văn Khoa cũng dễ bị cuốn theo cơn lốc đó. Ngày nay, “mãnh lực của đồng tiền” đã và đang tìm cách cho các công trình xưa, không riêng ở Sài Gòn chậm được công nhận là di sản hoặc giả vờ “quên mất” để người ta có thể nhanh chóng đồng ý đập bỏ chúng, lấy đất khởi công những công trình thương mại.


Bán đảo Thủ Thiêm - vùng đất hứa cho các cao ốc siêu hiện đại để xây nên thành phố mới, không chồng lấn với thành phố cũ.


Paris hay Sài Gòn hay Hà Nội không thể xây trong một ngày. Bản thân Paris lộng lẫy với quy hoạch quyết đoán và nghiêm cẩn từ thời Napoleon vẫn được gìn giữ, nâng niu, tôn tạo từng góc phố, từng viên gạch. Những gì mới mẻ, hiện đại của Paris thế kỷ 21 được trao về khu La Defense – thiết kế đi trước 30 năm. Tổng thống Mitterand muốn để lại tên tuổi cũng chỉ có thể xây mới một nhà hát Opera trên nền nhà tù Bastille hay một Thư viện quốc gia ở khu đất trống ven sông Seine. Không ai tạo ra những cuộc “bể dâu” làm biến dạng linh hồn những khu phố xưa đẹp.

Sài Gòn đã và đang có một La Defense của Paris hay một Phố Đông của Thượng Hải với việc phát triển hoàn toàn mới bán đảo Thủ Thiêm. Sau những lỗi lầm thay đổi cảnh quan và kiến trúc một cách thô thiển ở khu vực trung tâm, người ta hoàn toàn có thể dừng lại và “chuộc tội” bằng cách nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc quy hoạch theo chuẩn mực của thế giới. Xin đừng đãng trí, đừng lãng quên những hiểu biết lịch sử, đừng để đồng tiền lấn át văn hóa thì chúng ta vẫn còn nhiều cách để giữ được Sài Gòn xưa thêm đẹp. Đồng thời vẫn tạo được một thành phố mới mẽ và siêu hiện đại, không chồng lấn vào thành phố cũ.

Phải chăng bội bạc với những ký ức đẹp, với linh hồn bay bổng của đô thị thì chúng ta chỉ làm nghèo văn hóa cho nhau, nghèo nhân văn và tình nghĩa cho những thế hệ nối tiếp trong lúc cuộc sống đang khá lên?

Chúng ta đang đánh mất và không dễ tìm lại những không gian thiêng liêng cho từng tâm hồn lắng đọng.


Bài và ảnh: Phúc Tiến






Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 07/Jun/2015 lúc 8:53pm
mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 9
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.234 seconds.