Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: Món ăn, thức uống Gò Công Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 6 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Chủ đề: Món ăn, thức uống Gò Công
    Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:38pm
NET
 
Hủ tíu Việt Nam-

(... lò Tám Thảo dưới Gò Công)

 

 

 

%20

Hủ tíu - còn gọi hủ tiếu - là món ăn phổ biến khắp phía nam, đến nay đã xuất hiện ở miền trung và miền bắc. Trong các chương trình liên hoan văn hóa ẩm thực Việt Nam tại nước ngoài, đặc sản hủ tíu luôn được trân trọng giới thiệu. Tuy nhiên, dẫu từng nấu và xơi hủ tíu hoặc thỉnh thoảng hoặc thường xuyên, nào phải ai ai cũng hiểu rõ gốc gác cùng các biến thể của món ăn này.

 

Từ đâu ? Bao giờ ?

 

Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy !

 

Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn bởi tiếng Hán quả điều mà dân Tiều (Triều Châu) phát âm thành cổ chéo. Nghĩa là "bánh sợi". Thì đấy là sợi bánh bằng bột gạo, gần giống bánh phở (âm Hán-Việt: phấn, nghĩa gốc là bột) song hủ tíu khác cơ bản ở chỗ sợi bánh thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới trụng nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm-thơm-bùi-béo.

 

Như thế, trên cơ sở từ nguyên, có thể thấy rằng món hủ tíu thông dụng xưa nay khắp "Nam Kỳ lục tỉnh" vốn từng được khai sinh tít tận Trung Hoa rồi du nhập vào nước ta qua biên giới tây nam sau một thời gian "quá cảnh" tại Campuchia. Và cũng tương tự phở (ngầu phảnh/ngưu nhục phấn) cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tíu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.

 

Một Việt kiều ở Pháp vẫn được bạn bè quen gọi bằng biệt danh Sous Chef vì anh từng làm bếp phó tại một khách sạn lớn giữa thủ đô Paris và từng đi đó đi đây để trao đổi nghiệp vụ "dao thớt". Sous Chef nói: Gặp dịp khảo sát món hủ tíu ở Bắc Kinh, Quảng Châu và Hồng Công (Trung Quốc) cũng như ở Phnom Penh (Campuchia) mọi người Việt chắc đều ngạc nhiên nhận ra hủ tíu những nơi ấy rất khác hủ tíu quê nhà. Khác và không ngon bằng ! Sợi bánh của họ ít dẻo thơm bằng. Nước lèo (nước súp) của họ thì kém trong, kém ngọt. Còn tôm thịt cùng gia vị cũng tồn tại lắm dị biệt.

 

Những "biến tấu" hấp dẫn

 

Sous Chef còn nêu ý kiến đáng chú ý: Nhiều nước, hủ tíu tồn tại cũng chỉ vài ba "chủng loại". Riêng Việt Nam, thật đặc sắc, hủ tíu được phát triển tới hàng chục kiểu khác nhau.

 

Về phở, giáo sư Phan Ngọc chịu khó lục lọi sách vở và thống kê thấy 17 kiểu cả thảy. Tôi thì la cà nhà hàng, quán xá, quầy, sạp, xe, gánh ở một số tỉnh thành phía nam, ghi nhận chưa đầy đủ được 25 kiểu hủ tíu. Này nhé: hủ tíu Nam Vang, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Sa Đéc, hủ tíu mì, hủ tíu nui, hủ tíu hoành thánh, hủ tíu xào, hủ tíu xá xíu, hủ tíu thịt băm, hủ tíu sườn heo, hủ tíu lòng heo, hủ tíu cá, hủ tíu cua, hủ tíu tôm, hủ tíu gà ta, hủ tít gà ác, hủ tíu bò kho, hủ tíu bò viên, hủ tíu bò tái, hủ túi bò sa tế, hủ tíu nai sa tế, hủ tíu vịt quay, hủ tíu nấm, hủ tíu măng, hủ tíu chay. Nói chung, mỗi kiểu đều chia 2 dòng là khô và nước, do đó nhân đôi lên vị chi món hủ tíu đã có sơ sơ 50 kiểu. Tùy nơi, tùy lúc mà các kiểu được linh động tổ hợp thành "model" mới như hủ tíu mì-nui-hoành thánh, hủ tíu cá-tôm-cua, hủ tíu nấm-măng, hủ tíu thập cẩm v.v. Ấy là tôi chưa liệt kê đôi kiểu "độc chiêu" thỉnh thoảng bắt gặp ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như hủ tíu chuột, hủ tíu dơi, hủ tíu rắn, hủ tíu rùa. Thời gian qua, bên cạnh mì ăn liền nhiều loại hủ tíu ăn liền còn xuất hiện nhan nhản trên thị trường, âu cũng góp phần làm phong phú thêm bảng thực đơn "chuyên đề" hủ tíu .

 

Nói theo lý luận bếp núc Âu Mỹ, thì hủ tíu nằm trong hệ thống mỹ vị Pháp (gastronomie) vô cùng phong phú vì nó mang tính cách mở, linh hoạt, phóng khoáng, dễ hội nhập và thích ứng. Như vậy, tô hủ tíu phản ánh phần nào tính cách lẫn bản sắc của người dân Nam Bộ.

 

A Cánh - một chủ tiệm hủ tíu người Việt gốc Hoa ở quận Gò Vấp, TP ************ - tiết lộ: Gia đình ngộ (tôi) ít nhất đã ba đời sống bằng nghề này. Cũng như bún bò và phở, muốn nấu hủ tíu ngon thì phải đặc biệt chú ý tới nồi nước lèo. Hủ tíu khô hay uớt gì cũng cần nước lèo, chỉ khác là hủ tíu khô phải dọn nước lèo riêng thôi. Nồi nước lèo ngọt thơm nhờ hầm xíu quách (trư cốt: xương heo), củ cải, tôm  khô và khô mực nướng. Ngộ còn thả thêm miếng xí pố (khô cá) nướng thiệt thơm. Bán hủ tíu mì, các quán chuyên nghiệp thường tự sản xuất sợi mì cho đúng ý, đồng thời chế biến xíu mại cùng tài páo (bánh bao) luôn. Dọn tô hủ tíu cũng phải lưu tâm kỹ các thứ gia vị cần thiết như zìm (muối), tsu (dấm), chương dẩu (xì dầu/nước tương), càng không thể quên tăng xại (đông thái).

 

Đông thái là cải bắc thảo thái mỏng và muối khô, một loại "phụ tùng" độc đáo thường thấy các tiệm hủ tíu đựng trong thạp gốm tráng men màu da lươn. Sau khi bỏ bánh sợi và mì sợi vào vợt kim loại nhúng xuống thùng nước sôi rồi trút vô tô, đầu bếp nhón một ít đông thái, thêm tóp mỡ, giá trụng thả vô tô nốt. Tiếp theo là đặt xá xíu thịt băm, miếng gan heo, quả trứng cút; kế đó rắc lá hẹ (chứ không phải hành lá) xắt nhỏ, rồi múc nước lèo chan vô tô. Cuối cùng, bứt ngọn xà lách xanh muốt làm đôi, bỏ trên mặt tô và dọn mời. Thực khách tùy gu mà thêm dấm, ớt, tiêu, xì dầu, đoạn trộn đảo và xưởng xích (thưởng thức) nóng sốt. Khi dùng, có người gọi thêm chén xíu mại, có người xơi kèm chiếc bánh quẩy (giò cháo quẩy).

 

Ấy là món hủ tíu mì quen thuộc. Thay mì bằng nui, bằng hoành thánh (vằn thắn), thành hủ tíu nui hay hủ tíu hoành thánh. Tô hủ tíu sườn thì lổn nhổn mấy miếng sườn heo non nấu hồng nhự (chao đỏ) với hương vị rất đặc trưng. Hủ tíu bò kho, bò viền, bò tái, bò sa tế hoặc hủ tíu gà cũng khác xa phở bò, phở gà. Hủ tíu bò sa tế nổi tiếng trên địa bàn TP ************ có ba quán cùng lấy hiệu Tô Ký do ba anh em ruột làm chủ, hai quán thuộc quận 6, một quán thuộc quận 5. Riêng hủ tíu gà, ở TP ************ có mấy tiệm "chuyên trị" món này tọa lạc trên đường Nguyễn Trãi. Nồi nước lèo dành cho hủ tíu gà phải hầm toàn xương gà với củ cải, thảo quả, mục quả (đu đủ) cùng gia vị, sao cho nước ngọt thanh và trong veo. Thịt gà xé đặt lùm lùm miệng tô, cùng mề, gan, tim, cật gà đã được xử lý bằng bí quyết riêng, ăn sao thấy lạ miệng và ngon đáo ngon để. Các loại hủ tíu thủy hải sản (cá, tôm, mực, cua,v.v.) giá cả thường đắt nhất, có tiệm tính tới 25.000 đồng/tô, song chẳng phải chỗ nào cũng nấu đạt chất lượng.

 

Ba bảy là gì ?

 

Nhiều người "nghiện" hủ tiếu cho biết: Muốn ăn hủ tíu tôm thì ghé ngã năm Bình Hòa ở quận Bình Thạnh. Hủ tíu cá, phải lên Chợ Lớn. Hủ tíu cua, về Gò Vấp. Nhưng mấy món hủ tíu thủy hải sản, chưa đâu nấu cừ khôi bằng quán chú Xồi ở miệt Lái Thiêu (Bình Dương).

 

Chú Xồi hoặc chú Chệc chỉ là tên gọi chung đàn ông Hoa kiều. Thực tế, tại nhiều thị tứ phía nam, đa số quán tiệm hủ tíu đắt khách thường do bà con người Việt gốc Hoa đứng bếp. Phần lớn các tiệm này cũng là "mì gia" treo biển hiệu song ngữ Việt - Hoa mà thoạt trông dễ nhận biết (và cũng dễ bị giả mạo) là hiệu danh chứa hậu tố Ký như Diệu Ký, Lưu Ký, Tuyền Ký, Hưng Ký, Hồng Ký, Tô Ký, Quang Ký, Oai Ký, Phánh Ký, Zìn Ký. Gia vị dùng cho hủ tíu cũng đậm đặc chất Tàu: nào đông thái, nào dấm đỏ, nào hắc xì dầu, v.v. Vậy mức độ Việt hóa món ăn này thể hiện ở điểm nào ? Sous Chef phân tích nghe khá hợp lý: Hủ tíu là món gốc Hoa, nhưng đã Khmer hóa và nhất là Việt hóa để thích nghi thủy thổ, cơ địa. Rõ rệt nhất là tô hủ tíu Mỹ Tho. Anh biết rằng tập quán ngươi Hoa là dùng dấm, xì dầu và hầu như chẳng bao giờ ăn rau sống. Hủ tíu Mỹ Tho thì dùng chanh, giá sống cùng lắm loại rau mùi, và độ mặn nhạt được nhấn nhá bằng thứ gia vị chính cống Việt Nam: nước mắm.

 

Tôi đã về thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) để lai rai khảo nếm món hủ tíu lừng danh nơi dãy quán quanh khu vực cầu quay. Ba Châu - chủ tiệm hủ tíu đắt khách trên đường Trưng Trắc - cho biết: Một trong những yếu tố tạo nên nét riêng của hủ tíu Mỹ Tho là bánh sợi. Sợi bánh được làm từ gạo Gò Cát dẻo thơm, loại gạo mà không phải đất nào cũng trồng được. Hiện cả tỉnh Tiền Giang có hai lò sản xuất bánh hủ tíu số zách: lò Bảy Hưng ở ngay Mỹ Tho, và lò Tám Thảo dưới Gò Công. Còn bí quyết nấu hủ tíu ngon hả? Phải xử lý nguyên vật liệu và gia vị sao để nước lèo, thịt thà, rau củ thiệt là vừa miệng. Khoản này thuộc loại gia truyền, khó chỉ bày chi tiết cụ thể lắm à !

 

Bên cạnh hủ tíu Mỹ Tho, đất phương nam còn nổi tiếng hủ tíu Sa Đéc. Khách sành điệu ở Sài Gòn vẫn còn nhắc quán hủ tíu chính hiệu Sa Đéc do một ngôi sao sân khấu mở tại góc đường Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương vào khoảng năm 1973: bà Năm Sa Đéc, người bạn đời của nhà sưu tầm cổ ngoạn Vương Hồng Sển. Bây giờ, hai ông bà đã quy tiên, quán xưa cũng thay tên, đổi chủ. Thèm tô hủ tíu thơm mùi gạo Tân Khánh, hiện chỉ còn cách lặn lội về tỉnh Đồng Tháp, vượt sông Tiền, ghé thị xã Sa Đéc mà lùng sục. Há lẽ ăn tô hủ tíu, chạy ba quãng đồng ?

Đặt vấn đề bếp núc vùng (cuisine réogionale) học giả J. F. Flandrin yêu cầu tiếp cận các món ăn đặc biệt ở mỗi khu vực địa lý nhằm phát hiện "mô hình cấu trúc của hệ thống thực tiễn và khẩu vị ẩm thực của một vùng có gì khác so với các vùng lân cận". Áp dụng phương pháp chọn mẫu, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra ba món phổ biến đại diện cho ba phong cách bếp núc vùng của nước ta: miền bắc có phở Hà Nội, miền trung có bún bò giò heo Huế, miền nam có hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Sa Đéc. Nhìn từ góc độ nào đấy, tô hủ tíu miền nam không chỉ là món đặc sản. Luận theo giáo sư Trần Quốc Vượng, tô hủ tíu còn là hiện vật sống động biểu hiện cả quá trình "đan xen, hỗn dung, tiếp biến, giao thoa, tương tác của văn hóa Việt Nam nói chung, của nghệ thuật ẩm thực Việt Nam nói riêng".

 

Hủ tíu kia cũng có ba bảy đường chế biến, soạn bày, thưởng thức và nhận định. "Ba bảy" đây chẳng phải "3 hay 7", cũng chẳng phải "từ 3 đến 7", mà là "37" (băm bảy) hoặc nhiều hơn...

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang Ngoc Hung - 09/Jul/2007 lúc 6:52am
IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:41pm
Trần Văn Chi
 
Mắm Còng
 
Ðất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre.

      Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm.

      Còng bò xõm có vẻ “lều khều” quều quào, yếu ớt, nên kêu là còng quều. Mấy cô gái sắp dậy thì, chưa trổ mã, cao nghệu, đi đứng quều quào bị chê là “tướng còng quều!”

      Ngoài Bắc cũng có còng có cáy nên có câu:

      Ðói thì bắt cáy bắt còng,

      Thờ chồng trọn đạo tam tòng là hơn

      Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Mấy ông chủ nuôi vịt Tàu mướn người bắt cho vịt ăn, làm mồi, đẻ rất say trứng. Trẻ con ra ruộng bắt chừng nửa buổi cả thùng thiếc, được trả công bằng vài trứng hột vịt, đem tới quán đổi lấy cốm, bánh ú, kẹo đậu phộng... ăn khoái chí lắm...

      Sau nầy lên Chợ Lớn Mới thấy xe đò chở còng lên bán cho nhà vựa để cung cấp lại cho mấy quán bún rêu; giả làm rêu cua, cũng “ngon” đáo để một thời mà nào ai biết!!!

      Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công.

      Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ.

      Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột.

      Chiều hôm đó mọi người lo chuẩn bi đèn soi còng. Loại đèn dầu hôi đặt trong cái thùng bằng thiếc, tim đèn bắng vải cở ngón tay cái. Ðèn soi còng cũng là đèn soi cá, soi ếch nhái, dùng để di chuyển ban đêm rất thông dụng ở thôn quê.

      Ăn cơm sớm, chừng 6 giờ chiều người ta đã rủ nhau ra ruộng chờ còng lột. Bọn nhóc con cũng xách giỏ chạy theo cha mẹ anh chị gọi là “đi bắt còng lột cho biết”. Ngồi trên bờ ruộng người hút thuốc, kẻ ăn trầu, nói chuyện rôm rả, đèn sáng cả đồng ruộng đúng là ngày hội còng lột.

      Nhìn xuống ruộng không thấy bóng dáng một con còng, người yếu bóng vía, chưa lần nào đi soi còng lột ắc phải mất tinh thần, thấp thỏm lo sợ... Các bà già kinh nghiệm đầy mình, năm nào cũng ra đây bắt còng lột, thì cứ nhỏm nhẻm miếng trầu bảo sắp nhỏ chờ đợi.

      Ðúng như rằng. Ðến 8-9 giờ, còng bắt đầu bò lên miệng hang, lột vỏ và nằm yên như chờ người đến bắt! Ðây là lúc mọi người ra tay nhẹ nhàng lượm từng con còng lột mềm mại, nhuốt nhe và mát rượi... từ từ cho vào giỏ. Càng về khuya còng càng rủ nhau bò lên miệng hang để lột, để nạp mạng cho đoàn người dang chò đón tù chiều...

      Mọi người không ai bảo ai, tất cả im lặng. Cái hoạt cảnh lúc nầy thật lý thú với bao con người lom khom, tay cầm đèn soi, tay thoăn thoắt nhặt từng con còng lột đang nằm im bất động!!!

      Ðến gần sáng, mạnh ai nấy về nhà, trả lại cái tỉnh lặng cho ruộng rẫy. Và một ngày mới bắt đầu như mọi ngày.

      Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,

      Về sông ăn cá về đồng ăn dưa.

      Về tới nhà không kịp thay đồ, mẹ tôi bắt tay làm mắm ngay. Bà nói để tới sáng cõng sẽ cứng, làm mắm mất ngon.

      Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh.

      Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.

      ... Vông làm mắm gói nem là loại vông có bông đỏ rất đẹp, ở quê nhà nào cũng có trồng trước nhà vài cây. Còn có một loại vông khác dùng làm guốc mà ngày xưa mấy cô rất thích, là loại vông rừng, mọc rất nhiều ở rừng Cà Mau.

      ... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi..

      Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào.

      Làm mắm còng không dễ mà còn nguy hiểm nữa, bởi bạn không thể làm thử, không có cơ hội làm lại lần thứ hai. Mắm còng như vậy là “nghề” của mấy bà mẹ, bà nội, bà ngoại, còn mấy cô gái chỉ là “thợ vịn” mà thôi.

      Ðược hũ mắm còng ngon chưa hẳn cho ta bữa ăn mắm ngon. Hương vị mắm còng tùy thuộc và nghệ thuật pha chế gia vị cho đúng, cho vừa miệng và dúng cách nữa. Cũng còn phải biết chọn rau, chọn bún cho hợp với mắm còng.

      Mắm còng là loại không được cất giữ lâu như các loại mắm khác, vì để càng lâu thịt con còng bị phân hủy chỉ còn lại vỏ; nhai con mắm chỉ thấy xơ, thấy xác mà thôi. Và ăn như vậy chán chết, và hổng biết cách ăn mắm còng!!!

      Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon.

      Tháng Năm mưa chưa nhiều, đồng chưa nổi nước và vẫn còn oi ức, ăn bửa mắm còng thấy mồ hôi mẹ mồ hôi con chảy ròng ròng... còn gì bằng.

      Sáng dậy sớm đem ít gạo ra chợ đổi búng, phải lấy búng rời, mua cho đủ rau thơm, khế, chuối chác đem về cả nhà ăn bửa mắm còng đầu mùa.

      Bún, rau, khế, chuối chác bày ra trên cái xề đã lót sẵn lá chuối, mắm còng cho váo nguyên một cái tô bự, cũng không quên ra sau vườn bẻ mấy nhánh ớt hĩm chín cây...

      Mỗi người tự làm cho mình một tộ bún mắm còng, người thích nhiều rau, người ưa bún chan nước mắm còng thôi. Mẹ tôi nhìn mấy ba chị em tôi lua bún, húp nước “rột rột” bà cười hạnh phúc mà quên ăn, dầu mắm còng là món ruột của bà!

      Bà có cách ăn mắm đặt biệt. Xé từng con mắm còng ra làm đôi, ngắt từng lá rau thơm cho nhuyễn cho vào tộ bún, chan ít nước mắm còng. Mỗi lần bà làm chỉ vừa một miếng mà thôi. Bà cũng có thói quen thích ăn mắm với lá chùm ruột non, lá điều lộn hột, lá gừng non, cũng như lá vông lấy ra từ hũ mắm.

      Sau nầy lớn lên, biết ăn biết nhậu tôi mới biết mẹ tôi đúng là người ăn mắm sành điệu. Và mỗi khi có dịp về Gò Công ăn món mắm còng lòng cảm thấy nao nao, nhớ mẹ làm sao! Hồi bà còn sống mỗi năm vào tiết Ðoan Ngọ bà lên Sài Gòn thăm tôi, đều không quên mang theo hũ mắm còng mà bà chắt chiu, cụ bị để dành. Hũ mắm còng ấy tôi để trong tử lạnh, vừa ăn mà vừa sợ hết!!!

      Ăn mắm còng kiểu gia đình tôi là ăn kiểu “nhà giàu”. Bởi món mắm còng xưa nay chỉ là món “ăn chơi, ăn nhậu”, ít ai dám ăn lấy no... Mấy ông già xưa miệt rẫy tuy vốn hảo ăn, hiếu bạn nhậu nhưng món mắm còng thì dành để nhậu riêng, ngày nầy qua ngày nọ, đến khi chỉ có lại vài con mắm, thậm chí còn lại ít nước mắm thôi cũng đủ làm ông say tối đêm đó rồi.

      Mắm còng Gò Công, như tên gọi, là đặc sản của quê hương bà Từ Dũ, là món ngon dâng vua. Mắm còng là món xuất thân dân dã, ruộng rẫy, có hương vị rất đặc biệt: Mùi hơi tanh như mùi bùn, nhưng khi đưa vào miệng ta cảm thấy như hơi tê tê đầu lưỡi, rất độc đáo...

      Cắn nhẹ con mắm còng bạn nghe có “mùi bùn” tỏa lên mũi, người ưa thì khen ngon, người chưa biết ăn sẽ chê tanh, như ta ăn xoài riêng vậy.

      Mắm còng vốn hiếm, ngày nay càng hiếm.

      Về thăm lại Gò Công nghe câu hò: “Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng”... gợi nhớ cái hương vị mắm còng biết bao!

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:43pm

Nồi Mắm Tạ Ơn




Trong hơn 28 ly hương xa xứ, hôm nay tôi đã tìm lại chút tình nồng của vùng phù sa sông Tiền và sông Hậu. Số là vì mừng ngày lễ Tạ Ơn nhân ngày cuối năm thì có lẽ ít ai thết đãi món mắm thuần túy quê hương theo nếp sống hải ngoại, nhất là đối với các bạn trẻ lớn lên tại đây. Có thể là điều kỳ lạ với họ. Nhưng với riêng tôi đó là những ân tình nồng nàn nhất đưa tôi về lại quê hương của hằng chục năm về trước. Năm nay những bạn bè thân của tôi có nhã ý làm buổi họp bạn nhân ngày "long weekend" Tạ Ơn để nhớ về dĩ vãng, và điều này đã mang tôi về lại nhiều kỷ niệm xa xưa trên quê hương của vùng trời bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi tôi đã lớn lên với vựa lúa phì nhiêu, cá mắm và rau quả dư thừa của đất nước Việt Nam. Đây là cái niềm vui thân thiết của những người bạn Rạch Giá mà tôi mới quen năm nay, nhưng chân tình của sự thân hữu hình như rất là nồng thắm. Nó như cái dễ thương của tình đồng hương xa xứ, rất “Kiên Giang", đầy nét “Tiền Giang “ và thắm đượm “Hậu Giang” trong ý nghĩ của riêng tôi khi viết lên những ý tưởng được cô đọng trong bài này.

Tháng chạp thời tiết Cali trở nên lành lạnh, cái không khí nô nức của mùa Noel hình như đang về trước mặt, khi mà các shopping, các cửa hàng đã chưng đèn đủ màu hay trang hoàng nhiều biểu tượng cho ngày vui cuối năm thì tôi và người bạn trẻ tên Đại Nghiã đang hướng về Orange county, nơi tập trung đông đảo cư dân người Việt, cũng như nhiều bạn bè của chúng tôi sinh sống tại đó. Đại Nghiã cho biết anh Minh Thông và chị Mai Khanh mời bạn bè xuống họp mặt tại nhà anh chị tại Anaheim. Tôi biết danh anh Minh Thông vẫn nổi tiếng là tay nấu ăn cự phách, nhất là các món ăn hay món nhậu đồng quê miền nam. Nghiã có bố mẹ gốc bắc, nhưng ra đời tại Sài Gòn. Tuy vậy, Nghĩa rất thích các món ăn của đồng bằng nam bộ. Khi lớn lên năm tháng ở Mỹ, Nghiã quen nhiều bạn học người miền nam và với cái tâm thức hoài hương, Nghĩa luôn luôn tìm hiểu về cội nguồn quê hương. Nghĩa thú nhận là em có chút ít khái niệm về quê hương nói chung hay vùng châu thổ sông Cửu Long nói riêng qua sách vở. Nghĩa bàn với tôi hãy nói về các đề tài mắm của miệt Cửu Long giang. Trên đoạn đường dài từ San Fernando Valley về Anaheim, tôi cố phác họa từ trí nhớ còn sót lại về vùng địa lý thiên nhiên miền tây, nơi có hai con sông lớn chính nuôi dưỡng người miền châu thổ Cửu Long giang. Tôi vẽ nét đại cương trong trí tưởng tượng cho Đại Nghiã là con sông Mekong với chiều dài gần 4000 Km bắt nguồn trên cao điểm xứ Tây Tạng đổ xuống hướng nam, và từ miệt thượng Lào đổ xuống Cao Miên và chảy vào lảnh thổ Việt Nam tẻ ra hai nhánh là Tiền Giang (TG) và Hậu Giang (HG). Sông TG từ biên thùy Cao Miên chảy theo hướng tây bắc xéo xuống hướng đông nam trên lảnh thổ Việt Nam ra đông hải. Hướng bắc của sông TG có các tỉnh tiếp cận là Kiến Phong, Kiến Tường (mà sau này chính quyền CSVN sáp nhập thành tỉnh Đồng Tháp), rồi Mỹ Tho và Bến Tre. Còn sông HG tương tự từ Cao Miên theo hướng tây bắc chéo xuống đông nam ngang Việt Nam hướng ra biển. Hướng nam của sông HG tiếp giáp với các tỉnh An Giang (Long Xuyên), Phong Dinh (Cần Thơ) và Sóc Trăng. Chính giữa hai con sông này là các vùng đất từ các tỉnh Châu Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long và Trà Vinh. Tôi ước ao có bản đồ nước Việt Nam để đưa người bạn trẻ của tôi trở lại Việt Nam chính xác hơn là những lời mô tả rất trừu tượng của tôi.

Tóm lại, trong mẫu chuyện của chúng tôi cho thấy là vùng châu thổ lưu vực sông Cửu Long là vùng đất màu mỡ thiên phú cho dân tộc Việt Nam, nơi là vựa lúa trù phú cho vùng Đông Nam Á, nơi mà cá tôm từ sông biển dư thưa nuôi toàn dân Việt Nam. Chính vì đặc tính cá tôm dư thừa này chúng ta có những đặc sản độc đáo từ các loại khô đến các loại mắm rất đặc sắc.

Nghiã ôm tay lái và chú ý lắng nghe tôi nói tiếp về đề tài “Mắm”. Thực sự khi tôi có dịp về vùng 4 những năm trước biến cố 1975 thì mắm là món tôi thường thưởng lãm nhiều hơn cả, từ món lẩu mắm, món mắm thái ăn với thịt ba chỉ, mắm ruột, mắm trứng, mắm cá trèn, mắm lóc, mắm sặc, mắm tôm chua, mắm tôm chà và mắm còng. Một buổi trưa hè tại Phụng Hiệp ở tỉnh Phong Dinh người bạn địa phương tên Sang cho tôi ăn món mắm sặc xé ăn với cơm nguội, kèm theo dưa leo, ơt hiểm thật cay xé họng, món ăn này thật bình dân, nhưng trong cơn đói bụng, nó nghiễm nhiên trở thành món ăn ngon miệng, quí hóa. Tôi nhớ ngày hôm đó người láng giềng bên cạnh nhà Sang mang sang một thau gỏi khô sặc ăn để nhớ đời. Gỏi gồm tôm, thịt ba chỉ luộc, trộn chung với dưa leo, củ cải trắng, khế, khóm, xoài sống và cốc bào mỏng. Bốn loại trái cây sau cho đủ độ chua cần thiết khi hoà vào hổn hợp của món khô sặc vừa đủ mặn và được nướng dòn, thật thơm lừng, cộng thêm mùi các loại rau thơm khiến hấp dẫn vô cùng đối với khứu giác và dạ dày của khách phương xa về miền quê này như tôi, người có cái đam mê của món khô và mắm.

"Chiều về Phụng Hiệp ăn khô, Còn đâu cái nhớ nơi mô tìm về ?"

Ghé xã Phước Đông, thuộc quận Cần Đước, Long An, tôi được dùng món mắm còng, một đặc sản rất độc đáo tại địa phương này. Vào mùa hè mùng 5 tháng năm thì là mùa còng cốm lột vỏ. Còng lột được tẩy bằng rượu trắng, ướp muối cho vào keo phơi nắng, nguyên tắc làm mắm còng khá giống cách làm mắm tôm chua. Mắm còng và mắm tôm chua được đệm thêm riềng cho thơm và để khử trùng. Tuy nhiên, mắm tôm chua người ta cho thêm đu đủ cắt sợi vào, trong khi cách làm mắm còng ta không cần đủ đủ. Mắm còng hay mắm tôm chua ăn với bún, thịt ba chỉ luộc hay thịt ram và rau sống.

“Mùng Năm tháng Năm mùa còng,
Hãy ăn còng mắm Phước Đông nhớ đời”


Gò Công nổi danh với món tôm chà. Tôi có dịp ghé Tân Hòa thăm một gia đình người bạn tại địa phương và học lóm cách làm món mắm tôm độc đáo này. Mợ của Sơn, người bạn tôi, làm theo công thức gia truyền bên nhà mợ. Tôm đất (tức tôm đồng) mợ mua về đem ngâm rượu trắng khử trùng, xong để ráo. Sau đó tôm được trộn muối bọt theo phân lượng 3 Kg tôm thì nửa Kg muối. Tôm được quết nhuyễn rồi cho vào keo đem đi phơi chừng 3 hay 4 nắng (1 nắng là một ngày nắng thật nhiều khi phân biệt với ngày âm u hay ngày mưa). Sau đó tôm được đem đi chà sát trên một rá đan bằng tre để gạn lọc phần nhuyễn của tôm, cho nên món này được gọi là mắm tôm chà. Mắm tôm có màu vàng lợt. Tôi thấy mợ đem đi phơi thêm 3 hay 4 nắng nữa. Khi phơi tôm, mợ cho miếng vãi the phủ lên mặt keo tránh bụi bậm. Nên nhớ keo không nên đậy kín trong thời gian này, áp suất của sức nóng sẽ làm hư tôm. Để chuẩn bị mắm tôm chà trước khi ăn, ta pha trộn tỏi ớt bầm, vắt chanh vào mắm cho đủ hương vị. Thịt ba chỉ luộc hay thịt ram chấm hay quyện vào mắm ăn với bún và rau sống. Tôi mê món này khi dùng chung với bông điên điển hay ngó sen làm chua, có thể đệm thêm khế, chuối chát để tăng phần rau quả đồng quê.

"Ai ơi có ghé Tân Hoà,
Cho tôi hủ mắm tôm chà Gò Công"


Trong một dịp tôi theo người bạn bè quê anh ở miệt Châu Đốc. Phải nói đây là xứ mắm. Mẹ của Hà, người bạn thân trung học của tôi dẫn tôi đi xem các hàng quán bán mắm ngoài chợ, rồi ghé các vựa làm mắm để tôi có dịp học hỏi thêm. Thật vậy, có quá nhiều điều tôi rất muốn biết về đồng quê từ những loại thổ sản độc đáo như mắm thái đu đủ, mắm lóc, mắm sặc, mắm cá trèn, mắm cá linh, mắm ba khía đến dưa mắm hay dưa đu đủ. Ngoài ra còn hai loại mắm mà tôi rất mê là mắm trứng cá và mắm ruột cá. Nếu người phương tây mê món trứng cá caviar của người Nga thì tôi đã vào mê hồn trận của món mắm trứng cá lóc Châu Đốc. Trứng cá lóc tôi rất ghiền khi nấu canh chua khóm, trứng cá màu vàng nổi lều bều, lềnh bềnh thật trông thật đẹp mắt, khi ăn vào rất ngon. Còn ruột cá lóc làm sạch đem nấu canh chua thì ngon tuyệt vời tâm tư rồi vì ruột cá cho độ dòn của sự khoái khẩu, nên khi người ta đem làm mắm thì không chê vào đâu được. Với tôi, dù mắm trứng cá hay mắm ruột cá cho ta vị giác đê mê, sảng khoái vì ta có cảm nhận cái hương vị bùi bùi của trứng cá và béo ngậy của ruột cá. Rồi tôi được mẹ của Hà hướng dẫn ghé thăm một nhà làm mắm khá nổi tiếng tại địa phương, mục kích cách làm mắm tận mắt tôi cảm thấy gần gủi hơn với nếp sống của dân gian. Cá lóc hay cá sặc được đánh vẩy, làm sạch cho vào lu hay khạp tùy theo lượng cá, xong cá được trộn muối bọt vào để cho thịt cá thấm vị mặn, sau một thời gian người ta thử con mắm. Khi cá đã ngấm chín mùi độ mắm trước khi đem bán người ta đem chao con mắm, nghiã là trộn thính vào, thêm nếp nấu nhừ trộn chung vào con mắm. Như vậy giai đoạn này là làm cho con mắm dịu lại vì vị ngọt và béo của nếp và mùi thơm của thính. Nếp nấu là cách bán trong thời gian ngắn mà thời hạn mắm sẽ không giữ lâu được, khi muốn giữ lâu hơn người ta dùng đường. Tuy nhiên tại nông thôn đường vốn đắt hơn nếp. Còn sang hơn cả người ta chao con mắm bằng mật ong, nhưng đây chỉ là hàng quí, đắt tiền mà thôi. Dĩ nhiên khi mắm đã đủ vị mặn mà sên mật ngon vào, cộng thêm hương thơm ngào ngạt của mùi thính thì con mắm sẽ ngon hơn.

“Ai về Châu Đốc, Thất Sơn,
Mắm trèn, mắm thái ăn cơn đã thèm”

***



Mỗi địa phương hay mỗi miền của quê hương đất nước có những món ăn tiêu biểu hay đặc sắc riêng của từng vùng, ví dụ tại Rạch Giá có món “Bún cá Kiên Giang” thì Bạc Liêu hay Châu Đốc lại có món “Bún nước lèo Hậu Giang”. Người Bạc Liêu vẫn quen gọi món này bằng sự sở hữu lưu luyến từ địa phương của mình, món “Bún nước lèo Bạc Liêu”.

Bún cá Kiên Giang làm bằng cá lóc, nước lèo nấu do vị cá và tôm luộc. Xong nước lèo được nêm nếm nước mắm và các gia vị căn bản khác cho vừa ăn, tô bún được độn vào giá và rau thơm (rau sống), cá được thái lát và tôm luộc được bày trên mặt khi ăn.

“Kiên Giang nước chảy sông dài,
Đừng quên bún cá nhớ hoài tình quê”


Theo cách làm món bún nước lèo Hậu Giang thì nước lèo nấu bằng mắm lóc hay mắm sặc nấu rục, xong nước lèo được gạn lọc xương lấy nước dùng. Loại bún này người ta dùng thịt cá và trứng cá lóc. Nước lèo có trứng cá lóc trên mặt, trông tô bún rất hấp dẫn. Trên mặt tô bún ngoài phần chính yếu là bún, giá, rau thơm là những miếng cá lóc luộc chín. Điểm đặc biệt của món bún này là nước lèo mang mùi mắm, dù là mắm lóc hay mắm sặc, sự tô điểm mắm vào làm cho món bún có hương vị đặc thù của món ăn.

“Dừng chân ghé bến Hậu Giang
Ăn tô bún mắm lòng càng mê man”

xxx

Cuối cùng chúng tôi đã đến nhà anh chị Minh Thông, hai đứa tôi bị lôi cuốn bởi cái hương vị rất quê hương từ nhà bếp tỏa sang phòng ăn và lên tận phòng khách. Anh chị đã chuẩn bị món “Lẫu mắm”. Lẫu mắm là món ăn độc độc đáo của người miền nam, đặc biệt vùng đồng bằng miền tây, mà miệt Tiền Giang và Hậu Giang vẫn được xem là trội hơn cả. Có thể rằng món mắm đã tiên khởi xuất phát từ vùng này của quê hương đất nước. Vã lại sự ưu đãi của thiên nhiên về tôm cá đồng làm cho món lẫu mắm của người miền tây xuất sắc hơn chăng ?

Nồi mắm của gia chủ được o bế bằng sự công phu và đệm phần cầu kỳ của các thứ rau ăn kèm. Anh Minh Thông không dùng cá catfish hay salmon, anh thích dùng cá hanh sọc, striped b***, thịt vốn chắc và ngọt. Tại hải ngoại mắm lóc được bán như sản phẩm làm sẳn "ready to use", nên ta đốt giai đoạn nấu và gạn lọc xương mắm cá lóc khi luộc mắm lấy hương vị làm nước lèo. Trên mặt nồi mắm xã bằm nỗi lềnh bềnh, cà tím, cá hanh xen kẻ nhau khi tôi nhìn vào nồi mắm. Trên mặt bàn ăn những dĩa tôm sọc rằn đã lấy chỉ xếp thật gọn gàng, ngăn nấp, dĩa mực trắng phau được khía ô vuông xếp theo hình cong của dĩa. Cái hấp dẫn khác là những dĩa rau "dã chiến", theo từ ngữ của anh Thông, vì tại hải ngoại rau ăn món "mắm và rau" hay "lẩu mắm" không có đầy đủ như ở quê nhà. Rau ăn món mắm này được gọi là rau ghém. Các loại rau quê hương được ưa chuộng cho rau ghém là: rau dừa, rau chốc, bắp chuối, bông súng, đọt mọt (hay rau bạch tượng), bằng lăng, rau nhúc, rau muống chẻ, rau sống hay rau hẹ. Rau hẹ không phải hẹ (chives) ăn trong món gỏi cuốn, loại rau này mọc dưới nước, lá màu xanh lợ, bản to và rất mỏng hơn chives có vị chua. Làm món rau ghém, tùy theo ý thích, có người thêm rau đắng, đọt chiết, đọt cốc, đọt xoài, bông điên điển làm chua. Dĩa rau ghém trước mặt tôi dù "dã chiến", nhưng nó bao gồm nhiều loại khá khan hiếm tại Mỹ mà gia chủ đã lặn lội đi tìm từ các chợ về đây, ví dụ bông súng hay ngó sen tươi, mít non, đậu rồng và nhiều loại rau cần thiết cho "Lẩu mắm".

Anh chị Minh Thông quả thực có tâm hồn ăn uống, cầu kỳ khi nấu ăn và trên cao hơn hết là lòng hiếu khách và trân quí bạn bè. Đó là đặc điểm khiến tôi ngẩu hứng ghi lại những dòng chữ này. Lễ Tạ Ơn này chúng tôi đã bỏ truyền thống ăn gà tây của người Hoa Kỳ để chọn món ăn quê hương. Ngày nay dù rằng quê hương đã cách xa 12,000 dặm trên quả địa cầu, nhưng lại rất gần với bao tử và con tim của chúng ta.

Thay mặt Đại Nghĩa và các bạn bè khác, xin cám ơn anh chị gợi nhớ tình hoài hương nhân lễ Tạ Ơn 2003 qua món "Lẩu mắm home sweet home" ăn để hồi tưởng những ngày cũ đã qua trên quê hương, để tạ ơn quê hương đất nước Việt Nam phì nhiêu về gạo lúa, trù phú về cá khô, mắm và rau quả và để:

"Chiều chiều ra đứng ngỏ sau,
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều"

Việt Hải, Los Angeles
IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:44pm

Mắm Tây Và Mắm Ta
Thái Thụy Vy



Trên cõi người ta, có nhiều phát minh rất thú vị đều do ở sự tình cờ như sự khám phá ra Nylon do một nhân viên của hãng hóa chất Dupont vô tình tìm ra trong lúc nghiên cứu các polymer cặn bã phế thải.
Sự phát minh ra Nylon mang nhãn hiệu Qiana đã làm cách mạng kỹ nghệ tơ sợi nhân tạo (man-made fiber) và thời trang; từ đôi vớ cho phụ nữ thay thế tơ tằm, đến vỏ xe hơi Aramid và các phụ tùng trong ngành hàng không (avionic, aerospace).
Có một phát minh khác do sự tình cờ mà tôi muốn đề cập trong bài nầy mà tôi gọi là mắm Tây. Ðó là loại Fromage Roquefort nổi danh ở Pháp Quốc. Ai cũng biết nước Pháp nổi danh với Cognac, Rượu Vang, Chocolat, Bơ và Fromage (Cheese). Các loại fromage nổi tiếng có Brie, Camembert, Gruyères (La Vache qui Rit), Chèvres... Nhưng độc đáo nhất phải kể là Roquefort. Fromage Roquefort. Nguyên vùng núi non Roquefort có nhiều động đá, là nơi trai gái hẹn hò, picnic. Các cặp tình nhân mang theo các thức ăn, thường thường là sữa, bánh mì, súc xích và rượu vang. Có một lần nào đó, họ để sữa trừu dư thừa đổ lên bánh mì rồi bỏ đó; không dè trong các động đá đó có một loại men nấm độc đáo đã vô tình chế ra một loại fromage mà làm người Pháp tự hào trên thương trường Quốc tế. Loại men xanh đó (Penicillium roqueforti) biến sữa và bánh mì cũ thành Fromage Roquefort có một mùi độc nhất vô nhị: mùi mắm, và các vân màu xanh như có dát hạt tiêu. Sau đó, Roquefort đã ngang nhiên trở thành đặc sản của vùng này mà không nơi nào trên thế giới có sự may mắn đó. Về sau, người Ðan Mạch cũng đã tìm ra một loại men tương tự, nên đã chế ra loại Danish Blue Cheese, là một loại fromage dịu hơn, mềm hơn, có nghĩa là ít hôi mắm và ít mặn hơn, và dĩ nhiên rẻ tiền hơn. Người Anh cũng đã cố gắng bắt chước chế ra loại Stilton Blue Cheese, nhiều cream hơn, ít gắt hơn, bời rời dễ nát hơn, và mùi vị lại chưa đạt được tiêu chuẩn của Roquefort. Chuyện Roquefort không ngừng lại đó. Một số tay sành điệu người Pháp còn thích treo Fromage Roquefort lên, để cho ruồi bu, đẻ trứng, sinh thành dòi, họ để cái chảo hứng bên dưới, đợi cho dòi bọ đủ số, bèn đem lăn bột chiên, thành món nhậu nổi tiếng là lạ và hiếm; đại khái giống như chúng ta ăn đuông dừa và đuông chà là lăn bột.
Thưởng thức Fromage Roquefort phải có rượu chát Nouveau Beaujolais, Sauvignon Blanc và bánh mì nóng dòn, hoặc bánh lạt (crackers) của Pháp mới đúng điệu. Ăn chơi trước bữa ăn hoặc ăn tráng miệng (dessert). Ðúng ra Roquefort chưa hẳn là loại fromage hôi nhất, còn có một loại hiếm và mắc tiền hơn gọi là Crotte du Boeuf, dịch hẳn ra là cứt bò, vì nó có cái mùi vị thum thủm của đồ phế thải từ con bò.
Sự phát minh ra Fromage Roquefort cũng như chất Nylon do sự tình cờ, nhưng sự chế ra các loại mắm ở Việt Nam lại trải qua bao nhiêu kinh nghiệm, học hỏi và tìm tòi, nhưng cái lạ ở chỗ ông bà tổ tiên ta ngày xưa chưa biết gì về môn hóa học. Trong bài này, tôi muốn đề cập đến một loại mắm Việt Nam độc đáo, mà nhiều người, kể cả dân Lục tỉnh chưa thưởng thức hoặc chưa bao giờ nghe tới là: Mắm Tôm Chà Gò Công:
Ðã là người Việt, không ít thì nhiều ai ai cũng đều nếm qua ít nhất một loại cá khô hoặc một loại mắm: từ mắm lóc, mắm trèn, mắm sặc, mắm cá linh, mắm thái (còn gọi là mắm sắc ), mắm ruột, mắm ruốc, mắm còng, mắm nêm, mắm cà pháo, dưa mắm, mắm tôm, mắm tôm chua, mắm cá thu, mắm ba khía, mắm hàm vỹ, mắm sống...


Nhưng theo tôi, mắm tôm chà Gò Công là vua các loại mắm, về phẩm chất, về hương vị lẫn về đặc tính hiếm quý của nó. Ngày xưa, đất Gò Công sản xuất tới bốn bà Hoàng Hậu (theo truyền thuyết của dân Gò Công), theo sử liệu thì tôi biết có hai bà: Ðức Từ Dũ và Hoàng Hậu Nam Phương. Hàng năm, đến khi gió mùa trong Nam thổi, hai Vương hậu cho gia nhân dùng thuyền xuôi ra Bắc, đem giới thiệu các loại đặc sản của quê hương mình, dâng cho vua ngự, sau đó mới đem thết đãi các quan trong triều, tùy theo phẩm trật. Vì mắm tôm chà là món sản xuất theo tiểu công nghệ, chỉ để dành cho vua chúa quan lại, và nhà giàu thưởng thức, nên thứ dân gốc địa phương cũng hiếm người có dịp dùng đến. Gò Công, là một trong sáu tỉnh đầu tiên của Lục tỉnh, nằm sát bờ biển Nam Hải, nên được trời ban cho nhiều đặc sản, nhất là tôm và ba khía. Cứ đến mùng năm tháng năm là ba khía tràn đồng, chỉ cần cào bỏ vào lu muối, đợi lên men thành mắm ba khía.

Còn mắm tôm chà, phải pha chế công phu hơn. Tôm càng đóng đáy, lột bỏ lớp vỏ cứng, đem ngâm nước dừa xiêm tươi, tôm chín đỏ, bỏ phần da mỏng đỏ sọc bọc ngoài, lấy phần thịt đem chà quết với muối biển Gò Công, rồi đem phơi nắng đợi lên men, kết quả cho một loại mắm màu đỏ tôm, đặc sệt như peanut butter, thơm dịu mùi tôm phơi nắng mà không loại mắm tôm nào đạt được hương vị đặc biệt Gò Công đó.
Trước khi ăn cần pha loãng bằng chanh tươi, tỏi tươi, ớt hiểm tươi, ăn kèm rau thơm có khế chua và chuối chát, thịt ba rọi; ăn với cơm hoặc với bún tươi, vừa hít hà vừa uống ly trà đá là sẽ nhớ đời. Cái lạ là cả hai món Mắm Tây và Mắm Ta đều rất mặn, nhưng cái hậu lại ngòn ngọt trên đầu lưỡi. Kẻ viết bài này tự hào là người Việt gốc mắm, tuy sinh trưởng tại xứ Bưởi. Nếu các bạn đã nếm qua thử Mắm Tôm Chà Gò Công, các bạn sẽ đồng ý với tôi với danh vị tôi đặt là \\\'vua các loại mắm\\\', quả không ngoa chút nào.

Tôi có nhờ ba người thân về thăm quê hương, tìm mua cho được thứ Mắm Tôm Chà Gò Công chân truyền. Nhưng lại vô phương vì tiêu chuẩn dành cho việc xuất khẩu, phải qua Paris và Bruxelles mới tìm ra, chai nhỏ xíu để giá 25 Francs Pháp. Giá tiền này tương đương với giá \\\'mắm tây\\\' Roquefort. Nếu tính theo cân lượng, \\\'mắm ta\\\' có phần mắc hơn, nhưng vẫn tương xứng với phẩm chất vô song. Mắm Tây hay mắm Ta ngon hơn? Tôi để dành câu trả lời đó cho những bạn sành điệu ghiền mắm trả lời.

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:50pm

:::Trường Phong:::

Đặc Sản Quê Em

Mời anh mời chị xuống thuyền
Về thăm sông Hậu sông Tiền mộng mơ
Lúa xanh ngậm sữa đợi chờ
Dưới rạch tôm cá trên bờ rẩy rau

Trung Lương khoe mận Hồng Đào
Đỏ da ngọt ruột ai nào chẳng mê
Tân An anh nhớ đường về
Khóm thơm Bến Lức tình quê ngọt ngào
Rạch Kiến thơm phứt mì xào
Hương đồng cỏ nội dạt dào chân mây
Thơm nồng cốm dẹp miền Tây
Bánh Phồng Sơn Đốc béo ngây mùi dừa
Châu Đốc cũng khéo không vừa
Bánh Phồng nếp rặt em chừa cho anh
Đói lòng mời chị bánh Canh
Tôm cua đồng nội tiêu hành bốc thơm

Gò Công khéo lắm mắm tôm (chà)
Vị thơm khét tiếng ngon cơm mắm Còng
Bánh Xèo, bánh Giá, bún Suông
Xơ-Ri chua ngọt ửng hồng mọng da

Khô Thiều Rạch Giá nếm qua
Mỹ ***g bánh Tráng chọn qùa Bến Tre
Lấp Vò kẹo đậu phọng mè
Làm chơi ăn thiệt ai dè quá ngon
Sa Giang kỹ nghệ bánh dòn…
Phồng Tôm xuất cảng Sài Gòn biết danh
Nem chua Thủ Đức sao bằng
Lai Vung Sa Đéc, Cái Răng Cần Thơ
Thuận bườm xuôi hướng Mỹ Tho
Ăn tô hủ tiếu thơm tho tình người
Chợ Đào gạo trắng cá tươi
Canh chua, (cá) kho tộ nhớ người năm xưa
Qua phà Mỹ Thuận ban trưa
Thưởng thức chim nướng nếu chưa đã thèm
"Mời cô mời bác mua thêm
Chôm-chôm, xá-lị, mía ghim ngọt ngào"
Vang lời cô bán hàng rao
Giã từ khách rẽ ngã vào Vĩnh Long
Sầu-riêng, măng-cụt thơm nồng
Bưởi Năm-Roi ngọt gốc trồng Cái Mơn
Trái cây chợ Lách bóng giờn
Bòn-bon Trường Thịnh no tròn Bến Tre
Dừa tươi dịu mát nắng hè
Kẹo dừa ngậy béo rụt rè duyên quê
Ba Tri sò huyết khỏi chê
Cua càng Ba Động nặng nề vỏ đen
Thịt ngon làm chả bắt thèm
Gạch son đỏ hỏn bên rèm mẹ khen
Quới Thành nấm Mối dòn mềm
Tỏa hương ngào ngạt nướng thêm mỡ hành
Chợ Thơm rượu đế một sành
Nếp Hương chưng cất ai đành làm ngơ
Thương nhau xin tặng lon bơ
Rang nhúm đâu phọng đề chờ khách xa
Lên rừng tách đọt Chà Là
Bắt Đuông vàng óng nỏn nà bên trong
Chiên lên thơm phứt béo nồng
Nhâm nhi xị đế quay mồng hành tinh
Cà Mau cùng với Trà Vinh
Cũng lắm Đuông óng nặng tình tha hương
Mang thêm rượu trắng Long Hưng
Đừng quên mua vịt cổ lùn Sa Giang
Chờ khi nắng xế chiều tàn
Nâng chùm mận đỏ Nha Mân nhớ nàng
Sáu câu vọng cổ tình tang
Vườn Hồng Sa Đéc muôn ngàn sắc hoa
Xuân về du khách gần xa
Trai thanh gái lịch ghé qua ướm tình
Quít đường Long Thạnh tròn dình
Phù sa đất tốt vỏ nhìn mõng tanh
Quanh đây cũng có cam sành
Định Yên mận trắng, mận xanh da người
Bên cồn ruộng rẩy xanh tươi
Chợ chiếu nhóm tối gọi mời ghé thăm
Mua về trải chõng em nằm
Để anh dệt mộng tơ tằm đôi ta
Nếu ai kén chọn chiếu hoa
E rằng em phải xuống phà sang sông (Vàm Cống)
Lục-bình bông tím xuôi dòng
Tân Châu chiếu Cổ trăm đồng một đôi
Nhãn to tròn trái ngọt môi
Ai ăn thái quá vướng đôi mắt ghèn
Đường Thốt-lốt lắm người khen
Mua về biếu chị tặng em nấu chè
Dập dìu tấp nập xuồng ghe
Mắm tôm, mắm thái cả bè chợ sông
Bán buôn nước lớn nước ròng
Vợ chèo chồng lái rẽ giòng Long Xuyên
Bắp vàng mới bẻ nấu liền
Vừa thơm vừa ngọt láng giềng có nhau
Canh chua nấu cá Bông-lau
Cá rô kho tộ chấm rau muống đồng
Khô cá sặc gỏi sầu-đâu
Món ngon nhứt chỉ chuột đồng rô-ti
Óc Eo núi Sập thiếu chi
Cháo đậu rắn hổ còn gì ngon hơn
Thương người đập đá Thoại Sơn
Đá mòn sức mỏi héo hon cảnh chiều
Hà Tiên có nhãn hạt tiêu
Vỏ mỏng, cái ngọt Bạc Liêu so bì
Nơi đây cảnh đẹp nên thi
Kia lăng Mạc Cữu, đó thì biển xanh
Hòn Phụ Tử đẹp như tranh
Đồi-mồi trang sức anh dành riêng ai
Hòn Tre có mãng-cầu dai
Khóm ngọt Tắc Cậu, tiêu ngoài Dương Đông
Mít vàng hòn Nghệ thơm lòng
Mắm nhỉ Phú Quốc vị nồng quê hương
Rạch Giá men rượu Đường Xuồng
Chuột nướng, cháo rắn cũng thường lai rai
Rượu nào mà uống chẳng say
Cần Thơ đong rượu Cái Trâm trong ngần
Bồng bềnh thuyền lướt sóng dồn
Chợ nổi Phụng Hiệp lời đồn chẳng ngoa
Ghe xuồng kẻ lại người qua
Bán buôn tấp nập, cải, hoa, hẹ, hành…
Dưa Pi (hấu) ruột đỏ da xanh
Ăn vào ngọt lịm, mát lành môi răng
Sau đây đặc sản Sóc Trăng
Bò Né, bánh Pía món ăn phố Tiều
Gạo Châu Phụng Võ hạt đều
Bánh Cống thơm phứt gió chiều thỏang đưa
Vũng Thơm Lạp-xưởng mới vừa…
Ra lò tươi rói có thừa khách mua
Mật ong, than đước Cà Mau
Rượu đế Chương Thiện đậm màu nếp than
Đầm Dơi, Rạch Gốc nước tràn
Ba Khía thấm mặn cả làng nếm qua
Bạc Liêu ruộng muối mặn mà
Tôm-thẻ đặc biệt ắt là trời cho
Đến đây xin chớ quanh co
Nước Lèo với bún ra lò khỏi chê
Cao Lãnh nhiều thỏ (chuột) đồng quê
Cúm-núm, rùa, rắn hả hê nướng xào
Lẩu lươn, lẩu cá cần rau
Bông súng, điên điển dạt dào tình quê
Mong anh nhớ lấy lời thề
Hai sông Tiền-Hậu vẹn bề thủy chung

Hò ơ…….Thương nhau ta ngủ chung mùng
Sáng dzìa, chiều ở……
Hò ơ…….Sáng dzìa, chiều ở, tối mần ruộng sâu…..

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:53pm

Món cá 'lọ lem'

(Sài Gòn Tiếp Thị)

TP HCM đã có hẳn một con phố bán cá kèo. Gần đây thịt con cá "lọ lem" này càng được dân sành ăn mê mẩn bởi ít béo và có thể ăn mãi không ngán.

Xèo... xèo... xèo... từng giọt, từng giọt mỡ trong, thơm từ mình con cá kèo chốc chốc lại tươm ra, rỏ xuống bếp than hồng. Dường như "cảm" được món ngon, ngọn lửa đỏ vội chồm lên, liếm nhanh thân cá. Người nướng cũng nhanh tay nâng gắp cá cao lên hơn tấc, để da cá không bị cháy sém, hôi khói.

Quá khứ cá kèo

Anh Võ Văn Thành, thợ điện gia dụng ở quận 8, chỉ đợi những ngày nước rong mới gọi điện sang quán quen dặn mấy món cá kèo "trời" (gọi vậy để phân biệt với cá kèo nuôi). Những vùng Gò Công, Trà Vinh, Cần Giờ, Phước Khánh (Đồng Nai) vẫn còn rải rác loại cá này. "Ông nhớ đi chặt mấy lóng tre tươi về làm gắp, nướng mới ngon..."- anh Thành dặn.

Thời anh Thành còn giữ trâu chốn quê nghèo Cần Giuộc, cách nay nửa đời người, cũng những con cá kèo nướng thơm phức, to bằng ngón tay cái, dài cả gang tay, giúp cải thiện lon gô cơm gạo lúa mùa thêm đủ chất.

Anh Phạm Văn Tám ở Nhà Bè kể, chừng 3-4 năm trước, vùng Nhà Bè, quận 7, dân chăn vịt đẻ có thể bắt 3-4 ký cá kèo "trời", trong 15-20 phút. Họ lùa cả nghìn con vịt đẻ vào mò ruộng rẫy. Đám vịt đẻ say mồi "càn" tới đâu là hang lũ cá kèo bị san bằng tới đó. Chúng vội di tản xuống hang cua, còng lánh nạn. Người chăn vịt thọc tay vào những hang này, kéo lên từng nắm cả năm, mười con... "Chiều tối, húp một chén cháo cá kèo "ngọt ngất", mồ hôi tôi rịn lấm tấm người, đã không tả được!" - anh Tám chép miệng.

Hương khẩn hoang

Thịt không nhiều như những anh bạn láng giềng (thòi lòi, bống sao, xệ, cát) nhưng cá kèo thịt ngọt thanh và béo hơn. Dân ăn cá kèo "mòn răng" nói rằng, vị ngon đặc trưng của con cá này tập trung ở gan và mật. Chính vị nhăn nhẳn giúp làm giảm mùi tanh, nâng độ ngọt cho con cá dài ngoằng này.

Những món "dã chiến" mà ngon thấu trời vùng Bạc Liêu, Gò Công, Trà Vinh hay có con cá kèo tham dự! Nào nướng mọi, kho gợt, cháo cói, lẩu mắm... Phải nói giống cá này dễ tính. Món nướng của nó không kén nước chấm, có me non hoặc chanh hay gừng thêm tí nước mắm ngon, vài trái ớt hiểm là đĩa mồi "xộp" thấy rõ.

Hay như món kho gợt cá kèo, cách làm rất giản tiện. Cá kèo sống người ta đem ngâm nước muối loãng 5-10 phút cho sạch nhớt. Nêm nếm nồi nước kho lạt cho vừa ăn là họ bỏ cá kèo sống vào. Người nấu cứ vớt bọt, con cá kèo cứ "phùng mang trợn má" trồi lên hụp xuống trong nồi, đã có món ngon tập hai. Gắp con cá ra đĩa nước chấm, người ăn gợt bỏ vẩy, kỳ... Dân sành ăn cho kho kiểu này ăn thịt cá mềm, bùi hơn. Rau ăn kèm món này thường là rau tập tàng như đọt: cóc, chùm ruột, chiết, lụa... Thêm một điều khác lạ, ăn cá kèo người miền Tây thường nhắc đến rau đắng đất, bông so đũa, ớt "chim ỉa". Đắng và cay, thêm cách chế biến đơn sơ, gợi nhớ thời khẩn hoang đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng sản vật phong phú.

Vị công nghiệp

Năm bảy năm trước, không ít cư dân Sài Gòn còn chưa biết ăn con cá "lọ lem" này. Nay ước tính trong những ngày nước rong mạnh (rằm - mười sáu, ba mươi âm lịch) từ tháng 10 đến tháng Chạp, chợ đầu mối Chánh Hưng quận 8 tiêu thụ trên 8 tấn cá kèo/ngày. Giá giống cá này luôn cao gấp 1,5-2 lần thịt heo nạc, mặc dù đa phần là cá nuôi.

Cá kèo nuôi thịt nhạt và bở, trông ú nụ, da trắng mét, không xanh đen, rắn rỏi nữa. Đã thế người nấu còn mua nó trữ tủ lạnh (những ngày khác trong tháng hay khan hàng), khiến miếng cá kèo thêm dở tệ.

Tuy vậy, thực đơn cá kèo Sài Gòn đã theo kịp chó bảy món. Đường "cá kèo" Sư Thiện Chiếu ở quận 3 vẫn đông nghẹt khách vào những ngày cuối tuần. Những hẻm, vỉa hè lẩu cá kèo ở TP HCM ngày càng đông đúc, không thống kê nổi. Những quán này hơn nhau ở chỗ gia vị. Trong đó, có thể nói bà chủ quán cá kèo Bà Huyện có công nâng cấp nồi canh chua cá kèo thành lẩu chua lá dang. Chất tạo ngọt cho nước lẩu là nước hầm xương cá basa, đầu cổ gà. Đúng bài, bà phải hầm cá đồng tươi, nhưng kiểu này không "kinh tế".

(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:54pm

Khi sơ ri Gò Công đổi hương vị đặc thù!

Khi nói đến Gò Công những ai đã từng đến hoặc biết về mảnh đất này không thể không nhắc đến trái sơ ri đặc sản. Đơn giản vì nếu trồng ở Gò Công thì Sơ ri mới có hương vị chua ngọt đặc thù , màu sắc đỏ hồng trông thật bắt mắt. Vì thế trong mục tiêu phát triển kinh tế trong tương lai của thị xã Gò Công (TXGC) và Gò Công Đông (GCĐ) đã xác định đây là cây kinh tế chủ lực...

Thật ra TXGC chỉ là nơi giao dịch ,trung chuyển, nâng cao giá trị hàng hóa còn xuất xứ của cây sơ ri chính là ở 3 xã Bình Ân, Bình Nghị và Tân Đông thuộc huyện GCĐ. Anh Nguyễn Văn Thông cán bộ nông nghiệp xã Bình Ân, người mà cho tới giờ đã có 40 năm gắn bó với loại cây này-cũng là “người phát ngôn” của huyện khi ai đó hỏi về cây sơ ri. Anh Thông cho biết: Hồi đó vùng đất này chỉ trồng toàn lúa mùa, mỗi năm 1 vụ .Thế mà trên tuyến đường về biển Tân Thành (nay là đường Thủ Khoa Huân F2 TXGC) xuất hiện một loại cây trái có vị chua chua ngọt ngọt, vỏ màu đỏ hồng, trông thật bắt mắt. Lúc đầu chỉ để ăn chơi nhưng về sau người ta phát hiện trong trái sơ ri lúc chín chứa nhiều vitaminC , có thể ép lấy nước, làm rượu rất ngon... nên đã sản xuất hàng hóa như bây giờ.

Hiện nay, diện tích sơ ri trên địa bàn Gò Công đã lên đến 800ha, năng suất trung bình 20 tấn/ha. Với giá bán từ 1.500-2.000đ/ký người nông dân đã có lời gấp đôi so với trồng lúa. Dù vậy, diện tích cây sơ ri trong nhiều năm liền vẫn không tăng, mặc dù chính quyền địa phương xác định đây là loại cây chủ lực và khuyến khích mở rộng. Anh Đinh Văn Chậm-ấp Kinh Trên xã Bình Ân , người được mệnh danh là “vua” sơ ri giải thích “dù muốn thế nào đi nữa cũng khó có thể tăng diện tích được, bởi sơ ri chịu đất phèn mặn + cát pha nhưng lại “thích” nước ngọt. Do đó, chỉ ở những tuyến kênh mới thích hợp, còn trồng trong liếp hoặc trong đồng những tháng mùa khô không có nước tưới, năng suất thấp”.

Có 3 nguyên nhân làm cho cây sơ ri trở thành đặc sản xứ Gò là đất ở đây là đất phèn mặn lẫn với cát. Thứ hai, là nhờ ông Biện Thới ở Bình Nghị (đã mất). Chính ông là người đã phát hiện cách xử lý cho sơ ri ra hoa, đậu trái (năng suất cao). Còn bây giờ đã có thuốc Progibb dạng bột dùng để xử lý sơ ri ra hoa hiệu quả và an toàn hơn. Nguyên nhân thứ ba làm cho cây sơ ri phát triển mạnh mẽ là nhờ chương trình ngọt hóa Gò Công. Chính từ chương trình này mà người trồng có đủ nguồn nước tưới quanh năm.

Hiện tại ở TX Gò Công chỉ có Công ty TNHH Thịnh Phát là doanh nghiệp chế biến xuất khẩu loại trái cây này. Do chứa nhiều vitaminC nên sơ ri rất được thị trường Nhật ưa chuộng và công ty Thịnh Phát cũng chỉ xuất khẩu sang Nhật, còn lại là tiêu thụ trong nước. Cuối năm 2004, Đài truyền hình APS của Nhật cũng đã về Gò Công thực hiện phóng sự về cây sơ ri, mở ra triển vọng mới về tiềm năng của thị trường này. Đối với người dân trong vùng, việc mở rộng thị trường là một tin vui. Nhưng điều mà họ lo nhất là khi được “ngọt hóa” thì cây sơ ri không còn giữ được hương vị chua ngọt đặc thù nữa. Nhiều vườn cây đã có dấu hiệu suy kiệt, giảm năng suất sau 15-20 năm khai thác. Nếu trở lại trồng lúa thì phải “hạ liếp” rất tốn kém, trồng lại cây mới thì chậm lớn, năng suất thấp. Anh Nguyễn Văn Thông tỏ ra tâm tư “khó có thể tìm được vùng đất nào trồng được sơ ri như 3 xã Bình Ân, Bình Nghị và Tân Đông. Nhưng khi đã “ngọt hóa” rồi thì lại khó giữ cây sơ ri gấp bội. Do đó, cần lắm chính quyền địa phương, nhà khoa học giúp chúng tôi một tay... Nếu không nguy cơ “mất” cây sơ ri trên vùng đất Gò Công là có thật!”

THANH TÚ http://www.baocantho.com.vn/vietnam/sukien/22665/

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:58pm

NGUYỄN HỮU CHÍ

Bắt cá đêm ở sông cửa Đại

 

Nằm lọt giữa hai con sông cửa Tiểu, cửa Đại, cuộc sống người dân hai xã cù lao khu vực Phú Đông, Phú Tân (Gò Công Đông, Tiền Giang) đã phải chịu đựng cảnh “6 tháng ngọt, 6 tháng mặn”. Họ đã quen dần với quy luật “khi có nước ngọt, trồng lúa, hết nước ngọt thì đi bắt con cá, con tôm”. Và dường như để bù lại sự thiệt thòi ấy, thiên nhiên lại ưu đãi cho người dân xứ cù lao nguồn tôm cá phong phú. Đóng đăng, đóng đáy, đi câu, đẩy xệp… đã trở thành thứ nghề cha truyền, con nối của những con người đã sinh ra và lớn lên ở xứ cù lao này.

  • Quanh năm vất vả ở ven sông!

4 giờ chiều ngày 30-3, những con sóng mặn, đục của sông cửa Đại đã ì oạp xô vào bờ theo cơn gió thổi lào xào vào những dải bần, đước, vẹt dọc bờ sông. Bốn cha con chú Ba Bờ (Lê Văn Bờ, ấp Cả Thu II, xã Phú Thạnh, GCĐ) mình trần trùng trục đi thả đăng ở bãi cửa sông cửa Đại. Gần 1.000 mét lưới đã được bốn cha con chú Ba lặn hụp dưới dòng nước qua khỏi đầu người để dằn và buộc theo hàng cây đước cắm sâu dưới đất. Thằng Phương, con trai út của chú Ba vừa lặn hụp, vừa thở phì phì vì vị nước mặn chát xộc vào lỗ mũi. Phải mất gần cả 2 giờ đồng hồ việc thả lưới mới hoàn tất.

Vợ chồng chú Ba Bờ đang lựa cá.

Vừa chèo xuồng để kiểm tra lại tất cả các mối dây buộc lưới, chú Ba giải thích: “Nếu buộc không chặt, lúc nước ròng giựt, lưới bị tung ra thì cá ra sạch không còn một con!”.

Thì ra, đóng đăng là vậy. Lúc nước lớn, tôm cá theo dòng nước vào bờ tìm thức ăn ở những bãi có cây bần, cây đước mọc nhiều là nơi lý tưởng của vi sinh vật biển sống. Lúc này, người đóng đăng dùng lưới chặn bên ngoài các lùm cây theo hình cung khép kín hai đầu. Nước cạn, cá tôm sẽ nằm lại trong lưới.

10 giờ đêm, mặt trăng tròn chênh chếch soi rõ con nước đang dần dần rút ra xa khỏi lùm cây. Vào đêm, bờ sông cửa Đại nhộn nhịp hẳn lên bởi cảnh ghe câu, đẩy xệp, kéo lưới, đóng đáy… Chú thím Ba cùng ba người con xuống chiếc ghe gắn máy Kole có để sẵn ba chiếc cần xé và vài cái vợt, 3 cái đèn dầu để chuẩn bị bắt cá. Một giờ sau, nước ròng cạn, ở ngoài ghe nghe cả tiếng cá giãy đành đạch trong lưới. Bốn mẹ con thím Ba lội đến mí lưới và mở dây, leo vào.

Dưới ánh đèn dầu tù mù, hàng trăm con cá lớn nhỏ nằm phơi bụng trên mặt bùn nhão nhoẹt. Những con cá ngát gần cả ký lô với hai râu dài, còn sống, lóc lia lịa đến mí lưới đã chôn chặt dưới bùn thì nằm lại. Những con tôm thẻ, tôm sú cỡ ngón chân cái giương hai con mắt dạ ánh đèn đỏ ngời… Ba người con chú Ba dùng một miếng cây hình chữ nhật khều từng con cá vào vợt và bỏ vào cần xé được thím Ba vừa đẩy trên tấm mông theo sau. Còn chú Ba thì ở bên ngoài để đi rộng những con cá ngát vì “nếu để chết thì bán không được giá!”.

Vừa đẩy cần xé cá đặt trên miếng gỗ, thím Ba vừa lựa cá để bỏ vào vợt. Đến 1 giờ sáng thì việc bắt cá mới kết thúc với ba cần xé đầy cá ngát, cá đối, cá kến, cá chốt, tôm và hơn một chục con cua biển bị trói bằng dây lạt dừa. Sau đó, ba người con chú Ba đi gom lưới để ngày mai đi giăng ở bãi khác, còn chú thím Ba thì phân loại cá bỏ riêng vào từng thúng và chở vào chợ Bà Từ, xã Phú Tân để cân cho thương lái.

Buổi đóng đăng của chú Ba kết thúc khi nước vừa lớn trở lại thì cũng là thời điểm nghề câu cá bông lau bắt đầu. Trên chiếc xuồng nhỏ nằm cạnh ghe của chú Ba Bờ từ đêm giờ, vợ chồng anh Nguyễn Văn Giả, ấp Lý Quàn 2, xã Phú Đông bắt đầu vào việc. Lúc chú Ba đi bắt cá, anh Giả cũng xách thùng theo để mót những con cá cơm nhỏ còn sót lại làm mồi câu cá. Với giàn câu 300 lưỡi, hai vợ chồng anh phải mất hơn một giờ để móc mồi và thả dọc theo bờ sông đến mờ sáng (khoảng 4 giờ) thì đi gom câu.

Theo anh Giả, lúc này đang mùa cá bông lau nhưng năm nay rất ít cá! Cả đêm kiếm được chừng 5 đến 6 con là may rồi (cá bông lau có giá 20.000 đồng/kg), thỉnh thoảng cũng có cá đuối nhưng thường là cá ngát. Anh còn cho biết, vì mùa này bần chưa chín chứ nếu có, bần chín làm mồi câu cá bông lau thì “nhạy” hơn mồi cá. Còn ở cửa sông cửa Đại, anh Ba Nghiệp (ấp 2, Bình Đại, Bến Tre), chủ nhân dàn đáy đóng trong con lạch Bà Từ cũng đang đốt đèn dầu để lựa cá vừa đổ từ đáy lên…

  • Và ngổn ngang những nỗi niềm!

Chợ Bà Từ ở xã Phú Tân vào buổi sáng nhộn nhịp người mua, kẻ bán. Ở một góc chợ dành cho người bán cá, thím Ba đã bán xong mớ cá hủn hỉn (cá vụn) cuối cùng. Thím vui vẻ cho biết, công sức của 5 người bỏ ra cả đêm thu về được 600.000 đồng.

“Đêm nào cũng được như vậy, hả chú?” – Chú Ba trả lời: “Được như vậy thì còn gì bằng! Một tháng đi đóng bãi này một lần, có đêm nhiều, đêm ít, cũng có đêm chỉ kiếm đủ bữa ăn!”. Ngồi nghe chuyện của chú cũng như một số người đi bắt cá ban đêm mà tôi nghe hơi trăn trở vì thật ra, “cá tôm ngày một hiếm đi mà đâu phải đêm nào cũng bắt nhiều!”. Cũng như anh Hai Nghiệp, cả đêm đóng đáy, cá, tôm bán được vài trăm ngàn nhưng còn phải lệ thuộc vào con nước.

Nhưng, đối với những bà con sống bằng nghề bắt cá ở ven sông này thì chuyện cá ít không đáng lo bằng chuyện con cái học hành chẳng tới đâu. Bởi lẽ, chuyện cái chữ ở cù lao vẫn còn rất nhọc nhằn! Một cô giáo của Trường Tiểu học Phú Đông cho biết sự thật đau lòng: một số em trai chỉ học đến hết cấp hai, biết chữ và số rồi nghỉ để theo cha mẹ làm nghề biển.

Trong 8 người con chú Ba, chỉ có 2 cô con gái út học được lên lớp 9, thi tốt nghiệp đậu nhưng muốn học tiếp thì phải qua tận thị trấn Tân Hòa. Nhưng, có lẽ nguyên nhân chính là nhà khó khăn quá nên cả hai cô đều thôi học. Hiện hai chị em đang nộp đơn xin việc làm ở khu công nghiệp Mỹ Tho để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Còn 6 người con đầu vì nhà nghèo nên học đến lớp 3 thì phải nghỉ. Trong lúc nằm chờ kiếm mồi để thả câu, anh Giả tâm sự: “Ở cái xứ cù lao này, kiếm tiền đã khó mà chuyện lo cho con đi ăn học đến nơi đến chốn lại càng khó hơn!”.

Có một sự thật mà bà con đánh bắt ven bờ này dù không nói ra nhưng nó vẫn canh cánh bên lòng mỗi người là mối nguy hiểm luôn chực chờ trong lúc mưu sinh. Những lúc mưa gió, bão bùng hoặc chỉ cần cơn sóng lớn trong mùa gió chướng cũng đủ nhấn chìm chiếc ghe nhỏ, cũ của họ. Hỏi về chuyện áo phao, ghe mới, chú Ba cũng như anh Giả, anh Nghiệp lắc đầu: “Ở gần bờ mà! Vả lại, mua ghe mới thì phải có nhiều tiền nên đành chịu!” Nghe vậy, tôi bỗng giật mình vì nhớ thím Ba từng kể, có lần hai vợ chồng đã “mém” chết vì sóng lớn trong lúc lặn hụp dằn lưới đăng. Vậy mà, riết cũng quen!

Theo kết quả tổng kết điều tra tàu cá và thuyền viên của Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh trong tháng 1-2005, tỉnh có 343 chiếc thuộc diện đăng kiểm và 211 chiếc phải kiểm tra an toàn kỹ thuật nhưng không đăng ký, đăng kiểm. Loại nghề phổ biến hiện nay là đáy, rê, câu, lưới đèn… chiếm 37%. Qua thực tế điều tra, đa số các chủ phương tiện này là những hộ nghèo, có tàu đóng bằng gỗ tạp thiếu an toàn và thường hoạt động trong những nghề cấm và cần hạn chế như cào, te, đáy. Đặc biệt, những chủ phương tiện nhỏ hoạt động khai thác ven sông, rạch đa số đều không có bằng.

Chia tay với những người dân đánh bắt ven bờ ở sông cửa Đại, xách theo vài con cá mà thím Ba gởi gọi là quà xứ cù lao, tôi nghe lòng nặng trĩu về một tương lai cho những người dân sống bằng nghề đánh bắt ven sông. Mong sao các ngành chức năng sớm có chính sách hỗ trợ vốn giúp các chủ phương tiện nghèo có điều kiện chuyển đổi nghề phù hợp. 

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 10:59pm

Nghêu hầm thố

 

HauHamTho.jpg

Nguyên liệu

200g thịt nghêu tươi.

3 nhánh sả tươi, 1 quả ớt sừng, 50g rau mồng tơi.

200g bún tàu, 50g hành tây, 1 thìa súp dầu ăn.

1 bát nước dùng, muối, bột nêm, nước mắm.

Thực hiện

Rửa sạch nghêu , để ráo nước, ướp bột nêm, nước mắm. Lột bỏ lớp vỏ ngoài của sả, băm nhỏ. Ớt sừng bỏ hạt, băm nhỏ.

Hành tây thái khoanh mỏng, xếp ra đĩa. Nhặt rửa sạch mồng tơi, để ráo, bày ra đĩa. Rửa sạch bún tàu, để ráo.

Cho dầu vào thố, đun nóng cho sả, ớt vào phi thơm, sau đó cho nước dùng vào, nêm muối, nước mắm, bột nêm vừa ăn.

Thưởng thức: Khi nào dùng, cho rau mùng tơi, bún tàu, hành tây, nghêu vào nước sôi. Món này dùng kèm với nước mắm pha vài lát ớt.

IP IP Logged
Hoang Ngoc Hung
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 14/Jun/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 234
Quote Hoang Ngoc Hung Replybullet Gởi ngày: 30/Jun/2007 lúc 11:00pm

2. Mỳ sốt nghêu

 

MyYSot.jpg

Nguyên liệu

80g mỳ ý, 100g thịt nghêu .

2 quả cà chua, 1/2 củ hành tây, 20g nấm rơm.

1 thìa tương ớt, tỏi băm, dầu ăn, gia vị, đường, bột nêm, dầu hào, tiêu.

Thực hiện

Rửa sạch nghêu , để ráo nước, thái miếng vừa ăn. Thái hạt lựu, hành tây, rấm rơm.

Cà chua bỏ hạt xay nhuyễn. Đun nóng dầu, phi thơm tỏi, cho cà chua vào xào, nêm gia vị.

Luộc chín mỳ ý, vớt ra để ráo, cho vào đĩa. Phi thơm tỏi với chút dầu ăn khác, cho hàu, nấm, hành tây, sốt cà vào, nêm gia vị vừa ăn.

Thưởng thức: Rưới sốt mì lên, rắc tiêu, dùng nóng với tương ớt, tương cà.

IP IP Logged
Trang  of 6 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.145 seconds.