Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Những câu chuyện về Trọc Sỹ ( NĐQ ) Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 2 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Những câu chuyện về Trọc Sỹ ( NĐQ )
    Gởi ngày: 10/Dec/2009 lúc 10:58pm




Những câu chuyện về Trọc Sỹ của tác giả Nguyễn Đức Quang , còn có nick là "Quang Già Cơ" , gồm nhiều truyện ngắn , ghi lại một cách dí dõm những  kỹ niệm từng năm học (thời trung học & đại học ) của tác giả :
www.quangseattle.com
http://www.quangseattle.com/default.aspx

Xin trích truyện TRỌC SỸ ĐỆ TỨ .
http://www.quangseattle.com/default.aspx
Mời cả nhà thưởng thức .





NGUYỄN ĐỨC QUANG

TRỌC SĨ  ĐỆ TỨ

 

MỞ ĐẦU

 

TRỌC SĨ LÀ CÂU TRUYỆN TƯỞNG TƯỢNG.  TRUYỆN XẨY RA TẠI HAI NƠI:

 

 *        TRƯỜNG TRUNG HỌC PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẴNG

 *        VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

 

NHỮNG NHÂN VẬT CHÍNH KHÔNG CÓ THẬT.  HẦU HẾT NHỮNG NHÂN VẬT PHỤ CŨNG KHÔNG CÓ THẬT.   SỰ TRÙNG HỢP TÊN VỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN LÀ NGOÀI Ý MUỐN CỦA TÁC GIẢ.

 XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN TÁC GIẢ NHỮNG BÀI HÁT, BÀI THƠ ĐƯỢC TRÍCH DẪN TRONG TRUYỆN.

Nghìn thu anh là suối trên ngàn

Thành sông anh đi xuống, anh tuôn tràn biển mơ

Nghìn thu em là sóng xô bờ

Vào sông em đi mãi, không bao giờ biển vơi

PHẠM DUY

 

Thửa xưa ở trên ngàn. Anh là con suối nhỏ.  Lớn lên anh thành sông.  Sông tuôn vô biển lớn.  Anh làm nên mộng lớn.  Đền đáp lại tình em.  Ngày xưa em  còn bé.  Em là con sóng nhỏ. Em quấn quít bên anh. Đến tuổi em biết yêu.  Em đi vào sông lớn. Em theo anh mãi mãi.  Không một chút âu lo.  Không một phút đắn đo.  Không một lời thắc mắc.  Theo anh vô biển lớn. Thấy đời rộng thênh thang. Thấy tình đẹp như thơ. Đời em hoa rộ nở. Bóng hình anh lồng lộng. Em bé nhỏ bên anh.  Em là con sóng nhỏ.  Muôn kiếp ở trong anh.

Tôi là con suối nhỏ.  Muôn đời chẳng thành sông. Viết những lời mơ ước.  Được thành con sông nhỏ

*********

 


Năm đệ tứ, lớp tôi có những cuộc tranh luận thật sôi nổi đề tài về truyện Kiều. Thầy Hồng, giáo sư Việt Văn lớp tôi, là người Minh Hương.  Cả lớp ai cũng quý mến thầy vì thầy là giáo sư giỏi, tính tình cởi mở, thẳng thắn.  Thầy thường đưa ra những đề tài hấp dẫn để chúng tôi thảo luận như: ”Phạm Quỳnh nói :”Truyện Kiều còn, tiếng ta còn ; tiếng ta còn, nước ta còn …” trò nghĩ sao về câu nói này “.  Chúng tôi có một giờ để thảo luận đề tài này.

Thằng Hoàng Lùn tán đồng với cụ Phạm Quỳnh, nó nói :

-Mỗi Quốc Gia đều có một biểu tượng.  Biểu tượng sụp đổ thì Quốc Gia sụp đổ theo.  Truyện Kiều là một thi phẩm tuyệt vời.  Từ khi dựng nước đến nay không có thi phẩm nào hay hơn truyện Kiều.  Cho đến ngày tận thế cũng không có một thi phẩm nào hay hơn truyện Kiều.  Truyện Kiều là tiêu biểu về văn học để cho cả dân tộc ta hãnh diện.  Truyện Kiều đã trở thành báu vật quí giá của dân tộc Việt Nam.  Báu vật mất đi, biểu tượng mất đi thì tất nhiên dân tộc phải suy, rồi đi tới chỗ diệt vong.  Dân tộc mất đi không phải là không còn một nước Việt Nam, không phải là không còn một giống người được gọi là Việt Nam  trên trái đất này.  Vẫn còn một nước Việt Nam, vẫn còn một giống người được gọi là Việt Nam, nhưng đó là một nước Việt Nam không còn sức sống. Còn con người Việt Nam thì không còn tình cảm, không còn biết xấu đẹp, không còn biết yêu thương, không biết tự do.  Dân tộc đó chẳng khác chi một cây khô.  Có thể ví dân tộc Việt Nam như một cây, còn truyện Kiều như một giòng suối đem nước nuôi cây.  Suối cạn, tất nhiên cây phải chết.  Dân tộc ta là một dân tộc thi sĩ. Người thi sĩ là người yêu cái đẹp và yêu tự do. Nay cái đẹp mất.  Chúng ta không còn được nghe hay đọc những câu thơ thật hay và lãng mạng như tiếng sáo diều làng ta mà nhạc sĩ Phạm Duy viết trong bản nhạc Tình Ca :”Một yêu câu hát truyện Kiều, lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta” .   Đối với tôi 3225 câu thơ là những tiếng sáo diều, là dòng suối chẩy, là giòng máu nóng nuôi sống người Việt Nam, là tiếng nói truyền đi những tình cảm của dân tộc.  Truyện Kiều ra đời, đất nước hóa thành thơ.  Cả nước làm thơ, cả nước đọc thơ, cả nước ngâm thơ.  Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Tú Bà, Sở Khanh không còn là của Trung Hoa mà đã trở thành của Việt Nam.  Tôi hỏi các bạn :” Trong lớp có trò nào không làm thơ ?”

Thằng Diệp dơ tay :” Tui “

Thằng Hoàng nhìn thằng Diệp.  Hoàng nói

-Trò Diệp nói dối.  Hè năm đệ ngũ, trò Diệp viết lưu bút cho trò Thiên Nga.  Trò Diệp có làm câu thơ mà tôi còn nhớ :” Thiên Nga tung cánh - Trong trời nắng ấm.  -  Lá xanh tươi thắm – Cũng muốn bay theo – Đôi cánh trắng trong – Cho đời tươi thắm…

Thằng Diệp ấp úng

-Bài thơ, tôi nhờ trò Giá làm, không phải tôi làm …

Thằng Giá đứng dậy nói

-Thơ của tôi nhưng ý là của trò Diệp.  Trò Diệp thuê tôi một tô phở để tôi làm thơ có đôi cánh trắng và lá xanh

Cả lớp cười ầm.  Con Thiên Nga cười hớn hở và nói lớn 

-Vậy mà trò Diệp nói với tôi, trò sáng tác bài thơ Đôi Cánh Thiên Nga

Thằng Diệp cười bẽn lẽn.  Tôi nhớ một ngày hè năm đệ ngũ, con Thiên Nga cầm quyển lưu bút của nó và nói

-Tụi mi nghe thằng Diệp làm thơ tặng tao

Con Thiên Nga đọc cả bài thơ dài hai ba chục câu, không phải chỉ mấy câu thằng Hoàng vừa đọc.  Tôi còn nhớ những câu đối thoại giữa con Thiên Nga, thằng Hoàng và thằng Diệp năm ngoái. Con Thiên Nga vừa đọc xong bài thơ, thằng Hoàng nói

-Thằng Diệp nó nói mi là con cò.

-Diệp, mi nói tao là cò phải không

-Bài thơ của tao là Đôi Cánh Thiên Nga, đâu có phải là Đôi Cánh Cò.  Thằng Hoàng nói bậy

-Tung cánh trắng bay là cánh cò trắng chứ chi nữa.  Mi nói Thiên Nga là cò.  Cổ Thiên Nga dài như cổ cò

-Mi suy diễn bậy bạ.  Cánh thiên nga cũng trắng và dài vậy

Chừ chúng tôi mới biết bài thơ là của thằng Giá Bồng Nga, không phải của thằng Diệp.  Sau khi con Bạch Nga đọc xong bài thơ, tôi thắc mắc thằng Diệp làm thơ hay đạo thơ. Từ trước đến nay, nó chưa làm thơ và nó rất yếu về môn Việt Văn. Tôi mất cả tuần để tra cứu nhiều sách văn thơ để xem thằng Diệp đạo thơ của thi sĩ tiền bối nào, nhưng không tìm được.

Thầy Hồng lên tiếng

-Các trò im lặng.  Trò Hoàng tiếp tục.

Thằng Hoàng nói tiếp :

-Nhiều người không làm thơ, nhưng cả dân tộc ta có hồn thơ từ ngày cụ Nguyễn Du viết Truyện Kim Vân Kiều. Truyện Kiều không còn nữa đó là điều không thể xẩy ra, nhưng nếu điều đó xẩy ra thì còn ai làm thơ, làm nhạc, làm văn chương cho để nuôi nấng sức sống tươi trẻ của dân tộc.  Tôi hoàn toàn đồng ý với cụ Phạm Quỳnh :” Truyện Kiều mất, tiếng ta mất, nước ta mất”.

Tôi phát biểu để phản bác lại ý kiến của thằng Hoàng.  Tôi nói :

-Không ai phủ nhận được rằng, truyện Kim Vân Kiều là một thi phẩm tuyệt tác.  Cụ Nguyễn Du đã đưa thơ lục bát lên tuyệt đỉnh.  Nhưng nhận định về truyện Kiều của cụ Phạm Quỳnh :”Truyện Kiều mất, tiếng ta mất, nước ta mất”  thì tôi hoàn toàn không đồng ý.  Tôi cho rằng nhận định của cụ là vô nghĩa vì những lý do sau đây:  Trước khi có truyện Kiều, dân ta nói tiếng Việt.  Sau một ngàn năm Bắc Thuộc, sau mười năm đô hộ của giặc Minh tiếng nước ta vẫn còn.  Dân ta vẫn nói tiếng Việt,  không nói tiếng Tàu.    Sau Truyện Kiều, dân tộc ta bị Pháp đô hộ hơn một trăm năm.  Chúng ta vẫn nói tiếng Việt, chúng ta không nói tiếng Pháp.  Trước truyện Kiều, dân tộc ta có kho tàng văn chương truyền khẩu đẹp, bóng bẩy, triết lý cao siêu.  Chúng ta có những truyện cổ tích vừa nhân bản, vừa sâu sắc, chúng ta có triết lý về Thiền độc đáo, khác với thiền Trung Hoa, thiền Nhật Bản … Tiếng nói của dân tộc ta, văn chương của dân ta từ đồng bằng sông Hồng đã tiến lên rừng núi Tây Bắc, tiến về phương Đông đến giáp Ai Lao, tiến về phương Nam đến tận mũi Cà Mâu, vượt biển ra đến tận Phú Quốc, Côn Sơn.  Như vậy thì làm sao tiếng nói của ta, văn chương của ta mất chỉ vì truyện Kiều mất ?  Tiếng nói của dân tộc ta có trước khi dân tộc ta lập quốc.  Đất nước ta có trước khi truyện Kiều ra đời cả mấy ngàn năm.  Vậy cụ Phạm Quỳnh nói truyện Kiều mất, tiếng ta mất, nước ta mất thì thật vô nghĩa và không có căn bản lý luận. 

Kho tàng văn chương của dân tộc ta gồm ca dao, truyện, thơ, âm nhạc.  Trong kho tàng thơ cũng có nhiều thể loại: thơ Đường, thơ thất ngôn bát cú, thơ tứ tuyệt, thơ tự do vân vân. Truyện Kiều là tuyệt đỉnh trong thể thơ lục bát, nhưng Truyện Kiều không là tất cả nền thi ca.  Truyện Kiều có mất đi thì nền thi ca của chúng ta vẫn còn.  Trước truyện Kiều, nước ta cũng có những thi phẩm lớn như Cung Oán Ngâm Khúc, Phong Trần, Trê Cóc, Chinh Phụ Ngâm.  Trước truyện Kiều chúng ta cũng có thi sĩ lớn như Đặng Trần Côn, Nguyễn Trãi.   Sau truyện Kiều chúng ta có những tác phẩm lớn, những thi sĩ lớn như Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương.  Dân tộc ta là dân tộc thi sĩ .  Thời đại nào, nước ta cũng sản sinh ra những nhà thơ lớn, những tác phẩm lớn.

Cụ Nguyễn Du đã phóng tác theo một quyển truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều Truyện của Trung Hoa.  Nhiều người Trung Hoa ngạc nhiên khi thấy dân ta trân quý truyện Kiều của cụ Nguyễn Du như một báu vật, trong khi quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một quyển truyện tầm thường ở Trung Quốc.  Thật vậy truyện Kiều là một áng thơ hay nhưng triết lý của truyện Kiều không sâu sắc bằng nhiều thi phẩm khác như Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, Trê Cóc, Lục Xúc Tranh Công.  Những học giả, văn sĩ, thi sĩ khen truyện Kiều chỉ khen về phương diện mỹ thuật như Chế Lan Viện nói :”Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn “.  Nhưng hầu như không ai ca tụng về triết lý, về nội dung của truyện Kiều.  Nếu có, chỉ nói đến nỗi đau khổ của Kiều sống trong chế độ tham nhũng thối nát được tả một cách tài tình bằng ngòi bút của cụ Nguyễn Du.   Không ai tranh cãi về mặt mỹ thuật, về nghệ thuật làm thơ tài tình của cụ Nguyễn Du, nhưng cho đến ngày nay người ta vẫn còn tranh cãi về tính cách giáo dục của truyện Kiều.  Ngày xưa truyện Kiều bị lên án gay gắt nên đã có câu ca dao :”Con trai chớ đọc Phan Trần.  Con gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều”.  Ngày nay mặc dầu truyện Kiều đã được đưa vô chương trình giáo dục trung học, nhưng sự tranh cãi vẫn còn.  Không ít người lên án tính cách giáo dục của truyện Kiều, trong số những người này không có tôi, nhưng có cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn Bách Khoa vân vân. Cụ Huỳnh Thúc Kháng nói về truyện Kiều:” Về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc”.  Cụ Nguyễn Bách Khoa nói về truyện Kiều :” Truyện Kiều là một thứ văn chương đã ở vào một vị trí phản tiến hóa lúc đương thời của cụ Nguyễn Du.  Nó chứa chan một chất tàn héo, tiêu ma.  Nó là kết tinh phẩm của một chặng đường suy đồi nhất trên tràng kỳ tiến hoá của cá tính Việt Nam “.   

So với Trung Hoa, Ấn Độ, Nga, Ba Tư, Ai Cập, Anh , Pháp, Ý, Hy Lạp nước ta không có nền văn hóa lớn bằng.  Tư tưởng và công trình văn hóa, nghệ thuật, chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật của dân tộc ta chỉ giới hạn trong nước, chưa trải rộng ra khắp năm châu bốn bể. Trong khi tại các nước tôi vừa kể, họ đã sản sinh ra những tôn giáo lớn, những tư tưởng và công trình vĩ đại ảnh hưởng ra nhiều nước khác, thậm chí ảnh hưởng cả thế giới.  Nhưng người Trung Hoa không nói :”Truyện Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử mất thì tiếng  Trung Hoa mất”.  Người Nga không nói :”Chiến Tranh và Hòa Bình mất thì dân tộc Nga mất”.  Người Anh không nói thi hào Shakespear mất thì tiếng Anh mất, Người Pháp không nói Tháp Eifel đổ thì nước Pháp mất …v..v...  Như vậy ta nói :”Truyện Kiều mất, tiếng ta mất, nước ta mất” thì quả thật là hàm hồ. 

Để kết luận, tôi muốn nhấn mạnh một điều Đoạn Trường Tân Thanh là thi phẩm tuyệt hay, nhưng không thể đặt truyện Kiều trên vận mệnh dân tộc được.  Đoạn Trường Tân Thanh chỉ là một viên ngọc trong nhiều viên ngọc của kho tàng văn chương nước ta.  Cụ Phạm Quỳnh đã đánh giá quá thấp kho tàng văn chương của dân tộc và khả năng sáng tác thi ca của dân tộc.  Câu nói của cụ Phạm Quỳnh nên được sửa lại :” Nước ta còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, kho tàng thi ca của ta còn, kho tàng thi ca của ta còn, truyện Kiều của cụ Nguyễn Du còn “.  Nước ta làm răng mà mất được.  Nước ta còn mãi và truyện Kiều còn mãi. Các bạn hãy nhìn câu khẩu hiệu trước mặt các bạn TỔ QUỐC TRÊN HẾT.  Không một tôn giáo nào, không một chủ nghĩa nào, không một tư tưởng nào, không một cá nhân nào, không một tác phẩm nào được đặt trên Tổ Quốc. Tôi không đồng ý với câu nói của cụ Phạm Quỳnh.  Câu nói của cụ Phạm Quỳnh chĩ là câu nói vô nghĩa.

Cả lớp vỗ tay.  Chị Mai, con Hoa, thằng Gía Bồng Nga phát biểu đều bênh vực lập luận của tôi.  Thậm chí thằng Giá Bồng Nga còn nói câu nói của cụ Phạm Quỳnh nằm trong âm mưu của thực dân Pháp muốn cho thanh niên Việt Nam quên cuộc đấu tranh dành độc lập bằng cách cổ súy những tác phẩm lãng mạn, bi thương, tin vào lý thuyết số mệnh.  Đồng thời tên toàn quyền Decoux còn cho tổ chức những  trò giải trí, những cuộc tranh tài thể thao như vòng đua xe đạp Đông Dương để cho thanh niên Việt quên đi cao trào dành độc lập trong lúc thế lực của Pháp đang suy tàn.

Cả lớp bỏ phiếu.  Tôi đại thắng với tỉ lệ 47/1.  Tôi thắng nhờ tinh thần ái quốc của học trò lớp tôi, nhưng tôi không nói thằng Hoàng Lùn không yêu nước.  Thằng Hoàng Lùn, bạn thân trong ban văn nghệ, cũng yêu nước như chúng tôi.  Nó cũng từng tham gia với chúng tôi trong các trận đánh tụi học trò trường College.

Trên đường về nhà, Hoa vui như con chim họa mi.  Hoa nói tối nay mạ nó nấu món bánh canh Nam Phổ mà ba nó rất thích để kỷ niệm ngày khởi đầu của cuộc tình duyên của ba mạ Hoa.  Hoa nói ba nó thích bánh canh Nam Phổ không phải vì ngon mà vì theo như ba nó nói: Những sợi bánh canh tuy mền nhưng đã cột chặt ba mạ nó từ ngày đó tới nay.  Ngày này cách đây 20 năm,  ba con Hoa và một số bạn bè tới nhà mạ con Hoa ở kiệt Hoàng Hôn, Vỹ Dạ, Huế.  Bà ngoại con Hoa nấu nồi bánh canh Nam Phổ để đãi khách.  Mạ con Hoa bưng tô bánh canh cho ba con Hoa, không biết lúng túng hay vì mắc cỡ mà mạ con Hoa làm đổ tô bánh canh vô người ba con Hoa.  Mạ con Hoa vội vàng đưa tay phủi những sợi bánh canh nóng hổi trên áo ba con Hoa.  Ba con Hoa nắm chặt tay mạ con Hoa, khiến mạ con Hoa đỏ bừng mặt vì thẹn. Mạ con Hoa xuống bếp, không dám lên nhà trên.  Đám bạn bè cười vang. Có người bạn ngâm câu thơ để chọc mạ con Hoa

          Nam nữ thụ thụ bất thân.

Nắm tay em rồi, em trả lời răng?

  Mọi người nhao nhao nói :

-Nắm được tay em thì em trả lời răng ?  Còn trả lời răng nữa? Câu hỏi thừa.

Thật ra ba con Hoa để ý mạ con Hoa đã lâu.  Có lần tôi nghe, ba con Hoa nói với ba mạ tôi :”Yêu quá hóa liều.  Nắm tay đại mà lại thành công “.  Tối nay ba mạ tôi và tôi được ba mạ con Hoa mời sang ăn cơm.  Dĩ nhiên, bữa cơm có nồi bánh canh Nam Phổ.  Trong bữa cơm, Hoa nói nhiều hơn ba mạ nó.  Hoa kể cho mọi người nghe buổi thảo luận chiều nay.  Hoa làm cho mạ tôi hãnh diện về tôi, mạ tôi nói với con Hoa :

-Cả tuần ni, thằng Thanh nó thức đọc sách đến một hai giờ khuya.  Dì dục đi ngủ mà nó không chịu đi ngủ

Hoa đưa tay đuổi con ruồi đậu trên đĩa thịt gà.  Con ruồi bay đâu trên vai tôi.    Hoa đuổi con ruồì đậu trên vai tôi. Tay Hoa chạm vai tôi.  Tôi nhìn Hoa. Bốn mắt gặp nhau.  Hoa nở nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt diễm lệ.  Nụ cười của Hoa tươi đẹp như một đóa hoa hồng làm tôi ngẩn ngơ. Tôi muốn nắm thật chặt tay Hoa.

      




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 23/May/2010 lúc 11:27pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 16/Dec/2009 lúc 12:22am

TRỌC SĨ  ĐỆ TỨ




Đề tài gây tranh luận sôi nổi, gay cấn nhất lại là :”KIỀU YÊU AI NHẤT”.   Cuộc tranh luận về đề tài này thật sôi nổi kéo dài cả tháng trời.  Sôi nổi vì chúng tôi thảo luận trong lớp thì ít mà ngoài lớp học thì nhiều. Tất cả học trò lớp tôi đều cho rằng Kiều yêu Kim Trọng nhất. Trừ tôi và Hoa cho rằng Kiều yêu Từ Hải nhất. Mới đầu Hoa cũng cho rằng Kiều yêu Kim Trọng nhất, nhưng sau đó Hoa đổi ý để đứng về phía tôi.  Tôi và Hoa tối nào cũng họp bàn cho tới tối mịt để sửa soạn cho buổi thảo luận chung kết.  Chủ lực của phe đối phương là chị Mai, thằng Giá Bồng Nga, thằng Báu Cà Nhắc, thằng Hoàng Lùn.  Phe đối phương chuẩn bị thật chu đáo, phân công rõ ràng.  Chị Mai và thằng Báu Cà Nhắc nghiên cứu luận cứ để thuyết minh KIỀU YÊU KIM TRỌNG NHẤT.  Thằng Giá Bồng Nga và thằng Hoàng Lùn tìm những chứng cứ để phản bác lại tôi và Hoa cho rằng KIỀU YÊU TỪ HẢI NHẤT.  Buổi thảo luận dài hai tiếng, gồm ba phần.  Phần đầu hai bên trình bầy KIỀU YÊU AI NHẤT,  phần thứ hai hai bên phản bác luận điểm của đối phương, phần thứ ba cả lớp biểu quyết..

Thằng Báu Cà Nhắc mở đầu bằng câu thơ của Thế Lữ :” Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,  Ngàn Năm chưa dễ đã ai quên “  Sau đó nó nói :

-Khó ai có thể quên được mối tình đầu.  Trước hết, tôi nói về mối tình của Kim Trọng và Thúy Kiều từ lúc hai người gặp nhau vào một buổi chiều, bên chiếc cầu, trên giòng nước, trong dịp hai người đi dự hội Đạp Thanh.  Tiếp theo, chị Mai sẽ nói về phần sau của cuộc tình Kim Kiều.  Kim Kiều tái ngộ sau mười lăm năm.  Sau khi nghe tôi và chị Mai trình bầy thì các bạn sẽ thấy ngay Kiều yêu Kim Trọng nhất.

Thưa các bạn, Kim và Kiều gặp nhau, hai người yêu nhau liền :

Tình trong như đã mặt ngoài còn e

Nhiều người cho rằng Kim và Kiều bị tiếng sét ái tình.  Theo tôi,  Kim và Kiều không bị tiếng sét ái tình. Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan.  Kim Trọng đã để ý đến chị em Thúy Kiều và Thúy Vân vì chàng đã nghe Vân và Kiều là hai cô gái có tài và có sắc.

Vẫn nghe thơm nức hương lân

Một nền đồng tước khóa xuân hai Kiều

Nước non cách mấy buồng thêu

Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng

Tuy rằng cụ Nguyễn Du không nói Thúy Vân, Thúy Kiều đã nghe hay đã biết ít nhiều về Kim Trọng, nhưng tôi chắc chắn rằng chị em Kiều cũng đã nghe và biết về Kim Trọng.  Kim Trọng là con gia đình danh tiếng trong vùng.  Kim Trọng nổi tiếng là người tài hoa và giỏi văn chương.  Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Như vậy cả hai Kim, Kiều đều có trong đầu hình ảnh người yêu lý tưởng của mình sau này.  Buổi gặp gỡ ngắn ngủi trong ngày hội Đạp Thanh chỉ là cuộc tương phùng giữa tri âm gặp tri âm.  Cuộc gặp gỡ chỉ để Kim, Kiều xác nhận rằng mình đã gặp đúng người trong mộng.  Hai người đều tỏa ra tài năng và phong cách thật đẹp đẽ, thật hài hòa khiến họ nhận được nhau ngay. 

Hài văn lần bước dậm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

Cái may là họ gặp được nhau.

Kiều gặp Thúc Sinh và Từ Hải thì khác hẳn Kiều gặp Kim Trọng.  Cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Thúc Kỳ Tâm hay Từ Hải chỉ là hai cuộc mua bán giữa chủ thanh lâu và Thúc Sinh hay Từ Hải.  Thúc Sinh và Từ Hải là hai tay chơi có tiền, nghe Thúy Kiều có tài có sắc thì tìm đến và chuộc Thúy Kiều về làm vợ.  Thúy Kiều đâu có quyền được lựa chọn.  Sống với Thúc Sinh và Từ Hải, Kiều có được một thời gian yên ổn, ấm no nhưng không phải là thời gian hòa hợp của những tâm hồn tri kỷ.  Kiều có thể đã đàn và ngâm thơ cho Thúc Sinh và Từ Hải nghe. Nhưng Thúc Sinh và Từ Hải có đủ trình độ để thưởng thức thơ nhạc của Kiều hay không ?  Tôi chắc là không.  Còn họa thơ và nhạc với Kiều chắc chắn là không.  Sống với Thúc Sinh, Kiều chỉ có:

Mảng vui rượu sớm cờ trưa

Kiều sống với Từ Hải thì chẳng có chi cả, chỉ có quyền hành sinh sát và tiền của.

Trái lại những lần gặp gỡ giữa Kim và Kiều, mặc dù cộng lại thời gian chưa đến một ngày, nhưng đã khiến Kim và Kiều đã ngàn năm không quên nhau được như  câu thơ Thế Lữ :  Ngàn Năm chưa dễ đã ai quên.  Các bạn đọc từ câu 243 đến câu 573 .  Ba trăm ba mươi câu thơ tả lại cuộc tình nồng nàn, đằm thắm, thanh cao của Kim và Kiều.  Phải nói rằng cụ Nguyễn Du là Thánh Thi vì chỉ có Thánh Thi mới tả được những cái đẹp của mối tình Kim Kiều mà người đời chỉ mơ tưởng mà không diễn đạt được.  Tôi đưa ra một vài ví dụ.  Tả Kim Trọng tương tư :

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

Người ta thường nói nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.  Ốm tương tư thì cũng giống vậy, nhất nhật tương tư và đợi chờ dài bằng thiên thu của đời sống vui tươi bình thường.

Những câu thơ thật đẹp tả bước chân Kiều khua động Kim Trọng đang trong trạng thái mơ màng nửa thực, nửa chiêm bao :

Tiếng sen sẽ động giấc hoè

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

Nàng rằng :” Khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Nói tóm lại cả ba trăm ba mươi câu thơ đều hay. Trở về đề tài thảo luận tôi nói một điều các bạn sẽ ngạc nhiên. Điều tôi nói là sự thật một trăm phần trăm.  Kiều yêu Kim Trọng hơn là Kim Trọng yêu Thúy Kiều.  Nếu các bạn đọc kỹ ba trăm ba mươi câu thơ,  bạn sẽ thấy điều tôi nói là đúng. Mặc dù cụ Nguyễn Du đã tả cơn đau tương tư của Kim Trọng sau lần gặp Kiều thật là ghê ghớm

Chàng Kim từ lại thư song

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dồn lại một ngày dài ghê

Yêu thì yêu ghê ghớm như vậy, nhưng sau hai tháng, Kim Trọng thuê được nhà của Ngô Việt, Kim Trọng chưa có một phương cách hay kế hoạch để gặp được Kiều.

Song hồng nửa khép cánh mây

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông

Tấc gang đồng tảo nguyên phong

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra

Nhẫn từ quán khách lân la

Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai

Kim Trọng không lợi dụng được tình đồng môn của mình với Vương Quan để qua chơi nhà Kiều. Trong khi đó Kiều đã có kế hoạch và tìm được phương cách để gặp được người mơ. Tôi chứng minh và trình bầy cho các bạn thấy kế hoạch của Kiều để gặp Kim Trọng.

Kiều có biết Kim Trọng là người hàng xóm của mình không ? Chắc chắn Kiều biết. Nhà hàng xóm lâu nay vắng chủ, nay có người ở. Người mới tới, hàng ngày đứng ở hiên Lãm Thúy nhìn sang nhà Kiều thì làm chi Kiều không biết. Kiều cũng biết người hàng xóm là người mình gặp buổi chiều ngày hội Đạp Thanh. Một ngày đẹp trời, Kiều đã ra cuối vườn  nơi có cây hoa Đào, Kiều treo chiếc trâm trên cành Đào. Cây Đào không thấp. Trâm chỉ rơi xuống đất chứ không thể nào rơi trên cành Đào được.  Như vậy Kiều Phải với tay treo trâm lên cành Đào và phải treo ở chỗ nào cho người khác dễ thấy.  Kiều đã treo trâm lên cành Đào thật nhanh rồi trở vô phòng và kín đáo nhìn ra vườn và chờ kết quả.  Chàng Kim thoáng thấy bóng dáng ai thướt tha bên vườn nhà Kiều, chàng vội bỏ đàn xuống và ra hiên Lãm Thúy để nhìn, nhưng

Buông cầm  xốc áo vội ra

Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh

Không thấy người mình thương, nhưng Kim Trọng lại thấy ngay kim thoa trên cành cây hoa đào. Kim Trọng chỉ dơ tay lấy kim thoa một cách hết sức dễ dàng.  Kiều ở trong nhà theo dõi và nàng nở nụ cười thật tươi vì cá đã cắn câu.  Con cá Kim Trọng đã đớp mồi kim thoa do Kiều giăng. Lúc đó nàng tái xuất hiện nơi cây đào và hai người tỏ lời thề nguyền, trao đổi vật làm tin để chính thức xác định họ thuộc về nhau. Kiều thì hứa:

Rằng :”Trong buổi mới lạ lùng

Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang

Đã lòng quân tử đa mang

Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung “

Kim Trọng thì thề :

Rằng :” Trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi “

Câu thơ tuyệt vời sau đây của cụ Nguyễn Du đã chấm dứt buổi gặp gỡ lần thứ hai giữa Kim và Kiều. Những câu thơ để lại trong tâm hồn của mỗi người chúng ta một mối tình đẹp và thanh cao như hoa và lá. Nàng thì như cánh hoa, chàng thì như chiếc lá. Hoa và lá cùng bay trong gió. 

Một lời gắn bó tất giao

Mái sau dường có xôn xao tiếng người

Vội vàng lá rụng hoa rơi

Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang

Lần gặp gỡ thứ ba hoàn toàn do Thúy Kiều sắp đặt. Trước hết Kiều phải tìm cách nói dối để được phép ở nhà mà không phải theo gia đình đi dự sinh nhật bên ngoại. Cụ Nguyễn Du không nói Kiều đã nêu lý do gì để được phép ở nhà. Kiều là người thông minh, chắc chắn nàng tìm được lý do hợp lý để được cha mẹ chấp thuận. Kiều chuẩn bị cho lần gặp này thật chu đáo. Kiều muốn chứng tỏ cho Kim Trọng rằng mình có đủ công dung ngôn hạnh của người phụ nữ Á Đông. Sau khi gia đình vừa dời nhà, Kiều nấu những món ăn ngon để đem sang gặp Kim Trọng:

Thì trân thức thức sẵn bầy

Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường

Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng

Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông

Trong lần gập gỡ này cụ Nguyễn Du cho ta thấy tài năng và nhân cách của hai người. Về tài năng thì chúng ta thấy rất rõ ràng. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh ở đây nhân cách của hai người thật hòa hợp khiến cho hai người tương kính nhau, lắng nghe nhau rồi hiểu nhau đó là nhân tố chính của tình yêu.  Tôi đưa ra vài ví dụ để các bạn thấy.  Nghe Kiều đàn bản Bạc Mệnh quá sầu thảm, Kim Trọng khuyên Kiều :

Rằng : “ Hay thì thật là hay

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào

Lựa chi những khúc tiêu dao

Dột lòng mình cũng nao nao lòng người ?”

Kiều chấp nhận lời khuyên và hứa sửa chữa

Rằng :” Quen mất nết đi rồi

Tẻ buôi thôi cũng tính trời biết sao !

Lời vàng vâng lĩnh ý cao

Họa dần dần bớt chút nào được không

Khi Kim Trọng ra chiều lả lơi, Kiều trách

Thưa rằng :” Đừng lấy làm chơi

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao

Vẽ chi một đóa yêu đào

Vườn  hồng chi dám ngăn rào chim xanh

Đã cho vào bậc bố kinh

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu

Ra tuồng trên bộc trong dâu

Thì con người ấy ai cầu làm chi

Phải điều ăn xổi ở thì

Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày

Kim Trọng nhận lỗi

Thấy lời đoan chính dễ nghe

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân

Hai người kính trọng và hiểu biết nhau. Đó là yếu tố của tình yêu

Tôi vừa trình bầy những vần thơ tả về một mối tình thật đẹp bằng những câu thơ tuyệt vời. Các bạn tìm đâu ra những bài thơ tình hay như vậy.  Những thi sĩ được xưng tụng là những nhà thơ của tình yêu như TTKH, Xuân Diệu, Nguyễn Bính đã có những câu thơ hay đoạn thơ nào để tạm gọi là so sánh với đoạn thơ tôi vừa trình bầy với các bạn. Sau đây chị Mai sẽ trình bầy đoạn sau của mối tình Kim Kiều. Xin mời chị Mai.








Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 16/Dec/2009 lúc 11:44am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 16/Dec/2009 lúc 12:31am


TRỌC SĨ  ĐỆ TỨ





Chị Mai nói :

-Chúng ta thường nghe nói Tình Nghĩa.  Hai danh từ này gắn liền với nhau để nói nên quan niệm về tình yêu của dân tộc ta. Có tình có nghĩa thì tình yêu mới bền chặt, mới thật là tình yêu.Thành ra các bạn thấy hai vợ chồng đôi khi hết tình còn nghĩa, hay trái lại hết nghĩa còn tình, hai vợ chồng vẫn sống chung với nhau cho đến đầu bạc răng long.  Chỉ khi nào cạn tình, cạn nghĩa hai vợ chồng mới chia tay. Khác với người phương Tây, họ quan niệm hai vợ chồng lấy nhau vì tình. Hết tình là họ chia tay. Do đó, các bạn thấy số vợ chồng người phương tây ly dị nhau nhiều gấp cả trăm lần vợ chồng người Việt ta. Trò Báu đã nói về tình của Kim và Kiều mà cụ Nguyễn Du đã tả ở phần đầu. Tôi sẽ trình bầy cái Nghĩa của Kim Kiều mà cụ Nguyễn Du tả ở phần sau.  Trước đêm ra đi theo Mã Giám Sinh, Kiều đã sắp đặt cho trọn nghĩa với Kim Trọng. Kiều đã khuyên em thay mình làm vợ Kim Trọng. Gán Thúy Vân cho Kim Trọng không phải để dứt tình với Kim Trọng mà để trọn nghĩa với chàng Kim. Kiều mong muốn Kim Trọng được an vui hạnh phúc. Còn cuộc đời mình long đong khổ sở cũng chẳng có sao.  Kim Trọng cũng trọn nghĩa với Kiều.  Trở lại hiên Lãm Thúy, biết Kiều đã bán mình chuộc cha, biết cha mẹ và hai em Kiều đang sống trong cảnh bần hàn sa sút, Kim Trọng đã cưu mang gia đình Kiều thay cho Kiều. Gia đình Kiều cũng trọn nghĩa với chàng Kim. Mặc dù Thúy Vân đã là vợ của Kim Trọng, nhưng gia đình Kiều luôn nghĩ rằng Kiều mới chính là vợ của Kim Trọng còn Thúy Vân chỉ là vợ tạm bợ trong thời gian Kiều vắng mặt. Cho nên khi gia đình Kiều gặp lại ni cô Trạc Tuyền tại am Thảo Lư của sư cô Giác Duyên, gia đình Kiều đã giới thiệu Kim Trọng là chồng của Kiều với sư cô Giác Duyên :

Nghe tin ngơ ngác rụng rời

Xúm quanh kể họ rộn lời hỏi tra :

Này chồng này mẹ này cha

Này là em ruột này là em dâu

Buổi tiệc vui đầu tiên mừng Kiều trở về đoàn tụ với gia đình, Thúy Vân cũng đề nghị trả Kim Trọng lại cho Kiều. Sau đó ông bà Viên Ngoại cũng ép Kiều phải làm đám cưới với Kim Trọng.

Các bạn thấy đoạn đầu cụ Nguyễn Du nói về tình yêu giữa Kim Kiều, đoạn giữa nói về Nghiã trọn vẹn của Kim Kiều, đoạn cuối tôi trình bầy sau đây cho ta thấy cụ Nguyễn Du trở lại mối tình của Kim Kiều. Trong đoạn cuối này cụ Nguyễn Du đã đưa mối tình của Kim Kiều lên tuyệt đỉnh. Một mối tình mà tôi gọi là mối tình cao thượng. Vì thời gian không cho phép, nên tôi chỉ đọc cho các bạn nghe, lời thưa của Kiều sau khi Kim Trọng chấp nhận đổi tình yêu nam nữ ra tình bạn với Kiều. 

Nghe lời sửa áo cài trâm

Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng

“Thân tàn gạn đục khơi trong

Là nhờ quân tử khác lòng người ta.

Mấy lời tâm phúc ruột rà

Tương tri dường ấy mới là tương tri

Chở che đùm bọc thiếu gì

Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay “

Các bạn thấy lời Kiều nói với Kim Trọng đầy tình và đầy nghĩa giữa hai người tri âm.

Còn giữa Kiều và Từ Hải hay giữa Kiều với Thúc Sinh chỉ có nghĩa mà không có tình. Kiều biết ơn Thúc Sinh đã cứu mình ra khỏi Thanh Lâu và cho nàng sự ấm no. Kiều biết ơn Từ Hải đã đưa mình ra khỏi Lầu Xanh, đã cho Kiều hưởng giàu sang và quyền thế, đã giúp Kiều báo ân trả oán. Nhưng đó là nghĩa chứ không có tình. Kiều đã nói rõ điều này

Tạ ân lậy trước Từ công :”

Chút thân bồ liễu nào mong có rày

Trộm nhờ sấm sét ra tay

Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi

Chạm xương chép dạ xiết chi

Dễ đem gan óc đền nghì trời mây”

Đó là ơn nghĩa không phải là tình nghĩa, khác hẳn với lời nói đầy tình, đầy nghĩa của Kiều nói với Kim Trọng mà tôi vừa đọc cho các bạn nghe.

Qua phân tích và trình bầy của trò Báu và tôi thì các bạn cũng dễ dàng nhận ra rằng Kiều yêu Kim Trọng hơn cả.

Đến phiên phe tôi trình bầy. Tôi nói :

Thưa các bạn trả lời thắc mắc của Ni Sư Giác Duyên :” Kiều tài sắc hiếu nghĩa.  Tại sao kiều gặp nhiều hoạn nạn ?”

Người sao hiếu nghĩa đủ đường

Kiếp sao gặp những đoạn trường thế thôi

Đạo Cô Tam Hợp trả lời:

Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều

Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm

Kiều là giống nòi tình. Kiều yêu nhiều người. Kiều yêu Kim Trọng, Kiều yêu Thúc Sinh, Kiều yêu Từ Hải và nếu Hồ Tôn Hiến không

Nghĩ mình phương diện quốc gia

Quan trên nhắm xuống người ta trông vào

Có khi Kiều cũng trở thành hầu thiếp của Hồ Tôn Hiến. Bị gả cho thổ quan. Thuyền của thổ quan chở Kiều không ở trên sông Tiền Đường hay Kiều không biết sông đó là sông Tiền Đường thì Kiều không tự tử và an phận làm vợ của thổ quan. Kiều là giống nòi tình nhưng không tà dâm đúng như nhận xét của Đạo Cô Tam Hợp.  Kiều luôn luôn ước mơ một mái gia đình yên ổn đầm ấm, một cuộc sống an lành .

Thưa các bạn Kiều yêu ai nhất ? Kiều chẳng yêu ai cả. Kiều là cô gái bệnh hoạn. Bệnh của Kiều là bệnh tự kỷ ám thị. Bệnh của Kiều là bệnh nan y. Kiều cho rằng mình đã có tên trong sổ đoạn trường. Một người bị bệnh tự kỷ ám thị như Kiều thì cuộc đời phải nổi trôi gian truân bầm dập. Trong suốt mười lăm năm lưu lạc, người theo ám ảnh sâu đậm trong tâm trí  Kiều nhất là Đạm Tiên. Nhưng  trong mười năm lăm lưu lạc Kiều đã gặp nhiều may mắn hơn là xui xẻo. May mắn là do Kiều có sắc, có tài. Đề tài thảo luận hôm nay Kiều yêu ai nhất trong ba người Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải ? Tôi xin trả lời Kiều nặng nợ tình cảm và ân tình với Từ Hải hơn cả.

Tôi chỉ so sánh Từ Hải và Kim Trọng vì Thúc Sinh chỉ là con một nhà buôn không tài năng và bản lãnh. 

Trước nhất so sánh diện mạo. Dung nhan của Thúy Kiều và Thúy Vân:

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười

Kim Trọng và Từ Hải cũng mỗi người một vẻ khác nhau. Kim Trọng thì phong lưu nho nhã.

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa                                                    

Từ Hải thì hùng dũng oai phong.

Râu hùm, cằm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao

Thấy Kim Trọng, Kiều chịu liền

Tình trong như đã mặt ngoài còn e

Gặp Từ Hải, Kiều cũng ưa ngay

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa

Như vậy diện mạo Kim Trọng và Từ Hải không ai hơn điểm ai dưới mắt Kiều

Tôi so sánh tài năng giữa Kim và Từ.  Khi Kiều gập Kim Trọng, chàng Kim cũng bằng tuổi Kiều hoặc hơn  Kiều một hai tuổi. Kim Trọng làm bạn đồng môn với Vương Quan, em của Kiều, mới mười lăm tuổi. Chàng Kim không có bạn là những bậc văn nhân nổi danh. Điều này chứng tỏ Kim Trọng cũng không tài giỏi xuất chúng. Sau này Kim Trọng và Vương Quan thi đậu cùng một khóa:

Chế khoa gặp hội tràng văn

Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày

Như vậy chứng tỏ chàng Kim học hành cũng không xuất sắc. Đậu cùng khóa với người thua mình bốn, năm tuổi.

Còn Từ Hải không những được cụ Nguyễn Du khen:

Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

Đội trời đạp đất ở đời

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

Từ Hải còn được ngay chồng cũ của Kiều là Thúc Sinh ca tụng:

Đại vương tên Hải họ Từ

Đánh quen trăm trận sức dư muôn người

Gặp nàng khi ở Châu Thai

Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên

Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng

Dân chúng thành Lâm Truy nói về Từ Hải:

Bỗng đâu gặp được một người

Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh

Trong tay mười vạn tinh binh

Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy

Thúc Sinh và dân thành Lâm Truy dám cả gan khen Từ Hải trước mặt một vị quan của triều đình. Điều này chứng tỏ tài năng và đạo đức của Từ Hải là có thật .Tài và công danh của Từ Hải vượt xa Kim Trọng.

Tôi đã so sánh về tài, nay so sánh về đức, về phong cách giữa họ Kim và họ Từ.  Phong cách và lối cư xử của Từ Hải đúng là của bậc nam nhi. Sống với Kiều được nửa năm, Từ Hải quyết tâm ra đi kiếm công danh sự nghiệp. Chàng để Kiều lại nhà, mặc dù Kiều đòi đi theo chàng. Chàng ra đi vào hiểm nguy,  không chỉ để đạt được công danh, thỏa chí ngang tàng của mình mà còn để dâng hiến cho Kiều một niềm hãnh diện, một cuộc đời vinh hoa phú quí.  Từ Hải không chỉ nghĩ đến mình mà còn nghĩ đến người mình yêu là Kiều. Cụ Nguyễn Du đã nói về chí nam nhi của Từ Hải bằng câu thơ thật đẹp, thật mạnh:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mông

Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng giong

Nàng rằng:” Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi .”

Từ rằng:” Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu ?

Đành lòng chờ đợi ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì ?”

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi

Từ Hải nam nhi chí khí bao nhiêu thì Kim Trọng ủy mị yếu đuối bấy nhiêu.  Kiều là nữ nhi trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng đầy khó khăn, nàng còn tỉnh táo, tính toán đâu ra đó. Chàng Kim thì khóc lóc vật vã đau thương mà không hành động dũng cảm như Từ Hải. Ở vào địa vị Kim Trong, tôi chắc chắn Từ Hải sẽ nhẩy lên ngựa rong ruổi tìm theo giấu vết của người mình yêu. Ta hãy xem tính cách ủy mị của Kim Trọng :

Ông bà càng nói càng đau

Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa

Vật mình vẫy gió tuôn mưa

Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai !

Đau đòi đoạn ngất đòi thôi

Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê

Chàng Kim bỏ tiền thuê người tìm kiếm Kiều mà không tự mình đi tìm. Chỉ ở nhà mài lệ chép thơ thông báo về việc tìm Kiều:

Đinh ninh mài lệ chép thơ

Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe

Lâu không thấy tin Kiều, Kim Trọng rơi vào tình trạng tâm thần hỗn loạn:

Người một nơi hỏi một nơi

Mênh mông nào biết bể trời nơi nao ?

Sinh càng thảm thiết khát khao

Như nung gan sắt như bào lòng son

Ruột tằm ngày một héo hon,

Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê

Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao

Tình trạng tâm thần của Kim Trọng thật não nề, khiến gia đình Viên Ngoại lo lắng hoảng sợ. Viên Ngoại tìm ra một cách chữa bệnh cho Kim Trọng là mau mau làm đám cưới cho Thúy Vân và Kim Trọng:

Xuân huyên lo sợ xiết bao

Quá ra khi đến thế nào mà hay

Vội vàng sắm sửa chọn ngày

Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng

So sánh ta thấy tính cách đàn ông của Từ Hải và tính cách ủy mị đàn bà của Kim Trọng.

Tình yêu của Từ Hải đối với Kiều là tình yêu chân thật, bao la, chung thủy. Một tình yêu đáng cho chúng ta phải trân trọng. Trước hết tôi nhấn mạnh về lòng chung thủy của Từ Hải. Từ Hải gặp Kiều lúc Kiều đang là gái ở trong lầu xanh. Thanh lâu chỗ tận cùng khổ đau, nhục nhã của người phụ nữ. Vậy mà Từ Hải vẫn giữ lời hứa với Kiều. Gặp Kiều khi thanh thế chưa to lớn. Xông vô hiểm nguy để tìm vinh hiển cho vợ chồng với lời hứa một năm trở về. Đúng một năm, Từ Hải với uy quyền lừng lẫy, chàng trở về đón Kiều đến nỗi Kiều và những người xung quanh Kiều không dám tin điều này xẩy ra:

Ngất trời sát khí mơ màng

Đầy sông kinh ngạc, chật đường giáp binh

Người quen kẻ thuộc xung quanh

Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi

Lòng thương yêu, bao dung, độ lượng của Từ Hải đối với Kiều thật là bao la.  Từ Hải chấp thuận  mong ước của Kiều là trả ân báo oán:

Tấm thân rầy đã nhẹ nhàng

Chút còn ân oán đôi đường chưa xong

Việc trả ân báo oán khiến Kiều được mọi người khen

Tóc tơ các tích mọi khi

Oán thì trả oán, ân thì trả ân

Đã nên có nghĩa có nhân

Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen

Từ Hải còn khoan dung với cả Thúc Sinh. Chấp thuận sự phán xử của Kiều.  Chấp nhận Thúc Sinh là ân nhân của Kiều và thưởng vải vóc, vàng bạc cho Thúc Sinh:

Cho gươm mời đến Thúc Lang

Mặt như chàm đổ, mình nhường giẽ giun

Nàng rằng:”Nghĩa trọng nghìn non

Lâm Truy người cũ, chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân ?

Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân

Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là.

Tôi không  đồng ý với Kiều một điểm trong việc trả oán. Tha cho Thúc Sinh và Hoạn Thư là điều hợp lý. Còn gia hình Ưng, Khuyển đến thịt nát xương tan thì thật là bất công. Ửng, Khuyên chỉ làm theo lệnh của Hoạn Thư. Còn việc trả ân thì Kiều quên trả ân cho một người có công ơn rất lớn với Kiều. Có thể coi là người tái sinh ra Kiều lần thứ hai. Người đó là ông quan tòa huyện Lâm Tri. Ông quan huyện không bắt Kiều trở lại lầu xanh như ý muốn của Thúc Ông. Quan Huyện thử tài thơ văn của Kiều bằng cách bảo Kiều vịnh bài thơ Cái Gông. Sau khi xem thơ của Kiều, không những tha bổng Kiều mà còn tổ chức đám cưới cho Kiều và Thúc Sinh.

Cười rằng :” Đã thế thì nên

Mộc già hãy thử một thiên trình nghề “

Nàng vâng cất bút tay đề

Tiên hoa trình trước án phê xem tường

Khen rằng :” Giá lợp Thịnh Đường

Tài này sắc ấy, nghìn vàng chưa cân

Thật là tài tử giai nhân

Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn

Thôi đừng rước dữ cừu hờn

Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung

Đã đưa đến trước cửa công

Ngoài thì là lý song trong là tình

Dâu con trong đạo gia đình

Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong. “

Kíp truyền sắm sửa lễ công

Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruỗi sao

Bày hàng cổ xúy xôn xao

Song song đưa tới trường đào sánh đôi

Ân tình của ông quan Huyện đối với Kiều thật lớn, nhưng Kiều đã quên.  Còn sư cô Giác Duyên yêu quí giúp đỡ Kiều, nhưng sư cô cũng là người gián tiếp đưa Kiều trở lại lầu xanh lần thứ hai. Sư cô gửi Kiều đến ở nhà Bạc Bà mà sư cô không biết rõ về Bạc Bà. Sư cô cũng không theo dõi, hỏi han trong thời gian Kiều trú ngụ tại nhà Bạc Bà.  Sư cô Giác Duyên phải có trách nhiệm trong việc Kiều bị bán cho Lầu Xanh lần thứ hai.

Trở lại với lòng yêu thương Kiều của Từ Hải. Từ Hải hiểu được ước mong canh cánh bên lòng của Kiều là được trở về cố hương để gặp lại cha mẹ. Chính vì ước muốn này của Kiều đã đưa Từ Hải đến cái chết. Hiếm người chồng hiểu được ước vọng của người vợ :

Xót nàng còn chút song thân

Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa

Sao cho muôn dặm một nhà

Cho người thấy mặt là ta cam lòng

Từ Hải còn trân trọng tài năng của Kiều. Từ Hải cùng Kiều bàn luận việc quân cơ.

Biết Từ là đấng anh hùng

Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn

Từ Hải đã đưa Kiều lên tuyệt đỉnh.Từ Hải đã công nhận nhân phẩm và tài năng của Kiều mà trước đây đã bị người ta phủ nhận và chà đạp. Nhưng buồn thay chính vì tình yêu mà Từ Hải đã bị chết. Tội nghiệp cho nàng Kiều, người phụ nữ tài sắc bị đời vùi dập. Kiều chỉ ước ao một cuộc sống yên ổ. Theo Sở Khanh để mong thoát khỏi tay Tú Bà, chịu làm lẽ Thúc Sinh để mong có cuộc sống yên ổn. Nhận của lễ nhiều và lòng mong muốn một cuộc sống an lành để gập lại mẹ cha, Kiều đã giết Từ Hải và giết chính mình khi khuyên Từ Hải ra hàng Hồ Tôn Hiến. Ta nghe tâm sự của Kiều mà thông cảm với quyết định của nàng và trách xã hôi đã vùi dập nàng khiến nàng luôn có ước mong một cuộc sống bình thường yên ổn:

Nghĩ mình mặt nước cánh bèo

Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân

Bằng nay chịu tiếng vương thần

Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì

Công tư vẹn cả hai bề

Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương

Cũng ngôi mệnh phụ đường đường

Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha

Trên vì nước dưới vì nhà

Một là đắc hiếu hai là đắc trung

Khi sống, Từ Hải yêu Kiều chân thật đằm thắm. Lúc chết rồi Từ Hải đã yêu Kiều chân thật vị tha. Từ Hải đã tha thứ cho Kiều. Chàng thảnh thơi đi về cõi hư vô vì chàng biết Kiều đã hiểu rằng nàng đã được chàng tha thứ với tình thương yêu. Trong các truyện các thơ văn tiểu thuyết Á, Âu, Phi, Mỹ tôi được đọc, tôi chưa thấy một hình ảnh về tình yêu vừa đẹp vừa hào hùng và cảm động hơn đoạn thơ sau đây:

Tử sinh liều giữa trận tiền

Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân

Khí thiên khi đã về thần

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng

Trơ như đá vững như đồng

Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời

Quan quân truy sát đuổi dài

Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang

Trong hào ngoài lũy tan hoang

Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi

Trong vòng tên đá tơi bời

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ

Khóc rằng:” Trí dũng có thừa

Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này

Mặt nào trông thấy nhau đây?

Thà liều sống thác một ngày với nhau ”

Dòng thu như dội cơn sầu

Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên

Lạ thay oan khí tương triền

Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra

Từ Hải chết rồi, chàng vẫn đứng chờ Kiều. Kiều tới quỳ xuống bên chàng.  Từ Hải nói với Kiều :” Ta tha thứ cho nàng. Ta vẫn yêu nàng tha thiết “. Nói xong chàng thảnh thơi đi về hư vô.




Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 16/Dec/2009 lúc 11:43am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 16/Dec/2009 lúc 1:04am


TRỌC SĨ  ĐỆ TỨ




Bây giờ tôi nói về tình yêu của Kim Trọng đối với Kiều.  Kim Trọng là người ủy mị, trai thanh niên mà mau nước mắt hơn đàn bà như tôi đã trình bầy.  Lời nói của Kim Trọng thường không đi đôi với việc làm.  Về thọ tang chú, Kim Trọng nói với Kiều sẽ về thọ tang trong ba năm đúng như lễ nghi về tang gia hồi xưa và dặn Kiều chung thủy đợi chờ

Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông

Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy

Gìn vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời

Nhưng mới nửa năm, Kim Trọng đã trở lại vườn Thúy để tìm Kiều

Từ ngày muôn dặm phù tang

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà

Vội sang vườn Thúy dò la

Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa

Như tôi đã trình bầy, Kim Trọng tỏ ra tha thiết đi tìm Kiều.  Nhưng Kim Trọng không tự đi tìm mà thuê người đi dò la tin tức của Kiều.  Kim Trọng để tất cả thì giờ để mài lệ và chép thơ thông báo

Đinh ninh mài lệ chép thơ

Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe

Tệ hơn nữa Kim Trọng định từ quan để đi tìm Kiều.  Nhưng Kim Trọng nào có từ quan và cũng không lội sông vượt núi vào sinh ra tử để tìm Kiều. 

Rắp mong treo ấn từ quan

Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha

Dấn mình trong án can qua

Vào sinh ra tử họa là thấy nhau

Nghĩ điều trời thẳm vực sâu

Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm

Điều đáng chê trách nhất nhất là Kim Trọng không làm đúng ý muốn của Kiều.  Khi ra đi,  Kiều muốn Kim Trọng và Thúy Vân thành vợ chồng để giúp Kiều không còn vướng mắc với lời thề với Kim Trọng. Thúy Kiều những mong Kim Trọng thương yêu Thúy Vân để cùng Thúy Vân tạo dựng được một gia đình hạnh phúc mà vì phận mỏng Kiều không có được.  Vậy mà Kim Trọng đối với Thúy Vân  rất ư là hờ hững, lạnh lẽo, coi Thúy Vân như vật thừa.  Kim Trọng lúc nào cũng tưởng nhớ Kiều và nhất là muốn tìm Kiều về cho mình.  Tấm lòng của Kim Trọng rất là vị kỷ hẹp hòi.  Kim Trọng làm cho cuộc đời Thúy Vân thật buồn thảm.  Lấy người mình không yêu và người chồng cũng không thương yêu mình.  Thúy Vân không yêu và không được yêu. Cho nên ngay buổi tiệc xum họp đầu tiên, Thúy Vân đã đề nghị giao trả Kim Trọng lại cho Kiều ngay. Thúy Vân coi như mình đã làm xong nhiệm vụ.

Những là rày ước mai ao

Mười lăm năm ấy biết bao là tình

Bây giờ gương vỡ lại lành

Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi

Còn duyên may lại còn người

Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa

Quả mai ba bảy đương vừa

Đào non sớm liệu se duyên kịp thì

Nói tóm lại tình yêu của Kim Trọng dành cho Kiều là tình yêu vị kỷ không  bao dung.    Kim Trọng yêu Kiều mà quên đi cái nghĩa, cái trách nhiệm đối với Thúy Vân và các con.  Kim Trọng cũng biếng nhác trong việc quan, tức là quên nghĩa vụ chăm sóc cho dân.

Trên đây tôi so sánh tài năng và tư cách của Từ Hải và Kim Trọng và tình yêu của hai người dành cho Kiều.

Bây giờ ta xem nhân vật chính là Kiều yêu Từ Hải hay Kim Trọng.

Kiều và Kim Trọng gập nhau tất cả bốn lần.  Tổng cộng thời gian bốn lần gập chưa đến một ngày.  Lần đầu Kim và Kiều gặp nhau trong lễ Tảo Mộ và hội Đạp Thanh.  Hai người chỉ gập nhau độ khoảng mười lăm hai mươi phút vào buổi chiều màn đêm đang buông, lúc ba chị em Kiều sửa soạn đi về:

Bóng tà như dục cơn buồn

Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo

Lần thứ hai gập bên tường chia đôi hai nhà.  Gập lần này thời gian chỉ đủ để cho Kim Trọng và Kiều trao kỷ vật làm tin ,  khoảng mười lăm phút:

Một lời vừa gắn tất giao

Mái sau dường có xôn xao tiếng người

Vội vàng lá rụng hoa rơi

Chàng về viện sách nàng dời  lầu trang

Lần thứ ba, nhân dịp gia đình đi về quê chúc thọ bên ngoại, Kiều sang nhà Kim Trọng đến hai lần từ sáng đến tối.  Lần thứ tư ngay sau lần gập thứ ba, Kim Trọng đến báo cho Kiều chàng phải về Liêu Đông thọ tang chú.

Thời gian Kiều ở với Từ Hải dài hơn. Tổng cộng tất cả sáu năm Kiều làm vợ Từ Hải trong đó có một năm Từ Hải xa Kiều để đi tìm danh vọng.  Người ta thường nói :”Xa mặt cách lòng”.  Kiều gập Kim Trọng một ngày và chỉ mới thề nguyền chứ chưa chính thức là vợ chồng.  Kiều ở với Từ Hải sáu năm, thề nguyền yêu thương cùng Từ Hải, chính thức làm vợ Từ Hải.  So sánh các bạn thấy Kiều phải yêu thương và có ân tình với Từ Hải nhiều hơn đối với Kim Trọng.

Một điểm quan trọng nữa.  Chúng ta so sánh tâm tình của Kiều với Kim Trọng và  Kiều với Từ Hải.  Kiều gập Kim Trọng khi nàng mới mười tám tuổi.  Kiều tài giỏi thông minh nhưng trong trắng thơ ngây.  Tình yêu ở tuổi mười tám là tình yêu bồng bột và lãng mạn.  Do đó ta thấy cụ Nguyễn Du đã tả lại mối tình Kim Kiều với những vần thơ thật hay thật đẹp như trò Báu và chị Mai đã dẫn chứng.  Tôi chỉ đọc thêm một vài câu như

Từ phen đá biết tuổi vàng

Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ

Tình thương yêu giữa Kiều và Kim lúc bấy giờ thật nồng cháy.  Nhưng được bao nhiêu lâu.  Tôi nghĩ chỉ kéo dài tối đa đến lúc Kiều gập Thúc Sinh.  Dĩ nhiên, mới đi Kiều nhớ đến Kim Trọng và cha mẹ.  Nhưng trong lúc nhớ Kim Trọng, Kiều bao giờ cũng mong Kim Trọng và Thúy Vân thành vợ thành chồng để cho lời thề nguyền của Kiều với Kim Trọng được tẩy sạch.

Nhớ lời nguyện ước ba sinh

Xa xôi ai có biết tình chăng ai ?

Khi về hỏi liễu Chương Đài,

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!

Tình sâu mong trả nghĩa dầy

Hoa kia đã chắp cành này cho chưa ?

Từ khi gặp Thúc Sinh,  Kiều chẳng còn nhớ gì đến Kim Trọng.  Kim Trọng chỉ còn là hình ảnh rất mờ trong Kiều.  Khi Kiều trở thành ni cô Trạc Tuyền và tu trong am nhà Hoạn Thư, Kiều có nhớ nhung gì Kim Trọng đâu.  Kiều chỉ mong Thúc Sinh đến cứu nàng.

Quan phòng, thẹn nhặt lưới mau

Nói lời trước mặt rơi châu vắng người

Gác kinh viện sách đôi nơi

Trong gang tấc lại gấp mười quan san

Nhưng anh chàng Thúc Sinh bất tài và dối trá đã không dám giải thoát cho Kiều với lý do rất ư là buồn cười vì chưa có con nối giõi.

Quản chi lên thác xuống ghềnh

Cũng toan sống thác với tình cho xong

Tông đường chút chửa cam lòng

Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai

Đến khi gặp Từ Hải thì mối tình của Kiều và Kim Trọng chỉ còn là chút nghĩa cũ càng.   Chẳng còn chút gì thương nhớ vấn vương. Trong trí tưởng tượng của Kiều thì nay Kim Trọng và Thúy Vân có một đàn con   

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng

Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng

Duyên em dầu nối chỉ hồng

May ra khi đã tay bồng tay mang

Kiều đối với Từ Hải như thế nào?  Ta hãy đọc những câu thơ đầy yêu thương, đầy kính phục, đầy sự nhớ ơn của người phụ nữ đã bị vùi dập trong đau khổ, từng trải trong cuộc đời, nên suy nghĩ rất chín chắn, chín chắn trong lời nói và tình cảm.  Những lời nói của Kiều lúc này không phải của con tim bồng bột khờ dại mà là lời nói của con tim và của lý trí :

Tạ ân lạy trước Từ công

Chút thân bồ liễu nào mong có rày

Trộm nhờ sấm sét ra tay

Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi

Chạm xương chép dạ xiết chi

Dễ đem gan óc đền ghì trời mây “

Hay

Khóc rằng :”Trí dũng có thừa

Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này

Mặt nào trông thấy nhau đây

Thà liều sống thác một ngày với nhau “

Tôi đã so sánh diện mạo, tài, đức của Kim và Từ.  Tôi cũng đã so sánh tình yêu của Kim và Từ dành cho Kiều.  Tôi cũng đã so sánh tình cảm của Kiều dành cho Kim và Từ.  Tôi chắc chắn rằng các bạn phải đồng ý với tôi rằng :”Mối tình của Kiều và Từ Hải là một mối tình đằm thắm, hùng tráng và bi thương.  Còn mối tình của Kiều và Kim Trọng là mối tình bồng bột, ngắn ngủi như khói bay, đến nhanh và tan biến cũng nhanh “.  Tôi chắc chắn các bạn sẽ bỏ phiếu cho tôi và Hoa.           

Phần hai sôi nổi hơn.  Phe đối phương phát biểu trước.

Giá Bồng Nga nói :

-Trò Thanh và trò Hoa không phân biệt được nhân vật chính và nhân vật phụ của truyện Kiều.  Nhân vật chính dĩ nhiên là Thúy Kiều.  Có đào thì phải có kép.  Kép là nhân vật chính thứ hai để tạo nên truyện Kiều.  Nhân vật chính không bao giờ chết hoặc chỉ được đề cập đến ở giữa truyện.  Nhân vật chính bao giờ cũng xuất hiện cho đến hết câu truyện.  Nhân vật chính chết là hết truyện.  Từ Hải chết, truyện Kiều vẫn còn kéo dài.  Như vậy Từ Hải không phải là nhân vật chính.  Kim Trọng xuất hiện từ đầu và đến cuối câu truyện.  Kim Trọng là nhân vật chính thứ hai sau Kiều.  Như vậy truyện Kiều phải được xây dựng quanh mối tình của Kim và Kiều. Còn các mối tình khác chỉ là râu ria để làm nổi bật mối tình của hai nhân vật chính. Tên của tập thơ là Đoạn Trường Tân Thanh.  Nhưng dân tộc ta thường gọi là Kim Vân Kiều.  Kim là Kim Trọng, Vân là Thúy Vân, Kiều là Thúy Kiều.  Như vậy nhân vật chính của tập thơ là Kim Trọng, Thúy Vân và Thúy Kiều.  Những nhân vật khác chỉ là vai phụ.  Không phân biệt đựợc nhân vật chính và phụ, trò Thanh và trò Hoa cũng không quan tâm đến thời gian, hoàn cảnh và tâm lý của Thúy Kiều khi nhận xét, phê bình.  Kiều gập Kim Trọng, Kiều là con người tự do hoàn toàn, không bị ai kiềm chế.  Kiều lựa chọn người yêu đúng tiêu chuẩn về dung mạo, tài năng, đạo đức mà Kiều muốn.  Kiều gập Từ Hải lúc Kiều là nô lệ, hoàn toàn không có tự do, bị nhục mạ về tinh thần và thể xác.  Trong hoàn cảnh đó Kiều luôn mong ước có một người nào đó cứu Kiều ra khỏi địa ngục mà Kiều đang phải gánh chịu.  Nếu có người nào thấp, lùn, răng hô và già khú đế, nhưng có tiền để chuộc Kiều ra khỏi thanh lâu thì Kiều cũng phải cắn răng chịu.  Kiều không có tự do lựa chọn.  Cho nên gập Từ Hải và được Từ Hải hứa này nọ là Kiều chịu liền.  Kiều chịu Từ Hải không phải vì Từ Hải có đủ tiêu chuẩn về tài, đức, dung mạo mà Kiều muốn, mà chỉ vì Kiều muốn thoát khỏi lầu xanh. Kiều chọn Kim Trọng đúng theo những tiêu chuẩn nàng mong muốn.

Chúng ta hãy xem dung mạo và phong thái của Kim và Từ. 

Dung mạo và phong thái của chàng Kim được cụ Nguyễn Du tả :

Trông chừng thấy một văn nhân

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng

Đề huề lưng túi gió trăng

Sau chân theo một vài thằng con con

Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời

Hay

Hài văn lần bước dặm xanh

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

Hay

Nguyên người quanh quất đâu xa

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh

Nền phú hậu, bậc tài danh

Văn chương nết đất, thông minh tính trời

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hao

Kim Trọng đẹp đẽ, phong lưu, tài hoa còn Từ Hải thì sao?  Các bạn hãy nghe cụ Nguyễn Du tả Từ Hải :

Lần thâu gió mát trăng thanh

Bỗng đâu có khách biên đình đến chơi

Hay

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo

Hay

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Hoặc

Từ công nghe nói thủy chung

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang

Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng

Dưới cờ một lệnh vội vàng ruỗi sao

Hành động phong thái của Từ Hải là hành động của của một anh võ biền, vai u thịt bắp, ít học.  Hành động nóng nẩy không có một chút điềm tĩnh của một người có chí lớn.  Cả văn và cả võ của Từ Hải chỉ được nửa gánh thì đủ biết tài văn võ của Từ Hải cũng không là bao. Tôi muốn nhấn mạnh cho các bạn chữ gánh mà cụ Nguyễn Du dùng để tả tài năng của Từ Hải.  Gánh là ban hát nhỏ như ban hát dạo trong Dọc Đường Gió Bụi của Khái Hưng, gánh hát xiệc dạo trong Vô Gia Đình của Hector Mallot, hay gánh quảng cáo thuốc Sơn Đông của lực sĩ Huỳnh Nghĩa Long mà các bạn xem ở vườn Hoa Diên Hồng. Với tài năng và kiến thức như vậy cho nên suốt sáu năm chung sống, chưa bao giờ Từ và Kiều ngâm thơ họa nhạc cùng nhau.  Mối tình của Từ Hải và Kiều như đôi đũa cộc cạch, so le cao thấp. Cụ Nguyễn Du cũng dùng chữ chèo để nói về tài và hoài bảo của Từ Hải.  Nước Trung Hoa to lớn như vậy mà Từ Hải dùng một mái chèo cỏn con để chèo chống.  Từ Hải cùng lắm chỉ bằng một anh hùng trong bộ tiểu thuyết Thủy Hử, nổi lên trong thời đất nước nhiễu nhương ly loạn.  Hồ tôn Hiến không dùng mưu giết Từ Hải thì viêc tiểu trừ Từ Hải cũng chỉ là thời gian.  Tôi xin nhường lời cho trò Hoàng. Trò Hoàng sẽ vạch cho các bạn một sai lầm khác của trò Thanh và trò Hoa.

Hoàng Lùn nói :

-Một điểm sai lầm nữa của bạn Thanh và bạn Hoa là đứng ở quan điểm thời đại bây giờ để đánh giá nhân vật thời nhà Minh bên Tàu.  Ngày nay nhiều sử gia đánh giá lại công tội của các bậc tiền nhân.  Chẳng hạn trường hợp Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu, hay như Đoàn Trưng cầm đầu cuộc nổi loạn Giặc Chầy Vôi để mong lật đổ vua Tự Đức.  Tất cả các nhà sử học, chính trị học đó đã đứng trên quan niệm chính trị, pháp luật ngày nay để đánh giá và phê phán.  Cho nên những đánh giá và kết luận của họ khác hẳn với nguời đương thời còn nặng đầu óc coi vua là con trời.  Ở thời nhà Minh tôi chắc chắn rằng ngay những người dân bình thường  cũng cho rằng Từ Hải chỉ là giặc, huống chi Kiều là con của một gia đình thấm nhuần đạo Nho.  Ngay khi Kiều là vợ của Từ Hải, nàng cũng phải thừa nhận rằng Từ Hải chỉ là giặc chống lại triều đình do đó mới khuyên Từ Hải ra hàng để tránh mang tiếng xấu sau này:

Làm chi để tiếng về sau

Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào

Từ Hải là một anh hùng đứng lên trừ gian diệt bạo giúp dân như trò Hoa và trò Thanh quan niệm thì không bao giờ Từ Hải chịu bó thân đầu hàng một viên quan tham ô như Hồ Tôn Hiến.  Nếu Hồ Tôn Hiến có tha chết cho Từ Hải thì tên giặc cỏ Từ Hải cũng chỉ trở thành một viên quan nhỏ của triều đình thối nát nhà Minh.  Rồi Từ Hải cũng hà hiếp người dân như bao vị quan khác.  Ở trong bộ máy thối nát của nhà Minh, Từ Hải không thể thoát ra được guồng máy tham quan ô lại.

Trò Báu, trò Giá và chị Mai đã chứng minh được mối tình của Kim Trọng và Thúy Kiều là xứng đôi vừa lứa, môn đăng hộ đối vì cả hai tài sắc vẹn toàn, tâm đầu ý hợp.  Tôi đồng ý với chị Mai rằng mối tình của Kim và Kiều đẹp và cao thương.  Tôi xin đưa ra một thách thức.  Bạn nào đưa ra một mối tình trong sáng và đẹp như mối tình Kim và Kiều, tôi thưởng cho bạn đó một vé đi xem xi nê rạp Văn Cầm.

Cả lớp vỗ tay tán thưởng thách thức của Hoàng Lùn

Hoàng Lùn nói tiếp :

-Tôi xin nhường lời cho chị Mai để vạch ra cho các bạn thấy trò Thanh và trò Hoa đọc truyện Kiều nhưng không hiểu được truyện Kiều, đọc truyện Kiều nhưng không hiểu được tâm sự của cụ Nguyễn Du

Phe đối phương dùng chiến thuật xa luân chiến để hạ chúng tôi. Chị Mai giáng cho tôi và Hoa một đòn chí tử.

Chị Mai nói :

-Trò Thanh và trò Hoa khi phê bình truyện Kiều đã phân tích từng chữ giống như chúng ta làm những bài phân tích ngữ pháp trong giờ Pháp Văn.  Đọc thơ văn, phải đọc ý, chứ không phân tích từng chữ, nhất là đọc thơ Trung Hoa và Việt Nam cổ.  Thơ văn Trung Hoa và Việt Nam cổ dùng nhiều hình ảnh, âm thanh, và điển tích nên có tính cách ước lệ.  Đọc ý, không phân tích chữ.  Nếu như phân tích từng chữ như trò Thanh và trò Hoa thì mặt Thúy Vân làm răng gọi là đẹp được.

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Phân tích như trò Thanh thì mặt Thúy Vân tròn như mặt trăng mười sáu, lông mày của Thúy Vân to như hai con tầm lớn.  Thúy Vân có đẹp chi hơn chị Doãn của Vũ Trọng Phụng.  Còn Từ Hải thì là người dị tướng :

Râu hùm, cầm én, mày ngài

Vai năm thước rộng, thân mười thước cao

Râu dài, thưa và sắc nhọn như râu của con hổ, cầm nhọn và mỏng như cánh én, lông mày thì như con bướm lớn, vai thì rộng năm thước ta bằng một thước sáu mươi lăm tây, cao thì cao mười thước ta bắng ba thước tư tây.  Như vậy Từ Hải khác gì quái vật.

Phân tích chữ mà không tìm hiểu ý cho nên trò Thanh và trò Hoa đã sai lầm trong khi phê bình Kim Trọng là mít ướt, là mau nước mắt hơn đàn bà.  Như câu:

 Đinh ninh mài lệ chép thơ.

 Đâu phải là Kim Trọng khóc nhiều đến nỗi có đủ nước mắt để viết những tờ thông báo tìm Kiều.  Câu này chỉ tả nỗi lòng thương nhớ và lo lắng của Kim Trọng đối với Kiều.  Hoặc câu :

Vật mình vẫy gió tuôn mưa.

Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.

Đau đòi đoạn ngất đòi thôi.

Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê “.

 Kim Trọng không vật mình xuống đất hay ngất đi ngất lại nhiều lần  như trò Thanh hiểu.  Câu này chỉ tả nỗi buồn rất lớn của Kim Trọng khi được biết Kiều phải bán mình chuộc cha.

Trò Thanh và trò Hoa còn một sai lầm to hơn nữa trong việc phân tích truyện Kiều.  Ngày nay chúng ta sống tại miền Nam Tự Do, chúng ta không khó khăn gì trong việc tìm hiểu mục đích của tác giả viết một tác phẩm văn học.  Tác giả viết những tâm sự và hoài bảo của mình mà không cần phải dấu diếm che đậy.  Nhưng ngày xưa trong chế độ quân chủ không có tự do, các tác giả phải gửi tâm sự của mình trong tác phẩm một cách kín đáo. Người đọc không những phải đọc kỹ tác phẩm mà còn phải biết về cuộc đời của tác giả cùng lịch sử của thời đại tác giả sống.  Tôi buồn cho cụ Nguyễn Du là trò Thanh và trò Hoa đọc truyện Kiều mà không hiểu tâm sự cụ Nguyễn Du gửi gấm trong truyện Kiều. Cụ Nguyễn Du đã đem tất cả tài năng, tâm huyết của mình để viết truyện Kiều vì cụ muốn gửi tấm lòng của cụ vô nhân vật Thúy Kiều.  Tấm lòng hoài Lê của cụ là lý do chính cụ viết truyện Kiều.  Cụ Nguyễn Du nhớ nhà Lê, Thúy Kiều nhớ Kim Trọng.

Sai lầm lớn nhất của trò Thanh và trò Hoa là lạc đề.  Đề tài thảo luận là Kiều yêu ai nhất.  Tất cả những điều trò Thanh và trò Hoa trình bầy chỉ để trả lời câu hỏi Ai Yêu Kiều Nhất, Ai Làm Cho Kiều No Ấm Danh Vọng Nhất. 

Tôi, trò Giá, trò Hoàng và trò Báu đã phân tích, chứng minh để trả lời đúng câu hỏi thảo luận : Kiều yêu ai nhất.  Chúng tôi đã đưa ra chứng cứ để đi đến kết luận Kiều yêu Kim Trọng nhất.  Tôi, trò Hoàng, trò Giá cũng đã phân tích cho các bạn thấy những sai lầm của trò Thanh và trò Hoa.  Chừ, chắc chắn không bạn nào còn nghi ngờ gì nữa mà không trả lời Kim Trọng là người được Kiều thương yêu quí trọng nhất.



 





Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 16/Dec/2009 lúc 11:48am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 16/Dec/2009 lúc 1:09am


TRỌC SĨ  ĐỆ TỨ





Đến lượt phe chúng tôi lên nói.

Tôi nói :

-Chị Mai phê bình tôi phân tích chữ mà không phân tích ý khi đọc truyện Kiều. Lời phê bình này của chị Mai phải dành cho trò Giá. Tôi trích dẫn cả một đoạn thơ, tôi không phân tích từng chữ.  Trong khi trò Giá đã phân tích chữ chèo và chữ gánh để đánh giá Từ Hải.  Trong văn thơ các bạn thường thấy câu đôi vai gánh vác sơn hà, vững tay chèo chống đưa đất nước qua cơn nguy biến.  Hai hình ảnh gánh vác và chèo chống để giúp nước thật là đẹp.  Mặc dù chữ gánh và chèo trong câu thơ của cụ Nguyễn Du là những danh từ, nhưng ý của cụ Nguyễn Du vẫn là dùng hình ảnh gánh vác và chèo chống cứu dân độ thế của thanh niên yêu nước để tả Từ Hải.

 Chị Mai nói tôi và Hoa không hiểu cụ Nguyễn Du.  Trái lại tôi và Hoa hiểu rất rõ, cụ Nguyễn Du muốn nói gì khi viết truyện Kiều.  Chị Mai cho rằng cụ Nguyễn Du viết truyện Kiều để gửi tâm sự hoài Lê của cụ.  Chúng tôi không đồng ý với chị Mai.  Nhiều nhà phê bình văn học gán ghép cho tác giả những điều họ không hề nghĩ tới trong khi sáng tác.  Cụ Nguyễn Du cũng được nhiều nhà phê bình phong cho là chiến sĩ chống lại xã hội bất công tham nhũng thời bấy giờ.  Theo tôi thì cụ Nguyễn Du không có hoài bảo đó.  Nếu cụ Nguyễn Du có tư tưởng dùng truyện Kiều để chống lại chế độ tham nhũng thời bấy giờ thì cụ phải tả chính quyền của Kiều và Từ Hải là chính quyền thanh liêm và nhân đạo.  Một chính quyền cụ mơ ước khác với chế độ đầy tham nhũng và bất công hiện cụ đang sống. Chính quyền của Kiều và Từ Hải cũng vẫn là chính quyền vơ  vét tiền bạc của dân.  Ta hãy xem: tiền đâu mà Kiều ban thưởng hào phóng cho Thúc Sinh :

Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân

Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là

Ban thưởng hậu hĩ cho sư Giác Duyên và bà quản gia của Hoạn Thư

Nghìn vàng gọi chút lễ thường

Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân.

Tiền đó, Kiều có được là do vơ vét của nhân dân.  Nếu không vơ vét của nhân dân thì cũng do cướp đoạt tài sản của các quan chức chế độ cũ.

Chế độ của Kiều cũng không công bằng, không nhân đạo và vô luật pháp.  Kiều cũng không công bằng với Khuyển Ưng như tôi đã nói và có những hình phạt dã man không nhân đạo:

Lệnh quân truyền xuống nội đao

Thề sao thì lại cứ sao gia hình

Máu rơi thịt nát tan tành

Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời

Kiều cũng không thanh liêm.  Kiều ăn của đút lót nên chính quyền Từ và Kiều mới xụp đổ :

Đóng quân làm chước chiêu an

Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng

Lại riêng một lễ với nàng

Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân

Tôi phê phán chính quyền của Kiều và Từ Hải nhưng tôi ca tụng tài năng tư cách, chí lớn và tình yêu chung thủy nồng ấm của Từ Hải đối với Kiều.  Từ Hải không phải là tên giặc cỏ ít tài năng như chị Mai, trò Hoàng và trò Giá đánh giá. 

Theo cụ Hoàng Xuân Hãn thì lịch sử Trung Hoa thời nhà Minh có đoạn nhắc đến vị quan tên là Hồ Tôn Hiến đem quân đi tiểu trừ giặcVương Trực và Từ Hải.  Vương Trực là minh chủ, còn Từ Hải là phụ tá. Đám giặc này chống lại Minh Triều, âm mưu chiếm vùng ven biển và các hải đảo để lập một quốc gia độc lập.  Minh sử cũng chép rằng Hồ Tôn Hiến đã dùng mỹ nhân kế để tiêu diệt Từ Hải.  Từ Hải đã chịu qui hàng nhưng Hồ Tôn Hiến đã đánh úp bất ngờ.  Từ Hải nhẩy xuống biển tự tử với hai người vợ.  Điều  đó chứng tỏ rằng thanh thế của Từ Hải rất lớn nên mới được ghi vô sử Trung Hoa. Trong truyện Kiều, Từ Hải đã chiếm được một nửa nước Trung Hoa to lớn.  Triều đình của Từ Hải là một triều đình to lớn và vững mạnh.  Từ Hải là trang nam nhi, vừa có tài vừa có đức khiến nhân dân kính trọng.  Kiều và Từ Hải là đôi vợ chồng và bạn tri âm.  Từ Hải đã phục hồi nhân phẩm, tài năng của Kiều. Kiều đã thấy được tài năng, chí khí, lòng thủy chung nghĩa hiệp của Từ Hải. Những việc Từ Hải làm cho Kiều thật to lớn đã trở thành ân sâu nghĩa nặng .  Từ và Kiều sớm tốí bàn luận việc trị nước an dân, không bàn văn thơ phù phiếm trong những buổi trà dư tửu hậu. Mối tình của Từ Hải và Kiều là mối tình trong sáng, đẹp đẽ và bi hùng.

Trò Hoàng nói ai đưa ra được mối tình trong sáng và đẹp hơn mối tình của Kim Trọng và Kiều thì trò thưởng cho một vé xi nê Văn Cầm.  Tôi đưa mối tình của Từ Hải và Kiều.  Tôi dám chắc mối tình của Từ Hải và Kiều trong sáng và đẹp hơn mối tình của Kim Trọng và Kiều ngàn lần.  Trò Hoàng thua tôi một vé xi nê Văn Cầm.

Cả lớp vỗ tay.  Thằng Hoàng đứng dậy nói :

-Thắng thua, chờ chút nữa bỏ phiếu sẽ biết

Chị Mai đứng dậy :

-Thưa thầy cho em nói.  Trò Thanh thua, tôi vẫn thưởng cho trò Thanh và trò Hoa hai vé xi nê Văn Cầm để hai trò đi xem phim.

Cả lớp cười ầm và vỗ tay.  Con Hoa mặt đỏ bừng. Tôi cười miệng méo xệch.  Thầy Hồng phải can thiệp :

-Các trò im lặng.  Trò Thanh nói ngắn gọn.  Chúng ta chỉ còn mười lăm phút  là hết giờ.  Trò Thanh có năm phút để trình bầy.

Tôi nói tiếp

-Cụ Nguyễn Du không hề gửi gấm tâm sự hoài Lê vô tác phẩm Kiều như chị Mai nói.  Ngoài truyện Kiều,  cụ Nguyễn Du còn có nhiều tác phẩm thơ văn khác như Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu, Thác Trai Phường Nón … Không một ai nêu được một bài thơ, câu văn hay lời nói nào ngoài truyện Kiều để chứng minh cụ Nguyễn Du luyến tiếc nhà Lê.  Các bạn nên nhớ cụ Nguyễn Du làm quan thời nhà Lê và cụ được nhà Nguyễn trọng dụng.  Tôi chắc chắn rằng không thiếu gì những vị công thần khai quốc của nhà Nguyễn ganh tị với cụ.  Chắc chắn những người này phân tích từng câu,  từng ý để bắt bẻ hòng hãm hại cụ.  Chỉ vì hai câu thơ :

Chọc trời quấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai 

vua Minh Mạng phạt rượu cụ Nguyễn Du với lý do trên đầu phải có vua tại sao trên đầu không có ai, huống hồ chi là tội hoài Lê.

Mục đích của cụ Nguyễn Du viết truyện Kiều nằm ngay trong câu đầu của truyện Kiều

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Cụ là người có tài và cụ cảm thấy tài của cụ không được trọng dụng đúng với tài năng của cụ.  Có thể vì vậy mà cụ Nguyễn Du đã không đi thi tiếp để đậu tiến sĩ hay trạng nguyên. Cái chết của Từ Hải là một cái chết bi thương hùng tráng cũng chứng tỏ điều cụ Nguyễn Du muốn nói “ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.  Một người tài xuất chúng bị định mệnh ghen ghét bắt chết lúc còn trẻ và để lại một mối tình  đẹp, chung thủy, trong sáng. Vì không còn thì giờ, chúng tôi xin kết luận rằng Kiều mang nặng ân tình với Từ Hải nhất.

Sau phần thảo luận là phần biểu quyết. Kết quả làm tôi buồn lòng.  Tôi và Hoa thua thảm hại.  Sĩ số lớp tôi 48, tôi chỉ được 2 phiếu, một phiếu của tôi và một phiếu của Hoa.

Thầy Hồng nói lời cuối cùng để kết thúc buổi thảo luận.  Thầy Hồng nói :” Thầy cám ơn các em rất nhiều.  Một điều bất ngờ và thích thú là sau hai giờ thảo luận, thầy đã học được rất nhiều điều mới lạ của các em nói về truyện Kiều.  Sau khi nghe các em trình bầy, thầy có chút phân vân không biết Kiều yêu Kim Trọng nhất hay yêu Từ Hải nhất.  Bên nào cũng có phần có lý, mặc dù đôi khi các em đặt Kiều trong các em mà không đặt các em trong Kiều để lý luận.  Những điều các em trình bầy có thể đúng, có thể không đúng.  Nhưng đúng sai không quan trọng lắm.  Điều quan trọng là các em đã đưa ra được những vấn đề và những vấn đề này được thảo luận một cách tự do và thẳng thắn.  Thầy rất hài lòng và cảm động về sự hăng hái và cố gắng của các em trong buổi thảo luận.  Các em đã tạo nên một sự thích thú trong việc học môn Quốc Văn mà ít người thích học. Thầy cám ơn các em.”

Sau buổi thảo luận, ra khỏi lớp, tôi nghe giọng thằng Giá Bồng Nga oang oang :”  Từ Hải bị Kiều dụ, con Hoa bị thằng Thanh dụ “.  Trên đường về nhà, Hoa lẽo đẽo đi bên tôi. Hai đứa không nói với nhau một câu.  Đi đến ngã ba để rẽ vô đường Nguyễn Hoàng, tôi nghe tiếng chị Mai gọi:

-Thanh, Hoa

Chị Mai xuống xe đạp và đến trước chúng tôi. Chị Mai nói :

-Hai đứa mi đừng buồn.  Ba tao nói thằng Thanh giỏi.  Ba tao nói chuyện với mi nhiều lần, ba tao khen mi giỏi nhất trong mấy đứa.

Chị Mai véo má tôi: 

Mi giỏi hơn tao   

Chị Mai nhìn hai đưa tôi.  Ánh mắt chị Mai thật trìu mến đã xoa dịu nỗi buồn của tôi.  Chị Mai nói :

-Rạp Văn Cầm đang chiếu phim Mirage De La Vie hay và cảm động lắm.  Nữ tài tử Sandra Dee  đẹp và dễ thương.

Chị Mai véo má Hoa và nói :

-Nhưng không đẹp và dễ thương bằng mi

Chị Mai đút cái gì vô túi áo tôi.  Chị Mai nói thật nhanh :

-Tao thưởng cho hai đứa mi tiền để đi xem phim.

Tôi chỉ kịp nói:

-Em không lấy mô.

Chị Mai đã đạp xe đến gần cửa trường Nam Tiểu Học.  Tôi buột miệng xưng em với chị Mai.  Lần đầu tiên tôi xưng em với chị Mai.  Tôi nhìn theo chị Mai trong lòng tôi có một tình thương yêu của đứa em đối với người chị. Chúng tôi đi về.  Bước chân của chúng tôi không còn nặng nề.  Có sự giúp sức của chị Mai nên bước chân của chúng tôi nhẹ nhàng thanh thản hơn. Trước khi bước vô nhà, con Hoa nói với tôi :

-Mi lý luận rất hay.  Trong lớp không đứa mô hiểu mi, chỉ có tao hiểu mi.  Mi là một người rất chung thủy.

Hoa đi vô nhà.  Tôi còn đứng ngơ ngẩn một lúc lâu rồi mới bước vô nhà.

Buổi tối hôm đó Hoa sang nhà tôi.  Tôi và Hoa phụ mẹ tôi may quần áo.  Tôi cắt những sợi chỉ còn sót trên áo và quần. Hoa  đơm cúc và xếp thành từng bộ.  Hoa hỏi mẹ tôi :

-Dì có biết  truyện Kiều không dì ?

-Dì biết .  Truyện cô Kiều bán mình chuộc cha

-Theo dì,  Kiều yêu ai nhất ?

-Kiều yêu Kim Trọng nhất

-Tại sao ?

-Dì không biết.  Mọi người đều mong muốn cuộc đời không có trắc trở về tình duyên.  Ai cũng mong muốn Kiều và Kim Trọng thành vợ thành chồng.  Khởi đầu tốt đẹp và kết thúc tốt đẹp.

Lúc về, Hoa nói với tôi:

-Không ai quên được mối tình đầu chân thật.

-Mi hối hận đã theo tao

-Không

-Mi giận tao

Hoa nhìn tôi, lắc nhẹ đầu.  Hoa nói thật nhỏ :

-Không, không bao giờ tao giận mi…lâu quá ba ngày

-Chủ nhật đi xem phim Mirage De La Vie ?

Hoa đưa mắt nhìn tôi. Đôi mắt thật hiền và thật đẹp.  Tôi chờ đợi một ân huệ Hoa ban cho. Hoa gật đầu nhẹ. Nhìn Hoa bước về nhà, lòng tôi bâng khuâng.  Hoa trân trọng những chiến thắng dù rất nhỏ nhoi của tôi và chia sẻ những thất bại rất bé của tôi. Tôi tự hỏi, tôi đã yêu Hoa?  Đúng, tôi đã yêu Hoa.

  HẾT

 




Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 16/Dec/2009 lúc 11:50am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 23/May/2010 lúc 10:46pm
 
 
TRUYỆN KHÁ DÀI (nhưng hay !), XIN CẢ NHÀ KIÊN NHẪN
THEO DÕI VÀ THƯỞNG THỨC.
 
TRÂN TRỌNG,
mk
 
******
 
 
 
 
NGUYỄN ĐỨC QUANG
*  * 

 TRỌC SĨ

NĂM NHẬP MÔN

 *

 **** 

MỞ ĐẦU

 

TRỌC SĨ LÀ CÂU TRUYỆN TƯỞNG TƯỢNG, KHÔNG PHẢI LÀ HỒI KÝ, KÝ SỰ.  

 

TRUYỆN XẨY RA TẠI :

 

*        TRƯỜNG TRUNG HỌC PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẴNG

 

*        TRƯỜNG QUỐC HỌC HUẾ

 

*        VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

 

NHỮNG NHÂN VẬT CHÍNH KHÔNG CÓ THẬT.  HẦU HẾT NHỮNG NHÂN VẬT PHỤ CŨNG KHÔNG CÓ THẬT.   SỰ TRÙNG HỢP TÊN VỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN LÀ NGOÀI Ý MUỐN CỦA TÁC GIẢ.

 

XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN TÁC GIẢ NHỮNG BÀI HÁT, BÀI THƠ ĐƯỢC TRÍCH DẪN TRONG TRUYỆN.

 

  

 Nghìn thu anh là suối trên ngàn

Thành sông anh đi xuống, anh tuôn tràn biển mơ

Nghìn thu em là sóng xô bờ

Vào sông em đi mãi, không bao giờ biển vơi

PHẠM DUY

 

Thửa xưa ở trên ngàn. Anh là con suối nhỏ.  Lớn lên anh thành sông.  Sông tuôn vô biển lớn.  Anh làm nên mộng lớn.  Đền đáp lại tình em.  Ngày xưa em  còn bé.  Em là con sóng nhỏ. Em quấn quít bên anh. Đến tuổi em biết yêu.  Em đi vào sông lớn. Em theo anh mãi mãi.  Không một chút âu lo.  Không một phút đắn đo.  Không một lời thắc mắc.  Theo anh vô biển lớn. Thấy đời rộng thênh thang. Thấy tình đẹp như thơ. Đời em hoa rộ nở. Bóng hình anh lồng lộng. Em bé nhỏ bên anh.  Em là con sóng nhỏ.  Muôn kiếp ở trong anh.

 

Tôi là con suối nhỏ.  Muôn đời chẳng thành sông. Viết những lời mơ ước.  Được thành con sông nhỏ.

 

 

 *

* * *

 

 

 

Tôi trở lại Đà Lạt không bằng máy bay.  Tôi đáp chuyến xe đò đến Nha Trang, rồi từ Nha Trang tôi lên Đà Lạt bằng xe lửa.  Đoàn tàu ì ạch leo đèo bằng những bánh xe răng cưa.  Tôi nghe ba tôi nói về con đường xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt.  Ba tôi nói :  Đây là kỳ công của người Pháp.  Kỳ công vì đoạn đường xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt chỉ có 84 kilomet mà phải mất ba mươi năm mới hoàn thành.  Bốn mươi ba cây số cuối cùng từ Sông Pha lên Đà Lạt mới có hệ thống đường rầy răng cưa.  Kỳ công vì trên thế giới chỉ có hai nước có đường xe lửa có bánh răng cưa.  Để hoàn thành con đường xe lửa Sông Pha -  Đà Lạt, người Pháp phải sử dụng kỹ thuật và vật liệu đặc biệt :  đầu máy là đầu máy hơi nước có bánh xe răng cưa, đường rầy, ốc vít làm bằng loại thép đặc biệt,  có ba đường ray,  đường ray ở giữa là đường ray răng cưa. 

 

Đường đèo Bellevue chạy vòng vèo quanh một vùng toàn đồi núi và rừng thông.  Đèo Bellevue dài hơn đèo Hải Vân và đèo Cả.  Tôi không cảm thấy đèo Bellevue cao hơn đèo Hải Vân, mặc dù tàu chạy qua những vực sâu thăm thẳm.  Đèo Bellevue cũng có hầm nhưng không có nhiều hầm bằng đèo Hải Vân và không có hầm nào dài bằng hầm Sen (hầm số 1) của đèo Hải Vân.  Đèo Hải Vân và đèo Cả có biển, có núi, có đá, có cỏ cây hoa lá.  Đèo Bellevue chỉ có rừng, có núi, có cây lá và không biển, không hoa.  Tôi không hiểu tại sao đèo này có tên là Đèo Ngoạn Mục.  So với đèo Hải Vân và đèo Cả thì đèo Bellevue không đẹp bằng.

 

Bốn giờ chiều, tàu tới ga Bellevue ở quận Đơn Dương.  Tới nơi đây, tôi bỗng sững sờ và ngẩn ngơ.  Tôi bước vô thế giới khác hẳn.  Tôi cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái .  Những phiền muộn lo âu biến mất trong tôi .  Nhìn lại đoạn đường đi qua là một màu xanh của rừng thông tới tận chân trời.  Mùi thơm của núi rừng, của thông xanh và khí hậu lành lạnh thật nhẹ nhàng dễ chịu.  Đèo Hải Vân đẹp và đèo Bellevue cũng đẹp.   Mỗi đèo có vẻ đẹp riêng.  Trước đây tôi chưa nhận ra cái đẹp của đèo Bellevue vì tình cảm tôi dành cho đèo Hải Vân quá lớn.   

 

Tôi tới ga Đà Lạt đã hơn năm giờ chiều.  Tôi vội vàng gọi taxi để tới Viện Đại Học Đà Lạt.  Tôi vô văn phòng để xin một chỗ ở trong Đại Học Xá.  Nhân viên văn phòng cho biết không còn chỗ ở trong Đại Học Xá.  Một nhân viên văn phòng bảo chúng tôi đến Lữ Quán Thanh Niên,  nơi ông tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm thị trưởng thị xã Đà Lạt đang ở đó để giúp đỡ sinh viên chưa có chỗ ở.  Chúng tôi ra đến Lữ Quán Thanh Niên.  Trung Tá Trần Văn Phấn, tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức kiêm thị trưởng thị xã Đà Lạt, đang nói chuyện với khoảng hơn ba mươi người gồm cả mười người chúng tôi mới đến.  Trung Tá Phấn hứa sẽ giúp đỡ chúng tôi có chỗ ở.  Ông còn hứa sẽ giúp đỡ chúng tôi trong thời gian bốn năm chúng tôi học tại Đà Lạt.  Trung tá Phấn gọi bà Quản Lý Lữ Quán Thanh Niên.  Ông chỉ thị cho bà Quản Lý sắp xếp chỗ ở cho chúng tôi.  Tối hôm đó chúng tôi được sắp xếp ngủ trên giường sắt ngay trong phòng đại sảnh của Lữ Quán.

 

Tối hôm sau, chúng tôi xếp ghế thành vòng tròn. Tôi đếm được tất cả ba mươi sáu người.  Chúng tôi tự giới thiệu.  Tôi biết tôi là người nhỏ nhất và là một trong năm người mới bước lên đại học lần đầu.  Số còn lại đều đã học ở đại học ít nhất là một năm.  Nhiều người đã học đại học hai ba năm và học nhiều phân khoa khác nhau.  Người lớn tuổi nhất trong bọn là anh Phan Chi Hoan hơn tôi tám tuổi.  Anh Hoan đã học qua các trường Dược, trường Khoa Học.  Ba mươi sáu người nói đủ giọng ba miền.  Ba mươi sáu người tới từ khắp nơi của bốn vùng chiến thuật.  Từ vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị đến quận Hà Tiên cực Nam của đất nước.  Sau phần tự giới thiệu, mỗi người kể một câu truyện.  Anh Hoàng Văn Lộc kể một câu truyện về chuyến đi tàu hỏa của anh từ Nha Trang vô Sài Gòn. Anh Lộc đi tàu không mua vé.  Vì đi tàu lậu vé nên anh phải tìm mọi cách trốn người soát vé.  Nửa tiếng mà tàu không đến được ga Sài Gòn nên nhiều người sốt ruột hỏi anh Lộc

-         Tàu đến Sài Gòn chưa ? Sao tầu chạy chậm quá vậy anh Lộc?

Anh Lộc hiểu ý nên trả lời  :

-         Bốn năm nữa tàu mới tới Sài Gòn.  Hôm nay mới là ngày đầu tiên.

Chuyến tàu của anh Lộc là chuyến tàu bốn năm.  Con tàu chở bốn năm kỷ niệm sống và học tại thành phố Đà Lạt thì làm sao tới ga được.

 

Hồ Hải, người Long Xuyên, kể chuyện ông ngoại anh ta, điền  chủ ở Long Xuyên,  cởi áo khoác mặc cho tá điền đang bị lạnh vì mưa.  Cụ thân sinh của Hải  là Hướng Đạo Sinh.  Cụ tham gia kháng chiến và bị ám sát chết khi tuổi mới ngoài ba mươi.

 

Kinh Kha sau khi giới thiệu họ tên, anh lấy cây đàn ghita và đánh khúc dạo đầu bài Đêm Đông của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương.  Anh cất giọng ca một cách tự nhiên thoải mái, không một lời giáo đầu .  Mọi người im lặng nghe anh hát.  Bài hát hợp với tâm trạng của mọi người xa nhà trong đêm lành lạnh, nhất là tôi mới đi xa nhà lần đầu, nhưng  không ai cảm thấy buồn.  Ba mươi sáu người đang quây quần thành một khối như đã quen nhau rất lâu .   Kinh Kha vừa chấm dứt bài Đêm Đông, trong phòng vang tiếng vỗ tay, tiếng huýt gió, tiếng la bis bis bis .  Không nói một lời, Kinh Kha hát tiếp bài Et Pourtant của Charles Aznavour .  Cách cư xử đầy tự tin, thân tình, không màu mè của một người có máu văn nghệ .  Kinh Kha đối xử với mọi người như bạn bè thân nhau từ tuổi còn thơ của anh.  

 

Đêm đó chúng tôi thức đến tận hai giờ sáng mới đi ngủ.  Đêm nay, tôi thấy một sự ấm áp khác thường của tình đồng môn.  Sự khác thường có lẽ là vì tôi ít được đi xa, ít được tiếp xúc với những cái khác biệt, cái mới lạ, với những người sẽ là đồng môn, nhưng tuổi đời, kinh nghiệm sống và kiến thức của họ vượt trội hơn mình. 

 

Hôm sau, chúng tôi được đưa vô ở những phòng riêng, bốn người một phòng.  Chúng tôi ngủ trên giường hai tầng bằng sắt.  Không có bàn học, chỉ có giường ngủ. Bà quản lý dẫn chúng tôi xuống nhà ăn của Lữ Quán Thanh Niên.  Giá một bữa cơm thật rẻ,  tôi chưa thấy quán cơm nào giá rẻ hơn.  Ba đồng một phần cơm gồm món rau cải và món mặn.  Cơm ăn tự do.  Quán ăn đóng cửa chiều thứ bẩy và ngày chủ nhật.  Chiều thứ bẩy và ngày chủ nhật chúng tôi phải ăn cơm tại quán ăn tại bến xe thành phố với giá đắt gấp năm lần bữa cơm tại quán ăn Lữ Quán Thanh Niên.  Việc ăn ở coi như tạm ổn.

 

Buổi học đầu tiên của trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp Viện Đại học Đà Lạt là ngày thứ hai, hai mươi bẩy, tháng chín, năm 1964.  Đến nay tôi vẫn còn cảm giác bùi ngùi, nuối tiếc khi nhớ hai bài tập đọc:  Ngày Khai Trường của nhà văn Thanh Tịnh và Buổi Học Cuối Cùng của nhà văn Anatole France.  Ngày xưa, các bạn tôi thường chỉ thuộc lòng bài tập đọc Ngày Khai Trường là trích đoạn của đoản văn Tôi Đi Học của nhà văn Thanh Tịnh.  Tôi thuộc lòng cả đoản văn này, từ đoạn đầu “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường “ cho đến đoạn cuối của đoản văn “ Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc :  Bài tập viết : Tôi đi học !   Nay mỗi khi nhắc đến bài Ngày Khai Trường, các bạn tôi thường chỉ nhớ một hai giòng :” Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh.  Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp Tôi không thuộc toàn đoản văn như ngày xưa, nhưng tôi vẫn còn thuộc nhiều đoạn tôi thích.  Tôi thuộc đoản văn TÔI ĐI HỌC cũng có lý do.  Đầu năm đệ thất, tôi sang nhà Hoa.  Hai đứa tôi thi nhau đọc bài tập đọc NGÀY KHAI TRƯỜNG xem đứa nào đọc nhanh hơn và thuộc hơn.  Vì cố đọc nhanh nên Hoa và tôi thường đọc thiếu chữ.  Mạ Hoa sửa sai cho chúng tôi.  Tôi ngạc nhiên, dì Cúc đọc thuộc cả đoản văn TÔI ĐI HỌC.  Những ngày sau đó, tôi còn được nghe dì Cúc đọc thuộc lòng một vài đoản văn khác và nhiều bài thơ của nhà văn Thanh Tịnh.  Bài thơ tôi thích và thuộc cho đến nay là bài MÒN MỎI :

 

-         Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ

Tìm thử chân mây khói tỏa mờ

Có bóng tình quân muôn dặm ruỗi

Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ

-         Xa nhìn trong cõi trời mây

Chị ơi, em thấy một cây liễu buồn

-         Bên rừng em hãy lặng nhìn theo

Có phải chăng em ngựa xuống đèo ?

Chị ngỡ như chàng lên tiếng gọi

Trên mình ngựa hí, lạc vang reo

-         Bên rừng ngọn gió rung cây

Chị ơi, con nhạn lạc bầy kêu sương

-         Tên chị ai gieo giữa gió chiều

Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu

Trên giòng sông lặng em nhìn thử

Có phải chăng người của chị yêu ?

-         Sóng chiều đùa chiếc thuyền nan

Chị ơi, con sáo gọi ngàn bên sông

Ôi kìa bên cõi trời Đông

Ngựa ai còn ruỗi dặm hồng xa xa

-         Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn

Phải chăng mình ngựa sắc hồng in

Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống

Chị sợ bên sông bóng ngựa chìm

-         Ngựa hồng đã đến bên hiên

Chị ơi, trên ngựa chiếc yên … vắng người

 

Sau đó tôi được biết dì Cúc có bà con với nhà văn Thanh Tịnh.  Dì Cúc bà con như thế nào với nhà văn Thanh Tịnh, tôi không biết.  Tôi chỉ biết Hoa gọi nhà văn Thanh Tịnh : Ông Tịnh. 

 

Ngày xưa, tôi thường thắc mắc :  Có phải ông Thanh Tịnh tả lại ngày Khai Trường thửa nhỏ của chính bản thân ông ở Huế hay không ?  Tôi thắc mắc vì tháng chín ở Huế trời vẫn còn nóng thì làm chi có một buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh.  Sau này tôi học ở Huế, tôi đi khắp vùng Vỹ Dạ, Tây Thượng, Dưỡng Mông, Chợ Dinh, Bãi Dâu cho tới Chợ Nọ Dương Nỗ, tôi không tìm ra trường nào tên là Mỹ Lý ở làng Hoà An. Sau đó tôi được biết Mỹ Lý chỉ là một trường tưởng tượng, không có thật.  Nhà văn Thanh Tịnh đã lấy tên cúng cơm của người con gái đầu đặt tên trường.

(còn tiếp)

 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 24/May/2010 lúc 6:38am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 24/May/2010 lúc 6:45am

 TRỌC SĨ

NĂM NHẬP MÔN
(2)
 

Sáng nay, cả phòng tôi đều dậy sớm để sửa soạn đi học.  Chúng tôi từng tốp từ đỉnh đồi Lữ Quán Thanh Niên đổ xuống đường Võ Tánh.  Trên đường Võ Tánh từng tốp người đang thong thả đi đến Viện Đại Học.  Ngày khai trường hôm nay của tôi đẹp hơn hẳn ngày khai trường của ông Thanh Tịnh.  Trời lành lạnh không phải vì gió mà vì trời cho Đà Lạt cái lạnh thật thú vị.  Không có sương thu mà có nắng thu. Không có mây bàng bạc mà có bầu trời xanh màu ngọc bích.  Không có con đường làng dài và hẹp mà có con đường nhựa không lớn chỉ đủ cho hai chiếc xe hơi du lịch tránh nhau.  Không có những cô bé, cậu bé bỡ ngỡ thẹn thùng trong bộ quần áo mới nép bên cạnh mẹ cha mà có những nam thanh, nữ tú ăn mặc chỉnh tề chững chạc.  Con đường Võ Tánh rực sáng.  Đủ màu sắc xanh, vàng, tím, đỏ, đen, xám của những  áo len, áo manteau, áo pardessus, áo vét, khăn quàng cổ.  Không có tiếng khóc thút thít mà có những tiếng cười, tiếng nói, tiếng chào, tiếng hỏi.  Một anh chàng và một cô làm mọi người chú ý.  Anh chàng làm mọi người chú ý không phải vì anh ta phúc hậu, đẹp trai, ăn mặc bảnh bao trong bộ vét kiểu Kennedy.   Mọi người chú ý anh ta vì mặt anh ta như thoa một lớp phấn hồng, tay anh ta cầm một cây dù đen cán dài.  Anh ta đứng cạnh một cô tóc xõa ngang vai, mặc áo len tím, khăn quàng cổ màu xanh lá mạ.  Hai anh chị giống như hai tài tử đóng phim.  Tôi bỗng nghe giọng Huế chay :

-         Hai mệ chưa đi còn chờ ai rứa ?

-         Còn sớm, đi chi vội

-         Không đi sớm thì làm răng tìm ra chỗ ngồi.  Cả ngàn người ghi danh.

-         Ngày đầu mà lo chi.  Học cả năm chứ mô có phải học một ngày.

Đúng là tác phong an nhàn của con vua, cháu chúa.

 

Trước cổng viện, năm chiếc xe Lam đang đổ sinh viên xuống.   Trong viện người đông như đi chẩy hội.  Tiếng cười nói, tiếng gọi nhau đủ giọng Bắc, Nam, Trung.  Đi qua cổng viện, tôi nghe một anh nói :

-     Cha Viện Trưởng.

Nghe anh nói, nhiều người đưa mắt nhìn về phía cửa văn phòng Viện.  Một vị linh mục mặc áo chùng đen đang nói chuyện với bốn sinh viên.  Nhìn cha Viện Trưởng về tổng quát, cha là người phúc hậu.  Thân hình cha to, cao và đường bệ uy nghi. Về chi tiết thì cha có ba điểm đập vô mắt tôi lúc đó :  Trên khuôn mặt chữ điền hồng hào có vầng trán cao, đôi mắt sáng sau cập kính trắng, nụ cười tươi và đôn hậu. Điểm thứ hai là cái bụng to và tròn giống như bụng bao dung của ông Địa.  Điểm thứ ba là cha cầm một điếu thuốc lá màu đen to và dài hơn những điếu Paul Mall, Salem nhưng không phải là điếu xì gà.

 

Tôi theo dòng người đi đến nơi làm lễ khai giảng.  Tôi đứng trước giảng đường.  Trên hành lang, nhiều sinh viên đi qua lại vì trong giảng đường đã chật cứng đến nỗi nhiều sinh viên ngồi trên thành cửa sổ.  Giảng đường không có bảng tên.  Tôi nghe một anh sinh viên ở trong Đại Học Xá nói như là người am hiểu nhiều về trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp:

-         Đây là lầu III, không phải giảng đường.  Có năm lầu.  Lầu I , II, IV, V dành cho sinh viên nội trú.  Lầu III là lầu dùng cho việc hội họp sinh hoạt vui chơi của sinh viên đại học xá,  hôm nay được dùng tạm cho ngày khai giảng.  Giảng đường dành cho trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp là Giảng đường Thụ Nhân đang được sửa chữa.  Một tháng nữa mới xong.  Đông sinh viên như thế này thì phải học tạm ở giảng đường Spellman hoặc lầu III cho đến khi giảng đường Thụ Nhân sửa xong.

Nghe anh bạn nói, tôi nghĩ một là nhà trường vội vàng trong việc mở trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp, hai là nhà trường không ước lượng được số lượng sinh viên ghi danh quá đông đảo.  Buổi khai giảng không được chuẩn bị chu đáo.  Tôi không nhận được một chỉ dẫn hay một thông tin, học trình gì về trường và viện Đại Học Đà Lạt.

 

Không vô được bên trong giảng đường, tôi phải đứng ngoài hành lang. Tôi nhìn vô giảng đường qua vai những người ngồi trên cửa sổ.  Tôi chỉ nhìn được mặt của cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập.  Ngài đang nói.  Ngài nói, tôi nghe câu được, câu không vì quanh tôi nhiều người nói chuyện.  Thỉnh thoảng tôi nghe những tràng pháo tay và những tràng cười tán thưởng của sinh viên trong hội trường.  Tôi loáng thoáng nghe cha Lập nói về hai chữ Thụ Nhân và kế hoạch trồng người.  Tôi nghe ngài nói đến chữ Thụ Nhân ít nhất là ba lần.  Tôi thấy một chỗ trống trên cửa sổ.  Tôi vội vàng điền vô chỗ trống của một anh bạn vừa tìm được một chỗ trong giảng đường.  Bốn người chúng tôi ngồi trên cửa sổ, chân thòng vô trong giảng đường.  Trong phòng chật cứng người, những cửa sổ cũng chen chúc người ngồi, ngoài hành lang nhiều người đứng nhìn vô phòng.  Một ngày khai giảng hiếm có. Bây giờ tôi mới nghe rõ những lời cha Lập nói,  đúng lúc ngài nói lời kết luận. Ngài nói :  “ … Thụ Nhân là tôn chỉ của Viện Đại Học Đà Lạt .  Cha nhắc lại Thụ Nhân là tinh thần và lý tưởng của Viện Đại Học Đà Lạt nghĩa là của tất cả anh chị sinh viên viện Đại Học Đà Lạt gồm Văn Khoa, Khoa Học, Sư Phạm, Thần Học không phải của riêng trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp.  Thụ Nhân nghĩa là Trồng Người .  Làm kế hoạch cho trăm năm, nghĩa là cho tương lai, thì không gì bằng trồng người .  Vì thế cha muốn nói lên cho sinh viên một mục tiêu cuộc sống của mình là phải làm cho mình có một tư cách để sau này trở nên cây cổ thụ giúp ích cho đời, cả về phương diện học thức, cả về phương diện đạo đức, cả về phương diện thể chất ..”

 Phỏng theo bài viết Truyền Thống Thụ Nhân của giáo sư Trần Thanh Hiệp trong Đặc San Tưởng Niệm của cựu Sinh Viện Viện Đại Học Đà Lạt

 

Cha Viện Trưởng dứt lời.  Cha Viện Trưởng giới thiệu giáo sư Vũ Quốc Thúc .  Hội trường bừng dậy những tràng vỗ tay nồng nhiệt để chào mừng một nhà kinh tế, một giáo sư kinh tế nổi tiếng.  Giáo sư Vũ Quốc Thúc nói :  “… Nhiều người thường ngộ nhận cho rằng một chuyên viên về kinh tế thường chỉ chú trọng đến những vấn đề rất thực tế liên quan đến quản trị xí nghiệp, kinh doanh, đầu cơ, đầu tư .. vân vân..  Đó là một sự ngộ nhận.  Kinh tế học ngay từ lúc nghành học này mới khai sinh vào thế kỷ mười bẩy ở Âu Châu đã mang nặng tính cách chính trị học.  Tên gọi đầu tiên của ngành học được gọi là Economy Politics tức là Kinh Tế Chính Trị Học chứ không dùng riêng chữ Kinh Tế.  Trong chương trình năm Cao Học của môn Kinh Tế Chính Trị Học năm 1948 và ngày nay vẫn còn áp dụng có hai môn chủ chốt.  Một môn là Lịch Sử Các Học Thuật Kinh Tế.  Sau này được nới rộng ra thành môn Lịch Sử Tư Tưởng Kinh Tế.  Môn học chủ chốt thứ hai là Lịch Sử Các Sự Kiện Kinh Tế.  Điều đó nói lên sự liên lạc mật thiết giữa sinh hoạt kinh tế với chính trị trong một quốc gia và liên lạc rất mật thiết giữa chính sách quốc gia với lịch sử …“.

        Trích trong bài phỏng vấn giáo sư Vũ Quốc Thúc của đài RFI

 

Giáo sư Vũ Quốc Thúc nói về môn học  Kinh Tế Chính Trị Học tại các đại học danh tiếng của Pháp.  Sau đó giáo sư Vũ Quốc Thúc nói về sự chậm trễ của ngành học này tại nước ta.  Bây giờ chúng ta mới có một đại học dạy khoa Kinh Tế Chính Trị.  Trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp của Viện Đại Học Đà Lạt là trường đầu tiên dạy môn Kinh Tế Chính Trị tại nước ta.   Giáo sư kết luận :  Một kinh tế gia, một nhà quản trị xí nghiệp cần phải hiểu biết về chính trị .  Một chính trị gia cũng cần phải hiểu biết về kinh tế và quản trị .  Kinh tế và chính trị là hai lãnh vực liên lạc mật thiết với nhau.  Môn học mới và cần thiết cho đất nước ta vì vậy môn học này sẽ mở ra tương lai tốt đẹp cho sinh viên theo học.  Giáo sư Vũ Quốc Thúc đã gây sự phấn khởi và tin tưởng cho chúng tôi.

 

Nghỉ giải lao, mọi người tụ họp thành nhóm ba người,bốn, năm người, có nhóm đông đến hơn mười người.  Tiếng cười, tiếng nói ồn ào như vỡ chợ.  Tôi đi tới nhiều nhóm để hóng chuyện và tìm người quen.  Tôi ngạc nhiên,  mọi người quen nhau nhanh như vậy. Phần đông họ không biết nhau từ trước.  Đến hóng chuyện tại nhiều nhóm, tôi được biết, tôi không phải là người nhỏ tuổi nhất và mới lên đại học lần đầu.  Có rất nhiều bạn nhỏ tuổi hơn tôi và bước vô ngưỡng cửa đại học lần đầu như tôi.  Tôi được một anh bạn chỉ cho tôi người nhỏ tuổi nhất trường.  Anh ta sinh năm 1947.  Vừng trán rộng, mắt sáng tinh anh, cử chỉ chững chạc, anh ta toát ra của người tuổi trẻ tài cao.  Tôi đoán, anh học nhẩy ít nhất một lần hay hai lần.  Sinh năm 1947, anh ta đậu tú tài hai lúc mới mười bảy tuổi.  Anh ta như già trước tuổi.  Tôi nghe một anh bạn nói: ”Học quá thì già sớm, vừa học vừa chơi như mỏa, sinh năm bốn mươi lăm mà vẫn trẻ hơn nó “.

 

Tôi được nói chuyện với hai sinh viên từ Lào đến học.  Hai anh đều là người Việt Nam sinh sống ở Vạn Tượng lâu năm.  Một anh đã nhập quốc tịch Lào có tên Lào là Nathavong, một anh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam tên là Lê Nhung .  Anh Lê Nhung kể với tôi rằng :” Anh và Nguyễn Minh Khôi, người có tên Lào là Nathavong, là bạn học cùng lớp. Cả hai vừa đậu tú tài hai.  Mộng của  hai anh là phải đạt được mảnh bằng đại học, ít nhất là bằng cử nhân.  Vạn Tượng chưa có Viện Đại Học.  Cả hai đều có mộng đi du học Pháp.  Lê Nhung xin học bổng đi Pháp không được vì không có quốc tịch Lào.  Nathavong bị bác đơn xin du học Pháp.  Một hôm Nathavong đến gặp Nhung.  Nathavong nói:

-         Tao đến để từ giã mày.  Mai tao về Việt Nam.  Tao được học bổng sang Việt Nam du học.

-         Mày về Việt Nam học nghành gì ?

-         Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp, Viện Đại Học Đà Lạt.  Một nghành học mới ở Việt Nam.

Nghe nói đến Đà Lạt,  mắt Lê Nhung rực sáng. Nhung nhớ lại một chuyến đi nghỉ mát tại Đà Lạt hai năm trước trong dịp về thăm quê nhà.  Học tại Đà Lạt có khi Nhung gặp lại cô bé Thùy Linh xinh xắn, nữ sinh trường Yersin.  Nhung nói với Nathavong:

-         Mày dời lại ngày đi được không ?

-         Mày muốn học như tao ?

-        

-         Thế thì được

 

Nhung và Nathavong vội vàng đi vô tòa Đại Sứ Việt Nam để nhờ bác Hùng đánh điện tín về Viện Đại Học Đà Lạt xin ghi danh Văn Khoa Pháp và năm I Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp  cho Nhung.  Cùng ngày hôm đó, Nhung đến sở xin nghỉ việc.  Nhung là một thanh niên lịch lãm, xoay trở cuộc đời dễ như trở bàn tay.  Mới học lớp đệ tam, Nhung đã làm nghề thông dịch cho một công ty Mỹ và dạy toán cho một trường trung học.  Tôi thầm phục anh chàng Lê Nhung, tuổi trẻ tài cao, chí lớn.

 

Trường tôi không phải chỉ có hai sinh viên du học mà ba sinh viên du học.  Anh thứ ba, tôi không được gặp.  Tôi chỉ nghe một anh bạn kể lại.  Anh sinh viên du học này đến từ Nam Vang.  Ba sinh viên đều là người Việt Nam nhưng sinh sống ở Lào và Campuchia.

 

Một  nhóm năm sáu sinh viên làm tôi chú ý vì sự kín đáo và trầm lặng. Nhóm này không nói năng cười đùa to và thoải mái như các nhóm khác.  Nét mặt và họ tên của những sinh viên này như Thạch, Tiền, Ngụy, Tiêu … cho tôi biết các anh sinh viên này là người Việt gốc Hoa .  Một anh sinh viên trong nhóm này đã cùng gia đình trốn thoát Trung Hoa Lục Địa năm 1949. Gia đình anh đến được Hương Cảng sau nhiều tháng chạy trốn quân Cộng Sản Trung Quốc đầy cam go, gian nan và nguy hiểm.  Sau đó gia đình anh đến cư ngụ tại Chợ Lớn.  Anh học trường Tabert.  Anh ta nói tiếng Việt trôi chẩy không thua gì tôi.

 

Điều làm tôi ngạc nhiên.  Đà Lạt là phần đất của Cao Nguyên Trung Phần.  Cao Nguyên Trung Phần là núi rừng của đồng bào Thượng.  Vậy mà trong số hơn một ngàn sinh viên ghi danh không có đến một người Thượng.

 

Sau giờ ra chơi, giáo sư Trần Long, giám đốc học vụ, nói về chương trình học bốn năm phỏng theo chương trình của đại học Harvard, Hoa Kỳ.  Bốn năm đó là Nhập Môn, Khái Luận, Nhiệm Ý, Sưu Khảo.  Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân, sinh viên sẽ được tiếp tục học ban Cao Học trong hai năm.  Giáo sư Trần Long nhấn mạnh đến phương pháp giảng dạy thiên về thực hành của các phân khoa Thương Mại Viện Đại Học Harvard  hơn là giảng dạy từ chương của nền giáo dục hiện tại của ta .  Sinh viên sẽ được phân thành các toán thảo luận.  Toán thảo luận đi đến các nông trại, các xí nghiệp, các cơ quan để học hỏi, phỏng vấn và thảo luận.  Sinh viên cũng được gửi vào làm việc tại các xí nghiệp, công sở để thực tập và học hỏi kinh nghiệm.  Nhà trường sẽ mời các nhà quản trị, kinh tế gia, chính trị gia đến viện diễn thuyết thảo luận.  Về phương diện đời sống của sinh viên, ban lãnh đạoViện hiểu rõ rằng đa số sinh viên là những người ở địa phương khác tới Đà Lạt. Viện cố gắng chăm lo tinh thần và vật chất cho sinh viên như tạo thêm nhiều chỗ ở trong Đại Học Xá, cấp học bổng cho sinh viên nghèo … “. 

 

Sau buổi lễ khai trường, tôi đi lang thang qua các lầu của Đại Học Xá.  Đại Học Xá gồm bốn lầu.  Gọi là lầu, nhưng không có lầu hai, ba tầng mà chỉ là những dẫy nhà trệt.  Đại học xá thật khang trang.  Phòng rộng hơn phòng tôi đang ở tại Lữ Quán Thanh Niên.  Mỗi sinh viên nội trú có giường, có bàn học,  trả tiền thuê hàng tháng bằng nửa chúng tôi trả cho Lữ Quán Thanh Niên.  Chỗ ở của sinh viên nội trú chỉ cách  giảng đường Spellman năm phút đi bộ.  Các cụ xưa nói trâu chậm uống nước đục thật đúng.  Năm sau tôi phải xin vô đại học xá sớm.

 

Tôi đang lưỡng lự chưa biết nên đi về Lữ Quán Thanh Niên hay đi một vòng quanh viện, một anh lớn hơn tôi khoảng sáu tuổi nói với tôi :

-         Tớ tên Phong họ Tạ.  Cậu ra phố, tớ chở ra.

-         Tôi tên Thanh.  Tôi muốn đi một vòng quanh viện nhưng đang lưỡng lự vì không có bản đồ viện.

-         Viện mình nhỏ tí tẹo, cần gì bản đồ.  Cậu mới tới Đà Lạt lần đầu phải không ?  Để tớ dẫn cậu đi quanh viện.  Viện mình tuy nhỏ nhưng có rất nhiều cái độc đáo cậu cần biết.

 

Chúng tôi đi đến giảng đường Thụ Nhân đang được sửa chữa.  Sửa chữa xong giảng đường này chứa được năm, sáu trăm sinh viên.  Anh Phong nói :

-         Cậu đã nghe cha viện trưởng nói về ý nghĩa của chữ Thụ Nhân.  Từ nay Thụ Nhân là danh hiệu của Viện Đại Học Đà Lạt.  Theo tớ, hoàn thành xong việc sửa chữa giảng đường Thụ Nhân, nhà trường nên gắn trên tường của giảng đường Thụ Nhân một bảng bằng đồng khắc bài thơ :  

Quyền Tu

Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc,

Thập niên chi kế mạc như thụ mộc,

Chung thân chi kế mạc như thụ nhân.

Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã,

Nhất thụ thập hoạch giả, mộc dã,

Nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã.

                                      Quản Tử quyển IV

 

Quyền Bính và Sửa Đổi

Kế một năm không gì bằng trồng lúa,

Kế mười năm không gì bằng trồng cây,

Kế trọn đời không gì bằng trồng người.

Trồng một gặt được một là lúa,

Trồng một gặt được mười là cây,

Trồng một gặt được trăm là người.

Trần Văn Lương,  Đặc San Tưởng Niệm của Cựu Sinh                                        Viên Viện Đại Học Đà Lạt

 

-         Anh thông thạo văn thơ chữ Hán.  Phục anh sát đất.

-         Cậu nói sai rồi.  Tớ rộng háng chứ không phải Hán rộng.  Thú thật với cậu, tớ có biết gì về văn thơ chữ Hán.  Anh bạn Giao, sinh viên Văn Khoa, dẫn tớ đi khắp viện và giảng giải cho tớ cái hay đẹp và độc đáo trong việc đặt tên cho các giảng đường của viện mình mà các viện đại học khác không có.  Tớ chỉ có ý kiến là viện mình nên gắn những bảng đồng khắc chữ Hán, và chữ Việt trên các giảng đường để cho sinh viên hiểu rõ ý nghĩa tên của các phòng  học, các giảng đường.

 

Chúng tôi đi lên con đường dốc để đến nhà nguyện có tên là Năng Tĩnh.  Nhà  Nguyện có tháp cao khoảng  50 mét hình tam giác.  Đỉnh tháp là một cây thánh giá.  Anh Phong nói :

-         Năng Tĩnh có nghĩa là Có Thể Tĩnh Lặng.  Một phép tu dưỡng của nhà Nho được mô tả trong sách Đại Học như sau : Tri Chỉ Nhi Hậu Hữu Định, Định Nhi Hậu Năng Tĩnh, Tĩnh Nhi Hậu Năng An, An Nhi Hậu Năng Lự, Lự Nhi Hậu Năng Đắc.  Có nghĩa là Biết chỗ đứng vững, tức là nơi Chí Thiện, rồi mới có thể định Chí Hướng.  Định rồi mới có thể Tĩnh Lặng.  Tĩnh rồi mới có thể Yên.  Yên rồi mới có thể suy nghĩ.  Suy nghĩ rồi mới có thể Đạt được.

Anh Phong dẫn tôi vô trong nhà nguyện.  Anh đưa tôi đến xem một tượng Đức Mẹ bằng thạch cao được đắp trên tường.  Bức tượng toát ra sự thanh thoát, sự tĩnh lặng như tên của nhà nguyện.

 

Rời nhà nguyện, chúng tôi đi trên con đường đất nhỏ chỉ vừa cho một xe du lịch.  Hai hai bên đường trồng thông .  Những cây thông còn non, cành thấp có thể với tay tới được.  Nắng vàng soi rõ con đường đất.  Con đường  đất thật êm đềm trong buổi sáng nắng ấm chan hòa.  Chúng tôi đi chậm để hưởng không khí trong lành và khung cảnh tĩnh lặng.  Chúng tôi đến giảng đường Khoa Học và Văn Khoa.  Đến các giảng đường, tôi được anh Phong giải thích tên của phòng học rất cặn kẽ .  Tại giảng đường Hội Hữu anh Phong nói :

-         Hội Hữu có nghĩa là Họp Bạn.  Trong Luận Ngữ, Nhan Uyên có ghi :  Tăng Tử, một môn đệ của Khổng Tử, có nói :  Quân tử dĩ văn hội hữu.  Có nghĩa là Quân tử nhờ văn học mà họp bạn.  Nhờ bạn giúp mình làm điều nhân.

 

Đến giảng đường Dị An, anh Phong giải thích :

-         Dị An là dễ ở.  Trong bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm có đoạn nói về chỗ ở ẩn nhỏ hẹp của mình như sau :  Thảm dung tất nhi dị an.  Có nghĩa là xét cái chỗ đó tuy nhỏ hẹp nhưng dễ yên hơn

 

Tại giảng đường – phòng thí nghiệm Minh Thành anh Phong giảng nghĩa:

-         Minh Thành có nghĩa là Quá trình giáo dục đi từ cái biết sáng tỏ đến lòng thành.  Tức là chỗ tột đỉnh của đạo đức.  Sách Trung Dung có câu :  Tự thành minh vị chi tính.  Tự minh thành chi vị giáo.  Thành tắc minh hỷ.  Minh tắc thành hỷ.  Có nghĩa là Tự lòng thành sáng tỏ gọi là tính.  Tự làm cho sáng tỏ lòng thành gọi là Giáo dục.  Có lòng thành mới sáng tỏ được

 

Đến giảng đường– phòng thí nghiệm Tri Nhất, anh Phong nói :

-         Tri Nhất có nghĩa là cái biết chỉ có một mà thôi.  Sách Trung Dung XX có câu :  Hoặc sinh nhi tri chi.  Hoặc học nhi tri. Hoặc khốn nhi tri. Cập kỳ tri nhất giả.  Có nghĩa là con người có kẻ sinh ra mà biết.  Có kẻ phải học mới biết.  Có kẻ phải khốn khổ khó nhọc mới biết.  Tuy nhiên cái biết chỉ có một mà thôi.

 

Tại phòng thí nghiệm Đạt Nhân, anh Phong giải nghĩa :

-         Đạt Nhân là đạt tới đức nhân tức là đạt tới tư cách hoàn toàn của con người.

 

Tới phòng học Cư Dị, anh Phong nói :

-         Cư Dị là cư xử bình dị, sống khiêm tốn không câu nệ.  Sách Trung Dung XIV mô tả lối sống của người quân tử như sau : Thượng Bất Oán Thiên, Hạ Bất Vưu Nhân, Cổ Quân Tử Cư Dị Dĩ Sĩ Mệnh, Tiểu Nhân Hành Hiểm Dĩ Kiểu Hành.  Trên không oán trời, dưới không trách người, nên người quân tử cư xử bình dị để đợi mệnh trời, còn kẻ tiểu nhân thì làm liều để cầu may.

 

Tại giảng đường Thượng Hiền, anh Phong nói :

-         Thượng Hiền nghĩa là quý trọng người hiền đức.  Đây là quan niệm chính trị của người xưa.

 

Tới giảng đường Thượng Chí, anh Phong giải thích :

-         Thượng Chí có nghĩa là đề cao cái chí hướng sống theo nhân nghĩa.  Sách Mạnh Tử kể rằng khi ông Điểm, con vua Tề hỏi :  Kẻ sĩ  làm gì ?.  Mạnh Tử trả lời :  Thượng Chí .  Ông giải thích :  Thượng Chí là nâng cao cái chí hướng.  Chẳng qua là làm điều nhân nghĩa đó thôi.  Giết một người vô tội là bất nhân.  Chẳng phải của mình mà dành lấy là phi nghĩa.  Kẻ sĩ ở nơi nào ?  Ở nơi đức nhân.  Kẻ sĩ đi đường nào ?  Ở nơi đức nhân.  Noi theo đức nghĩa, sự nghiệp của đại nhân như vậy là đã được

 

Rời phân khoa Khoa Học và Văn Khao chúng tôi đi ra văn phòng viện.  Trước văn phòng viện là một vườn hoa nhỏ xinh đẹp.  Văn phòng viện có tên là Đôn Hóa.  Anh Phong nói :

-         Đôn hóa có nghĩa là đôn đốc sự sinh hóa, phổ cập sự sinh hóa theo chiều tốt đẹp.  Sách Trung Dung mô tả Đạo Trời Đất như sau :  Muôn vật đều sinh sống mà không hại lẫn nhau.  Đức nhỏ như sông ngòi chảy khắp.  Đức lớn như đôn đốc sự sinh hóa.

 

 

 

Chúng tôi đi đến giảng đường Spellman.  Trên đường đi đến giảng đường Spellman, chúng tôi đi qua tòa viện trưởng .  Tòa viện trưởng là tòa nhà hai tầng.  Anh Phong nói :

-         Đây là nơi cha viện trưởng ở.  Cha dùng nơi này để tiếp đón khách và  dùng cơm với giáo sư thỉnh giảng từ các nơi đến.  Tòa viện trưởng có tên là Hòa Lạc.

 

Đang đi anh Phong bỗng chắp tay cúi chào vị  một vị linh mục :

-         Thưa cha.

Anh Phong nói với tôi :

-         Cha Ngô Duy Linh phó viện trưởng kiêm giám đốc Đại Học Xá

Hai con chó berger đen to lớn từ trong tòa viện trưởng chạy ra chồm lên người cha Linh mừng rỡ.  Cha Linh đùa với hai con chó.  Tiếng chuông nhà nguyện báo hiệu mười hai giờ.  Hai con chó berger đưa mõn lên trời tru theo tiếng chuông nhà nguyện.  Anh Phong nói :

-         Chó của cha viện, nhưng cha Linh săn sóc .  Cha Linh dậy cho chúng mỗi khi nghe chuông nhà nguyện là chúng tru theo.

Tiếng chuông nhà nguyện dứt, hai con chó cũng ngừng tru.

 

Đi đến ngang giảng đường Spellman, anh Phong nói :

-         Trước khi lên giảng đường Spellman, tớ chỉ cho cậu xem cái này.

Anh Phong chỉ cho tôi một hình tượng bằng đá.  Hình tượng ở khoảng giữa nhà cha Linh và giảng đường Spellman.  Hình tượng nằm trên triền đồi mà đỉnh đồi là giảng đường Spellman và chân đồi là nhà của cha Linh.   Vị trí hình tượng cao hơn mặt đường khoảng hai mét.  Anh Phong hỏi tôi :

-         Cậu có biết cái gì đấy không ?

-         Bánh xe Pháp Luân

-         Cậu là  Phật Tử…  Hình dạng một bên giống bánh xe, một bên giống ngọn đuốc nên trước đây tớ tưởng đó bánh xe thời gian và ngọn đuốc soi đường.  Sau này anh Thông, sinh viên Văn Khoa mới giảng cho tớ biết đây là bánh xe Pháp Luân.

-         Viện Đại Học Thiên Chúa Giáo sao lại trưng biểu tượng của Phật Giáo.

-         Bánh xe Pháp Luân này do sinh viên Sư Phạm Đại Học Huế tặng.  Bánh xe này nặng ba bốn trăm ký.  Đem từ Huế vào và đặt trên vị trí  sườn đồi là kỳ công.  Cậu lên mà xem, cậu sẽ thấy bên cạnh bánh xe có tấm bảng Sinh Viên Đại Học Sư Phạm Huế kính tặng Viện Đại Học Đà Lạt.

 

 

 

Chúng tôi trở lại giảng đường Spellman.  Chúng tôi bước lên hai mươi hai bậc cấp bằng đá để lên tới giảng đường Spellman.  Đứng trên mặt tiền của giảng đường Spellman nhìn xuống là đường nhựa chúng tôi vừa đi qua, dưới con đường là rừng thông trải dài theo sườn đồi.  Rừng thông xanh chạy dài đến tận chân đồi .  Tiếp nối là đồi Đa Thiện.  Giảng đường Spellman là giảng đường lớn và đẹp nhất của viện.   Trước giảng đường có tượng Đức Mẹ làm cho khung cảnh thiên nhiên ở đây vốn đã hiền hòa lại thêm nhân ái.  Tôi được nhìn thấy hai bức tượng Đức Mẹ :  Một ở nhà nguyện Năng Tĩnh, một ở trước giảng đường Thụ Nhân.  Hai tượng này khác hẳn với những bức tượng Đức Mẹ tôi thường thấy ở các nhà thờ hay các bức tranh : Đức Mẹ bồng chúa Hài Đồng,  quanh đầu của Đức Mẹ là những vòng hào quang.   Hai bức tượng Đức Mẹ của viện nhỏ nhắn, không bế chúa Hài Đồng, không vòng hào quang.  Đức Mẹ có vóc dáng thanh tao của một nữ sinh, một nữ sinh viên hay một nữ tu còn rất trẻ.  Hai bức tượng tỏa ra một sự trong sáng , nhẹ nhàng thanh thoát, giản dị.

 

 

 

Anh Phong dẫn tôi vô trong giảng đường Spellman.  Giảng đường có một sân khấu và những hàng ghế xếp ngay ngắn.  Anh Phong nói:

-         Spellman là tên một vị hồng y người Mỹ.  Năm 1939 ngài được Đức Thánh Cha Piô XII tấn phong là Tổng Giám Mục Địa Phận Nữu Ước.  Đến năm 1940 ngài làm Tổng Tuyên Úy Quân Đội Hoa Kỳ.  Ngài đến Việt Nam vào đầu năm 1955.  Ngày mùng bẩy tháng một, ngài cử hành thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị. 

-         Xin anh cho tôi biết tại sao viện mình dùng tên ngài đặt tên cho giảng đường đẹp và lớn nhất của viện.

-         Đức Hồng Y Spellman là chiếc chìa khóa mở cửa cho ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh. Ngài cũng chính là Con Tầu Vượt Biên cho gần một triệu đồng bào di cư vào miền Nam năm 1954.  Riêng đối với viện Đại Học Đà Lạt, ngài được ví như Chiếc Đũa Thần của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong sứ mạng thực thi kế hoạch Phục Hưng Đất Nước.  Đó là nguyên nhân tại sao Hội Đại Học Đà Lạt được thành lập sau cuộc vận động mua lại công sản Quốc Gia.  Rồi Viện Đại Học Đà Lạt được khai sinh ngày tám tháng tám năm 1957.

-         Tại sao nhà trường không làm lễ khai giảng tại giảng đường Spellman là giảng đường đẹp nhất .

-         Theo tớ.  Không chọn giảng đường Thụ Nhân hay giảng đường Spellman cho ngày khai giảng là vì giảng đường Thụ Nhân đang sửa chữa, giảng đường Spellman không đủ sức chứa.  Cậu thấy tất cả các hàng ghế đã được gắn chặt vào sàn nhà, không thể xếp thêm ghế.  Giảng đường Spellman chỉ có sức chứa tối đa hơn ba trăm.   Lầu III xếp ghế sát nhau chứa được gần sáu trăm, vậy mà nhiều người còn phải đứng ngoài hành lang.  Theo tớ đó là lý do tại sao không khai giảng tại Spellman.

 

 

Chúng tôi đi đến chiếc cầu gỗ sơn đỏ.  Chiếc cầu bắc qua suối giả không có nước, chỉ có những viên đá sỏi lớn.  Anh Phong nói :

-         Hôm nay, cậu đi như vậy coi như là đầy đủ.  Đại học xá nam lúc nãy cậu đi qua có tên là Dương Thiện.  Còn đại học xá nữ ở sát trung tâm thị xã có tên là Kiêm Ái.

-         Dương Thiện có nghĩa là gì anh Phong ?

-         Dương Thiện là trưng ra cái tốt.  Sách Trung Dung VI có ghi lại lời tán dương vua Thuấn của Khổng Tử.  Ông ca tụng vua Thuấn đã biết dấu cái xấu của người khác và khoe cái tốt của người khác.  Kiêm Ái là yêu thương mọi người. Kiêm Ái là chữ của Mặc Tử, một nhà hiền triết đời Xuân Thu.  Ông chủ trương thương yêu mọi người như nhau, không phân biệt thân hay sơ.

-         Nhờ anh hôm nay tôi mới biết cái hay cái độc đáo của viện mình.  Khung cảnh viện vừa xinh đẹp, vừa hiền hòa, vừa trí thức và cái quí báu nhất là viện mình toát ra tinh thần dân tộc và đạo đức cổ truyền của dân tộc ta … Tôi cám ơn anh rất nhiều.  Bây giờ đã gần một giờ, tôi mời anh ra phố ăn cơm.

-         Hẹn cậu dịp khác.  Tớ phải đem xe về trả cho người bạn.

 

Một điều tôi định nói với anh Phong nhưng tôi không dám nói.  Tất cả tên giảng đường đều lấy từ sách vở của Trung Hoa trừ giảng đường Spellman.  Mặc dầu văn hóa và đạo đức của nước ta rập khuôn Trung Hoa, nhưng chúng ta vẫn tự hào đất nước ta có bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta cũng có nhiều nhà văn hóa và giáo dục lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quí Đôn, Nguyễn Thiệp, Nguyễn Du, Chu Văn An …  Lựa một danh từ lấy từ kho tàng văn hóa Việt Nam để đặt tên cho một giảng đường, tôi nghĩ cũng không khó.  Chẳng hạn có thể đặt tên cho giảng đường là Đại Nghĩa .  Giảng theo cách giải thích của anh Phong thì  Đại Nghĩa là nghĩa lớn.  Trong bài Bình Ngô Đại Cáo của cụ Nguyễn Trãi có câu “đem Đại Nghĩa để thắng Hung Tàn, lấy Chí Nhân để thay Cường Bạo”.   Cũng có thể thay tên giảng đường Đạt Nhân thành giảng đường Thành Nhân nghĩa cũng gần giống như nhau.  Thành nhân lấy trong câu nói của chí sĩ Nguyễn Thái Học :  Không thành công thì thành nhân.  Viện Đại Học Đà Lạt là viện đại học Thiên Chúa Giáo có thể lấy chữ Thiện Tâm để đặt tên giảng đường.  Thiện tâm lấy trong câu tôi thường thấy trên tường của nhiều nhà thờ : “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời,  Bình an dưới thế cho người Thiện Tâm.”  Tôi nghĩ như thế mới thể hiện đầy đủ văn hóa đạo đức của một viện đại học Thiên Chúa Giáo trong nền văn hóa dân tộc của Việt Nam. 

Những lời giải thích về tên của nhà nguyện, giảng đường được trích hoặc phỏng theo trong bài Lịch Sử Viện Đại Học Đà Lạt của anh Tạ Duy Phong, cố sinh viên CTKD khóa I.  Anh Phong có một TRÁI TIM ĐÀ LẠT.  Cầu mong cho linh hồn anh Phong tới được nơi anh muốn tới, sống thanh thản và hạnh phúc như những tháng năm anh sống tại thành phố Đà Lạt .

 

Ngày khai giảng hôm nay, tôi gặp nhiều bạn nhỏ tuổi hơn tôi, tôi gặp những anh lớn tuổi hơn tôi.  Phần lớn họ đều chững chạc, kiến thức rộng.  Điều này khiến tôi vừa hy vọng vừa đầy lo lắng. Tôi tự hỏi, không biết tương lai mình sẽ về đâu ? không biết trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp có giúp được tôi kiếm được công việc tốt trong tương lai ?  Tôi nhớ ba mạ tôi.  Tôi nhớ Hoa.

 

(còn tiếp)



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/May/2010 lúc 7:34pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/May/2010 lúc 7:20pm
 
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(3)
 

 

Chủ Nhật kế tiếp, tôi đến nhà bác Chánh. Trả lời câu hỏi tại sao không đến nhà bác ở, tôi nói:

-         Cháu ở Lữ Quán Thanh Niên, gần trường, tiện cho cháu trong việc đi học.  Năm sau, cháu xin vô ở trong Đại Học Xá.

-         Như vậy, cũng tốt cho cháu. 

Trong bữa ăn trưa, bác Chánh nói :

-         Cháu cần chi thì cứ nói cho bác biết.  Giúp được cháu thì bác sẵn lòng.  Ba cháu với bác là bạn thân.  Cháu đừng ngại.

-         Cháu muốn có một việc làm thêm để nhẹ bớt gánh nặng cho ba mạ cháu.

-         Để bác xem có ai cần thầy dạy kèm bác sẽ giới thiệu.  Cháu dạy toán được không ?

-         Cháu đậu tú tài toán hạng bình.  Cháu dạy toán từ lớp đệ tứ trở xuống được.

-         Ông hiệu trưởng trường trung học tư thục Hùng Vương là bạn thân bác.  Chiều nay hai bác cháu đi đến nhà ông ta xem sao?

Buổi chiều, bác Chánh dẫn tôi đến nhà ông Chữ hiệu trưởng trường Hùng Vương.  Bác Chánh giới thiệu tôi với ông Chữ và nhập đề ngay:

-         Anh có thể giúp cháu tôi một việc gì trong trường của anh không?

-         Đây là trường học nên chỉ cần thầy dạy học.

-         Anh có giờ dạy cho cháu không ?

-         Hiện giờ tôi cần một thầy dạy toán cho hai lớp đệ ngũ và hai lớp đệ tứ.  Anh Khánh giáo sư toán dạy năm trước, không dạy nữa.   Tôi đang phải dạy tạm mấy lớp này nên bận quá.

-          Dạy toán lớp đệ tứ và đệ ngũ, tôi dạy được.  Tôi đã dậy kèm toán một thời gian cho các em lớp đệ tứ và đệ tam.

Thực ra vì muốn có một việc làm và nghĩ mình có khả năng dạy toán các lớp ngũ, tứ và tam nên tôi đã nói dối.  Tôi chưa bao giờ dạy kèm các lớp đệ tứ và đệ tam.  Tôi chỉ dạy kèm cho Tuấn và Kiệt trình độ tiểu học. 

 

Ông Chữ hỏi về gia đình tôi, việc học hành của tôi, tôi học và làm bài tập của những quyển sách toán nào, học toán với những thầy nào.  Tôi trình bày về  phương pháp dạy toán của những thầy cũ thời trung học của tôi như thầy Tăng, thầy Lưu và thầy Tấn .  Tôi  nói về phương pháp dạy toán của thầy Tấn là đồng tác giả quyển toán Đinh Qui, Bùi Tấn, Lê Nguyên Diệm và về những quyển toán tôi dùng để làm bài tập.  Tôi nhấn mạnh rằng tôi đã giải được hết các bài toán trong quyển toán của Brachet và LeBouchet mà tôi không cần dùng đến quyển tự điển danh từ khoa học của cụ Hoàng Xuân Hãn.  Sau đó tôi nói:

-         Tôi rất vui mừng nếu ông cho tôi thử dạy một lớp trong một tuần

-         Tôi giao cho anh dạy thử một lớp đệ tứ.  Buổi dạy đầu tiên là sáng thứ ba tuần sau, từ tám giờ sáng đến mười giờ.

Ông Chữ đưa cho tôi quyển sách giáo khoa toán lớp đệ tứ của giáo sư Nguyễn văn Phú. Tôi nói:

-         Ông có thể cho tôi xem những bài tập của các em để tôi có khái niệm tổng quát về trình độ của các em.  Tôi cũng cần sơ đồ của lớp học để tiện theo dõi các em.

-         Tôi sẽ giao cho cậu xấp bài tập của các em làm trong tuần trước.  Cậu đem về chấm rồì giảng vào thứ ba.  Còn sơ đồ của lớp thì tôi không làm.

Tôi ra về, lòng vừa mừng vừa lo.

 

Tối hôm đó tôi chấm bài làm của các em.  Tôi an tâm vì trình độ của lớp thấp hơn so với lớp đệ tứ của tôi tại trường Phan Châu Trinh.  Bài tập ông Chữ  ra không khó, vậy mà có đến một nửa lớp được chấm dưới trung bình.  Người điểm cao nhất làm bài cũng không hoàn chỉnh.  Hầu hết cách trình bày không gọn, rõ, và đẹp.  Chẳng hạn để các dấu bằng không thành một hàng, nhìn vô bài làm như răng cưa chỗ ra chỗ vô không ngay hàng thẳng lối.  Thầy Tăng, giáo sư toán tại trường Phan Châu Trinh, rất nghiêm khắc trong việc trình bày bài toán.  Các bài làm mà dấu bằng không thẳng hàng bị thầy chấm điểm không.  Bài toán hình học này tôi giải bằng bốn cách khác nhau.

 

Bước ra khỏi lớp sau hai giờ dạy đầu tiên, tôi thấy tự tin vì trong hai giờ tôi đã tạo ra được những tràng cười bằng những câu truyện vui.  Sáu học sinh đã đặt câu hỏi và tất cả lớp đã đồng thanh đáp :”Dạ hiểu”.  Hai giờ dạy tiếp theo vào buổi sáng thứ năm, tôi thuộc hết tên và chỗ ngồi của học trò trong lớp nhờ tôi có hai buổi tối học thuộc sơ đồ lớp học mà tôi lập trong hai giờ đầu tiên.  Tôi đưa được tất cả học sinh vô nề nếp về việc trình bày một bài toán.  Tôi lập được tổ học tập cho lớp học.  Tôi ra nhiều bài tập để về nhà làm. Tôi bắt chước thầy Bùi Tấn, tôi không chia ra giờ hình học, lượng giác hay đại số.  Giờ toán nào,  học trò cũng phải mang đủ sách vở của ba môn hính học, đại số và lượng giác.  Cuối giờ học tôi nói:

-         Tôi không biết có được gặp lại các trò không?  Nếu được gặp lại các trò, tôi mong rằng chúng ta sẽ hợp tác tốt với nhau trong việc học.  Nếu không được gặp lại các trò, tôi xin chúc các trò gặt hái được kết quả tốt trong việc học tập.

Cả lớp xôn xao:

-         Vì sao thầy không dạy chúng em. 

-         Thầy dạy rất hay, dễ hiểu và vui hơn thầy Chữ.

Tôi nói:

-         Thầy rất muốn được dạy các trò, nhưng còn tùy quyết định của thầy Hiệu Trưởng.

Tôi đi nhanh ra khỏi lớp.  Tôi vô văn phòng để gặp ông Chữ.  Ông Chữ vỗ vai tôi:

-         Học trò chịu cậu lắm.  Cậu giúp tôi dạy hai lớp đệ ngũ và hai lớp đệ tứ. Tổng cộng cậu dạy 16 giờ một tuần.  Về lương bổng, nhà trường trả bốn mươi đồng một giờ.  Lương sẽ được phát vào sáng thứ sáu hàng tuần. Cậu đồng ý chứ ?

-         Tôi xin cám ơn sự giúp đỡ của ông Hiệu Trưởng.  Tôi nghĩ mình rất may mắn. 

-         Đây là tiền lương tuần này.  Bây giờ tôi bàn giao việc giảng dạy cho cậu.

 

Những tháng đầu tiên tại Đà Lạt thật hạnh phúc.  Buổi sáng đi học hay đi dạy, đi qua cây Mimosa lớn ngay trước cửa phòng.  Cây Mimosa không lá có hàng ngàn bông hoa vàng nhỏ xíu xinh đẹp.  Tôi thường đứng nói chuyện với cây Mimosa.  Tôi hỏi :

-         Mi từ đâu tới?  Ai đặt tên mi là Mimosa?  Mimosa nghĩa là gì ?

 Mimosa trả lời tôi:

-         Con người từ đâu tới?  Ai đặt tên cho Đào, Lan, Huệ, Cúc ?  Đào, Lan, Huệ, Cúc nghĩa là gì ?  Anh biết không ?  Hãy nhìn em, màu hoa vàng như màu lông những con ngan nhỏ, lá xanh hơi mốc trông xưa xưa, cũ cũ khiến mọi người biết em là Mimosa và không lầm với loài hoa khác.  Mọi người yêu quí em. Mọi người bảo em đẹp.  Họ bảo vẻ đẹp của em bình dị và xa xưa.  Xin anh đừng hỏi.  Anh im lặng,  giữ tâm anh thanh tịnh và ngắm nhìn em.  Anh sẽ yêu em.  Người Đà Lạt, du khách ghé qua Đà Lạt đều yêu em.  Nhắc đến Đà Lạt, mọi người đều nhắc đến tên em.  Em là của riêng thành phố Đà Lạt. .. 

 

Tôi yêu quí cây MIMOSA HOA VÀNG LÁ MỐC.  Đà Lạt có hai loại Mimosa:  Mimosa Việt Nam và Mimosa Nhật.  Tôi yêu quí Mimosa Việt Nam hơn Mimosa Nhật không phải vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa.  Mimosa Việt Nam đẹp hơn Mimosa Nhật về mọi phương diện từ dáng cây đến hoa lá.

 

Những buổi chiều vào giờ tan học của trường Bùi Thị Xuân, sáu chúng tôi, Tường, Thái, Kinh Kha, Hải, Tâm, Sơn và tôi,  ngồi trên đồi Lữ Quán Thanh Niên nhìn xuống đường Võ Tánh.  Đường Võ Tánh như một ngày hội. Đúng sáu giờ kém mười lăm các chàng sinh viên quần áo chỉnh tề ra khỏi nhà trọ của khu Võ Tánh.  Các chàng đứng bên lề đường Võ Tánh để chào đón những cô nữ sinh Bùi Thị Xuân.  Tôi đoán rằng, cũng đúng sáu giờ kém mười lăm các cô nữ sinh Bùi Thị Xuân không còn để ý đến lời giảng của thầy cô. Cô thì xoa lại đôi má cho thêm hồng, cô thì vuốt  lại mái tóc, tà áo cho thẳng.  Cô này ghé vô tai cô khác nói nhỏ :

-         Tao cá với mi, anh chàng nớ, bữa ni đứng chờ tao ở chỗ đó.  Mi dám cá không.

Các cô nữ sinh không đi trên lề đường vì lề đường các chàng đã đứng để đón chào các cô. Các cô nữ sinh đi giữa lòng đường. Lòng đường trở thành giòng suối xanh của những tà áo dài, đen của tóc, màu hồng của đôi má, màu đỏ của đôi môi.  Âm thanh của tiếng cười, giọng nói vang vọng trong không gian trong như ngọc.  Trời thì xanh, nắng thì vàng, gió thì nhẹ, con người thì vui tươi, cuộc đời thanh xuân sao mà đẹp.  Những buổi chiều Đà Lạt thật đẹp. 

 

Bạn tôi tại Lữ Quán Thanh Niên có đứa đã bắt chuyện được với các cô nữ sinh.  Thông là đứa nhanh nhất trong việc tìm được ý trung nhân.  Thông và cô Yến, học sinh lớp đệ tứ, tiến tới tình yêu nhanh chẳng khác chi Thúy Kiều và Kim Trọng.  Một buổi chiều chúng tôi thấy Thông đi lẽo đẽo theo cô Yến.  Đến chợp tối,  Thông nói với tôi:

-         Đưa tao mượn ít tiền. 

-         Mày đãi cô nàng đi ăn ở Mekong ?

-         Đi theo em, quên giờ cơm.  Lúc về, quán cơm Lữ Quán đóng cửa.  Bây giờ phải ra phố ăn cơm.  Cuối tháng làm gì có tiền mà dẫn em đi ăn. 

 

Chúng tôi thường mua phiếu ăn cho cả tháng.  Hết tiền đi chơi nhưng vẫn còn cơm để sống đến lúc nhận được bưu phiếu của gia đình.  Tôi là đứa duy nhất trong bọn có tiền rủng rỉnh hàng tuần, không phải một tháng một lần như các bạn khác. Những ngày cuối tháng tôi thường là mạnh thường quân hay chủ nợ của nhiều đứa.

 

Những ngày hôm sau, cô Yến là một trong những cô học sinh Bùi Thị Xuân lên đỉnh đồi Lữ Quán Thanh Niên trước nhất.  Thông đưa cô Yến đi về Xuân An bằng con đường mang tên Con Đường Tình Yêu, con đường từ đỉnh đồi Lữ Quán Thanh Niên dẫn xuống Hồ Xuân Hương.  Cả tuần lễ đầu tháng, tôi không thấy Thông về ăn cơm chiều.  Tôi đoán Thông mời cô Yến đi ăn cơm ở Đông Hải, Như Ý, Nam Sơn hoặc Shanghai.  Từ tuần thứ hai, thứ ba,  Thông luôn là khách hàng cuối cùng của quán cơm Lữ Quán.  Tuần cuối tháng, Thông là con nợ của tôi.

 

Con đường từ đỉnh đồi Lữ Quán Thanh Niên dẫn xuống bờ hồ Xuân Hương được chúng tôi đặt là Con Đường Tình Yêu.  Con đường Tình Yêu là con đường dốc, tráng nhựa, nhỏ chỉ vừa đủ cho hai xe du lịch tránh nhau.  Con đường vắng lặng với hàng cây thông cao vút.  Quanh gốc thông là những cây dương sỉ.  Con đường đi ngang bên hông biệt thự của trung tướng Trần văn Đôn.  Biệt thự Dominique của trung tướng Trần Văn Đôn to lớn nằm hiền hòa và khiêm nhường thấp hơn mặt đường khoảng ba mét.  Chiều chiều, tôi thường lang thang một mình hoặc với anh Khoáng trên con đường này.  Mấy tháng sau ở khoảng giữa con đường, trên khoảng đất cao hơn mặt đường năm mét, một  căn nhà mới được xây.  Căn nhà này của ai chúng tôi không biết.  Căn nhà làm mất cảnh thiên nhiên của con đường.  Nhưng bù lại tôi  được thấy cập tình nhân chạc tuổi tôi, cả hai đều là đồng môn với tôi.  Chàng là con một quan chức lớn ở Nha Trang,  nàng là con nhà khá giả của Nha Thành.  Chàng và nàng trùng tên với hai nhân vật chính trong quyển tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh. Thỉnh thoảng tôi thấy nàng ngồi trên vai chàng.  Chàng đưa nàng quanh sân.  Tiếng cười trong trẻo của nàng vang trong khúc đường vắng.  Chàng và nàng sống trong cảnh thần tiên.  Nghe tiếng cười của chàng và nàng, lòng tôi tràn ngập niềm vui.  Tôi nguyện cầu cho hai người được sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.  Cuối đường phía đỉnh đồi, ông thiếu tướng Tôn Thất Xứng cho xây một biệt thự to lớn.  Ông không đền  cho chúng tôi gì ngoài những người lính gác nhìn chăm chú chúng tôi khi chúng tôi đi qua.  Mỗi lần chúng tôi đi qua, mấy anh lính gác cổng nhìn chúng tôi khiến sau này tôi không còn có hứng đi lang thang trên con đường Tình Yêu.

 

Những buổi chiều ngồi trên đồi Lữ Quán Thanh Niên nhìn học trò Bùi Thị Xuân đi học về, tôi nhớ Hoa.  Trên đồi Lữ Quán Thanh Niên tôi làm bài thơ đầu tiên từ ngày tôi đến Đà Lạt.  Đứng trên đồi Lữ Quán Thanh Niên trong buổi chiều tuyệt đẹp như ngọc, đẹp chẳng khác chi những câu thơ Kiều tả tiết thanh minh. Trời xanh, lá xanh, áo xanh, cỏ xanh, núi xanh, tấm lòng của mọi người cũng xanh của tuổi thanh xuân. 

 

BÂNG KHUÂNG NHỚ HUẾ

Ngồi trên Đồi Lữ Quán Thanh Niên

Nhìn xuống  đường Võ Tánh

Buổi chiều tan học

Chiều Đà Lạt trời trong xanh như ngọc

Nắng nhẹ vàng phủ trên đồi xanh

Chiều Đà Lạt đẹp và thơ mộng quá

Nhưng tôi bỗng bâng khuâng nhớ Huế

..............................................................

 

Tháng đầu của niên học, ba giáo sư cùng tên Long, giáo sư Vương Văn Bắc gây ấn tượng cho chúng tôi.  Ba thầy cùng có tên Long, có ba hình dáng khác nhau và bộc lộ ba phong cách khác nhau.  Học trò đặt tên cho ba thầy Long.  Thầy Long Lùn bình dị, Giám Đốc Học Vụ.  Thầy Long Cao thì điềm đạm.  Thầy Long Cao là Giám Đốc Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt, thầy dạy môm Kinh Toán Học.  Thầy Long Mập thì lanh lẹ, hoạt bát,  tháo vác của người dân Hà Nội.  Cả ba thầy Long là nòng cốt của trường và đều gắn bó với sinh viên.  Chúng tôi gọi ba thầy là ba con rồng sẽ đưa chúng tôi qua biển học .

 

Thầy Trần Long thấp và nhỏ con.  Thầy có tên là Long Lùn, nhưng thầy là siêu nhân.  Thầy đảm nhận ba chức vụ một lúc :  Giám Đốc Học Vụ trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp, Sĩ quan giảng viên tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, giáo sư kế toán tại trường Chính Trị Kinh Tế.  Giám Đốc Học Vụ của một trường mới thành lập thiếu thốn về mọi mặt từ việc giảng dạy, giáo trình, mời giáo sư lẫn cơ sở vật chất là một gánh nặng  khó khăn.  Đảm nhận dạy kế toán cũng là một gánh nặng cho thầy.  Mặc dầu tốt nghiệp cao học ngành thương mại tại Mỹ nhưng việc giảng dạy kế toán cấp đại học là lần đầu tiên kể từ khi thầy trở về Việt Nam.  Môn kế toán là môn học khô khan vậy mà thầy Trần Long đã thi vị hóa, khôi hài hóa những danh từ kế toán khiến cho chúng tôi cảm thấy thích thú hơn.  Thầy đã dùng tên các công ty rất lạ như Công Ty Trần Như Nhộng, hãng giầy Hai Ta ..vân vân ..   Hình ảnh độc đáo và hiếm có là hình ảnh thầy Trần Long đứng trên bục giảng trước chúng tôi trong bộ quân phục với hai hoa mai vàng.  Trong thời gian thầy chờ đợi giấy tờ biệt phái, thầy được chuyển lên làm việc trong Ban Văn Hóa Vụ của trường Võ Bị Đà Lạt.  Thầy dậy Anh Văn và dĩ nhiên phải trực chiến mỗi tuần một đêm như các sĩ quan khác.  Vào ngày trực chiến và sáng hôm sau có giờ dạy kế toán vào sáng sớm, thầy không kịp về nhà thay quần áo dân sự để đến lớp.   Chúng tôi thường thấy thầy Trần Long lái chiếc xe 2 CV qua cổng viện.  Ngồi bên cạnh thầy là vợ thầy,  cô Ánh Nguyệt .   Nhìn thầy Trần Long và cô Trần Long  ngồi cạnh nhau trong xe 2CV,  chiếc xe trở nên xinh xắn thật hợp với thầy cô.  Chiếc xe 2CV gắn liền với thầy Trần Long.  Nói tới thầy, sinh viên nhớ tới xe 2CV.  Nhìn thấy xe 2CV, sinh viên nhớ đến thầy. 

 

Thầy Phó Bá Long tức Long Mập.  Thật ra thầy không mập.  Thân hình so với chiều cao của thầy là cân đối.  Nhưng vì có thầy Long Lùn, thầy Long Cao nên học trò đặt gượng ép cho thầy tên là Long Mập.  Thầy gọi chúng tôi là Đại Học Sĩ.  Buổi học đầu tiên thầy kể cho chúng tôi nghe một câu truyện chứng tỏ việc học và ngoài đời là hai việc khác nhau .  Thầy Phó Bá Long kể rằng :  Sau khi tốt nghiệp bằng Quản Trị Kinh Doanh tại một Viện Đại Học Mỹ , một sinh viên học kém nhất lớp trở thành một Giám Đốc của một xí nghiệp lớn.  Một hôm, anh ta vào hộp đêm xem biểu diễn văn nghệ ở Hawai.   Nhìn lên sân khấu, anh thấy anh bạn cùng lớp với anh đang đánh đàn ghi ta trong ban nhạc.  Anh bạn cùng lớp là sinh viên thủ khoa xuất sắc của trường …  Những buổi học kế tiếp, thầy kể cho chúng tôi những câu truyện buôn bán ở Mỹ khiến chúng tôi không tưởng tượng nổi.  Thầy kể về những tiệm One Dollar.  Những tiệm này bán những món hàng giá một dollar trở xuống.  Thầy nói nhân viên bán hàng ở Mỹ chiều khách hàng và tiếp đãi khách hàng lịch sự.  Khách hàng được tự do lựa chọn.  Mua rồi, không vừa ý, đem trả và lấy tiền lại một trăm phần trăm .  Chúng tôi ngạc nhiên vì trước đây chúng tôi cho rằng người Mỹ là những anh chàng trọc phú chỉ biết tiền,  chỉ có người Pháp mới là người lịch sự .

 

Thầy Vương Văn Bắc ảnh hưởng đến chúng tôi qua những bài giảng của thầy về môn Lịch Sử Chính Trị Thế Giới.  Thầy là luật sư nổi tiếng ở Sài Gòn. Với tài hùng biện và giọng nói ấm, thầy Bắc đã lôi cuốn chúng tôi đến nỗi chúng tôi thuộc bài ngay sau khi thầy giảng.  Những tên chính trị gia tên tuổi của thế giới mà chúng tôi chưa hề biết trước đây đã in trong trí nhớ chúng tôi như Machiavell và quyển Quân Vương, Tocqueville, Leviathan …

 

Một buổi trời chạng vạng tối, tôi đang chấm bài toán của hai lớp đệ tứ . Tường mở cửa phòng hô hoán như cháy nhà :

-         Đi mau, đi mau … tao thấy cha Viện và thầy Bắc ra phố …

Cha viện và thầy Bắc ra phố thì có gì đặc biệt mà cả bọn nhốn nháo như có truyện gì hệ trọng.  Chúng vừa thay quần áo vừa thúc dục nhau ra đi .  Tôi cũng vội vàng cất bài vở dưới gối, thay quần áo và đi theo bọn chúng.  Sáu đứa tôi theo con đường mòn đổ dốc nhanh như những mũi tên vừa thoát khỏi dây cung.  Qua nhà thờ Tin Lành, tôi nghe đằng sau tiếng xe máy và tiếng cười.  Chiếc xe goebel với ba đứa ngồi trên xe chạy vụt qua chúng tôi với tốc độ cao trong con đường Hàm Nghi nhỏ.  Chiếc xe Goebel màu đỏ quen thuộc của Cương, tôi thấy hằng ngày.  Năm phút sau, chúng tôi tới cà phê Tùng.  Chiếc xe của Cương dựng dưới lề đường trước cửa cà phê Tùng.  Chúng tôi đi vô cà phê Tùng.  Khoảng mười lăm đứa đang vây quanh cha Viện Trưởng và thầy Bắc.  Trước mặt hay trên tay mỗi người là tách cà phê.  Mọi người đều im lặng nghe thầy Bắc nói chuyện.  Sáu đứa tôi lặng lẽ ra quầy gọi cho mỗi đứa một ly cà phê sữa.  Sau đó chúng tôi đến đứng với đám đông.  Thầy Bắc nói về tình hình chính trị đang biến động.  Khoảng nửa tiếng sau chiếc xe Peugeot của cha viện chạy đến trước cửa cà phê Tùng.  Cha viện và thầy Bắc đứng dậy để ra về.  Tiếng nói cười vang lên như sau giờ tan học.  Nửa tiếng trước đây đúng là lớp học.  Lớp học đang thảo luận một vấn đề hệ trọng của đất nước.  Thầy Bắc nói, thỉnh thoảng một vài anh đặt câu hỏi.  Lớp học chấm dứt đột ngột.  Chúng tôi nhìn theo chiếc xe cha viện dời cà phê Tùng  để đi về viện và tự hỏi không biết đến bao giờ chúng tôi lại được dự lớp học đặc biệt như tối nay.  Bây giờ tôi mới hiểu rằng tại sao các bạn tôi  háo hức khi thấy cha viện ra phố với một vị giáo sư.  Các bạn tôi không phải vì muốn uống ly cà phê sữa chùa do cha viện đãi mà mục đích chính vì vui và muốn có mặt trong một sự kiện đặc biệt hiếm có.  Sự kiện này chỉ xảy ra ở Viện Đại Học Đà Lạt và chỉ xảy ra với viện trưởng linh mục Nguyễn Văn Lập.  Tôi tiếc buổi tối tuần trước nghe thằng Tường vừa chạy vừa la:  Cha viện ra phố.  Lúc đó tôi không hiểu tại sao cha viện ra phố mà Tường chạy và la làng la xóm.  Nay tôi đã hiểu.

 

Cha viện và thầy Bắc đi rồi.  Mới hơn tám giờ tối, chẳng lẽ về nhà, chúng tôi rủ nhau tìm thú vui khác.  Nhóm ba bốn đứa đi qua Thủy Tạ uống cà phê hoặc ăn kem, nhóm năm sáu đứa ra góc đường Minh Mạng uống sữa đậu nành và ăn bánh đậu xanh. Nhóm bốn năm đứa ra góc đường Trương Vĩnh Ký – Duy Tân ăn cháo, xôi hoặc chè, nhóm hai đứa đến ăn bánh khoái trên đường Minh Mạng.  Trời lạnh được ngồi bên bếp than đỏ rực, nghe tiếng xì xèo chiếc bánh khoái trên bếp, bụng bỗng thấy hạnh phúc dạt dào.   Nhóm ba đứa xuống gần cuối đường Duy Tân để ăn hủ tiếu Nam Vang .  Nhóm sáu đứa tôi đi mua bắp nướng tại những gánh bắp nướng thoa hành mỡ trên những bậc thềm dẫn xuống chợ Đà Lạt và vũ trường Tulipe Rouge.  Ngồi quanh bếp đỏ hồng để chờ bắp chín. Nghe chị bán hàng nói giọng Huế.   Tôi nhớ Hoa quá chừng.

 

Đêm hôm đó, tôi phải thức đến hai giờ sáng mới chấm xong bài tập để giảng cho học trò vào ngày mai.

 

Ba trung tâm sinh hoạt chính của sinh viên là khu Nam Đại Học Xá Dương Thiện, khu nữ Đại Học Xá Kiêm Ái và khu Lữ Quán Thanh Niên -  Võ Tánh.  Các nhóm sinh viên thành hình do cùng ở địa phương, do cùng thuê chung một khu nhà, do cùng sở thích âm nhạc, thơ văn …   Trước hết phải kể đến hai đoàn thể được hình thành sớm nhất   Sinh Viên Phụng Sự Xã Hội do anh Hoàng Văn Lộc sáng lập.  Nòng cốt của tập thể này là các anh chị ở Lữ Quán Thanh Niên và khu Võ Tánh.  Anh Lộc có tài tổ chức và vận động.  Anh tổ chức công tác tại các buôn Thượng.  Anh mượn xe của tòa tỉnh làm phương tiện chở đoàn đi công tác và chính anh lái chiếc xe này.  Anh Lộc lái xe thật giỏi.  Một lần, sau khi đi công tác tại buôn thượng Đakto về, anh lái xe trên đèo Prenn.  Trời nhá nhem tối anh lái tốc độ bẩy, tám mươi cây số trên đường đèo hẹp và khúc khuỷu, mỗi lần qua khúc quanh, các cô la oái oái còn lũ con trai chúng tôi thì hào hứng la hét:  tới luôn bác tài.  Đoàn Sinh Viên Phụng Sự Xã Hội ra được tờ báo TUỔI XANH dành cho thiếu nhi .  Báo Tuổi Xanh in đẹp chứ không phải báo quay roneo như các tờ báo của các nhóm văn nghệ hoặc đặc san của  sinh viên thường thấy.  Báo được đem đến bán tại các trường tiểu học .

 

 Đoàn thể thứ hai do hai anh Lê Đường và Nhữ Văn Trí vận động để thành lập một toán tráng .  Anh Lê Đường là hướng đạo sinh duy nhất trong đạo Lâm Viên Đà Lạt có bằng rừng nghành Tráng. Trong buổi họp đầu tiên tại nhà anh Lê Đường số 27 đường Lê Lợi, hai vấn đề được đặt ra.  Thứ nhất, toán tráng được thành lập cho sinh viên Viện Đại Học hay cho cả những người bên ngoài. Thứ hai, tráng sinh mặc quần short hay quần dài.   Buổi họp đi đến kết luận :  Trước hết lập một toán tráng chỉ gồm sinh viên thuộc viện Đại Học Đà Lạt.  Tên của toán tráng là THỤ NHÂN.  Sau này sẽ thành lập thêm nhiều toán tráng cho nhiều thành phần trong lãnh thổ thành phố Đà Lạt và phụ cận để thành lập một tráng đoàn.  Tên của tráng đoàn là Tráng đoàn HÙNG VƯƠNG.  Buổi họp quyết định mặc quần dài thay vì quần short.  Quyết định này trái với qui định về đồng phục của Hướng Đạo Việt Nam.  Các ngành Ấu, Thiếu, Tráng mặc quần short.  Chỉ có ngành Kha được mặc quần dài.  Sau nhiều lần thuyết phục gay go với các trưởng  đạo Lâm Viên với lý do chân của các tráng sinh khẳng khiu, trời Đà Lạt lạnh lẽo.  Cuối cùng toán THỤ NHÂN được đạo Lâm Viên cho phép mặc quần dài. 

 

Buổi cắm trại đầu tiên của toán THỤ NHÂN tại thác Cam Ly chỉ kéo dài từ sáng đến chiều.  Số người tham dự buổi trại đầu tiên chỉ có bẩy người :  Lê Đường, Nhữ Văn Trí, Nguyễn Viết Dũng, Đan Đình Soạn, Châu Tuấn Xuyên, Trần Anh Tuấn và Trần Tiễn Tuấn.  Buổi cắm trại đầu tiên đã bắt đầu cho tương lai sẽ đóng góp cho phong trào Hướng Đạo có thêm một tráng đoàn  và cho Viện Đại Học Đà Lạt có thêm một sinh hoạt giáo dục mới.

 

(còn tiếp)

 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/May/2010 lúc 7:37pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/May/2010 lúc 7:11pm
 
 
 
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(4)
 

 

 

Một nhân vật xuất hiện như một cứu tinh của sinh viên học hàm thụ và  sinh viên đến lớp không đều như tôi : anh Trần Quang Cảnh.  Anh Cảnh là cựu sinh viên trường Luật nên anh có kinh nghiệm trong việc in ấn bài học cho sinh viên.  Trong việc in ấn bài học, anh Cảnh không những giúp ích cho sinh viên mà còn đóng góp cho Viện Đại Học Đà Lạt một hình thức tổ chức mới lạ.   Anh Cảnh thành lập một hợp tác xã mang tên HỢP TÁC XÃ SIVIDA .  Sivida viết tắt Sinh Viên Đà Lạt.  Hợp Tác Xã SiViDa chuyên lo việc in ấn bài học cho sinh viên.  Anh Cảnh hoàn thành một bản nội qui cho Hợp Tác Xã .  Bản nội qui là căn bản pháp lý.  Bản nội qui gồm nhiều điều khoản liên quan đến việc tổ chức và điều hành hợp tác xã Sivida.  Điểm xuất sắc nhất của bản nội qui là điều khoản qui định về bầu cử ban điều hành và ban kiểm soát hàng năm.  Có thể nói SIVIDA là tổ chức kinh doanh đầu tiên của sinh viên Trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp.  Viện Đại Học đã hổ trợ cho việc thành lập hợp tác xã sau khi thông qua bản nội qui.  Viện đã cung cấp cho hợp tác xã Sivida một văn phòng và dụng cụ in ấn .  Văn phòng hợp tác xã Sivida là nhà tiền chề bằng sắt được đem đến đặt ở sườn đồi ngang với giảng đường Spellman.    Anh Cảnh là chủ tịch ban điều hành nhiệm kỳ đầu tiên của hơp tác xã.  Ban điều hành và ban kiểm soát gồm Lê Thanh Tâm, Huỳnh Thoảng, Nguyễn Đình  Cận đều là sinh viên ở lầu IV và lầu V nam đại học xá cùng lầu với anh Cảnh.  Điều đó cũng là điều tất nhiên.  Những tháng đầu tiên, mọi người chân ướt chân ráo ở một thành phố lạ còn bỡ ngỡ và chưa quen nhau .  Có người ra gánh vác một công việc hữu ích là điều may mắn hiếm có.  Công của anh Cảnh lớn, nhưng có lẽ do giá phí bài học hơi đắt và vì anh là người đứng mũi chịu sào nên bạn bè đặt cho anh tên không đẹp Cảnh Lái Court.  Thật là oan cho anh.  Sivida là một hợp tác xã có nhiều người được sinh viên bầu ra, có ban kiểm soát chứ đâu phải một mình anh.  Hợp Tác Xã Sivida hoạt động đã vào nề nếp tốt đẹp về mặt cung cấp bài học và tài liệu cho sinh viên cũng như về mặt tài chánh cho hợp tác xã .  Năm học sau, việc bầu cử ban điều hành hợp tác xã Sivida chắc chắn sẽ sôi nổi.

 

Bạn bè đặt tên cho nhau nhiều khi không phản ảnh đúng sự thật như trường hợp anh Trần Quang Cảnh.  Nhiều tên gây hiểu lầm cho người được hay bị đặt tên.  Ba anh Trần Hữu Độ, Nhan Kim Hòa, Nguyễn Phi Hùng hiền như Bụt, đẹp trai, mặt mày phúc hậu đươc gán cho tên TAM QUÁI .  Ai nghe biệt danh cũng tưởng ba anh là những tay phà làng phá xóm .  Ba anh cao lớn, trắng hồng như những ông Tây. Ba anh đều tốt nghiệp trung học trường Tây, trường giòng nên tác phong ăn nói lịch sự hòa nhã . Nếu gập và nói chuyện với ba anh thì phải gọi ba anh là TAM BỤT thay vì TAM QUÁI . Tại sao bạn bè lại gán cho tên TAM QUÁI cho ba anh.  Ba anh gắn bó với nhau như hình với bóng, đi đâu cũng đi với nhau .  Thân hình to lớn, đi hàng ngang không đi hàng dọc nên ba anh luôn luôn chiếm hơn một nửa bề ngang con đường Võ Tánh.  Một buổi sáng, con đường Võ Tánh nhộn nhịp sinh viên đi học.   Chiếc xe lam chở đầy nữ sinh viên nữ Đại Học Xá Kiêm Ái từ ngoài phố đi vô viện.  Chiếc xe lam chạy chậm sau lưng ba anh.  Anh tài xế xe lam phải bấm còi hai lần để xin vượt qua, một anh đi sau ba anh la lớn: Ba thằng quái đản đi nghêng ngang giữa đường…  lúc đó ba anh mới tạt vô lề đi hàng một.  Sự kiện này chắc cũng phải xẩy ra hai ba lần do đó mới có tên TAM QUÁI.  Nhưng cũng có người bảo ba anh có tên Tam Quái do Độ, Hòa và Hùng thường đến lớp sớm và chiếm ba ghế của những hàng đầu.  Những người ngồi sau nhìn ba cái lưng như ba tấm phản nên bực mình và gán tên Tam Quái cho ba anh …

 

Thông thường thì ai cũng dị ứng với tên bạn bè đặt cho mình.  Nhưng không phải dễ được bạn bè đặt cho một tên. Cả trăm người thì chỉ có khoảng năm sáu người có biệt danh do bạn bè đặt.  Nhiều người tự đặt cho mình một biệt danh nhưng không được chấp nhận .  Chẳng hạn anh Hùng có vài sợi râu xưng là Hùng Râu .  Không ai gọi anh là Hùng Râu mà gọi anh là Hùng Trâu Bò lý do mỗi lần đi trại công tác xã hội, anh đào giếng, xây nhà, đắp đường không mệt mỏi suốt ngày không thua gì con trâu cầy ruộng .  Lý do thứ hai  đã có người được anh em tặng cho chữ Râu là Sơn Râu.  Phái nam có biệt danh.  Phái nữ không có biệt danh, nếu có thì rất hiếm và không phổ biến rộng rãi .  Điều này chứng tỏ tinh thần tôn trọng nữ giới của nam sinh viên.  Có hai cô mà ai cũng phải chú ý nên ai cũng biết tên,  nhưng hai cô không được gắn biệt danh.  Những chiếc xe lam đổ nữ sinh viên Kiêm Ái trước cổng viện.  Từng nhóm nữ sinh viên đi vô cổng viện để đi đến giảng đường Spellman.  Hai cô tách khỏi đám đông và đi tụt lại đằng sau.  Gương mặt hai cô tươi xinh như hoa Lan, hoa Huệ .  Một cô thì cao hơn thước bẩy, một cô thì chưa tới thước năm.  Hai cô thân nhau vì cùng ở nữ đại học xá Kiêm Ái và cùng chơi trong ban nhạc của nữ đại học xá Kiêm Ái.  Hình ảnh một cao một thấp thì ai có thể quên được vậy mà không ai tìm ra một biệt danh cho hai cô.  Thật đáng tiếc cho hai cô, có một biệt danh không phải là dễ.

 

 Một cô sinh viên văn khoa có tên mà ai cũng đoán được cô ta là người Quảng Trị .  Cô cao khoảng thước bẩy, thân hình cân đối,  mặt xinh xắn nhưng nghiêm nghị .  Cô thường đi đến trường một mình.  Tôi chưa thấy cô đi với bạn gái hay trai.  Cô nổi bật nhờ mái tóc dài đến gần khủy chân.  Tôi tưởng tượng một đêm khuya trăng sáng , cô mặc áo dài trắng và đi trên đồi Cù thì truyện Liêu Trai Chí Dị, những truyện ma ở Nghĩa Địa Đà Lạt, ở đồi Domain Marie, ở đường Trần Bình Trọng sau bệnh viện Đà Lạt, hay truyện cô giáo Thảo hiện hình ở hồ Than Thở không còn làm ai rởn tóc gáy nữa.

 

Một cô có tên rất nghe rất lạ Oanh Trảo.  Oanh là con chim Oanh, Trảo là móng vuốt.  Oanh Trảo có nghĩa là móng vuốt của con chim Oanh.  Tôi không tìm được trong tự điển danh nhân điển tích một người phụ nữ nào có tên Oanh Trảo, cũng không tìm được một điển tích nào có hai chữ oanh trảo.  Tôi thật kính phục bậc sinh thành của cô Oanh Trảo.  Họ phải là những văn sĩ hay thi sĩ và có kiến thức rộng mới có thể đặt được cho con gái tên thật lạ và thật hay.  Cô Oanh Trảo đẹp như con chim Oanh.  Cô dịu dàng, hiền hậu như móng vuốt của con chim Oanh.  Móng vuốt của chim oanh không độc ác như móng vuốt của hổ, beo, sói .  Móng vuốt của chim oanh chỉ để vỗ về  tha nhân với tấm lòng nhân ái .         

 

Đó là những nhân vật gây ấn tượng cho tôi trong tháng đầu tiên bỡ ngỡ.

 

Một buổi sáng tháng mười hai, ông Chữ gập tôi ngay tại cửa lớp đệ tứ A, ông nói với tôi:

-         Sau giờ dạy, cậu đến văn phòng gặp tôi.

-         Dạ

Dạy xong hai giờ toán, tôi đi đến văn phòng để gặp ông Chữ.  Trong văn phòng, ông Chữ đang nói chuyện với anh Khoáng, giáo sư Việt Văn.  Anh Khoáng là sinh viên Văn Khoa.  Anh lớn hơn tôi sáu tuổi.  Anh thuê basement của villa mầu hồng cũng nằm trên đỉnh đồi Lữ Quán Thanh Niên xa phòng chúng tôi chừng năm chục mét.  Chúng tôi  thường gọi là Lầu Hồng vì biệt thự quét vôi màu hồng.  Ông Chữ chỉ ghế cho tôi ngồi cạnh anh Khoáng.  Ông nói:

-         Chúng tôi có chuyện cần bàn với cậu.  Cậu đoán được chúng tôi bàn chuyện gì với cậu không ?

-         Thưa không ?

-         Thử đoán xem

-         Chuẩn bị tất niên cho các em

-         Không ? Cho cậu thử lần nữa

Tôi cười và nói đùa:

-         Anh Khoáng lấy vợ

Ông Chữ cười lớn:

          -    Đúng không Khoáng ?

-         Đúng một phần tư.

-         Tôi hiểu ý anh Khoáng. Một phần tư là mở đề, hai phần tư là thân bài, một phần tư còn lại dành cho Thanh kết luận.  Đúng vậy không Khoáng?

-         Thưa đúng như vậy.

-         Phần mở đề là anh Khoáng về Nha Trang lấy vợ.  Anh phải ở lại Nha Trang để phụ giúp ông nhạc trông coi một cơ sở sản xuất.  Anh Khoáng  không trở lại Đà Lạt.  Thân bài là chúng ta phải tìm một người thay anh Khoáng. 

Ông Chữ nhìn thẳng vô mắt tôi và nói:

-         Người ấy là anh.

Tôi giật mình sửng sốt, tôi nói:

-         Ông biết tôi đậu tú tài ban B, không phải ban C.  Tôi chưa từng dạy Việt Văn.  Tôi không dám nhận.

-         Tôi biết cậu sẽ từ chối.  Tôi biết khả năng dậy toán của cậu còn về Việt văn tôi không rõ, nên tôi không có ý kiến.  Nhưng anh Khoáng là người gần gủi cậu hơn tôi.  Anh khẳng định cậu sẽ là một giáo sư Việt Văn giỏi.  Anh Khoáng kể với tôi:  Anh Khoáng và cậu tối thứ sáu, thứ bảy nào cũng ngồi uống trà và đàm đạo văn thơ.  Anh Khoáng nói cậu thuộc cả ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu thơ Kiều,  ba trăm năm mươi sáu câu thơ Cung Oán Ngâm Khúc.  Có phải vậy không?

-         Anh Khoáng nói đùa.  Một lần tôi đọc câu đầu và câu cuối của truyện Kiều

   Trăm năm trong cõi người ta   

    Mua vui cũng được một vài trống canh.

Từ đó anh Khoáng nhạo tôi thuộc ba ngàn hai trăm năm mươi mốt câu thơ Kiều.  Dạy Việt Văn rất khó.  Người dạy phải có kiến thức rộng, biết nhiều điển tích, danh từ Hán Việt, thông hiểu Phật Nho Lão giáo, lịch sử, địa lý, thân thế giòng họ tác giả … Tôi không đủ điều kiện để trở thành một giáo sư Việt văn.  

-         Có đúng như vậy không anh Khoáng?

-         Thanh kiến thức rộng, thuộc nhiều điển tích, có óc tổng quát, có óc phân tích sâu sắc. Thanh có tài nói khôi hài rất tỉnh. 

-         Tôi đề nghị anh Khoáng có ý kiến để giúp đỡ Thanh dễ dàng trong việc dạy Việt Văn.

-         Tôi sẽ đưa cho Thanh tất cả cái gì tôi có.  Sách vở, tài liệu, chương trình giảng dạy, dàn bài chi tiết.  Lợi điểm của Thanh là các em học sinh đều rất thương mến Thanh.

-         Nếu Thanh nhận lời thì Thanh sẽ đảm trách dạy Việt Văn hai lớp đệ ngũ, hai lớp đệ tứ.  Dạy toán hai lớp đệ tứ, các giờ toán của hai lớp đệ ngũ tôi sẽ dạy.  Thay cậu dạy toán hai lớp này không phải dễ.  Học trò rất chịu cậu.  Bây giờ đến phần kết luận.  Cậu kết luận, rồi chúng ta đi Thủy Tạ uống cà phê.

Tôi im lặng.  Ông Chữ nói:

-         Ngày đầu tiên, tôi gặp cậu.  Cậu yêu cầu tôi chấp thuận cho cậu dạy thử một lớp trong một tuần.  Tôi đã chấp thuận.  Bây giờ tôi yêu cầu cậu dạy Việt Văn một lớp đệ tứ trong một tuần.  Cậu kết luận rồi chúng ta đi ra Thủy Tạ uống cà phê.

Tôi bị ông Chữ chiếu bí.

-         Thưa được.

Ba chúng tôi đến Thủy Tạ uống cà phê.

 

Tôi chuẩn bị thật kỹ cho hai giờ dạy Việt Văn đầu tiên.  Tôi có hai ngày để chuẩn bị. Sau giờ học tại giảng đường Thụ Nhân, chờ mọi người ra về, chỉ còn lại một mình tôi.  Trời tháng mười hai lạnh và tối nhanh.  Mới gần bẩy giờ mà trời đã sẩm tối.  Tôi lên bục giảng, tôi tập giảng bài Việt Văn.  Tôi tập đi tập lại dàn bài chi tiết của bài giảng cho tới tận chín giờ tối.  Tôi trở về Lữ Quán.  Lên đến đồi Lữ Quán, tôi đứng nhìn qua chùa Linh Sơn.  Tôi thèm được nghe tiếng chuông chùa. Từ khi đến Đà Lạt tôi chưa được nghe tiếng chuông chùa Linh Sơn.  Hai tháp nhỏ, cây si to trước sân chùa thật tĩnh lặng.  Chùa thiếu tiếng chuông.  Tôi nhớ tiếng chuông chùa Thiên Mụ.  Tôi không phải chỉ nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ, tôi còn nhìn được tiếng chuông.  Tôi nhìn thấy tiếng chuông lướt nhẹ và chậm trên mặt nước sông Hương.  Tiếng chuông đi, đi thật xa.  Tiếng chuông trở về và nằm trong hồn tôi.  Tiếng chuông của Bồ Đề Lạt Ma.  Ngài đưa tiếng chuông đi trên dòng sông Hương.  Ngài đưa tiếng chuông  vào tâm hồn người Huế.  Tôi nhớ câu thơ của Hồ Phùng, bạn học thời Quốc Học :

Đâu những chiều qua xóm Ngự Viên

Lao xao mặt nước, bóng con thuyền

Văng vẳng tiếng chuông chùa Linh Mụ

Trong Huế và ta đượm gió thiền

      Đại Tâm - Hồ Phùng

 

Tôi nhìn qua đồi Domain Marie.  Ánh đèn điện vàng thật ấm cúng.  Tôi nhìn bầu trời cao thăm thẳm đầy sao.  Tôi thèm được thấy một ngôi sao băng mà tôi được thấy nhiều lần tại bờ biển Thanh Bình, bờ biển Lăng Cô, bờ biển Cửa Đại.  Ngôi sao hôm lấp lánh phía  núi Lâm Viên.  Núi Lâm Viên như viên ngọc khổng lồ giữa không gian bao la.  Tôi bâng khuâng nhớ Quê Hương miền Trung.  Quê Hương Miền Trung của tôi trải từ Thừa Thiên vô Quảng Nam.  Tôi nhớ ba mạ tôi.  Tôi nhớ Hoa.  Tôi chắc chắn cả ba người cũng đang nhớ thương tôi.  

 

Tôi vô phòng.  Đứng ngoài trời lạnh lâu nên cảm thấy trong phòng thật ấm.  Ba thằng bạn cùng phòng đang nằm trong chăn đấu láo.  Chúng đang đánh giá các cô nữ sinh Bùi Thị Xuân.  Chúng nó đang nói về cô Hoà, cô Thuận, cô Tường Vi, cô Hồng Quế ...  Tôi nói:

-         Đi ăn mì bồ câu.

-         Lạnh lắm.  Nằm trong chăn sướng hơn

Tôi kéo chăn chúng:

-         Ngày mai không có giờ học, tha hồ ngủ

Chúng tôi rủ thêm Tiền, Tâm, Bách, Hùng.  Tất cả tám đứa chúng tôi đi xuống đường Phan Đình Phùng bằng đường đi ngang qua chùa Linh Sơn và Hợp Tác Xã Rau.  Chúng tôi nói nhỏ, cười không lớn vậy mà âm thanh vang rất rõ trong không gian im ắng.  Đi qua lò bánh mì Chấn Hưng trên đường Phan Đình Phùng, mùi thơm của bánh mì mới ra lò khơi dậy sự thèm ăn của chúng tôi.  Chúng tôi vô lò bánh mì mua mỗi đứa một ổ.  Chúng tôi vừa đi vừa bẻ từng miếng bánh mì nóng và thơm bỏ vô miệng nhai rất từ tốn.  Những lần trước,  thường vào quãng nửa đêm, đi rong chơi hoặc đi xem phim về, chúng tôi mua bánh mì và đem bánh mì đến tiệm mì bồ câu cũng nằm trên đường Phan Đình Phùng.  Chúng tôi chấm bánh mì vô nước của tô mì bồ câu để ăn.  Nuốt miếng bánh mì thẫm nước mì qua thực quản thấy ấm cả người và ngọt lên cả mắt.  Mục đích chính của chúng tôi là no.  Ăn bánh mì với tô mì bồ câu thật tuyệt, vừa ngon lại vừa no bụng.  Bước vô tiệm mì bồ câu, tôi thấy Đạt và Bình đang ngồi ăn.  Trên bàn của Bình và Đạt còn có hai chai bia.  Tôi nói:

-         Ăn uống linh đình.  Thắng lớn phải không ?

-         Thua cháy túi chứ thắng gì ?  Đi ăn để đổi vận, rồi về phục thù.

Ăn xong chúng tôi lên đường Minh Mạng để đến khu Hòa Bình.  Trên đường đi chúng tôi gập hai ba nhóm bạn học cùng lớp.  Nhóm bốn đứa mới bước ra từ quán cà phê Sakura,  nhóm hai ba đứa đang đứng chung quanh chiếc xe đẩy uống sữa đậu nành.  Nhóm bốn năm đứa đi ra từ đường Trương Vĩnh Ký là đường đi vô Đại Học Xá Kiêm Ái .  Tôi đoán bọn họ vừa ăn chè, cháo, xôi tại những quán ở góc đường Trương Vĩnh Ký và Duy Tân.  Một toán bốn đứa đang đứng trước rạp xi nê Hòa Bình.   Đến gần cà phê Tùng, tôi nghe tiếng gọi:

-         Thanh

Anh Khoáng đi đến vỗ vai tôi và nói:

-         Vào cà phê Tùng, uống với mỏa ly cà phê rồi về. 

-         Hơn mười một giờ rồi.

-         Chưa tới mười hai giờ. Còn sớm.  Vô ngồi uống với mỏa ly cà phê.

 

Tôi và anh Khoáng vô tiệm cà phê Tùng.  Chúng tôi ngồi nói chuyện đến gần nửa đêm.  Tôi không dám dục anh Khoáng về.  Tôi biết anh Khoáng buồn vì hai hôm nữa anh xa thành phố Đà Lạt và chấm dứt cuộc đời cắp sách đến trường.  Tôi mới đến thành phố này mấy tháng mà đã thấy trong tôi đã chớm nở một tình quyến luyến thành phố Đà Lạt, huống chi là anh Khoáng đã sống bốn năm tại thành phố này.  Anh Khoáng vẫn nhớ những ngày tháng chưa có trường Chính Trị Kinh Doanh.  Anh gọi đó là những ngày tháng Trinh Nguyên của Đà Lạt.  Anh nói những ngày tháng đó Đà Lạt thơ dại nên rất hiền hậu, trong trắng, ngây ngô.  Anh nói Đà Lạt có năm ngàn biệt thự, không biệt thự nào giống biệt thự nào.  Đà Lạt có những trường học xinh đẹp nổi tiếng Yersin, Couvent Des Oiseaux, Adran.  Biệt thự, trường học đẹp là của những giới giầu sang khiến cho anh Khoáng có cảm tưởng mình đang được học tại thành phố nào đó tại phương Tây.  Anh khẳng định, anh như được sống tại khu sinh viên Monmartre của thành phố Paris, nước Pháp mặc dầu anh chưa xuất ngoại lần nào.  Khu Lữ Quán Thanh Niên – Võ Tánh bây giờ không khác gì khu Monmartre Paris.  Đà Lạt có những cái sang trọng lịch thiệp của phương Tây.  Đà Lạt cũng có những cái bình dị đáng yêu. Những buổi sáng sớm Đà Lạt, sương còn vương vấn trong những khu rừng thông thưa, những nhóm người Thượng dắt dìu nhau mang những bó củi thông dùng để nhóm bếp, những cây hoa lan hái được trong rừng.  Họ bày gủi và hoa trên vỉa hè đối diện với vũ trường Tulipe Rouge tại chợ Đà Lạt để bán cho những ai cần dùng .  Họ có những đôi mắt to như mắt nai, chất phát ngây thơ, không hận thù.  Đà Lạt cũng là nơi tập hợp của những dân tứ xứ nghèo đến lập nghiệp.  Họ đến từ Miền Bắc, miền Thanh Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên, Nam Ngãi.  Những con người cần cù, nhẫn nại, thật thà.  Những người di dân đã khai phá, xây dựng Đà Lạt với tấm lòng quả cảm và trái tim trong sáng : sống bằng sức lao động.  Biệt Thự, trường học của giới quí phái tạo cho Đà Lạt phong thái lịch thiệp sang trọng của phương Tây.  Người Thượng, người di dân đã  tạo cho cao nguyên Lâm Viên sinh động hơn, thật thà chất phát.  Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt đem đến cho Đà Lạt một niềm tin, một cảm giác an toàn được bảo vệ, được che chở.  Sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh mang lại cho Đà Lạt một nguồn sinh khí tươi trẻ khiến Đà Lạt nhộn nhịp hơn, vui tươi hơn, trưởng thành hơn.  Anh kết luận : “ Cái gì cũng phải đổi thay.  Đó là luật của tạo hoá.  Không có đổi thay thì anh em mình không gập nhau.  Cái cũ dễ thương và cái mới cũng đáng yêu.  Ước mong mọi người giữ cho núi rừng Đà Lạt mãi mãi xinh đẹp, trong sáng, thật thà, phúc hậu “.

 

Tôi hỏi anh Khoáng

-         Đà Lạt có nhiều cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng anh thích cảnh gì…..nhất, hay cái gì của Đà Lạt gây ấn tượng cho anh nhất

Anh trả lời

-         Câu hỏi dễ trả lời, nhưng nếu trả lời thì khó được chấp nhận vì Đà Lạt là một tổng thể nhiều cái đẹp của thiên nhiên và của con người.  Trong tất cả những cái đẹp của Đà Lạt, rừng thông gây ấn tượng cho anh nhất.  Phải nói anh mê say rừng thông Đà Lạt. Rừng thông chiếm gần trọn diện tích Đà Lạt.  Đứng bất cứ nơi nào ngoài trời ở Đà Lạt, người ta cũng nhìn thấy cây thông.  Rừng thông, chứ không phải cây thông, là biểu tượng của Đà Lạt.  Một vị linh mục người Pháp, cha Pierre, đã chỉ cho anh thấy được cái đẹp của rừng thông Đà Lạt mà trước đó anh chưa cảm nhận được.  Cha Pierre nói với anh :” Tôi đã đi khắp Âu Châu, đi khắp miền Nam Việt Nam, tôi chưa thấy nơi nào có rừng thông đẹp và thơ mộng như rừng thông ở Đà Lạt”.  Cha Pierre giải thích :”  Cây thông Đà Lạt có hai đặc tính khác với cây thông ở phương Tây.  Thứ nhất cây thông Đà Lạt cứng cáp, rắn chắc hơn cây thông Âu Châu.  Khác biệt thứ hai là lá thông phương Tây không có lỗ hổng nên không gây được tiếng kêu vi vu khi gió thổi.  Những lá kim của thông Đà Lạt có những lỗ khổng, nhất là ở Đà Lạt có loại thông năm lá có nhiều kẽ hở hơn thông hai lá, ba lá,  gió thổi qua những kẽ hở gây lên tiếng vi vu trong không gian tĩnh lặng.  Rừng thông Đà Lạt khác rừng thông phương Tây.  Rừng thông Đà Lạt thưa nên rừng khô ráo, ấm áp và có ánh nắng chan hòa.  Còn rừng thông Âu Châu dầy kìn kịt nên ẩm ướt,  đôi khi đi trong rừng mà không nhìn thấy trời mây. ”   Cha Pierre nói về rừng thông Đà Lạt   :” Đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt, tới Định Quán bắt đầu thấy cây thông, nhưng thông mọc thưa thớt.  Cây thông ở Định Quán là cây thông hai lá.  Lên đến Bảo Lộc, Di Linh, nơi này có nhiều thông hơn Định Quán.  Thông ở đây là loại thông ba lá.  Bảo Lộc, Di Linh không có rừng thông.  Có thể do người ta phá rừng thông để làm đồn điền trà và cà phê.  Dọc quốc lộ 20,  từ Bảo Lộc tới Di Linh có những khu rừng thông mới trồng.  Rừng thông mới nên không đẹp vì thông còn non chưa có cành dài và được trồng gần nhau tại vùng đồi không có núi đá.  Người càng già thường thì càng xấu, cây càng già thường thì càng đẹp.  Qua khỏi Liên Khương ta mới thấy rừng thông nguyên thủy.  Đến thác Prenn, ta thấy  cái tuyệt đẹp của cây thông và rừng thông.  Thông ở đây có thông hai lá, ba lá hoặc thông năm lá.  Tùy theo thế đất mà cây thông có hình dáng khác nhau do tác động của gió và thế đất.  Khu thác Prenn là khu có nhiều vách đá nên có nhiều cây thông có hình dáng đẹp.  Cây thông đứng cheo leo trên vách đá.  Mền mại từ thân cho đến cành, nhưng vẫn thấy vững chắc.  Ở đây ta nghe tiếng suối chảy và tiếng thông reo.  Thông reo hay thông hát.  Tiếng thông reo như tiếng đàn violon, tiếng suối chảy như tiếng đàn piano đệm cho hàng trăm con chim cất tiếng hát vang lừng nhưng êm ái. Buổi sáng nắng mới và sương, buổi trưa nắng chan hòa và gió nhẹ, buổi chiều mơ màng và êm ái, buổi tối thanh tịnh.  Rừng thông Đà Lạt lúc nào cũng đẹp.  Ngày nắng rừng thông đẹp, ngày mưa rừng thông vẫn đẹp.  Nhìn mưa phủ mờ rừng thông êm ả và buồn nhè nhẹ .   Rừng thông có vẻ đẹp nhẹ nhàng êm ái khiến tâm hồn con người thảnh thơi an lạc… Đi trong rừng thông trong ngày nắng ấm hay ngồi dưới gốc thông già, nghe chim hót và chợt nhìn thấy một đóa hoa lan trên ngọn thông  cao, thật cao.  Nhìn đóa hoa lan chẳng khác gì trông thấy người mình yêu đang nở nụ cười tươi …”

 

 

(còn tiếp)

 

 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/May/2010 lúc 7:40pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/May/2010 lúc 7:59pm
 
 
TRỌC SĨ
NĂM NHẬP MÔN
(5)
 
Tôi vô lớp với sự tự tin vì tôi chuẩn bị bài giảng rất kỹ.  Tôi nói với cả lớp, tôi dậy thế cho thầy Khoáng một tuần. Tôi giảng bài Kiều và Thúc Sinh.  Tôi nói về sự khôn khéo, tâm tình và ước muốn của Kiều.  Tôi tạo được nhiều tràng cười.  Sau khi cười, cả lớp im lặng nghe tôi nói.  Giảng xong, tôi cho bài tập về nhà làm. Tôi nói:

-         Đề tài bài tập:”Các trò viết lại đoạn thơ này bằng văn xuôi”.  Các trò viết lại được, diễn tả lại được đoạn thơ này bằng văn xuôi là các trò hiểu bài.  Nhớ không được viết dài quá một trang giấy.  Viết dài chưa hẳn là hay.  Các trò phải tìm chữ và gọt dũa câu văn cho gọn và dễ hiểu.

-         Thầy Khoáng về Nha Trang lấy vợ.  Thầy Khoáng không trở lại Đà Lạt.  Thầy dậy luôn chúng em, nghe thầy. 

Học trò đã biết anh Khoáng về Nha Trang lấy vợ và không trở lại Đà Lạt.  Tôi không trả lời.  Tôi vừa ra khỏi lớp, ông Hiệu Trưởng đi nhanh tới vỗ vai tôi:

-         Khá lắm.  Cậu dậy hấp dẫn và dễ hiểu.  Lên xe đi ăn phở với tôi.

Trên đường đi đến tiệm phở, ông Chữ nói:

-         Tôi đứng ngoài nghe cậu giảng.  Cậu giảng hấp dẫn đến nỗi tôi quên cả công việc của tôi.  Bây giờ tôi yên chí đã tìm được người thế anh Khoáng.

 

Vô tiệm phở Bằng, ông Chữ nói với bà chủ:

-         Hai tô như thường lệ. 

Cách gọi, cho biết ông Chữ chỉ ăn phở của tiệm Bằng.  Tiệm phở nào ở thành phố Đà Lạt cũng ngon.  Tôi đã ăn phở hầu hết các tiệm phở Đà Lạt.  Chỉ trừ tiệm phở gần ga Đà Lạt là tôi chưa ăn vì ở xa trung tâm thành phố.  Nhận được bưu phiếu của gia đình, mấy đứa bạn tôi đi lãnh bưu phiếu ở Bưu Điện thường rủ nhau đi cả bọn bốn năm đứa.  Lãnh tiền xong, chúng tôi đi qua đường Nhà Chung ngay trước Bưu Điện ăn một tô phở Bưu Điện rồi về đường Phan Đình Phùng tắm nước nóng tại tiệm đối diện với rạp xi nê Ngọc Hiệp.  Tôi thường ăn Phở Bằng .  Phở Bằng là tiệm phở lâu đời nhất tại Đà Lạt và nấu đúng theo cách nấu phở Hà Nội.  Có lẽ vì vậy ông thiếu tướng Kỳ thường đến ăn tại phở Bằng mỗi lần ông ta lên Đà Lạt.  Nước dùng của phở Bằng rất trong.  Đến ăn phở vào buổi tối nước dùng vẫn trong như nước suối mặc dù nồi nước dùng lúc ấy gần cạn.  Phở Bằng lại có đĩa rau trông thấy cũng ngon.  Rau xà lách xoăn ăn dòn, hơi đăng đắng, ngọt mát.  Đĩa rau của phở Bằng chỉ có rau ngò tây, rau quế, rau xà lách xoăn và không giá sống hay giá trụng.  Chúng tôi ăn phở  Đắc Tín để được cô con gái bà chủ phục vụ.  Tôi không biết tên cô nên gọi cô ta là cô bé Đắc Tín.  Cô bé Đắc Tín còn có một cô chị và một cô em, nhưng cô là người chúng tôi thường thấy nhất.  Cô bé Đắc Tín là cô gái nhỏ nhắn, da trắng như tuyết, môi đỏ như son. Tường là khách hàng trung thành của tiệm phở Đắc Tín.  Đi theo Tường lãnh bưu phiếu ở Bưu Điện, chúng tôi không bao giờ được Tường cho ăn phở Bưu Điện.  Đến chủ nhật, Tường mời tụi tôi ăn phở Đắc Tín.  Lý do cô bé Đắc Tín học trường Couvant des Oiseaux nên chỉ có ngày chủ nhật để cô ta giúp gia đình tại tiệm phở.

 

Phở Bằng, phở Đắc Tín ở trên đường Hàm Nghi.  Phở Tùng cũng ở đường Hàm Nghi ngay bến xe chở khách trong tỉnh Tuyên Đức.  Phở Tùng mới mở ngay ở bến xe Đà Lạt đi Trại Hầm, Trại Mát, Tùng Nghĩa và các vùng lân cận quanh thị xã.  Thỉnh thoảng di dậy học khuya về tôi ghé ăn phở Tùng vì phở Tùng đóng cửa muộn hơn phở Bằng và Đắc Tín.

 

Tôi thích ăn phở Ngọc Lan ở bến xe đi các tỉnh Sài Gòn, Nha Trang. Tô phở Ngọc Lan lớn hơn tô phở của các tiệm khác, miếng thịt nạm dầy mền và thơm, gầu vàng óng cắn và nhai thấy dòn dòn và ngon ngọt, vè trắng phau và dòn, đặc biệt là hành củ ngâm dấm khách nào cũng thích.  Ăn phở Ngọc Lan tôi lại được ưu tiên.  Vô tiệm là có phở ăn ngay.  Sở dĩ tôi có ưu tiên này vì cậu con trai ông chủ tiệm, Hưng,  là học trò lớp đệ tứ B của tôi.  Thấy tôi , Hưng nói nhỏ gì với bố, lát sau Hưng bưng phở cho tôi và nói:

-         Phở của thầy.

Sau đó, Hưng mới bưng phở cho mấy đứa bạn đi cùng tôi.  So sánh tô phở của tôi với tô phở của mấy đứa bạn thì tô phở của tôi hấp dẫn hơn hẳn. Tô hoa văn đẹp hơn, nhiều thịt hơn, tô phở to hơn.   Tôi không biết tô phở của tôi gọi là tô phở gì.  Bạn bè tôi, đứa thì gọi phở tái nạm gầu, đứa thì gọi tái nạm gân, đứa thì gọi tô tái nạm gầu gân gối sách sụn.  Còn tô phở của tôi thì gồm đủ thứ.  Tôi hỏi Hưng:

-         Thầy gọi tái nạm gầu, tô này có phải là tái nạm gầu không?

Hưng trả lời :

-         Bố em làm tô Đặc Biệt.

Bạn tôi nói rằng tôi chưa đi làm việc mà đã có máu ăn hối lộ. Tôi cho Hưng điểm nới để được tiếp đãi hậu hĩnh hơn.  Một lần tôi nói với Hưng:

-         Thấy tôi vô ăn phở, trò nói chi với ba trò

-         Em nói với bố em :’’Bố, thầy con”

-         Tôi chỉ là khách như mọi người khác.  Trò làm như vậy trò không sợ người khác phiền lòng sao?

-         Bố em với em chỉ làm bổn phận.

-         Nói cho tôi rõ bố trò và trò làm bổn phận gì vậy?

-         Bổn phận với thầy

-         Lần sau trò đừng làm như rứa.  Bạn bè tôi nói tôi ăn hối lộ.  Tôi cho trò điểm nới

-         Bạn thầy nói đùa.  Cả lớp thương thầy chứ phải mình em đâu.  Cả lớp biết thầy tận tâm và công bằng.

-         Nhưng trò đừng làm như rứa.  Không công bằng.

-         Người Việt Nam, ai cũng làm như bố em và em.  Không thầy đố mày làm nên mà thầy.

Ăn phở Ngọc Lan hai ba lần, sau đó tôi không đến ăn phở Ngọc Lan nữa vì sợ bị mang tiếng lợi dụng học trò.

 

Ngồi ăn phở với ông Chữ.  Ông Chữ vui mà tôi cũng vui. Ông Chữ nói:

-         Cậu giảng rất hấp dẫn.  Trong việc dạy Việt Văn, cậu có hai điểm hay.  Thứ nhất gợi ra câu hỏi để học trò có ý kiến tranh luận.  Thứ hai là cậu ra bài tập viết lại bài thơ bằng văn xuôi.  Viết lại bài thơ bằng văn xuôi, học sinh viết theo ngôn ngữ hiện nay, không phải ngôn ngữ của của thời tác giả.

-         Cám ơn lời khen của ông. Tôi học được lối dạy Việt Văn của thầy Hồng, thầy dạy Việt Văn lớp đệ tứ trường Phan Châu Trinh.  Dạy Việt Văn rất khó.  Người thầy phải làm sao cho học trò cảm xúc được như tác giả đã cảm xúc khi viết ra tác phẩm.  Học trò và tác giả ở thời đại khác nhau, cuộc đời khác nhau, trình độ khác nhau, ngôn ngữ diễn đạt cũng khác nhau, cái khó là ở những chỗ đó.   Cái khó nữa là làm sao cho học trò không đứng trên quan điểm thời đại ngày nay để phê bình giá trị của tác phẩm được ra đời trong thời đại trước. Thầy Hồng có một điểm rất hay là để cho học trò tự do phát biểu những ý kiến, những suy nghĩ của mình về tác phẩm kể cả những ý kiến trái lại hẳn với ý kiến thường thấy trên các sách giáo khoa.  Không ít những bài giáo khoa hay những bài viết của nhiều nhà giáo, nhà văn đã gán ghép cho tác giả những điều mà tác giả không nghĩ đến lúc hoàn thành tác phẩm. Tuy vậy thầy Hồng vẫn thường khuyên chúng tôi khi đi thi thì nên viết theo những quyển sách hướng dẫn làm bài bình luận văn chương hay nghị luận của các nhà giáo nổi danh như Nguyễn sĩ Tế, Nguyễn duy Diễn. Thầy nói không nên viết những ý kiến riêng của mình khác hẳn với lập luận và cách nhìn trên sách giáo khoa.  Những bài viết đó dành để viết trên báo chí, tạp chí văn nghệ.      

-         Tôi trả cho cậu một trăm đồng một giờ dạy Việt Văn.  Năm chục cho một giờ dạy toán.

Tôi ngẩn ngơ không biết mình nghe có đúng khộng ?  Tôi nói:

-         Tôi cám ơn sự rộng rãi của ông.

 

Tôi phải làm việc thật vất vả trong những tháng đầu.  Học bài cho việc học của mình, học bài cho việc đi dạy.  Tôi cảm thấy hạnh phúc, hạnh phúc thật lớn.  Hạnh phúc vì tôi đã tự lập.  Lương tháng của tôi nhiều hơn lương của ba tôi.  Hạnh phúc thứ hai là tôi nhớ ba mạ tôi và tôi biết ba mạ tôi bằng lòng về tôi.  Hạnh phúc thứ ba là tôi nhớ Hoa.  Tôi biết rằng tôi có khả năng đem cho nàng đời sống không túng thiếu.  Hạnh phúc thứ tư tôi đang học tại một đại học đầm ấm tình bạn, tại một thành phố xinh đẹp hiền hòa.

 

Đầu năm dương lịch, một sự kiện khiến chúng tôi phấn khởi, nhưng người vui mừng nhất phải là thầy Trần Long.  Trường đổi tên thành Trường Chính Trị Kinh Doanh thay cho tên dài lòng thòng Trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp.  Viện nâng chức của thầy Trần Long từ Giám Đốc Học Vụ lên thành Khoa Trưởng.  Sự kiện này có nghĩa là trường tôi được nâng cấp ngang hàng với các trường Đại Học Khoa Học, trường Đại Học Văn Khoa.  Cùng thời gian này, thầy Trần Long nhận được giấy biệt phái chuyển từ trường Võ Bị Đà Lạt về Viện Đại Học Đà Lạt.  Từ nay chúng tôi sẽ không được thấy thầy Trần Long mặc quân phục trên bục giảng.

 

Mùa xuân về.  Hoa đào nở.  Lần đầu tiên trong đời tôi thấy Hoa Anh Đào.  Trước đây tôi chỉ biết hoa Đào qua sách vở hay phim ảnh.  Hà Nội có làng Nhật Tân chuyên trồng Đào để bán trong dịp tết.  Nước Nhật là xứ sở của hoa Anh Đào. Truyện Kiều có những câu thơ về hoa Đào. 

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

Tôi cũng đã đọc giai thoại và bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Thôi Hộ nói về màu hoa đào và má hồng của mỹ nhân.  Nhớ câu truyện tình đẹp và thần tiên của Thôi Hộ khiến tôi háo hức muốn được ngắm và được nói chuyện với hoa đào.  Câu truyện kể rằng :  Thôi Hộ thư sinh đời Đường văn hay chữ tốt nhưng lại lận đận trên con đường khoa cử .  Một ngày xuân, Thôi Hộ dạo chơi vùng ngoại ô kinh thành.  Khát nước, chàng ghé vô một nhà có vườn anh đào đang nở hoa để xin nước uống.  Một giai nhân đem nước cho chàng.  Thôi hộ ngơ ngẩn vì sắc đẹp của cô gái.  Mùa xuân năm sau, chàng trở lại chốn cũ để tìm người năm trước.  Cửa đóng then cài, gọi nhiều lần nhưng không ai mở cửa, Thôi Hộ làm bài thơ và cài bài thơ trên cánh cửa bên trái.  Bài thơ như sau:

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong

Cụ  Trần Trọng Kim dịch:

Hôm nay năm ngoái, cửa sài,

Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi

Mặt người chẳng biết đâu rồi

Hoa đào còn đó còn cười gió đông

Người con gái đọc thơ Thôi Hộ.  Nàng ngã bệnh và qua đời.  Ngay ngày người con gái qua đời, Thôi Hộ chợt đến.  Nghe tiếng khóc trong nhà, chàng gọi cửa.  Một ông già mở cửa và hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không ?  Ông lão kể rằng sau khi con gái ông đọc bài thơ của chàng, nàng buồn rầu, ngã bệnh, không ăn uống và chết.  Thôi Hộ ôm thây nàng mà khóc.  Người con gái bỗng hồi tỉnh.  Ông lão gả con gái cho Thôi Hộ.

 

Hoa Đào qua sách vở, qua phim ảnh thật đẹp.  Hoa đào ngoài thiên nhiên đẹp nhiều lần hơn hoa Đào trong phim ảnh, trong sách vở.  Tôi đứng nhìn hoa Đào lòng thấy ngẩn ngơ.  Cả một cây toàn là hoa mà tôi vẫn thấy một dáng mong manh thanh thoát.  Một cây toàn là hoa mà tôi vẫn thấy hài hòa hiền hậu.  Tôi đứng nhìn Hoa Đào.  Mặc dầu cả hai im lặng, nhưng thật ra chúng tôi đã nói với nhau rất nhiều.  Tôi hỏi hoa Đào:

-         Có màu hồng nào đẹp bằng mầu hồng hoa đào

-         Có , màu hồng đôi má mỗi khi thẹn thùng của Hoa con dì Cúc

-         Hoa Đào biết Hoa con dì Cúc

-         Em là Hoa con dì Cúc

-         Có ai hỏi Hoa Đào giống câu hỏi của anh đã hỏi hoa đào không ?

-         Có, ông nhạc sĩ Hoàng Nguyên.

-         Em trả lời ông Hoàng Nguyên như thế nào ?

-         Màu hoa đào đẹp như môi hồng người anh yêu

-         Hoa đào biết người yêu của nhạc sĩ Hoàng Nguyên ?

-         Em là người yêu của nhạc sĩ Hoàng Nguyên

-         Răng hoa đào nhiều người yêu rứa ?

-         Đâu phải lỗi tại em.  Mọi người yêu em và em đáp lại tình yêu của mọi người. 

Một lần ngắm hoa đào, tôi cảm thấy hoa đào buồn :

-         Hoa đào có điều chi buồn phải không ?

-         Tối thứ sáu tuần trước, một anh Sinh Viên Chính Trị Kinh Doanh vô vườn một nhà ở đường Võ Tánh.  Anh ta đốn một cây Anh Đào sát tận gốc.  Anh ta đắp đất lên gốc cây đào để phi tang.  Sáng hôm kia anh ta đem cây anh đào về Sài Gòn .

-         Tha thứ cho anh ta.  Anh ta quá yêu hoa Anh Đào nên bầy trò nghịch ngợm … Nhưng làm sao anh ta có thể đem cây đào to về Sài Gòn được . Anh ta đi xe đò hay máy bay về Sài Gòn.

-         Anh ta đáp máy bay .  Anh ta đem cây đào xuống phi trường Liên Khương .

-         Ai cho phép anh ta mang cây đào to lên máy bay

-         Anh ta to gan.  Anh ta gói cây đào cẩn thận.  Anh ta viết bên ngoài : SINH VIÊN VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT KÍNH BIẾU THƯỢNG TỌA VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO .  Anh ta đã đem được cây đào về Sài Gòn để tặng người mẹ yêu quí của anh ta .

-         Bà cụ mẹ anh chắc phải mừng đến rơi nước mắt

-         Trái lại, bà cụ rơi nước mắt vì buồn .  Suốt buổi tối, bà cụ đọc kinh sám hối và xin tha tội cho đứa con ngỗ nghịch của bà .  Nể lời bà cụ là người nhân hậu, chúng em đã xá tội cho anh ta .

 

Hừng sáng sương chưa tan, màu hồng hoa đào thấp thoáng trong sương như nàng tiên mờ mờ ảo ảo.  Nắng ấm mùa xuân làm hoa đào rực rỡ, cái đẹp toàn bích của người thiếu nữ của tuổi dậy thì.  Hoa đào bay trong gió cũng đẹp.  Những cánh đào nằm trên mặt đất cũng đẹp, đẹp hơn những xác pháo hồng trên sân nhà cô gái ngày tân hôn.  Tôi phải thận trọng từng bước chân tôi để không đạp lên những cánh hoa đào nằm trên mặt đất.

 

Đà Lạt tổ chức hội chợ đón tết .  Hội chợ tết Đà Lạt được tổ chức tại Khuôn Viên tòa Tỉnh.  Đặc biệt hơn các hội chợ tết tại các tỉnh thành khác, hội chợ tết Đà Lạt tổ chức Thi Hoa Hậu.  Các trường trung học trong thị xã như Bùi Thị Xuân, Yersin, Việt Anh …  gửi mỹ nhân tham dự.  Viện đại học Đà Lạt cũng có thí sinh tham gia.   Điều ít ai ngờ được hoa hậu và á hậu đều thuộc về hai nữ sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh.  Người đoạt vương niệm hoa hậu là một cô gái xứ Mỹ Tho tên Nguyễn Thị Thanh Thủy.  Người đoạt á hậu là cô gái Hà Nội tên Trương Thị Phùng.  Cả hai cô xinh đẹp ngang nhau, đối đáp nhanh nhẹn duyên dáng như nhau.  Cô miền Nam thắng cô miền Bắc nhờ sự cố vấn thẩm mỹ của thi sĩ Ly Sa Nguyễn Văn Sơn.  Sơn làm cố vấn cho cô miền Nam.  Anh huấn luyện cho cô cách đi đứng, ăn nói đối đáp sao cho nhẹ nhàng duyên dáng, nhờ vậy cô miền Nam đoạt giải hoa khôi.  Hai hôm sau, Sơn than với chúng tôi :

-         Tao làm cố vấn mỹ thuật cho bà  Thủy đoạt giải hoa khôi chẳng được gì mà bị bà Phùng giận. 

 

Hoa Đào đã nở khắp nơi, các bạn tôi rộn ràng sửa soạn về quê ăn tết.  Đường vô viện dần dần vắng bóng người.  Các giảng đường đóng cửa.  Tiếng nói cười vụt biến mất.  Lòng tôi buồn bâng khuâng.  Tôi vẫn thấy tết chưa về, xuân chưa tới.  Riêng tôi, tôi thấy thiếu một cái gì đó, mà phải có cái đó, tôi mới thấy tết.  Tôi thiếu những cây mai, những bông mai vàng thân thuộc.  Tôi nhớ những cây mai già nở hoa trong các vườn ở Vĩ Dạ, Dương Nỗ, Kim Long … Thấy hoa mai tôi mới thấy tết.  Thấy hoa mai tôi mới thấy xuân về.  Nhưng tôi  biết một ngày nào đó của năm sau, khi thấy hoa đào nở tôi thấy xuân về.  Tôi biết chắc chắn như vậy. Tôi về Huế ăn tết.  Về Huế, tôi nhìn thấy hoa mai vàng để chắc chắn tết đang đến và cũng để về gập Hoa trong ngày giỗ bà ngoại Hoa.

 

Sau giờ dậy cuối cùng để nghỉ tết, Tôi rủ  Khương đi mua vé máy bay.  Khương rủ tôi đi vô viện với nó.  Tôi hỏi mục đích vô viện, Khương không nói.  Đi tới văn phòng Viện, Khương nói::

-         Vô mượn tiền cha Lập.

-         Tao có tiền.  Mi hết tiền, tao đưa cho mi mượn.  Cha Viện biết mi là thằng cha căng chú kiết nào mà dám cho mi mượn tiền.

-         Cứ vô với tao.  Cha Viện rất tin sinh viên.  Có đứa bài bạc hết tiền, nói dối cha Viện để mượn tiền.  Tháng trước thằng Tượng thua bài rạt gáo, phải bán hết vé ăn cơm.  Tượng nói dối cha Lập rằng hai đứa em lên thăm nó đang ở ngoài khách sạn Ngọc Lan nên nó cần tiền để đưa hai em nó đi du ngoạn Đà Lạt.  Trước Noel mấy toán xin tiền Cha để tổ chức party.  Cha hỏi có bao nhiêu sinh viên tham dự.  Hai mươi đứa tham dự thì chúng khai là bốn chục .  Nhất quỉ nhì ma thứ ba sinh viên thứ tư mới tới học trò

-         Mi đứng thứ mấy

-         Tao mượn tiền về quê ăn tết thì có chi xấu .  Tết vô tao trả .

-         Mi thề đi

-         Tao mượn tiền cha Lập.  Tao có mượn tiền mi đâu mà mi bắt tao thề

-         Tao biết tẩy mi.  Mượn tiền tao thì mi phải trả.  Mi mượn tiền cha Lập là mi tính đường quịt.  Mi còn đứng trên quỉ.

-         Mi đừng nói bậy.  Tao thề tết vô, tao không trả tiền mượn cha Viện thì máy bay cán chết tao

 

Chúng tôi vô văn phòng cha Viện.  Tôi thấy Long trong văn phòng cha Viện đi ra với nụ cười tươi.  Khương hỏi Long :

-         Mấy thước ?

Long đưa hai ngón tay.  Long đã được cha cho mượn hai ngàn.  Lần đầu tiên tôi vô văn phòng của Cha Viện Trưởng.

Cha hỏi :

-         Hai con vô gập cha có chuyện chi không ?

-         Thưa cha, con muốn về thăm gia đình trong dịp tết Nguyên Đán.

-         Gia đình con ở mô ?  Anh Long vừa mới vô gập cha để mượn tiền về quê ăn tết.  Hai con cũng muốn mượn tiền như anh Long phải không ?

-         Dạ. 

-         Ghi tên vô sổ.  Cha cho mỗi anh mượn hai ngàn. 

Khương ghi tên vô sổ rồi đưa quyển sổ lại cho Cha Lập.  Tôi liếc nhìn quyển sổ.  Số thứ tự của Khương số hai mươi hai.  Nghĩa là đã có hai mươi hai sinh viên mượn tiền để về quê ăn tết.  Cha Lập nói :

          -     Đưa sổ cho bạn con ghi

          -     Thưa cha con có tiền. 

Khương cũng được cha cho mượn hai ngàn đồng.

Cha Viện Trưởng đẩy hộp thuốc lá đến cho tôi.  Tôi nói:

-         Cám ơn cha, con không hút thuốc.

Khương mở hộp thuốc rất tự nhiên.  Khương rút ra một điếu thuốc màu đen to hơn những điếu thuốc Salem, Palmall nhưng nhỏ hơn những điếu thuốc cigar, Khương nói:

-         Anh Thanh không hút thuốc vì sợ hại sức khỏe.  Con hút thuốc, con càng khỏe.  Thanh không lấy, con lấy phần của Thanh.

Khương rút thêm một điếu nữa và nói :

-         Điếu này là phần của con.

Cha cười và nói với thằng Khương láu lỉnh dễ thương:

-         Anh thích thì cha cho.  Anh cầm cả hộp.  Tháng trước cha cũng cho anh Phong một hộp.  Các anh chia nhau.

-         Con xin cha hai điếu.  Hai đứa con là hai đứa sau cùng về quê ăn tết.  Còn ai nữa đâu mà chia.  Xin phép cha, chúng con về.  Sang năm mới chúng con chúc cha được dồi dào sức khẻo

-         Cha chúc các con về ăn tết với gia đình được vui vẻ.  Cha gởi lời cầu chúc gia đình các con được hạnh phúc.

-         Chúng con xin cám ơn cha.

 

Chúng tôi đi ra phố ăn cơm ở quán Như Ý trên đường Minh Mạng.  Quán cơm nhỏ chỉ có ba bàn, mỗi bàn bốn ghế.  Quán cơm thấp hơn mặt đường.  Chúng tôi thỉnh thoảng đến ăn để thưởng thức món cà ngâm trong mắn cá nục thật ngon của nhà hàng.  Ăn xong chúng tôi đi bộ qua trạm hàng không Việt Nam để mua vé máy bay.  Chúng tôi trở về khu Hòa Bình và chợ Đà Lạt để mua quà tết đem về nhà.  Tôi và Khương mang những gói quà mua được gửi cô Bích Liên, trong chiếc áo dài xanh học trò, đang ngồi tại tiệm vàng của gia đình tại  khu Hòa Bình.  Chúng tôi đến quán cà phê Tùng.  Quán cà phê Tùng buổi chiều ngày gần tết nên không đông khách.  Chúng tôi thích ngồi uống cà phê tại Cà Phê Tùng hơn tại Thủy Tạ.  Cà Phê Tùng ngay trung tâm thành phố thật thuận tiện cho những lần đi chơi khuya.  Tôi không nghiền cà phê, thuốc lá nhưng tôi thích ngồi chung với bạn bè tại quán cà phê Tùng vào những buổi tối đi chơi khuya hay đi xi nê.  Bạn tôi, đứa thì nói, đứa thì mơ màng nhìn khói thuốc, đứa thì nhâm nhi tách cà phê, đứa thì ngồi nhìn ra ngoài đường qua cửa kính mặc dù trời tối không người qua lại,  còn tôi ngồi ngắm bức tranh vẽ nụ cười nàng Mona Lisa của Leonard De Vinci.  Trong tiệm có ba bức tranh, chúng tôi thường ngồi bàn trước bức tranh Mona Lisa vì bàn này gần cửa kính nhìn ra đường.  Mỗi đứa chúng tôi mơ màng theo nỗi niềm riêng.  Ngồi cà phê Tùng ấm cúng, ấm áp hơn ngồi Thủy Tạ.  Chỉ có một lần ngồi uống cà phê Thủy Tạ làm tôi xúc động.  Một buổi chiều mưa tầm tã trắng xáo hồ Xuân Hương, ngồi uống cà phê tại Thủy Tạ làm tôi nhớ những ngày mưa trắng xáo trên sông Hương phủ mờ cầu Tràng Tiền.  Chiều mưa trên hồ Xuân Hương thật đẹp nhưng không buồn như chiều mưa trên sông Hương.

           

Tôi không mua vé máy bay đi Huế.  Tôi mua vé đi Đà Nẵng với hy vọng được đi chuyến xe lửa ra Huế với Hoa.  Xe Hàng Không Việt Nam đưa tôi từ sân bay Đà Nẵng đến trạm Hàng Không Việt Nam nằm trên đường Lê Lợi, Đà Nẵng.  Tôi gọi xích lô để đi đến xóm Mười Sáu Gian.  Nhà Hoa đóng cửa.  Người đàn ông ở trong nhà cũ của tôi, mới đổi từ trong Nam ra, cho tôi biết gia đình Hoa đã ra Huế đã ba hôm nay. Ông ta cho tôi biết có chuyến tàu chợ đi Huế lúc một giờ trưa.  Tôi vội vàng đi ra ga để kịp đáp chuyến tàu chợ ra Huế.

 

Tàu của tôi đến ga Lăng Cô khoảng ba giờ chiều.  Trên ga Lăng Cô đã có chuyến tàu từ Huế đến đang chờ sẵn trên sân ga. Tàu của tôi vừa ngừng thì tàu Huế - Đà Nẵng cũng hú còi báo hiệu tàu dời ga.  Con tàu chậm chạp dời ga.  Đầu máy đang phì phà phì phạch phà những khói nước trắng xáo.  Con tàu cổ lỗ sĩ có từ ba thế kỷ trước ở phương Tây. Tôi nhớ lại bài thơ NHỮNG NGÀY NGHỈ HỌC  của thi sĩ Tế Hanh mà thương cho dân tộc mình còn quá nghèo nàn :

 

Tôi thấy lòng thương những chuyến tàu

Ngàn đời không đủ sức đi mau

Có chi vướng víu trong hơi máy

Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau

 

Tôi bỗng giật mình sửng sốt.  Hoa và Thuần đứng nơi cửa sổ toa tàu thứ hai.  Hoa và Thuần vẫy tay.  Tôi vơ vội hành lý của tôi.  Tôi nhẩy xuống sân ga.  Tôi chạy trên sân ga đầy người qua lại.  Tôi chỉ còn thấy thân mình Hoa chồm ra khỏi cửa sổ.  Tôi không thấy Hoa nữa.  Đoàn tàu sắp vượt qua tôi.  Tôi vội vàng ném hành lý của tôi lên một toa xe.  Tôi chụp được thanh sắt của tao xe. Tôi lấy hết sức bình sinh để đưa người lên tao tàu.  Một người đàn ông đứng ngay ở cửa toa tàu nắm tay tôi và giúp tôi lên được toa tàu.  Nhờ ông ta tôi lên được tàu.  Không có ông ta giúp, không biết tình trạng tôi ra sao.  Có khi tôi đã về bên kia thế giới vì bị xe hỏa cán chết.  Tôi cám ơn người đàn ông.  Tôi sửa soạn lại quần áo và hành lý.  Tôi đi len lỏi trong những toa chật người và hành lý.  Tôi đi tìm Hoa.  Hoa thấy tôi, nàng đứng bật dậy.  Chúng tôi muốn chạy đâm sầm vào nhau để ôm chặt lấy nhau.  Nhưng cả hai chúng tôi không dám.  Chúng tôi khựng lại như bị trời trồng.  Thuần chạy lại ôm chầm lấy tôi:

-         Kỵ bà ngoại, răng chừ anh mới về ? 

Tôi không trả lời Thuần.  Tôi chào ba mạ Hoa và nói :

-         Con tính lộn ngày ta và ngày tây nên con về trễ.

-         Kỵ ngoại ngày hôm qua.  Cậu Minh nhắc con.  Con không về nên không ai canh nồi bánh tét cho cậu.

-         Chị Hoa nhắc anh nhiều nhất.

-         Chị nhắc anh Thanh khi mô ?

-         Hồi sáng, em nghe chị hỏi dì Quyên mấy lần.  Chị còn chối.

-         Chị nhắc anh Thanh thì đã răng

Ba mạ Hoa hỏi về chuyện học hành, đời sống của tôi tại Đà Lạt.  Qua những câu hỏi của hai người, tôi biết ba mạ tôi đã kể cho ba mạ Hoa rất chi tiết về đời sống của tôi tại Đà Lạt.  Tầu đến ga Liên Chiểu.  Tôi nói :

-         Con mua hoa Huệ để về cúng ngoại.  Chai ruợu mận, mứt mận để biếu dì dượng.   Đến ga Nam Ô con xuống .  Con đón xe ra Huế

Ba của Hoa nói :

-         Về Đà Nẵng ngủ lại.  Mai ra Huế chuyến tàu sớm hay tàu trưa.  Chừ đã năm giờ hơn rồi, khó đón xe ra Huế.  Đêm tối, bây chừ không an ninh.

    

Sáng hôm sau, tôi dẫn chị em Hoa đi chợ Hàn.  Tôi mua cho Hoa một cái trâm bằng đồi mồi.  Hoa kẹp tóc nàng.  Nàng đứng cho tôi ngắm.  Tôi gật đầu :

-         Đẹp hơn thơ.

Chúng tôi vô chợ Hàng, tôi mua một xấp vải may áo dài màu thanh thiên, một đôi guốc cho Hoa.  Khi chúng tôi ra khỏi chợ, Thuần nói :

-         Đi về răng ?  Răng cái chi anh cũng mua cho chị Hoa.  Em không có chi mô răng ?

-         Rứa em thích chi ?

-         Em thích xe đạp

-         Mi đòi chi mà vô hậu.  Anh Thanh mần chi có tiền mua xe đạp cho mi.

Chúng tôi đi cửa hàng bán xe đạp đường Lê Lợi để mua xe đạp cho Thuần.  Mua xong tôi nói :

-         Chúng mình đi ăn rồi về.

-         Về nhà, em nấu cho anh ăn … Em nấu bánh canh Nam Phổ và đổ bánh Khoái.  Em thích nấu cho anh ăn.

-         Bánh canh mềm cột ba mạ em chặt.  Cột em với anh có chặt không?

-         Em không biết. Cuộc đời em tùy thuộc vô anh.  Anh cho em cái chi thì em biết em được cái đó.  Em hoàn toàn tin tưởng anh.

Tôi nắm chặt tay Hoa.  Thuần chạy tới nắm tay tôi : 

-         Về nhà anh tập cho em đi xe đạp, nghe anh

Chúng tôi đi xích lô về nhà.  Hoa và Thuần ngồi một xe.  Tôi và  chiếc xe đạp một xe.  Về nhà tôi tập xe đạp cho Thuần.  Hoa nấu ăn.

 

Tôi trở lại Đà Lạt.  Xe của Hàng Không Việt Nam chở hành khách từ phi trường Liên Khương về Đà Lạt.  Tới thác Prenn, tôi thấy lòng tôi rộn ràng.  Xe qua thác Datanla, lòng tôi xao xuyến bồi hồi.  Xe vô cửa ngõ Đà Lạt, tôi đứng bật dậy. Những cây đào đầy hoa thấp thoáng trong những biệt thự đã khiến tôi đứng bật dậy.  Hoa Đào vẫn nở, mùa xuân vẫn còn.  Màu hồng nổi trên màu xanh của cây, màu vàng của những khung tường.  Tôi thấy mùa xuân Đà Lạt.  Hoa đào và mùa xuân là một.  Cũng như ở Huế, Hoa Mai và mùa xuân là một. 

 

Tôi thấy mình đơn côi.  Tôi ước ao có Hoa ở bên cạnh.  Tôi nhớ Hoa quá chừng.  Tôi ngồi xuống.  Tôi lấy từ trong túi xách tay chiếc ao len Hoa tặng tôi buổi trưa khi chúng tôi chia tay tại cây Thầu Đâu trong xóm Mười Sáu Gian.  Giọng Hoa còn văng vẳng bên tai :

-         Đà Lạt lạnh, em đan áo ni cho anh, anh mặc cho ấm.

 

Buổi học đầu tiên sau những ngày nghỉ tết chấm dứt lúc 11 giờ 30.  Tôi rủ Trân, học trên tôi một lớp tại trường Phan Châu Trinh, ra phố ăn cơm tại tiệm ăn Nam Sơn.  Trân nói :

-         Tao đãi mi ăn món ni.  Ăn món ni, tối nay mi bắn máy bay liền.

Trân dẫn tôi về phòng tại giảng đường Khoa Học.  Trân tới Viện Đại Học trễ nhưng nhờ có giấy giới thiệu của một vị linh mục nên được cha Lập sắp xếp cho ở tạm một phòng trên lầu hai của giảng đường Khoa Học.  Trân và Hưng ở tầng hai, giáo sư phụ khảo Bồ Bạch Mai ở một phòng cạnh phòng thí nghiệm ở tầng một. Trân bảo Hưng, bạn cùng phòng, sinh viên Khoa Học, đang nằm đọc sách trên giường:

-         Dậy, có khách quí

Hưng đưa mắt nhìn tôi rồi hỏi Trân :

-         Như thường lệ

-         Nhận được mật khẩu còn hỏi chi nữa .  Cứ thế mà thi hành.

Hưng vùng dậy như một nhân viên cứu hỏa chuyên nghiệp.  Không nói cũng không chào hỏi tôi, Hưng lấy nồi, nếp, đậu xanh và mở cửa đi ra.  Trân mở cửa sổ, đưa mắt quan sát rồi trèo ra véranda.  Bây giờ tôi biết ý định của Trân.  Trân làm bẫy chim.  Bẫy chim của Trân đơn giản.  Bẫy chỉ gồm một thau bằng nhôm lớn hằng ngày dùng để giặt quần áo, một sợi dây dù cột vào một khúc cây và một ít gạo.  Làm xong bẫy, Trân trở vô phòng, khép cửa sổ.  tay cầm sợi dây, mắt nhìn qua khe cửa sổ.  Tôi đứng sau Trân.  Năm phút sau, hơn mười con chim bồ câu xà xuống véranda.  Chúng tranh nhau mổ những hạt gạo.  Trân giật mạnh sợi dây, mở cửa sổ và trèo ra ngoài, nhanh nhẹn không thua gì con mèo.  Một tay giữ chậu thau, một tay thò vô chậu bắt ra một con chim bồ câu,  Trân đưa con chim bồ câu cho tôi và tiếp tục bắt thêm một con nữa.  Trân nhẩy vô phòng và nói :

-         Ba thằng chỉ bắt được hai con.  Tao làm một mẻ nữa để  đủ cho ba thằng

Hưng để nồi lên bếp điện và nói :

-         Đãi khách quí kiểu này thì bầy bồ câu của Cha Viện chẳng mấy chốc chẳng còn con nào. 

-         Khách quí đến nhà không gà thì phải có bồ câu

Trân bóp mũi hai con bồ câu cho đến chết.  Trân bỏ hai con chim vô nồi và mở cửa đi ra.  Tôi hỏi Hưng :

-         Hai đứa mi trộm được bao nhiêu con bồ câu của Cha Viện ?

-         Mày là khách quí thứ ba

-         Sáu con

-         Bảy con.  Có lần bẫy được ba con.

Trân vô phòng.  Trân bỏ hai con chim bồ câu vô nồi cháo đậu xanh để trên bếp điện.  Trân đem chai rượu dâu, một con khô mực lớn để trên bàn và nói:

-         Trong khi chờ cháo chín,  làm một chút cho ấm bụng.

Trân đổ alcool vô một dĩa lớn.  Trân cầm con mực khô và nói :

-         Mực cửa Đại, Hội An quê ta, thơm ngon hết xẩy

Ăn xong cháo bồ câu hầm đậu xanh, tôi mời Trân và Hưng đi uống cà phê Tùng.  Hai đứa từ chối.

 
(còn tiếp)
mk
IP IP Logged
Trang  of 2 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.242 seconds.