Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 02/Jun/2013 lúc 12:04am
Giấc mơ bình dị của cô gái Việt Nam


Viết theo tâm sự của một cô dâu Việt Nam nhân một chuyến thăm Đài Bắc.

Có lúc trăng soi dạng lưỡi liềm, nhọn như dao, không khắc vào tim mà lòng vẫn nhói đau. Cũng có lúc trăng chênh chếch như giọt nước mắt khổng lồ thổn thức giữa bầu trời hiu quạnh đen tuyền màu u uẩn. Bao tiếng gió miên man rầm rì giữa hàng cây lá vẫn không làm trăng tươi. Trăng ủ rũ, trăng tư lự, trăng ngẩn ngơ buồn, trăng soi rọi tâm tư lũ con gái chúng tôi.

Tôi nằm bên chồng, nghe tiếng ngáy đều của anh mà thấy lẻ loi, cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má, thương mình. Má đã bao nhiêu năm nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo, cô đơn trong đêm về tịch mịch. Nhưng còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít quanh đây mà sao sương đêm vẫn hoang lạnh?

Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh cho đời sống chật vật của gia đình tôi. Điều này trên lý thuyết cũng không khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết ơn vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu thương.

Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.

Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày thống nhất là ngày hận thù được thăng hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô giáo một trường tiểu học. Đất nước thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa. Má như một kẻ thua trận, gồng gánh đưa lũ con về quê ngoại. Má giã từ Sài Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ cuộc sống an bình ngày xưa. Má tảo tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng về sau những tháng ngày lao tù học làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi ra đời. Và rồi ba lại ra đi kiếm tìm tự do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi tìm tương lai cho cả gia đình, nhưng ba đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên nghỉ trong lòng đại dương. Đã không còn phiền não, không còn trầm tư trong đôi mắt ôn nhu ngày nào. Chỉ thương cho Ba, ra đi trước khi được về thăm quê nội ở bên kia bờ Bến Hải. (Tôi đã được nghe chuyện kể về một dòng sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài phía Bắc và vùng đất tự do phương Nam). Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng để lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ cười hiếm hoi trên môi má đã tắt lịm từ ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua nỗi chết của tâm hồn, gắng gượng sống cho đàn con.

Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn. Chị em tôi bó gối nhìn nhau, nhìn má ngày càng võ vàng vì những cơn bệnh trầm kha không phương tiện chữa trị. Để rồi một ngày, tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những giấc mơ vốn dĩ rất đơn giản đến tội nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng đi tìm tương lai trong những nơi chốn lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người, đơn thuần là những món hàng, quên hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng trơ khoe bày tấm thân thể ngà ngọc, danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ. Tại nơi chốn bát nháo đó, nơi mà ranh giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi gặp chồng tôi.

Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.

Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.

Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi. Đã bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng đế về sự trùng hợp huyền diệu này. Nó đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc men cho má và một mái gia đình với một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù không đồng ngôn ngữ, không đồng quá khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng những ánh mắt lãnh đạm, đôi khi rõ nét miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc hôn nhân lệch lạc, má vẫn nói nghĩa vợ chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn, mong rằng tôi và chồng tôi vẫn sóng bước đồng hành để trong đời sống của tôi không phải chỉ có những mất mát. Tôi nhớ ơn chồng nhưng chưa yêu anh được. Cho đến bây giờ mỗi lần ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để che dấu nỗi e dè, ngại ngùng khi khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc ngang của anh thật cận kề. Có lẻ vì chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông với người trong mộng của chồng. Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.

Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.

Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…Hay là: kiếp trước tui ở ác, nên bây giờ phải chịu nghiệp quả. Mà thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị đánh đập, không bị chuyền tay từ người đàn ông này qua người đàn ông khác. Nhưng tim tôi vẫn khắc khoải, hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia sẻ niềm tủi nhục của những chị bạn. Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi đồng nghĩa với những đường cùng ngõ hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng tôi đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi đã không bao giờ có tuổi thanh xuân. Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực bẫy. Có ai hiểu những khuấy động trong tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn của lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội nghiệp?? Chúng tôi thường đọc thấy những nét rẻ khinh trong mắt người bản xứ, tôi thường phân vân tự hỏi mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội dám mơ ước thoát cảnh khốn cùng. Chỉ mong sao những người cùng tiếng nói đừng khinh miệt những cánh chim phiêu bạt đáng thương của lũ chúng tôi.

Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.

Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm. Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.

Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.

Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro. Tôi đã sống dậy từ bao nỗi chết. Trong tôi bao phác họa muôn màu về một ngày mai khi đứa con bé nhỏ của tôi bước những bước thơ ngây vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng những giấc mơ. Rồi từng ngày tháng trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư lự. Con chưa mở mắt, nhưng tim đã ấp ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương Việt Nam ngàn trùng xa mà những điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh đây. Con sẽ được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết tình hoài hương. Ước ao sao con sẽ yêu thương quê ngoại như má luôn trân trọng nơi chốn má chào đời.

Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái. Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.

Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…

Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích. Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.

Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.

Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.

Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!

Cấn Thị Bích Ngọc
Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 23/Jun/2013 lúc 11:18pm

Bố Vắng Nhà

Đoàn Thị


Tôi lớn lên với mẹ và bốn anh em chúng tôi, bố luôn vắng nhà, nhưng những ngày có bố thật tuyệt vời, những ngày phép ngắn ngủi bố tha chúng tôi đi khắp phố Sài gòn, ăn hàng suốt ngày đến chiều tối mới về nhà. Hàng xóm quen mắt với cảnh bố và đám tùy tùng chúng tôi đi về lúc nào cũng theo trật tự của bố, chúng tôi đi hàng ngang, bố cõng con bé Mật trên lưng, thằng cu Sóc đu đưa bàn tay trái của bố, tôi với anh hai chia nhau bàn tay phải, bốn đứa đu đeo bố như đám khỉ con.

Mẹ lẽo đẽo theo sau chiêm ngưỡng giang san của mẹ, nhìn chồng con níu tay nhau mẹ sướng như đang trên mây. Một năm có vài lần được sống với chồng con, có người vợ lính nào có thể bỏ qua cơ hội ngàn vàng.

Sáng hôm sau thức giấc, anh em chúng tôi khóc như mưa, bố vác ba lô lên đường sáng sớm tinh mơ, như để chuộc lỗi với chúng tôi, bố để lại một bịch kẹo to với hàng chữ, Cu Rừng giữ túi kẹo, thỉnh thoảng chia cho các em, ăn nhiều sâu răng đấy, lần sau về bố sẽ có quà mới cho các con. Con nít đứa nào chả thích kẹo, chỉ có tôi khi ăn kẹo lại nhớ bố da diết, nên viên kẹo có vị hơi mặn vì những giọt nước mắt chầm chậm hòa vào viên kẹo chưa tan trong miệng, mẹ vuốt tóc tôi, hai mẹ con ôm nhau cùng khóc.

Anh hai lớn hơn tôi hai tuổi, thằng nhỏ lên chín không thể chia sẻ nỗi buồn của mẹ như tôi, con bé Suối lanh như cáo, bố xoa đầu tôi bảo như thế và tôi hiểu bố thương tôi nhất vì tôi là đứa mẹ có thể gửi gấm tâm sự những lúc nhớ bố.

Một lần đi thăm chiến sĩ dưỡng thương ở bệnh viện Cộng Hòa, mẹ đã phải lòng bố, trung úy Kỳ, ốm nhom, đen thui như mọi, chỉ có cặp mắt đa tình đủ hớp hồn cô giáo Kim. Sau khi bình phục bố trở về đơn vị trên pleiku, thư qua thư lại, dài mấy trang giấy học trò, cả năm trời hao tốn giấy mực, cũng chỉ có một câu thần chú kỳ diệu “anh yêu em” không bao giờ hết hạn sử dụng.

Ngày mẹ nói chuyện bố với ông ngoại, ông giận không thèm ăn cơm, mẹ cả gan từ chối con trai người bạn thân của ông, lại đi yêu anh lính mồ côi cả cha lẫn mẹ, mộng làm sui với ông bạn chí cốt giáo sư đại học và đón cậu rể kỹ sư tan theo mây khói, ông ngoại không tưởng tượng nổi con gái có thể cãi lệnh cha mẹ như cô giáo Kim.

Bà ngoại tự động đăng cai chức hòa giải, thủ thỉ với mẹ, cha thương con mới sắp xếp như thế, lấy chồng lính rầy đây mai đó, có khi bồ bịch lăng nhăng làm sao con biết được, phận gái có chồng là xong một đời, có gì khổ lắm con à. Giời ạ, bà nói một câu “phản tác dụng”, phận gái một đời chồng làm mẹ cuống lên, đời mẹ chỉ yêu bố không thể là người khác được, mẹ khóc với bà ngoại nài nỉ bà to nhỏ với ông ngoại, để ông đừng tuyệt thực, để ông suy nghĩ lại.

Suy nghĩ mấy tháng trời ông ngoại vẫn thấy ông đúng trăm phần trăm, chỉ có đàn bà là tình cảm vặt vãnh, lúc này mẹ đâm đơn xin chuyển công tác ra miệt Củ Chi và đang chờ phòng giáo dục trả lời.

Tới phiên bà ngoại cuống cuồng trách ông, gia trưởng, ai nỡ ép duyên, lỡ chọn nghề không hợp người ta còn đổi được, lấy chồng rồi, có khổ suốt đời cứ cắn răng mà chịu, tôi với ông sướng gì khi thấy con mình khổ. Mình sinh con chỉ muốn nó hạnh phúc, sao lại tước đi cái quyền định đoạt cuộc đời nó, tôi thấy thằng Kỳ có gì để ông chê, mồ côi cha mẹ đâu phải là một cái tội, ông làm quá con Kim nó đâm đơn xin xuống hậu cứ việt cộng dạy học đó.

Ông thất kinh hồn viá, không ngờ mẹ mù quáng đến độ liều lĩnh lang bạt xuống “18 thôn vườn chông” của bọn thờ ma cộng sản, thằng Kỳ dại dột dẫn xác xuống đó thăm con nhỏ là bị làm thịt ngay, nghĩ đến đây ông đâm bực, không ngờ con gái “chơi ép” mình.

Ông lên lớp mẹ một trận, con tự liệu lấy đời con, sướng khổ do con quyết định, cha sẽ xin lỗi bác Đức, cha không thích cách phản ứng của con, việc gì phải thí mạng mình để làm áp lực với cha, được lắm, con bảo thằng Kỳ đến đây gặp cha.

Mẹ mừng húm, nhưng cũng buồn vì phật ý ông ngoại, mẹ không muốn hạnh phúc của mẹ là cái gai trong mắt ông, bên hiếu bên tình, mẹ có muốn buông bỏ bên nào đâu, ôm cả hai vào lòng cũng không xong.

Mẹ viết thư cho bố báo, em đã “dời sông lắp biển” vì anh, bây giờ anh phải làm điều cần làm để vuốt giận ông ngoại. Bố trả lời, anh cảm ơn em cả suốt cuộc đời này cũng không hết, chuyện lấy lòng cha em, anh thề sẽ chấp hành điều kiện “huấn nhục” của ông, nếu phải quỳ lạy ông anh cũng không từ, Kỳ Rừng này đâu có ngán ai, ngoài em và cha em.

Ngày ra mắt ông ngoại bố mặc quân phục, vì ngoài ba hoa mai đại úy với khuôn mặt “rất lính”, bố biết ông sẽ không vui vì tiền tài danh vọng bố không có như ai kia, chỉ có trái tim chân thành mà thôi. Ông cho phép bố cưới mẹ, với điều kiện phải chung thủy, thương yêu mẹ suốt đời, chưa đưa mẹ lên bàn thờ mà ông phán như linh mục làm phép hôn phối, và phải để mẹ sống chung với ông bà ngoại.

Bố nghẹn họng với điều kiện sau cùng của ông ngoại, đành chấp nhận điều kiện huấn nhục như bố đã hứa với mẹ, bà ngoại trách ông, đã thương thì thương cho trót, sao ông lại giữ rịt con Kim bên mình, ông lầm lì, bà muốn con gái bà dẫn xác ra chiến trường cho trúng đạn à. Mẹ tiễn bố ra về nhắn nhủ, cưới xong em xin chuyển công tác lên Pleiku, bố can, em đừng làm cha phật ý, cụ chấp nhận anh là đủ rồi, từ từ anh lấy lòng cụ rồi tha em lên đó với anh, bố chỉ xoa dịu mẹ thôi, vì bố không muốn mẹ làm buồn lòng ông ngoại.

Hôn lễ của bố mẹ diễn ra theo kiểu nhà binh, vợ chồng xếp Sư Đoàn của bố đại diện đàng trai, chiếu cố thân phận côi cút của bố, 24 giờ phép được tăng lên 48 giờ, cuối cùng ông ngoại chỉ khen bố có nước da sạm cứng cáp và cặp mắt tinh anh.

Anh hai có biệt danh cu Rừng vì da cũng sạm như bố, tôi có nước da trắng như mẹ và có cặp mắt đen nhánh của bố, tên trong nhà của chúng tôi đều do bố gợi ý, Kỳ Rừng bây giờ có cu Rừng làm chi nhánh tại Sài gòn, con bé Suối, thằng cu Sóc, con bé Mật. Biệt danh của anh em chúng tôi bố góp nhặt trong những chuyến hành quân, như thế lúc nào bố cũng thấy chúng tôi quanh quẩn bên bố, mẹ đương nhiên là nữ chúa rừng xanh của bố rồi.

Đầu năm 75 sư đoàn của bố di tản về phiá nam, bố thất thểu vác ba lô về nhà ngoại, vậy mà anh em chúng tôi lại sướng mê tơi, lần đầu tiên bố không còn vắng nhà, cả tháng trời bố quanh quẩn với chúng tôi, người hạnh phúc nhất là mẹ, chỉ có ông ngoại là không vui vì tình hình chiến sự càng ngày càng xấu hơn. Tối đến anh em tôi bu quanh bố để nghe bố kể chuyện bố xáp lá cà với địch, đôi khi bố trầm ngâm khi nhắc đến một đồng đội tử trận, lúc đó anh hai cứ liền miệng, uổng quá, giá bố bắn nhanh một tí là cứu bạn được rồi, bố xoa đầu anh thở dài.

Chỉ vài tháng bên nhau, rồi bố lại vác ba lô đi tù cải tạo, anh em tôi lại nhớ bố, đôi khi cu Sóc bực bội hỏi mẹ, sao bố cứ hay vắng nhà vậy mẹ, mẹ buồn lắm an ủi chúng tôi, rồi bố sẽ về thôi. Vợ lính ngụy như mẹ tự động bị “mất dạy”, theo mấy bà bạn giáo viên bị sa thải, mẹ chuyển sang buôn bán chợ trời. Ông ngoại tiếc ngẩn ngơ chàng rể hụt đã di tản trước ngày 30 tháng tư, càng xót xa cho mẹ giờ này phải tảo tần thay chồng nuôi con, hình như mẹ cảm nhận lời trách thầm của ông ngoại, con cãi cha mẹ trăm đường con hư, nên lặng lẽ sống và không dám than thân trách phận.

Năm 78 ông ngoại đóng vàng cho mẹ và chúng tôi đi bán chính thức, mẹ khóc như mưa xin ở lại chờ bố, ông ngoại quát, con đã cãi cha một lần rồi, bây giờ con phải vì các con của con, đừng mù quáng nữa, khi nào nó về cha sẽ cho tiền nó đi qua với con.

Mấy năm sau bố ra tù cải tạo, trước đó bố biết chúng tôi đã đến Mỹ, bố ghé nhà ngoại tạ tội không đủ sức cưu mang vợ con để ông ngoại phải nhọc tâm chăm sóc chúng tôi trong lúc bố vắng nhà, và xin phép ông bà cho bố “ra riêng”. Bà ngoại mếu máo, tụi nó đi rồi, con ở lại cho mẹ đỡ nhớ chúng nó, mà con đi đâu lúc này, con có còn ai là gia đình, bố nắm tay bà cảm động, từ ngày cưới Kim con coi cha mẹ như đấng sinh thành ra con, nay vợ con của con đã đi Mỹ, con xin cha mẹ cho con tự lo liệu cuộc sống của con, con hứa sẽ đến thăm cha mẹ sau này.

Bố đi rồi, bà ngoại lại trách ông đã chia cách bố mẹ tôi, bây giờ định mệnh lại đưa đẩy gia đình tôi cách biệt cả một đại dương, lần này ông ngoại lại nhịn ăn đến mấy ngày, chả phải để làm áp lực với bà, mà vì ông ân hận đã bày trò để bố phải xa chúng tôi bao nhiêu năm qua.

Năm sau ông gọi bố đến và ra lệnh, anh ở đây vài tuần chờ ngày đi vượt biên, bà ngoại lại khóc vì mừng, bố gầy đét, đen hơn mọi, chỉ có cặp mắt là không thay đổi. Ông ngoại vẫn ít lời, đến giờ cơm ông rót rượu đế bảo bố uống với ông cho vơi nỗi buồn vận nước điêu linh, bà ngoại nói khẽ với bố, vậy là cha đã chấp nhận con rồi đó, tiếc là mẹ con nó không có ở đây để chứng kiến cảnh này.

Ngày ra đi bố quỳ lạy ông bà, xin ông bà tha cho tội đã quyến rũ con gái duy nhất của ông bà, đã thế còn để lại gánh nặng cho ông bà lo toan, giờ đến lượt bố để ông bà gánh thêm chuyến vượt biên này.

Lần đầu tiên ông cầm tay bố tiễn ra cửa, anh đi bình an và mau chóng đoàn tụ với vợ con, bà ngoại ràn rụa nước mắt đưa bố túi lương khô và quần áo, đến nơi con nhớ biên thư cho mẹ. Bố đi rồi, ông ít ăn cơm hơn, mỗi lần uống rượu ông lại nhắc đến bố, bà trách, hồi trước xua đuổi thằng nhỏ, nó đi rồi ông mới biết quý, ông buồn bã, không biết nó đi có trót lọt để gặp vợ con không, giá lúc trước tôi cho con Kim xách gói theo chồng.

Ngày đoàn tụ, Nữ Chúa Rừng Xanh dẫn đám Rừng, Suối, Sóc, Mật đón Kỳ Rừng từ trại tỵ nạn bên Thái Lan đến tiểu bang Ohio, đánh dấu gia đình Kỳ Kim Khôi Khanh Khoa Khuyên hết chia xa sau mười tám năm cưới nhau.

Bố làm ca đêm phụ trách phần điện lạnh cho một khách sạn, khi chúng tôi về đến nhà là bố lại khăn gói đến sở, gia đình chúng tôi lại ít có dịp ăn cơm chung, nhưng chắc chắn là bố hết vắng nhà.

Ngày nghỉ bố của bố, bố làm cơm cho chúng tôi, đi học về đứa nào cũng bám lấy bố hỏi chuyện hành quân trong rừng và chuyện rừng cải tạo, cu Sóc hỏi, bố thích rừng nào hơn, bố cười, rừng nào cũng dễ chết như chơi, nhưng chết trong rừng cải tạo phí đời, chết cho tổ quốc mới đáng một đời người. Cu Sóc gãi đầu tỏ vẽ ưu tư, anh hai đùa, con biết rừng mà bố thích nhất là cu Rừng của bố đây, cả đám nhao nhao, có thật thế không bố, bố cười cười, bố thích “đám rừng” bốn đứa của bố không bỏ sót đứa nào, bé Mật nhanh nhẫu, còn nữ chúa của bố nữa chứ, bố nheo mắt với mẹ, đương nhiên rồi, bố mê mệt gần hai mươi năm rồi đấy.

Vào đúng năm thứ hai mươi bố mẹ chưa kịp thổi nến kỷ niệm ngày cưới, bố đã ra đi vĩnh viễn một ngày tuyết rơi chắn lối đi trên đường đến sở, một xe tải đã tông nát đầu xe của bố.

Ông ngoại là người đau đớn nhất khi biết tin bố mất, ông lại biếng ăn, uống rượu bí tỉ và cứ gọi tên bố, mẹ gọi điện thoại an ủi ông, thôi cha đừng buồn khổ nữa, số mệnh đã an bài, mẹ nói như cho riêng mẹ.

Một đời làm chồng, làm cha, bố luôn vắng nhà, nhưng có phải bố muốn như thế đâu, một người côi cút như bố, có vợ hiền con ngoan, đâu phải ai cũng có diễm phúc đó, nhưng ông trời chả cho ai tất cả, có lẽ bố hiểu điều đó nên bố không hờn ông ngoại.

Năm nào đến ngày Lễ Bố chúng tôi cũng ra nghĩa trang thăm bố, về nhà thế nào cũng có điện thoại của ông ngoại, năm đầu tiên bố mất, giọng ông nghẹn ngào, các con mới đi thăm thằng Kỳ về phải không, có nhớ nhắn với nó cha xin lỗi nó ngàn lần đấy, mẹ lại an ủi ông, anh ấy có giận cha bao giờ đâu mà cha xin lỗi.

Ông cố cãi, nhưng cha giận chính mình, ai đời lại chia cách thằng rể mồ côi với vợ con nó, giờ chúng mày góa bụa, các cháu mồ côi, cha càng thương thằng Kỳ hẫm hiu ngày trước, Kỳ ơi tha lỗi cho cha, giá cha chết trước con, mẹ chết lặng nghe ông ngoại trần tình.

Lúc sinh thời tuy bố thường vắng nhà, nhưng lúc ở bên bố chúng tôi đã cảm nhận bố sinh chỉ để yêu, bố chưa có dịp đét đít hoặc bắt phạt chúng tôi, anh em tôi nhắc đến bố với những câu chuyện lạ lẫm của bố, giai thoại chúng tôi thích nhất là vụ ông ngoại “làm khó” bố mẹ. Đã thế ông còn giận bố, để rồi ông tự thấy ông đã sai lầm dù bố mẹ chưa bao giờ lên tiếng ta thán, sự im lặng, sự tuân phục của bố là một bài học lớn, tình yêu rồi sẽ thắng tất cả.

Không đợi đến ngày Father’s day, ngày nào chúng con cũng nhớ đến bố, tình yêu của bố đã ấp ủ chúng con, đưa dẫn chúng con vào đời với niềm tin vào tình yêu như bố.

Cu Sóc không còn bực bội hỏi, sao bố cứ hay vắng nhà, bố đã về trong trái tim mọi người, Đại úy Kỳ của đám Rừng Suối Sóc Mật, hãy ngủ yên vì mẹ và các con lúc nào cũng ở bên bố.


Đoàn Thị





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Jul/2013 lúc 1:41am

Người con nào thì cũng thương mẹ

   (Bài ca của người du tử)

          Thái Phương


alt

Tôi đậu cử nhân Luật năm 1971. Ít lâu sau thì xin được vào tập sự tại văn phòng của một vị luật sư khá nổi tiếng bạn thân với bố vợ tôi. Làm luật sư tập sự thì nhàn, đồng lương tương đối cũng khá. Hàng tuần, đi làm về tôi thường tới Trung tâm văn hóa Nhật ở đường Phan Ðình Phùng học thêm tiếng Nhật. Học cho biết vậy thôi, nghề luật sư không đòi hỏi phải biết tiếng Nhật. Sau ba năm tập sự, tôi thi đậu và được Luật sư đoàn công nhận luật sư chính thức, cho phép treo bảng đồng, lập văn phòng riêng.
Chưa đầy một năm sau thì tôi thôi không làm luật sư nữa mà cũng thôi không đi học tiếng Nhật, bởi vì các trung tâm ngoại ngữ đã đóng cửa. Tôi trông nom con cái cho vợ tôi đi dạy, thỉnh thoảng cũng kiếm ăn được chút đỉnh do liên lạc với các trung tâm dịch vụ pháp lý. Người ta đưa các đơn từ, giấy má tiếng Nhật hoặc tiếng Anh đến, chúng tôi dịch phụ. Tiền bạc trung tâm tính toán rất tốt nhưng cũng chẳng được bao nhiêu.
May sao thời kỳ mở cửa, nhờ chút ngoại ngữ tôi nộp đơn xin được vào làm trong một khách sạn kiêm nhà hàng sang trọng. Tôi giữ chân tiếp đón khách, mời họ ngồi vào bàn, ghi những món họ muốn dùng, báo cho nhà bếp biết rồi các cô tiếp viên bưng ra. Tiền lương đỡ lắm, đã vậy mà mỗi cuối tháng chúng tôi còn được thưởng thêm, vợ tôi có vẻ yên tâm lắm.
Một hôm ông giám đốc khách sạn cho người gọi tôi lên văn phòng ở trên lầu. Ông chỉ chiếc ghế trước mặt trong căn phòng lạnh bảo tôi ngồi rồi cầm gói thuốc ba số năm trên bàn mời tôi hút:
- Anh quản lý nói anh biết nói tiếng Nhật ?
- Vâng. Thưa ông giám đốc, ngày trước tôi có học tại trung tâm Nhật ngữ vài năm, giao dịch cũng đỡ nhưng bỏ lâu không xài nên đã quên nhiều.
- Bây giờ còn sử dụng được chứ ?
- Vâng, có lẽ tạm được.
- Vậy thì tốt. Công việc tôi cần nhờ anh là thế này anh Trình ạ...
Ông ngắt ngang câu chuyện, với tay lên chiếc giá ở phía bên cạnh lấy hai chiếc cốc cao cẳng bằng pha lê rồi mở một chai Champagne của Pháp, rót ra hai ly, đặt trước mặt tôi một ly: Mời anh !
- Xin cám ơn ông giám đốc.
- Cứ uống đi mà. Chúng ta làm hết chai này, vừa uống vừa nói chuyện...
Ông này là tay sành sỏi, điệu nghệ. Bây giờ ông mới mở cái món bài tủ là rút trong ngăn kéo ra một gói Dunhill 'black label' mới tinh còn nguyên xi chưa bóc giấy bóng, gỡ giấy kiếng, bảo tôi dụi điếu thuốc 'ba số' vào chiếc gạt tàn rồi lịch sự cầm cả gói chìa về phía tôi, mời tôi hút.
- Champagne Pháp phải đi đôi với thuốc Ăng-lê mới tốt !
- Vâng, thưa ông giám đốc.
- Nào, mời anh !
- Không dám, mời ông giám đốc.
Chúng tôi nâng ly. Khốn khổ, rượu Champagne dù loại 'chính hiệu' của Pháp hoặc thuốc lá Dunhill 'black label' đi nữa đối với một luật sư như tôi cũng đâu có lạ. Vậy mà bây giờ sao tôi thấy nó ngon thế, cứ mát cả ruột! Nhưng cũng sờ sợ, phải có chuyện gì ông giám đốc mới 'ưu ái' với tôi đến thế !
- Bên công ty du lịch họ báo cho chúng ta biết khách sạn chúng ta sắp đón một vị khách quan trọng. Ông này người Nhật, muốn đích thân sang xem xét, ký kết hợp đồng về các máy móc điện tử hay chế tạo linh kiện điện tử gì đó tôi không biết rõ. Họ nhờ chúng ta... Nói thật ra là họ chỉ thị chúng ta phải biệt đãi với khách. Phải dùng mọi cách làm thế nào khách được vừa lòng.
- Thưa ông giám đốc, chúng tôi vẫn tiếp đãi hết sức lịch sự vói mọi khách hàng.
- Ðúng thế, tôi hiểu. Nhưng theo tôi biết, ông giám đốc này hình như hơi già nên rất khó tính. Ví dụ trên công ty họ báo ông ta chỉ dùng tiếng Nhật, không dùng bất cứ một thứ tiếng nào khác. Ngoài ra, có lẽ cũng vì tuổi tác, tính nết ông ta cố chấp, khắc khổ, không thích giao thiệp với mọi người.
Xương sống lưng tôi lạnh toát. Tôi hiểu ông giám đốc khách sạn đang muốn đề cập chuyện gì. Quả nhiên, ông ta kết luận: - Tôi đã bàn tính với ông quản lý. Trường hợp này ta phải dùng tới một người tương đối lớn tuổi, có căn bản học vấn - nghĩa là dùng người trí thức đàng hoàng chứ không thể đưa ra mấy cô chiêu đãi viên trẻ đẹp hoặc vài nhân viên thông dịch tiếng Anh tiếng Nhật bình thường. Anh đồng ý với tôi chứ ?
Ðồng ý cái khỉ khô! Tôi là anh bồi khách sạn chứ là cái quái gì mà đồng ý với không đồng ý.
- Thưa ông giám đốc, tôi nghĩ cũng đúng.
- Xét trong khách sạn, anh phù hợp với các điều kiện đó. Tôi chỉ định cho anh làm công tác mới giúp đỡ khách sạn. Nếu anh tranh thủ được cảm tình của ông ta, chẳng những khách sạn có hoa hồng riêng cho anh mà bên đầu tư cũng có phần thưởng. Họ hứa như vậy. Còn nếu không tranh thủ được...
Ông ta bỏ lửng song tôi hiểu. Có thưởng thì phải có phạt. Nếu tôi loạng quạng, không làm nên cơm cháo sẽ bị mất việc, ở nhà nấu cho vợ dễ như chơi. Tình hình như vậy, biết nói cách nào bây giờ ?
- Thưa ông giám đốc, tôi không giám nghĩ tới việc được thưởng nhưng sợ tiếng Nhật lâu không xài, tôi quên mất nhiều...
- Ðược, nhớ tới đâu dùng tới đó. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ đích thân trông coi việc này và sẵn sàng cung cấp cho anh mọi phương tiện, kể cả tài xế và nhân viên khuân vác hành lý cho khách nếu cần. Dứt khoát chúng ta phải tranh thủ bằng được cảm tình của ông ta.
- Vâng, thưa ông giám đốc, tôi sẽ cố gắng.
Tôi dợm đứng dậy. Ông giám đốc ngăn lại, lục các giấy tờ trên bàn: - À này, họ cho tôi biết tên ông ta là Kwann Tae Palms... Quái, cái giấy tôi bỏ đâu mất rồi?.. À đây…Anh nhớ cho rõ, chỗ nào tôi cũng ghim sẵn người của ta, sẵn sàng hậu thuẫn cho anh một cách tốt đẹp. Anh đã có đồ vét, cravát... chưa nhỉ ?
- Thưa có.
- Vậy thì tốt. Anh cầm giấy này xuống phòng kế toán bảo cô thủ quỹ tôi quyết định ứng trước cho anh hai tháng lương. Ðây, giấy tạm ứng đây. Nếu công việc tốt đẹp sẽ tính vào tiền thưởng.
- Vâng, cám ơn ông giám đốc.
Tôi đi, tay cầm mảnh giấy.Kỳ lạ, tại sao ông ta lại tên Kwann Tae Palms, chẳng giống với Nhật chẳng giống với Tàu? - Riêng cái họ - Palms - thì giống với Mỹ. Theo tôi hiểu, người Nhật tên họ thường là Watanabe, Saburo, Yamamoto, Fuda, Fudo, Honda, Yamaha, Suzuki .v.v... Ngay đến cái tên cũng khó hiểu thế chẳng trách ông ta già, khó tính, lẩm cẩm, cố chấp, chỉ nói tiếng Nhật, không thèm nói tiếng Anh tiếng Pháp. Ôi, tôi mất việc dễ như chơi!
Hôm sau, tôi và anh phụ tá được chiếc xe du lịch màu trắng mới tinh gắn máy lạnh đưa ra phi cảng, đón ông giám đốc Nhật tận chân cầu thang máy bay. Ðây là ngoại lệ. Theo tôi hiểu, đáng lẽ chúng tôi chỉ được đón ở phía trong, sau khi ông ta đã làm thủ tục, khám xét, trình các giấy tờ.

Sau cái liếc mắt 'ra hiệu ngầm' của cô tiếp viên phi cảng, tôi sửng sốt: ông giám đốc Nhật trông còn trẻ, chỉ trạc ngoài bốn mươi ngang với tuổi tôi, nét mặt già dặn có thể nói là rất có duyên, nước da ngăm ngăm đen, mắt hai mí trông nhanh nhẹn tháo vát chứ không 'một mí' như mắt người Nhật hay người Ðại Hàn. Ðặc biệt, ông ta ăn mặc theo kiểu khách du lịch, áo sơ mi ca rô sọc chìm, quần jean, áo bỏ trong quần với sợi dây xanh tuya to bản bằng da cá sấu, giầy Adidas màu trắng. Chà chà, tôi thấy ông ta đẹp trai quá, không già lão, 'khó tính' một chút nào hết.
Anh phụ tá đỡ giùm chiếc va ly trong khi tôi cúi đầu thật thấp theo kiểu người Nhật, nghĩa là cứng đong đong như khúc gỗ bị bẻ gẫy, chắp tay trước ngực và cố 'nặn' ra từng tiếng Nhật:- Kôn ni chi wa, y ô ku i ras shai ma shi ta. Hi ji ma shi te ? (Xin kính chào ngài, chúng tôi rất vui mừng được tiếp đón ngài. Thưa ngài đi đường bình an chứ ạ?)
Ông ta ngớ người nhìn tôi, nhíu mày suy nghĩ như cố nhớ lại điều gì. Sau đó ông ta nhún vai, quyết định trao chiếc cặp Xăm-xô-nai cho cô tiếp viên xách giúp, rồi cũng chắp tay, cúi đầu thật thấp chào lại: - Kônnichiwa! Yôku ir***haimash*ta! (Xin kính chào ông! Tôi rất vui mừng được gặp gỡ ông!)
Giọng ông ta nhanh và mạnh, tất nhiên thông thạo như... tiếng mẹ đẻ chứ không ỳ ạch như tôi. Tôi đoán rằng tôi nói 'hay' quá nên thấy ánh mắt ông ta có gì vui vẻ, tinh nghịch pha lẫn nụ cười. Tôi lại hăng hái 'nặn' tiếp và tự giới thiệu: - Wa ta shi wa Trinh de su, ho te ru Y... y a dô zo yo ro shi ku! (Thưa ngài, tôi tên là Trình, nhân viên khách sạn Y... rất sung sướng được cử đến đây đón tiếp ngài !)
Nét mặt ông giám đốc Nhật vui hẳn lên, ông mỉm cười nhìn tôi sau đó cũng tự giới thiệu:Watashi wa 'Kwann' desu, dôzoyoroshiku! (Thưa ông tôi tên là Kwann, rất sung sướng được cử đến đây gặp ông)
Tiếng Nhật dùng ý giống như tiếng Việt hay tiếng Tàu, nhân xưng đại danh từ 'tôi' và 'chúng tôi' nhiều khi dùng chung với nhau, những tiếng như 'ir***haimash*ta' và 'yoroshiku' vừa có nghĩa là đón tiếp lại vừa có nghĩa là gặp gỡ, tùy câu sử dụng. Hừ, lạ thật, tôi là anh bồi khách sạn chứ có phải là một VIP nào đâu mà ông ta nói rất sung sướng được 'cử' đến đây 'gặp' tôi? Ngoài ra tôi để ý thấy những câu ông ta dùng đều... bắt chước tôi y chang nhưng thu gọn lại, nhanh và thông thạo hơn. Tại sao ông ta chọc ghẹo tôi với ánh mắt hóm hỉnh như vậy? Tôi nói tiếng Nhật có gì sai sót chăng?
Kiểm tra và làm thủ tục tại khu hải quan tương đối đơn giản do có 'người của ta' xong, chúng tôi ra xe. Ông giám đốc Nhật đi lầm lối khác,tôi đưa tay lễ phép: Kô chi ra e dô zô! (Xin mời ngài đi lối này!) Ông khách giật mình ngửng lên, vui vẻ: - Arigatô, zogaimasu! (Vâng, xin cám ơn)
A, bây giờ thì ông ta không 'bắt chước' tôi nữa. Tôi thấy có cảm tình với ông ta. Rõ ràng là ông ta mau mắn, lịch duyệt, không già nua, khắc khổ như ông giám đốc khách sạn đã cho biết.
Anh tài xế đã đợi sẵn bên cạnh chiếc xe, vội vàng mở rộng các cửa mời mọi người lên và xếp va ly vào phía đằng sau. Ông giám đốc ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh ông ta, anh phụ tá ngồi bên trên với tài xế, sau đó xe chuyển bánh lướt êm, máy lạnh mát rượi.
Xe chạy qua cổng Phi Long, vị khách luôn luôn nhíu mày nhìn những tấm bảng quảng cáo 'vĩ đại' có vẻ suy nghĩ.. Cặp mắt ông ta đăm chiêu, tò mò nhìn từng gốc cây, từng ngôi nhà lớn hiện đang xây cất ở hai bên đường Nam kỳ khởi nghĩa tức Công Lý cũ, không hiểu ông ta thấy nó thế nào so với bên Nhật.
Tôi nhẹ nhàng lấy gói ba số 5 và chiếc hộp quẹt ga mới tinh mang dấu hiệu Công ty du lịch Việt Nam, lễ độ mời khách:- Ip pon i ka ga de su ka ? (Xin kính mời ngài hút thuốc ?)
Ông ta giựt mình quay lại, nhíu mày khe khẽ lắc đầu:- Kekhô desu, arigatô! (Không, tôi không muốn hút, xin cám ơn!) Ðoạn, không hiểu nghĩ sao, ông ta cầm gói thuốc, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng ngửng lên nhìn tôi:- Do you usually smoke this kind of Three Fives cigarette?
Ôi chao, vậy thì ông ta cũng nói tiếng Anh chứ đâu phải chỉ dùng tiếng Nhật một cách cố chấp? Tôi sung sướng quá bèn khẽ lắc đầu, buột miệng nói như cái máy: - Oh no, sir, we don't.
Ông ta hỏi tại sao, tôi đáp'because...'rồi cũng chẳng biết because...như thế nào nữa, bèn trả lời thành thật:- Because this kind of cigarette is more and more expensive than our salary, out of our ability.
Vị khách bật cười, rồi tự nhiên ông ta cười lớn khẽ vỗ vai tôi thân mật như một người bạn. Tiếng Anh ông ta dùng còn thông thạo hơn cả tiếng Nhật mẹ đẻ của ông ta: 'Ồ, ông bạn thân mến, ông bạn nghèo lắm phải không?'. Tôi lắc đầu: 'Không, tôi không quá nghèo nhưng cũng không nghĩ rằng tôi giàu. Chúng tôi tiết kiệm tiền bạc'. Vị khách trẻ gật đầu lia lịa: 'Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi cũng có một vài người bạn Việt Nam ở hoàn cảnh của ông. Thỉnh thoảng tôi có gửi quà sang tặng họ'. Chà, tay này được quá, người Nhật mà biết hoàn cảnh của người Việt Nam, thỉnh thoảng gửi tiền sang tặng, thật đúng kẻ có lòng.
Xe chạy ngang qua cửa Nhà khách Thống Nhất, bên trái là Nhà thờ Ðức Bà. Vị khách ngắm nghía ngôi nhà thờ lớn nhất miền Nam, gật đầu có vẻ vừa lòng. Sau đó tự nhiên ông ta hỏi tôi: 'Tôi đoán trước năm bảy lăm ông bạn là một luật sư?'. Tôi giật mình kinh ngạc: 'Vâng, trước đây tôi theo ngành luật. Nhưng tại sao ngài lại biết điều đó?'. Ông ta cười trả lời: 'Tôi biết những điều người khác không biết'.
Xe về tới đường Ðồng Khởi và từ từ táp vào lề trước khách sạn. Các cô tiếp viên ra đón, xách giùm va ly cho khách. Ðích thân ông giám đốc cùng nhiều người khác dẫn vị quý khách lên lầu, giới thiệu từng ưu điểm của căn phòng hạng nhất, sang trọng.
Lúc tôi xuống, ông giám đốc đứng nán lại chờ ở chân cầu thang, thân mật vỗ vai tôi: - Khá quá, cậu được việc quá. Tôi đã nghe báo cáo đầy đủ. Từ nay tôi cử cậu đặc trách bám sát ông ta. Công việc đâu đấy xong xuôi, tốt đẹp tôi sẽ trích số tiền hoa hồng thưởng cho cậu và cả bên công ty đầu tư nữa. Tôi không quên đâu.
- Vâng, xin cám ơn ông giám đốc.
Kể từ hôm ấy, tôi luôn luôn đi kèm với vị khách Nhật. Hình như đối với tôi, ông ta cũng có chút biệt đãi. Mỗi lần tới công ty đầu tư hoặc thăm các cơ sở, máy móc thiết bị của người Nhật, gặp gỡ ban giám đốc các cơ quan, lẽ ra tôi phải ngồi phía sau lưng như một thông dịch viên, ông ta giới thiệu tôi là một người bạn luật sư, bảo tôi ngồi bên cạnh và luôn luôn xem xét, bàn bạc với tôi. Người nước ngoài họ khôn lắm, dưới con mắt của một luật sư, tôi thấy rõ có những điều mới nhìn mình tưởng họ dại, sự thực họ nhường một bước để nhảy một trăm bước. Trong khi đó, về phía bên mình, tôi không nói rằng họ dại nhưng tôi nói họ lanh. Lanh một cách khôn ngoan vặt, tiến một bước theo kiểu 'thắng lợi tinh thần' trong A.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn, sau này sẽ thiệt một trăm bước hay nhiều hơn. Toàn những ông thầy dùi cấp dưới, láu cá vặt mà cứ tưởng mình thông minh làm 'cố vấn' mà thôi. Quan hệ quốc tế không thể dùng các bộ óc láu cá vặt. Phải có kiến thức, phải có trí tuệ. Nếu không, được lợi về sợi dây thừng thì sẽ mất cả con trâu. Gặp trường hợp đó tôi chỉ im lặng. Tôi không có quyền được góp ý kiến. Tất cả đều biết tôi chỉ là anh bồi khách sạn, nể khách nên họ cho tôi được ngồi cùng bàn một cách khiêm tốn, tất nhiên không được quyền góp ý kiến.
Một lần thấy họ 'khôn ngoan' quá, tôi kể cho vị khách nghe một đoạn trong Tam Quốc Chí - một tác phẩm cổ điển lớn của Trung Quốc rất quen thuộc với người Việt Nam: Tào Tháo dàn gần một triệu quân trên sông Trường Giang định chiếm Ðông Ngô. Chu Du, đại tướng Ðông Ngô muốn dùng hỏa công để phá quân Tào nhưng lại sợ các chiến thuyền Tào rời rạc, chạy kịp, đốt không hết được; bèn nhờ Bàng Thống xúi cho thuyền Tào kết lại với nhau. Giữa lúc ấy, quân Tào không quen thủy thổ, say sóng. Tào Tháo hỏi kế. Bàng Thống 'xúi khôn' là nên dùng vòng sắt kết các thuyền lại từng mảng, lót ván bên trên người ngựa đi được, quân sẽ hết bệnh. Tháo mừng lắm, nghe lời. Ra tới bờ sông, Thống bị một người nắm áo giữ lại: 'À anh này gớm thật, dám xúi Tào Tháo kết thuyền cho Chu Du đốt! Tháo nó ngu, bộ anh tưởng chúng ta hết người không ai biết mưu kế của anh hay sao?' Bàng Thống giựt mình nhìn lên, thấy đó là Từ Thứ. Rồi tôi kết luận: - Ðất nào cũng có kẻ sĩ. nước nào cũng có kẻ sĩ. Chẳng qua chúng tôi không được sử dụng phù hợp khả năng như bên các ông. Xin ông đừng nghĩ chúng tôi hết người.
Ông ta nhíu mày:Có, tôi hiểu. Và tôi nghĩ đó là một trong những điều đáng buồn. Chúng tôi muốn làm ăn một cách cân xứng,không muốn'đốt' ai cả. Nhưng quy luật làm ăn, nếu họ tự đốt thì họ phải chịu.
Vị khách lâu nay gần như chỉ nói tiếng Anh, không nói tiếng Nhật.
Một lần khác, ông ta mua tặng tôi một chiếc đồng hồ Seiko five giá bốn mươi lăm đô, tức gần năm trăm ngàn đồng Việt Nam. Tôi cười nói đùa: - Ðây là 'phần thưởng' cho sự im lặng của tôi?
Ông ta cũng cười, lắc đầu: - Không đúng. Dù không thưởng thì các ông vẫn đứng ngoài rìa, giữ vai trò của người im lặng, không cần phải thưởng.
- Vậy thì tôi đã có đồng hồ của tôi rồi.
- Nó đã cũ, nên dùng đồng hồ mới. Hãy tặng chiếc cũ cho một người bạn nào nghèo của ông nếu họ cần tới.
- Vâng, xin cám ơn, tôi sẽ làm như vậy.
Công việc ký kết hợp đồng tiến triển tốt đẹp. Tôi nhận được phong bì 'ứng trước' do ông giám đốc khách sạn trao. Ông bảo tiền hoa hồng dành cho tôi khá hơn, tính theo ngoại tệ, ông ứng trước một phần để tôi xây xài. Trên nguyên tắc, nếu chúng tôi giới thiệu được khách cho khách sạn thì được hưởng năm phần trăm, kêu là tiền huê hồng, tính theo tổng số tiền phòng các ngày khách đã ở trong khách sạn. Ðằng này tôi không giới thiệu nhưng ông giám đốc cũng tính theo tỷ lệ đó, coi như tiền thưởng. Làm ở những chỗ có đô la ra vô thì sướng thế đấy, toàn những món bất ngờ mà mình được hưởng chứ tôi có công gì đâu. Ðồng thời ông cũng cho tôi, biết còn hai ngày nữa, tức sáng thứ Hai, ông khách sẽ lên máy bay về nước.
Hôm đó là chiều thứ Bảy, một buổi chiều thành phố thật đẹp. Mọi việc đã xong xuôi, vị khách Nhật hình như hơi rảnh. Ông nhìn qua khung cửa kính, có vẻ suy nghĩ và bảo tôi: - Ông bạn luật sư thân mến - ông vẫn nói tiếng Anh, không dùng tiếng Nhật - Tôi sắp về nước. Tôi nghe nói người Việt Nam có món 'thịt cầy' (dog meat) ngon lắm. Nếu ông bạn vui lòng hướng dẫn tôi đi thưởng thức được thì tôi rất lấy làm sung sướng.
Tôi ngạc nhiên trợn tròn mắt: - Dog meat? Theo.. theo ý ông nói, đó...đó là món..'Thịt của con chó ?'
Ông ta mỉm cười:- Ðúng vậy, 'thịt của con chó', nếu tôi không lầm.
Ðoạn, ông ta nói tiếp: - Theo tôi hiểu, nhà văn Trung Quốc Lin Yuyang (Lâm Ngữ Ðường) có lẽ cũng thích món 'thịt của con chó' nên ông ta viết một truyện ngắn rất nổi tiếng lấy tên 'Tướng Quân Thịt Chó', tôi có đọc qua.
Ối giời ơi, thế này thì chết. Tôi như từ trên trời rơi xuống đất. Mặc dầu gốc dân Thái bình Thái lọ, rất khoái cái món 'nai đồng quê' nhưng tôi giải thích cho ông khách oái oăm biết rằng thường thường các quán 'nai đồng quê' không phải là những nhà hàng sang trọng, nếu chúng tôi dẫn khách đến đấy, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sẽ bị cho nghỉ việc.
- Tất nhiên, ngoài món 'dog meat', chúng tôi còn có các đặc sản khác như ếch chiên bơ, cua rang muối, rắn xào lăn v.v... rất ngon, chúng ta nên đến đấy thì tốt hơn.
Ông ta gật đầu: - Cũng được. Nhưng chỉ có ông với tôi đi thôi. Và tôi lái xe.
Ối giời đất ơi, lại nguy hiểm nữa. Tôi báo cáo với ban giám đốc. Ông quản lý lắc đầu lè lưỡi: - Chết, ông ấy có biết đường đâu mà lái ? Người nước ngoài mà lái xe trên đường phố Sài Gòn thì coi như tiêu luôn sinh mạng. Thôi, ông Trình cố nói kheo khéo giành lấy tay lái.
Tôi lái xe. Ông giám đốc Nhật ngồi bên cạnh cứ tủm tỉm cười vì nghe tôi kể lại những lời của ông quản lý. Chúng tôi tới quán Thanh Sơn ở đường Nguyễn Cư Trinh. Ðây là hậu thân của quán Ba Thừa ở đường Bùi Viện ngày trước. Thanh Hải, Ba Thừa trước đây thường rất nổi tiếng với món la-de đặc - la-de ướp lạnh đến mức tự nó đông lại, phải vỗ vỗ đáy chai cho chảy ra, không phải bỏ đá - và những món đặc biệt miền Nam như cua rang muối, ếch chiên bơ như đã kể trên.
Chúng tôi đang ăn, ông khách Nhật luôn luôn gật đầu tấm tắc khen ngon thì bọn trẻ bán thuốc lá, bán vé số nghe tiếng nước ngoài bèn bu lại mời mua. Ông ta lấy một gói 'ba số' và đưa tờ năm đô la.
- Nô, nô, cái này năm chục ngàn, cái này có mười mấy ngàn, hổng đủ tiền thối !
Ông ra hiệu cho cả, tụi nó mừng rỡ 'thánh kiu' rối rít rồi kéo nhau đi. Một đứa khác tới trễ không được chia phần bèn để cả xấp vé trước mặt ông, tý tay như nằm nửa người trên bàn mời mua bằng được. Ông lắc đầu.
- Ông này sắp về nước không mua vé số đâu em ạ.
Cậu thanh niên chạy bàn hình như con trai ông bà chủ tiệm đi ngang bèn 'bợp' nhẹ cho nó một cái, đuổi nó ra ngoài. Ối cha, lúc nó đứng dậy, khuỷu tay loạng quạng thế nào đụng phải đĩa lươn um, hất ráo xuống quần tôi. Nóng thì không nóng nhưng bẩn. Nhòe nhoẹt. Tôi bực quá đâm gắt:
- Thấy mẹ người ta..Ðã bảo mà ! Làm thế nào bây giờ ?
Nhà hàng đem thau nước ra lau giùm. Xong, ông khách mỉm cười, im lặng ngồi hút thuốc lá. Cái mặt tôi lúc đó chắc'dễ thương'quá. Ông hỏi:
- Bạn vừa mới nói 'th-ay me' (thấy mẹ). Vậy 'th-ay me' là gì ? Một tiếng lóng hay một câu chửi ?
Trời đất, đang bực, đến bố tôi cũng không biết 'thấy mẹ' là một tiếng lóng hay một câu chửi. Tôi trả lời đại 'thấy mẹ' là... 'see mother !
Ông ta lắc đầu: - No, it isn't. In Vietnamese, 'thấy mẹ', it means...
Tôi giật mình. Hai tiếng 'thấy mẹ'ông ta phát âm tiếng Việt rất chuẩn... y như người Việt. Tôi ngạc nhiên: - Do you understand Vietnamese ?
Ông ta mỉm cười, gật đầu: - Yes, I know very well. Because...
Rồi như không nín cười được nữa, ông ta bỗng cười sằng sặc và... tuôn ra một tràng tiếng Việt pha lẫn tiếng chửi:
- Bởi vì tao là một thằng người Việt trăm phần trăm không có tí ti máu nước ngoài nào hết. Cái thằng ngốc ! Tao với mày học với nhau hằng bao nhiêu năm ở Chu Văn An mà mày không nhận ra tao. Rõ thật !...
Một tia sáng chợt thoáng qua trong óc tôi:
- Cậu... cậu là thằng Quân đen ?
- Chứ còn đứa nào vào đây nữa!
- Hèn chi...
- Hèn chi cái gì ?
- Tớ hơi ngờ ngợ, trông cậu quen quá, ngay từ lúc đầu mới gặp cậu ở chân cầu thang máy bay.Thì ra...
- Thì ra 'cố nhơn' phải không? Còn tớ, vừa trông thấy cậu tớ nhận được liền.
- Xin lỗi, tại tớ yên trí cậu là một tay giám đốc người Nhật. Hơn nữa cậu lấy tên Kwann Tae Palms...
- Dễ lắm, cậu nhớ tên tớ là gì không ? - Phạm Thế Quân. Lúc nhập quốc tịch Mỹ tớ đùa nghịch đổi cái tên Quân Thế Phạm thành Kwann Tae Palms chơi chơi cho vui, chỉ có vậy thôi không có gì khó.
- Cậu quốc tịch Mỹ, không phải quốc tịch Nhật ?
- Ừ. Vợ tớ người Nhật.
Quân kể cho tôi nghe: Hồi đó học xong Kỹ sư Phú Thọ, hắn được bổ đi làm kỹ sư công chánh tại một tỉnh miền Trung xa lắc. Ngày 30 tháng 4, gặp tàu, hắn nhảy sang Mỹ, vừa đi làm vừa cố gắng học về ngành điện tử. Trong trường hắn học có một cô nữ sinh viên người Nhật, hai bên quen nhau, thương nhau, sau khi tốt nghiệp bèn làm đám cưới. Hắn leo dần lên được chức phó giám đốc của một công ty Mỹ. Vợ chồng hắn có đứa con gái đầu lòng, bố mẹ vợ hắn viết thư giục thu xếp đem con về chơi bên Nhật. Té ra bố vợ hắn là một nhà tư bản, tổng giám đốc một công ty lớn có nhiều chi nhánh ở Nhật cũng chuyên về điện tử. Bây giờ vợ chồng hắn đã có đứa con thứ hai - con trai - rất xinh và hiện hắn đang làm giám đốc một công ty chi nhánh cũng nằm dưới quyền ông già...
- Ông bố vợ tớ lớn tuổi nên cẩn thận lắm cậu ạ. Cử tớ sang Việt Nam nhưng lại sợ tớ người Việt, phía bên này sẽ ỷ y, bởi vậy ông ra lệnh cho tớ phải nói toàn tiếng Nhật và đánh tiếng rằng 'ông giám đốc' đã già nên rất khó tánh.
- Tớ hiểu. Người nước ngoài họ vẫn thận trọng như vậy.
Hắn cười hề hề:- Tiếng Nhật thì tớ cũng tà tà như cậu vậy thôi, do vợ tớ dạy. Sang bên này gặp cậu, tớ mừng lắm. Không ngờ sau bao nhiêu năm, hai thằng chó chết tụi mình gặp nhau...
- Cậu tạo sự nghiệp bằng hai bàn tay, không phải là một thằng chó chết.
- Chó chết chứ sao lại không chó chết ? Một đời du tử...
Gương mặt hắn hơi buồn. Hắn khẽ thở dài:Tớ xin lỗi cậu về việc làm mặt xa lạ, bữa nay mới bày chuyện 'dog meat'để gặp riêng cậu.Từ hôm gặp cậu tớ rất mừng,đinh ninh thế nào cũng sẽ nhờ cậu một việc...
- Chuyện gì ? Tớ sẵn lòng.
- Như cậu biết đấy, tớ còn một bà mẹ già. Năm nay bà cụ tớ đã tám mươi mốt tuổi, đôi mắt đã lòa, ở với ông anh cả tớ ở Nam Ðịnh ngoài Bắc. Tớ thương mẹ tớ lắm.
- Có, tớ hiểu. Làm con thì ai cũng thương cha mẹ.
- Cám ơn cậu. Ngày trước gia đình tớ cũng nghèo như gia đình cậu. Bà cụ tớ thắt lưng buộc bụng, lai xai lưới xưới buôn bán mấy trái cam trái quýt với đứa em gái tớ ở chợ Bà Chiểu, nuôi tớ ăn học. Tớ mới tốt nghiệp, có thể nói là chưa báo hiếu gì được, đến lúc hữu sự thì lại nhảy đi sống lấy một mình không biết gì đến mẹ. Ðiều đó tớ rất ân hận. Cách đây mấy năm tớ có viết thư về quê liên lạc được với ông anh cả tớ. Từ đấy tớ luôn gửi quà và tiền về để gia đình ông anh có phương tiện phụng dưỡng mẹ tớ. Nhưng tiền bạc là một chuyện mà tình cảm gia đình lại là một chuyện khác.
- Cậu nghĩ rất đúng. Rồi sao nữa ?
- Tớ định nhờ cậu đem một món tiền khá lớn ra Bắc đưa cho ông anh tớ, giúp đỡ ý kiến ông ấy sửa sang nhà cửa, xây lại ngôi từ đường khang trang đẹp đẽ theo ý muốn của bà cụ, và nói với cụ rằng tớ hứa nội trong năm tới thế nào cũng thu xếp đem vợ con về Việt Nam thăm mẹ.
- Ðược.
- Tớ đã nói với tay giám đốc khách sạn là nhờ cậu ra Hà Nội xem xét giùm tớ tình hình giấy tờ ngoài ấy ra sao, có cần gì sửa chữa không. Tay giám đốc rất đồng ý. Việc đó rất dễ, với con mắt một luật sư cậu chỉ liếc qua là biết liền có khi còn hơn tớ nữa. Rồi cậu sẽ liên lạc với tớ sau. Nhưng chuyện chính là về Nam Ðịnh, tớ giữ kín không cho ai biết. Khoảng chín giờ sáng mai tớ đem tiền đến nhà cậu, ở chơi một ngày, tụi mình chuyện trò thật kỹ. Cậu nắm vững mọi việc rồi là sáng thứ Hai tớ lên máy bay về Nhật. Bà cụ cậu vẫn khỏe chứ ?
- Cám ơn cậu, bà cụ tớ còn nhưng năm nay đã bảy mươi chín, kém bà cụ cậu hai tuổi, không được khỏe lắm. Thỉnh thoảng cụ vẫn nhắc cậu Quân không biết bây giờ ở đâu, tớ nói có lẽ bên Mỹ.
- Thế này nhé, lát về cậu đưa tớ ghé vào chào cụ một chút rồi mai tớ đến. Cậu vẫn ở Tân Ðịnh?
- Ừ.
Hôm sau hắn tới. Buổi chiều, ăn cơm xong, hắn ngồi một mình ngoài hiên trên lầu bên thành lan can. Nhà tôi vắt hai ly cam tươi bưng ra. Hắn mỉm cười nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu: - Chị cẩn thận giống hệt nhà tôi ở bên Nhật... À này, Trình, cậu còn nhớ bài 'Du tử ngâm' của Mạnh Giao ngày trước cụ Tú Anh dạy tụi mình hồi lớp Ðệ thất Ðệ lục ở Chu Văn An không nhỉ ?
Tôi cười: - Nhớ chứ ! Không thuộc, không viết ra chữ, cụ mắng muốn chết. Ðứa nào mà chẳng nhớ...
Tay hắn đang cầm cây que. Hắn gõ nhè nhẹ lên chiếc song sắt trên thành lan can và đọc khe khẽ:
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy
(Sợi chỉ trong tay mẹ hiền
May thành chiếc áo trên thân người con du tử
Lúc con ra đi mẹ khâu thật kỹ
Vì sợ lâu ngày con chậm trở về
Nào ai dám nói một tấc lòng của cỏ
Có thể báo đáp được ánh dương của ba tháng xuân ?)
- Mỗi lần nhớ tới bài thơ ấy tớ lại ứa nước mắt, cậu ạ.
- Chuyện, thơ Ðường. Ngay đến cụ Nguyễn Du cũng còn phải mượn ý viết thành câu thơ trong truyện Kiều: 'Dám đem tấc cỏ báo đền ba xuân' huống chi tụi mình !
Hắn thở dài:
- Ở bên Nhật, hễ bận thì thôi, cứ lúc nào rảnh đầu óc tớ lại miên man nghĩ tới hình ảnh ba mẹ con tớ lúc mới di cư vào Nam. Ông cụ tớ mất sớm hồi gia đình còn ở ngoài Bắc. Mẹ tớ một thân một mình tần tảo nuôi tớ ăn học. Con Chi, em gái tớ( chắc cậu đã biết), lúc ấy hãy còn nhỏ mới lên bốn; còn tớ lên sáu. Khổ lắm. Mẹ tớ trước bán bánh cuốn, sau bán trái cây ở chợ Bà Chiểu. Lúc tớ thi đậu vào lớp đệ thất trường Chu Văn An là lúc mẹ tớ đã dành dụm được chút đỉnh, không phải bữa đói bữa no vậy mà như cậu thấy, trong túi tụi mình hàng ngày đi học chẳng có đứa nào có lấy một xu. Thỉnh thoảng bà cụ tớ hay bà cụ cậu cho một đồng thì hai đứa mình chia nhau uống chung một ly nước mía. Bà cụ tớ quý cậu lắm. Nay hai mắt cụ đã lòa...
- Có, tớ biết. Hôm ông anh cả vào chơi đón cụ ra Bắc, tớ có đi tiễn. Ông anh mua vé tàu hỏa Thống Nhất, ghế ngồi, bảo sẽ xuống ga Nam Ðịnh. Thấy đông người quá, trong tàu chật như nêm cối, ghế cứng mà lại phải ngồi ba ngày ba đêm không được nhúc nhích, tớ chảy nước mắt. Cụ cũng khóc, đưa hai tay quờ quạng sờ mặt tớ và nói sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại...
Quân chớp mắt, hắn cúi mặt như cố che giấu một cái gì đó đang dâng lên trong cổ họng, sau khẽ thở dài nói nhỏ với tôi:
- Tớ chỉ lo mẹ tớ mất trước khi tớ về, cậu ạ. Ra ngoài ấy cậu nhớ lạy mẹ tớ một lạy, xin cụ tha thứ cho tớ và nói, năm tới thế nào tớ cũng về thăm mẹ, càng sớm càng tốt.
- Ðược, cậu cứ yên tâm.
- Ðược ngồi ăn cơm với cụ và vợ chồng cậu tớ cảm động lắm. Tớ mong được tự tay xé thịt gà để riêng ra đĩa, tiếp vào bát cho bà cụ tớ cũng giống như cậu. Mẹ tớ hai mắt đã lòa...
Thế rồi sáng thứ Hai, hắn lên máy bay về Nhật thì sáng thứ Ba tôi ra Hà Nội. Tôi đi xe lửa, vé nằm, loại tàu nhanh hai ngày hai đêm, không đi máy bay vì tính tôi quen tiết kiệm. Những lúc ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng đèo Ngang, đèo Hải Vân, đầu óc tôi cứ vương mang nghĩ tới hình ảnh lúc hắn lên máy bay.
Chúng tôi đưa tiễn, hắn giơ tay chào tạm biệt 'Sayônara !'. Rồi trong lúc mọi người không để ý, hắn kín đáo chắp tay lạy về phía tôi một lạy. Tôi hiểu ý nghĩa của cái lạy đó nên chỉ gật đầu cho hắn yên tâm và giơ tay chào tạm biệt: 'Sayônara!'. Bây giờ tôi có bổn phận đem cái lạy đó ra Bắc, cùng với lời dặn hắn sẽ trở về. Và đầu óc tôi cứ miên man nghĩ đến bài ca của người du tử:
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y...
Người con nào thì cũng thương mẹ. Tôi yêu bài thơ đó lắm.


Thái Phương





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/Dec/2013 lúc 7:00pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 22/Jul/2013 lúc 9:02am


Nỗi nhớ Sài Gòn
Tuesday, July 16, 2013 4:03:22 PM 

Tối Thứ Bảy, đi coi show của Hà Anh Tuấn tại Saigon Performing Arts Center.

Nghe Hà Anh Tuấn và Khánh Ly hát “Em còn nhớ hay em đã quên” mà bỗng dưng cay mắt. Phần thì lời bài hát, phần thì những hình ảnh của một Sài Gòn xưa cũ hiện trên màn hình sân khấu.

Nhớ Sài Gòn, nhớ quá!

Nhiều người bảo chả bao giờ muốn về Sài Gòn, bởi chẳng còn gì của ngày xưa.

Tôi không nghĩ vậy. Sài Gòn vẫn mãi là Sài Gòn, trong tim mình, lẩn khuất đâu đó, và chỉ cần một vô tình thổi đến, là kỷ niệm ùa về, quẫy đạp, chơi vơi.

Tôi nhìn hình ảnh một chị bán hàng rong, với nón lá, với ghế tre. Và thấy mình ngồi đâu đó quanh đôi quang gánh ấy, xì xụp húp tô bún riêu nhiều bún không nhiều nhưn, hay đang múc từng muỗng sương sa trong cái chén nhôm lạnh ngắt, nhỏ xíu, hay đang thổi từng muỗng cháo đậu đỏ nước cốt dừa nghi ngút khói trong cái tô đá cũ mèm, mẻ cạnh...

Tôi nhìn hình ảnh những thiếu nữ đạp xe trên phố, áo dài nón lá. Và như thấy mình cùng bạn bè của thời áo trắng. Cũng xe đạp, cũng áo dài, nhưng không nón lá, cũng song hành đạp cùng nhau, cùng tíu tít nói cười. Đôi khi bỗng trở nên dịu dàng, cứ cắm đầu mải miết đạp, vì một đứa bạn trai cùng lớp bỗng dưng cứ chạy song đôi...

Tôi nhìn hình ảnh cặp tình nhân chở nhau trên chiếc Velosolex. Và nhớ mình, của thuở tình đầu. Không Velosolex, chỉ có Honda cũ, dưới trời mưa, trùm chung chiếc áo poncho, mặc gió, mặc rét, mặc đường ngập nước, mặc xe tắt máy, mặc môi run, và tay lạnh, chỉ nghe lòng ấm áp, tràn bờ những yêu thương...

Tôi lớn lên giữa một vùng ven Sài Gòn, không nhiều nhà cao, không nhiều biệt thự. Tôi quen với một Sài Gòn huyên náo từ lúc hừng đông và Sài Gòn vắng lặng rất ngắn khi đêm đến muộn.

Tôi quen với tiếng lách cách của những người dọn hàng bán xóm. Quen với tiếng xe lam, tiếng xe ba gác máy huỳnh huỵch nhả pô nhả khói. Quen với những ngọn đèn dầu của nhiều đêm mất điện. Quen cả với tiếng côn trùng rả rít chẳng khác chi một vùng quê.

Sài Gòn của những buổi trưa đón xe bus đến trường, chen chúc trong đủ lớp người dân.

Sài Gòn của những ngày hết tiền, phải lội bộ về dọc con đường Hùng Vương, ngang Phú Lâm, ngang Mũi Tàu.

Sài Gòn của những quán chè đêm, của lách tách tiếng khua mời tô hủ tíu gõ

Sài Gòn của những chợ chồm hổm, dăm mớ cá, vài rổ rau, ít lạng thịt

Sài Gòn của một tuổi thơ hồn nhiên, của thời thiếu nữ lãng đãng, của quãng đời biết mộng, biết mơ...

Sài Gòn có những bạn bè, của những đêm ngồi cùng nhau ôm đàn, cùng hát, cùng nói, cùng cười. Và ăn kem “ký”

Sài Gòn hoa lệ. Sài Gòn ngọc ngà. Không có trong tôi.

Có lẽ vậy mà Sài Gòn vẫn khiến tôi nhớ. Nhớ nhiều, như một phần đời khốn khó không quên.


Ngọc Lan






Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Jul/2013 lúc 9:03am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 27/Aug/2013 lúc 6:26am

Đoạn kết buồn của một mối tình Ucraina - Việt Nam 
 


Tôi và anh quen nhau tại Kiev. Chúng tôi lấy nhau và sinh được hai đứa con tuyệt vời - con trai Andrei và con gái Maia. Lúc đầu, mẹ tôi phản đối kịch liệt quyết định lấy chồng của tôi. Thứ nhất, vì chồng tôi - Hà - là người Việt Nam bán hàng ngoài chợ. Thứ hai, vì anh hơn tôi đến 16 tuổi đời. Nhưng mặc cho những linh cảm của mẹ, chúng tôi đã cùng chung sống với nhau suốt 8 năm trời hòa hợp và hạnh phúc. Hầu như chúng tôi chưa bao giờ có những bất đồng lớn. Chồng tôi rất yêu lũ trẻ và sẵn sàng giúp tôi làm mọi việc trong nhà, từ nấu nướng đến dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống tưởng đâu cứ mãi như vậy. Cho đến một ngày, Hà nhận được tin bố ốm nặng, có thể không qua khỏi. Anh lập tức bay về Việt Nam. Một thời gian sau, anh gọi điện sang và bảo mẹ con tôi sang Việt Nam với anh. Thực tâm tôi không muốn đi cho lắm, vì đường xa mà hai con còn nhỏ - con trai tôi sáu tuổi, còn con gái mới có một năm bốn tháng. Nhưng Hà động viên tôi rất nhiều và nói chỉ ở Việt Nam vài tháng là cùng. Chủ yếu là anh muốn giới thiệu mẹ con tôi với gia đình, họ hàng bên nội. Thế là tôi quyết định lên đường, mang theo hai con mà lòng không hề nghĩ có những gì đang chờ đợi mình ở phía trước. 

Ấn tượng về làng quê Việt Nam
Mẹ con tôi sang Việt Nam khi bố chồng tôi đã mồ yên mả đẹp. Ngày đầu ở nhà chồng, chúng tôi đã đưa hai con đi thăm mộ ông nội. Nghĩa địa nằm ngay gần nhà, nhưng thực sự mà nói, nó khác xa với hình ảnh quen thuộc của những nghĩa trang ở Ucraina. Người Việt Nam có một phong tục rất đặc biệt: ba năm sau khi chôn cất người quá cố, họ lại đào lên, lấy xương mang đi chôn lại(!) Lần thứ hai này mới là lần chôn cất vĩnh viễn.
Quê chồng tôi là một ngôi làng gồm khoảng 400 nóc nhà, nằm không xa thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, ở đó không hề có đường ống khí đốt. Mọi người chủ yếu nấu thức ăn bằng bếp rạ. Chỉ có một số gia đình khá giả mới dám nấu ăn bằng bình gas, vì đó là một điều xa xỉ đối với những người nông dân. Dân làng nghèo đến nỗi, khi ai đó mua sắm bất kỳ vật gì cũng đều trở thành sự kiện của cả làng. Làng mạc ở Việt Nam cũng có nhiều điểm giống với làng quê ở Ucraina, chỉ có điều đường xá không trải nhựa, mà đổ bằng bê tông. Có lẽ bê tông chịu nóng tốt hơn so với nhựa đường. Xung quanh mỗi ngôi nhà đều có rãnh thoát nước. Lúc đầu, tôi không hiểu tại sao phải làm như vậy. Sau đó, tôi đã hiểu - vì vào mùa mưa, dù có rãnh thoát nước nhưng nhiều lúc vẫn phải lội nước đến tận đầu gối! Khó chịu nhất là áo quần giặt xong phơi cả tuần cũng chẳng chịu khô cho. 

Món bánh xoài
Ngày thứ hai ở nhà chồng, Hà đột ngột tuyên bố rằng chúng tôi sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Hành động của anh làm tôi hết sức ngỡ ngàng, vì anh đã tự quyết định mà không hề bàn với tôi lấy một tiếng. Tôi không thể ngờ rằng người chồng đã từng chung sống suốt tám năm trời lại có thể xử sự với tôi như vậy! Ở Việt Nam, anh đã trở thành một con người khác hẳn: anh hầu như không âu yếm, chuyện trò với tôi bao giờ, và thường tự quyết định mọi việc, kể cả những việc có liên quan trực tiếp đến tôi và các con.
Dù rất buồn trước sự thay đổi của Hà, nhưng trong một giai đoạn nào đó, tôi đã buộc mình phải chấp nhận điều đó... Vì dù không muốn, tôi cũng chẳng có con đường nào khác, tiền quay về cũng không có luôn. Nhưng dù sao, trong thâm tâm tôi vẫn luôn hy vọng sẽ thuyết phục được chồng cho mẹ con tôi trở lại Ucraina.
Thật ra, không thể nói là mọi người đối xử không tốt với tôi, nhưng có quá nhiều khác biệt trong cách sống của người Việt Nam và người Ucraina. Chẳng hạn, tôi không thể hiểu tại sao người Việt Nam có thể sống được mà không cần đến các sản phẩm sữa? Bò ở Việt Nam nuôi chỉ để lấy thịt, vì vậy thậm chí mọi người chẳng hề có khái niệm về bơ, sữa hay phó mát gì cả. Con gái Maia của tôi vẫn quen ăn cháo sữa, vì vậy tôi đã phải mua sữa đặc có đường, có lúc cả sữa đậu nành, để nấu cháo cho con. Mẹ chồng tôi không thể hiểu nổi khi thấy tôi cho sữa vào cháo. Có lẽ đối với họ, đó là một món ăn hổ lốn đáng sợ?!
Còn với tôi, có lẽ đáng sợ nhất là nhà trẻ ở quê chồng. Lịch làm việc ở đó đã rất đặc biệt: sáng 5 giờ đưa trẻ con đến (trước khi đến phải cho ăn sáng ở nhà), đến 10 giờ phải đón về cho ngủ trưa ở nhà! Các lớp được phân chia không theo lứa tuổi, mà theo nguyên tắc "ai đăng ký trước vào trước". Vì vậy trong một lớp có thể có cả trẻ sơ sinh mới mấy tháng trời, cùng những cháu đã 5-6 tuổi. Cửa sổ các phòng không đóng bao giờ, cánh cửa ra vào cũng không có luôn. Trẻ nhỏ nằm trên chiếu trải dưới nền nhà, còn lũ lớn hơn thì chạy lăng quăng xung quanh. Nói chung, có người trông hộ trẻ con để bố mẹ đi làm đồng là tốt lắm rồi!
Thời gian đầu, mọi người định dạy tôi làm ruộng, nhưng tôi phải thú thật là chẳng hề có khái niệm gì về công việc đó cả. Tôi cũng đã từng cùng mọi người trong gia đình nhà chồng lội ruộng cấy lúa, nhưng đến khi biết rằng dưới làn nước bùn đỏ quạch đó còn có cả những con rắn nữa, thì tôi phát hoảng. Mọi người thông cảm, không bắt tôi lội ruộng nữa, mà bảo tôi học sử dụng máy tuốt lúa. Nhưng tôi làm chẳng ra hồn, khiến cho mọi người phát chán. Nhiều người trong gia đình, họ hàng nhà chồng tôi tỏ rõ vẻ thất vọng vì sự lóng ngóng trong công việc đồng áng của tôi.
Bù lại thì sự hiện diện của tôi cũng phần nào làm phong phú thêm đời sống dân làng. Nhất là trong công việc bếp núc. Người Việt Nam chỉ quen ăn khoai tây nấu canh, vì vậy, mọi người rất ngạc nhiên trước món khoai tây nghiền do tôi làm ra, khi nếm thử ai cũng khen ngon. Món bánh xèo truyền thống của người Ucraina cũng được đón nhận nhiệt tình (mọi người gọi đó là món bánh mì ngọt). Tôi đã dạy cho mọi người làm một số món ăn như món bít tết và thịt băm viên. Món bánh xèo nhân xoài do tôi "sáng tạo" ra thật sự ngon miệng và hợp khẩu vị nên ai cũng thích. 

Ước muốn trở về
Hà tìm được việc làm ở Hà Nội. Anh bỗng dưng sinh ra nghiện cờ bạc, bao nhiêu tiền làm ra đều nướng hết vào trò chơi đỏ đen. Hồi ở Ucraina, tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy. Mẹ chồng tôi không biết về điều này, nên sinh ra nghi ngờ tôi giữ hết tiền lương của anh. Từ sự nghi ngờ đó, bà bắt đầu soi mói tôi từng ly từng tý - từ việc tôi mua gói băng vệ sinh, cho đến cái kẹo cho trẻ con, đều bị bà để ý và cự nự vì tốn tiền vô ích. Càng ngày, cuộc sống càng trở nên tồi tệ đến mức ngột ngạt.
Con trai của tôi dù mới 6 tuổi đầu nhưng đã phần nào hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh, có lần nó bảo mẹ dành tiền để về Ucraina. Tôi chỉ còn biết thở dài thương con, vì vé máy bay quay về cho ba mẹ con ít nhất cũng phải hai nghìn đô la, trong khi trong tay tôi không có nổi lấy một trăm! Andrei hứa sẽ giúp tôi kiếm tiền. Những ngày sau đó, con trai tôi đã tự động làm mọi cách, từ câu cá, hái quả mang đi bán, cho đến thu nhặt vỏ chai... để mong kiếm được chút tiền đưa về cho mẹ.
Tôi không có đủ can đảm để tâm sự thật hoàn cảnh của mình với mẹ tôi. Nhưng có một lần, khi đã không thể chịu nổi, tôi viết một bức thư cho bạn gái ở Ucraina, và cô bạn Tania đã kể lại mọi việc cho mẹ tôi. Người nhà và bạn bè tôi bắt đầu tìm mọi biện pháp để giúp mẹ con tôi trở về, thậm chí đã nhờ Bộ Ngoại giao can thiệp qua Đại sứ quán Việt Nam ở Kiev.
Vào một ngày, có một người công an đến nhà và nói có thông tin cần kiểm tra. Tất nhiên, anh ta không nói được tiếng Nga, còn tôi thì chưa đủ vốn tiếng Việt để giải thích cặn kẽ mọi việc. Chồng tôi đã lợi dụng ngay tình thế đó để nói tất cả những gì có lợi cho bản thân anh ta.
Một lần, tôi đã quyết định bỏ trốn. Mang theo hai con cùng một số quần áo, tôi bỏ chạy khỏi nhà mà chẳng biết sẽ đi đâu. Cuối cùng thì chồng tôi đuổi kịp và đưa ba mẹ con lên xe tắc xi. Đến trung tâm Hà Nội, anh ta cho mẹ con tôi xuống xe và bảo: đấy, muốn đi đâu thì cứ đi! Giữa lúc bơ vơ, tôi gặp một người đàn ông tốt bụng, sau khi hỏi han tình cảnh, biết tôi là người Ucraina (người dân Việt Nam rất quý những người từ các nước thuộc Liên Xô cũ), đã cho ba mẹ con tôi ăn và đưa đến đồn công an trình báo. Chồng tôi buộc phải đến đón chúng tôi về, kèm theo lời cảnh cáo của chính quyền: sẽ không để yên, nếu còn xảy ra sự việc tương tự. Sau lần đó, Hà không chỉ lạnh nhạt với tôi, mà cả với các con cũng vậy. Có lúc, cả nhà ăn cơm mà chẳng gọi mẹ con tôi.. Một người chị em của chồng tôi thấy vậy, thương chúng tôi nên đã mang đồ ăn đến cho chúng tôi ăn.
Cuối cùng thì dịp may cũng đến. Ông trưởng phòng lãnh sự Đại sứ quán Ucraina tại Việt Nam đã đến tận nhà thăm mẹ con tôi. Được dịp, tôi đã kể hết với ông về tình cảnh của mình, kể cả việc bị đay nghiến vì mua một tuýp thuốc đánh răng mới, cả việc mẹ chồng tôi giấu kỹ bột giặt, chỉ cấp cho tôi mỗi lần một thìa con! Đến giờ, tôi đã quên mất họ tên của ông, nhưng luôn nghĩ đến ông với lòng kính trọng và biết ơn đặc biệt, vì ông đã quan tâm rất nhiều đến chúng tôi. Ông nói, Đại sứ quán hiện không có tiền để giúp mẹ con tôi, nhưng hứa sẽ giúp đỡ bằng mọi cách. Lần sau đến, ông mang cho chúng tôi rất nhiều thứ, từ bột giặt cho tôi, chiếc xe đạp cho con trai tôi, đến các loại đồ chơi, bánh kẹo, nước ngọt... Thậm chí ông còn cho tôi tiền nữa. Chỉ có điều, sau khi ông về, tôi lại cảm thấy cay đắng hơn bao giờ hết - tôi không phải là một đứa ăn mày, vậy mà đã phải ngửa tay nhận của một người không quen biết từ gói bột giặt trở đi...
Cuộc trở về của Maia
Ông trưởng phòng lãnh sự đã tổ chức một chiến dịch vận động quyên góp tiền trong cộng đồng người Ucraina đang có mặt ở Việt Nam để giúp đỡ ba mẹ con chúng tôi. Ở Kiev, gia đình tôi cũng tìm mọi cách để dồn tiền để gửi sang cho tôi. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của mọi người, chúng tôi đã có đủ tiền để mua vé máy bay về Ucraina.
Gia đình chồng tôi tỏ ra khá hờ hững với việc mẹ con chúng tôi quay về. Có thể, họ thậm chí đã vui mừng vì thoát được một cô con dâu vô dụng như tôi. Tôi đã trở về Ucraina sau 11 tháng trời sống ở Việt Nam như vậy đó.
Tôi và con trai Andrei bay về Kiev, còn con gái Maia phải để lại cho chồng nuôi theo quyết định của tòa. Điều đó làm cho tôi day dứt khôn nguôi. Thậm chí, tôi không biết có khi nào được gặp lại con gái bé bỏng của mình không nữa...
Sự dằn vặt đeo đuổi tôi suốt ba năm trời. Tôi biết, gia đình chồng tôi sẽ không ngược đãi cháu, nhưng dù sao con sống xa mẹ cũng là một điều bất hạnh.
Một lần, Hà gọi điện cho tôi. Anh ta báo tin sắp cưới vợ mới, và vợ sắp cưới của anh ta đang mang thai. Anh ta nói cho phép tôi đón Maia về, nhưng với một điều kiện: phải đưa cho anh ta 3 nghìn đô la! Mặc dù đã từ lâu tôi không còn chút tình cảm nào đối với người đàn ông này nữa, nhưng vẫn hết sức bất ngờ, vì không bao giờ nghĩ anh ta có thể trở nên ích kỷ đến như vậy.
Thế là tôi lại phải đi xin tiền khắp họ hàng, bạn bè một lần nữa. Mỗi người cho tôi từng nào có thể cho được, nhưng gia đình tôi thuộc dạng nhà nghèo, nên cũng chẳng có người quen nào giàu có cả. Kết quả là tôi chỉ có đủ tiền để mua vé máy bay đi và về. Tuy nhiên, tôi không hề tiết lộ với Hà điều này, mà vẫn hứa là sẽ nộp đủ 3 nghìn đô la như anh ta đòi hỏi.
...Khi tôi vừa bước vào nhà, mẹ chồng tôi gần như đổ gục xuống chân tôi mà xin lỗi. Nước mắt bà chảy lã chã trên khuôn mặt già nua. Sau khi tôi rời Việt Nam, bà đã hiểu ra rằng người có lỗi không phải là tôi, mà là Hà. Người con dâu mới không giúp gì được mẹ chồng, thậm chí bà còn phải san xẻ cả số tiền lương hưu ít ỏi của mình cho con trai và con dâu. Mọi việc trong nhà bà vẫn phải tự mình làm hết, mặc dù đã gần 90 tuổi. Mẹ chồng tôi hiểu rằng giữa chúng tôi và bà chỉ có những khác biệt về văn hóa. Giá như không có sự thay đổi của chồng tôi, biết đâu tôi và bà đã trở thành những người thân thật sự trong cùng một nhà, như trong những gia đình bình thường khác?
Hà, chồng tôi, tất nhiên chỉ quan tâm đến tiền. Tôi buộc phải nói dối rằng không tin tưởng vào sự trung thực của anh ta, nên sẽ chỉ giao tiền ở sân bay, khi đã chắc chắn một trăm phần trăm là con gái tôi sẽ cùng tôi quay về Ucraina.
Đến ngày lên đường. Trong xe tắc xi ra sân bay, chồng tôi lại hỏi tiền. Tôi lại hứa sẽ đưa tiền cho anh ta khi tới sân bay. Đến khi hai mẹ con tôi đã vào trong vùng kiểm soát an ninh, Hà còn gọi với theo: "Lena, thế tiền đâu?" Tôi quay lại và... vẫy tay chào từ biệt!
Bây giờ tôi đã thực sự hạnh phúc bên hai đứa con mình. Andrei rất ham bóng đá. Còn Maia đã quen với nhà trẻ mới và dần dần học lại tiếng mẹ đẻ. Chẳng mấy người biết rằng tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân đặc biệt như vậy.

Elena Elovikova


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2013 lúc 9:37pm


Một chốn đi về

Monday, 23 September 2013 00:00


Tác Giả
Ngọc Ánh


Hàng năm, tuy không hẹn trước nhưng vợ chồng tôi cứ nhắm chừng con heo đất hơi nặng là lật đật đập ra mua vé lơn tơn về VN, riết rồi cũng quen , không về thì thấy ray rứt bồn chồn, mà về thì “trăn trở bức xúc” đủ thứ chuyện...
Biết vậy mà cũng về!

Sàigòn đầy bụi và nắng nóng, thành phố lúc nào cũng hầm hầm như cái mặt tên Hải quan ở cổng phi trường TSN, taxi chạy qua những con đường lớn chật cứng xe và người ngột ngạt. Thú thật tôi chỉ muốn về nhà thật nhanh, ít ra ở đó tôi cảm thấy sự bình yên hơn trong không khí thoải mái của gia đình, người thân.

alt

Thắm Nguyễn

Má tôi lui cui trong bếp, lưng bà như còng hơn trong dáng đi chậm chạp của đôi dép kéo lê, gần 90 tuổi nhưng bà vẫn muốn vào bếp nấu cho tôi nồi canh chua bông so đũa; cái món mà tôi khó tìm thấy khi bôn ba ở xứ người “ Má biết mày thèm...” Tôi ôm bà ấm áp như hồi nhỏ, thấy ánh mắt bà vui hơn.

Má tôi quê Xẻo Gừa, lên Sài Gòn sống gần 60 năm nay nhưng bà vẫn giữ y tánh nết chơn chất của một phụ nữ miền Nam, hiền lành nhân hậu, lúc nào cũng chăm lo cho gia đình, thương con quý chồng. Tôi dùng chữ quý bởi vì trong cung cách đối xử với Ba tôi lúc nào cũng tương kính như tân, phải nói là Bà tâm phục khẩu phục ông lắm… Tôi nhớ hình ảnh bà sáng nào cũng bắt cái ghế đẩu ngồi cạnh giường ông, kể chuyện con cái, chuyện nhà cửa chợ búa, chuyện cô ba, chú bảy, chuyện hồi đó ở dưới quê….

Ông nằm trong mùng không biết thức chưa hay còn ngái ngủ nhưng thỉnh thoảng ông lên tiếng vài câu, dặn dò nhắn nhủ việc gì đó, nghe tiếng má ừ hử nhỏ nhẹ đều đều như vậy quanh năm suốt tháng. Ngày nào Má không ngồi ở cạnh giường ông thì tới phiên Ba lo lắng ngồi bên cạnh giường bà để biểu bà ăn cháo uống thuốc... Cảnh đầm ấm đó đám con thấy riết cũng quen mà không thắc mắc nhưng khi lớn lên có vợ có chồng, chúng tôi cũng ảnh hưởng ít nhiều cái tình gia đình êm đềm đó trong cuộc sống riêng tư. Và tôi đâm ra ngạc nhiên tự hỏi “Ủa, sao hồi đó Ba Má không ngủ chung giường, gác chân gác tay và nói hằm bà lằng chuyện như chúng tôi bây giờ cho thân mật hơn?”.

Cái tình nghĩa vợ chồng khi về già có lẽ trầm lắng sâu sắc hay chăng? Tôi chưa quá già để nhận ra chân lý sống đó, nhưng tôi biết khi một chiếc dép bị sút quai thì chiếc kia coi như bỏ thùng rác. Ba tôi mất trước và dĩ nhiên Má tôi buồn biết bao nhiêu khi ở lại một mình…

Đám con cháu lại trở về sống vây quanh để bà không thấy lẻ loi. Cuối tuần là bà nấu món ăn ngon, cả bầy xúm lại ăn, xúm lại kể chuyện này kia cho Má tôi nghe, bởi vì Má tôi không đi đâu ngoài khoảng cách 100m từ nhà đến chợ mỗi ngày, và cái Ti-vi ở phòng khách giúp bà giải khuây bằng những bộ phim dài nhiều tập. Mấy chị em tôi ai cũng có chuyện để kể Má nghe y như hồi xưa bà ngồi thủ thỉ với Ba mỗi sáng… Câu chuyện đôi khi cũng thường, lượm lặt trên net, trên báo nhưng qua nhỏ My thì nó thêm mắm giặm muối tăng thêm phần hào hứng khiến ai cũng cười lăn và người cười nhiều nhất là Má, bởi vì Má tôi luôn tin đó là chuyện có thật. Bà chưa bao giờ biết về internet nên bà đâu thể ngờ trên đó có cả một kho chuyện tiếu lâm. Người ta “đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười”. Còn bọn tôi chỉ mong đổi vài chục năm còn lại để Má sống vui với con cháu.

Trong nhà tôi là đứa đi xa nhất, chuyến đi giống một phép lạ mà mọi người không nghĩ rằng tôi có thể bay dễ dàng như vậy. Chị em ai cũng mừng cho tôi nhưng Má thì im lặng. Tôi biết bà không vui khi có một chim bay khỏi tổ, dù con chim không còn non nớt yếu đuối như Má nghĩ.

Má tôi có 8 người con, 6 gái 2 trai. Các con lần lượt có vợ có chồng ra riêng,  sót lại 3 đứa con gái quá lứa. Nhà tôi trong hẻm nhỏ gần chợ Nguyễn Tri Phương, gia đình dọn về đây hơn 40 năm nên cây mận Má tôi trồng trước nhà xum xuê tàn, những trái nhỏ xíu chát ngầm rụng đầy sân để sáng nào bà cũng còng lưng quét. Nhỏ My làm hướng dẫn viên du lịch, dáng vẻ trẻ trung hoạt bát, đi đây đó hoài nhưng vẫn bị “chống ề” vì tuổi Dần. Một hôm nó về nói với Má tôi “Thầy bói nói nhà mình bị cái cây mận này ếm nên con gái khó đi lấy chồng” và nó đề nghị đốn bỏ. Má tôi chỉ cười hiền “để cho nó mát mà” Nhưng sau đó ít lâu Bà kêu người tới cưa gốc mận, không biết bà tin lời con My hay bà quét sân hoài nên cũng mệt. Có điều vài tháng sau thì con My lấy được chồng. Nó lại càng tin thầy bói hơn nữa, riêng Má tôi buồn vì vắng cái miệng tiếu lâm ồn ào của nó, tuy nhiên bà vẫn mua con gà về cúng vì trước đây Bà có vái “gả được con cọp My” bà sẽ cúng tạ ơn. Tấm lòng bà Mẹ thương con đôi khi cũng mâu thuẫn đến lạ lùng…

Hôm nghe tôi nói sẽ theo chồng qua Mỹ, Má tôi ngồi im một lúc rồi hỏi “ Xứ đó ở đâu? Xa hôn? Xa cỡ nào?” Tôi lấy chiếc đũa cắm vào trái cam và xoay vòng, giải thích “ Xa lắm Má à, nó ở nửa vòng trái đất, bên này Má ban ngày, bên Mỹ là ban đêm”. Bà có mấy người bạn trong xóm cũng đi Úc đi Canada, lâu lâu về thăm, ai cũng trắng trẻo khỏe mạnh, họ tặng bà mấy hộp thuốc bổ. Bà thấy vui vui và không cần biết nó xa cỡ nào. Nhưng bây giờ thì bà quan tâm tới điều đó bởi vì con gái bà sắp ra đi, đến một đất nước xa lạ mà cả đời bà không thể nào hình dung được.

Tôi qua Mỹ được vài năm rồi cũng nhớ Má lót tót trở về. Mọi người tụ lại nhà Má đủ mặt dâu rể cháu chắt, ăn uống nói cười vang rân, tôi lại kiếm những câu chuyện vui lạ đó đây trên bước đường rong ruổi của mình để kể cả nhà nghe. Trên chuyến bay có một bà tuổi chừng 90, bà khỏe lắm nói cười còn minh mẫn, chắc bà trở về VN thăm con cháu, bà đi một mình dưới sự chăm sóc đặc biệt của một nhân viên biết nói tiếng Việt. Khi xuống máy bay, bà chống gậy lững thững ra ngoài, đứng giữa sân có đông nghẹt người đi đón thân nhân, bà gõ cồm cộp cây gậy xuống sàn và nhìn quanh hỏi to “ Thằng Hai đâu?” Một mái đầu bạc trắng nhô lên la lớn “ Dạ, con đây Má” khiến ai cũng bật cười và cảm động nhìn theo. Má tôi nghe chuyện cũng cười “Bà đó giỏi quá ha”. Cả nhà chỉ chờ có vậy để thuyết phục Má đi du lịch cho biết đó đây. “Thôi đi, nó nói tiếng Tây tiếng U Má làm sao hiểu, ở xóm này gặp người quen mỗi ngày cũng vui vậy, coi Ti vi cũng biết chỗ này chỗ kia vậy”. Các con biết tánh Má, bà quen quanh quẩn lũy tre làng…

Trong lúc soạn tìm một số giấy tờ cá nhân tôi gởi Má cất trong ngăn tủ, chợt một chai nước hoa khô queo và cây son sẫm màu từ đời nào lăn ra sàn… Tôi cầm lên săm soi và thấy lòng mình như rưng rưng có lỗi “ Cái này là mỹ phẩm của Má đây sao?” Bấy lâu nay tôi vô tình quên mất Má cũng có lúc cần những món đồ đơn giản như vậy cho mỗi lần đi tiệc tùng cưới hỏi. Chị Hai mua bóp đầm, chị ba may áo dài, con Nga mua sợi dây chuyền, đôi bông cẩm thạch, nhỏ My, út Lan thì giày dép quai nhung, nhưng không đứa nào nhớ tới gương mặt Má với một chút son phấn tươi tỉnh của tuổi già. Qua Mỹ tôi thấy có nhiều bà già cỡ tuổi Má, áo quần sang trọng, môi son đỏ thắm, có bà còn xăm mắt, cắt mí trông như tài tử Hollywood, sáng nào cũng đứng đợi xe bus đi Casino ăn chơi thư thả. Còn Má tôi quen sống giản dị quê mùa nhưng khi đám tiệc với mấy bà bạn thị thành chắc bà cũng cần một chút trang điểm, cây son và chai nước hoa này ai đó đã tặng bà lâu lắm rồi, nó cũ mốc… Mỗi lần về nước, tôi hay tặng bạn bè những thỏi son, nước hoa hay Lotion nhưng không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện tặng Má một chai dầu thơm. Nghĩ lại thấy mình đáng trách hết sức, tôi nhớ tới câu thơ viết về Mẹ:

“Đừng để một ngày kia Mẹ mất đi rồi mới giật mình khóc lóc
Dòng sông qua đi có trở lại bao giờ ….
Ta làm thơ cho bao người con gái
Có khi nào ta làm thơ tặng Mẹ ta không?”…

Chắc ông cũng ray rứt ân hận như tôi bây giờ khi cầm thỏi son xạm màu thời gian của sự vô tình bạc bẽo. Chuyện đơn giản vậy mà tôi cứ thấy nao nao suốt buổi, Má không biết chuyện này nhưng tôi biết, nghĩ bụng mình nên làm cái gì đó may ra còn kịp để Má vui. Tôi lục trong hành lý ra một chai Chanel mới tinh, một mớ son phấn mà con gái tôi làm quà tặng hôm Mother’s Day (bởi vì nó biết tôi điệu!) lẳng lặng để vào ngăn tủ của Má. Trong mắt chúng tôi, hình ảnh Má vẫn luôn đẹp.

Má tôi thích đi chợ mỗi ngày, thường thì bà thức rất sớm, đi dạo một vòng quanh chợ; người bán người mua lâu đời quen mặt nên gặp nhau ai cũng cất tiếng mời chào, đồ ăn lúc nào cũng đầy tủ lạnh nhưng có lẽ thấy Má dễ tánh nên nhiều người nài nỉ ép mua, thậm chí mang tới tận nhà đủ thứ từ quày dừa tươi tới con gà ký thịt… Chúng tôi cứ dặn Má hoài, ăn không có bao nhiêu đừng mua nhiều quá, thằng em tôi cằn nhằn “Má làm như chợ sắp đóng cửa cả tháng”. Má chỉ cười nói “để dành nấu cho tụi bây ăn, thà dư còn hơn thiếu”. Má ăn mỗi bữa chỉ có lưng chén cơm và nửa khứa cá kho nhưng cái lo thiếu ăn thiếu mặc cho chồng con có lẽ ngấm vào máu Má từ thuở tản cư chạy giặc tới bây giờ…

 Tôi giúp Má để dành thức ăn đông lạnh như bên Mỹ, rửa sạch, để ráo rồi ướp gia vị, phân loại thịt cá ra từng bọc riêng để vào ngăn đá, tôi viết chữ to để Má dễ phân biệt; gói này là thịt bò xào sả ớt, gói này là tép nấu canh, gói này là cá lóc kho tiêu.
Vậy mà vài hôm sau lại thấy Má lục lọi kiếm gì đó trong tủ, tôi kêu lên “ Má, con viết chữ trong đó rồi mà, Má đọc sẽ thấy”. Má làm thinh không nói.

Hùng kéo tay tôi rù rì “ Chị quên là Má mình không biết chữ sao”. Tôi lại ngớ người ra ân hận. Trời ạ! Sao mà tôi ngu ngốc thế, người không biết chữ có lẽ là tôi chớ không phải Má. Tôi dốt đến độ vô tâm không hiểu chữ Mẹ phải viết hoa như thế nào cho đẹp. Má tôi quê mùa chơn chất, một chữ bẻ đôi không biết mà nuôi tám, chín đứa con ăn học đàng hoàng… Tôi xót xa như thể mình phạm một lỗi nặng với Má mà không biết làm sao sám hối.

Nhiều người hay đợi rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan mới lật đật đi Chùa tụng kinh báo hiếu, cài bông hồng trắng bông hồng đỏ tùm lum trên ngực áo; thay vì mỗi ngày mua một món ngon mà Má thích ăn, kể một chuyện vui cho Má cười, chở Má đi thăm người bạn thân ở đâu đó, nắm chặt tay Má mỗi khi Má ngồi im buồn rầu… Tôi nghĩ cũng là cách báo hiếu cho đấng sanh thành.

Đôi khi trong cuộc sống tất bật, ta mải mê đuổi theo công danh cơm áo, chỉ chăm chăm lo cho mái ấm riêng tư của mình, mong có ngày nghỉ để đưa cả nhà đi chơi mà quên rằng có Cha Mẹ già nua lẩm cẩm đợi mình ghé thăm cuối tuần. Nghe tiếng Chùa này to, Chùa kia đẹp, hăm hở đi viếng lạy mà quên mất có một Đấng Phật Mẫu đang nằm ở dưới lầu chờ con thăm hỏi nhưng con vẫn thờ ơ đi qua…

“Mỗi mùa Xuân qua, Mẹ tôi già thêm một tuổi… Mẹ già như chuối chín cây, gió lay Mẹ rụng con sẽ mồ côi” . Chị Hai tôi vốn mau nước mắt khi nghe bài hát này.Tôi thì cố thu xếp để mỗi năm trở về bên Má, đâu ai biết được cơn gió nào bay ngang vô tình. Hạnh phúc thay cho những người bạc đầu mà còn có Mẹ để kính để yêu. Cũng như tôi may mắn còn Má trong đời để có nơi chốn trở về yên ổn giữa muôn ngàn bon chen mệt mỏi.


Ngọc-Ánh

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2013 lúc 6:52pm



Cậu Tư Quậy
(12/06/2013) (Xem: 827)
Bài số 4078-14-29478vb5120513


Tác giả lần đầu dự viết về nước Mỹ. Theo bài viết, đây là chuyện kể của một bà mẹ trong gia đình đến Mỹ theo diện H.O., an cư ở Seattle. Một đứa bé được định cư ở Hoa Kỳ sẽ phát triển và hội nhập như thế nào?Xã hội mới, hoàn cảnh mới tạo cho em những điều kiện sinh hoạt ra sao. Cha mẹ sẽ khuyến khich giúp đỡ em như thế nào? Đó là nội dung chuyện kể. Mong tác giả tiếp tục viết và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.

* * *

Khi sanh thằng Út, tôi hơi thất vọng vì đã có hai thằng, đang thèm một đứa con gái cho có nếp có tẻ. Vậy mà nó lại là bảo bối của tôi, Nguyễn Gia Bảo, lúc nhỏ còn có nick name là Tư Quậy, vì bất kể ở đâu, đi đâu và làm gì, thiên hạ đều phải lắc đầu, bởi nó quậy quá đi.

Tôi nuôi thằng Út thiệt cực. Cu cậu ói ỉa lung tung, uống thuốc tây hoài vẫn không khỏi, ốm nhom xanh mét. Nóng ruột vì con, tôi tin lời mấy bà già, cho rằng nó bị ban trắng đã lậm vào mà không trổ ra, nên ai chỉ thầy hay, thuốc giỏi tôi đều ẵm nó đi chữa. Sau, có ông bác sĩ nói rằng, đường ruột thằng Út lúc sinh ra chưa được hoàn chỉnh, nên phải uống sữa Pelargon, một loại sữa chua của Pháp để cấy men tiêu vào ruột. Thời đó, năm 1988, một chỉ vàng mà một công chức như tôi, không tham ô, không móc ngoặc, không ăn hối lộ, phải kiếm đỏ mắt mới có, chỉ ngang ngửa với giá của một hộp Pelargon, vậy mà nó bú vào rồi lại ói ra, tiếc đứt ruột. Nhưng dần dần, đúng như vị bác sĩ kia đã nói, hệ thống tiêu hoá của nó tốt lại, nó không còn ói ỉa lung tung nữa, khoẻ mạnh như trẻ con bình thường. Và bắt đầu quậy.

Lúc cỡ hai tuổi, mỗi khi đòi gì không được, nó nằm vạ. Tôi bỏ mặc: "Cứ nằm đi con, con nằm chán thì con sẽ thôi." Ai dè, sau vài lần thấy không hiệu quả, nó đổi kiểu. Nó không nằm vạ trên nền đất sạch sẽ nữa, mà ra sàn nước, chỗ rửa chén giặt đồ của chị tôi, ở ngay sau nhà tôi. Nó vừa khóc la, vừa lăn lộn dẫy dụa, quần áo, mình mẩy, mặt mũi dơ dáy bẩn thỉu trước bao nhiêu cặp mắt của bà con lối xóm. Đành phải chịu thua nó thôi.

Khi nó bốn tuổi, cả nhà đùm đúm qua Mỹ theo diện HO. Lần đầu tiên chúng tôi đi máy bay đến xứ lạ quê người, nên ở phi trường New York, phần bỡ ngỡ, nôn nao hồi hộp, phần đồ đạc lỉnh kỉnh, đã không kịp mang giày cho nó, để nó đi chân không mà dẫn nó ra. Ra được tới ngoài rồi, cu cậu mới sực nhớ, vừa khóc vừa hỏi, sao không mang giày cho nó, vụt chạy ngược trở vô, đòi phải mang giày trong máy bay mới chịu. Ba nó chạy theo ẵm ra thì nó la hét, vùng vẫy. Hai cha con cứ xà quần như vậy trước bao nhiêu cặp mắt kinh ngạc của Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ vàng, và sự chờ đợi của nhiều gia đình Việt Nam cùng đi chung đoàn. Cuối cùng ba nó đành phải mua bịch kẹo dụ, nó mới chịu im.

Nó tuy quậy, nhưng thương mẹ lắm. Khi vào học mẫu giáo, bắt đầu biết viết chữ Bảo và chữ Mom là nó viết hai chữ đó ở mọi nơi, "Bao and Mom" trên tất cả các tờ giấy, dưới tất cả hình vẽ hay bài viết gì của nó, y như là chữ ký của tác giả vậy. Lúc đó tôi mới qua Mỹ, không tiền, nên ngày nào cũng đi may đến tối khuya mới về. Mỗi ngày ba nó đi rước tôi, nó đều theo, nhưng luôn ngủ từ lúc lên xe cho đến khi trở về tới nhà. Một hôm, tôi hỏi nó:

- Sao con không ở nhà ngủ, đi theo ba làm gì cho khổ?

- Con muốn thấy mẹ trước. Con không muốn anh hai, anh ba thấy mẹ trước.

Ôi! Nghe nó nói mà thương làm sao.

Năm tuổi, nó biết dùng phương pháp mở cửa ra ngoài đứng vạ khi chỉ mặc phong phanh chiếc áo thun dưới trời mùa Đông khoảng 40 độ F. Lúc đầu, tôi không ngó ngàng tới, nhưng nó nhất định không chịu thua. Cuối cùng lại phải chịu thua nó chứ hỏng lẽ để nó bị sưng phổi?

Sáu tuổi, có lần ba nó đi chợ, nó đòi đi theo nhưng muốn ba nó phải chờ nó thay quần. Khi thay xong, thì ba nó không chờ, đã bỏ đi mất. Nó đổ thừa tại tôi thay quần cho nó chậm, khóc la, và bắt tôi phải xin lỗi. Tôi nhất định không. Lúc đó hai mẹ con đang ở nhà bếp. Nó cầm lấy con dao nhọn, hướng mũi dao vào ngực và nói, nếu tôi không xin lỗi, nó sẽ đâm nó chết. Dầu biết rằng đó chỉ là lời hăm doạ, nhưng tôi đâu dám lớn gan như nó, đâu dám thách đố nó nên đành phải gằn giọng bực tức:

- Xin lỗi.

Nó vẫn không chịu:

- Xin lỗi như vậy không được. Mẹ phải ôm con và nói nhỏ nhẹ: "Mẹ xin lỗi con, Bảo."

Tôi lại phải nuốt giận, ôm nó mà nhỏ nhẹ xin lỗi.

Một lần, trời tối mà nó vẫn mê chơi, kêu hoài không về. Đến khi về, nó thấy tôi cầm cái roi, biết sẽ bị đòn, năn nỉ:

- Khoan đã, mẹ chờ con chút.

Anh chàng vô phòng, đóng cửa lại, mặc thêm quần jeans vào rồi mới để tôi đánh. Sau đó nó đã kể với anh hai của nó:

- Anh hai ơi, anh hai! Bữa nay em bị đòn, mẹ “quýnh” đâu có đau, nhưng em cũng phải khóc cho mẹ hết "quýnh".

Tôi hiếm khi đánh con. Chỉ có thằng Tư Quậy, quậy quá, mới bị tôi đánh vài lần. Không phải tôi bị Mỹ hoá đâu. Nếu đánh nhẹ thì không ăn thua và chỉ làm cho nó lì đòn. Còn đánh mạnh đến nó phải sợ và chừa thì tôi làm không được. Tôi không có can đảm làm con tôi đau đớn thân xác. Ba tôi ngày xưa đánh con dữ quá, nên mặc dù tôi rất thương và kính trọng ba tôi, nhưng tôi sợ ba tôi lắm, ít dám lại gần ổng. Có lẽ thằng Bảo giống tôi hồi nhỏ. Tôi còn nhớ hồi tôi còn nhỏ, nhỏ lắm kìa, tôi đang quét nhà, ba tôi giựt ngang cây chổi, rồi quất vào người tôi, vừa quất ông vừa la: "Quét nhà mà cái lưng đứng sững, không chịu khom xuống là cái kiểu của con người lười biếng". Tôi đau lắm nhưng nhất định không rớt một giọt nước mắt. Vậy mà cũng có lần, không nhớ vì lẽ gì ba tôi xoa đầu tôi, và tôi đã len lén ra sau hè, đứng một mình mà chảy nước mắt thật lâu.

Tôi biết thằng Út là đứa lớn gan nhưng lại nhiều tình cảm giống tôi, nên giả bộ giận chính là ngón đòn hữu hiệu nhất. Mỗi khi nó làm điều trái ý, tôi chỉ cần làm thinh, không đếm xỉa tới nó thì nó biết liền, sợ lắm. Nó không chịu nổi khi bị mẹ giận. Vậy là cu cậu cứ chạy theo, chìa má bắt tôi hôn. Tôi quay đi. Nó quay theo. Cứ như vậy hai mẹ con quây qua quây lại một hồi và bao giờ tôi cũng là người chịu thua nó.

Tôi hồi nhỏ rất mê chơi, nghịch ngợm, lớn gan, sau nầy ra đời cũng có nhiều sai lầm. Có lẽ vì vậy mà tôi thông cảm được với con tôi hơn. Tôi chỉ cầu cho nó học hành đàng hoàng, không ác độc hại người, không tứ đổ tường, thì dù cho nó có quậy quọ chút đỉnh cũng có chết thằng Tây nào hay ảnh hưởng gì tới hoà bình thế giới? Chỉ cần ta kiên nhẫn với nó một chút, nó sẽ tự thay đổi khi lớn lên. Còn thay đổi thế nào thì tuỳ tâm tánh mỗi đứa. Nhưng tôi biết chắc một điều là nó sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những người cận kề bên nó, cho nên cách dạy con tốt nhất không phải là đánh con mà hãy tự mình làm gương cho con.

Có lần nó theo Richard, thằng Mỹ trắng hàng xóm lớn hơn nó hai tuổi, cũng thuộc loại quậy có tiếng, đi tháo nắp đậy vòi bơm của mấy bánh xe hơi đậu ngoài đường. Chỉ phá chơi thôi. Ai dè người ta thấy bèn kêu cảnh sát. Cảnh sát đến vớt hai cậu chở về nhà giao cho cha mẹ. Ôi! Thằng Tư Quậy sợ muốn té đái, khóc thút thít, còn bị thằng anh của nó chọc quê:

- Sao? Ngồi xe cảnh sát êm hôn Bảo? Mát đít hôn cưng? Ít người được ngồi trên đó lắm à nghen.

Còn tôi, việc phải làm lúc đó là cho nó một tình cảm thương yêu, một chỗ dựa của người mẹ, chứ không chửi mắng thêm, vì tôi biết nó đã quá sợ, và nó sẽ tởn tới chết.

Đến năm thằng Út lên bảy thì anh hai của nó cũng được mười bốn, đủ lớn để trị thằng em quậy. Hình như những lúc tôi không có ở nhà, Tư Quậy bị anh đánh dữ lắm nên sợ. Mỗi lần nó chứng lên, anh nó chỉ cần kêu: “ Bảo!”, là nó ngưng liền lập tức. Từ đó, tôi khoẻ re.

Có lần tôi hỏi nó:

- Sao con sợ anh hai mà không sợ mẹ?

- Tại mẹ thương con nhiều. Con biết mẹ không nỡ đánh con mạnh, nhưng anh hai dám đánh.

Dần dần, tôi như vừa là mẹ, vừa là bạn của nó. Có hôm đi học về, nó nói với tôi:

- Mẹ ơi mẹ, hôm nay con bị phạt.

- Sao vậy?

- Con nói với mẹ, nhưng mẹ hứa không được mét anh hai với ba à nhen.

- Ờ. Mẹ hứa.

 - Vì con bỏ trái nho vô bình sữa của bạn con.

Tôi giữ lời hứa. Từ đó về sau bất kể gặp phải chuyện gì, vui hay buồn, trúng hay sai, nó đều kể cho tôi nghe. Tôi không cần dạy bảo hay la rầy nó nữa, vì khi nó kể ra, nó đã tự biết việc nó làm là đúng hay sai rồi.

Nó tuy quậy, nhưng học giỏi. Năm nào cũng được thầy cô khen ngợi hết lời. Ấy vậy mà tôi có thấy nó học hành gì đâu? Thắc mắc thì nó trả lời đã làm bài xong khi ngồi trên school bus, để về nhà chơi được nhiều hơn.

Có một chuyện nhớ lại vẫn còn mắc cười. Lúc mười hai tuổi, nó đòi nhuộm tóc, màu vàng cho giống Mỹ. O.K. thích thì cứ nhuộm, không lý do gì ngăn cấm nó. Nhưng tôi giao hẹn trước:

- Con phải tự làm lấy. Mẹ chưa nhuộm tóc bao giờ, không có kinh nghiệm nên không giúp được gì đâu nhen.

Thằng nhỏ tự mua thuốc về, đọc lời hướng dẫn, rồi tự nhuộm lấy. Tôi không rớ vô. Nhuộm xong, cái đầu không hoe vàng như Mỹ con, mà vàng hực như trái cam Florida. Vừa hết hồn mà vừa mắc cười. Thằng nhỏ kêu cứu:

- Mẹ ơi, làm sao bây giờ? Cái đầu nầy ngày mai không thể "dô" trường được, mẹ ơi.

Tôi phải chở nó đến tiệm uốn tóc, vừa tốn công lại vừa tốn tiền, nhưng không hề cằn nhằn. Nó đã khổ rồi, tôi là mẹ, giúp được nó thì giúp, tôi không làm cho nó khổ thêm. Có lẽ vì vậy mà nó luôn nghĩ đến tôi lúc hữu sự. Nó luôn kể tôi nghe tất cả mọi điều về nó, vì nó tìm thấy ở tôi một sự bao dung, che chở, thông cảm và chia sẻ.

Tôi có tật hay cười. Tôi dễ cười lắm. Những năm trung học tôi có đọc một bài viết "An Nam ta, gì cũng cười", tôi là người An Nam điển hình đó. Mà hễ cười thì ít giận, ít bực bội. Có phải điều này làm các con tôi gần gũi với tôi hơn?

Thằng Út chơi thể thao cũng giỏi. Nó là thành viên đội baseball của trường. Mỗi lần nó thi đấu với trường khác tôi đều đến tận nơi để ủng hộ, mặc dù tôi nào có biết gì về thể thao đâu. Bởi vậy có lần tôi quê muốn độn thổ luôn. Trong một trận đấu, nó cầm cây “bat”, đánh trúng vào trái banh của đội kia văng ra khỏi lằn biên nên được điểm. Thiên hạ vỗ tay tán thưởng vang rân, nhưng tôi, mẹ nó, lại đứng im ru, vì tôi đâu biết con mình mới được điểm đâu nè. Thiệt quê một cục. Nhưng mà biết rồi nhen. Lần sau, nó lại cầm cây “bat” đánh trúng trái banh của đội kia ném. Tôi đứng dậy vỗ tay thiệt lớn. Tiếng lốp bốp chỉ của riêng tôi vang lên lạc lõng trong sân đấu. Nhìn lại chung quanh, cả đội của nó vẫn im re, còn nó thì tiu nghỉu liệng “bat” đi vô. Tôi hỏi nhỏ:

- Sao vậy con, con đánh trúng mà?

- Nhưng tụi nó chụp được. Tụi nó có điểm. Con thua.

Tôi hố quá rồi. Tôi quê quá rồi. May mà thằng nhỏ không giận, không "cấm" tôi theo nó nữa.

Thôi bây giờ kể qua chuyện tình duyên của nó.

Thằng Út biết yêu sớm lắm. Còn nhớ lúc mới bốn tuổi, nó đã tủm tỉm cười mà nói với tôi:

- Hỏng biết mai mốt con cưới ai làm "dợ" đây nữa? Chắc con cưới con Rebeca quá (con bạn học chung mẫu giáo của nó). Nó bận đồ đẹp lắm mẹ ơi.

Tôi kể chị Sáu tôi nghe, chỉ cũng cười và nói với tôi:

- Thằng Phúc (con chỉ) hồi nhỏ cũng hỏi tao, "Nhà mình chỉ có ba người, ba đã cưới mẹ rồi, vậy còn con, mai mốt con cưới ai hả mẹ?"

Ha ha ha. Con nít ngô nghê hết sức. Nhưng mấy đứa như vậy biết yêu sớm lắm. Mười sáu tuổi, Tư Quậy đã yêu đứa con gái Việt Nam cùng tuổi, nhưng học khác trường, ở khác thành phố, quen biết nhau qua thằng bạn. Mẹ con bé rất khó, không cho bạn trai tới nhà nên tụi nó ít có cơ hội gặp nhau, thường chỉ thấy nó ôm phone thì thầm thủ thỉ. Chỉ sau vài tháng, con bé tuyên bố chấm dứt quan hệ để lo học hành. Nó muốn gặp con bé để nói chuyện, có lẽ định năn nỉ hay thuyết phục gì đó, nên nói với tôi:

- Mẹ chở dùm con lên nhà con Thuý.

- Sao không dùng phone mà phải đến nhà?

- Con muốn gặp để nói chuyện thẳng với nó.

- Vậy thì đi.

- Không được. Phải sau chín giờ tối mới đi được.

- Trời đất! Sao phải đi tối quá vậy? Tối mà lái xe quá xa, mẹ ngán lắm.

- Nó phải chờ cho má nó "dô" phòng ngủ, mới lại cửa sổ nói chuyện với con, chứ con đâu "dô" nhà nó được.

Đúng là “yêu em mấy núi anh cũng leo, mấy sông anh cũng lội, cực cỡ nào anh cũng đi”. Chỉ có điều anh còn nhỏ quá nên mẹ anh phải chở anh đi. Ôi, tội nghiệp hai mẹ con tôi. Vậy là mới mười sáu tuổi, nó đã nếm mùi thất tình, mối tình đầu. Nó buồn, cứ trằn trọc, không ngủ được. Nó nói:

- Sao con khổ quá mẹ ơi, mẹ có bao giờ khổ như con "dzậy" không? Mẹ nằm đây với con, nắm bàn tay của con, chờ khi nào con ngủ rồi mẹ hãy đi.

Mùi vị thất tình tôi đã nếm qua. Khổ sở cỡ nào tôi cũng đã biết. Lòng tôi xốn xang khi thấy con mình đau khổ vì tình, nhưng cũng sung sướng vì tôi được nắm lấy bàn tay của nó mà chia sẻ nỗi đau của nó.

Lúc đó, nó đang học lái xe, nhưng chưa được phép lái ra đường. Thấy nó khổ quá, tôi tìm cách cho nó khuây khoả, hỏi nó:

- Tập lái xe không? Chờ tối tối, vắng xe, mẹ cho con lái ra đường hén.

Nó mừng lắm, chịu liền, nhờ vậy mà đỡ khổ. Nhưng mà tôi cũng liều lĩnh quá sức, dám cho thằng nhỏ tập lái xe ngoài đường lúc đang thất tình. Làm mẹ, sao chịu được khi nhìn thấy con mình khổ sở, nên làm càn.

Vết thương lòng qua rất nhanh, năm sau, mười bảy tuổi, nó đã quen với một con bé khác, nhỏ hơn nó một tuổi. Cuộc tình thứ hai kéo dài tới năm năm. Trong năm năm đó, đứa con nít mới lớn trở thành chàng thanh niên trưởng thành. Nó phát triển rất nhiều về khả năng và trí tuệ. Con bé thì ngược lại. Thêm nữa, cá tánh càng lúc càng không phù hợp. Nó quyết định chia tay. Nó nói, chờ cho con nhỏ lớn thêm.

Mặc dù con bé rất đau khổ, nhưng thằng Út của tôi vẫn chặt dạ, nó mệt mỏi vì cãi nhau với con bé quá rồi. Tôi hơi tiếc. Con bé dễ thương, vui vẻ, lễ phép, tuy sanh đẻ ở Mỹ mà rất dễ nuôi, khô mắm gì nó cũng dứt tuốt, lại nói tiếng Việt rành rọt. Mỗi lần đi chợ mua sắm với con bé, nó đều giành đẩy xe xách giỏ rất xông xáo. Tôi không có con gái, nên thương con bé lắm. Nhưng cuộc đời thằng Út là của thằng Út, nó không cần và không muốn tôi xía vô thì tôi không thể xía vô.

Có lần, nó dẫn về một cô bạn gái, con nhỏ cũng đẹp, dễ thương, nhưng gia cảnh không mấy tốt. Tôi dặn trước:

- Quen thì quen, nhưng sau nầy không thể cưới.

Nó biết vì sao tôi nói không thể cưới, nên đã nói với tôi một hơi, giọng cương quyết:

- Cuộc đời của con là của con. Mẹ không thể quyết định cuộc đời con cho con. Yêu là yêu. Không thể vì cái gì mà yêu hoặc vì cái gì mà không yêu. Tình yêu nếu có suy nghĩ, tính toán và chọn lựa thì không thật sự là tình yêu. Một đứa con gái tốt, nhưng không có hoàn cảnh tốt, không thể có người chồng tốt hay sao?

Cái lý lẽ của một thằng nhỏ mới hai mươi ba tuổi, mãi đến mấy năm sau nầy, khi gần sáu mươi, tôi mới thấy đúng.

Nó tốt với con bé đó lắm. Con bé sống một mình. Có hôm con nhỏ bịnh, nó về nhà, hỏi tôi cách nấu cháo để mang lại cho cô nàng. Dĩ nhiên tôi phải "ra tay" cho nó rồi. Chỉ là bạn, nó khẳng định với tôi và nói tiếp, không biết sao nó cứ thấy tội nghiệp cho những đứa con gái không có hoàn cảnh tốt.

Rồi nó lại có bồ. Hai đứa biết nhau từ lúc còn học trung học, nhưng đến giờ mới cặp bồ. Con bé ngoan, hiền lành, dễ thương và coi bộ hợp với thằng con hơn. Nhưng lần nầy thì hơi mệt cho tôi. Con nhỏ là dân "mắm bồ hóc" Cambodian, nên khô mắm gì cũng thích. Có điều, với vốn tiếng Anh như gió, khi có khi không của tôi, tôi không thể tía lia được với con bé, hơi tiếc.

Thôi, kể qua chuyện khác. Chuyện nuôi gà.

Thằng Út rất thương thú vật. Một lần, nó ôm về ba con gà giò, hí hửng khoe với tôi:

- Mẹ, anh con Hiền cho con nè, một gà trai với hai gà gái. Mẹ lấy cái gì nhốt đỡ, vài bữa nữa con kiếm mua cái chuồng.

Tôi bật cười vì mấy tiếng gà trai, gà gái của nó. Rồi thở dài ngao ngán. Ứ hự! Lại đem cực về cho tôi nữa. Nào cá, nào thỏ, nào chim, nào rùa... Bây giờ tới gà. Nó ham nuôi thiệt. Nhưng nựng nịu, ngắm nghía là nó, mà chăm sóc, cho ăn, hốt cứt, cũng sẽ là tôi. Thôi thì, thương con, thương cả gà con ôm về. Chứ biết sao đây? Tôi lấy cái chuồng bằng kẽm hồi trước dùng để nuôi thỏ, nhốt tạm ba con gà, rồi hốt gạo cho ăn. Gạo lúa mới Thái Lan thơm lừng, tôi tiếc đứt ruột. Nhớ hồi tôi còn nhỏ, má tôi nuôi gà chỉ cho ăn bữa sáng, ngay sau khi mở cửa cho ra từ chuồng. Sau đó thả cho chúng tự đi bươi, kiếm mồi dưới đất mà ăn. Nhưng nhà tôi không có hàng rào, thả ra, chúng sẽ đi mất. Được vài hôm, thằng con đề nghị:

- Chắc nó quen rồi, mẹ thả một con cho nó ra ngoài chơi, còn hai con thì mình vẫn nhốt. Một mình nó ở ngoài, chắc nó không bỏ đi đâu.

Quả đúng như vậy. Bắt đầu từ đó ba con gà được thay phiên nhau ra ngoài dạo chơi. Rồi từ từ, đến lúc, chỉ nhốt một con, còn hai con ở ngoài. Một hôm tôi nhìn con gà bị nhốt cứ lúc thúc đi tới đi lui trong cái chuồng nhỏ xíu như người bị cầm tù, tội nghiệp quá, tôi thầm nghĩ:

- Chắc nó đã quen rồi, không đi xa đâu. Mà có đi thì chiều cũng về chuồng ngủ, giống gà của má mình hồi xưa.

Tôi thả con cuối cùng ra luôn. Nhìn nó tung tăng chạy nhảy với hai con kia mà lòng vui lây, có cảm giác như mình vừa mới làm được hành động nghĩa hiệp. Nhưng hỡi ơi! Khi thằng con về, ra thăm chuồng, thì không còn con gà nào nữa, dẫn nhau đi đâu biệt tăm rồi. Hỏi ra cớ sự, thằng con cự nự:

- Sao mẹ ngu quá vậy?

Tôi xụ mặt xuống. Nó thấy tôi giận bèn dài giọng nhỏ nhẹ:

- Mẹ...! Con xin lỗi mẹ vì con đã la mẹ ngu.

Tôi mát ruột nhưng rán nín cười vì sợ thằng con lờn. Ai dè nó bồi tiếp, giọng chắc nịch:

- Mà mẹ ngu thiệt chứ.

Có ông bà phong kiến nào chửi tôi thì tôi chịu, chứ tôi hết nín nổi khi nghe cái kiểu “đổi tone” bất tử của nó, nhe răng bật cười. Ờ, mà sao kỳ vậy? Những lúc nó khen tôi “Mẹ thông minh quá, mẹ ơi.” hay là “Con thông minh giống mẹ quá đi.” thì tôi khoái chí nở lỗ mũi, nhưng sao tôi không muốn nó nói tôi ngu khi tôi ngu thiệt? Tiếng cười khúc khích tự nhiên chấm dứt "lỗi phải" giữa tôi và nó, hai mẹ con cùng nhau đi kiếm mấy cô chú gà gái gà trai. Cuối cùng cũng tìm gặp chúng đang nằm dưới lùm cây hóng mát. Tôi chạy về hốt nắm gạo ra dụ. Thằng con chụp được hai gà gái. Con gà trai hoảng hồn, co giò, giang cánh, phóng một nước. Coi như mất.

Hôm sau thằng con đi một vòng kiếm thử cầu may thì thấy gà trai trong khu rừng nhỏ gần nhà. Nó chạy về hốt gạo đến dụ nhưng vẫn không tài nào bắt được. Lớp mẹ, lớp con, rảnh rảnh thì xách chuồng và gà gái lại rừng cây dụ khị gà trai nhưng đều thất bại. Một tuần vẫn chưa bắt được. Có con bé nhà ở ngay cạnh rừng, tốt bụng nói với thằng con để nó canh bắt giùm. Con nhỏ cột chân gà gái vào chuồng rồi dùng sợi dây thật dài, một đầu cột vào cửa chuồng cho mở ra, một đầu ngồi khuất trong nhà giữ. Nó dùng gạo dụ cho gà trai vào chuồng rồi thả dây cho cửa chuồng đóng lại. A ha, thành công rồi, mừng quá. Tôi đền ơn con bé bằng cách tặng mẹ nó một mớ cà chua dưa chuột trồng trong vườn nhà tôi.

Bửa nọ trời gió lớn quá làm chuồng gà ngã xuống, chận trúng đầu một cô gà gái, chết ngắt. Chỉ còn lại một trai, một gái. Thằng con hoảng hồn, lập tức đi mua cái chuồng gà bằng cây đàng hoàng, “second hand” thôi, với giá năm chục đô. Hai con gà lớn dần. Gà trai bắt đầu biết gáy. Sáng nào nó cũng gáy ò ó o om sòm trời đất. Tôi sợ hàng xóm bực mình, kêu cảnh sát thì phiền hà lắm, nên năn nỉ thằng con cho tôi xử trảm. Nó nhất định không chịu:

- Con muốn có gà con.

- Muốn có gà con thì mua gà con về nuôi. Chi mà phải khổ như vậy?

- Không phải con chỉ muốn có gà con, mà con muốn nhìn gà mẹ dẫn gà con đi chơi nữa kìa, thấy thương lắm.

Tôi đành phải kiếm đồ trùm thật kín chuồng gà vào mỗi buổi tối để gà trai không biết trời sáng mà gáy. Ôi, cực hết sức. Lúc đó đã là mùa đông, vừa mưa vừa lạnh mà tối nào tôi cũng phải ra ngoài trùm chuồng gà, ngán thấy bà cố. Còn thằng con tôi, nó có ở nhà để giúp tôi đâu, nó đã vào đại học và ở nội trú, đến cuối tuần mới về.

Rồi đến lúc gà gái đẻ trứng. Gom gom lại cũng hơn 1 chục. Tôi tuy ở nhà quê nhưng chưa từng bao giờ cho gà ấp trứng, đâu biết phải làm sao, nên giao cho thằng Út. Nó hăng hái mang trứng ấp theo cách học được từ trong trường. Nó lấy cái rổ, trải cái khăn, rồi bỏ trứng vào, lấy cây đèn bóng tròn rọi vào sưởi cho ấm. Vài giờ sau, anh chàng bưng rổ trứng lại gần tôi, cười lỏn lẻn và nói:

- Nè. Mẹ ăn luôn đi. Chín hết rồi.

Ha ha ha. Mắc cười quá. Xong rồi. "Phẻ". Thì ra anh chàng để cái bóng đèn quá nóng. Tưởng dễ hả con? Vậy cho con cam lòng. Anh chàng đành cho phép tôi được quyền xử trảm gà trai nhưng với điều kiện:

- Mẹ không được cho con ăn thịt của nó. Con dặn mẹ rồi, mẹ mà cho con ăn, con biết được, con không thương mẹ nữa.

Chỉ còn lại một gà gái. Vài tuần sau, chắc chó hàng xóm nghe tiếng, đến mở cửa chuồng do tôi không gài kỹ, bắt gà đem đi xé xác ăn thịt. Lỡ rồi. Nó đang đi học, không chính mắt nhìn thấy cảnh con gà bị xé xác nên không đau lòng lắm, chỉ nói: “Tội nghiệp.” Phần tôi, xui mà hên. Chấm dứt những ngày lu bu với mấy con gà.

Vài hôm sau, nó xịt nước chùi rửa chuồng rồi rao bán trên mạng. Nó bỏ ra năm chục bạc, mua xài đã đời, rồi bán lại cũng được năm chục, coi như huề vốn.

Cái thằng thật là kỳ lạ. Không biết nó giống ai mà ngay từ nhỏ đã có gan buôn bán. Cái gì còn xài được là nó bán được, bán rất dễ dàng và được giá. Nó bắt đầu sự nghiệp buôn bán của nó bên cạnh việc học từ lúc nó còn học tiểu học. Một lần, nó đem kẹo vô trường ăn. Thằng bạn năn nỉ mua với giá một đồng. Lời quá rồi vì nó mua chỉ có ba mươi ba xu. Nó bán liền. Từ đó, mỗi ngày nó bỏ kẹo vô cặp, đem vào trường bán cho mấy thằng Mỹ. Một lời hai. Tôi nói với nó:

- Bán chi mắc quá vậy, bán một lời một được rồi.

- Mấy thằng Mỹ nhiều tiền lắm mẹ ơi. Một lời một bán chi cho cực. Tụi nó chịu mua một đồng thì con bán một đồng cho chẵn, khỏi thối.

- Sao nó không mua đem theo mà ăn, mua của con chi cho mắc quá vậy?

 - Mỹ mà mẹ.

Mỹ mà mẹ. Là sao? Không hiểu nổi. Có thể là Mỹ con không hà tiện, không tính toán thiệt hơn. Có thể là Mỹ cha, Mỹ mẹ không cần biết Mỹ con không thích đồ ăn của trường nấu, đói bụng thì ăn gì? Có hôm nhà tôi hết kẹo, chưa kịp mua, nên nó không có kẹo mang theo, mấy thằng Mỹ con cứ xoa bụng: "Bao! Có gì ăn không Bao? Tao đói bụng quá." Nó xách cả mì gói ở nhà vô bán. Mì tôm, dòn dòn, chua chua, mấy thằng Mỹ cũng thích lắm. Lại một đồng một gói cho chẵn, khỏi thối. Mặc dù mì thời đó, mua một đồng tới sáu gói.

Có người trách tôi sao để nó làm gì kỳ vậy. Vậy chứ tôi phải làm sao? Tôi hoàn toàn không có chút máu buôn bán. Tôi không xúi con kiếm lời. Tôi không thích nó làm vậy. Nhưng đó là niềm vui, là sở thích của con tôi. Tôi không ủng hộ, khuyến khích, nhưng tôi cũng không thể ngăn cấm. Nó không lường gạt ai. Nó cũng không phạm luật. Nó vẫn học rất giỏi. Vì lẽ gì mà tôi ngăn cấm nó? Tôi bây giờ thấm thía một điều: Nếu trong cuộc sống, mà người nào đó cứ phải bị ràng buộc, lệ thuộc, hay bị la rầy, ngăn cấm, áp bức, người đó sẽ không phát triển được. Họ sẽ mất tự tin, sẽ có đời sống tinh thần nhu nhược, yếu đuối, thậm chí lâu dần sẽ trở thành bệnh hoạn. Không phải điên loạn mới là bệnh hoạn, theo tôi, suy nghĩ sai lầm cũng là hình thức của tinh thần bệnh hoạn rồi.

Cũng may, sự nghiệp bán kẹo của cậu Tư Quậy chỉ kéo dài được vài năm. Lên trung học nó không bán được nữa vì học trò lớn, trường đã có máy bán bánh kẹo, nước uống đầy đủ.

Không bán kẹo thì nó bán thứ khác. Cái gì còn xài được là nó bán được. Vài năm sau đó, khi nó đã biết lái xe, mê xe, thì nó cũng bắt đầu học sửa xe, bán xe, bán phụ tùng xe. Bạn của anh hai nó mua xe về tân trang bán lại kiếm lời, nhưng không bán được, phải nhờ nó bán dùm rồi cho huê hồng mỗi chiếc ba trăm đô. Nó bán cái vèo, có bao nhiêu bán bấy nhiêu. Có lần, bạn của anh nó kêu giá năm ngàn. Nó coi xe, nhắm bán được năm ngàn rưởi, nó kêu giá năm ngàn rưởi, và nó bán được năm ngàn rưởi thiệt. Tôi hỏi nó:

- Vậy con được tám trăm hả Bảo?

- Không. Con chỉ lấy ba trăm thôi. Năm trăm bán hơn, con đưa cho anh Tú. Ảnh cực khổ mà mẹ. Còn con chỉ nói vài câu, có làm gì đâu, lấy ba trăm là đủ rồi.

Tôi rất thích cách suy nghĩ của nó, biết người biết ta, không coi đồng tiền quá bự.

Thằng Út cũng mua xe cũ, nhưng không phải xe nào cũng mua, mà phải là loại xe đúng gu của tụi chơi xe mới được, với giá thật rẻ, đem về, tháo hết đồ trong xe ra, bỏ lên mạng, bán dần. Tuy cực nhưng lời nhiều lắm, mà lại là hobby của nó. Những phần còn lại như sườn xe chẳng hạn, nếu có giấy tờ thì kêu xe tới kéo đi bán sắt vụn, không có giấy tờ thì chịu khó cưa nhỏ ra rồi tự chở đi bỏ. Có lần, nó cưa xong chiếc xe, chở đến bãi bỏ. Nó phải chở hai chuyến. Sau chuyến đầu trở về, nó kể:

- Lên đến bãi liệng, con thấy có một ông ở đó, ổng hỏi xin con, con cho ổng luôn.

- Cho ổng làm gì?

- Ổng chở đi bán.

- Vậy sao con không chở đi bán như ổng mà phải đi liệng?

- Chỗ liệng gần đây còn chỗ bán xa lắm. Con làm được nhiều tiền rồi, không cần kiếm thêm mấy chục mà phải chở nặng đi xa. Mà cũng tội ổng lắm mẹ. Nhìn ổng nghèo và khổ lắm, chạy chiếc xe quá xá cũ. Không đi xin ăn mà chịu khó làm kiếm tiền như vậy là tốt lắm rồi. Con kêu ổng bán xong, trở lại, con cho ổng một xe nữa.

Sau chuyến thứ hai trở về, nó lại kể:

- Con lên tới nơi, không thấy ổng. Con gọi ổng. Ổng nói xe ổng bị hư ở chỗ bán, mượn con chở tới đó dùm luôn, hứa trả lại tiền xăng cho con. Con tội nghiệp nên chịu giúp ổng. Mẹ coi đó. Con chở lên tới chỗ bán, xa lắc, nhưng con không bán lấy tiền, con vẫn cho ổng. Ổng không trả lại tiền xăng thì thôi. Đàng nầy ổng lại xin con thêm ba đồng. Con không cho. Ổng thấy con tốt, lợi dụng con, con không thích.

Còn có một lần, nó tháo hết đồ trong xe, kể cả bánh xe nó cũng lấy, chỉ còn lại cái sườn xe. Vì xe có giấy tờ nên nó kêu người đến chở đi bỏ. Theo lệ thì không ai phải trả tiền ai. Nó thì bỏ được xe. Người kia thì chở đi bán sắt vụn, kiếm được tiền. Nhưng lần đó nó cho ông ấy thêm năm chục, và giải thích:

- Xe còn nguyên thì nặng hơn, ổng bán được nhiều tiền. Xe nầy con lấy hết đồ ra rồi, nhẹ hìu, ổng bán không được bao nhiêu. Mà con lại tháo hết bốn cái bánh ra, nên ổng kéo cái sườn lên xe ổng cực quá, mẹ thấy không? Cũng thì “mần ăn” mà con “mần” dễ dàng, nhưng kiếm được nhiều tiền, còn ổng thì cực khổ, lại không kiếm được bao nhiêu, nên con cho ổng thêm chút đỉnh.

Tôi thiệt rất thích cái cách cư xử trong lối "mần ăn" của nó. Nó tốt bụng, không những chỉ trong những vụ “mần ăn”. Nó luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai nó thấy cần giúp. Tôi lại thích thằng Út ở chỗ nó không để ai lợi dụng lòng tốt của nó. Có lần, thằng bạn đem toán lại nhờ nó chỉ. Nó ngồi chỉ thằng bạn thật lâu, cho đến khi thằng bạn biết làm. Tôi nhìn thấy thằng bạn ngồi cặm cụi làm toán một mình. Không bao lâu sau, lại thấy thằng bạn mở cửa đi ra. Còn nó lại ngồi làm toán, trên bàn có tờ hai chục. Tôi thắc mắc, hỏi:

- Thằng Sam đâu rồi mà con làm toán vậy Bảo? Còn tiền gì để trên bàn vậy?

- Nó đi chơi rồi. Nó không biết làm toán nên đem lại kêu con chỉ. Con chỉ cho nó biết làm. Nhưng làm được mấy bài thì nó lại làm biếng không làm nữa. Nó kêu con làm dùm phần còn lại, trả công cho con hai chục.

A ha, chuyện "mần ăn" kiểu nầy thật hy hữu, chắc là có một không hai. Tôi cũng không biết thằng con tôi nó làm như vậy là đúng hay sai? Nhưng tôi thích cái nguyên tắc của nó. Khi nó thấy cần giúp, nó sẽ giúp tận tình, dù bạn thân hay không quen, nó đều tốt bụng và rộng rãi lắm. Nhưng khi nó thấy không cần giúp, thì nó sòng phẳng mà không e ngại. Như vậy sẽ không ai bị thiệt thòi, mếch lòng, hay ấm ức. Sòng phẳng, không lợi dụng và không để bị lợi dụng, theo tôi nghĩ, cũng là một trong những yếu tố giúp duy trì mối quan hệ được lâu dài, bền vững.

Thôi, trở lại cái vụ xe cộ. Cũng có khi thằng hai tôi mua xe ở St. Louis, tiểu bang Missouri (gia đình bà chị tôi và thằng hai tôi ở bên ấy), rồi thằng út đi máy bay qua St. Louis, lái xe về Seattle, bán kiếm lời. Đường xa dịu vợi mà nó lái về một mình, tôi lo, nên cản:

- Lời lóm bao nhiêu mà con làm chi cho khổ vậy Bảo?

- Con thích mà mẹ. Tại mẹ tưởng con khổ chứ con không khổ. Nếu con khổ, con đã không làm.

Thấy nó đi một lần êm xuôi an toàn, lần sau tôi xách giỏ chạy theo. Tôi cũng có máu giang hồ nên mê đi lắm.

Ba ngàn miles nó chạy một nước, chỉ phải ngừng lại nằm ngủ vài giờ trong xe chứ không chịu vô khách sạn, vừa tốn thời gian lại vừa tốn tiền. Xe của dân chơi thì toàn xe số tay, tôi không thể lái phụ, nên ngồi không rồi ngủ li bì. Thiệt kỳ cục, tôi đã già mà như con nít, hễ lên xe là ngủ, dù đã cố gắng nhướng hai con mắt lên để nói chuyện với thằng con cho vui nhưng cuối cùng cũng phải chịu thua. Mặc dù vậy tôi cũng có những kỷ niệm khó quên với nó trong những chuyến đi đó.

Ngoài lúc phải học hành ra, thằng Út chỉ thích loay hoay với xe cộ. Nó có nhiều xe lắm, nhưng toàn là xe của dân chơi xe. Cứ mua về, sửa sang tân trang, cần thay máy thì thay máy, rồi bán lại kiếm lời. Xe nào vừa ý thì để dành chạy chơi không bán. Có khi mua xe về, chỉ để lấy mấy cái vỏ xe và body, rồi thay toàn bộ đồ bên trong. Ở những năm hai mươi tuổi mà nó đã như một người thợ máy lành nghề. Còn bà già nầy thì cũng biết... chút chút, vì thỉnh thoảng phải theo phụ nó. Nhất là đạp thắng, nhồi thắng cho nó sửa thì thiện nghệ vô cùng. Đừng tưởng bở. Không phải dễ đâu à nhen. Phải biết đạp thật mạnh, rồi giữ chặt lại, sau đó phải biết thả ra, cũng như phải biết nhồi nhồi... theo lệnh của nó. Làm không đúng, nó sửa không được, nó cho lay off thì buồn. Thật ra, có lúc cũng ngán thấy tía, nhất là vào mùa Đông lạnh ngắt mà phải ngồi lâu trong garage mở toang cửa. Nhưng có khi phụ được nó cũng là niềm vui, vì chứng tỏ tôi không đến đỗi già nua, hết xài, mà lại có thời gian gần gũi với con. Vì vậy, được làm “ thợ phụ " thì mặt mày phải tươi tỉnh, không được than thở, cằn nhằn hay bực bội à nhen, còn phải ráng làm cho tốt để được phụ hoài.

Tư Quậy nhà tôi còn khoái đi coi đua xe bất hợp pháp của con nít chơi xe nữa chớ. Dỉ nhiên tôi ghét dữ lắm, nhưng không cấm, vì biết rằng có cấm cũng không được. Thôi thì vài năm nữa, lớn lớn một chút, hay khi đã có vợ con, tôi nghĩ nó sẽ bỏ thôi. Tôi đâu có thấy thằng “sồn sồn” nào khuya khuya còn đi coi đua xe đâu. Cũng may, nó chỉ coi chứ không đua nên không nguy hiểm lắm. Mà đua xe thì chỉ đua từ giữa khuya cho đến gần sáng, đường vắng mới đua. Người đua xe chạy xe đua đã đành. Người đi coi cũng chạy xe đua nữa, vậy mới “ngầu”.

Một lần, nó mới ráp xong chiếc xe, hôm sau lại nhằm thứ Bảy. Tối thứ Bảy là tối của đua xe. Nó xách xe đi với con bạn gái. Bốn giờ sáng tôi đang ngủ ngon thì chuông điện thoại reo. Thì ra xe của nó bị hư trên đường về, nó gọi tôi đem đồ đến cho nó sửa. Tôi lập tức lái xe đến:

- Sao lại phải sửa liền? Bỏ đó đi con, về ngủ, ngày mai hãy tính.

- Bỏ đây mất sao mẹ?

- Xe hư không chạy được, sao mất?

- Xe của con dân chơi xe mê lắm, không chạy được thì nó cũng kêu xe chở về tháo lấy hết đồ của con.

Nó kêu tôi về ngủ tiếp, nhưng sao có thể để hai đứa nhỏ loay hoay sửa xe trong đêm tối vắng vẻ, tôi ở lại, ít ra cũng cầm đèn pin rọi cho nó và có thêm người. Mặc dầu không nói ra, nhưng nó cũng cảm nhận được cái lòng của tôi đối với nó.

Một lần khác, sáng Chủ nhật mà nó dậy thiệt sớm, đến gần tôi, nói nhỏ:

- Mẹ, hồi hôm con với con Hiền đi coi đua xe, bị xe đụng.

- Trời đất, có đứa nào bị sao không?

- Không. Nhưng xe con nát đầu, coi như bỏ. Con phải kêu xe chở về, đang để ở trước nhà, trùm kín lại rồi. Con định dấu mẹ, sợ mẹ lo, mẹ rầy, nhưng thôi, con không dấu.

Không bị thương là tốt rồi. Còn xe thì kệ. Xe của nó mà, có sức chơi phải có sức chịu, tôi chẳng lo mà cũng chẳng rầy. Tôi biết, nó là thằng biết học những bài học từ thất bại hay sai trái, không cần dạy cũng không cần rầy. Nó kể lại:

- Con với con Hiền đậu xe trong lề, ngồi coi. Thằng Mỹ trắng hai mốt tuổi, đang đua bỗng lạc tay lái, đâm vào đầu xe con. Con hết hồn tưởng chết. Đến khi bớt sợ, con quay qua con Hiền coi nó còn sống không? Nó cũng không sao. Xe thằng Mỹ còn chạy được, nên nó lái bỏ chạy luôn. Nhưng may quá, lúc đụng xe, cell phone nó bị rớt xuống đường, gặp lúc đó má nó gọi, phone reo, con nghe nên lượm được. Một lát nó quay trở lại. Nó muốn đền cho con ba ngàn. Con không chịu. Con đòi sáu ngàn, vì xe con trị giá sáu ngàn. Nó không chịu nên phải đưa bảo hiểm cho con.

Sau đó, bảo hiểm của thằng Mỹ đến coi xe của thằng Út và đền cho nó mười ba ngàn. Thật không thể tưởng tượng. Nghe qua như “xạo” nhưng tôi không “xạo” chút nào. Xe của nó dùng toàn đồ xịn, nhưng lại là đồ second hand. Bảo hiểm thì chỉ biết trả theo giá đồ mới. Nó nói thằng Mỹ con nhà giàu, mua bảo hiểm tốt, nên đền bù ngon lành. Ai mà biết đúng hay không? Chỉ biết xui mà hóa hên. Mà hên nhất là từ đó nó không còn thích đi coi đua xe nữa.

Nhờ nó chơi xe, rành về xe nên vấn đề xe cộ nhà tôi khoẻ lắm. Cứ đi về bỏ đó, đã có nó lo hút bụi, chùi rửa, thay nhớt, kiểm tra, bơm bánh... và sửa chữa từng chiếc. Ôi, khoẻ làm sao! Mà cái thằng Tư Quậy này, coi bộ số nó cũng cực. Hễ nó đi học đi chơi thì thôi, khi nó ở nhà, nếu không lo xe lo cộ thì cũng làm việc tối ngày. Nó cắt cỏ, nó dọn dẹp, nó làm vườn, nó sửa cái nọ, nó làm cái kia, không bao giờ thấy nó ở không. Hai bàn tay nó thiệt lanh, đứng ở nhà bếp nói chuyện với tôi mà miệng nói tay dọn, một hồi là gọn gàng ngăn nắp sạch trơn. Nó lại lanh lợi nên chuyện gì trong nhà cũng do nó giải quyết. Bảo hiểm, điện thoại, internet, chuyện mua bán, đồ đạc, máy móc trong nhà... trục trặc là nó giải quyết hết, gọn gàng lẹ làng. Cả nhà tin tưởng vào nó, tôi thì khỏi nói rồi, mấy thằng anh nó cũng vậy, làm gì cũng hỏi ý kiến nó. Bởi vậy mà tôi hơi lo, e rằng sau nầy, nó sẽ không sống hạnh phúc được với vợ. Nó giỏi đủ điều, nên nếu vợ nó không tháo vát... như tôi (ha ha ha), cứ ù ù cạc cạc, nó sẽ dễ bực, dễ chán lắm.

Và nó cũng vẫn thương tôi như hồi còn nhỏ xíu. Thỉnh thoảng vẫn ôm tôi, rồi nói:

- Không biết tại sao mà con thương mẹ quá mẹ ơi. Mẹ may mắn có con trai thương mẹ tới như vậy đó nhen mẹ. Con nói với mấy bạn của con, mẹ là “The best mom in the world”. Mai mốt con học xong ra trường, con sẽ lo cho mẹ, hỏng cần biết vợ con chịu hôn, hỏng chịu cũng phải chịu.

Chuyện mai mốt để mai mốt tính. Tôi sẽ không để con cái vì tôi mà mất hạnh phúc. Còn bây giờ tôi cứ enjoy tình cảm mẹ con giữa tôi và nó trước đã.

Nó phát triển nhanh hơn tuổi về suy nghĩ và khả năng. Hồi nhỏ nó dựa vào tôi, còn bây giờ hầu như tôi dựa vào nó. Hồi nhỏ nó quậy "tưng bánh", còn bây giờ tôi không chê nó được chỗ nào. Nó là người tôi thích kể lể khi gặp chuyện buồn phiền hay lo nghĩ. Nó luôn lắng nghe và thông cảm. "Thì mẹ learn thôi." là câu sau nầy nó thường nói với tôi mỗi khi tôi làm gì sai. Không còn "Mẹ ngu thiệt đó nhen." như hồi trước.

Có lần tôi chạy chiếc xe mới mua, bị cục đá văng lên làm nứt kiếng trước. Tôi bực mình cằn nhằn hoài. Nó nói:

- Đâu phải lỗi của mẹ đâu.

- Nhưng mẹ cứ bực mình vì xui quá.

- Thì người ta phải có lúc hên lúc xui chứ mẹ. Mẹ muốn hên "quài" sao được?

- Ờ, vậy thì thôi, mẹ không tiếc nữa.

Một hôm, tôi chở bà bạn đi chợ. Lên xe, hai chị em "tám" chuyện lia chia. "Tám" đến nỗi lúc xuống xe, quên lấy chìa khoá ra, thậm chí quên cả tắt máy, đi vào chợ. Cửa xe tự động khoá. Đến khi xách đồ ra xe thì mới tá hoả. Xe tôi có chìa khoá extra nhưng để ở nhà. Tôi nghĩ ngay đến thằng Út, nó sẽ sẵn sàng cứu tôi mà không mặt lớn mặt nhỏ, thở dài bực bội hay chắc lưỡi chau mày, cũng như ngày xưa lúc tôi cứu nó vậy mà. Khi người ta có lỗi, tự người ta cũng đã biết lỗi, đã feel bad lắm rồi. Nếu như phải cứu người ta, thì vui vẻ cũng cứu, bực bội cũng cứu, sao phải bực bội, làm khổ thêm cho mình, càng khổ thêm cho người? Cũng may hôm đó cuối tuần, thằng Út đang ở nhà, nó rủ thêm thằng bạn cùng đi. Trên đường, biết tôi nóng ruột, nó cứ gọi tôi riết:

- Con bây giờ bắt đầu đi. Mẹ ráng chờ. Nửa giờ nữa con tới nhen.

- Mười phút nữa con tới nhen mẹ. Mẹ ráng chờ chút nữa nhen.

Đến nơi, nó vừa ôm tôi thương cảm, vừa quây qua phân bua với bà bạn của tôi:

- Tội nghiệp. Mẹ con đang stress lắm bác ơi.

Đúng là lúc đó tôi đang "stress" thiệt. Nhưng trouble lần nầy là do nhiều chuyện, không phải do stress. Mà thôi, biết vậy để bụng được rồi, ngu gì mà khai thiệt với nó.

Chuyện của tôi và cậu Tư Quậy, kể hoài không hết. Nhiều năm trước, khi tôi nhận ra nó rất thông minh. Nó học mà chơi, chơi mà học, "Con chỉ học bài được sau khi mặt trời lặn thôi mẹ à." thì thỉnh thoảng trong lòng tôi dậy lên niềm tiếc rẻ: "Phải chi nó đừng mê chơi, phải chi nó tập trung hơn cho việc học..." Nhưng bây giờ, thấy cảnh ngộ của mình, cảnh ngộ của người, lại thỉnh thoảng nghe nó nói: "Con enjoy cái life của con quá, mẹ ơi." Và sau nầy, khi nó vào đại học ở Hawaii, nơi có nắng ấm và biển trời lồng lộng mà nó từng mơ ước, nó càng vui thêm, thì niềm tiếc rẻ xưa kia của tôi hoàn toàn biến mất. Công danh sự nghiệp của nó đã đủ để có thể bảo đảm cuộc sống vật chất căn bản sau nầy. Nếu như nó dành toàn bộ thời gian, sức lực và tâm trí thời trai trẻ để vươn cao hơn nữa, rồi sau đó có vợ có con, mang gánh năng trên vai, mà chưa từng một lần có thể mở miệng nói được câu "Con enjoy cái life của con quá, mẹ ơi." thì đó mới là hối tiếc thật sự.

Ngày xưa, lắm khi tôi mắc cỡ vì thằng Tư Quậy. Ở đâu, lúc nào nó cũng quậy. Nhưng bây giờ thì tôi rất tự hào về nó, Gia Bảo của tôi. Không phải vì nó sẽ là một dược sĩ tương lai mà vì khả năng, cá tánh và quan niệm sống của nó. Người ta nói: "Ngựa chứng là ngựa hay." Con ngựa Tư Quậy mà trở thành ngựa hay, không thể nào không kể cái công đóng góp của mẹ nó. Ha ha ha. Cho tôi nổ một chút đi hén.

Người ta nói: “Con người không mấy ai được hết mọi điều.” Câu nầy có lẽ đúng. Tôi cũng có bất hạnh của tôi. Tôi cũng có lỗi lầm của tôi. Tôi cũng có thất bại của tôi. Tôi cũng có nỗi buồn của tôi. Tôi cũng có niềm đau của tôi. Tôi cũng có nước mắt của tôi. Nhưng tôi cố tìm cái nắp, gài nó xuống tận đáy lòng như người ta gài củ kiệu, dưa món. Thỉnh thoảng niềm đau cũng len lén trồi lên, khiến tim tôi đau nhói. Thì phải gài chặt nó lại thôi. Hãy nghĩ đến và enjoy niềm vui có được. Quên nỗi muộn phiền đi.

Tôi vẫn phải sống. Sống vui cũng phải sống. Sống buồn cũng phải sống. Sao không chọn sống vui? Muốn mang được niềm vui thực sự đến cho người xung quanh, những người mà tôi thương mến, thì chính bản thân tôi phải buông bỏ phiền não để sống vui trước đã. Đó là điều, cuối cùng, tôi cũng đã nghiệm ra.


Tháng 11, năm 2013
Nguyễn thị Hoà Nam





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/Dec/2013 lúc 6:58pm


CHÀNG LÃNG DU VÀ THI HỨNG -

Hà Thủy Nguyên
(Trích "Bên kia cánh cửa")


Thưở ấy, có một chàng lãng tử lang thang cô độc… Không ai biết chàng từ đâu đến, chàng là một con chuột đường phố hay một ông hoàng từ bỏ ngai vị, người ta chỉ thấy chàng rong ruổi trên lưng ngựa đi tìm ý nghĩa của một điều gì đó mà chính chàng có khi cũng không biết. Nhưng chắc chắn rằng chàng không thể dừng lâu một chỗ, cuộc đời chàng đã gắn liền với những cuộc đi, chàng ngây ngất với núi thẳm vực sâu, chàng say sưa đắm chìm trong dòng thác tuôn trào, chàng hân hoan với từng tia nắng mặt trời xuyên qua tán cây sáng bừng lên màu sắc rực rỡ của ngàn hoa. Chàng có thể dừng lại ở bất cứ nơi đâu vì thế giới này quá tuyệt đẹp, vậy mà chàng vẫn cứ phải đi.

Hôm đó, trong chặng đường viễn du bất tận, chàng lặng mình nhìn một cơn gió thổi ngang qua khu rừng vàng lá. Một chút nắng xen giữa một chút sương nhẹ và khí lành lạnh của chốn hoang vu khiến lòng chàng chùng xuống, một sự bâng khuâng từ đâu dậy lên – một nỗi buồn hoàn toàn vô cớ.

Chàng không biết rằng lúc ấy, Nữ thần Thi Ca đang dạo bước giữa những hàng cây và thả những lân tinh lấp lánh của thi hứng lẫn vào cùng gió, cùng nắng. Nàng sững sờ trước vẻ phong trần của chàng và hơn thế nữa, nàng nghe thấy nhịp đập thổn thức trong trái tim chàng đang rung động mỗi khi nàng đến gần. Bi kịch là nàng chỉ có thể chạm tới trái tim chàng mà không làm cách nào để chàng biết tới sự tồn tại của nàng. Nàng thì thầm với linh hồn chàng những vần thơ tuyệt diệu về lá, về nắng, về phù thế nhân sinh. Tiếng thì thầm không dứt trong tâm trí của chàng, thôi thúc chàng phải ghi vào trang giấy những vần thơ.
Khi đọc lại từng dòng mình viết, chính chàng cũng không hiểu từ đâu xuất hiện những suy tưởng này, chàng chỉ thấy một niềm vui vô tận như cuối cùng chàng cũng tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Chàng đặt một nụ hôn lên nét chữ và Nữ thần từ đó không thể rời chàng một bước.

Chàng đi đâu, nàng đi đấy, nhưng chẳng bao giờ chàng cảm nhận thấy sự tồn tại của nàng. Chàng chỉ thấy mình dạt dào ý tưởng, dạt dào những hình ảnh và ngôn từ lung linh đẹp đẽ và những thang bậc cảm xúc ngân lên êm ả trong từng câu thơ. Và lúc ấy, chàng cảm thấy mình đầy ắp tình yêu. Chàng bắt đầu nói về tình yêu dù chưa bao giờ chàng yêu một người con gái tầm thường nào. Một tình yêu nào đó lung linh, huyền ảo ngự trị trong chàng mỗi khi chàng ngắm trăng, phi ngựa trên thảo nguyên đầy gió hay ngồi lặng mình ở một góc phố nhỏ cổ kính.

Nhưng Nữ thần Thi Ca chỉ có thể gắn kết với linh hồn chàng, nàng không hiện hữu trước mắt bằng xương bằng thịt để chàng có thể cùng trút bầu tâm sự được. Và đôi khi, những kẻ yêu thơ khác cất lên tiếng gọi khao khát từ trong sâu thẳm đáy lòng, nàng buộc phải rời xa chàng để ban phát thi hứng cho họ. Trước khi nàng ra đi, nàng khẽ hôn lên mắt chàng và thì thầm:
“Tình yêu của ta, xin hãy chờ đợi… Ta có thể đi nhưng chẳng thể rời xa chàng. Chàng sinh ra là để cho Thi Ca và Thi Ca trở nên tuyệt diệu trong trái tim chàng…”
Lúc ấy, lạ lùng sao, chàng nhớ da diết một điều gì đó khó hiểu. Chàng bỗng trở nên chán ngán cảnh đẹp xung quanh và lười nhác kinh khủng. Chỉ đến khi nữ thần trở về chàng mới lấy lại được sự hưng phấn, cho dù mưa gió bão bùng, núi lửa phun trào… chàng cũng thấy mọi thứ sao mà tuyệt vời đến vậy.

Những vần thơ của chàng chẳng biết từ lúc nào đã lan truyền trong nhân thế. Người ta ngưỡng mộ chúng, yêu quý chúng và chỉ khi đọc thơ chàng, họ mới thấy được ánh sáng của thần thánh soi rọi cõi đời chật hẹp, đen tối của mình. Không biết bao lần từng câu từng chữ ấy làm xao xuyến trái tim của các thiếu nữ xinh đẹp và mơ mộng. Họ mơ tưởng về một tình yêu trong cổ tích với chàng vì tin rằng chỉ có chàng mới biết chắp cánh cho tâm hồn họ.

Nữ thần vẫn thầm lặng đi bên chàng, nâng chàng bay tới thiên đường, ôm chàng bằng vòng tay của gió, hôn chàng bằng hương thơm của hoa, âu yếm chàng bằng nước trong dòng suối ngọt ngào vào mỗi khi dừng chân tẩy rửa. Trong giấc mơ thầm kín, chàng vẫn thấy xuất hiện phảng phất hình bóng của một vị nữ thần mà chàng không bao giờ có thể chạm tới được, thậm chí là không nhìn rõ đường nét hay sắc màu. Cứ mỗi lần chàng định lao đến thì bóng dáng nữ thần tan biến giữa hư không. Nữ thần thấu hiểu nỗi đau đó nhưng nàng không phải Đấng Toàn Năng và hàng nghìn năm nay rồi nàng chỉ có thể tồn tại vô hình. Nỗi đau trong nàng cũng không kém phần tang thương và câu thơ của chàng dần dần bỗng trở nên đượm buồn như chiếc lá mùa thu lặng lẽ rụng nơi cuối vườn chẳng ai hay biết.

Chàng phát hiện ra rằng mình thật cô đơn. Ngày xưa chàng cũng cô độc nhưng chàng yên lòng với sự cô độc đó, nhưng từ khi những câu thơ đầu tiên cất lên thì nỗi sầu ấy cứ ngày một nhân lên. Và đôi khi chàng thấy trống rỗng mà chẳng hiểu do đâu.

Nữ thần thì biết, đôi khi nàng phải ghé qua trái tim của những người đang đeo đuổi mộng thi ca. Khi ấy, nàng vẫn bị ám ảnh bởi tâm hồn chàng. Nàng mang theo hình bóng của chàng, tâm sự của chàng mỗi khi đến với người khác và họ nhanh chóng viết ra mà không ý thức rằng thơ của họ đang giống một người nào đó. Ngay sau khi xong việc, nàng vội vã trở về với chàng lãng tử của mình.

Song, lần này, nàng sững người lại. Chưa bao giờ nàng cảm thấy mình đau đớn như vậy. Trong lúc nàng đi xa, chàng đã ngả vào vòng tay của một cô gái bằng xương bằng thịt. Cô gái rất quyến rũ và có đôi mắt đẹp mê hồn, làn da nàng thơm mùi hương của ham muốn… Chẳng trách trong lúc cô đơn chàng dễ dàng bị cuốn theo.

Mỗi nụ hôn, mỗi xúc chạm, mỗi giao cảm của hai người là một lần Nữ thần Thi Ca suy sụp. Nhưng khi nhìn thấy nụ cười thỏa mãn trên khóe miệng chàng, nàng đành yên lòng và chờ đợi. Nhiều lần nữ thần phải quay mặt đi, nàng muốn bỏ đi nhưng sức hút của chàng khiến nàng không thể rời xa. Nàng muốn lấy lại tâm hồn của chàng và nàng liên tục rót vào tai chàng tiếng thơ.

Chàng reo lên sung sướng: “A! Tuyệt quá, một tứ thơ”. Chàng vứt bỏ người con gái và chạy vội tới lấy giấy bút. Viết, viết, và viết. Xen lẫn giữa giọng thơ tinh khiết của nữ thần là vẻ đẹp nhục dục khuyến rũ của người con gái. Chàng ta đã trộn lẫn tất cả những đam mê đó lại với nhau và người con gái đương nhiên không thể không tấm tắc hết lời ca ngợi. Chỉ có Nữ thần là đau buồn và lặng lẽ ngắm nhìn người đàn ông của mình ngày một xa dần.

“Ô kìa, hoàng hôn thả nỗi buồn trên mặt hồ lênh đênh lá úa. Sẽ thật tuyệt vời biết bao khi ta gửi những vần thơ đến với chàng”. Nữ thần nghĩ thế liền cố gắng chen vào giữa cơn ân ái điên rồ xác thịt của chàng và cô gái. Vô ích! Lần đầu tiên chàng không còn nghe thấy tiếng thơ thổn thức bên tai.

“Hỡi chàng lãng tử” – Nước mắt nàng biến thành những giọt mưa tí tách – “Hãy lắng nghe tận đáy sâu trong hồn chàng… Hãy quay về với giấc mộng thiên đường? Vì lẽ gì chàng không nghe ta nói? Chàng có biết tất cả những điều chàng đang say đắm ngày mai sẽ thành cát bụi và chỉ có ta là vĩnh cửu, chỉ có ta mới mang lại tình yêu đích thực cho chàng…”

Chàng trai ôm cô gái trong lòng và dõi đôi mắt mơ màng, cất tiếng: “Nàng biết không, nữ thần của đời ta, nàng chính là cô gái trong mộng mà ta thường hay gặp, nàng chính là giấc mơ ta tìm kiếm. Khi ở bên nàng, thơ ca trở nên vô nghĩa!”

Nữ thần Thi Ca đột nhiên im bặt. Chàng đã không cần đến sự có mặt của nàng nữa và tờ thơ cũ nát vì thời gian bị gió cuốn bay vèo mà chàng chẳng thèm đoái hoài. Vậy thì còn ý nghĩa gì nữa đâu khi nàng đeo đuổi chàng trên từng dặm đường. Có ý nghĩa gì nữa đâu khi nàng chẳng thể chạm tới linh hồn chàng được nữa.
Một lần cuối, nàng cố sà xuống hôn chàng bằng cái chạm của con bướm vàng rực rỡ. Đôi trai gái cảm thấy bị làm phiền và xua đuổi con bướm đi. Dù còn vương vấn nhưng nó cũng đành nặng nhọc bay đi.

“Ôi tình yêu tinh khiết và thần thánh của ta đã chẳng còn chạm tới chàng được nữa. Chàng đã đạp bỏ ngai thờ của ta và thay thế bằng những gì hữu hình mà ai cũng có thể nhìn thấy. Chỉ có ta là cô đơn, ta cảm giác như thế gian này không còn chỗ cho ta nữa rồi, chàng lãng quên ta mãi mãi và ta hiểu khi đã mất đi sự kết nối với ta thì dù ta có ngọt ngào, âu yếm, mãnh liệt đến đâu cũng chỉ là một cơn gió thoảng qua tai mà thôi… Mỉa mai sao, đã bao giờ chàng biết đến ta đâu mà có thể lãng quên.”

Nàng rắc đám bụi lân tinh lên đôi tình nhân và thi hứng của chàng cũng tràn trề. Chàng thốt lên ca ngợi núm vú, làn môi, cặp chân trắng nõn của người tình. Chàng quỳ xuống hôn lên chân cô gái như xưa kia đã từng hôn lên dòng thơ thuở ban đầu.

Và từ ấy Nữ thần Thi Ca trở nên lơ là nhiệm vụ. Nàng cũng đôi lúc xuất hiện và thổi vào người nào đó một tứ thơ thần thánh để thỏa mãn cơn khát thơ của họ. Song, các vần thơ đó sáo rỗng và vô hồn. Họ quẳng chúng vào thùng rác hay chế nhạo chúng như một sự ngớ ngẩn. May thay, một giai nhân trần thế nào đó đã ghé qua cuộc đời tẻ nhạt của họ và khuấy động ham muốn cất tiếng thành thi ca…



Hà Thủy Nguyên




https://scontent-b-sea.xx.fbcdn.net/hphotos-prn1/s403x403/1487335_746696732025936_1802596425_n.jpg










mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 10/Feb/2014 lúc 5:57am


Con Gái của Người Ta

Tác giả: Trần Thiện Phi Hùng


Với bài viết tựa đề “Viện Dưỡng lão và Viện Mồ Côi”, Trần Thiện Phi Hùng có tên trong danh sách nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; 12 năm 4 tháng đúng, tính đến ngày 30 tháng Tư 75, tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Bài mơi nhất của ông, vẫn với chi tiết về nhà hộ sinh và viện dưỡng lão như từng kể, nhưng gần như quay một vòng 360 độ, biến thành một câu chuyện khác hẳn.

* * *

Tiệc rửa lon trung úy của tôi chung với tiệc đầy tháng của con gái tôi và “con gái của người ta”.

Con gái của người ta sau 24 giờ sinh ra đã trở thành con gái của tôi và chỉ sinh sau con gái của tôi có 4 giờ tại Bảo Sinh Viện Quân Đội Thành phố Nha Trang năm 1972. Mẹ của nó còn trẻ lắm nhưng lanh lợi sành đời. Cô ta sinh xong mạnh khỏe đi đứng bình thường chứ không nằm liệt như bà vợ tôi. Cô ta nói với vợ tôi cô ta là vợ của một Trung úy Biệt Kích. Anh ta ít khi về nhà và công tác ở đâu không bao giờ nói. Cô ta đi làm sỡ Mỹ ở Chu Lai vì sinh kế sao đó nên nhảy dù với Mỹ. Tai nạn có thai ngoài ý muốn nhưng không biết con của Chồng hay của Mỹ nên cứ sinh xong rồi tính. Con chồng thì để nuôi; con Mỹ thì cho.

Nghe vợ nói lại, tôi sang phòng cô ta gõ cửa xin vào xem đứa nhỏ ra sao. Trong bóng đèn mờ của căn phòng, con bé nằm bó mình trong khăn lông; chỉ lòi cái mặt da trắng đỏ và cái miệng nhỏ xíu hai môi như chu ra làm tôi nghĩ ngay con bé nầy chắc sau nầy hỗn lắm! Tôi không nói gì với cô ta mà về phòng bảo bà vợ tôi:

- Mình xin Con Bé nuôi luôn nhen Em ?

- Làm sau đũ sữa cho 2 đứa? Thiên hạ nói bậy bạ làm sau chịu nổi?

- Cho uống sữa bò; Anh mướn thêm người giúp việc nửa cho em.

- Tùy anh.

Thế là thủ tục Xin của Tôi và đồng ý cho con do cô ta viết được đưa cho Cô Mụ; nhưng sáng hôm sau thì cô ta đã rời khỏi bệnh viện, bỏ con lại mà thủ tục chưa hoàn tất. Ban Xã hội Quân đội cũng dễ dàng hoàn tất nốt thủ tục nhận con nuôi mà làm khai sinh giống như thủ tục khai sinh của con gái của tôi. Đây có lẽ là trường hợp hy hữu một đứa trẽ Lai Mỹ mà khai sinh do hai vợ chồng là người miền Đông và Tây Nam Việt Nam coi như sinh ra. (rất tiếc trong cơn biến loạn di tản năm 75 tất cả hình ảnh đều mất hết. Trong tiệc đầy tháng; 2 đứa bé như cặp song sinh; nhưng một Việt một Mỹ đẹp như thiên thần!); nhưng mà khổ cho thân tôi! Hai đứa trẻ đứa nào cũng đòi bồng một lúc. Đứa trên lưng thì đứa kia phải bế trên tay. Lưng Tôi bị thoái hóa cột sống năm 2000 có lẽ cũng vì hai đứa con ngày một lớn dần mà cứ phải thay đổi đứa trên lưng đứa trên tay mấy năm.

Tháng Tư đen 1975, tôi bị rã ngũ. Tôi không thể về quê ngoại như ước muốn sống ở Rừng Dừa năm xưa vì nay B52 cày nát thành bình địa. Tôi muốn phá hoang trồng lại; nhưng phải trình diện vào tù cải tạo. Một tháng trôi qua, rồi một năm, rồi năm nữa..! Vợ không thấy đi thăm mà con cũng không bao giờ được gặp mặt. Mỗi tháng chỉ có Mẹ tôi được 15 phút thăm nuôi. Hỏi gì mẹ tôi cũng nói tất cả bình an; các con ngoan và khỏe mạnh. Tôi lúc nào cũng nhờ Mẹ lưu tâm cho Thùy An, tên đứa Con Lai Mỹ. Chắc là Nó bị kỳ thị ở trường học và sống với mọi người sẽ rất khó khăn! Mẹ tôi nói con khỏi lo. Nó sống rất tốt học rất giỏi nên được Thầy Cô và bạn bè quí mến. Mẹ tôi lúc nào cũng né tránh khi tôi hỏi đến vợ và con gái của tôi, Thanh An. Tôi đoán có lẽ chuyện gì không tốt đã xảy ra nhưng đành bó tay không biết hỏi ai!

Bốn năm sau tôi được ra tù. Con gái mang 2 dòng máu ôm tôi khóc như mưa; nhưng con gái và vợ tôi thì không thấy đâu nữa. Tôi đoán biết chuyện không hay nên cũng không hỏi mẹ. Cơm chiều xong, con gái xin tôi:

- Ba cho con ngủ chung với Ba đêm nay?

- Ngày thường con ngủ một mình?

- Không Con ngủ với Bà Nội.

- Ừ! nếu con muốn.

Con bé thỏ thẻ kể hết cho tôi nghe. Ba đi rồi mấy tháng sau má dẫn Chị Hai đi với Má về thăm Ngọai mà không cho con đi và từ đó không về nữa. Con hỏi Nội Má con chừng nào về? Nội nói Nội không biết.

Một năm trôi qua; tính ra tôi đi làm “lao động xã hội chủ nghĩa” có nghĩa “ăn cơm nhà làm lao động nặng không công” khoảng hơn 3 tháng. Đào kinh, đắp đường, gánh lúa thuê…v.v.. Cạnh đó là làm thuê, làm mướn đi lao động thay cho người trả tiền để khỏi đi. Tôi hết thời gian quản chế một năm, làm phó thường dân, rồi được đề cử làm Đại Đội trưởng Lao động; chuyên đi kêu người đi lao đông. Ai thấy mặt tôi đến thăm là biết phải cơm gạo nhà đem đi làm không công mấy ngày hay nửa tháng.

Thời chinh chiến; tiền lương của 3 đứa con cho Mẹ, mẹ tôi xài tiện tặn có dư, hễ đủ 1 chỉ thì mua 1 chỉ vàng y; đủ 10 chỉ thì đổi thành 1 lượng. nhét kẹt giường, đào nền nhà, tủ làm 2 nóc để cất vàng. Con thất thế sa cơ Mẹ bán vàng nuôi con. Mẹ cho con vàng để vượt biên.

Năm 1982, tôi và em gái tôi vượt biên. Con gái của tôi nhứt định Ba đâu con ở đó; Con không sợ chết. Con chỉ sợ phải xa Ba! Tôi lái tàu ra khơi lần cuối cùng để một là chết, hai là được thật sự tự do. Tôi thành công sang bến bờ tự do. Con gái tôi bắt đầu vào Trung học; có lẽ nhờ cái máu Mỹ của nó hay sao mà chỉ mấy tháng thì nó nói tiếng Mỹ như súng liên thanh; cứ có dịp là đeo bên tay Cha khi đi chợ hay đi ăn nhà hàng hay có đám tiệc…. Hình ảnh một ông già Việt Nam có một cô gái hoàn toàn Mỹ không thấy có gì lai đeo theo một bên và nhõng nhẽo thì chắc chưa có ai bằng. Tối ngày gặp mặt gọi Daddy; không thấy mặt thì daddy, Ba đâu rồi. Tôi vui với con gái của người ta và là nguồn an ủi cho tôi vui sống. Tôi làm công nhân cho hãng làm phụ tùng xe hơi, lương cũng dư sức nuôi con lên đại học và mua nhà trả góp. Phải mất 5 năm tôi mới trả hết nợ nhà. Năm 1995 con gái tôi thành y sĩ nhãn khoa và có việc làm ngay. Ngày làm lễ Mãn khóa; cầm mảnh bằng trên tay, con gái ôm tôi khóc như chưa bao giờ khóc như thế. Tôi bảo:

- Con vui mừng sao lại khóc dữ thế?

- Cám ơn; Con cám ơn Daddy nhiều lắm; Con đang nghĩ không biết có bao nhiêu ngàn hay chục ngàn đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi mà có bằng Đại học như con. Con thương Daddy nhiều lắm.

- Daddy cũng cám ơn Con; nhờ có con mà cuộc sống của Ba mới có ý nghĩa mà vui sống tiếp bấy lâu nay.

Hai Cha Con dị chủng ôm nhau cùng khóc.

Bạn bè của con biết thì không có gì lạ về sự khắng khích của Hai Cha Con Việt Mỹ nầy; nhưng những người xa lạ thì hiếu kỳ nghĩ suy lung tung nhưng không thể nào ra được đáp án. Cha Việt sao con Mỹ mà không có chút gì là dáng vẻ Việt Nam.

Tôi đi làm đem cơm theo ăn nay làm thêm phần cho con gái. Lương của con gái đưa hết cho tôi và chỉ lấy 100 bạc để đổ xăng và ăn quà vặt. Khi cần mua sắm gì thì nói xin. Tôi từ chối cách nào cũng không được nên mỡ một sổ bank riêng bỏ hết tiền của con gái đưa để khi nó cần đưa lại cho nó. Hai năm sau, em Gái của tôi bán 2 cái nhà cũ để mua cái nhà lớn hơn, tôi bảo con gái vay tiền ngân hàng mua cả 2 cái. Vì không vay được một lúc gần nửa triệu bạc nên tôi dùng cái nhà tôi để thế chấp vay mua 2 cái nhà cho con gái đứng tên và cho mướn.

20 năm trôi qua nhanh. Lưng của tôi bị thoái hóa cột sống nên đau càng ngày càng nhiều. Chân tôi bắt đầu bị tê. Lái xe lúc nào chân cũng phải nhịp nhịp thử coi còn hoạt động được hay không; nhỡ bị tê khi cần thắng mà không xử dụng được thì nguy to. Tinh thần tôi bị hoảng loạn khi nghĩ đến lúc không cữ động được tay chân bởi dây thần kinh bị gai xương sống ép nên không hoạt động được. Mổ xương sống thì xác xuất rủi ro khá cao; nên khi còn gượng đi đừng được tôi không chịu mổ để cắt gai cột sống. Con gái thì đeo theo một bên ít đi chơi ít giao thiệp với bạn bè. Đi làm về là quanh quẩn bên Cha làm tôi thêm lo lắng.

- Sao Con không có bạn trai? Con lập gia đình cho ba yên tâm!

- Ai bảo Ba con không có bạn trai. Bạn trai của con đang ghi tên học tiếng Việt; bao giờ nói được tiếng Việt con sẽ đem về ra mắt Ba. Anh ta người Đức nhưng sinh trưởng ở đây và chịu điều kiện phải sống chung với Ba suốt đời; nhưng con thêm điều kiện phải nói được những câu thông dụng tiếng Việt Nam.

- Ba nói tiếng Anh cũng tạm hiểu được mà Con.

Nhưng con muốn con của con sau nầy phải nói được tiếng Việt, nên anh ta ghi tên học một năm tiếng Việt ở Đại học Victoria.

Tuổi 60 cũng đúng lúc tôi được phép về hưu vì là cựu quân nhân nên sớm hơn dân sự 5 năm. Con Gái thì hối thúc Ba nghỉ việc đi; tiền hưu Ba đủ sức tiêu dùng; nếu có cần mua gì hay đi đâu con lo cho ba được.

Tôi xin nghỉ việc về hưu. Sáng nào 5.30AM cũng đi bơi để chữa trị bệnh đau lưng. Con gái cũng đi theo. Sáng nào hai cha con xe ai nấy lái đến hồ bơi. Con tập Gym, cha thì Bơi. Con gái đem quần áo uniform thay đi làm luôn.

Một hôm con gái tôi nói:

- Ngày mai con không đi làm; Ba có muốn con chở Ba đi thăm Bác Hoàn không? Con nghe con gái của Bác nói Bác đã bị đưa vào Viện Dưỡng lão tuần rồi.

- Sau con lại dùng chữ “bị”? Chẵng lẽ Bác Hoàn không muốn vào Nursing home mà bị bắt buộc vào hay sao?

- Bác Hoàn bị stroke té; xe cấp cứu đem vào nhà thương; Bác bị méo mặt và miệng không nói được nên các con của Bác xin Bác sĩ cho vào Viện Dưỡng lão; vì nếu về nhà sau nầy xin vào thì Bộ Y tế sẽ check sức khỏe và trí nhớ khó khăn lắm mới được chấp nhận nên để nhà Thương quyết định thì khỏi phải check gì hết!

- Bác chỉ hơn Ba có 2 tuổi và trí nhớ còn tốt lắm mà! Ừ! Ba với con đi thăm Bác kẻo tội nghiệp; hơn nữa mai mốt Ba có vào sẽ có người thăm lại ba.

- Không bao giờ có chuyện đó Ba đừng mơ; Con không bao giờ gởi Ba vô Viện Dưỡng Lão đâu. Con tập Gym để đủ sức bồng Ba khi Ba cần đến; Con cũng chọn chồng lớn con để phụ với Con. Ba xài Computer và Internet thường xuyên, trí nhớ của ba sẽ không bị Dementia hay Alzheimer.

- Cám ơn con; nhưng con còn công việc và cuộc sống của riêng con.

- Viện Mồ Côi không dành cho con thì Viện Dưỡng Lão cũng không dành cho ba.

- Con nhớ mua trái cây biếu Bác; nhớ đừng mua bánh ngọt vì Bác ấy cử ăn đường.

Hai cha con tôi vào Viện Dưỡng Lão Cửu Long vừa sau giờ ăn sáng; nên gặp Bác Hoàn ngay phòng ăn. Mặt và miệng của Bác Hoàn trở lại gần bình thường và giọng nói tuy có biến giọng nhưng vẫn còn nghe rõ lắm. Bác bắt tay tôi coi vẻ mừng và cảm động lắm nhưng hai mắt lệ ứ tròng. Con gái tôi lúc nào đi với tôi đều là mục tiêu để nhiều người chú ý và tò mò muốn biết về Cha Con Viêt Mỹ nầy. Hơn nữa vẻ trìu mến và lúc nào cũng như nhõng nhẽo với cha từ lúc còn bé thành thói quen làm mọi người càng chú ý hơn. Thăm Bác Hoàn khoảng một tiếng sau hai cha con xin phép ra về. Con gái tôi lái xe ghé Chợ và nói:

- Con đãi ba ăn bún bò Huế.

- Ừ! ăn thì ăn.

Con gái mở cửa cho tôi và kéo ghế cho tôi ngồi; gần như ai cũng quay ngó chúng tôi. Cô bé chạy bàn thì quen quá với cha con tôi vì nhiều lần ăn ở quán nầy.

- 2 tô bún bò Huế phải không Chú?

- Ờ! Cháu cho Chú 2 tô.

Con gái mở cái xách tay của nó ra; mà nó đổi cái xách tay lớn hơn hồi nào tôi không để ý. Nó kéo ra một bịch nylon và kéo Rau kinh giới ra. Nó để rau kinh giới tím qua một bên và nói:

- Cái nầy của Daddy.

Rồi kéo mớ khác là kinh giới xanh và nói:

- Cái nầy của con.

Ông ngồi bàn gần kế bên quay sang

- Cô Tây nầy sau nói tiếng Việt rành quá và rành ăn bún bò Huế hơn cả người Việt Nam!

- Nó là người Việt Nam chứ không phải Tây. Nó chê rau kinh giới tím ăn nồng quá mà tôi thì thích kinh giới tím hơn nên nó hái riêng hai loại cho cha con chúng tôi.

- Cô ta là Dâu của Anh?

- Không. Nó là con gái của tôi.

- Hai tô bún bò Huế được bưng ra; cuộc đàm thoại ngưng tại đây và có lẽ ai cũng liếc mắt xem khi cô Tây 100% vắt chanh và ngắt từng cọng rau bỏ vào tô cho cha. Tôi hãnh diện là đã không lầm khi bỏ công bao năm cơ cực nuôi “con của người ta.”

Về tới nhà chưa kịp thay quần áo thì điện thoại reo. Bạn Hoàn, người tôi vừa đi thăm, phone cho tôi từ Viện Dưỡng Lão.

- Anh mới về tới nhà phải không? Hồi nãy tôi gọi không ai bốc phone. Sau khi Anh về rồi có một Bà trong Viện dưỡng lão này hỏi anh có phải Hải Quân hay không và đứa con gái Mỹ đi theo Anh là con của Anh? Bà ta nói là người quen của Anh ở Nha Trang khi xưa; muốn xin số phone của Anh, nên tôi hỏi Anh trước. Có phải nhân tình cũ ngày xưa hay không? Nếu phải thì vào gặp gấp đi; dễ gì xa xứ gặp cố tri!

- Ừ! Thì Anh cứ cho; có sao đâu. Bốn mươi mấy năm rồi làm sao ai còn nhớ được ai!

Một ý nghĩ thoáng qua trong óc tôi: Không lẽ là Mẹ ruột của con gái của tôi? Chứ nếu bà ta là người vợ bỏ tôi ngày nào thì chắc chúng tôi phải nhìn nhau, chứ chẳng lẽ tình chồng vợ sống với nhau 5 năm mà nhìn nhau không ra! Nhưng nếu là mẹ ruột của con gái của tôi, tôi phải làm sao đây, vì dù sao cũng là... “Con gái của người ta”.

Trần Thiện Phi Hùng



mk
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 15/Feb/2014 lúc 1:40am
Khách Sạn 22

Khôi An



Khôi An, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013, từng là một thuyền nhân. Từ tuổi học trò, cô cùng người em gái phải rời bố mẹ, vượt biển năm 1983. Mười năm sau, 1993, cô đã là một kỹ sư đại diện Intel đi “bàn giao kỹ thuật” cho các kỹ sư bản xứ tại phân xưởng Intel ở Penang, Mã Lai.
Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008, Khôi An hiện là tác giả có lượng người đọc lớn nhất trên Việt Báo Online. Bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình", giải danh dư 2009, trên 407 ngàn; Bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu”, giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010, trên 325,000. Và mới nhất, bài “Những Đoạn Đường Cho Nhau”, một tự truyện về tình bạn giữa “đám con nít của Sài gòn thất thủ năm xưa”, giải Chung Kết 2013, chỉ mới sáu tháng, đã đạt gần 280 ngàn lượt người đọc.
Truyện này được viết từ những xúc động khi đọc hai bản tin của ký giả Mark Emmons đăng trên báo San Jose Mercury News vào cuối tháng Mười và đầu tháng Mười Một, 2013. Tên nhân vật và chi tiết trong truyện là hư cấu. Người viết trân trọng cám ơn ông Mark Emmons và San Jose Mercury News. Hình từ trang Web của San Jose Mercury News: Những người không nhà đang lên “Khách Sạn 22.”
* * *

Lisa choàng dậy, ngóc đầu nhìn. Xe bus vừa đi qua Palo Alto Highschool, nghĩa là chỉ còn vài phút nữa thì tới trạm. Nó gạt cái chăn mỏng sang một bên, chống tay ngồi dậy. Bên cạnh, Ba vẫn đang ngủ, đầu dựa vào cửa kính, miệng hơi há ra. Trong giấc ngủ mà trông ổng cũng như đang lo lắng chuyện gì, đôi lông mày nhíu lại. Lisa lặng lẽ xếp cái chăn rồi nhét vào túi xách dưới chân.
Đèn trong xe bật sáng, tiếng nói quen thuộc từ chiếc loa tự động phát lên “Xe bus đang vào trạm Palo Alto Transit Center, trạm cuối của tuyến đường 22. Xin mọi người chuẩn bị xuống xe.” Trong khoảnh khắc, trong xe ồn ào hẳn lên với tiếng ngáp, tiếng ho, tiếng lôi kéo hành lý, tiếng càu nhàu. Ba nó dụi mắt lia lịa, gài lại áo ấm rồi khoác mấy túi đồ đạc lên vai. Xe ghé trạm rồi từ từ ngừng lại. Người ta đổ xô ra cửa, Lisa và Ba cũng hòa vào dòng người, xuống xe.
Lisa đút hai tay vào túi áo. Tháng Mười rồi, đứng ngoài trời đêm mà không dấu kỹ thì chỉ một lát là hai bàn tay nó lạnh như nước đá. Từ xa, hai con mắt khổng lồ, vàng rực của chuyến xe đi hướng Đông đã hiện ra sau lớp sương mỏng. Lisa thở phào, nó sắp được chui vào trong xe ấm áp…
Chuyến xe về Eastridge Mall cũng gần đầy người. Như thường lệ, hai ba con Lisa nhanh chân giành được băng ghế cuối. Nó ngồi sát cửa sổ, nhìn ra ngoài. Con đường El Camino Real ở khúc này là đẹp nhất vì đi ngang qua thành phố Palo Alto, nơi nó nghe nói rằng chỉ có những người giàu kinh khủng mới có nhà ở đó. Xe đang đi dọc theo khoảng đất rộng hút mắt với những cây thông thật cao, dọc hàng rào có treo những tấm hình rực rỡ về trường đại học Stanford. Cái trường này nó biết vì mùa hè rồi trong những ngày trời nắng ấm hai ba con nó có lang thang đi bộ từ bến xe bus vô đó. Nó mê cái bãi cỏ mênh mông, xanh rờn ở phía trước tòa nhà mái đỏ ngay giữa trường, nhìn xéo qua ngọn tháp cao có cái nóc tròn trông giống như cây viết khổng lồ. Nằm ở đó nhìn
> lên thì trời xanh biếc, cây xanh nõn nà, nhìn chung quanh thì ai cũng tươi tốt, mạnh khỏe, tự tin. Nó nghĩ cảnh đó chắc giống như ở thiên đàng. Nó mê bãi cỏ đó đến nỗi có lần buột miệng hỏi “Ba ơi, nữa lớn con xin vô học trường này, được không Ba?” Ba nhìn nó, miệng há ra mà không nói được tiếng nào, một lát sau ổng mới thốt nên lời “Ờ…ờ…được chứ con… Con ráng hết sức thì… chắc được…” Nghe nói vậy nhưng nó không tin tưởng lắm vì điệu bộ của Ba nó giống y hệt như lần nó hỏi “Ba ơi chừng nào Mẹ về? “. Chỉ khác là hồi đó nó mới sáu tuổi và chưa hiểu “chết” nghĩa là không bao giờ về nữa.
Áp trán vào khung kính lạnh buốt và nhớ lại, nó nghĩ là muốn vô trường Stanford thì nó phải có cây đũa thần. Mà cũng chưa chắc, vì nếu cây đũa chỉ cho một điều ước thì nó sẽ ước cha con nó có một nơi để ở. Nó rất sợ thời gian ngủ lang thang trên mấy băng ghế lạnh ngắt trong những công viên tối thui. Có những đêm trời mưa lâm râm, hai ba con nó nằm ngược đầu đuôi trên băng ghế, đắp chung tấm nylon. Tiếng mưa lơi lộp độp trên nylon làm nó không ngủ được, thêm nữa nó cứ sợ ngủ quên mà trời mưa lớn thì ướt hết sách vở ở trong cái backpack gối dưới đầu. Sau mấy đêm như vậy, giờ hễ thấy trời âm u chuyển mưa là hai lòng bàn chân nó tự nhiên lạnh ngắt.
Cũng may mà hai cha con nó khám phá ra Khách Sạn 22.
Đó là cái tên mà những người không nhà đặt cho tuyến xe bus số 22.
Buổi chiều hôm đó, Lisa cứ nấn ná trên bãi cỏ xanh của trường Stanford nên tới hơn 8 giờ tối mới lên xe bus 22. Hai cha con định đi về khu phía Đông San Jose kiếm chỗ ngủ để ngày mai Ba còn đi xin việc làm ở mấy cái chợ Á châu gần đó. Lên xe, nó ngờ ngợ vì thấy xe đông hơn hẳn những chuyến bình thường, và ai cũng mang nhiều đồ đạc. Một bà ngồi ở băng ghế trước còn có cả một cái xe đẩy chất túi xách, chăn mền. Hơn hai tiếng sau, xe ghé trạm cuối ở Eastridge Mall, nó thấy phần đông khách trên xe lại xếp hàng chờ chuyến xe đi ngược lại. Lúc đó, hai ba con nó mới hỏi thăm và biết là có ba chiếc xe bus chạy vòng vòng trên tuyến đường này cho tới sáng. Từ ngày đó, hai cha con nó gia nhập Khách Sạn 22.
Đây là tuyến xe duy nhất chạy suốt ngày đêm của quận hạt Santa Clara, cũng là tuyến đông khách nhất và chạy con đường dài nhất. Bắt đầu từ Eastridge Mall ở phía Đông thành phố San Jose xe chạy qua đường Tully, quẹo trái đường King, dọc theo đường Santa Clara qua downtown San Jose, nối qua đường Alameda, lên El Camino Real, chạy qua ba thành phố Santa Clara, Sunnyvale, Mountain View trước khi vào thành phố Palo Alto rồi ghé vô trạm chót.
Bây giờ thì Lisa rành lắm rồi. Nó biết rõ đi một chuyến xe thì phải trả hai đô la. Nhưng hầu hết những người trên Khách Sạn 22 đều dùng vé tháng, mỗi tháng bảy chục đô la. Valley Transportation Authority của quận hạt Santa Clara, mà mọi người gọi là VTA, thỉnh thoảng còn cho những người không nhà hoặc những người sắp mất chỗ ở một tấm vé dùng được trong ba tháng. Mấy tấm vé miễn phí đó cũng hiếm hoi như một chỗ ngủ trong những nhà tạm trú (homeless shelter). Dù sao, chỉ tốn bảy mươi đô la mà có phương tiện đi lại và chỗ ngủ trong cả một tháng dài, đối với cha con nó lúc này, là một sự may mắn và vô cùng quan trọng.
*
Dù đã lang thang không nhà gần năm tháng, Lisa vẫn không nghĩ hai cha con nó là người homeless. Nó thấy chữ “homeless” nghe buồn bã quá, và chỉ hợp với những người chấp nhận là từ nay về sau họ sẽ không có nhà ở nữa. Ba con nó là những người “between homes”, nghĩa là đang kiếm chỗ ở.
Hồi xưa, lúc còn Mẹ, gia đình nó cũng có “home” trong một khu chung cư rất dễ thương, ở gần cái công viên thật rộng. Cuối tuần Ba tập cho nó chạy xe đạp còn Mẹ thì trải khăn trên thảm cỏ xanh rờn và nướng thịt bay mùi thơm phức. Tới giờ thỉnh thoảng nó vẫn còn nằm mơ thấy Mẹ cười thật tươi dưới tàn lá xanh lấp loáng ánh nắng công viên, và khi tỉnh dậy nó gần như chắc chắn là trong mơ nó đã ngửi thấy mùi thịt nướng.
Ngày đầu tiên nó vô lớp Một, Mẹ nó còn dắt nó đi học, còn đứng lấp ló ngó chừng, khi thấy nó không khóc Mẹ mới đi làm. Ngày Giáng Sinh năm đó nó còn vẽ tấm hình có nó, Ba, và Mẹ đánh son đỏ chót thiệt là đẹp. Vậy mà chỉ vài tháng sau Mẹ vô nhà thương. Bữa cô Cindy, em của Ba, hớt hải chạy vô xin cho nó về thăm Mẹ, cô giáo nắm tay nó và nói “Poor baby” (tội nghiệp cưng). Đó là lần đầu tiên nó thấy Ba khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Và đó cũng là lần chót Mẹ mở mắt ra nhìn nó.
Sau đó Ba con nó dọn về ở chung với cô Cindy và chú Ben. Những chuyện xảy ra trong vài năm sau khi Mẹ mất, Lisa chỉ nhớ lác đác, tựa như đầu óc nó lạc trong một giấc ngủ dài sau khi Mẹ ra đi. Nhưng những chuyện gì đã nhớ thì nó nhớ rõ, thí dụ như là nó mới vô lớp Bốn thì Ba bị đau lưng. Chú Ben nói tại Ba làm cực, khiêng nặng mà không đeo thắt lưng bảo vệ. Ba bịnh chưa hết thì chú Ben mất việc làm. Ngày chú tìm được việc làm ở xa, hai cô chú và mấy đứa con phải dọn đi. Cô Cindy ôm hôn nó và nói “Con ráng ngoan nha”. Giọng cổ nghẹn ở mũi, nó nghĩ cổ nói vậy để khỏi khóc chứ ở chung mấy năm trời, cổ biết lúc nào nó chẳng ngoan.
Từ đó, hai cha con dọn một qua căn phòng nhỏ xíu. Ba vẫn đau lưng rề rề. Ba thuờng phải nghỉ làm, nằm một mình trong căn phòng đóng cửa tối mờ. Một ngày kia đi học về nó thấy trước nhà dán một phong thư. Đem vô đưa Ba coi, Ba không nói tiếng nào. Mãi đến khi ăn xong bữa tối Ba mới lấy thùng dọn đồ đạc vô và nói mình không có trả tiền nhà tháng rồi, chủ nhà gởi thư bắt dọn đi.
Bữa đầu hai cha con tới Commercial Street Inn ở San Jose. Sau khi đứng chờ ở một hàng dài, tới phiên hai cha con nó, cô thư ký lắc đầu:
- Ở đây là nơi tạm trú của các bà mẹ có con nhỏ.
Ba nó nài nỉ:
- Con tôi cũng nhỏ nhưng mẹ nó chết rồi. Cô làm ơn!
Cô ta vẫn lắc đầu:
- Mỗi phòng có bốn, năm đàn bà, con nít ở chung, làm sao tôi cho ông vô? Mà không có ông, ai chịu trách nhiệm cho con bé?
Thấy cha con nó ngần ngừ, ngơ ngác, không biết đi đâu, cô thư ký thương tình cho nằm đỡ dưới đất ngay trong phòng chờ đêm hôm đó. Hôm sau hai cha con lại dắt nhau đi.
Ba dắt nó vô thư viện coi nhờ Internet và xin tài liệu để đi tìm những shelter (nhà tạm trú) khác. Được bà coi thư viện tốt bụng in ra cho một danh sách các shelter trong quận Santa Clara con Lisa mừng quá. Nhìn thấy tới mười chỗ trong danh sách, nó chắc là cha con nó sẽ tìm được một nơi ở tạm vài tuần. Nhưng coi vậy mà không phải vậy…
Tuần lễ đó, hai cha con nó chỉ được ngủ trong shelter có hai ngày vì ở đâu cũng đầy người, nếu tới sau sáu giờ thì chắc chắn không còn giường trống. Có những shelter chỉ dành riêng cho những người bị bệnh tâm thần, và chỉ có một shelter dành cho gia đình chịu cấp phòng cho cha độc thân và con nhỏ. Có lần nó hỏi tại sao quận Santa Clara có tới hai chỗ cho những người mẹ có con nhỏ mà không có chỗ nào dành cho cha với con nhỏ, cô thư ký suy nghĩ một chút rồi nói:
- Bởi vì hầu hết những người có con nhỏ đến nhờ giúp đỡ đều là đàn bà. Em thông minh lắm, nhưng rất tiếc tôi không giúp được em. Người ta đặt ra những chương trình để phục vụ số đông. Cha con em là trường hợp đặc biệt.
Nó thấy buồn nhưng chỉ nắm tay Ba và trả lời: Vâng, cha của con là người rất đặc biệt.
Chỉ có một câu vậy thôi mà cả hai người lớn, cha nó và cô thư ký, đều chớp mắt như muốn khóc.
Trong mấy tháng cha con nó ngày nào cũng vô thư viện tìm thêm tài liệu về những shelter rồi đi xin khắp nơi. Nhờ đọc nhiều nên nó biết được là cứ mỗi đêm ở trong quận Santa Clara có tới hơn năm ngàn người không nhà cần chỗ ngủ. Mỗi shelter thường chỉ có mấy chục phòng, và có những nơi chỉ mở cửa vào mùa Đông. Hèn gì mà cha con nó thường phải ghi tên chờ tới phiên, có khi cả mấy tuần mới được.
Thời đó, cứ sau bữa ăn trưa là hai cha con lo tìm chỗ ngủ. Đi mấy chuyến xe bus mới tới nơi, người ta hết chỗ, đứng ngẩn ngơ vài phút rồi lại ráng đoán xem chỗ nào còn chỗ, leo lên xe đi tiếp. Rồi đêm xuống, vẫn còn ngoài đường, hai cha con thất thểu dắt nhau kiếm tòa nhà nào có chút mái che và sáng sủa cho đỡ nguy hiểm, rồi ráng quấn chăn cho ấm và ráng ngủ. Có nhiều đêm nó biết Ba sợ cho nó, bắt nó nằm vô sát vách rồi lấy chăn trùm kín mít. Vậy mà khi nó giật mình thức giấc vẫn thấy Ba mở mắt nằm thao thức.
*
Từ khi có Khách Sạn 22 làm nơi trú mỗi đêm, Lisa thấy đời sống của nó khá hơn nhiều.
Lúc đầu nó hơi khó ngủ vì xe cứ chạy rung rung rồi lại thắng ken két. Mỗi lần tới trạm loa phóng thanh còn phát tiếng nhắc nhở làm nó giật mình hoài. Những khi không ngủ được nó ngồi ngắm các hành khách. Lúc đầu khuya còn có những người đi làm ca đêm hoặc đi chơi về trễ. Những người này có vẻ vội vã, họ thường chăm chú bấm lia lịa trên điện thoại di động trong suốt chuyến xe. Qua hai giờ đêm, xe chỉ còn toàn là những người đi xe mà không có chỗ đến như cha con nó. Họ ngồi gật gù trong giấc ngủ chập chờn hoặc nằm co ro trên các băng ghế. Rồi nó cũng từ từ nằm xuống, gối đầu lên chiếc backpack, và thiếp đi.
Sau vài tuần nó đã quen. Nó có thể ngủ say nhưng luôn thức dậy khi xe tới bến chót, rồi lại ngủ tiếp trên chuyến xe ngược lại.
Điều làm Ba nó mừng nhất là trên xe bus an toàn. Về phần nó, nó thích nhất vì Khách Sạn 22 giúp mọi chuyện trở nên đều đặn. Mỗi sáng nó đi xe tới trường học, chiều về đón xe bus tới thư viện ở đường Alum Rock học bài. Tới giờ thư viện đóng cửa thì nó đi bộ qua tiệm Goodwill ngay gần đó. Tiệm này là nơi bán đồ cho người nghèo, những ngày Ba không đi xin việc thì ổng làm không có lương ở đây.
Những người lái xe chuyến 22 đều biết rõ là nhiều người không nhà dùng chiếc xe làm nơi ngủ nhưng họ không làm khó dễ. Chỉ cần những “hành khách đi không bao giờ tới” này tuân theo luật lệ, không ăn uống, hút thuốc, xả rác, hay làm ồn ào trên xe. Ông Tom, một trong những người lái xe, có lần nói:
- Đối với tôi, những người không nhà cũng như mọi hành khách khác. Nếu họ có vé thì họ được đi xe. Thường thường họ đều là người tốt, chỉ đang gặp khó khăn.
Thoát khỏi nổi lo lắng về chỗ ngủ đeo đuổi suốt ngày, Lisa học giỏi hơn trước. Có lẽ nhờ ngày nào cũng học trong thư viện nên năm nay nó đạt nhiều điểm cao nhất. Từ khi khai trường vô lớp Năm, nó thường xuyên được điểm A. Lần đi họp phụ huynh về, Ba nó ôm nó thật chặt rồi nói “Ba thiệt không dám tưởng tượng là con giỏi vậy!”
Bạn bè nó không ai biết là nó không có nhà, có lẽ vì hai cha con nó luôn giữ sạch sẽ, gọn gàng. Ngày nào sau giờ học nó cũng tới một trung tâm sinh hoạt cộng đồng có hồ bơi và phòng tắm cho người đi bơi. Nó hòa vô đám người đó tắm rửa rồi giặt quần áo, vắt khô bỏ vô bịch, sau đó trải một tấm nylon phơi lén ở cái bãi đậu xe đằng sau Goodwill.
Từ hồi tháng Chín, mỗi sáng khi xuống xe ở trạm gần trường, nó đều gặp một cặp vợ chồng với một đứa con trai nhỏ đón xe ở đó. Đứa bé chắc đang học lớp Một, giống như nó thời còn Mẹ. Lần đầu tiên nó nhìn họ từ trên xe bus, bà mẹ đang cúi xuống gài lại áo lạnh cho thằng bé. Không hiểu sao nó thấy cái cử chỉ đó, cái dáng điệu đó, giống in như mẹ nó ngày xưa. Lần đó, sau khi xuống xe, nó chậm bước nhìn họ cho rõ. Từ đó, lần nào gặp họ nó cũng phải nhìn, vừa nhìn vừa thầm mong cái buồn buồn xốn xang trong bụng đừng hiện ra trong con mắt. Có lẽ vì nó nhìn họ hoài, họ cũng nhớ mặt nó. Gần đây, ngày nào hai bên cũng nói Hello chào nhau. Thỉnh thoảng có ngày không gặp họ, nó cảm thấy chút gì như là mong nhớ…
Một đêm cuối tháng Mười, trên Khách Sạn 22 xuất hiện vài khuôn mặt lạ. Họ tự giới thiệu là phóng viên của báo San Jose Mercury News, nghe nói về nơi này và muốn tìm hiểu thêm. Lisa không muốn nhắc đến chuyện không có nhà nên kéo chăn che mặt, làm bộ ngủ. Ba chỉ miễn cưỡng trả lời vài câu hỏi và không đưa tên tuổi gì hết.
*
Lá phong trên hàng cây dọc con đường Alameda đã đổi màu, cửa kính của các nhà hàng đã xuất hiện hình vẽ gà tây bên cạnh những trái bí rợ. Màu cam, màu đỏ của mùa lễ làm Lisa thấy buồn buồn. Cái vui vẻ, ấm áp của người ta làm nó chợt nhớ rằng lâu lắm rồi nó không được nhìn thấy một nồi súp đang bốc khói, trên cái lò cháy đỏ, trong một căn bếp. Nơi mà các gia đình quây quần ăn bữa tối…
…Thứ Bảy, buổi sáng trời nắng ấm. Hai cha con nó xuống xe ở đường Santa Clara rồi đi bộ tới công viên Cesar Chavez. Có một nhóm người đang phát những thức ăn nóng tại đó. Nghe nói có súp đậu, gà nướng, khoai tán, và cả bánh nhân bí đỏ nữa. Những món ăn tuyệt vời, chỉ nghĩ thôi mà đã phát thèm! Nó nắm tay Ba nối đuôi xếp hàng, và háo hức chờ đợi. Chỉ còn năm, bẩy người nữa là tới phiên nó.
Bỗng tim nó thót lại!
Nó vừa nhìn thấy bà-mẹ-của-thằng-bé mà nó gặp hàng ngày đang tươi cười đứng trong đám múc đồ ăn cho đoàn người không nhà. Nó lôi Ba tách khỏi hàng, quay ngoắt đi, vội vàng như chạy trốn. Ba nó vừa rảo bước theo vừa hỏi “Sao vậy? Cái gì vậy? Lisa?” Nó không nói gì, chỉ cắm đầu đi. Qua một khúc quẹo, khi biết chắc là bà ta không thể thấy hai cha con nó, Lisa mới đứng lại. Rồi tự nhiên nó thấy giận. Giận vì mình không có nhà, giận vì mình sợ người ta biết, giận vì mình đã làm Ba mất một bữa ăn ngon. Nó bật khóc nức nở…
- Lisa, con ăn đi!
Tiếng Ba nó nhắc nhở làm nó trở về hiện tại. Nó đang ngồi trong một nhà hàng sang trọng ngay trung tâm thành phố San Jose, đối diện với ông Sam, bà Nancy, và thằng bé Danny (bây giờ nó đã biết tên của họ.) Ánh mắt của bà Nancy thật là vui và ấm áp. Nhưng nó vẫn thấy ngại ngùng, thắc mắc không hiểu tại sao họ cất công mời Ba và nó đi ăn. Không lẽ bà Nancy đã thấy nó bỏ chạy từ đoàn người xếp hàng xin thức ăn hôm nọ, và muốn đền bù cho hai cha con một bữa?
Sáng hôm qua, thứ Sáu, Ba và nó cũng mỉm cười chào gia đình thằng bé như mọi ngày. Bỗng ông Sam tiến tới bắt tay Ba rồi nói:
- Chào ông. Tôi là Sam, đây là vợ tôi, Nancy, và cháu trai Daniel. Chúng ta biết nhau khá lâu rồi, hôm nay tôi muốn được hỏi tên ông và cháu gái.
- Chào ông bà. Tôi là John, con gái tôi là Lisa.
Sau vài câu trao đổi, họ mời cha con nó đi ăn vào ngày mai. Ba nó cũng rất ngạc nhiên, ấp úng từ chối. Nhưng họ thuyết phục mãi, và bây giờ cha con nó đang ngồi đây.
Dù sao những món ăn trên bàn cũng quá hấp dẫn, và vẻ cởi mở, ân cần của hai ông bà cũng không có dấu hiệu gì đáng lo. Lisa bắt đầu cắn vào miếng thịt gà vàng rộm và mỉm cười với thằng bé Danny.
Khi Lisa vét xong muỗng kem tráng miệng cuối cùng, bà Nancy ngồi thẳng lên. Bà nhìn Lisa, rồi nhìn Ba, rồi nói:

- Cách đây hai tuần tôi thấy hình ông và cháu Lisa trên báo San Jose Mercury News.
Lisa nghe máu chạy một cái rần lên mặt. Nó không biết mặt nó đang đỏ bừng hay tái mét. Bên cạnh nó, Ba cũng có vẻ sững sờ. Hai cha con mở to mắt nhìn những người phía bên kia bàn.
Bà Nancy phác một cử chỉ như muốn nắm lấy tay nó. Bà tiếp tục nói, thật dịu dàng:
- Tôi có đưa bài báo đó cho nhà tôi coi. Ổng là giám đốc chương trình của một cơ quan thiện nguyện tên là Dịch Vụ Về Chỗ Ở Vùng Vịnh, và tôi là giáo sư ở trường Đại Học San Jose. Chúng tôi muốn giúp ông và cháu rời khỏi chiếc xe bus 22. Từ đó tới nay, chúng tôi đã gọi cho những người quen biết và tìm được một nơi có thể giúp ông và cháu. Thứ Hai, mời ông tới văn phòng….
*
Bây giờ hai cha con Lisa đã được cấp một căn phòng tại một nơi tạm trú cho các gia đình đang gặp khó khăn. Trong thời gian ở đây, Ba nó được đi học những lớp dạy nghề, và người ta hứa sẽ giúp Ba đi kiếm việc.
Mỗi khi nghĩ lại, Lisa thấy có nhiều việc liên hệ
với nhau một cách diệu kỳ. Không biết có phải Mẹ đã đưa đẩy cho nó quen được những người tốt bụng để họ giúp đỡ cha con nó hay không.
Bây giờ ước mơ của nó là khi lớn lên sẽ làm giám đốc chương trình giúp đỡ nhà cửa cho người nghèo, giống như người ân nhân của nó. Khi đó, nó cũng có thể làm điều kỳ diệu cho những đứa bé không nhà khác, những đứa bé mà nó biết là có rất nhiều ở khắp nơi. Nó tin là nó sẽ làm được, chỉ cần ráng học thật giỏi và quyết tâm.
Và Lisa còn học được một điều mới nữa trong thời gian nương náu trên Khách Sạn 22.
Rằng, có những người thật sự có chiếc đũa thần, nhưng khi mới gặp mình không thấy được.
Bởi vì, chiếc đũa đó, họ cất ở trong tim.

IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.188 seconds.