![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 146 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
![]() |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
Câu Chuyện Rơi Nước Mắt Về Mẹ Của Tiến Sĩ Toán Học HarvardTiến sĩ An Kim Bằng từng là học sinh nghèo nhất trường trung học số 1 Thiên Tân Đây là câu chuyện có thật về người mẹ của tiến sĩ An Kim Bằng (Jinpeng An), người Trung Quốc, tốt nghiệp toán học tại Đại học Harvard. Câu chuyện xúc động về sự hi sinh của người mẹ dù đã được báo chí đăng tải rất nhiều nhưng vẫn khiến hàng triệu người phải rơi nước mắt mỗi lần đọc lại. ***** Ngày 5/9/1997 là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở khoa Toán, Đại học Bắc Kinh. Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát của gia đình tôi. Mẹ tôi đang nấu mì sợi, chân vẫn còn tập tễnh. Mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân. Còn số bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm. Bưng bát mì, tôi đã khóc. Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống… Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, vô cùng nghèo khó. Tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà. Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi. Tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm. Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác. Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xóa sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó. Mẹ thương tôi đến mức đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi. Những khi mẹ vui vẻ là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích.Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành. Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng, trừ, nhân, chia và phân số, số phần trăm. Khi học tiểu học, tôi đã tự học để nắm vững Toán, Lý, Hóa của bậc trung học phổ thông. Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc trung học,tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu. Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà. Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ. Bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày. Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ đang định dắt con lừa con của nhà đi bán cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu. Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông lại đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã qua đời. Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa. Cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ. Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất. Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: - Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ? Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi: - Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học… Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển. Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào. Mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa! Hàng xóm kể với tôi, mẹ dùng một phương pháp nguyên thủy và bi tráng nhất để gặt lúa mạch. Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, cũng không có tiền thuê người giúp, bèn gặt dần. Lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà. Tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to… Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm. Khi mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ đến chảy máu, đi đường cứ cà nhắc… Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu…". Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường. Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ, thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng, có lúc dành dụm không đủ còn phải giật tạm vài ba chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn. Nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa. Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn). Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước soda) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ. Làm con của người mẹ như thế, tôi rất tự hào. Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: "Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa". Tôi bị nói lắp. Có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng kiên trì. Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tôi đã thành người giỏi tiếng Anh thứ 3 của lớp. Tôi vô cùng cảm ơn mẹ. Mẹ đã khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập. Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý. "Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới". Không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi. Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì. Tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống. Dù là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những nỗi khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng! Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: tôi muốn phát triển toàn diện cả Toán, Lý, Hóa, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần phải phân tán rộng. Nếu giờ chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng. Tháng 1 năm 1997, cuối cùng tôi cũng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia. Cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển, tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế. Nộp xong phí báo danh, tôi gói sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường. Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi: "Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?" Tôi chả biết nói sao, vội đáp: "Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clinton em cũng chẳng thấy ngượng". Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc. Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; sau đó công bố huy chương Bạc, cuối cùng, công bố huy chương Vàng. Người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi. Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!". Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học Trung Quốc tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ… Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, cuối cùng tôi đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi. Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt… Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng. Ngày 12/8, trường Trung học số một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này: "Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh thành và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh - Trung" để học tiếng Anh. Mẹ không có tiền, nhưng vẫn nghĩ cách giúp tôi. Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng. Hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn 40 km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ. Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 8 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa. Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: "Mẹ ít văn hóa, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ". Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh. Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa... Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi". Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn… Theo An Kim Bằng Trí thức trẻ |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
Những góa phụ không chốn nương thân
Không biết đi đâu, không biết trốn vào đâu.
Một số
những người Hindu bảo thủ nhất tại Ấn Độ tin rằng người phụ nữ nếu chồng
đã chết thì cũng không nên sống nữa, bởi người phụ nữ đó đã không giữ
được linh hồn chồng.
Bị cộng
đồng xua đuổi, bị người thân bỏ rơi, hàng ngàn phụ nữ cơ cực tìm đường
đến Vrindavan, một thành phố hành hương nằm cách Delhi chừng 100km về
phía nam, nơi đã trở thành nơi nương náu của hơn 20 ngàn người phụ nữ
góa.
Những
người phụ nữ này không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải sống trong
một khu vidhwa ashram (có nghĩa là khu trú ngụ cho các phụ nữ góa) do
chính phủ, các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức NGO lập ra.
Mặc đồ màu trắng, họ biết rằng họ sẽ không bao giờ trở về nhà, và rằng đây là nơi mà họ sẽ nằm xuống khi lìa đời.
Dựa vào nhau để sống
Theo
phong tục của người Hindu, một người phụ nữ góa không được phép tái hôn.
Họ phải trốn trong nhà, tháo bỏ mọi đồ nữ trang và phải mặc đồ màu
tang. Người đó trở thành nỗi ô nhục cho gia đình, mất quyền tham dự đời
sống sinh hoạt tôn giáo và bị xã hội cô lập.
Nhiều phụ
nữ góa bị nhà chồng đuổi đi, hoặc họ chủ động trốn đi. Họ tìm đến các
thành phố lớn, nơi họ thường biến mất. Một số người đi tới thành phố
thiêng của người Hindu, Varanasi, một số người khác tới Vrindavan, nơi
mà người ta tin rằng Đức Krishna, vị thần Hindu được nhiều người phụ nữ
góa thờ phụng, đã sống thuở thiếu thời.
Đàn áp
Những phụ
nữ góa ở Ấn Độ luôn bị ruồng rẫy, bị ngược đãi. Sati có lẽ là tập quán
cổ nhất và rõ rệt nhất minh chứng cho điều này. Bị những người thực dân
Anh cấm áp dụng kể từ 1829, sati là một tập quán tang lễ cổ lỗ của Ấn Độ
theo đó người đàn bà góa được trông đợi là phải gieo mình vào giàn hỏa
thiêu xác chồng, hoặc tự tử bằng cách khác ngay sau khi chồng chết. Một
khi chồng chết thì người đàn bà bị coi là không còn lý do gì để sống
nữa.
Làm lại cuộc đời
Đến
Vrindavan, nhiều người phụ nữ góa chồng cảm thấy mình hoàn toàn tuyệt
vọng. Họ phải một mình đối diện với thế giới mà không có ai giúp đỡ. Bị
xã hội gạt ra bên lề, bị gia đình ruồng bỏ, họ chờ đợi tới lúc chết
trong cô đơn và nỗi căng thẳng tuyệt vọng. Thế nhưng từ từ từng chút
một, họ được cộng đồng những người phụ nữ góa đón nhận, và hầu hết đã
gượng lại được để sống, để thoát khỏi nỗi cô đơn.
Đức tin mãnh liệt
Gayatri
đang làm lễ puja (lễ cầu nguyện buổi sáng) tại ashram Meera Sahbagini,
nơi được thành lập từ 60 năm về trước và nay là nơi trú ngụ của 220
người phụ nữ góa chồng.
"Mỗi
sáng, chúng tôi thức giấc lúc 5 giờ. Một số người ra bờ sông Yamuna để
rửa ráy và làm nghi lễ puja đầu tiên. Sau đó, chúng tôi quay về ashram,
hát các bài hát tôn giáo để ca tụng Sri Krishna và [bạn đời của ngài là]
Radha."
Đoàn kết tương trợ
Sau khi
hát bhajans (các bài hát tôn giáo) và cùng nhau cầu nguyện, những người
phụ nữ bắt đầu các hoạt động thường nhật. Họ nấu ăn, hoặc là cho mình,
hoặc làm trong từng nhóm hai, ba người, và rồi cùng ăn trong các căn
phòng hoặc trong những hành lang của ashram. Sau đó, họ đọc các cuốn
sách tôn giáo và cầu nguyện. Rõ ràng là đức tin có sức mạnh vô cùng to
lớn, giúp họp đối diện được với những khó khăn mỗi ngày.
Người tử tế
Lalita, 72 tuổi, đã sống tại ashram Meera Sahbhagni được 12 năm.
"Tôi
không bao giờ nghĩ rằng rồi đến một ngày tôi phải đi ăn xin. Nhưng khi
chồng chết, tôi khi đó 54 tuổi đã bị người thân đuổi ra khỏi nhà. Tôi đã
phải sống trên đường phố, và rồi gặp được một người đàn ông tử tế,
người đã giúp tôi một tấm vé tàu tới Vrindavan. Tôi đến đây và không rời
đi nữa."
Chống lại số phận
Ở đây,
những người phụ nữ đứng bên bờ sông Yamuna vào lúc chiều tà để làm
lễ aarti (là các lễ cầu nguyện và kỷ niệm truyền thống, được thực hiện
hàng ngày). Một người quá sung sướng vì được ở đây, tới nỗi bà nhảy
xuống dòng nước; những người khác giúp bà leo trở lại lên bờ.
Định mệnh nghiệt ngã
Tulsi, 68
tuổi, đang hát bhajan tại ashram. Bà là người sống tại một làng gần
Kolkata. Gia đình nhà chồng đã lấy hết tài sản khi chồng bà chết. Tulsi
bị buộc phải cùng các con tới sống ở một vùng rất nghèo, và một trong
các con trai bà đã nhanh chóng đưa bà tới Vrindavan, ban đầu lấy cớ là
để làm lễ cúng Thần Krishna. Sau khi thăm các ngôi đền, người con trai
bảo bà hãy ở lại Vrindavan dẫu bà không muốn. Anh ta bỏ đi và không bao
giờ quay lại. Nay, bà ở lại ashram đã được 12 năm.
Một linh hồn, một đường đời
Shanti
Padho Dashi năm nay 91 tuổi, sống tại ashram Meera Sahbhagni. Bà là cư
dân cao tuổi nhất ở ashram này, và đến từ vùng Tây Bengal. Bà tới
Vrindavan từ 25 năm trước.
Ấn Độ đang dần tiến bộ hơn, cho nên hoàn cảnh của các phụ nữ góa chồng cũng đang trở nên khá hơn, dù là chậm chạp.
Tuy
nhiên, chồng chết vẫn là điều bị coi là nỗi ô nhục ghê gớm, và tâm lý
này đã tồn tại lâu tới mức nó khó có thể sớm biến mất, đặc biệt là trong
các vùng nông thôn.
Nâng cao nhận thức và sự cảm thông
Mặc đồ
màu trắng, các bà góa đi mua rau quả trên đường phố Vrindavan. Họ luôn
bị xã hội ruồng bỏ, bởi họ bị coi là đem lại những xui xẻo. Một số người
thậm chí còn tránh đi khi thấy một phụ nữ góa đi trên đường phố.
Nhưng
trong những năm gần đây, các tổ chức NGO địa phương, như Sulabh
International, đã giúp đỡ những phụ nữ góa. Không chỉ hỗ trợ về tài
chính, các tổ chức còn tiến hành nhiều dự án và nhiều hành động trên
truyền thông trên cả nước nhằm nâng cao nhận thức va sự cảm thông của xã
hội đối với những người bị phân biệt đối xử.
Thay đổi cách suy nghĩ
Trong
hình là các phụ nữ góa tại ashram Meera Sahbhagni tổ chức kỷ niệm Holi,
tức lễ hội màu sắc. Cho dù tập quán chính thống không cho phép các phụ
nữ góa được tham dự vào các lễ kỷ niệm, nhưng cách suy nghĩ này đang
được thay đổi, và những người phụ nữ góa đã bắt đầu chống lại lệnh cấm.
Phá vỡ rào cản
Holi và
tầm quan trọng của lễ hội này trong xã hội Ấn Độ là cơ hội hoàn hảo để
những phụ nữ góa khẳng định một cách lớn tiếng và rõ ràng rằng họ muốn
được tôn trọng. Trong lễ Holi, các rào cản xã hội bị phá bỏ và mọi người
ăn mừng cùng nhau, không phân biệt những cách biệt tuổi tác, giới tính
và địa vị xã hội.
Đó là lúc người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong xã hội cùng chan hòa, khi mà người ở giai tầng thấp kém được quyền sỉ nhục những người mà họ luôn phải cúi đầu suốt quanh năm.
Hy vọng cho ngày mai
"Hôm nay
tôi rất vui vì có những người phụ này sống quanh mình, tôi không còn cô
đơn nữa," Prema, 60 tuổi, nói. "Chúng tôi đã học cách sống với nhau,
giúp đỡ nhau. Chúng tôi đã trở thành bạn bè, những người bạn thực sự,
bởi chúng tôi đều biết những gì mà mỗi người trong chúng tôi đã phải
trải qua. Chúng tôi hướng tới tương lai, không bao giờ muốn nhìn lại quá
khứ. Chúng tôi không bao giờ nói về quá khứ hết."
Pascal Mannaerts
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
NEW - VĂN: MÙA XUÂN ĐỂ LẠI - Nhạc đệm VN & Ngoại quốc - 7/5/2023 <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/May/2023 lúc 12:06pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
Câu Chuyện Chiếc Nhẫn Của Một Người Tù - Kenneth Miller Cuộc đổi chác diễn ra qua hàng rào dây kẽm gai tại trại tù Stalag VII-A của Đức Quốc xã trong Thế chiến 2. Bên kia là trại giam tù người Ý, bên này là trại tù binh đồng minh. Một người lính Ý có hai thỏi kẹo chocolat và gạ đổi chiếc nhẫn bằng vàng của Thiếu úy David C. Cox. Đói, Thiếu úy Cox thèm đường. Cơm tù chỉ gồm canh lểnh loãng đầy sâu và bánh mì đen lẫn cát . Thiếu úy Cox nhìn hai thỏi chocolat thèm chảy nước miếng. Nhưng nhìn xuống chiếc nhẫn anh tiếc. Anh nhớ lại ngày anh có bằng phi công, ngày cưới vợ – cô Hilda tóc vàng xinh đẹp – và ngày lên đường theo đơn vị đi Âu châu bố mẹ cho anh chiếc nhẫn. Cox là con một chủ trại cưa gỗ làm ăn phát đạt tại Greensboro, bang North Carolina. Vào đại học chưa xong một học kỳ anh bỏ học nhập ngũ, đăng vào ngành Không quân của Bộ binh để học bay. Chiến tranh bùng nổ, Thiếu Úy Cox được điều qua Âu châu lái máy bay phóng pháo B-17 oanh tạc lục địa Đức và vùng Pháp bị Đức chiếm. Tháng Ba năm 1943 máy bay anh bị bắn cháy, anh liều chết lái máy bay đáp xuống đất Anh. Năm trong 10 phi hành đoàn tử thương. Thiếu úy Cox được ban thưởng Huy chương Bay Danh dự (Distinguished Flying Cross) một huy chương cao quý nhất trong ngành bay của quân đội Hoa Kỳ. Tháng 7 năm đó phi cơ anh bị bắn hạ trong vùng Đông Nam nước Đức. Thiếu úy Cox bị bắt khi dù vừa chạm đất. Anh bị giam tại trại Stalag Luft II, một trại tù dành cho sĩ quan Không quân đồng minh. Tại đây phòng trại tươm tất và ăn uống đầy đủ. Tù nhân có đủ thì giờ chơi thể thao, ca hát và hoạt động văn nghệ. Một số sĩ quan lợi dụng sự dễ dãi của trại bí mật đào hầm trốn trại. Vụ trốn trại năm 1944, có 76 tù nhân tham dự. Giám đốc trại ra lệnh biệt giam tất cả tù còn lại. Một Đại Tá Mỹ phản đối (cho là trái với quy ước Geneva về tù binh) bị viên sĩ quan giám trại bắn chết tại chỗ. Trong số 76 người đi trốn, chỉ thoát 3 người. 73 sĩ quan bị bắt lại. Đích thân Hitler ra lệnh xử bắn 50 sĩ quan chủ chốt bằng súng liên thanh . Qua năm 1945 tình hình chiến tranh diễn biến thuận lợi. Phòng tuyến Âu châu xích dần về phía Đông mang đến một không khí lạc quan trong trại . Thình lình khuya ngày 27 tháng Giêng năm 1945, giữa mùa Đông đầy tuyết và lạnh giá trưởng toán thông báo các tù binh phải sẵn sàng hành trang để chuyển trại trong vòng nửa giờ. Toán sĩ quan Không quân và hơn 10.000 tù binh khác bị buộc đi bộ suốt đêm hôm đó và 2 ngày kế tiếp. Ai không đi nổi bị bắn hoặc bỏ chết trên băng tuyết. Sau đó đoàn tù được xe chở như súc vật trong 2 ngày đêm nửa đến trại Stalag VII-A cạnh thành phố Moonsburg trong tỉnh Bavarian. Trại có khả năng giam 10.000 tù nhân, thì hiện có 80.000 sống chen chúc trong các khu nhà tiền chế và lều vải dơ bẩn. Sau 2 tháng ở trại VII-A, Thiếu úy Cox – dù mới 26 tuổi – mất sức dần và nếu không có gì bổ dưỡng chắc anh sẽ bỏ mình trong trại giam. Nhìn hai thỏi kẹo chocolat bên kia hàng rào dây kẽm gai anh biết đó là vật cứu sống mình. Vừa tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay anh nghĩ đến Hilda và tất cả tình thương bố mẹ gởi gắm nơi chiếc nhẫn khi tiễn anh đi rồi chìa chiếc nhẫn qua cho người tù binh Ý. ** Con trai đầu của Cox, David C. Cox Jr., làm nghề bán dụng cụ y khoa năm nay 68
tuổi thuật lại: “Chiến tranh chấm dứt, ở tù về Ba tôi thuê làm một chiếc nhẫn
khác giống như chiếc nhẫn gốc để đeo, và mỗi khi kể chuyện tù cho con cái nghe
ông không quên nhắc đến chuyện chiếc nhẫn đổi kẹo chocolat , đồng thời mân mê
tháo nhẫn ra ướm lỏng lẻo vào ngón tay của chúng tôi và cười một cách thoải
mái. Ông nói, chưa bao giờ ông thấy kẹo chocolat ngon như hôm đó. Để cho kẹo
tan trên lưỡi, nuốt dần vào cuống họng, chất ngọt đi đến đâu mình biết đến đó
thật là kỳ diệu.”
Tháng Tư năm 1945, Sư đoàn 14 thiết giáp của tướng George Patton chiếm trại tù VII-A. Thiếu úy Cox trở về North Carolina đoàn tụ với Hilda và 10 tháng sau Cox Jr. ra đời. Sau Cox Jr. có thêm em trai, Brad và một em gái, Joy. Sau khi giải ngũ Thiếu Úy Cox cùng với một người anh mở dịch vụ đắp bánh xe cũ và trở nên giàu có. Cox Sr. mua nhà tậu xe, sống thoải mái, nhà không khi nào vắng bóng bạn bè, party, yến tiệc . Bề ngoài Cox Sr. có vẻ thoải mái, nhưng không ai biết ông mang tâm bệnh do những phi vụ bỏ bom và những năm tháng tù đày căng thẳng, một chứng bệnh bây giờ gọi là bệnh “Loạn tâm thần do áp lực tinh thần” (Post-traumatic Stress Disorder- PTSD,) hồi đó y khoa chưa xác định bệnh trạng . Mấy người con không biết cha bị bệnh chỉ biết ông càng ngày càng khó tính không chịu được. Buổi sáng nhại lính Đức canh tù ông rang rảng đánh thức các con dậy bằng cách hét vào tai chúng Raus, Raus (tiếng Đức Raus là dậy, dậy). Trong buổi cơm chiều nếu con hay vợ quên dùng ruột bánh mì vét dĩa cho sạch là ông đem chuyện đói trong tù ra giảng luân lý cho cả nhà nghe giờ này qua giờ khác. Sau giờ làm việc ông ngồi nơi phòng khách, trầm ngâm uống rượu, điếu thuốc không rời khỏi môi. Bà Hilda dặn các con đừng sinh chuyện gì trong những lúc đó. Một lỗi nhỏ là cớ để ông la mắng suốt buổi. Sau khi bác sĩ phát hiện bà Hilda bị bệnh khó thở (emphysema), ông Cox vẫn hút thuốc nhả khói đầy nhà làm cho quan hệ vợ chồng giữa ông bà trở nên lạnh nhạt dần. Ông nói: “Bà ấy bệnh chứ tôi có bệnh đâu mà bảo tôi phải bỏ thuốc lá.” Ở sở ông Cox sinh sự với nhân viên đến độ anh ông phải chia phần hùn và bảo ông nghỉ việc. Ông Cox đầu tư vào kinh doanh khác, nhưng thất bại và gia đình trở nên túng bấn. Đầu thập niên 1960, khi Cox Jr. vào tuổi 16, 17, bệnh tình ông Cox trở nên nặng. Ông uống rượu nhiều hơn, nếu không la mắng vợ con thì ông ngồi yên miệng lẩm bẩm về những phi vụ bỏ bom xuống những người dân vô tội. Năm 1984 bà Hilda qua đời, Ông Cox đưa chiếc nhẫn giả cho Cox Jr đeo. Mỗi khi nhìn chiếc nhẫn lỏng lẻo nơi ngón tay, David Jr. vừa tự hào vừa buồn vì cha. Năm 1993 bác sĩ xác định ông Cox bị “bệnh lú lẫn” (dementia) và David đưa cha vào một khu giúp nuôi người bệnh (***isted-living facility) tại thành phố Raleigh. Năm sau ông Cox 75 tuổi bị đột quỵ qua đời. ** Mười chín năm sau Mark Turner và vợ Mindy ở Kansas dọn gia đình qua định cư ở
Hohenburg, một khu phố nhỏ ở thành phố Ansbach, Đức quốc. Mark Turner, 45 tuổi
vừa được nhận làm kiểm soát viên không lưu tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ ở
Ansbach. Cạnh nhà là hai vợ chồng người Nam Tư, quốc tịch Đức. Martin Kiss là
họa sĩ chuyên vẽ hình nhà thờ và có một khu triễn lãm tác phẩm trong nhà. Ông
Kiss tuổi quá lục tuần, tính tình cởi mở, đẹp lão và cặp vợ chồng Martin,
Regina rất hiếu khách.
Một buổi tối tháng Bảy
năm 2013, vợ chồng ông Kiss mời vợ chồng ông bà Turner dùng cơm tối và xem
phòng triễn lãm tranh. Sau bữa cơm trang nhã ngon miệng, ông Kiss hướng dẫn
khách xem tranh. Tranh gồm nhiều hình Chúa hy sinh trên cây thánh giá làm bằng gỗ
và thạch cao, hình lịch sử truyền giáo tại Âu châu qua các thời kỳ hưng phế, và
tranh họa các nhân vật tôn giáo. Trước khi tiễn khách ra về, ông Kiss vào phòng mang ra một hộp plastic nhỏ và
nói với ông bà Turner : “Tôi có vật này muốn ông bà xem cho biết.” Ông Kiss mở
hộp lấy ra một chiếc nhẫn bằng vàng, trên có chạm hình một chiếc máy bay cánh quạt,
một con ó và mấy chữ Anh. Ông Kiss kể chuyện rằng, ông sinh ra và lớn lên tại
Nam Tư dưới chế độ cộng sản. Ông bà nội ông có một khách sạn nhỏ bên bờ sông
Danube và sau đó để lại cho bố mẹ ông trông coi. Năm 1971 ông di cư sang Tây
Đức hành nghề họa sĩ. Trước khi đi, bà nội cho ông chiếc nhẫn này nói là của
một người lính Nga thế tiền thuê phòng khách sạn của bà trước khi về nước. Bà
nội ông nói chiếc nhẫn có thể mang lại may mắn cho ông. Nếu không qua Đức bán
đi cũng có ít Đức Mark mà xài.
Thời gian đầu ông Kiss đeo chiếc nhẫn để cầu may như lời bà nội. Sau đó ông tháo cất đi sợ nghề vẽ của ông làm dơ chiếc nhẫn. Ông vẫn thắc mắc về gốc gác của chiếc nhẫn. Trên nhẫn có ghi dòng chữ “Mother & Father to Davis C. Cox Greensboro, NC. 10-4-18-42” nên ông đề chừng rằng nó là của một quân nhân Mỹ. Ông Kiss nói với Mark Turner: “Ông có thể giúp tôi tìm ra chủ của chiếc nhẫn hay ít nhất là thân nhân của ông ta không ?” Ông Turner hứa sẽ làm. Vào Google trên máy điện toán, Mark Turner tìm thấy một luận án cao học của ông Norwood McDowell viết về hành động anh hùng của một phi đội do Thiếu úy Cox chỉ huy trong thế chiến 2, trong đó vỏn vẹn có 4 dòng nói về chiếc nhẫn và hai thỏi kẹo chocolat . Mark Turner E-mail hỏi ông McDowell có biết ông David C. Cox hiện ở đâu không và ông McDowell cho biết ông là con rễ của David Jr. con trai của Thiếu úy Cox trong luận án, và nói luận án của ông dựa vào cuốn nhật ký chiến tranh của David Cox cha để lại sau khi qua đời. Mark E-mail cho David Cox Jr. kể tự sự chiếc nhẫn ông đang có trong tay. Cox Jr. thuật lại rằng, “đọc mail tôi thấy lạnh người, tưởng là mộng mị. Tôi không tin mắt mình.” Để kiểm chứng hai bên E-mail qua lại trao đổi hình của chiếc nhẫn thật và chiếc nhẫn giả. David Jr. giải thích các con số chạm trên chiếc nhẫn là ngày sinh của cha và năm ông ấy nhận chiếc nhẫn. Thiếu úy Cox sinh ngày 4 tháng 10 năm 1918. Trong một mail khác David Jr. gởi ông Kiss xin nhận lại chiếc nhẫn và bồi hoàn theo thời giá. Ông Kiss từ chối không nhận tiền bồi hoàn kể cả lệ phí bưu điện. Hai tuần sau, ngày 16/8/2013 David Jr nhận được chiếc nhẫn trong một chiếc hộp. Ngày mở hộp David Jr gọi đủ vợ con, gia đình em gái gồm Joy, chồng, 3 con và ba nhà báo. Người em trai đã chết năm 1999 vì chứng nghiện rượu. Ông run run kéo chiếc nhẫn ra khỏi lớp giấy bọc sau cùng, trong khi em gái ông kêu lên “đẹp và kỳ diệu quá!” qua nước mắt. David nói: “Cha tôi thấy chiếc nhẫn này lần cuối cùng khi trao nó qua hàng rào giây kẽm gai. Phải chi ông còn sống để thấy nó trở về như chuyện trong mơ!” David chưng hai chiếc nhẫn thật và giả trong tủ kính nơi phòng khách. Thỉnh thoảng ông mang ra cho bạn bè thân thiết xem và nói ông sẽ giữ nó cho con cháu như bằng chứng của một phép lạ. David tâm nguyện khi điều kiện cho phép ông sẽ sang Đức thăm hai cặp vợ chồng tốt bụng Mark-Mindy và Martin-Regina. Ông nói món quà tôi sẽ mang theo là kẹo chocolat. Trần Bình Nam phóng thuật Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Hôm nay lúc 1:24am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 20567 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện Một Người Con Gái Tên..Dù đã gần tám bó, mắt mờ, gối mỏi, tôi vẫn không quên được người
con gái ấy. Phải nói là không thể. Nàng đẹp, đương nhiên, mà giá như không đẹp,
tôi cũng vẫn cứ yêu nàng. Nàng sinh ra là để được yêu.
Một người con gái có mái tóc phương đông đà đuột, có đôi mắt ướt
át như cánh đồng sau cơn mưa, có giọng nói nũng nịu nồng nàn, cứ mở miệng ra là
“xời ơi, anh Hai, anh Hai” ngọt xớt như đường phèn, bảo sao mà không yêu cho được.
Nàng là hiện thân của tuổi trẻ yêu đời, lúc nào cũng vui tươi
nhí nhảnh. Nàng có một sức hút kỳ diệu, trông thấy là không thể không yêu.
Đã có những ngày chúng tôi tay trong tay cùng nhau đi dạo dưới
ánh nắng phương nam rực rỡ. Đã có những đêm, say khướt nằm kề bên nhau chỉ để
chờ sáng, đi tiếp. Nàng mạnh mẽ nhưng dịu dàng. Nàng âu yếm nhưng không lơi lả.
Lúc nào nàng cũng hào sảng ban cho tôi một nụ cười. Chỉ có thế thôi và tôi cũng
cần chỉ có bấy nhiêu, là đủ.
Nàng quá đẹp, mỗi ngày một đẹp hơn, nên lượng sức mình, tôi
không dám và cũng không thể chiếm đoạt nàng làm của riêng. Nàng cũng vậy, không
muốn mình là của riêng ai. Nàng nói: “Xời ơi, lấy chồng sớm làm gì, em mới có
hai mươi tuổi thôi mà!”
Hai mươi tuổi hay bóng bẩy là hai mươi mùa xuân. Ở tuổi này, nhịp
đời đi rất chậm. Nàng vẫn cứ đủng đỉnh dạo bước bên bờ kênh tương lai.
Có ngờ đâu, khi nàng kiêu sa bước vào mùa xuân thứ hai mươi mốt,
đất trời bỗng một phen mù mịt. Và trong cảnh “trong thành ngoài lũy tan hoang”,
nàng bị ép buộc phải lấy một ông chồng già, đúng hơn là một cái xác chưa chôn,
giống như nàng Kiều bị Hồ Tôn Hiến ép gả cho thổ quan.
Có chuyện quái dị như thế vì người ta nghĩ rằng, không thể để một
người đàn ông sống cả một đời dài lừng lẫy mà không kiếm nổi một cô vợ. Cho dù
là một cuộc hôn nhân giả chỉ để làm ra vẻ nghĩa tình với người đã khuất, người
ta vẫn nổi trống, dựng cờ, ca nhạc rình rang suốt cả ngày lẫn đêm. Rồi một sáng
tháng năm, nàng bị áp giải lên xe hoa, từ đó bị thay tên đổi họ.
Và thế là hết, đã hết, một đời người con gái.
Vì cho rằng nàng đã có một thời ăn chơi sa đọa, có hàng tá tình
nhân, nên nhà chồng cư xử rất cay nghiệt. Trước hết, họ xởn cái mái tóc đà đuột
của nàng, đốt bỏ hết áo quần là lượt xưa cũ, cấm nàng hát ca, nhất là những bản
nhạc mà họ cho là ủy mị. Rồi họ bắt nàng phải xắn quần lội xuống bùn để vớt bèo
nuôi heo, tối đến còn phải ngồi bó gối để nghe giảng dạy về nghĩa vụ làm vợ, dù
là vợ góa.
Nàng khổ, chưa bao giờ khổ như thế. Nàng nhục, cũng chưa bao giờ
nhục như thế. Nhưng nàng không gieo mình xuống sông Đồng Nai như nàng Kiều.
Nàng cố nhẫn nhục chịu đựng để mà sống.
Trông thấy nàng tóc tai bơ phờ, xanh xao đói khát, tôi xót xa lắm.
Nhưng cũng chẳng biết làm cách nào để cứu giúp nàng, vì tôi cũng đang đói rách,
còn hơn cả nàng.
Thế rồi, tôi bị cấm tới gần vì cái tội đã có một thời dám yêu
nàng. Tôi bị quẳng vào rừng núi để sống đời hoang dã. Dễ chừng từ đó đến nay,
đã bốn mươi năm. Tôi thì tóc đã bạc, nàng cũng chẳng còn trẻ trung gì.
Hôm vừa rồi, nhân sự cấm cản lơi lỏng, tôi đánh bạo xuống núi
tìm gặp lại nàng. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Nàng quá khác xa ngày ấy.
Không còn là một người con gái phương Nam thon thả, đôn hậu, mà là gì nhỉ, khó
nói quá. Nửa giống như bà phán Cảnh của Vũ Trọng Phụng, nửa giống như Tú Bà của
Nguyễn Du.
Thật đấy, bây giờ nàng ô dề, lưng to như cánh phản và đúng là nhờn
nhợt màu da, cao lớn rất đẫy đà. Tóc nàng nhuộm đủ màu kiểu Đại Hàn, mũi đương
nhiên là gọt sửa. Nhưng cái điều kinh khủng nhất khiến tôi phải ngộp thở là
nàng bơm ngực và bơm mông, trông cứ như con voi bằng cao su trong truyện của
nhà văn khôi hài đen người Ba lan.
Thì thôi, cũng đành một nhẽ, đàn bà ai chẳng muốn nhờ dao kéo
làm đẹp. Cái thay đổi về thể xác tuy vậy cũng không đáng buồn bằng thay đổi của
tâm hồn. Hóa ra là, sau một cơn bàng hoàng đến điên đảo vì lấy phải một ông chồng
già đã chết, nàng bỗng nhận ra trong cái rủi lại có cái may: vì trong đêm động
phòng hoa chúc nàng ngủ thẳng một mạch tới sáng, chẳng một ai động đến cái ngàn
vàng của riêng nàng. Lấy chồng mà vẫn còn gin, lại thêm nhờ tai tiếng, à không,
nhờ danh tiếng của chồng, nàng đủ thông minh để bước lên ngôi vị của một bậc
phu nhân mệnh phụ. Giờ đây, tuy xộc xệch xấu xí, nhưng miệng nàng là miệng nhà
quan có gang có thép, hô một tiếng có cả trăm đứa dạ rân.
Đương nhiên, nàng chẳng thèm nhìn mặt tôi. Nàng chỉ tiếp những
khách đã được chọn lọc và lên lịch trước cả tuần. Ưu tiên số một là khách ngoại
quốc, những Mỹ, Nhật, Pháp, Anh…những kẻ chẳng những vào trong phong nhã ra
ngoài hào hoa mà còn quen thói bốc rời, trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Những lúc ấy, ngộ nghĩnh thay mà cũng đau đớn thay, nàng õng ẹo như một mụ đĩ
già để… xin tiền!
Tiền! Tiền!, giờ nàng chỉ biết có tiền!
Ngày xưa, bạn cũng đâu có ngờ phải không, nàng chính là người
con gái đã nhiều phen làm bạn chết mê chết mệt đấy, có tên gọi dễ thương, là
Sài Gòn! ( bỏ thành . . . ?)
Khuất Đẩu * những chữ in nghiêng, mượn tạm của Nguyễn Du, ai cũng biết.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 146 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |