Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG | |
<< phần trước Trang of 153 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 28/Apr/2016 lúc 1:52pm |
Nếu có một ngày “Nếu có một ngày ta xa nhau có vầng trăng làm chứng ….. “ Tiếng hát của ca sỹ Đức Huy vang lên trong cái loa trên chiếc xe đò liên tỉnh , ông tài xế già vừa cầm lái vậy mà ông cũng lắc lư theo điệu nhạc, anh lơ xe đứng cạnh cánh cửa xe chân nhịp nhịp và miệng hát khe khẻ theo chàng ca sỹ này, bản nhạc ” Người tình trăm năm” Hoàng nghe không biết bao lần mỗi khi có Show tại California nơi chàng trú ngụ, vậy mà hôm nay trên chuyến xe đò này bản nhạc đã làm Hoàng phấn khích vô cùng vì nó hợp với tâm trạng của mình . Vừa bước xuống chiếc xe chạy suốt từ Sài gòn về đến bến xe của tỉnh nọ ở miền Tây, đang loay hoay với cái valy hành lý cùng cái ba lô đeo trên lưng bổng Hoàng nghe tiếng gọi : – Anh Hoàng phải không? Em là thằng Tám em của chị Hai Lành nè, anh đưa đồ đây em chất lên xe rồi em đưa anh về nhà. Nhìn chàng thanh niên chạy xe đạp lôi người đen nhánh, rắn rỏi khỏe mạnh, Hoàng cũng nhận ra nên vui vẻ lên tiếng : – Trời ! Tám hả em , bây giờ lớn bộn nghe bây, mần ăn lúc này ra sao, chạy xe có khá không?mà vợ con gì chưa Tám. Vừa chất cái valy lên thùng xe đạp lôi Tám vừa trả lời: – Chèn ơi Lúc này làm ăn bết lắm anh Hoàng ơi, em mới lấy vợ năm rồi, Út đẹt vợ em hồi nhỏ nó thường chơi lò cò trước sân nhà của ba anh với mấy đứa trong xóm anh nhớ không? Nghe thằng Tám nói vậy Hoàng liền lục tung lại kỷ niệm ngày xưa vẫn còn ghi dấu trong đầu, Út Đẹt con nhỏ đen đúa ốm nhom thường hay xin Hoàng cho leo lên cây mận trước nhà để hái mấy trái mận chín đỏ trên cành , Hoàng nhớ nhất là con bé này nó có biệt tài bơi lội, đám trai gái trong xóm hay gọi nó là ” Út rái cá”, nhưng do Út nhỏ con nên về sau bọn nhóc lại cãi danh nó thành “Út đẹt” kêu riết thành quen chết danh cho đến giờ. Hoàng lên tiếng đáp lại: -Ai chứ Út đẹt có lạ gì với anh đâu, con nhỏ đó tuy nó hơn đen đúa một chút nhưng anh thấy nó ăn nói lễ phép và có duyên lắm đó . Nghe Hoàng khen vợ mình khiến thằng Tám khoái chí nó gò lưng nhấn bàn đạp đưa chiếc xe lôi lao vút trên đường, xe lên khỏi cái dốc thằng Tám đưa tay quẹt mồ hôi trên trán vừa hỏi: -Ủa mà anh Hoàng lúc này làm gì và ở đâu, anh đi biền biệt chẳng tin tức gì làm cái đám con nít tụi em nhớ lắm . Không trả lời câu hỏi của thằng Tám, Hoàng lái câu chuyện sang hướng khác: – Chú Thím bên nhà khỏe hết hả Tám, lâu rồi không gặp có khi bây giờ anh nhìn không ra, à còn chị Hai của Tám bây giờ ra sao? Chị Hai có …. Hoàng bỏ dở câu hỏi giữa chừng khiến thằng Tám thắc mắc hỏi vặn lại: -Chị Hai có gì là có gì, sao anh không nói cho rõ em mới biết đường trả lời chứ. Hoàng chưa kịp nói, Tám đã nhanh nhẩu nói: -Em hiểu rồi, anh muốn hỏi chị Hai đã lập gia đình chưa chứ gì ? -Buồn lắm anh Hai ơi, ý em lộn vì em coi anh Hoàng như anh Hai của em lâu rồi, chị Hai nhất quyết ở vậy chứ không thiết tha gì chuyện chồng con. Nghe thằng em rể hụt cho biết sự tình trên, bổng dưng Hoàng thấy bồn chồn trong lòng, một lúc sau Hoàng mới lên tiếng : -Sao kỳ vậy Tám . Nghe câu hỏi của Hoàng, Tám ngoái lại nhìn anh rồi đáp: – Chuyện khá dài lắm anh, thôi hẳn còn sớm, em ghé cái quán phía trước anh em mình lai rai ba sợi rồi em sẽ kể cho anh nghe. Quán đang vắng khách, thấy thằng Tám và người khách lạ bước vào thì bà chủ chạy ra đon đả mời chào: – Dạ mời hai chú vô quán tui nghỉ chân, quán tui đủ món nhậu ngon lắm nhe hai chú. Chừng nhìn kỹ lại thấy khách quen, bà Năm Hợi chủ quán bèn nói tiếp: – Chèn ơi, thằng Tám hả bây, nãy giờ bà tưởng ai không hà, dô nhậu đi con, Năm cho con “Gô sĩ” ý tao nói lộn, nói láy cà rỡn riết nó quen cái tật luôn, ý là cho bây ghi sổ nợ bữa nào có tiền ghé trả. Rồi bà thấy ông khách theo thằng Tám vô quán bà Năm hỏi: -Chẳng biết chú Hai này ở đâu, sao tui thấy chú quen quen đó nghe, chà lúc này già rồi đầu óc nhớ trước quên sau, à tui nhớ ra rồi , thằng Hoàng con anh Chị Bảy nhà phía cầu Rạch lá phải không? Lúc này Hoàng mới lên tiếng : -Ai nói bà Năm già đâu, bà Năm nhớ còn hơn ông Nguyễn Bĩnh Khiêm ngày xưa nữa đó , cũng gần chục năm rồi con mới về đây, bà năm Mạnh giỏi hả. Sau màn chào hỏi , bà Năm chỉ tay về phía bên hông quán bà nói: -Tám con , bây dẫn anh Hoàng bây qua đó ngồi đi rồi ăn uống gì Năm làm cho: Hai anh em lựa cái bàn thấp lè tè chổ bà tám mới nói, có lẽ thằng Tám chọn chổ này vì nó nằm dưới tàn cây rậm rạp mát rượi, hơn nữa lại nằm sát trên bờ con rạch chảy ngang qua nên là nơi lý tưởng để hai anh em lâu ngày có dịp hàn huyên tâm sự, thấy tấm cạc tông có ghi chữ gì đó đễ trên bàn , Tám cầm lên khẻ đọc: Menu ( Thực đơn) -Cha lúc rày bà Năm tiến bộ dữ à nghe quán có tờ ( Mơ nu) song ngữ nữa hả, bộ mấy ông khách ngoại quốc hay vô quán năm lắm phải hông, hèn chi cho “gô sĩ” thoải mái là con biết gồi. Nghe thằng Tám nói vậy bà Năm cười khanh khách, bà nói : – Cái khỉ khô họ, năm thuở mười thì mới có một ” Con Nhạn là đà” đáp dô chứ có ai đâu, nói nào ngay cũng nhờ đám bạn chạy xe đò chung với cha nội “Ba cà giật” tới ủng hộ thường xuyên nên Năm cũng có dư chút đỉnh, Năm biết bây cũng khoái nhậu mà túi thì xẹp lép nên Năm chiếu cố đó thôi, chứ người khác thì ” hổng dám đâu”, bán chịu cho họ cụt vốn như chơi con ơi. Gọi vài món cùng xị rượu đế, Hòang và Tám vừa uống vừa trò chuyện: – Sao rồi, Tám kể anh nghe vụ chị Hai cho anh nghe đi. Thấy Hoàng nôn nóng muốn biết hoàn cảnh của chị mình, trong đầu nó tự hỏi : ” Anh Hoàng có khi nào ổng còn thương chị Hai hông dậy cà, thử “Phổi” ổng một chuyến mới được. -Từ lúc anh trốn nhà ra đi đến giờ, anh không thư từ nhắn nhủ gì cho chị Hai, thời gian đầu chị nhớ anh đến bỏ ăn bỏ ngủ, tía em phải nhờ bà thầy thuốc nam bổ cho mấy thang thuốc uống cho lại sức, trời cũng còn thương vì sau cơn bạo bệnh chị lấy lại tinh thần nên chị quen với anh Giáo dạy học ở xóm bên kia sông, tình cảm cũng khắng khít lắm anh ạ, ác một cái tuổi của hai người không hạp lắm, bà thầy bói trên chợ nói hai người mà lấy nhau thì khó bề ăn đời ở kiếp. Nói đến đây Tám tự rót cho mình ly rượu , nó nốc một cái ngon ơ vào bụng rồi làm bộ lờ đờ đôi mắt nhìn để dò xét thái độ của Hoàng . Công nhận thằng Tám học hành không cao, nhưng nhờ nó lăn lộn trên trường đời có kinh nghiệm sống nên nó rành tâm lí của người đối diện, nó bắt đúng mạch ông anh rể hụt của mình khiến cho Hoàng bẽ bàng sau câu chuyện nó vừa kể ra, thấy Hoàng xụi lơ như “Cua mất càng”, Tám liền tố thêm: -Anh biết sao không, rốt cuộc “Trời cao có mắt” , má em thấy chị Hai buồn cho số phận tình duyên mình hẩm hiu, vì chị nói với má chị xuống tóc lên núi Tà lơn theo thầy nương theo cửa Phật, má em an ủi chị và nhờ ông thầy khác cao tay ấn hơn để hóa giải sung khắc tuổi của chị với anh Giáo , năm sau chừng ra giêng họ sẽ mần đám cưới. Liếc nhìn gương mặt của Hoàng như những người vừa bị “giật hụi” thằng Tám nó hả hê và thật mắc cười, nó cắn môi lại cố kiềm chặt lại, chút xíu nữa thôi là trò diễn của nó sẽ bại lộ thì coi như ” Dã tràng xe cát biển đông”. Hoàng bưng ly rượu lên, anh ta uống trong đau khổ vô cùng , cũng rượu trong chai rót ra mới vừa lúc nãy sao nó “ngọt ngào” vô cùng vì đã lâu cái cay nồng của rượu nàng hương chánh gốc làm anh ấm lòng sau bao ngày xa quê hương, giờ đây sau khi nghe thằng Tám kể lại sự tình thì cũng rượu kia sao tự dưng hóa thành ” chén đắng”. Ngà ngà men rượu, Hoàng bắt đầu tâm sự nỗi lòng bấy lâu nay cho thằng Tám nghe, đại ý là trước đây khi biết anh yêu cô Hai Lành chị của Tám, ba má Hoàng không ưng, họ buộc anh phải cưới cô Liễu xóm đò ngang vì hai gia đình hứa hôn từ lâu, cô Liễu cũng đẹp người đẹp nết , nhưng Hoàng đã đem lòng thương yêu Lành, hai người thề non hẹn biển nếu vì lẽ gì mà không cùng nhau đi đến cuối cuộc đời thì hai người nguyện cùng nhau ở vậy cho đến ngày nói lời từ biệt trần gian, Anh nói với thằng Tám : -Anh vẫn một lòng với chị em, nơi anh ở bên kia cũng vài người mối lái cho anh vài cô nhưng anh nặng lòng với Lành anh không màng đến họ , có bà ác miệng nói anh là Gay, em biết mấy bả ám chỉ anh là gì không, nói theo ngôn ngữ bình dân họ cho anh là Pê đê tức là bà bóng đó Tám ơi, ai đời con gái trẻ đẹp hơ hớ vậy mà không muốn thì Pê đê là cái chắc, anh mặc cho họ đàm tiếu, anh chờ đến hôm nay , vậy mà…vậy mà .. Nốc thêm ly nữa vào miệng, nồng độ của đế Gò đen bắt đầu phà huy tác dụng, Hoành xây xẩm mặt với gương mặt đỏ như gấc, ngồi lâu sợ Hoàng lật gọng tại chổ nên Tám lật đật kêu bà Tám ra tính tiền: -Hết thảy hai trăm ba chục ngàn, ủa không thiếu hả con, hôm nay bây dô mánh phải không? Thôi dậy cũng mừng cho bây , thời buổi này khó khăn lắm kiếm ra đồng tiền cũng “Trần ai khoai củ” chứ chẳng chơi, dìa cho bà Năm gửi lời thăm tía má bây mạnh giỏi nghe. Định móc bóp ra lấy tiền, Tám bị Hoàng cản lại rồi anh đưa bà Năm ba mươi đô la và nói : – Cái này dư chút đỉnh con gửi bà Năm luôn nghe, khỏi thối lại con. Bà Năm cằm tiền đút vào túi áo bà ba rồi bà nói : -Nãy giờ Năm nghe hết câu chuyện hai đứa bây kể, con Hai Lành con đó tao chấm nó lâu rồi, đứa nào mà rước nó về là phước ba đời, thôi Năm khuyên thằng Hoàng nè , bây nhờ Tám nó dìa dọ ý coi con Hai nó còn nhớ bây không , biết đâu duyên số bây phải hưởng chứ chẳng phải thằng Giáo, nếu không phải nhân duyên trời định thì hai đứa nó ráp đại dô rồi làm gì chờ đến bây giờ con ơi. Nghe thấy tiếng gợi ý của Bà Năm “vẽ
đường cho Hươu chạy” thật có lý , tự dưng Hoàng lấy lại tinh thần không
còn ủ rũ như khi nãy, Hoàng cảm ơn và từ giả bà Năm rồi hai anh em khập
khiễng dìu nhau ra xe để về Tiếng bà Bảy má của Hoàng càm ràm như vậy, dù hơi phật ý nhưng bà cũng gọi người giúp việc pha trà nóng và nước chanh cho Hoàng uống để tĩnh rượu… Cơm nước chiều xong, Hoàng xin phép gia đình đi lòng vòng trong xóm để ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu, bà Bảy kêu người nhà đi theo để có chuyện gì thì giúp Hoàng, bà sợ con bà lâu ngày lạ nước lạ cái thì khó cho nhiều việc, Hoàng gạt phăng ý đó anh ta nói: – Má ơi con nửa đời người rồi, đâu còn nhỏ như hồi đó đâu mà má cứ cho người theo giữ chằng chằng, cứ để con thoải mái đi má Nghe Hoàng nói cứng bà Bảy cũng đành
xiêu lòng, vì trong mắt bà, thằng Hoàng con mình nó vẫn còn thơ dại như
trong ý nghỉ của bà . Bước lên cầu Hoàng tựa lưng vào lan
can nhìn xuống dòng sông bên kia chàng thấy xa xa những chiếc thuyền
chài đi chài lưới đặt lờ trong đêm, ánh đèn leo loét trên thuyền phản
chiếu khiến Hoàng liên tưởng những vì tinh tú xa ngút ngàn đang lập lòe
chiếu sáng trong đêm trường, tiếng ghe đuôi tôm chạy xình xịch dưới kênh
họ đang chuyên chở những sản vật ra chợ Huyện chợ tỉnh để kịp đưa về
Sài gòn trước khi trời sáng, không khí về đêm thật trong lành, Hoàng hít
thật mạnh căng đầy buồng phổi như cố giữ lấy hương vị ngọt ngào của quê
mẹ mà lâu lắm rồi chàng mới có được, đang tận Hưởng cái không khí yên
bình chợt bên kia cầu có dáng người mảnh mai đang đi đến, bằng trực giác
, bằng thị giác , bằng tất cả những kỷ niệm xưa ùa về Hoàng nhận ngay
Hai Lành bằng xương bằng thịt đang đến gần, cái cảm xúc hồi hộp y như
mươi năm trước nó khiến cho tim Hoàng đập loạn xa , ngây ngất trước vẻ
đẹp thánh thiện của người xưa anh đến bên và nắm lấy tay Lành rồi bất
chợt ôm nàng vào lòng với tất cả niềm thương mến, Hai Lành nhanh chóng
gục đỗ trên vai anh, cả hai không ai nói một lời , họ quấn lấy nhau mặc
cho thỉnh thoảng có những chiếc xe chở hàng hóa chạy vụt qua nhanh … -Bây giờ tính sao đây Hoàng, bây làm má muối mặt với nhà con Liễu một cái quá mạng, bây trốn biệt từ đó đến giờ có ma nào dám hỏi cưới gì con nhỏ đâu, tội nghiệp hết sức, đầu trên xóm dưới họ biết tỏng tòng tong nhà mình với nhà nó hứa hôn nhau, vậy mà bây làm bể bạc hết ráo. -Thôi má ơi! Chuyện cả chục năm rồi má nhắc hoài con rêm mình luôn, hồi đó con với Hai Lành thương nhau thật lòng vậy mà ba má cấm cản, còn cô Liễu con chưa một lần nói chuyện mà bắt con ưng làm sao cho được, má à thôi chuyện lỡ làng hết rồi, nếu cần con qua tạ tội với gia đình cô Liễu cho. Ông Bảy đang nghe radio nhưng cũng chú ý đến đối đáp của hai mẹ con Hoàng, chừng đến hồi bất phân thắng bại giữa hai bên ông liền chen vô: -Thôi bà ơi, chuyện đã vậy rồi cố ép cũng không nên cơm nên cháo gì đâu, cái thời của mình khác, thời đám trẻ bây giờ khác, ngày xưa ông bà mình nói “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” , giờ thì tụi nó ” ưng đâu cha mẹ phải theo” , tui thấy cứ để cho con cái tự quyết định chuyện lứa đôi tụi nó là hay nhất, mình xía vô sau này cắn đắng với nhau nó đỗ thừa mình hết bà ơi. Bà Bảy quay ngang phang cho ông Bảy một câu: – Cũng ông không chứ ai, giỗ quải ăn nhậu được rồi, rượu vào lời ra hứng chí hứa hẹn nhau cho đã giờ thì ” lòi chành té bứa” ra chưa biết tội nữa. -Thôi bà , vậy được rồi đó làm hoài coi lố lắm nghe. Vừa đến ngỏ nhà Hoàng , Lành Thấy ông bà Bảy ăn mặc chỉnh chu đợi sẳn, thấy Lành cùng sánh bước vô nhà, bà Bảy đến gần rồi nắm tay Lành bà nói: -Tới rồi, vô đây con gái, má mong con đừng buồn, hôm rồi má có gặp bà Năm quán nhậu bả nói cho má nghe hết mọi chuyện, cái thằng Tám xe lôi nó kể mọi sự tình cho bà Năm nghe về tình yêu hai đứa dành cho nhau, má với tía nghĩ lại và thương con quá, thôi mọi chuyện qua rồi gương vỡ lại lành, để má bàn với anh chị sui tìm ngày lành tháng tốt cho hai con thành chồng vợ. Nghe xong câu nói của bà Bảy, Hoàng quay sang ôm ngang lưng Hai lành và đặt nụ hôn thật sâu lên môi nàng. Chừng nghe tiếng Tám xe lôi vang lên thì hai người mới bừng tĩnh bẻn lẻn nhìn nhau : -Hahaha. Anh Hai bị thằng Tám này “Thuốc” mà vẫn bình yên hay thật ta. Hoàng giơ nắm tay lên hướng về Tám xe lôi rồi nói: – Nhờ “Thuốc” của chú em anh và chị mới đoàn tụ hôm nay, xong vụ này cho chú số vốn nho nhỏ mở đại lý thức ăn gia súc buôn bán cho khỏe khỏi đạp xe chi cho cực. Bà Bảy vỗ tay rồi nói : -Bây tính dậy được đó , má ủng hộ Rồi bà Bảy quay sang hỏi chồng: – Ý ông làm sao . – Bà nói gì ” áo ông làm si” hả , bà sao tui dậy bà ơi , đồng dợ đồng chồng tác biển đông cũng cạn mà bà. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 28/Apr/2016 lúc 2:45pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 30/Apr/2016 lúc 8:58pm |
ĐỢI CHỜChải lại mái tóc đen mun bóng láng đôi ba lần vậy mà thằng Luận vẫn chưa vừa ý, nó quẹt ngón tay vô hủ “Bi lăn tin” lấy ra một ít rồi xoa đều trên đôi tay, hắn lại vuốt lên mái tóc khiến cho tóc của nó láng cón làm cho tôi có cái suy nghĩ : ” Gặp lại bạn cũ thôi mà, tại sao thằng quỷ này làm như đi ăn tiệc ở nhà hàng vậy ta” Gần ba mươi phút trôi qua hắn vẫn chưa rời khỏi tấm kiếng lớn trước mặt, hết săm soi mái tóc, cái áo, cà vạt rồi đến đôi giày, nó lấy hộp “Xi ra” tân trang lại đôi giày trông thật láng cón, cuối cùng dường như không còn thấy khiếm khuyết nào nữa thì nó mới đưa mắt nhìn tôi và hỏi: -Ông thấy vầy được chưa? Gặp lại nàng phải chưng diện một chút chứ ăn mặc lôi thôi thì kỳ lắm. Nghe thằng Luận hỏi tôi mới biết, thì ra hôm nay hắn rủ rê tôi đi gặp nhỏ Hương là người trong mộng của hắn lúc trước, hắn đã thầm thương trộm nhớ cô nàng mà chưa một lần thổ lộ, những lần chạm mặt trong lớp, hoặc dưới sân trường hắn không dám nhìn thẳng vào đôi mắt bồ câu đẹp long lanh của Hương, thảo nào hôm nay đã bao năm dài xa cách hắn cố chưng diện để thu Hút cái nhìn của Hương, lúc này khiến tôi liên tưởng đến cách kêu gọi bạn tình của một số loài chim, lủ chim cũng chải chuốt lông cánh rồi phô diễn những điệu múa lạ kỳ để chim mái chú ý khi đi tìm bạn tình, không muốn thằng Luận cục hứng tôi ghẹo nó liền: -Tui nói thiệt ông đừng buồn nghe, lần đầu tui mới thấy ông ăn mặc thật đúng model đó, đây là cơ hội cuối cùng để ông ngỏ lời với Nhỏ Hương, ông nhốt “con thỏ” vô chuồng đi, chuyến này ông mà lần lựa nữa thì coi như “rụt tùng” luôn đó nghe chưa. Thằng Luận nhìn tôi với đôi mắt như van nài, nó nói : -Tui biết rồi, không biết bao năm trời học chung trước kia, theo ông nhỏ Hương biết tui thích cô ta không? Mà nè ông Trí , xíu nữa gặp nàng ông nói phụ vô giúp tui, sao tui run quá chừng tim đập liên hồi mệt lắm. Thấy thằng Luận chưa chịu buông bỏ cái tính nhát như thỏ đế, ai đời nói lên tiếng lòng của mình với người mình yêu mến mà không dám mở lời, đã vậy nó nhờ tôi làm ông mai bất đắc dĩ cho mối lương duyên này, nếu suôn sẻ thì không có gì để nói, còn như sự việc không như ý muốn của nó thì chẳng những sẽ làm cho nó buồn mà tôi cũng bị ” quê cơ” vì không có cái lưỡi như “Tô Tần” đễ thuyết phục được nhỏ Hương xiêu lòng với bạn tôi, tôi bèn nói với thằng Luận: -Tui thấy ông giống tâm trạng mấy bản nhạc Bolero sầu não quá, có bài họ diễn tả anh chàng nọ yêu mà không dám ngỏ lời, để rồi khi “ván đã đóng thuyền” nàng ta hẹn chàng kiếp sau, nghe mà buồn não nuột, thôi được rồi tui chìu ông chuyến này thôi nghe, ba cái vụ làm mai này tui ớn lắm rồi . Nghe tôi “phán” câu trên, thằng Luận khẻ cười, hắn còn vỗ vai tôi hắn nói: -Tui nhìn người không lầm chút nào, chỉ có ông là tốt nhất trong đám bạn ngày xưa, cảm ơn ông trước nghe, xong vụ này tui đền ơn ông cái đầu con heo mọi ông tha hồ mà nhậu. Tôi lấy tay thụi nhẹ vô ngực thằng Luận rồi nói: -Ông này, ông làm như tui là “bợm nhậu” không bằng, mà trả công bằng đầu heo mọi coi sao được, chí ít cũng phải nguyên con heo mới xứng đáng công lao của tui. Thằng Luận nó cười trừ sau câu nói của tôi, nó nói thêm: – Trong đời tui chưa thấy ông mai nào đòi hỏi quá đáng như ông mai này hết nghe, thôi được rồi nguyên con heo và kèm theo kết Larue con Cọp luôn ông chịu chưa ? Rồi chừng như chực nhớ đến giờ hẹn, nó thúc giục tôi: – Ông Trí đẩy chiếc xe đạp vào bên hông nhà đi, tui mượn chiếc Honda 67 của cậu Năm tui rồi, họp mặt đông đủ mà đạp cái xe cà tàng của ông đến chắc mấy nàng chẳng thèm nhìn mình đâu. Tôi đáp trả hắn ngay: -Ông nói quá, mấy nàng lớp mình xưa nay đâu ai có cái tánh phân biệt nghèo giàu gì đâu, à tui nhớ rồi duy nhất có bà Minh con ông phó Quận là hay kênh kiệu thôi, chứ mấy nhỏ khác ai cũng dễ thương sống hòa đồng với mọi người, nhưng những năm về cuối sắp chia tay, bà Minh cũng xuôi theo đám mình vì bả nhận ra làm “Tiểu thơ đài cát” hoài nên không ai thích giao du với bả ông nhớ không ? Nghe nhắc lại chuyện ngày xưa, tự dưng thằng Luận hứng chí nó bèn “góp vốn” thêm vào: – Nhắc tới bà Minh tui mới nhớ, cái hôm đầu tiên bả chạy chiếc Velosolex vô trường với gương mặt tự đắc, thấy chiếc xe mới cáu ai cũng ngước nhìn khiến cho bả càng làm điệu thêm, vui nhất khi tan trường cô nàng mới đạp có mấy vòng, xe chưa có trớn vậy mà nàng vội đẫy cái cần ra khỏi ngàm khóa máy xe, khiến xe bị khựng lại rồi ngã ngang làm cho bả té “bò càng bò niễng” thấy vậy cả đám cười rần lên, cũng tội nghiệp lúc này gương mặt bả quê một cục, hên cho bả mấy chàng học kế lớp mình chạy đến giúp, ông nhớ không ông Trí ? Tôi khẻ cười và trả lời: – Trời chuyện đó không nhớ mới lạ à nghe ông, trong trường mình chỉ có cô nàng là có “xế nổ” thôi nên ai mà không nhớ, thôi tới giờ rồi đi nhanh kẻo muộn. *** Mùa hạ về khiến cho không khí vùng cao nguyên ngày càng khô khốc, ban ngày trời nóng như thiêu như đốt, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời soi rọi xuống khiến không khí như đặc quánh lại, con đường đất đỏ dẫn vào thị xã tung đầy bụi mù khi thỉnh thoảng có chiếc xe vụt chạy qua, ngồi sau lưng thằng Luận thấy nó lái chiếc xe thật điệu nghệ, bởi những ổ gà chi chít trên đường nếu không khéo thì xe lao xuống các ổ gà này, nếu nhẹ thì ê ê cái bàn tọa, còn nặng nề hơn nữa thì có thể hai đứa tôi sẽ là nhân viên ” Đo đường ” của Ty Công chánh, vậy mà thằng Luận lạng lách thật tài ba, thỉnh thoảng như muốn khoe cái tài này nó ngoái lại và hỏi tôi: – Sao, ông Trí thấy tui lái “Ngọt” ghê chưa, mấy tay yên hùng trên xa lộ ở Sài gòn gặp tui là tui cho ngữi khói hết. Suýt rớt khỏi yên xe chiếc Honda mấy lần, cũng may nhờ tôi bám chặt vào “eo ếch” của thằng Luận, nhưng không muốn mất lòng nên tôi bèn “xạo” với hắn cho hắn vui lòng : – Mình công nhận ông lái xe hay “Tuyệt cú mèo” luôn nghe, gặp mình cầm lái thì hai đứa “Đo ván” từ lâu rồi. Nghe tôi khen xạo khiến hắn tưởng thật nên hứng chí hắn càng chạy theo kiểu ” bạt mạng” làm tôi xanh máu mặt, tôi càng bám víu vào lưng áo hắn, chắc cũng nhờ trời thương nên hai đứa tôi được bình yên khi đến nơi hò hẹn . Quán cà phê có cái bảng hiệu khá lạ lẫm, chủ quán cà phê này không hiểu với mục đích gì mà đặt tên cho quán mình là Cà phê “Đợi Chờ”, trong khi dọc theo con đường này những quán cà phê mang tên thật lãng mạng như: Thạch Thảo, Mây Hồng, Suối mơ.v.v…. Vừa dắt xe vào sân, bà chủ quán cà phê đến bên chúng tôi đon đả mời chào: -Hai chàng trai của tôi đi với ai, có phải người quen của mấy nàng kia không? Hỏi xong bà chỉ tay vào phía bên trong quán, tôi vội đưa mắt nhìn vào thấy ngay ba cô gái đang giơ tay vẫy gọi chúng tôi. Tôi dùng tay ra hiệu báo cho các cô nàng chúng tôi đã nhận ra họ, tôi gật đầu xác nhận với bà chủ quán, thấy vậy bà lên tiếng nói tiếp: – Hai em đưa xe vào phía sau, có người trông coi dùm chị nhé, chúc hai em có một buổi thật vui ở quán chị . *** -Ông Trí đi trước đi tui theo sau, mà ông nhớ nhe, nói phụ vô giúp tôi nhé, nếu thấy chổ nào thuận tiện ông cứ nói chen vô, vì lúc còn ở nhà tui nghĩ nhiều chuyện nói với Hương, vậy mà bây giờ nó bay đi đâu mất. Tôi nhìn thẳng vào mặt thằng Luận, tôi thấy gương mặt nó xanh mét không còn chút máu, tôi phá lên cười rồi làm bộ nói lớn tiếng cố tình cho Hương nghe: -Hôm nay ra mắt bên nhà gái sướng gần chết, vậy mà ông đóng kịch với tui hoài, thôi vô lẹ để mấy người đẹp chờ. Vừa giáp mặt các cô nàng, chưa kịp chào hỏi thì nhỏ Hương đã vội lên tiếng: -Hóa ra hôm nay trùng với ngày ông Luận nhà mình đi hỏi vợ hả ông Trí ? Nghe câu hỏi của Hương tôi cười thầm trong bụng rồi tự nói với mình: ” Bà Hương này trúng kế mình rồi” -Ừa, đúng rồi Hương ơi! Hôm nay là ngày ông Luận hỏi vợ đây, mà ông này cũng lạ nghe bà, con gái người kinh ở thị xã này thiếu gì, tự dưng ổng ưng cô người Thượng, cô ta thuộc tộc người Bana, hay Jarai gì đó, trưa nay nhà ổng lên làng Konjoret xem mắt nàng dâu nè, nhưng gặp bạn bè xưa cũ phải đặt lên hàng đầu, nên nghe mấy bà nhắn nhủ, hai đứa mình bỏ hết mọi việc đến đây đễ hầu chuyện với mấy bà nè. Dường như có chút thoáng buồn hiện lên đôi mắt nhỏ Hương sau khi nghe câu chuyện trên, cố trầm tĩnh Hương cười gượng: – Hi hi hi, lâu ngày không gặp mấy ông, tụi tui tưởng hai ông vợ con đùm đề rồi chứ. Ai dè mãi hôm nay ông Luận mới “Xuất giá”, còn ông Trí có cô nào “Nâng khăn sửa túi” chưa?. Nghe câu chuyện tưởng tượng tôi tạo ra, rồi nghe Hương đối đáp như vậy, sợ vuột cơ hội, tự dưng thằng Luận lên tiếng: -Hương ơi! Bà quên ông Trí là chúa tiếu lâm hả, ổng nói vậy mà bà cũng tin, Bana, Jarai gì đâu ổng ghẹo mấy bà cho vui đó, hôm nay hai đứa được nghĩ phép, qua bạn bè nhắn nhủ nên tranh thủ gặp lại mấy bà hàn huyên tâm sự cho vui. Gương mặt Hương như vui hẳn lên khi nghe chính miệng của Luận nói ra, Hương quay sang làm cho tôi một trận: – Cái ông quỷ Trí này, cái tật cà rỡn không chừa, thôi gọi cà phê đi hôm nay phe tóc dài bao cho hai ông đó. Thấy tình hình có mòi thuận lợi, tôi dò hỏi Các cô nàng về hoàn cảnh sống, nhỏ Huỳnh xem như ván đã đóng thuyền, nàng sẽ lên xe hoa về nhà chồng vào dịp cuối năm, lúc này tôi lại nhớ một vài câu thơ của nhà thơ Hàn mạc Tử trong bài Mùa Xuân Chín, có đoạn như sau: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời. Giờ thì còn lại nhỏ Hương và nhỏ Ngân thì vẫn “phòng không chiếc bóng”, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ: “Sẳn dịp mai mối cho Luận, mình phải tấn công nhỏ ngân luôn, sau này có đi đâu chơi thì đủ cặp đủ cặp”. Cà phê được mang ra mùi thơm bay ngào ngạt, ở vùng biên trấn cao nguyên này loại cà phê hảo hạng do bà con người kinh trồng thành đồn điền,còn lại phần đông người thượng trồng ven đường dẫn vào các buôn làng, đến mùa đơm hoa kết trái, các con đường trắng xóa hoa cà phê nở trên cành, khi đi trên những con đường làng này tôi có cảm giác như đi vào “động thai thai” như “Từ thức đang lạc bước vào cỏi thần thiên”. Những giọt cà phê nâu sánh chầm chậm nhỏ xuống, nóng ruột vì cà phê chảy chậm, tôi đưa tay lấy nắp đậy cái phin ra, dự định khiều nhẹ miếng chặn trong phin lên cho cà phê chảy nhanh một chút, bổng đâu sau lưng tôi bà chủ quán giữ tay tôi lại, bà đậy cái phin cà phê lại như lúc ban đầu, kéo chiếc ghế mây của bàn kế bên bà ngồi xuống và nói: -Chàng trai này nóng vội quá, uống pha cà phê phải nhẫn nại một chút, gấp gáp quá cà phê chưa nở hết không ngon, các bạn biết tại sao chị đặt tên quán là Cà phê “Đợi Chờ” hay không ? Không đợi chúng tôi nêu thắc mắc, chị đã vào câu chuyện, sở dĩ chị có mặt trên vùng đất cao nguyên màu mỡ này là do cơ duyên trong một lần theo người bạn “bỏ phố lên rừng”, để khám phá tình đất tình người nơi đây, lần nọ khi cùng cô bạn thân ngồi nghỉ chân trong một quán cà phê nơi phố núi, không hiểu do “ông tơ bà nguyệt” khéo se duyên hay không mà chị và anh chàng pilot quen rồi thương nhau từ đó, những lần hò hẹn hai người bay về Kontum để chị ra mắt cha mẹ bên người chồng tương lai, những tưởng con thuyền tình của hai người sẽ mãi mãi bên bến bờ hạnh phúc, nhưng định mệnh trớ trêu anh không về với chị trong một phi vụ nơi miền hỏa tuyến , suốt ngày hôm anh “gãy cánh đại bàng” chị ngồi chờ anh trong vô vọng… thế là quán cà phê do chị làm chủ sau này mang tên “Đợi Chờ” với thâm ý anh vẫn còn hiện diện đâu đó trên cỏi đời này, chị vẫn đợi anh, chờ anh trong nỗi cô đơn vô vọng. Chị vừa kể xong câu chuyện tình buồn của mình thì chị xin phép lui vào trong quán, chừng xem lại những phin cà phê đã cạn nước tự bao giờ, lúc này chúng tôi mới thấy cái tài dẫn dắt câu chuyện khiến chúng tôi quên cái chậm chạp của giọt cà phê, chúng tôi bắt đầu mến cái quán cà phê của chị từ đó. * ** *** Một đêm nọ đơn vị chúng tôi bị tấn công với hỏa lực mạnh của đối phương, nhờ công việc chuẩn bị phòng thủ tốt, nhờ các lực lượng phi pháo yểm trợ nên chúng tôi giữ vững phòng tuyến… Khi tiếng súng tan, kiểm soát lại lực lượng của đơn vị lúc này tôi mới hay tin thằng Luận đã tử trận, tôi như kẻ mất trí khi ghì xác thằng Luận bên mình, tôi đã khóc khóc thật nhiều cho thằng bạn rất đỗi thân thương, tôi trách nó: – Mầy hứa với nhỏ Hương những gì mầy nhớ không Luận, cặp nhẫn cưới sẽ không còn cơ hội nằm trên ngón tay của hai đứa bây rồi, mầy thất hẹn với Cha xứ để cha làm lễ hôn phối cho tụi bây rồi, mầy không còn dịp ngồi quán cà phê Đợi chờ để đấu láo với mọi người nữa rồi, và mầy còn nợ tao con heo quay và kết larue nữa . Tiếng Rít của cánh quạt chiếc trực thăng tản thương lao đi khi trời còn mờ sáng, nó chở theo xác thằng Luận và số thương binh, nó đã “đi xa” thật rồi tôi thẩn thờ nhìn bầu trời rộng lớn phía trên cao, tôi liên tưởng thằng Luận đang bay nhởn nhơ với đôi cánh thiên thần, tôi chắc rằng người hiền lành như thằng Luận sẽ được Chúa dang tay đón rước. Ngôi mộ đất của thằng Luận nằm ven đồi cà phê cạnh nhà nó, Hương tự nguyện làm dâu con trong nhà để sớm hôm gần gũi với mộ phần người mình yêu. *** Gần bốn mươi năm sau, tôi có dịp trở lại nơi một thời của tuổi học trò hoa mộng, trở lại thăm những kỷ niệm còn chôn chặt trên miền cao nguyên đầy nắng gió, tôi tìm thăm lại mộ phần thằng Luận, tôi thăm lại nhỏ Hương để xem cuộc sống của nhỏ ra sao… Tôi thất vọng hoàn toàn, những cảnh vật đã hoàn toàn thay đổi, dấu tích của một thời của ngày xưa không còn lưu lại một chút gì, ngôi mộ thằng Luận cùng đồi cà phê chẳng còn nữa, phố sá ánh điện sáng choang, con đường đầy ổ gà với bụi mịt mù cũng không còn , còn chăng dĩ vãng đầy yêu thương nằm mãi mãi trong tâm trí tôi, Nhà Luận cũng dọn đi đâu mất những người lạ hoắc lạ huơ thế chổ vào, tôi cố hỏi để tìm Hương nhưng vô vọng, bỡi căn nhà này sang tên đỗi chủ mấy đời không ai biết Hương giờ ở đâu. Tôi lân la tìm lại con đường có quán và phê “Đợi chờ” của năm nào, thêm một lần thất vọng, đường phố nhà cửa lạ lẫm khiến tôi buồn buồn cố nhớ lại gương mặt hiền của chị chủ quán, lại lần nữa tâm trí tôi lại nhớ những câu thơ : Tạo hóa gây chi cuộc hí trường -Ông ơi! Mua giúp tôi thuốc lá đi ông. Tiếng người phụ nữ thật quen thuộc, tâm trí tôi nhanh chóng nhận ra tiếng nói nhỏ Hương ngày nào, tôi dỡ nhanh cái nón lá ra, đúng là Hương ngày nào đây rồi, thật tội nghiệp Hương tiều tụy theo năm tháng, riêng Hương ban đầu hốt hoảng nhưng khi nhận ra tôi Hương òa khóc và nàng ôm tôi thật chặt. Cơn xúc động lắng xuống Hương kể lại nỗi bôn ba thống khổ khi chạy từ miền cao nguyên về tới Sài gòn, nàng suýt bỏ mình mấy bận khi di chuyển trên liên tỉnh lộ 7B… Tôi vuốt lại mái tóc Hương, rồi kể lại cho nàng nghe chuyến về thăm lại quê nhà cho nàng nghe, kể đến đâu cả hai chúng tôi nấc nghẹn đến đó, khiến các bạn trẻ đi ngang tưởng tôi hà hiếp Hương điều gì nên họ đứng quan sát chúng tôi với thái độ dè dặt… *** -Luận ơi! Hương là vợ tương lai của mầy, tao rất mong mầy và Hương sẽ là một đôi chim liền cánh, nhưng mầy đã phụ Hương mầy bỏ đi xa không hẹn ngày về, thôi thì số phận đã an bày, hôm nay tao và Hương hai người tứ cô vô thân gặp lại nhau nơi này, tụi tao sẽ ở đây sống với mầy trong căn nhà tao, mong mầy phù hộ cho Hương và tao không còn chia ly đến cuối cuộc đời. Cắm nén nhanh lên bàn thờ thằng luận xong, tôi loay hoay làm việc lặt vặt trong nhà , bổng tiếng kêu to của Huong làm tôi giật mình: -Anh Trí, anh Trí lên xem nhanh lên! Bỏ công việc dở dang phía sau tôi tức tốc chạy lên, Hương há hốc miệng chỉ tay vào lư nhang, những cây nhang chúng tôi cắm vào nó uốn tàn cong vút nhiều vòng, chưa hiểu ý Hương nói gì tôi hỏi: – Gì mà em la làng thấy ớn vậy? -Anh xem kìa, anh Luận chứng giám lòng thành của vợ chồng mình rồi đó. Nói xong nàng kéo tôi quỳ xuống lạy tạ ơn thằng bạn thân có nghĩa khí. Tôi thầm nghĩ thằng Luận nó rất hài lòng khi tôi đứng ra bảo bọc cho Hương, tôi ngước nhìn vào di ảnh của nó, tôi thấy nó nở nụ cười thật tươi như lúc nó thử xong bộ đồ vía hôm gặp lại nhỏ Hương mấy chục năm về trước, tôi cũng cười với “nó” rồi thì thầm: – Cảm ơn nha bạn hiền , thôi tao sẽ cúng cho mầy con heo quay và kết bia Heniken coi như huề. Tôi phá lên cười, thằng Luận hình như nó cũng cười theo khiến tôi cảm thấy rờn rợn nỗi da gà. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/May/2016 lúc 9:36am |
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 05/May/2016 lúc 1:16pm |
Dừng xe trước quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường, quán vắng khách. Đã hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè Bắc Âu ngày dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm. Trời nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay những cành thông, như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo thêm chút mát mẻ, thư thái cho khách nhàn du. Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở thành khách quen của ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái. Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên thấy Lân trong bộ áo thầy tu, ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về Phật và Thiền học, mặc dù ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân. Gần mười năm nay, sau khi về hưu, hằng năm, vào khoảng giữa tháng Mười, vợ chồng tôi thường sang Cali ở sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng mình. Đến hè, mỗi lần trở lại Na-Uy, tôi thường ghé lại thăm Lân. Từ lúc nhận ra tuổi già qua nhanh quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều, và một số bè bạn đã lần lượt ra đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước tôi một năm, và anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: tu tại gia. Anh xuống tóc, ăn chay trường và mỗi ngày sống với kinh kệ như một vị thầy tu, mặc dù không đến chùa. Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt ở một số chùa chiền bây giờ không thích hợp với anh. Hầu hết bạn bè và những người quen biết đều tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến mộ phong cách, đạo đức của anh. Thực ra, trước khi chọn con đường tu hành, anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một vị chân tu rồi. Hiền lành, đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất là những người không may, gặp điều khốn khó, và với ai anh cũng luôn nở một nụ cười hiền hòa nhân ái. Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm tịnh thất, nằm trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài ba người bạn chí thân.Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần, theo anh ngồi tĩnh tâm hay tập thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chìu tôi, theo tôi ra ngồi ở cái quán cà phê bên vách núi yên tĩnh này. Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân còn nhìn thấy một chút “thế gian” và chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện đời xưa, nhắc nhớ khoảng thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ. ***
Tháng sáu năm 1976, sau khi bị chuyển tù ra Bắc, đến Trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp lại người bạn cũ, có thời ở cùng đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua anh bạn này, tôi quen biết Lân từ đó, để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt là dù qua bao lần “biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may mắn, đi chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981. Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là thiếu tá, làm việc ở Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân). Một công việc bất đắc dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn là phi công trực thăng được chuyển về đây sau khi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào loại 2, không thể phi hành hay chiến đấu được. Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc. Lớn hơn tôi một tuổi. Lân tình nguyện vào Không Quân và được sang Mỹ học ngành hoa tiêu trực thăng. Về nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn xử dụng trực thăng loại H-34, về sau này được thay thế bằng UH-1. Đây là một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu đen, không vẽ quốc kỳ và bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá bài “ách xì” cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi hổ, biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một phi công tài giỏi, thông minh và can đảm. Sau đó, được thuyên chuyển về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm 1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều chiến công trong các cuộc hành quân sang lãnh thổ Cam- Bốt. Năm 1972, tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản thương cho Liên Đoàn 81 BCND và một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị thương nhẹ, được đặc cách thăng cấp thiếu tá. Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên chuyển đến một phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó, thì anh tình nguyện tham gia phi vụ cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi. Nhờ tài năng, lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4 người của một phi hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát hỏa, người xạ thủ đã bị tử thương. Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch và bất ngờ đáp xuống trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm gãy xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi gặp anh co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng hiểm nguy với tất cả lòng thán phục Lân. Anh bảo, nếu không có Lân hôm ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã không thành và ba người bạn cùng phi đoàn đã bị địch quân giết hay bắt sống. Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp xếp cùng tổ với Lân. Chúng tôi thuộc đội phát rừng (vào mùa Đông) và tăng gia (vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở vùng này rất lạnh, không trồng rau được). Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực khổ, nhưng Lân rất khỏe mạnh. Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là một sở trường đặc biệt của Lân mà bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm, cá bằng tay không, khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các loài vật anh biết ngay đó là con vật gì. Chỉ cần một nhánh cây anh có thể “sáng chế” thành một cái bẫy để bắt các loại chim, chồn, và cả thỏ rừng. Nhờ vậy mà anh nuôi sống cả một tổ tù, đặc biệt cứu vài người bị đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam, các loại lá, vỏ cây trị bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất chích vào tay, sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này rất độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại, đi tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên. Chỉ sau một giờ đồng hồ vết sưng biến mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, anh đã câu được gần ba mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát nước. Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất cả ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho anh em. Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là anh biết có khoảng bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một thanh tre và một sợi chỉ từ cái bao cát được Lân xe lại, và mồi câu chỉ bằng một miếng bông gòn nhỏ. Tối hôm ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu sinh, vì có thể bị bọn cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng anh trốn trại. Tôi cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng mưu sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời tuổi thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, anh đã theo đám bạn bè và cả những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như thế. Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài mưu trí, lanh lẹ, Lân còn là một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình với bạn bè. Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng không vững. Lơi dụng lúc đi lấy “phân xanh” ( loại lá cây để ủ thành phân bón), không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ) bắt một chú heo con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia (nằm sát bên hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa ( do tù đào và dùng các gốc cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần. Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại được sức. Một lần khác, khi được giao cho công việc lên phơi lúa trên sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy trại, Lân thấy có một buồng chuối thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn thận, bao lại bằng mấy tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau, trong một buổi sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc (đứng cách vài thước không nhìn thấy nhau), Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra chôn giấu ngoài khu lao động. Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có mặt tay quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi chuối chín dễ bị phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời gian quá lâu thiếu chất đường, nên cả tổ tám người thanh toán buồng chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20 phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy, cả bọn bị ói thốc tháo ra toàn là chuối. Biết tài bắt cá của anh, nên mỗi lần trại tù hay hợp tác xã bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác, như cá lóc, cá trê sống trong đó, sẽ ăn hết đám cá trắm cỏ con. Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ, băng cách bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về việc này. Nhưng thay vì phải giao tất cả cả bắt được cho trại, anh tìm vài cái hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc vào đó. Những cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ lao động. Và cứ mỗi lần tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc, mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá trong đó mà không bị “phát hiện”. Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Một khoảng thời gian ở Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều phải lên rừng chặt nứa (loại tre nhỏ) mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì, theo hợp đồng của trại. Chỉ tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ không được nhận khẩu phần ăn. Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung quanh trại tù hết sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa lên các dãy núi cao tìm nứa. Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông, lạnh buốt xương, và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách lên núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ. Bọn tôi phải đóng những cái cọc ngắn dọc trên các con đường, mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã xuống vực. Nguy hiểm hơn là khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi trước, có thể mất mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để chui qua những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời. Khi bọn tôi đang lo âu có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu, thì bất ngờ một một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc, bóng một con vật to lớn nhảy xuống. Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào nhau, mặt thằng nào cũng tái xanh. Bỗng Lân quát lớn: “Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên!” Tôi làm theo Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước mặt mình không xa, một con dã nhân (vượn người?), cao to bằng ba con người, lông lá đầy mình, mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi. Lân rất bình tĩnh, bảo bọn tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào không khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị phạt mất phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho bọn tôi ăn đỡ đói. Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng. Nếu hôm ấy mà không có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao lần vào sinh ra tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này, thực tình chúng tôi mất hết bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con vật lạ lùng, ghê sợ, mà trước đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của ông bà. Năm 1979, trước khi chuyển trại để rời khỏi Hoàng Liên Sơn, vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, đội tù chúng tôi được chọn ra hai tổ đi lao động “thông tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở cách xa trại khoảng mười cây số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng 20 người, đi bộ, có hai tên vệ binh đi theo. Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối, bọn tôi được trú ngụ trong một cái đình làng bỏ hoang, một phần mái và một bức tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết có phải để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng” cho bọn tôi một bữa xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời tù bọn tôi. Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX hướng dẫn chúng tôi ra khu ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100 mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt, nhưng nếu bước chân xuống ruộng, người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi lên được, vì càng cử động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có thể ngập đầu. Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp có thịt trâu, rượu mía tối hôm qua. Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân đưa ra sáng kiến. Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây kéo hai đầu, chỉ cần một người (chọn những người nhẹ ký nhất) ngồi trên tấm cửa, gặt lúa, những người còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an toàn cho người gặt lúa. Một tấm cửa khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó lúa gặt được. Khi nào đầy lúa, người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến của Lân được mọi người hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ đủ loại lớn nhỏ được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một số tre được mang tới để vài anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài. Không ngờ sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười thửa ruộng sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá lớn. Tay Chủ nhiệm xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi và “liên hoan”. Ăn cơm trắng với cá “trám cỏ”. Thấy có một cái trống rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình, Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ” khác. Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một cái chảo đun sôi gần cả một đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và trắng mướt. Lân thái nhỏ ra, xin thêm đậu phụng (lạc), giã nát cùng với ít rau, rắc lên. Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có thể quên Lân và những ngày tù thật đặc biệt này. Sau khi được chuyển về Trại Nghệ Tĩnh, Lân rủ tôi và một người bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại. Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang theo nhiều thức ăn khô, một số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ dấu kín trong hũ mắm ruốc. Nhờ hối lộ hậu hỉ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt. Nhưng chưa tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại không tin vào khả năng của mình, nếu không có Lân. Năm 1983, sau gần một năm được chuyển về Trại Z-30 C Hàm Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê ngoài Nha Trang, tôi vào Sài gòn tìm Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho biết là sau khi về nhà, anh sẽ mua ghe tổ chức vượt biên. Anh còn dặn dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp anh ngay. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân. Thời gian trong tù, qua tâm sự của Lân, tôi biết rất rõ về nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong gia đình anh. Ông cụ đã mất trước 75, Lân chỉ còn bà cụ đang sống với hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát, làm việc tại Sài gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75. Lân được cả nhà, đặc biệt là bà mẹ hết lòng yêu thương. Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ mẹ để ra đi khi CS chiếm Sài gòn, mặc dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong tay, đã giúp khá nhiều bạn bè ra khỏi nước. Sau này Lân còn cho tôi biết, chính mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều tài sản và dùng vàng bạc giấu được sau các đợt “đánh tư sản”, tìm đường dây đến một tay thứ trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm. Lân là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy. Khi tìm đến nhà, tôi gặp mẹ và cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng là một người tu hành. Bên kia phòng khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm lớn hơn một người thật, cao gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của Lân vừa mới được thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả mẹ con đều bảo Lân đang sống ở vùng kinh tế mới dưới Phước Tuy. Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức Lân. Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi thăm, viện cớ là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai người bảo là không biết, hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó. Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả mẹ và em Lân cố tình giấu giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho cô em xem và kể thêm một số chi tiết về Lân cũng như những người trong gia đình. Khi ấy hai người mới tin và cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số bạn bè, nhưng chẳng may ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị nhốt trong một trại tù rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ chuyển lời thăm Lân khi có thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc với tôi. Mẹ của Lân bảo cô em vào lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng hai mẹ con nhất mực bắt tôi phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi. Sau hơn tám năm, trở về nhà, chưa kịp làm quen với mấy đứa con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng mẹ ngày tôi vào tù, và cũng chưa kịp hỏi được tin tức về nơi chôn cất cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác trong Nam từ tháng 6/1976, thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn, nhận cái giấy trả lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận cho tôi được tạm trú”. Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm nuôi ba hôm, sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới là sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài bà cô già, góa bụa sống trong ngôi nhà từ đường của ông bà nội tôi để lại. Tôi lại bị chính quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều. Không còn con đường nào khác, ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh con ông cậu ruột, nguyên là một HSQ Hải quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến khích và tổ chức vượt biên, chỉ dành cho gia đình và những người thân thiết nhất. Tôi nhờ đứa cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một tuần lễ, cũng nhờ bà mẹ lo lót. Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán bộ thương nghiệp” ra Nha Trang công tác. Tôi gởi Lân ở chung nhà với một người bạn thân khác của tôi, là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường tiểu học mà anh là hiệu trưởng, không ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn trong một ghềnh đá sát bên bờ biển ở một nơi an toàn. Tôi hẹn cho ghe ghé đến, đậu xa bờ khoảng 200 mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng cháu chèo thúng chai vào đón. Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, anh sẽ bơi ra tàu cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa hẹn một “trang sử” mới. Mặc dù có người anh định cư ở Mỹ từ 1975, nhưng Lân quyết định cùng đi Na-Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận” Mỹ, đã phản bội, bỏ rơi người bạn đồng minh, để đất nước và cả dân tộc mình điêu đứng lầm than? Lân cười, bảo chỉ muốn sống gần tôi, người bạn đã cùng sống chết với anh trong suốt đoạn đời tù đày khốn khổ. Lân cùng học rồi cùng vào làm một sở với tôi cho đến ngày về hưu. Chúng tôi cùng hăng say hoạt động trong một tổ chức kháng chiến ngay từ ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi tiếng và được nhiều người khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của tổ chức từ Hoa Kỳ đến Na-Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về “chiến khu quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không còn cần thiết nữa. Chỉ một tháng sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau lòng. Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối. Những năm sau, Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm ông anh, họp bạn bè và tìm hiểu các tổ chức, hội đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong được đóng góp phần mình. Lân thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm được điều gì. Chẳng lẽ rồi bọn mình cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ chết!”hay sao? Cuối cùng, dường như Lân đã không tìm được một “ánh sáng nào ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức, phô trương, những bộ quân phục và lon lá bị lạm dụng, những ông bà háo danh, tranh giành cộng đồng này, hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố bịch như đám phường tuồng, làm anh muốn buồn nôn. Có những ông chưa có một ngày trong lính, nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh hoang chê bai ông tướng này ông tá khác, phê phán đủ các trận chiến ngày xưa. Cũng có những ông gốc lính, chẳng biết ngày xưa khí phách, tài năng đến đâu, giờ nằm nhà chửi bới, chụp mũ không sót một người nào. Bạn bè thì một số thoải mái với cuộc sống mới và đã biến thành những con người mới, quên mình đã từng là lính và bị tù đày. Một số thì tìm đến với nhau trong những hội hè, mong có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau về Việt nam, để đi trở lại trên những “đường xưa lối cũ.” Lân bảo, vẫn biết mỗi người có quyền chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay xoa dịu phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao anh vẫn thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng. Đôi khi Lân than thở với tôi: -Đã hơn gần 30 năm sống trong cái cộng đồng ly hương này, sao nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như ngày nào còn ngồi với bạn trên chiếc thuyền vượt biển ra khơi! Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân: -Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian nó sẽ xói mòn và làm đổi thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc để chấp nhận và trân trọng những gì tương đối, bởi rất nhiều anh em, cũng như chúng ta, đành phải “lực bất tòng tâm” trước những ước vọng đó sao! Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho Lân, một con người yêu nước, tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng còn một nơi nào để “dụng võ”. Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm, ngồi im lặng như một thiền sư, tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường tu hành, ngày đêm với kinh kệ, không biết trong lòng Lân có còn nỗi khắc khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới đây, trong lúc ngồi bên nhau Lân nói với tôi: -Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai điều, trước khi chết được thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng sản, và khi nhắm mắt được có bạn ở bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi một bài kinh A Di Đà! *** Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ treo trong quán cà phê vừa hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng dậy dành đi trả tiền. Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt lên trời. Không biết anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một thầy tu. Anh đứng yên lặng nhưng cái bóng của anh lung linh, sống động trải dài theo bờ con dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp lại người phi công trẻ, hào hoa, oai hùng, mà mình đã từng quen biết từ một thời nào xa xưa như trong tiền kiếp. Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng đội bạn bè đã hy sinh, nhớ tới những chàng phi công hào hùng đã từng sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè 1972 và suốt một thời binh lửa. Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy anh đứng lặng yên, bất động, hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la chỉ có vài áng mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời. Phạm Tín An Ninh Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/May/2016 lúc 3:26pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 08/May/2016 lúc 9:41pm |
ĐÈN KHUYA - Lam Phương - Thanh Thúy hát <<<< (Nhạc sĩ Lam Phương khi còn ấu thơ và Mẹ) |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 13/May/2016 lúc 9:40am |
Ví Dầu Tình Bậu Muốn Thôi
Ví dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
(Ca dao) Chấn nhìn theo anh Ba Đực đang cày ruộng, trước mặt Ba Đực là cặp trâu ông Hội Đồng Là cưng nhất. Cặp trâu này khỏe và mập mạp. Vừa đẩy cái cày đi theo cặp trâu, Đực vừa hét lên những tiếng thá dí cho cặp trâu tuân theo. Không hiểu sao trâu cũng biết nghe theo những tiếng thá dí của Đực. Sự thật thì trâu đâu có ngu cho nên trâu có thể hiểu tiếng người lắm. Người ta nói "ngu như bò", đâu có ai nói ngu như trâu bao giờ. Theo chuyện xưa tích cũ thì con trâu là hiện thân của một vị tiên trên trời. Ông tiên này được Trời giao cho nhiệm vụ gieo 4/5 hạt thóc và 1/5 hạt cỏ xuống trần gian. Sau đó ham chơi quên mất lời dặn của Thượng Đế, ông tiên gieo ngược lại 4/5 hạt cỏ và 1/5 hạt thóc. Từ đó ở nhân gian, cỏ mọc tràn lan và dễ dàng. Trái lại, lúa là thức ăn nuôi sống loài người lại rất khó trồng. Loài người không ăn cỏ được, lâm vào cảnh chết đói, than phiền thấu tai Thượng Đế cho nên ông tiên bị Trời phạt đày xuống trần làm trâu giúp con người cày đất trồng lúa và ăn cỏ cho mau hết phần cỏ ông đã gieo bậy trước kia. Bởi vì trâu ăn mãi cũng không hết cỏ trên mặt đất nên đời này sang đời khác, trâu vẫn mang hoài số kiếp kéo cày trả nợ cho loài người.
Chấn được sinh ra và lớn lên ở một làng nhỏ thuộc quận Củ Chi: làng Trung Lập. Bấy giờ là những năm đầu của thế kỷ 20, xã hội Việt Nam vẫn còn sơ khai nhiều so với nền văn minh của thế giới. Cha của Chấn là ông Hai Là, thuộc hàng vai vế của làng bởi vì ông làm Hội Đồng Làng và người ta hay gọi ông là ông Hội Đồng Là. Mặc dù vùng đất Củ Chi là vùng đất gò nhưng ông Hội Đồng Là có những cánh đồng ruộng thẳng cánh cò bay. Nhà ông có của ăn của để, có Nhà Máy xay lúa, dân làng đa số là người làm công cho ông. Tuy giàu có và quyền thế nhưng ông Hội Đồng Là hiền lương, hay giúp đỡ người nghèo. Ông chỉ lo cho cô con gái lớn của ông là cô Hai Chấn đang tuổi cặp kê, có quá nhiều ong bướm dòm ngó. Vì ở nhà quê cho nên Chấn không được đi học, nhưng với sự thông minh sẵn có, Chấn đã biết viết và biết đọc chữ quốc ngữ qua người em trai kế là Cậu Ba Tuội. Cậu Ba Tuội là con trai độc nhất của ông Hội Đồng Là. Ông Là dốc hết tiền bạc để lo cho cậu Tuội ăn học. Sau khi cậu Tuội học hết lớp năm ở Củ Chi, ông Là đã không ngại tốn kém đưa cậu Tuội lên Sài gòn học lớp cao hơn. Chấn đứng trên bờ ruộng gọi vọng xuống Đực: - Anh Ba à, nghỉ tay ăn cơm chút anh Ba. Trưa trờ trưa trật rồi chắc anh Ba đói bụng lắm. Đực nói với ra: - Cô Hai để đó đi, tui cày cho xong luống này rồi tui ra. - Hổng được đâu, tui chờ anh rồi tui mới đi. Tui mà để cơm nước ở đây hổng có ai coi chừng mấy con gì nó ăn thì uổng lắm đó anh Ba ui. - Được, tui ra liền. Tới mùa cày hay cấy gặt, ông Hội Đồng đều kêu Chấn nấu cơm trưa rồi đem ra ruộng cho những người làm của gia đình ông. Phần ăn của những người thợ khác, có anh Mót làm công gánh đem ra. Riêng phần của Đực là Chấn đem riêng. Chấn không quên bỏ thêm một phần thức ăn cho Đực. Có khi là thêm một khúc cá hay một miếng mắm lóc. Hôm nào người làm ăn mắm ruốc xào sả là Chấn lựa nhiều thịt ba rọi cho Đực. Gia đình Đực nghèo, cái nghèo đeo đuổi đến mấy đời. Đến đời Đực, mặc dù Đực chịu khó làm lụng nhưng vẫn không khá được. Lúc nào quần áo Đực cũng vá chằng chịt, vải vá còn nhiều hơn là vải quần áo đến nỗi người ta cũng không biết vải quần áo Đực mặc nguyên thủy màu gì. Hôm nay Chấn mặc áo quần bà ba đen vải Nam Định. Mấy chiếc quần vải mỹ a chỉ mặc khi ăn tiệc hay giỗ Tết. Vì đi ra ruộng nên Chấn xăng quần ống thấp ống cao, đi chân đất. Tuy là gái quê, nhưng Chấn không có vẻ đen đúa quê mùa. Mấy anh trai làng và các anh làng bên hay ngắm Chấn, chỉ có Đực mỗi lần gặp Chấn là anh ta cúi gầm mặt xuống đất. Lần này cũng vậy, sau khi cột cặp trâu vào cái cọc, Đực bước tới chỗ Chấn đang ngồi dưới cây xoài và cúi mặt xuống không dám nhìn Chấn. - Cám ơn cô Hai. Cô Hai ăn cho vui. Mà cô Hai đâu có ăn giống như tụi tui đâu. - Anh Ba hổng có biết đâu, Cha tui hà tiện lắm, mấy anh ăn gì là Cha tui cũng ăn giống vậy. Má tui đâu có để ý gì đâu anh Ba. Từ hồi tui biết coi mấy đứa em tới giờ, việc nhà Cha với Má tui giao phó cho tui hết. - Tội nghiệp cô Hai thì thôi. Gia đình có tiền mà sao tui thấy cô Hai cực quá. Mấy việc này mà ông Hội Đồng cũng bắt cô Hai làm. Cô Hai thấy nhà ông Hương Quản hông? Con cái người ta có động tới móng tay đâu nà. - Cha tui nói tui phải ráng làm lụng cho giỏi để sau này còn làm dâu người ta.
Nói tới đây Chấn thấy buồn, không biết Cha sẽ gả Chấn cho ai. Đực bỗng im lặng không muốn ăn cơm nữa. Miếng cơm tự nhiên mắc nghẹn ngang cổ họng. Đực biết thân phận mình, nhà nghèo, nên không dám mơ tưởng Chấn nhưng Đực cũng nghe tủi thân. Đực thấy mình như câu ca dao:
Gối rơm theo phận gối rơm
Có đâu dưới thấp mà chồm lên cao
Đực bỗng tò mò: - Cô Hai nè, tui thấy ngộ thiệt nghe cô Hai. Má của cô, Bà Hội Đồng đó, tui thấy bả ít khi ở nhà. Bả cũng ít khi nào ẳm bồng cô Tư với cô Năm. Hồi tháng trước cô Năm đau nặng, tui thấy chỉ có mình cô Hai với ông Hội Đồng chạy thầy chạy thuốc cho cô Năm thôi hà. Hổng phải tui nhiều chuyện đâu cô Hai à. Tại tui thấy cô Hai cũng con nhà giàu mà sao số cô Hai cực quá. - Thì anh Ba biết đó, Má tui là dân Sè goòng. Cha tui là dân quê mùa. Hồi đó hổng biết sao ông Ngoại tui gả Má tui cho Cha tui. Dìa ở đây hổng xa Sè goòng bao nhiêu nhưng Má tui hổng quen. - Vậy chắc Bà Hội Đồng hay dìa Sè goòng hả cô Hai. Giọng Chấn buồn buồn: - Tui có biết Má tui đi đâu đâu nà. Hồi nhỏ thì tui hổng nhớ. Tới chừng tui lớn một chút thì Má tui hổng có bao giờ dắt tui đi theo. Đực tiếp lời: - Úy trời, nãy giờ cũng lâu rồi, cô Hai dìa đi, tui xuống cày cho xong đám ruộng này. Cám ơn cô Hai đem cơm ra cho tui. - Có chi đâu anh Ba. Tui có cái này cho anh nè. Mà anh đừng có nói ai biết nghe hôn. Cha tui mà biết ổng cạo đầu khô tui đó. Vừa nói Chấn vừa đưa cái gói mo cau ra. - Chi đó cô Ba, quý quá thì tui hổng dám nhận đâu. - Cơm nếp chớ có gì đâu. Hồi sáng này Cha tui thèm ăn cơm nếp, tui nấu cho ổng rồi tui gói một ít để chiều nay anh Ba đem về nhà ăn. Tui gói nó vô mấy cái bánh tráng nè, rồi tui bọc trong lá chuối đó, phía ngoài tui bao bằng lớp mo cau rồi tui cột lại bằng dây chuối. Tui treo lên cây xoài nghe anh Ba. Chừng dìa, anh Ba nhớ đừng có quên. - Cám ơn cô Ba. Cô nói một chút chứ tui thấy chắc cũng khoảng nửa nồi có đó. - Thì sẵn tay thôi mà anh Ba. Tối nay anh nhớ ăn cho no bụng chớ trưa mai tui mới đem cơm được. Chấn quay lưng bước đi. Đực nhìn theo dáng người thon thả của Chấn mà ngậm ngùi cho mình và cũng cảm thương cho một người con gái sao quá cực nhọc. Trời đã lên thật cao và nóng bức hơn ban sáng. Đực không biết chữ nhiều. Đực và Chấn hay chơi đùa với nhau từ hồi còn nhỏ. Những lúc rảnh Chấn hay đọc những cuốn truyện bằng thơ rồi kể lại cho Đực nghe như truyện “Thạch Sanh Lý Thông”:
“Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem Công Chúa lên hang mà về.”
Đực thấy ghét cái thằng Lý Thông gian ác. Con người sao không biết thương nhau mà cứ vì danh lợi tìm cách hại người khác như Lý Thông cứ năm lần bảy lượt hại Thạch Sanh. Nhìn mặt trời, Đực nhớ Chấn kể về câu đố, buổi sáng và buổi trưa, lúc nào thì mặt trời ở xa nhất. Nếu buổi sáng mặt trời ở xa thì tại sao mặt trời lại lớn hơn buổi trưa. Nếu buổi trưa mặt trời ở xa thì tại sao mặt trời lại nóng hơn buổi sáng. Đực thấy Chấn hiểu biết nhiều chuyện hơn Đực. Đực lắc đầu, không dám nghĩ tiếp. Đực biết thân mình, người ta bề gì cũng là con gái của ông Hội Đồng. Chấn về tới nhà thì ông Hội Đồng Là còn đang ở Nhà Việc của làng chưa về. Chấn ra sân để coi lại mấy cái nia trà mà Chấn đã đem ra phơi hồi sáng. Trà này Chấn đã ướp với bông lài là loại trà mà Cha Chấn rất thích. Ngay trước cổng nhà là hai cây bông lài đã trồng từ đời nào. Khi Chấn lớn lên là đã thấy hai cây này rồi. Trà xanh thì ông Hội Đồng có trồng một góc vườn ở sau nhà. Thỉnh thoảng Chấn hái những lá trà già rồi trộn chung với bông lài đem phơi khô để dành. Ông Hội Đồng Là có nhiều khách ghé thăm nên Chấn phải lo làm sao có đầy đủ trà, nếu không, phải mua trà Thiết Quan Âm, tốn tiền mà ông Hội Đồng Là không thích. Trà Tàu không có vị chát của trà xanh nhà trồng. Hơn nữa mùi thơm của bông lài ở nhà thơm đậm đà hơn. Sân sau nhà là một khoảng vườn bát ngát. Chấn trồng mấy giàn sương sâm để những buổi trưa khi nào ông Hội Đồng Là không bận việc, Chấn hái vô làm sương sâm với đường cát cho Cha ăn. Chấn hái mấy lá sương sâm già, đem rửa sạch rồi bỏ vô cái chậu vò cho thiệt nát, xong bỏ vô cái bòng vải lọc xác lá lại. Chấn lấy miếng nang mực gác trên nóc bếp xuống, mài một chút xíu cho ra bột rồi trộn nước sương sâm với bột nang mực, để yên một hồi, nước sương sâm đặc lại, thành món ăn giải khát rất Mát. Làng Trung Lập không có chợ, chỉ có quán chạp phô của chú Chệt mà cả làng quen kêu là chú Hắn Chói. Quán này bán hầm bà lằng từ kim chỉ, dầu hôi đến rượu đế … Dân làng mua sắm gì nhiều phải đi xe ngựa ra chợ Củ Chi hay chợ Hóc Môn. Cả làng chỉ có một chiếc xe ngựa của ông Năm Ta ngày hai bữa đi về Trung Lập- Hóc Môn- Củ Chi. Nhà ông Năm Ta không ở Trung Lập mà ở Tân An Hội. Ông bà Năm Ta có vườn cao su, và có xe ngựa chở khách. Con cái ông bà Năm Ta cũng đông lắm, tới 8 người con. Theo xe ngựa với ông Năm Ta là cậu Sáu Tôn con trai ông. Cậu Sáu này chỉ lớn hơn Chấn hai tuổi nhưng nghe chừng đâu miệng cậu lanh lắm. Dân đánh xe ngựa mà. Vài ba tháng một lần, Chấn đi theo Cha ra Hóc Môn bằng xe ngựa để mua tương hột, bánh tráng và thịt heo quay, bánh hỏi. Mỗi lần Chấn đi xe ngựa gặp cậu Sáu Tôn là cậu ta không bao giờ lấy tiền xe của Chấn. Tương hột và bánh tráng Hóc Môn ngon có tiếng. Tương hột được bán trong khạp nhỏ bằng sành. Bánh tráng Hóc Môn nổi tiếng là dẽo mà không có mặn. Chấn cũng biết tráng bánh tráng nhưng không cách nào ngon và dẽo được bằng bánh tráng Hóc Môn. Không biết họ pha bột cách nào mà ngon sao là ngon. Cha Chấn hay ăn bánh tráng cuốn với thịt phay. Thịt phay là thịt đùi heo luộc lên rồi chiên lại với chút mỡ, chút đường cát cho thịt vàng cháy xém lên, xong xắt thịt ra thành miếng dài vừa cuốn bánh tráng, có chút thịt, chút mỡ, chút da. Rau cuốn bánh tráng có xà lách, rau húng, dấp cá, lá xoài non, dưa giá, dưa leo. Bánh tráng cuốn chấm với nước mắm. Nước mắm pha giấm đường và ớt sừng trâu. Ớt sừng trâu là loại ớt của dân miền Đông. Trái ớt có màu vàng hay màu đỏ, da ớt nhăn nheo, trái ớt cắn vô một miếng trong miệng nghe giòn rụm mà cay xé họng. Cha Chấn để nguyên trái ớt trong chén nước mắm rồi lấy muỗng dầm ớt nhỏ ra chứ không có giã ớt. Giấm pha nước mắm thì Chấn nuôi bằng chuối sứ và nước dừa xiêm. Chuối sứ chín mềm để giữa hai miếng lá chuối, lấy thớt đè lên cho trái chuối nát ra. Xong lấy lá chuối ra, bỏ chuối vô hũ keo, cho chút rượu đế rồi cho nước dừa xiêm vô. Lấy lá chuối che kín chung quanh hũ giấm lại. Chỉ cần vài tuần lễ là hỗn hợp này thành giấm, từ từ con giấm hình thành và đóng rất dầy. Chấn chắt nước giấm qua hũ keo khác. Còn con giấm thì bỏ thêm nước dừa vô nuôi giấm tiếp. Gần Tết, Chấn nuôi giấm nhiều hơn để làm củ kiệu với lỗ tai heo ngâm giấm, rồi còn giấm pha nước mắm, pha mắm nêm để Cha và khách khứa ăn trong mấy ngày Tết. Canh thì Cha thích canh lá dang thịt gà. Lá dang là loại lá rừng đặc biệt của dân miền Đông. Đây là loại dây leo. Tuốt lá ra, rửa sạch rồi vò nát một chút, bỏ vô nồi thịt gà thành món canh chua, không cần trái me, trái thơm hay trái khế. Vị chua của lá dang thanh thanh mà các loại trái me, trái thơm hay trái khế không có. Ông Hội Đồng Là tuy giàu có như vậy nhưng ông cũng nuôi mấy chục con heo trong nhà để bán. Phần thì để khi nhà có giỗ tiệc, ông có sẵn heo khỏi phải mua. Trong chuồng heo lúc nào cũng có ít nhất 5 con heo nái. Chấn phải thức khuya canh chừng để đỡ đẻ cho heo nái. Chấn sợ không có Chấn ở đó, heo con dễ bị heo mẹ đạp chết. Ngoài ra nhà cũng có cả chục cặp trâu cho thuê cày ruộng. Từ lúc 7, 8 tuổi Chấn đã bắt đầu chăm sóc việc nhà, quần quật từ sáng đến tối mà vẫn không hết công việc. Chấn gần gũi với Cha nhiều hơn là Má. Mỗi khi gặp Má, Chấn thấy sợ, có lẽ Má Chấn hay la rầy vô cớ. Má lúc nào cũng than thở: “Hổng biết sao tui phải khổ như vầy?” Chấn hổng hiểu sao Má lại khổ nổi. Cha không hề gây gỗ với Má một lần nào hết. Má muốn gì Cha cũng ưng. Từ hồi Chấn biết chuyện tới giờ, Má ít khi ở nhà. Cha nói Má hổng quen ở nhà quê, Má phải về Sài Gòn thăm ông bà ngoại cho đỡ buồn. Mỗi khi heo con lớn lên sẻ bầy, Chấn nuôi thúc cho chúng lớn để rồi bán. Chấn phải coi việc bán heo. Mấy ông lái heo ăn gian lắm. Khi cân heo, mấy ổng có mánh lới làm giảm ký lô để mấy ổng trả tiền ít đi. Mấy ổng chỉ cần lắc lắc cái cân vài cái là mất mấy chục ký lô như không. Mấy ông lái heo này không phải người làng mà hình như là từ Củ Chi. Họ đi vòng vòng khắp nơi để tìm mua heo. Bán heo cho mấy ông này là bán dứt luôn, họ không cho lại miếng thịt nào hết. Bán heo cho dân làng để họ làm đám giỗ tiệc gì thì thế nào họ cũng kiếng lại một chút thịt, một chút lòng. Đã tới giờ nấu cơm chiều cho Cha. Chấn vô bếp, lấy cái rá xúc gạo rồi đem ra sau hè cạnh lu nước, múc nước vô chậu để vo gạo. Nước vo gạo, Chấn để dành nấu cám heo. Nước vo gạo buổi sáng, Chấn lắng lại, lấy phần cám đọng ở dưới để mỗi tối Chấn đắp mặt. Người ta nói đắp mặt như vậy, da mặt sẽ đẹp và không có mụn. Không biết người ta nói đúng hay da mặt Chấn tốt, nhưng Chấn không có mụn bao giờ. Chấn trút gạo từ rá vô nồi, canh nước rồi bắt nồi lên bếp lò. Bếp có 3 ông táo, Cha Chấn đắp bằng đất sét. Bếp đốt bằng củi nên lọ nghẹ đầy bếp đầy nồi. Chiều nay Chấn cho cả nhà ăn canh chua thơm nấu với cá trào, thịt kho ăn với dưa leo và rau sống. Cha Chấn chỉ cho người làm ruộng ăn cơm trưa, nên ăn chiều Chấn nấu cho Cha và mấy đứa em, không phải nấu nhiều như buổi trưa nấu cho người làm ăn. Nồi cơm chín xong, Chấn ủ vào tro cho giữ hơi nóng. Chấn đang loay hoay thì nghe tiếng bà Hội Đồng ngoài trước: - Con Chấn đâu rồi, nhà cửa gì không chịu quét dọn gì hết. Lá ngoài sân đầy nhóc kìa. Chấn ơi Chấn. Đồ con quỷ sứ, mầy mần cái gì mà mấy cái nia trà chiều tối rồi mầy cũng hổng chịu đem vô. Bộ mầy tính phơi sương mấy cái nia trà sao cà. Chấn lật đật chạy lên nhà trên: - Dạ Má mới dìa. - Tao mới dìa hay cũ dìa thì mầy biết rồi, cần gì mầy phải nói. Thiệt con với cái, toàn là của nợ. Còn đứng đó chi. Rót tao ly nước trà coi. - Dạ, Má. - Dạ dạ cái gì. Tao khát gần chết nè, ở đó mà dạ dạ, đem nước ra mau cho tao đi. Đồ cái quân gì chậm lụt. Nó là con tui mà sao mặt mày nó giống ai đâu không á, lúc nào cũng chầm dầm cái mặt. Chấn bước vô bàn ở nhà bếp rót ly nước trà đem ra cho bà Hội Đồng. Vừa mới uống một ngụm, bà Hội Đồng phun ra: - Mầy muốn thuốc tao chết hả? Nước gì nóng dữ làm phỏng miệng tao rồi. - Nước trà phải nóng chớ Má. Bà Hội Đồng xáng cho Chấn hai bạt tai: - Ai dạy mầy cãi lợi tao hả con kia? Tao có cho phép mầy cãi hôn vậy mậy? Thằng Cha mầy còn hổng dám cãi tao nữa ở đó mầy. Mầy mà còn cãi nữa tao quánh chết Cha mầy luôn. Chấn đứng đó nước mắt lăn dài trên Má. Kịp thời ông Hội Đồng vừa về tới nhà: - Má con Chấn dìa rồi à? Cha Má cũng khỏe hả? - Khỏi hỏi mấy cái chuyện đó đi. Tui lật đật dìa là lo cái chuyện hôn nhơn của con Chấn. Con gái 15 tuổi rồi ở nhà như là hũ mắm treo đầu giường. Có đám này quen với Cha Má tui. Tui bàn với ông gả nó phứt đi cho rồi, khỏi mắc công lo. - Quen với Cha Má thì tui chắc là chỗ đàng hoàng rồi. Nhưng tui hổng biết thằng đó ra sao, hổng biết con Chấn có ưng hôn? - Ông sao khéo lo. Cha mẹ đặt đâu con cái ngồi đó. Con Chấn biết gì mà ưng hổng ưng. Hồi đó tui đâu biết ông ra sao Cha Má tui cũng gả tui cho ông. Tui nói chỗ này được là được. - Vậy chớ gia đình họ ra sao? Làm gì? Ở đâu? Tui hổng muốn gả nó xa quá. - Xa gì mà xa. Ở An Nhơn Tây chứ đâu. Đi qua Bến Súc là tới rồi. Nhà người ta giàu, ruộng vườn biết bao nhiêu mà kể. Thẳng lại học hết đíp lôm gì đó. Nhà có người ăn người làm. Con Chấn là con tui, tui cũng muốn nó được sung sướng. Vuột chỗ này rồi là tui hổng biết còn chỗ nào tốt hơn hôn. Ông tính sao? Liệu để tui trả lời cho Cha Má. - Thì tui cũng phải gặp họ, còn gặp thẳng nữa chớ. Hổng biết gì hết làm sao tui quyết định? - Ông hổng tin tui thì tui hổng nói mần chi. Ông hổng tin Cha Má tui là có chuyện đó nghen. Ông có nhớ Ông Cai Tổng Thiệt hôn? - Có phải thằng con trai lớn của vả là thằng Hai Tiệm đó hôn? - Đúng rồi đó đa. Đúng thẳng đó. - Thẳng coi cũng được đứa. Ông Cai Tổng cũng đàng hoàng. Chỉ có Bà Cai Tổng coi bộ khó à Má con Chấn. - Chớ bây giờ ông muốn cái gì? Người ta khó thì nó cũng phải biết làm dâu, hổng khó nó cũng phải biết làm dâu. Nó dìa làm dâu người ta chớ bộ người ta cưới nó dìa làm bà cố nội người ta sao mà ông nói khó này khó nọ. Vậy đi nghen. Coi như ông đồng ý hén. Mơi sớm tui dìa Sè goòng nói với Cha Má tui là ông ưng gả con Chấn rồi đó đa. - Má con Chấn à, để tui nói với con Chấn một tiếng. - Ông nói với nó một tiếng hay nhiều tiếng thì ông nói, đừng có kêu tui nói. Nói chuyện với nó một hồi mắc công tui nổi nóng. Úi, mà nói gì, nó ưng hay hổng ưng thì kỳ này tui cũng gả nó phứt đi cho rồi. Tui ít ở nhà chớ tui cũng nghe nó có tình có ý gì với thằng Đực ở đầu xóm. Ông hổng gả nó cho mối này hay là ông tính gả nó cho thằng Đực? - Má con Chấn nói sao kỳ cục quá. Thằng Đực với con Chấn chơi với nhau từ hồi tụi nó còn nhỏ tới giờ chớ tình ý gì đâu. Nếu bà thấy đám Cai Tổng Thiệt này được bà kêu nhà trai nhờ mai mối tới đi. Tui gả. Chấn ở sau bếp nghe Cha và Má nói chuyện về mình mà không ai thèm đếm xỉa tới Chấn coi Chấn suy nghĩ ra sao. Chấn lo là Chấn đi lấy chồng rồi, ai lo cho Cha và mấy đứa em. Con Năm Xẩm đau ốm quặt quẹo hoài. Chấn cũng không hiểu sao mỗi lần gặp Chấn là Má khó chịu. Tuy Má không ẳm bồng con Tư Phuống với con Năm Xẩm hay thằng Ba Tuội, nhưng ít khi Má la tụi nó. Chấn có cảm giác là Má không thương mấy đứa con của Má hay là Má không thương cái gia đình này. Chấn chợt nghĩ tới Đực. Nhà Đực nghèo lắm, có lẽ vì vậy mà Chấn tìm cách giúp đỡ Đực chuyện này chuyện khác. Hồi nhỏ Đực hay dạy cho Chấn cách bắt cua bắt cá, đăng tôm. Đực cũng chỉ Chấn cách làm mắm lóc, mắm sặc rồi món mắm bằm làm sao cho ngon. Chấn biết là Cha Má không bao giờ chịu gả Chấn cho Đực vì không môn đăng hộ đối. Không biết mai mốt này Chấn đi lấy chồng An Nhơn Tây, xa Trung lập, Chấn không có cơ hội giúp đỡ Đực, Đực sẽ sống ra sao? Chấn bỗng thở dài, lắc đầu không muốn nghĩ tới nữa. *** Ngày cuối năm, Chấn đã chuẩn bị đủ mọi thứ cho ba ngày tết. Tháng trước đàng trai đã cho nạp sính lễ và làm đám hỏi. Ra giêng họ sẽ rước dâu. Hôm đàng trai đến, Chấn trốn trong buồng không dám bước ra. Tuy nhiên Chấn cũng lén vén tấm màn cửa sổ liếc nhìn chú rể. Chỉ nhìn thoáng qua, Chấn cũng thấy anh ta cao ráo lịch sự. Hôm đó chú rể mặc áo dài the đen phía ngoài áo dài trắng, chân đi giày ba ta. Chấn cũng nhìn sơ qua bà già chồng. Coi bộ bả nghiêm khắc, nhưng biết làm sao, lệnh Cha Má, Chấn đâu dám cãi. Trước đó, Chấn có tâm tình với Cha: - Cha à, tui chưa muốn lấy chồng. Tui lo cho Cha dí lợi thằng Ba Tuội còn đi học rồi con Tư Phuống còn nhỏ quá, con Năm Xẩm thì bịnh hoài. Cha huỡn huỡn vài năm nữa được hôn Cha. Tui đi xa rồi ai đâu lo cơm nước cho Cha. Tui hổng có yên cái bụng. Ông Hội Đồng Là nạt ngang: - Bây khéo lo. Cha lo cho Cha được. Con gái lớn rồi thì bây phải đi lấy chồng chứ bây ở nhà hoài sao. Chỗ này gia đình người ta danh giá. Nghe đâu thẳng cũng có học có hành. Gả bây vô chỗ này Cha cũng đỡ lo cho bây. Cha nói như vậy, Chấn đâu dám cãi nhưng trong lòng Chấn không yên. Con gái lấy chồng như thau nước tạt ra ngoài sân, có muốn về thăm Cha coi bộ khó. Làm thân con gái 12 bến nước, biết bến nào trong bến nào đục đây? Rồi không biết Chấn ăn ở có vừa lòng gia đình chồng hay không? Theo Chấn được nói lại, anh ta là con trai lớn và lại là con trai độc nhất, sau anh ta có 4 người em gái. Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng, mà đàng này có 4 bà cô, liệu Chấn có được sống êm ấm với gia đình chồng chăng? Vừa nghĩ ngợi, Chấn đem nếp đã ngâm đêm qua đem ra để ráo nước đặng gói bánh tét. Cha Chấn năm nào cũng gói bánh tét hột điều. Những nơi khác gói bánh tét đậu xanh. Riêng vùng Củ Chi đa số gói bánh tét hột điều. Chấn đem hột điều đã ngâm nước một đêm, mỡ thịt cắt miếng dài đem ướp với chút muối, phơi ngoài nắng một canh giờ, lá chuối đem phơi cho héo héo một chút, dây chuối cũng tướt ra phơi khô từ mấy bữa trước, để sẵn trên bộ ván gõ ở nhà giữa. Vậy là Chấn cùng vài người làm bắt đầu gói bánh tét. Chấn xếp mấy lớp lá theo chiều dọc, lá chuối gói bánh phải là lá của cây chuối hột thì bánh mới có màu xanh tươi, Chấn đong nếp cho vừa một đòn bánh rồi lấy phân nửa nếp đổ lên lớp lá chuối, kế đến là hột điều rồi đến lớp mỡ, xong lại một lớp hột điều và một lớp nếp nữa che lên trên. Chấn bắt đầu khoanh tròn đòn bánh, vén hai đầu bánh cho tròn trịa, rồi lấy lá chuối cột đòn bánh lại. Cột cho dư dây chuối trên đầu để sau khi luộc bánh chín lại sẽ treo đòn bánh lên xà nhà. Năm nào Cha Chấn cũng bắt gói cả trăm đòn bánh tét, lớp tiếp khách mấy ngày Tết, lớp cho mấy người làm công cho ông Hội Đồng. Mỗi người được ông Hội Đồng biếu một cặp bánh. Nhà bình dân không có gói bánh tét hột điều tại hột điều mắc tiền, họ chỉ gói bánh tét đậu xanh. Năm nào Chấn cũng lén cho Đực thêm một cặp bánh ngoài cặp bánh của Ông Hội Đồng biếu. Nghĩ tới đây, Chấn thấy lòng buồn buồn. Năm tới chắc Chấn không có giúp Đực được, không biết Đực làm sao có thêm bánh tét ăn tết. Khi bánh tét chín, Chấn vớt ra treo lên, Chấn lựa một đòn có vẻ ngon, lột lớp vỏ chuối bên ngoài ra rồi lấy sợi chỉ giữ một đầu, đầu kia của sợi chỉ choàng qua đòn bánh rồi Chấn kéo mạnh, từng khoanh bánh tét rơi ra trên dĩa, tròn trịa và mướt lớp mặt bánh. Đây là cách tét bánh của bánh tét, có lẽ vì thế cho nên được gọi là bánh tét. Chấn không có dùng dao cắt bánh vì chất nhựa của nếp dính dao khó cắt bánh cho đẹp, dao lại khó rửa. Dân Trung Lập chỉ tét bánh theo kiểu này. Ngày hôm qua bên nhà trai đã cho người đem biếu bánh mứt họ mua ở Sài Gòn và một cặp rượu tây. Cha cũng thiềng lại sui gia cặp gà trống thiến và hai hộp trà Thiết Quan Âm với một hộp bánh tây đựng trong hộp thiếc có in hình bà đầm tây xòe cây dù. Ngày hôm qua Chấn kho một nồi thịt đùi với hột vịt. Cá lóc với cá tràu Chấn rộng một lu đầy. Dưa kiệu, dưa giá, dưa mít, cải chua, mỗi thứ Chấn ngâm một chậu sành. Chấn làm sẵn cho Cha 2 khạp rượu nếp than. Khi gói bánh tét xong, Chấn luộc hai bộ đồ lòng, mấy cái đùi thịt phay, tối Chấn luộc con gà trống để rước ông bà và ông táo. Tết năm nào Chấn cũng bận rộn cho đến ra giêng. Lớp mấy ông trong Nhà Làng thăm viếng nhậu nhẹt rồi còn bà con hàng xóm nữa. Năm nay còn phải lo đón tiếp bên đàng trai chắc là Chấn sẽ không có phút nào ngơi nghỉ. Bầy heo ở nhà trước Tết Chấn đã bán bớt đi một mớ nên chuồng heo bây giờ cũng đỡ phải dọn dẹp. Kỳ này có ông lái heo mới, ông Năm Bụng. Ông này tính tình vui vẻ, người ta kêu ông là ông Năm Bụng nhưng thực ra bụng ông đâu có bự. Ông có chiếc xe đạp, trên xe ông có treo cái cân, ông hay đi từng nhà mua heo, sau khi cân và trả tiền xong, ông đi mướn chiếc xe bò rồi ông đi một vòng gom hết mấy con heo ông đã mua. Ông chở chúng đi đâu Chấn cũng không rõ. Cứ mỗi tháng ông hay về làng này để cân heo. Hôm trước, khi bán lứa heo, Chấn có nói với Cha: - Khi tui đi lấy chồng rồi, Cha nói Má dìa nhà lo việc nhà, chứ mình Cha làm sao Cha lo được. Cha mắc công việc làng rồi ai coi mấy đám ruộng với bầy heo. - Bây yên tâm mà đi lấy chồng đi. Chuyện nhà Cha Má biết tính. Cha nói vậy, nhưng Chấn biết tính của bà Hội Đồng, Má Chấn ít để tâm đến việc nhà, bà lại hay la mắng kẻ ăn người làm. Cha Chấn chẳng biết gì về việc nhà. Chấn lo quá là lo. Nhưng con gái lớn mà không có nơi nào hỏi cưới cũng lại bị tiếng đời mai mỉa. Bây giờ Chấn không ưng đám này, biết sau này có đám nào dám cưới Chấn hông.
*** Vậy mà Chấn lấy chồng đã được 6 năm. Ngày Chấn sanh con trai đầu lòng, thằng Hai Thinh, cà nhà chồng đều vui mừng và làm đầy tháng thiệt là lớn. Chấn được bà già chồng lo lắng đủ điều. Suốt ba tháng trời sau đó, Chấn không phải làm gì hết, chỉ ở cữ trong phòng, nằm than, ăn cá kho nghệ. Mỗi buổi sáng sớm, bà già chồng chịu khó qua nhà hàng xóm, năn nỉ xin nước tiểu con nít về cho Chấn uống. Chồng Chấn cũng rất cưng chiều Chấn, mỗi bữa cơm, chính anh ta đem cơm vô tận trong buồng cho Chấn. Cưng đứa cháu nội đích tôn nên Má chồng Chấn giữ riệt lấy thằng Hai Thinh. Mỗi lần tết Chấn cùng chồng về Trung Lập thăm nhà, bà giữ cháu nội ở nhà không cho Chấn đem theo lấy lý do đường xa bụi bặm, Hai Thinh dễ mắc bệnh. Khi Hai Thinh được hai tuổi, Chấn lại sinh đứa con gái, con Lang, gia đình chồng có phần lợt lạt hơn. Chấn không trách họ tại vì Chấn biết nhà chồng có một người con trai duy nhất cho nên họ mong có nhiều cháu trai. Lần này Chấn chỉ ở cữ được có 10 ngày là phải ra ruộng cấy lúa. Bà già chồng nói là sanh con rạ nên không cần ở cữ lâu. Hôm nay Chấn mang cái bụng bầu 6 tháng, ì ạch gánh hai cái thúng, lê bước về nhà Cha. Một đầu thúng là con Lang, đầu kia là đồ đạc nhà chồng trả lại cho Chấn. Mặc dù Chấn đã khóc hết nước mắt, năn nỉ bà già chồng, năn nỉ chồng là Chấn không có tội lỗi gì từ ngày làm dâu đến nay nhưng nhà chồng vẫn cương quyết ra nhà làng làm giấy chia của. Bà già chồng còn xỉa xói: - Bây giờ mầy không có lỗi gì với con tao nhưng ai biết được là mấy năm nữa mầy cũng đi theo trai như con gái mẹ của mầy. Mầy không có lỗi tao mới chia của cho mầy, chứ thứ mầy có lỗi tao cạo đầu khô mầy bôi vôi rồi chứ không có cho mầy giữ hết số vàng đồ cưới đâu. Đúng là tao không có con mắt mới cưới mầy cho con trai tao. Thiệt là cái quân… Đứa con trai đầu lòng, bên chồng giữ nuôi, giao cho Chấn đứa con gái và đứa con trong bụng. Họ còn nói nếu Chấn sinh con trai họ cũng bắt luôn, là con gái thì Chấn nuôi. Mặt trời đang từ từ lặn, giờ này mọi nhà trong làng chắc đang tụ họp ăn cơm chiều, con đường làng vắng bóng người qua lại. Chấn thấy ngôi nhà của Cha thấp thoáng đàng sau khóm trúc. Chấn mong là Cha có nhà để Chấn được gặp Cha. Khi nhà chồng báo với Cha là trả Chấn về, Cha đã qua An Nhơn Tây bàn lại, nhưng chồng Chấn cũng có ý nghe lời Má chồng Chấn, không hề cất một tiếng nói để xin cho Chấn được ở lại. Cuối cùng Cha phải nói với Chấn: - Chấn à, vợ chồng là duyên nợ, bây không nên cưỡng cầu. Tại cái số bây như vậy, bây cũng đừng trách Má bây. - Cha không trách làm sao tui dám trách Má. Chấn nói với Cha như vậy, nhưng trong lòng Chấn rất buồn việc làm của Má. Sau khi Chấn theo chồng về An Nhơn Tây, Má ở nhà thường xuyên hơn. Lúc đó Cha rất vui. Cha mướn thêm chị Ba Tương phụ giúp công việc nhà cho Má. Chị Ba Tương cũng trạc tuổi Chấn, dáng người vạm vỡ, đỡ đần công việc cho Má rất nhiều. Mỗi tháng ông Năm Bụng hay ghé nhà gặp Má để coi việc mua heo và hay nói chuyện với Má về chuyện nuôi heo. Lần nào ông Năm cũng ngồi ở phòng khách tới chiều khi Cha Chấn gần về, ông ta mới đi. Mỗi lần bán heo, Má đưa Cha ít tiền đi, Cha thắc mắc: - Má con Chấn nè, bây giờ heo lên giá mà sao tiền Má nó đưa cho tui ít đi là sao? Má gây lại: - Ông nói cái gì vậy chớ? Heo có giá hết mà, heo cân bao nhiêu thì người ta trả mình bấy nhiêu tiền thôi chớ. - Có phải bà bán cho ông Năm Bụng đó hôn? Má nổi sùng lên: - Ông nghi ngờ tui cái gì đây? Cha đấu dịu lại: - Má nó thiệt là. Tui chỉ nói vậy thôi mà. - Ông không bằng lòng chuyện nhà giao cho tui thì tui về Cha Má tui tui ở. Ông Hội Đồng Là tưởng bà Hội Đồng chỉ nói vậy thôi, ai dè, ngày hôm sau khi đi làm về, bà Hội Đồng đã không còn ở nhà nữa. Ông la lên: - Tương à Tương, bà đâu rồi. Cô Ba Tương trả lời: - Bà dọn đồ đi rồi ông ơi. Bà kêu con nói với ông là đừng đi kiếm bà. Bà không muốn về nhà này nữa. - Bây có biết Bà đi đâu hôn? - Bà hổng có nói cho con biết ông ơi. Mấy tháng trước con có nói ông coi chừng ông Năm Bụng nhưng ông hổng tin còn bạt tai con nữa. Có khi nào bà đi theo ông Năm Bụng hôn ông? - Bây câm cái miệng của bây lại. Nói tầm bậy tầm bạ không hà. Tuy trả lời Ba Tương như vậy nhưng ruột gan ông Hội Đồng rối bời. Chẳng lẽ Bà Hội Đồng lại làm chuyện đó sao? Ông xét lại ông không làm gì có lỗi với bà. Suốt đêm ông Hội Đồng trằn trọc, chờ đến sáng là ông đi xe ngựa xuống nhà nhạc gia để rước vợ về. Nhưng Bà Hội Đồng như bóng chim tăm cá, không có ở nhà Cha mẹ vợ, ông Hội Đồng Là cũng không biết đi đâu tìm bây giờ. Ông Hội Đồng Là lấy chìa khóa mở tủ coi lại giấy tờ, ông chợt thấy giấy tờ bán ruộng và bán Nhà Máy xay lúa. Ông lẩm bẩm: - Ủa, lạ kìa. Tui đâu có bán ruộng với Nhà Máy xay lúa hồi nào đâu cà. Ông nhìn kỹ tờ giấy bán ruộng và tờ giấy bán Nhà Máy Xay Lúa đã được Làng chứng, hóa ra Bà Hội Đồng đã bán hết mấy trăm mẫu ruộng của ông, chỉ còn vài mẫu ruộng gần nhà là Bà để lại. Ông Hội Đồng choáng váng mặt mày như người té từ trên cao xuống. Đột nhiên ông trở thành kẻ trắng tay. Ông gục đầu xuống bàn, sáng mai ông sẽ từ chức Hội Đồng, còn mặt mũi nào mà ra Nhà Làng làm việc. Chuyện nhà lo không xong còn lo chi đến chuyện Làng, chuyện Nước. Chuyện xấu nào cũng lan truyền rất nhanh. Chuyện Bà Hội Đồng Là bỏ chồng con đi theo người đàn ông khác chẳng mấy chốc đầu trên xóm đưới đều rõ chuyện. Chuyện lan đến An Nhơn Tây. Ba Má chồng Chấn kêu Chấn ra hỏi chuyện, rồi từ đó thái độ của họ đối với Chấn càng ngày càng xấu đi. Anh Hai Tiệm cũng lạnh nhạt với Chấn. Hồi đó mỗi khi anh Hai Tiệm ra bờ sông câu cá là hay dắt Chấn đi theo. Hai vợ chồng ngồi ngắm trời ngắm đất và anh Hai Tiệm kể chuyện cho Chấn nghe. Chuyện bà con họ hàng, chuyện thời sự, chuyện bên tây bên tàu… Chấn vừa thương chồng vừa cảm phục sự hiểu biết của chồng. Chấn thấy Chấn rất hạnh phúc và may mắn có được một chỗ nương tựa tốt đẹp. Dòng sông bây giờ vẫn còn đó nhưng Chấn đã trở thành kẻ sống thừa trong nhà chồng. Hầu như ngày nào bà già chồng cũng chửi và đánh đập Chấn không tiếc tay. Chấn làm việc nhà rất giỏi nhưng cũng không làm bà vừa lòng. Tết nhất, giỗ quảy gì cũng một tay Chấn lo nhưng hình như nhà chồng không cần sự có mặt của Chấn nữa. Có lần bà ta còn lấy một que sắt bỏ vào lò nướng đỏ lên rồi ấn vào đùi non của Chấn. Mặc kệ Chấn van xin khóc lóc, bà cũng không ngừng tay. Hai bên đùi Chấn nổi lên những vết thẹo lằn ngang lằn dọc. Cho đến một hôm anh Hai Tiệm kêu Chấn ra nói riêng: - Má thằng Thinh, tui nói mình nghe, tui thấy mình bị Má ghét bỏ như vậy, tui cũng đau lòng lắm. Tui nói hết lời với Má rồi mà cũng không được. Má kêu tui thôi mình. Nhà chia dọc của chia hai. Tui cũng hổng biết làm sao, chỉ có như vậy mình mới không phải khổ nữa. Chấn chua xót khi nghe những lời nói vô tình của anh Hai Tiệm. Tình nghĩa vợ chồng mà lúc nào Chấn cũng tôn thờ bây giờ không còn gì để mà quý nữa. Người chồng có bằng cấp, chữ nghĩa nhiều mà sao tình yêu quá ít ỏi. Ngày đám cưới Chấn, hai họ đưa rước ồn ào, mọi người vui vẻ tấp nập. Hôm nay một mình Chấn lặng lẽ trên đường về nhà. Anh Ba Đực sau ngày đám cưới Chấn nghe đâu cũng đã bỏ xứ ra đi. Đi ngang qua thửa ruộng ngày trước anh Ba Đực vẫn hay cày bừa cho Cha Chấn, Chấn nghe trái tim nhói đau. Chấn mường tượng như anh Ba Đực còn buông tiếng thá dí với cặp trâu của gia đình. Những lời anh Đực nói ngày nào còn văng vẳng: “Tội nghiệp cô Hai thì thôi. Gia đình có tiền mà sao tui thấy cô Hai cực quá.”. Cây xoài bên cạnh thửa ruộng mà ngày xưa Chấn hay ngồi chờ anh Ba Đực dưới gốc cây để anh Đực ăn cơm trưa vẫn còn đó, nhưng anh Đực đã không còn ngồi đó nữa. Nước mắt của Chấn bỗng lăn dài trên má. Cảnh cũ vẫn còn đây nhưng tất cả đã thay đổi hết rồi. Chấn thở dài lo lắng cho những ngày tháng sắp đến. Chấn thương yêu chồng, nhịn nhục chịu đựng sự hành hạ của Má chồng cùng sự quá quắt của 4 cô em chồng. Chấn tưởng rằng sẽ được cùng chồng răng long đầu bạc, ai ngờ nửa đường đứt gánh. Chấn không có lỗi gì hết nhưng bên chồng tìm cách đổ lỗi cho việc bỏ nhà ra đi của Má Chấn để ruồng bỏ Chấn. “Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra”. Tương lai của Chấn hoàn toàn đen tối. Cha Chấn đã suy sụp từ ngày Bà Hội Đồng bặt tăm. Thằng Ba Tuội phải nghỉ học ngang xương, Cha không còn tài sản để lo cho nó học ở Sài Gòn nữa. Con Tư Phuống phải mở quán bán cháo lòng để phụ giúp cho Cha, Năm Xẩm thì cứ suốt ngày khóc đòi Má rồi lại ốm đau hoài. Cành nhà ngày nào khá giả bỗng chốc trở thành bần hàn. Chấn biết trách ai bây giờ cho số phận của Chấn quá bi thương. Chấn nhớ lại sự tích con trâu. Hay là kiếp trước Chấn là vị tiên gây nên lỗi lầm nên kiếp này phải chịu khổ như kiếp của con trâu. Trâu kéo cày trả nợ loài người, Chấn chịu đau khổ để trả nợ này cho ai đây? Nhìn lại đứa bé còn nhỏ ngồi trên cái thúng, Chấn ngậm ngùi lại cất bước đi .....
Thanh Huyền Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/May/2016 lúc 9:46am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 25/May/2016 lúc 10:15am |
Trời về chiều mây tím giăng ngang, từng đàn chim nhỏ quay về tổ ấm sau một ngày đi kiếm ăn, hàng cây bên đường đang khoác lên mình những chiếc lá non xanh mơn mởn trên cành như để báo hiệu cho cuộc đời biết rằng mùa xuân thật sự đang quay về . *** Ngồi nơi dảy bàn được kê ngay ngắn ngoài sân của cái quán cà phê sân vườn, vừa nhấm nháp hương vị cà phê thứ thiệt vừa ngồi ôn lại những kỷ niệm vui buồn trong cuộc sống, đang thả hồn và chìm đắm vào ngóc ngách của quá khứ, chợt phía sau tôi có tiếng hỏi : – Xin anh cho hỏi thăm đã mấy giờ rồi ạ! Tôi ngoảnh mặt lại rồi buộc miệng trả lời theo phản ứng tự nhiên . – kém năm là mười bảy giờ rồi em . Sau câu trả lời tôi nhìn về phía cô gái vừa lên tiếng hỏi, tôi giật thót mình vì cô gái này có gương mặt rất quen,tôi giật mình là vì gương mặt nàng ta giống y hệt một cô gái mà tôi từng gặp … *** Về đơn vị mới chúng tôi như những chú chim non mới ra ràng, tập tành bay nhảy để tồn tại trong môi trường gian lao nguy hiểm. Chiếc GMC cũ kỹ già nua với màu xanh đã nhạt nhòa theo năm tháng, mỗi khi lên dốc cầu tiếng máy nó gầm rú và nhả từng đụn khói đen ngòm vào bầu trời xanh thẳm phía trên , nó đưa những chú “lính sữa” chúng tôi về đơn vị mới, xe chạy từ Gia định đưa chúng tôi vượt cầu xa lộ Sài gòn, khi xe leo đến trên đỉnh cầu tôi phóng tầm mắt về phía xa xa, từng vạt dừa nước xanh thẩm mọc ven những con rạch phía bên kia sông Sài gòn trông như những con rắn khổng lồ đang vặn vẹo uốn mình đi tìm mồi, quanh đó những ruộng lúa chín vàng trải dài từ mép xa lộ vô tới phía bờ sông Sài gòn, nó đẹp tợ như tấm thảm khổng lồ được trải xuống để chào đón chúng tôi. Xe đỗ dốc chạy một mạch rồi quẹo vào ngã ba Cát Lái, đoạn đường từ đây vào Cát lái đi qua nhiều địa danh thân thương như ngã ba Giồng ông tố, Bình Trưng. Bưng ông Thoàng, cầu Võ khế, Ấp Mỹ Thủy, Cát lái , Thành Tuy Hạ… Tài xế chiếc GMC này một tay Lính hẳn còn trẻ anh ta chạy thật nhanh, đường liên tỉnh lộ nhỏ xíu xe máy xe lôi chạy dập dìu mà anh ta tránh né rất điệu nghệ nhưng đôi lúc cũng cho chúng tôi nhừ người vì những cái ổ gà trên đường, có đứa bị sốc đầu đập vào những thanh chắn ngang trên xe khiến nó buộc miệng rủa tài xế : – Cha nội này đúng là ngựa con háu đá, chạy chậm chậm thôi mắc gì chạy như ma đuổi vậy . Một đứa trong bọn chúng tôi trả lời thay cho tay tài xế : – Chịu khó vịn chắc đi tụi bây, nhiều khi chổ này mất an ninh ảnh sợ bị phục kích hoặc bắn sẻ gì đó nên vọt lẹ là đúng sách vở rồi . Thằng nọ dường như cơn đau hẳn còn nên đỗ quạu đớp lại đứa kia liền: – Sách sách cái khỉ khô họ , ở đây sát nách Sài gòn mà sợ cái quái gì, chạy ẩu thì có . Thấy hai đứa vì lý do không đâu cãi nhau mất vui tôi ra tay can thiệp liền: – Hai ông ơi! Mới hôm kia lúc làm lễ mãn khóa hai ông còn bịn rin vậy mà hôm nay cãi nhau rồi, mỗi người nhịn một chút đi, ông bà mình nói : – Một câu nhịn chín câu cự , úi da lộn rồi chín câu lành mới phải . Cũng may sau câu can gián của tôi hai thằng nọ bắt tay làm hòa , chẳng mấy chốc chiếc xe đỗ xịch xuống ngay cầu Mỹ Thủy. Đây là chiếc cầu sắt dã chiến do công binh lắp đặt, thành cầu làm bằng những thanh sắt dầy chắc chắn được liên kết lại bằng những thanh chằng chéo bởi các con Bu loong thật to, mặt cầu được lót bằng những thanh gổ to như các thanh tà vẹt dã chiến của đường ray xe lửa, do gổ lát trên mặt cầu thưa khiến xe chạy rất dằn sốc mục đích hạn chế tốc độ khi xe qua cầu cho an toàn , do cầu hẹp chỉ di chuyển được một làn xe nên đơn vị đồn trú bảo vệ cầu phải lập cái “Chuồng cu” phía đầu cầu hướng từ phía Cát Lái và cắt cử người vừa ngồi gác vừa có nhiệm vụ điều khiển cái bảng hiệu dừng xe cho mỗi một chiều lưu thông . Chúng tôi trình diện đơn vị một đại đội hành quân quanh vùng Từ Cát Lái đến ấp Bình Trưng , thỉnh thoảng phải tăng phái hành quân sang vùng Cầu Võ Khế và ấp Long Trường, nhưng nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ cây cầu Mỹ Thủy cho thông suốt và đây là con đường độc đạo từ cảng Cát Lái ra xa lộ Sài gòn . Tôi còn nhớ như in sáng nọ đang ngồi gác trên cái “Chuồng cu”, thời bấy giờ xe cộ qua cầu cũng thưa thớt, họa hoằn lắm mới có đoàn công voa chở hàng hóa đi ngang thì điều khiển hơi vất vả, nên việc ngồi gác cũng như được ” Xả hơi” bù lại những ngày lội bưng biền hành quân gian khổ, là lính mới ra trường còn bở ngỡ và còn ảnh hưởng hơi hám của học đường nên tôi đem quyển sách ca rô có in hình bông hoa cho từng trang giấy để viết nhật ký để làm thơ khi có dịp về phép thăm nhà khoe với bạn bè em út cho vui nhà vui cửa . Thấy xe bên Cát Lái đã ngớt tôi liền xoay cái bảng cho phép xe từ phía xa lộ qua cầu, không ngờ bất chợt một chiếc Jeep lùn có bốn quân nhân Hoa kỳ ngồi trên xe cố tình nhấn ga vượt qua cầu gây nguy hiểm cho chiếc xe lôi đạp đang lên cầu, quá bất ngờ không kịp phản ứng nên tôi quyết định bắn chỉ thiên một phát khiến tài xế chiếc jeep thắng xe thật gấp, tôi nhoài người ra khỏi cái chuồng cu lấy tay chỉ vào cái bảng cấm lưu thông, khi ấy mấy anh Lính Hoa kỳ mới nhận ra lỗi của mình các anh cho xe de sát vào lề nhường chi chiếc xe lôi tiếp tục qua cầu, Khi cầu thông thoáng tôi xoay bảng lại và phất tay ra hiệu cho các anh lính Hoa Kỳ đi tiếp , chiếc xe jeep rú ga chạy nhanh đến chổ vọng gác tôi đang ngồi, tôi vẫy tay chào với thiện ý mong các chàng ta thông cảm sự việc vừa rồi, như hiểu ý các chàng cười rồi bổng dưng tôi thấy anh lính ngồi sau xe quăng một gói gì đó rớt ngay dưới chân tôi , điếng hồn sợ rằng phát súng cảnh cáo của tôi khi nãy đã làm các anh lính để tâm thù ghét nên họ liệng mìn hoặc chất nổ gì đó nhằm cho tôi đi thăm ông bà với cái tội dám giỡn mặt với đồng minh . Tôi nhòa người ra khỏi vọng gác và nhanh như sóc tôi lăn vài vòng núp vào mấy hàng bao cát bên dưới , không nghe tiếng nổ mà nghe tiếng cười đùa và tiếng xí xô xí xào gì đó của các anh lính nọ mà tôi chẳng hiểu họ nói cái gì . Tiếng xe Jeep chạy xa dần rồi mất hút, lúc này tôi mới hoàn hồn biết mình không bị ám sát như mình nghĩ, tôi lên vọng gác nhìn vào chổ gói đồ khi nãy, nó được bao bọc bởi lớp nylon đen dầy và thu hết can đảm mở ra xem, thật bất ngờ nào là Chocolate , bánh ngọt , sữa tươi , thuốc lá và đồ hộp hiện ra trước mắt tôi, thì ra các anh chàng này chuộc lỗi theo kiểu Mỹ đây, tôi vui mừng thu chiến lợi phẩm từ trên trời rơi xuống và ấn tượng tốt đẹp về cách xin lỗi hào phóng của các anh chàng nọ . *** Đêm nọ chúng tôi vào đóng quân ngoài hàng ba của các căn nhà, nơi đây vùng thôn quê chuyên trồng những cây ăn trái cao rậm rạp, do nước sông Sài gòn gặp triều cường dâng cao có hôm nước ngập di chuyển tới lui phải lội bì bỏm trong làn nước mấp mé dưới chân, không khí ẩm thấp khiến chúng tôi rất khó chịu nhưng đã vào lính phải chấp nhận những nhọc nhằn gian lao, đang cột cái võng vào hai cây cột trước nhà dân, bất chợt có tiếng gầm gừ của chú chó bên trong nhà, dường như nó phát giác ra chúng tôi nó bắt đầu tru lên và sủa vang trời, đám chó của các nhà gần đấy bắt đầu hùa theo sủa nghe đinh tai nhức óc, quá bất ngờ chưa kịp phản ứng thì đèn trong nhà được bật sáng, ông chủ nhà một bác lớn tuổi dáng vạm vỡ cầm cái cây gậy tầm vong mở cửa ra nhìn, thấy đám lính chúng tôi ông đã hiểu vì sao đám chó làm dữ, với giọng thật hiền ông nói : – Mấy chú làm tui điếng hồn, tui cứ tưởng trộm đạo gì đó ai dè mấy chú, vô nhà vô nhà tui pha trà cho uống, có bộ ván kia và mấy cây cột trong nhà mấy chú giăng võng ngủ tránh sương tránh gió . Nói xong ông mau mắn ra phía sau nhà nhóm lửa nấu nước pha trà, vợ chồng bác Hai chủ nhà thật tử tế, không ngại đã cho chúng tôi vào nhà tá túc qua đêm, đã vậy ông còn kêu bà Hai nấu một nồi chè đậu xanh với hột vịt thật to đãi chúng tôi ăn thật ngon, đang húp từng muỗng chè ngon ngọt thì bên ngoài có cô gái tướng cao mặc trên người bộ đồ bà ba thật dễ thương bước vào, cô gái có gương mặt dễ nhìn và thật hiền nhất là đôi mắt thật đẹp khiến mới chạm mắt cô ta lần đầu cũng đủ làm tôi bối rối vô cùng *** – Anh hỏi thiệt có anh nào trồng cây si chưa vậy ? Với nụ cười tươi và đôi mắt đẹp mê hồn dường như cũng đang cười, Thật nói: – Dạ có chứ anh, ở miệt vườn này mười tám hai mươi là lập gia đình rồi, ảnh làm trên Sài gòn, năm nay chắc tụi em làm đám cưới, lúc đó em gửi thiệp mời anh đí nghe . Tôi cười và ghẹo em : – Tụi anh rày đây mai đó, biểt đâu mà mời, dù sao anh cũng cảm ơn em có lòng với anh . Thật nói tiếp: – Anh đi tới đâu tụi em cũng tìm ra hết. Cái đất Gia định này chú có đâu xa mà tìm không ra . Sau cái ngày biết được em là hoa có chủ tự dưng nó làm tôi buồn buồn, thú thật tôi có cảm tình với em từ cái nhìn đầu tiên, lúc này tôi chợt nhớ lại câu thơ của thi sỹ nào đó : ” Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm hồ dễ mấy ai quên “. Đơn vị chúng tôi luân phiên
thay đổi chổ đóng quân đôi ba lần , lần nọ chúng tôi quay lại nhà vợ
chồng bác Hai , khi đoàn quân chúng tôi mới lấp ló ngoài ngỏ thì Bác Hai
chạy ra níu chúng tôi vào nhà với thái độ như đón người thân từ xa trở
về, nghĩa cử của bác Hai khiến anh em chúng tôi vô cùng cảm động. – Hổng có cái gì hết Thôi anh đem hai trái ổi ăn lấy thảo. Thật bất ngờ với món quà nhỏ bé nhưng chứa chan tình cảm, đến giờ thú thật tôi không thể hiểu được tình cảm nàng dành cho tôi là gì , Tình nhân thì không phải rồi vì em đã có ý trung nhân, còn tôi một người lính quèn không hơn không kém, tôi lờ mờ đóan già đoán non có lẽ tình anh em hay rộng hơn là tình người tình quân dân cá nước … *** Gió xuân man mác thổi về, trên cành cây kẻ lá nhú những chồi xanh, các loài hoa dại cũng mọc ven đường hành quân của chúng tôi, nhìn đôi bướm đang bay là sà trên đầu ngọn cỏ tôi liên tưởng đến ngày hợp cẩn giao bôi của Thật, nàng sẽ cùng chồng dìu nhau qua bến bờ xa lạ và sẽ mãi mãi bên nhau như đôi bướm xinh kia, mãi mê liên tưởng khiến tôi muốn ghen với cái hạnh phúc của nàng thì tiếng trực thăng bốc chúng tôi trở về sau ba ngày hành quân vất vả . *** Tôi quăng cái ba lô vội xuống đất , với bộ quân phục đẫm ướt mồ hôi, tôi điếng hồn hốt hoảng đến tột độ nhìn cổ quan tài nằm giữa nhà. Di ảnh của em tôi đây sao, cứ ngỡ mình đang lạc vào cơn chiêm bao mộng mị tôi tự véo vào tay mình, cái đau nhói đã nói lên đây là sự thật, tôi đến gần bên bác Hai tự dưng khóe mắt tôi lệ ướt tuôn trào, tôi khẻ hỏi bác Hai nguồn cơn nào khiến em ra đi khi tuổi xuân đang hồi phơi phới, bác Hai cố nén đau thương bác móc trong túi lá thư gấp nếp trao cho tôi. Tía má thương mến. Tôi thắp ba nén nhang khấn vái . Mong em quên bao nỗi muộn phiền trong cuộc sống , tình em tôi vẫn mãi ghi tâm . *** – Anh gì đó ơi, có việc gì nà anh nhìn làm em sợ quá . Tôi hoàn hồn trả lời cô gái : – À à anh thấy em rất giống một người anh quen ngày xưa, cô ấy tên Thật. Đến phiên cô gái ngạc nhiên rồi đáp: – Em cũng tên Thật nè . Mới năm giờ chiều trời hãy còn sáng mà nghe cô gái trả lời khiến tôi rụng rời tay chân và thầm nghĩ : ” Chẳng lẽ có tái sanh thật hay sao “ Qua suy nghĩ này nó khiến tôi nỗi da gà, tôi vội nói cho qua chuyện : – Ơ không . Xin lỗi em anh nhìn lầm, thôi không có gì anh chào em nhé . Cô gái nhoẽn miệng cười hệt như nụ cười của Thật đã cười với tôi hơn bốn mươi năm qua. *** Hai Hùng SG |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 31/May/2016 lúc 10:49am |
Con Người Có SốTên hắn là Khải. Hắn học với tôi năm lớp 11 tại trường Tân Phương, Gò Vấp. Nhà hắn ở trại định cư Cái Sắn nằm giữa hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá. Hình như bố mẹ hắn có quen với một ông trùm họ đạo ngày trước cũng ở Cái Sắn, sau lên Sài Gòn, trông coi giúp Cha sở ở nhà thờ Ngã năm Bình Hòa, Gia Định.
Rồi
hắn lên Sài Gòn, nhờ ông trùm đó xin với Cha cho ở nhờ ngoài hành lang
nhà thờ, làm người kéo chuông, trông coi, quét dọn… để có chỗ ăn ở, đi
học. Cha thấy hắn ngoan ngoãn, lễ phép, nhất là trước đây lại cùng họ
đạo với ông trùm nên rất vui lòng.
Lúc
ấy, tại Xóm Gà Gia Định có trường Tân Phương của ông Phan Ngô mới mở,
dạy tới lớp Đệ Nhị (tức lớp 11 bây giờ). Cha nói với ông Phan Ngô xin
cho hắn học miễn phí để chuẩn bị đi thi Tú tài I. Phần vì trường mới mở
đang cần học sinh, phần vì nể lời Cha nên ông Phan Ngô cũng đồng ý.
Ngoài ra, Cha thấy hắn ham học ngoại ngữ, giỏi tiếng Anh nên mỗi tháng
cho tiền hắn học thêm Anh văn cao cấp ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Đĩnh Chi,
Tân Định.
Như
vậy, ngoài việc học ở trường Tân Phương vào các buổi sáng, cứ đến buổi
chiều, mỗi tuần ba lần, hắn cuốc bộ từ Gia Định lên Tân Định để học tại
Hội Việt Mỹ. Cha cũng thích ngoại ngữ, buổi tối hắn thường chỉ dẫn thêm
tiếng Anh cho Cha.
Trường
hợp tôi thì lại khác. Nhà tôi cũng nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt nhưng tôi
thi đậu hạng nhì vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi nên
được học bổng, mỗi tháng 300 đồng, tương đương với một chỉ vàng lúc bấy
giờ, việc sách vở, học hành đỡ phải lo lắng.
Ba
năm sau, khi bắt đầu lên đến lớp Đệ Ngũ (lớp 8), tôi và hai bạn khác
trong lớp rủ nhau “học nhảy” : Trường Nguyễn Trãi lúc đó chưa có cơ sở
nên phải học nhờ tại trường Tiểu học Đa Kao ở số 94 đường Phan Đình
Phùng (bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tất cả các lớp đều học buổi
chiều, còn buổi sáng thì học sinh trường Đa Kao học.
Buổi
sáng được nghỉ, ba đứa chúng tôi đóng học phí học lớp Đệ Tứ (lớp 9)
trường Cộng Hòa của giáo sư Phạm Văn Vận ở đường Pasteur để thi Trung
học Phổ thông, nếu đậu sẽ sớm được một năm, cái đó kêu là “học nhảy”.
Nhà nghèo, nên dù học thêm lớp Đệ Tứ trường tư nhưng tôi vẫn tiếp tục
học lớp Đệ Ngũ trường công để được học bổng và đề phòng nếu rớt Trung
học thì vẫn có chân trong trường công.
Cuối
năm ấy, cả ba đứa chúng tôi đều đậu Trung học, rồi thi vào lớp Đệ Tam
(lớp 10) trường Hồ Ngọc Cẩn, tức lại trở lại trường công. Tôi đậu hạng 5
trong số 52 học sinh thi đậu, hơi thấp, không được học bổng vì Bộ Quốc
gia Giáo dục chỉ cho mỗi lớp có 3 người, từ hạng 1 tới hạng 3. Hai anh
bạn yên tâm học lớp Đệ Tam tại Hồ Ngọc Cẩn, còn tôi, nhảy được một năm
nhưng mất học bổng, tôi ân hận lắm.
Đúng
lúc ấy ông Phan Ngô mở trường Tân Phương có tới lớp Đệ Nhị (lớp 11 bây
giờ – thời đó trường tư chưa trường nào có lớp Đệ Nhất, học xong lớp Đệ
Nhị, đậu xong Tú tài I được quyền xin vào Đệ Nhất trường công, bắt buộc
trường công phải nhận, thời ông Diệm là như thế, rất ưu tiên cho học
sinh).
Ông
Phan Ngô là hiệu trưởng trường Tân Thịnh ở đường Đinh Công Tráng, Tân
Định. Người em con chú con bác với ông là ông Phan Thuyết làm giám đốc.
Trường dạy giỏi, nổi tiếng nên rất đông học sinh. Nhưng không hiểu hai
anh em có chuyện xích mích gì đó nên bán trường, ông Phan Thuyết về mở
trường Đạt Đức ở Phú Nhuận, còn ông Phan Ngô mở trường Tân Phương ở Gò
Vấp.
Ông
cho người phát quảng cáo, mời học sinh thi cũng gọi là học bổng vào lớp
Đệ Nhị nhưng khác với học bổng của Bộ Quốc gia Giáo dục là lấy 3 người,
người hạng nhất và hạng nhì được miễn học phí, người hạng ba được giảm
50%, còn những người khác thì được cứu xét, nếu nghèo sẽ được giảm.
(“Học bổng” của nhà nước Việt Nam hiện nay cũng vậy, chỉ được miễn hay
giảm học phí chứ không có tiền. Sinh viên học giỏi mà nghèo thì có thể
vay, tối đa mỗi tam cá nguyệt được 400 ngàn đồng tức khoảng 20 đô-la Mỹ,
một năm được 1.6 triệu, tức 80 đô-la, sau khi tốt nghiệp, đi làm sẽ
phải trả lại). Học sinh thi khá đông. Tôi lại đậu hạng nhì nên được miễn
học phí.
Vào học lớp Đệ Nhị trường Tân Phương, tôi quen với hắn rồi dần dần hai đứa trở thành thân thiết với nhau.
Tôi
chưa từng thấy một người bạn nào nghèo như vậy. Ngày nào đi học hắn
cũng mặc một bộ đồ duy nhất : chiếc áo sơ mi cũ màu cháo lòng có hai
miếng vá, một miếng ở lưng, một miếng ở vai; chiếc quần ka ki cũng cũ,
vá một miếng lớn ở mông. Có lẽ hắn tự vá lấy bằng chỉ đen, đường chỉ
vụng về trông thô kệch chẳng ra sao cả. Chân hắn đi đôi dép Nhật mòn
vẹt, sứt mẻ, một quai màu xanh, một quai màu đỏ, cột bằng dây kẽm. Có
lần tôi hỏi sao hai quai dép lại bên xanh bên đỏ ? Hắn cười, hơi mắc cỡ :
“Tại mình nhặt được trong thùng rác ấy mà. Nó bị đứt, họ vứt đi, mình
kiếm được hai cái quai cột vô đi tạm chứ chẳng lẽ đi học lại đi chân
không”.
Hắn
nghèo, cả lớp ai cũng biết nhưng ai cũng thông cảm, chẳng ai chê cười.
Nhất là các chị, nhiều khi giấm giúi cho hắn tiền uống nước. Ngày tết,
trường tổ chức cắm trại, thi đấu bóng chuyền và văn nghệ ở trong sân,
mỗi lớp có một cái quầy nho nhỏ cung cấp bánh mì, kẹo bánh và nước ngọt
cho lớp của mình. Mỗi bạn trong lớp đóng mỗi người 10 đồng, hắn không có
tiền, định không tham dự, các chị bàn nhau không bắt hắn đóng.
Cuối
năm ấy, lớp chúng tôi có 51 người, thi đậu ngay trong khóa 1 là 13
người, trong đó có tôi và hắn. Tỉ lệ như vậy là khá cao, bởi vì thi tú
tài thời đó rất khó, trường tư giỏi lắm cũng chỉ đậu khoảng 10% là cùng,
đằng này đậu tới hơn 25%. Thầy Phan Ngô mừng lắm, thầy nói : “Trường
Tân Phương là nhứt, không khác gì trường Tân Thịnh ngày trước”.
Sau
khi đậu xong Tú tài phần I, các bạn người Nam thì đa số nộp đơn vào học
lớp Đệ Nhất (lớp 12) trường Petrus Ký, còn tôi và hắn là người Bắc nên
nộp đơn vào trường Chu Văn An. Tôi từ trường công lại trở lại trường
công, “nhảy” được hai năm. Còn hắn, có sự tiến bộ : ông trùm nhà thờ Ngã
năm Bình Hòa cho hắn mượn một chiếc xe đạp cũ. Hội Phụ huynh học sinh
Chu Văn An cứu xét, thấy hắn nghèo, cho hai kỳ học bổng, mỗi kỳ 500 đồng
và một bộ quần áo may sẵn, hơi ngắn.
Cuối
năm ấy, đậu xong Tú tài phần II, tôi thi vào Đại học Sư Phạm còn hắn
thì thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ nhưng rớt. “Cậu ngốc lắm, giá thi Sư
Phạm với tớ có lẽ đã đậu, thi Kỹ sư Phú Thọ khó muốn chết, tớ không dám
nghĩ đến”. “Tại tớ thi ngành Điện nên mới rớt chứ giá thi Công chánh hay
Công nghệ thì đỡ hơn”.
Hắn
rớt, đáng lẽ bị kêu đi sĩ quan Thủ Đức nhưng có người anh cũng đã ở
trong quân đội nên được hoãn. “Tớ phải về Cái Sắn làm giấy tờ nộp hồ sơ
hoãn dịch cậu ạ”. “Hoãn thì được rồi nhưng làm sao có tiền đi xe ?”.
“Cha có cho. Cha dặn làm giấy tờ xong, nhớ lên xem người ta có cho thi
vào ngành nào thì thi chứ không lại lỡ mất một năm học”.
Hôm
lên, hắn đến nhà tôi chơi và hỏi những ngày hắn về Cái Sắn, ở Sài Gòn
họ có cho thi gì không. Tôi nói Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho thi
lấy 50 người vào học khóa Biên tập viên cảnh sát, học bổng mỗi tháng
cũng 1,500 đồng giống như Đại học Sư phạm và Quốc gia Hành chánh.
– “Biên tập viên cảnh sát là làm gì ?”.
– “Tớ không rõ, họ nói cũng học 3 năm, ra làm phó quận cảnh sát”.
– “Được đấy, có lẽ tớ sẽ nộp đơn thi Biên tập viên cảnh sát”.
Thời
chúng tôi, con nhà nghèo, thi vào ngành nào thì phải nhắm có học bổng
chứ nếu học những trường không có học bổng như Y khoa, Dược khoa, Luật,
Văn khoa, Khoa học v.v…, tuy không phải thi tuyển nhưng không có tiền ăn
học suốt bao nhiêu năm.
Giữa
lúc hắn đang lo làm đơn thi Biên tập viên cảnh sát thì có tin Bộ Quốc
gia Giáo dục ra thông cáo, Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO cho hai
học bổng, một thi tiếng Anh, du học tại Mỹ, một thi tiếng Pháp, du học
tại Pháp hay Thuỵ Sĩ gì đó, tất cả mọi khoản đều do Liên Hiệp Quốc đài
thọ, học tiến sĩ kinh tế, sau này sẽ ra làm cho Liên Hiệp Quốc, giúp đỡ
các nước nghèo.
– “Cậu đã biết tin đó chưa ?”.
– “Chưa, tớ không biết gì hết, nhà thờ đâu có radio mà nghe. Cậu có nộp đơn không ?”.
– “Không, Tú tài II tớ đậu Bình Thứ chứ đâu phải hạng Bình như cậu. Họ bắt phải từ hạng Bình trở lên mới được thi”.
Thời chúng tôi, thi tú tài I hay tú tài II, kết quả thi đậu có 5 hạng gọi theo tiếng Pháp : đậu thường gọi là hạng Thứ (P***able); trên Thứ là Bình Thứ (***ez Bien); trên Bình Thứ là Bình (Bien); trên Bình là Ưu (Honorable); rồi đến Tối Ưu (Très Honorable) là hết mức, môn nào cũng phải đạt tối đa khoảng 20 điểm. Hắn đậu Bình, cao hơn tôi một bậc.
– “Nộp thì nộp vậy thôi chứ cả Anh văn lẫn Pháp văn mới lấy có hai người, khó lắm, chắc tớ không đậu được đâu”.
– “Biết đâu đấy, cứ nộp đơn đi, may mà giờ vinh quang đã điểm thì bọn cắc ké nghèo mạt rệp như tụi mình cũng ngon lành ra phết”.
– “Vậy tớ nộp đơn cả bên UNESCO lẫn bên Biên tập viên cho chắc ăn”.
Hắn
nộp đơn xong, khoảng hai tháng sau thì dự cuộc thi của UNESCO. Hắn kể
rằng, đợt thứ nhất, hơn 200 người cả Anh văn lẫn Pháp văn, thi viết,
loại bớt còn 50 người. Đợt thứ nhì, 50 người lại loại lần nữa, còn lại
10 người trong đó còn có hắn. Rồi 5 người trong nhóm Anh văn bọn hắn vào
“sát hạch” tại tòa đại sứ Mỹ, còn 5 người nhóm Pháp văn thì sát hạch
tại tòa đại sứ Pháp hay Thuỵ Sĩ, hắn không để ý.
Hắn
kể, giám khảo nhóm Anh văn của hắn gồm ba giáo sư, một ông người Mỹ,
một ông người Canada, một ông người Úc hay Tân Tây Lan gì đó hắn không
biết rõ, tất cả đều nói tiếng Anh.
Họ
thay đổi nhau quay hắn về tình hình kinh tế các nước trên thế giới, về
vai trò của một nhà kinh tế học đối với các nước nghèo như ở châu Phi
chẳng hạn.
Cuối
cùng, vị giáo sư người Úc hay Tân Tây Lan hỏi hắn quê ở đâu, cha mẹ làm
nghề gì, từ nhỏ tới lớn sống như thế nào…, hắn nói thật rằng quê hắn ở
Nam Định, di cư vào Nam năm 1954, ở trại định cư Cái Sắn thuộc tỉnh Long
Xuyên, bố mẹ hắn rất nghèo, làm nghề trồng cói và dệt chiếu ở Cái Sắn,
còn hắn thì kéo chuông và hầu hạ trong Nhà thờ Bình Hòa để có chỗ ăn
học.
Tất
cả ba vị giám khảo đều trợn tròn mắt, không ngờ một học sinh được vào
chung kết của một cuộc thi quan trọng như vậy mà gia đình lại nghèo đến
thế. “Dám cậu thắng mấy người kia nhờ cái nghèo của cậu lắm ạ ! Người
Tây phương họ có cái nhìn khác lắm, sẵn sàng ưu tiên cho người nghèo nếu
thấy thực sự đó là người giỏi chứ không khinh bỉ người nghèo như bên
Việt Nam mình”.
–
“Tớ cũng hy vọng như vậy. Trông nét mặt ba vị giám khảo thấy họ có vẻ
có cảm tình với tớ lắm. Nhưng thôi, kệ, muốn đến đâu thì đến. Tớ cam
đoan với cậu thi Biên tập viên cảnh sát tớ đậu là cái chắc. Làm phó quận
trưởng cảnh sát cũng bảnh ra phết !”.
Trong
khi tâm sự, hắn kể với tôi rằng bữa đi mua giấy tờ lập hồ sơ thi du
học, hắn mua ở tiệm sách Thanh Trúc gần Ngã tư Phú Nhuận. Cô con gái bà
chủ cỡ chừng 15 – 16 tuổi, xinh lắm và rất tốt bụng. Thấy hắn vét túi mà
vẫn không đủ tiền trả, cô ta cười rồi cho luôn, không tính một đồng nào
cả.
– “Cô bé cỡ 15 – 16 tuổi, vậy là cô em. Cô chị lớn hơn, khoảng 17 – 18 tuổi, mặt tròn, cũng đẹp nhưng không xinh bằng cô em”.
– Ủa, thế cậu cũng biết tiệm đó?”.
– “Biết chứ, tớ là dân Phú Nhuận mà, vẫn mua sách ở tiệm đó”.
Tôi
kể cho hắn nghe bà mẹ còn tốt hơn nữa. Hồi tôi được phần thưởng cuối
năm ở trường Tân Phương, trong số các cuốn sách lãnh thưởng có cuốn Triết Học Nhập Môn của
tác giả gì tôi quên mất tên. Cuốn sách đó nghiên cứu về triết học nói
chung chứ không phải sách lớp Đệ Nhất dạy về triết học để đi thi tú tài
II. Tôi đem đến tiệm Thanh Trúc nhờ bà chủ đổi cho cuốn Luận Lý Học của tác giả Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, giáo sư triết trường Chu Văn An.
Bà
coi qua cuốn sách của tôi rồi cười : “Sách người ta tặng cho các trường
để phát phần thưởng thường là sách khó bán nên họ mới tặng. Tiệm tôi
không bán loại này. Nhưng thôi, cậu được phần thưởng như vậy là quý,
muốn đổi thì tôi cũng đổi để cậu may mắn, năm tới thi đậu. Một vài cuốn
sách chẳng đáng bao nhiêu…”.
Cuốn Luận Lý Học của giáo sư Trần Bích Lan đắt hơn cuốn Triết Học Nhập Môn một
chút nhưng bà chủ tiệm cũng cho luôn, không bắt trả tiền chênh
lệch. Tôi kết luận rằng bà mẹ tốt bụng như thế nên các cô con gái cũng
tốt là một chuyện thường.
Hắn
thở dài, nét mặt hơi buồn : “Nhà họ giàu, tiệm sách có tới mấy tầng lầu
ở ngoài mặt đường, còn mình thì nghèo rớt mồng tơi không đáng xách dép
cho họ. Tớ nói thật, nếu tớ được học bổng đi du học bên Mỹ kỳ này, đậu
xong tiến sĩ tớ sẽ trở về, quỳ xuống dưới chân cô ấy, nói với cô ấy rằng
nhờ cô cho giấy tờ lập hồ sơ nên tôi mới được du học, không bao giờ tôi
dám quên ơn cô…”.
Tôi
bật cười : “Cậu ngốc thấy mẹ, nếu đậu thì đến báo tin từ trước khi đi
cho người ta còn chờ đợi chứ đậu xong tiến sĩ, hàng chục năm trời, họ
lấy chồng mất tiêu rồi thì lúc ấy có ngồi mà khóc !”.
– “Ừ há, mình cũng ngu thật. Nhưng biết họ có đợi hay không ?”.
–
“Tại sao lại không ? Vấn đề là cậu có thắng được mấy người kia hay
không chứ nhà giàu thì họ khôn lắm, họ dư biết giá trị của một thằng học
sinh nghèo được học bổng du học bên Mỹ”.
Và
tôi nói thêm : – “Ngoài ra, sang đấy ăn ở ra sao, học hành thế nào cậu
luôn luôn viết thư về cho em chứ đâu phải như Kinh Kha sang Tần, một đi
là không trở lại”.
– “Ờ há, vậy mà tớ không nghĩ ra, tớ phải ghi địa chỉ tiệm sách nhà em mới được”.
Thế
rồi hắn đậu thật, hơn 200 người, lấy có 2 người, khó chứ không phải dễ.
Tội nghiệp, trước khi đi hắn vẫn còn nghèo bởi vì sang bên ấy, vào học
trường nào rồi người ta mới trả lại tiền vé máy bay và bắt đầu cho lãnh
học bổng chứ không phải họ đưa trước.
Mọi
thứ chi phí như mua sắm va-li, giày dép, quần áo mặc trong mùa lạnh, kể
cả tiền vé máy bay v.v… đều là của Cha (LM) cho. Cha còn nói hôm hắn
đi, Cha bận không đưa tiễn được nhưng sẽ cho tài xế chở hắn ra phi
trường.
– “Rồi ông cụ bà cụ cậu ở dưới Cái Sắn có lên không ?”.
Hắn lắc đầu, vẻ mặt buồn buồn :
–
“Không, gia đình tớ nghèo lắm, không có bà con anh em gì ở trên này. Bố
mẹ tớ nói lên đây vừa tốn tiền lại vừa làm phiền Cha, không có chỗ ở
chẳng lẽ lại ở nhờ Cha trong nhà thờ”.
Tôi
tưởng tượng ra cảnh hôm hắn đi, chắc chỉ có mình tôi và người tài xế
của Cha đưa hắn ra phi trường. Nhưng ra đến đấy người tài xế sẽ quay trở
lại chứ đâu có tiễn làm gì, chung quy chỉ có mình tôi mà thôi.
– “Cậu đã đến từ biệt cô bé chưa ?”.
– “Có,
tớ có đến nhưng cô ấy mắc đi học, chỉ gặp bà mẹ. Tớ kể cho bà ấy nghe
chuyện cô bé cho giấy tờ làm đơn, nhờ đó tớ mới được du học, tớ đến chào
từ biệt và gửi lời nhờ bà cám ơn cô bé giùm”.
– “Bà ấy có nói gì không ?”.
–
“Có, bà ấy xuýt xoa, thế ạ, quý hóa quá nhỉ, tôi không biết gì hết chứ
nếu biết tôi đã mời cậu đến nhà dùng bữa cơm thân mật. – Bao giờ cậu đi ?
– Dạ, thưa sáng mai. – Sáng mai, sớm vậy sao ? Vậy là không kịp rồi,
cậu không đến đây từ trước. Bà ấy tiếc lắm. Tớ cám ơn bà ấy rồi đi…”.
–
“Đó, cậu thấy chưa, tớ đã nói nhà giàu, nhất là một tiệm sách quen với
chữ nghĩa, họ không dại gì mà không biết giá trị của con người”, và tôi
giục :
– “Cậu đến nữa đi, phải gặp cô bé bằng được và dặn cô ấy chờ đợi, học xong cậu sẽ trở về”. Hắn lắc đầu :
– “Không dám đâu, đến sợ lại gặp bà ấy nữa tớ mắc cỡ lắm. Dù sao cô ấy cũng hãy còn nhỏ…”.
–
“Trời đất ơi, 15-16 tuổi mà nhỏ cái gì ! Sang đấy cậu phải học cử nhân,
cao học, tiến sĩ, ít nhất cũng 8 năm nữa. Lúc ấy cậu khoảng 28, cô bé
24, chả nhỏ một tí nào cả”.
Hắn khẽ thở dài :
– “Nói
thật với cậu, từ bé tới lớn tớ khổ sở quá nên không dám nghĩ tới chuyện
cao xa. Trước khi ra đi, tớ chỉ mong được nhìn thấy cô ấy một lần, được
nghe thấy cô ấy nói một tiếng là sung sướng lắm rồi. Sang đấy tớ sẽ cố
gắng học hành để đền đáp ơn nghĩa cô ấy…”.
Thật kỳ cục, có đáng gì đâu mấy tờ sơ yếu lý lịch, mấy
tờ mẫu đơn tiếng Việt phải dịch sang tiếng Anh để nộp cho cơ quan UNESCO mà tên
bạn tôi lại đặt nặng vấn đề đến thế?
Nếu cô bé không xinh xắn, tính tình không vui vẻ và
không có lòng thương người thì hắn có mê cô ta đến mức đó hay không?
Tưởng tượng tới cảnh hắn lên máy bay chẳng có ai đưa
tiễn, tôi nghĩ ra cách là ngay buổi chiều hôm đó đến tiệm sách kể hết mọi
chuyện với bà mẹ. Có cả cô bé cũng có ở đấy. Nghe tôi kể, cô chỉ cúi mặt mỉm
cười, hai gò má ửng hồng còn bà mẹ thì rất chú ý.
Cuối cùng, bà cười dễ dãi: “Hồi
sáng cậu ấy có đến đây, tôi có biết mọi chuyện. Ý cậu là muốn nhờ em Trúc đi
tiễn cậu ấy giùm phải không?”.
“Vâng ạ”.
“Mấy giờ thì cậu ấy lên máy bay?”.
“Dạ thưa 11 giờ 30, nhưng phải đến sớm ít nhất 2 tiếng
đồng hồ để nó còn vào làm thủ tục”.
“Có, tôi biết. Sáng mai Chủ nhật em Trúc đi được. Vậy
khoảng 8 giờ 30 cậu đến đây đi cả với em cho vui. Chắc có em Thanh cũng đi
nữa”.
Tôi đoán Thanh là tên người con gái lớn của bà.
“Dạ, vâng ạ”.
Cô bé vẫn cúi mặt cười, tay cầm cây bút Bic không mở
nắp vẽ vẽ bâng quơ trên mặt tủ kính quầy hàng cho đỡ mắc cỡ, chắc cô cũng quên không nhớ mặt hắn.
Sáng hôm sau, tôi đến. Hai cô con gái mặc juýp theo
kiểu đơn giản thời đó, cô lớn juýp trắng, cô bé juýp hồng nhưng cũng rất đẹp.
Nhất là cô chị, cô có thoa chút phấn hồng nên lại càng
đẹp, tôi nghe đâu đây thoang thoảng mùi thơm của phấn son hay của hương trinh
nữ?
Ôi chao, đời đẹp quá, tôi, một thằng sinh viên bắt đầu
học năm thứ nhất ĐHSP, nhà nghèo, mẹ làm thợ dệt nhưng đứng bên cô, ngửi mùi
hương ngan ngát đó tôi vẫn thấy đời đẹp như thường.
Chắc cô cũng có cảm tình với tôi, thấy trong lúc đợi
xe taxi, cô đứng sát bên cạnh tôi. Bà mẹ tiễn ra tận vỉa hè. Bà đưa tiền cho cô
lớn: “Đây, tiền đây, nhớ trả
tiền cho anh, đừng để anh trả nghe con!”. Cô không cầm, giọng con gái Bắc
ngọt như mía lùi: “Con có rồi
mẹ!”.
Chúng tôi đến. Hắn đang đứng một mình bên cạnh chiếc
va-li hơi cũ, có lẽ của Cha cho mượn và một chiếc túi xách để trên mặt chiếc
va-li đó.
Thấy chúng tôi tới, hắn cứ ngớ ra coi bộ hết sức ngạc
nhiên. Tôi cười, giới thiệu:
- “Đây
là cô Thanh, chị của cô Trúc. Còn đây là cô Trúc, người bạn vẫn nhớ ơn đó. Các
cô thân hành ra đây tiễn bạn...”. Hắn không ngờ mình được hân hạnh đó nên
lúng túng như gà mắc giay thun, mỉm cười khẽ gật đầu chào. Các cô chào lại. Cô
chị nói:
- “Chúng em đến tiễn anh, chúc anh lên đường
mạnh giỏi. Thỉnh thoảng anh nhớ viết thư về cho Trúc”.
- “Vâng, cám ơn các cô, thế nào tôi cũng phải
viết”.
Tôi cười:
- “Được viết
thư cho người đẹp sướng thấy bố rồi lại còn phải viết với không phải viết. Sao
nào, nếu học xong tiến sĩ kinh tế, có trở lại thăm cô Trúc không nào?”.
Hắn cười, mặt đỏ bừng, bây giờ tôi mới thấy hắn nói
được một câu có thể coi là thông minh:
- “Có chứ, đó là mơ ước lớn nhất trong đời
mình, nếu hai cụ nhà cho phép và cô Trúc sẵn sàng chờ đợi”. Cô chị hỏi: “Học
tiến sĩ thì mất chừng bao lâu hả anh?”.
Hắn nói: “Khoảng chừng 8 năm, sớm nhất cũng phải 6
năm. Bên Mỹ nếu cố gắng vẫn có cách học vượt thời gian như vậy. Bên mình thường
thường là phải 10 năm...”.
Cô chị nói:
- “Lúc ấy
Trúc mới 22 hay 24 tuổi, còn sớm chán”.
Tôi cười, nói đùa:
- “Sao, ‘cô bé đẹp’, có đợi được không thì
cho biết ý kiến?”.
Cô bé chỉ cúi mặt cười, không nói gì cả. Tôi hỏi gặng
quá bắt buộc cô phải trả lời:
“Dạ được”.
“Được thì ngoéo tay đi, hắn là
dân Công giáo, đã nói là sẽ giữ lời, có tôi làm chứng!”.
Cô chị cười: “Em cũng làm chứng luôn”.
Mọi người cùng cười, hắn đã bạo dạn nên đưa tay ra
ngoéo tay cô bé khiến cô đỏ mặt nhưng cũng ngoéo lại.
Trời đất ơi, phải chi tôi được ngoéo tay cô chị nữa
thì đỡ quá! Nhưng nhà tôi nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt, tôi 20 tuổi, còn cô thì
khoảng 18 tuổi, kém tôi 2 tuổi, làm sao tôi có điều kiện lấy vợ trong lúc còn
đang đi học mặc dầu cô cũng có vẻ quý mến tôi, luôn luôn đứng sát cạnh tôi.
Cuộc tiễn đưa chỉ có thế. Ba năm sau, tôi tốt nghiệp,
đi dạy. Thời đó chúng tôi học Đại Học Sư Phạm theo régime 3 năm, các ban khoa
học đều phải học bằng tiếng Pháp, thi cử cũng bằng tiếng Pháp. Sau khóa của tôi
thì được đổi sang régime 4 năm và đã được chuyển ngữ, học bằng tiếng Việt.
Ngoài ra, thời đó các trường trung học đệ nhị cấp dạy tới lớp 12 rất ít, ở các
tỉnh lớn mới có, nên tôi đậu hạng 5 mà phải đi xa, Bạc Liêu cách Sài Gòn gần
300 cây số, vài tháng lễ, tết mới về nhà một lần.
Có lẽ cũng đến 5-6 năm, một lần tôi về, thấy trên mặt
bàn có tấm thiệp của hắn làm đám cưới với Thanh Trúc. Hai chị em nhà đó có cái
lạ là cô em tên Thanh Trúc, cô chị tên Trúc Thanh, ngược lại với nhau.
Phong bì bên ngoài đã có vẻ cũ, bám bụi. Tấm thiệp bên
trong đề ngày cưới cách đấy đã hơn hai tháng. “Thằng Khải nó về rồi hở mẹ?”.
“Ừ, cậu ấy về, nghe đâu đã đậu tiến sĩ, về làm đám cưới với cô con gái tiệm
sách ở gần ngã tư Phú Nhuận. Cả hai cô cậu ấy đến chơi, đem thiệp cưới đến mời
anh nhưng tôi nói anh dạy học ở mãi Bạc Liêu, chắc không về kịp. Cậu ấy nói
cưới xong sẽ đưa cô ấy sang Mỹ, bao giờ có dịp về sẽ gặp anh sau”. Thời chúng
tôi, người Việt ở bên Mỹ rất ít, nên họa hoằn lắm, hễ có ai về Việt Nam cưới vợ
thì sau khi cưới xong, đem đi rất dễ chứ không khó khăn, phải làm đủ thứ giấy
tờ bảo lãnh mới được đi như bây giờ. Cái thằng đó giỏi thật, lúc nó ra đi thì
tôi bắt đầu vào Sư Phạm, học xong 3 năm, đi dạy 6 năm, tức mới 9 năm mà nó đã
đậu đạt, đi làm, để dành được tiền về cưới vợ, giỏi thật. Tôi rất phục nó.
Thế rồi tôi được đổi về trường Trung học Dĩ An, Biên
Hòa, cách Thủ Đức khoảng 10 cây số.
Năm năm sau, 1975, miền Nam sụp đổ, các giáo viên –
giáo sư trung học bây giờ gọi là giáo viên – của 7 trường thuộc hai huyện Dĩ An
và Lái Thiêu chúng tôi phải đi cải tạo tại K4 Long Khánh. Người cán bộ giáo dục
về tiếp thu các trường thuộc hai huyện đó thấy người ta cách ly các sĩ quan và
hạ sĩ quan cảnh sát thuộc hai tỉnh Bình Dương và Biên Hòa tại hai trường An Mỹ
và Trịnh Hoài Đức, có du kích gác, rồi sẽ đưa đi học tập cải tạo thì bắt các
nam giáo viên chúng tôi đi học tập cho... có tinh thần yêu nước vậy thôi. Hơn
sáu tháng trời cải tạo tại K4 Long Khánh, tôi suýt bỏ mạng tại đấy. Bởi vì cơ
thể tôi ưa lạnh chứ không ưa nóng. Cứ hễ trời nóng là tôi ho rũ rượi, ở nhà
thường uống Terpin-Codein, một thứ thuốc rất rẻ do Việt Nam chế tạo. Đi học
tập, trong trại không có thuốc
men, lại ăn uống kham khổ nên tôi ho liên tục, ban đêm không ngủ được, thân
hình gầy xác như con cá mắm.
Sáu tháng sau, các giáo viên được thả về. Sài Gòn buồn thê thảm và nghèo
không thể tưởng tượng nổi. Mẹ
và em gái tôi nói chuyện người ta đánh tư sản mại bản (nghĩa là tư sản mất
gốc), các tiệm lớn ở Phú Nhuận bị
tịch thu nhà cửa, hàng hóa, gia đình bị đuổi đi kinh tế mới, tiếng khóc như di.
Còn ở Chợ Lớn, các tiệm người Tàu sợ quá, ném những
cây vải còn nguyên cả xấp và các đồ đạc xuống đường, kệ ai muốn nhặt thì nhặt
nhưng chẳng ai dám nhặt.
Em tôi kể thêm: “May
hồi trước anh Khải về làm đám cưới với cô con gái thứ hai tiệm sách Thanh Trúc
rồi đưa cô ấy sang Mỹ chứ không thì bây giờ bị kẹt, tiệm đó bị đánh, muốn cưới
cũng chẳng được”.
Tôi ngạc nhiên:
“Sao, tiệm sách Thanh Trúc cũng bị đánh? Người ta bán
sách chứ có làm gì đâu mà đánh?”.
“Có, cả nhà may Bảo Toàn cũng bị đánh, tiệm bị tịch
thu, nghe đâu người ta đuổi ông bà ấy lên cái gác xép nhỏ tí mãi tuốt tầng ba
trên lầu, bây giờ nghèo lắm”.
Bảo Toàn là nhà may lớn nhất Phú Nhuận, trước đây tôi
thường may quần áo ở đấy nên cũng khá quen, ông bà Bảo Toàn rất tốt, đối đãi
với khách hàng rất niềm nở, ân cần.
“Tiệm sách Thanh Trúc còn một cô con gái lớn nữa tên
là Thanh. Cô có nghe nói gì về cô con gái lớn đó không?”.
“Họ nói cô ấy lấy chồng, có bầu, nhà chồng là một tiệm
vàng cũng ở gần đấy.
Hôm đánh tư sản, cả hai tiệm bị tịch thâu, cô ấy buồn
quá định tự tử nhưng người ta cứu được...”.
Miệng tôi đắng ngắt. Tôi nhớ đến hôm tiễn Khải ra phi
trường, có cả cô chị cùng đi, cô thường đứng sát bên cạnh tôi, cái mùi son phấn
thơm thơm sang trọng tôi không thể nào quên được.
Rồi chúng tôi được Ty Giáo dục Sông Bé – Dĩ An trước
thuộc Biên Hòa, bây giờ thuộc tỉnh Sông Bé – cho đi học tập chính trị hè sau đó
cho đi dạy lại. Nghèo lắm. Lương tôi trước 63 ngàn, bây giờ chỉ còn 41 đồng, nghèo không chịu nổi.
Rồi tôi lấy vợ. Nhà tôi cũng dạy cùng trường nhưng môn
Anh văn, tốt nghiệp ĐHSP sau tôi 6 năm. Năm ấy tôi 32 tuổi.
Lương của hai vợ chồng cộng lại chưa đầy 80 đồng. Nhà
tôi dạy thêm Anh văn buổi tối cho các học sinh gia đình sắp đi vượt biên hoặc
được bảo lãnh. Còn tôi, lúc rảnh tôi dịch truyện bán cho các nhà xuất bản ở
trên Sài Gòn, buổi tối giữ con cho vợ dạy học. Giáo viên chúng tôi anh nào cũng
gầy như cò bợ, quần áo ngày trước mặc vừa, bây giờ rộng thùng thình, áo thì mặc
được còn quần cài dây nịt dúm dím, mặc không được.
Một hôm tôi nghĩ ra cách là khi về nhà ở Phú Nhuận,
Sài Gòn thì đem hai chiếc quần tây đến tiệm Bảo Toàn, leo lên cái gác xép tận
trên lầu ba theo cái cầu thang bên cạnh, nhờ ông Bảo Toàn sửa lại giùm. Ông đo
người tôi, xem kỹ hai chiếc quần tây rồi nói: “Sửa
không được đâu. Bây giờ phải tháo hết các đường chỉ ra, ủi cho thẳng rồi cắt
lại như cắt quần mới chứ sửa đâu có được”. Tôi hỏi giá cả, ông nói: “Ông là người quen, tôi tính ông
mỗi chiếc ba đồng gọi là có thôi”.
Tôi mừng quá, cám ơn rối rít. Ông nói: “Ông thấy tôi khổ như vậy đó. Ngày
trước tiệm tôi lớn nhất Phú Nhuận, ngay cả may đồ cho khách tôi cũng chỉ trông
nom chứ đã có thợ, đâu phải nhúng tay vào. Bây giờ thì đi may lại chiếc quần,
kiếm ba đồng bạc...”
“Hình
như tiệm sách Thanh Trúc bên kia cũng bị đánh tư sản như bên tiệm bác?”.
“Có chứ, tiệm nào hơi có máu mặt một chút mà chả bị
đánh. Họ bảo bán sách là toàn các thứ phản động, đáng lẽ họ đuổi đi kinh tế mới
nhưng cô Thanh cô ấy tự tử, họ cho cả nhà ở tạm cái bếp ở phía đằng sau”.
Rồi
ông nói thêm:
“Nhà bà ấy
cũng bị tịch thu hết, nghèo lắm. May nhờ có vợ chồng cô Trúc ở bên Mỹ gửi quà
về nên mới sống được”. Tưởng
tôi không biết gì về vợ chồng Khải, ông kể:
“Nghe nói
người chồng cô Trúc đậu tiến sĩ kinh tế, trước làm trong cơ quan Liên Hiệp
Quốc, sau làm giáo sư dạy đại học tại California”.
Rồi ông kết luận:
Con người có số hay không tôi không biết, nhưng theo
tôi nghĩ, câu chuyện giữa cô bé 16 tuổi tên Trúc và anh chàng học sinh nghèo tên Khải hơi giống chuyện cổ tích của một thời
đã qua, nay khó có nữa.
Chuyện kể của Đoàn Dự
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 04/Jun/2016 lúc 2:31pm |
“Coi cọp”Khi xem sơ qua tựa đề bài này , chắc rằng ai cũng nghĩ tôi sẽ đưa bà con mình đi vào Thảo Cầm Viên Sài Gòn nơi mà theo tiếng thường gọi của giới bình dân ngày xưa là Sở thú để xem ông Ba mươi trong dãy chuồng sắt . Những con Cọp nằm với đôi mắt lim dim buồn như bài thơ bất hủ Hổ nhớ rừng của Thi sĩ Thế lữ đã đi vào lòng người qua bao thế hệ dân Việt mình . Thuở ấy vùng đất Gia Định
quê tôi vào thập niên sáu mươi , cái thập niên mang đầy ấp những kỷ niệm
của tuổi thơ chúng tôi ngày xa xưa , mãi đến giờ mỗi khi trong tâm tư
tôi có lúc len lén quay về thì hầu như một trong những hình ảnh khó phai
mờ trong tâm thức tôi đó là những lúc đi ” Coi cọp ” một vở tuồng cãi
lương hoặc một cuốn phim trong rạp chớp bóng với màn ảnh đại vĩ tuyến . Thế là cả đám chúng tôi , mấy đứa chơi thân với nhau nghe theo lời ” Đường mật ” của thằng Thành “Gia cát Lượng “, sở dĩ tôi gọi nó là Gia cát Lượng bởi nó thường có những ý nghĩ táo bạo thật hay trong mỗi cuộc chơi khi cả đám bế tắc chuyện này chuyện nọ , qua tay nó mọi chuyện trơn tru vô cùng , có điều lần này thì không được suôn sẻ cho lắm * * * Khi cơm nước xong thì trời đã chạng vạng tối , thấy tôi đóng bộ đồ vía vô người má tôi thắc mắc hỏi : Hồi lâu sau con Xinh nhỏ nhẹ hỏi nó : Bên ngoài nhướng mắt nhìn vào
phía trong sân đình , sau tấm màn che chổ cửa ra vào bấy giờ họ đã tắt
tất cả đèn để bắt đầu mở màn , tiếng đàn , tiếng trống bắt đầu dạo lên
khiến tôi càng nôn nao khôn cùng , tôi chợt ao ước giá mà trong túi tôi
có đủ tiền mua vé thì tôi nhất quyết xem cho bằng được tuồng này . trong
hoàn cảnh hiện tại thì tôi phải cố chờ khi họ hát khoảng ba phần tư
tuồng hát thì họ sẽ ” xả dàn ” lúc ấy thì không còn ai ngăn cản ai để
vào xem đoạn kết của vở tuồng . * * * Khi tấm màn nhung khép lại ,
đèn bật sáng tôi không ngờ đám bạn trong xóm nó đứng cách tôi không xa
lắm , gặp lại nhau trong rạp lòng chúng tôi đứa nào cũng mừng mừng tủi
tủi . Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Jun/2016 lúc 2:49pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22153 |
Gởi ngày: 06/Jun/2016 lúc 11:39am |
Cuốc Xe Ôm Nhớ ĐờiCâu chuyện đời thường của một ông chú lái xe ôm tật nguyền nhưng lại khiến nhiều người nghẹn ngào, xúc động. Có thể nói rằng, tình người mới là thứ rung động lòng người sâu sắc nhất.
Câu
chuyện được tài khoản facebook có tên là Hải Hồng đăng tải, chỉ trong
một thời gian ngắn đã nhận được rất nhiều lượt chia sẻ từ cộng đồng
mạng.
Đó
là câu chuyện của một chú xe ôm Miền Tây hồn hậu dù bị tật nguyền nhưng
hàng ngày vẫn chăm chỉ lao động, kiếm tiền. Hình ảnh một con người nhọc
nhằn vì cuộc sống mưu sinh cứ khắc khoải mãi trong tâm trí.
***
Cuốc xe ôm nhớ đời
9 giờ tối, Xa Cảng Miền Tây.
Xách túi đồ dạo bước ra taxi, nhận một cái níu tay, tui quay lại, chú xe ôm đứng cong người nài nỉ: “Đường
giờ này mát mẻ lắm, con đi giúp chú cuốc xe đi. Ai thấy chú tật nguyền
vầy cũng ngại đi nên chú chạy ế lắm. Con yên tâm đi, chú chạy được, chạy
cẩn thận lắm”.
“Dạ được rồi, con đi”.
Và cái đoạn đường hơn chục cây số từ đó về Tao Đàn, tui đã được nghe một chuyện đời, một chuyện tình đẹp tái lòng.
Chú
58 tuổi, ở quận 7, mỗi chiều 5 giờ ra bến, chạy đến 5 giờ sáng hôm sau.
Ráo cũng như mưa, chục năm nay không dám nghỉ ngày nào. Mỗi đêm thường
kiếm được trăm mấy hai trăm, mỗi tháng đóng tiền bến hết chín trăm.
Cô
thì đi nấu cơm cho công an phường, lương có triệu mốt nhưng được cái họ
hay bỏ bữa, cô mang thức ăn về, nhà khỏi đi chợ. Cô đòi đi kiếm chỗ làm
thêm, chú không cho. Chú biểu để mình chú cực là được rồi. Kể tới đây,
chú cười hịch hạc: “Đàn ông mình, cỡ nào cũng phải sống mà lo cho gia đình được, há con?”.
Tui bắt đầu thấy ngưỡng mộ chú rồi đây, sau cái câu này.
Bạn
bè đang đợi, tui thì trễ hẹn nhưng bị cuốn vào câu chuyện tươi sáng của
chú nên nghĩ mình cũng chẳng cần phải nhanh hơn. Tới đâu đó Thuận Kiều,
thấy vai chú run run, tui hỏi thăm, chú biểu cái chân tật của chú, hễ
trời lạnh lại nhức.
“Thôi chú dừng xe lại đi, con chở cho”.
“Đâu có được, ai làm vậy được con? Chú không sao, ráng chạy chút nữa, về bóp dầu”.
“Chú sợ con cướp xe hả? Xe chú cà tàng lắm rồi nha. Với lại con sẽ đưa túi xách con cho chú đeo. Chú dừng lại đi”.
Tui
cũng chạy chậm, như chú. Thanh thản lắm, như đang chở ba mình đi dạo
vậy. Ngồi sau lưng tui, chắc ấm được chút đỉnh nên chú trải lòng hơn.
Chú
khoe hồi trẻ cô đẹp lắm, con gái Cai Lậy mà. Cô lên Sài Gòn ở mướn cho
nhà chủ mà chú làm bảo vệ. Ba má cô đâu có chịu chú bởi họ chê thằng này
mồ côi mồ cút, nghèo mà còn què quặt nữa. Họ sợ cô khổ khi về với chú.
Nhưng
cô hổng sợ, cô bỏ nhà theo chú. Ba má cô từ con gái. Ngày ba cô nhắm
mắt, ông còn chưa tha cho cô mà. Chú phải đưa cô về, nửa đêm quỳ ngoài
hàng rào lạy vọng vào. Rồi đi.
“Chú biết cô thương chú lắm nên chú muốn cô được sung sướng. Mà muốn vậy thôi chứ tới giờ cô cũng chưa được sướng ngày nào”.
“Sướng
chứ chú. Làm lụng thì ai cũng phải làm thôi, chỉ cần có người chồng
thương mình như chú, con nghĩ cô sướng trong dạ lắm đó chớ”.
“Thiệt không con?”
“Hổng tin, bữa nào chú về hỏi cô đi”.
“Ừ.
Mà tết nhứt tới bên nách rồi con há. Chắc chú phải ráng cày thêm chút
đỉnh, vài bữa mua cho cô cái áo kiểu đẹp đẹp mặc tết với người ta…”.
Tui nghe chừng trong lam lũ một trời yêu thương. Cái yêu thương không phải đôi vợ chồng đủ đầy nào cũng có được.
Rồi chú khoe hai thằng con, thằng lớn hai mươi, thằng nhỏ mười ba, thằng nào cũng ngoan.
“Em lớn đang còn đi học hay đi làm rồi chú?”, tôi hỏi.
“Nó
học giỏi lắm con, học năm ba Đại học Sư phạm. Mà thằng đó đẹp trai à
nha, nó giống cô. Nó có hiếu lắm, hổng bao giờ dám xài tiền”.
“Nói vậy thôi chứ con nghĩ hồi trẻ chú cũng đẹp trai mà. Nghe em nó được vậy, con cũng mừng cho cô chú”.
“Ừ…thì…”
Sao tui nghe câu trả lời như vướng đâu đó trong cổ họng.
Câu chuyện còn đang dang dở, hai chú cháu đã tới nơi. Xuống xe, chú biểu bớt hai chục ngàn, cho cái công tui chở chú.
“Chú bớt phân nửa luôn đi. Hehe”
“Sao cũng được mà con”.
Trả tiền xe xong, tui dắm dúi một ít vô tay chú, dặn dò:
“Chú về mua cho cô cái áo đi, áo màu tím nghen chú. Con tin cô sẽ
thích. Mà cũng phải mua thêm cho chú một cái nữa. Cô mặc áo đẹp mà áo
chú cũ quá, hổng xứng đâu nha. À quên, hai thằng nhỏ, mỗi thằng một cái
nữa nhe”.
Chú cúi sát nhìn thứ tui vừa đưa, tay run run.
Chào nhau, chú lại níu tui. Tui ghẹo: “Tính cám ơn con nữa hay gì đây? Thôi khỏi, mai mốt có gặp nhau, chú chở rẻ cho con là được rồi”.
“Hổng
có, hồi nãy chú hổng dám kể hết. Thằng con lớn của chú đó, là chú…nhớ
nó quá nên chú tưởng tượng vậy thôi, chứ sau khi thi đậu đại học, nó bị
tai nạn…mất rồi con ơi. Tới giờ mà chú còn chưa tin là nó hổng còn… Đêm
nào cha con chú cũng nói chuyện… Nhưng con yên tâm, chú cũng sẽ lấy tiền
này mà mua cái áo mới, để lên bàn thờ cho nó”.
Trời ơi!!! Sao tự nhiên tui muốn quỳ xuống đường mà tế sống người đàn ông này…
st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 153 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |