Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 152 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 08/Jan/2019 lúc 4:22pm
BongBanXaXu
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 11/Jan/2019 lúc 9:52am
XUÂN HẠNH NGỘ

1781%201%20XuanHanhNgoLPKP
     Trung thức giấc, hốt hoảng khi thấy mình đang nằm trên chiếc giường lạ, cả căn phòng cũng hoàn toàn lạ lẫm. Chàng đưa tay dụi mắt thì thấy tay bị băng bó, trên mũi có gắn ống nylon để chuyền dưỡng khí oxygen, nhướng mắt lên cao Trung thấy có một bịch nước biển lớn đang nhỏ từng giọt chậm chạp xuống ống nylon và đi theo chiếc kim để vào mạch máu của mình. Trung cố gắng định tâm, lục soát trí nhớ xem chuyện gì đã xảy ra. Ồ! Trung nhớ ra rồi. Đám cháy nhà!
     "Ông Trung! Ông đã tỉnh lại rồi, tôi mừng quá. Ông đang nằm trong khu ICU của bệnh viện Memorial Hermann. Tôi tên Thu Hương, y tá bên khu nhi đồng, được bổ sung qua đây săn sóc những nạn nhân của đám cháy nhà sáng nay. Cũng may ông thức giấc khi mấy ông nhà báo đã đi hết cả, nếu không họ chẳng để cho ông nghỉ ngơi. Họ kéo tới đây để phỏng vấn ông về tai nạn cháy nhà trong khu chung cư ông ở. "
Ngừng một giây như dò xét khuôn mặt vẫn còn ngớ ngẩn của Trung. Người y tá nhoẻn miệng cười, và đặt ống nghe áp huyết vào tay Trung. Vẫn giọng nói dịu dàng, cô tiếp:
     "Ông biết không? Hôm nay ông trở thành người hùng của thành phố rồi đó! Trên radio, nhiều đài đã loan tin ông, người anh hùng đã cứu được nhiều người trong trận hỏa hoạn! Ông không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người đã mang hoa đến thăm ông vì cảm khích nghĩa cử của ông. Hoa để đầy cả phòng khách đó ông. Chúng tôi giữ tất cả ngoài ấy, vì sợ ông bị dị ứng. - Cười thật tươi, cô hồn nhiên nói:- Tôi thích nhất là bình hoa tím ông ạ, những đóa oriental lilly tím xen lẫn với những chùm hoa forget me not trắng, nhỏ li ti, trông thật đẹp. Tôi đem vào cho ông xem nhé? "
     Trung cảm thấy vui vui vì cách nói chuyện tự nhiên và duyên dáng của Hương, chàng mỉm cười gật nhẹ.
"Vâng! Phiền cô Hương cho tôi xin bình hoa mà cô thích nhất. "
     Trung bắt đầu chú tâm tới người y tá đang săn sóc chàng. Mái tóc suông dài mầu nâu đen được cột gọn sau ót. Cặp mắt màu hạt dẻ, mở to trên khuôn mặt thon dài, đôi cánh môi hồng trên làn da trắng mịn. Thoạt nhìn, không ai nghĩ rằng cô là người Việt Nam. Nhưng cái tên Thu Hương, và giọng nói tiếng Việt trôi chảy của cô thì Trung biết chắc là mình đang đối diện với người đồng hương. Trung chợt thấy mắc cỡ vì tính hiếu kỳ của mình, chàng cười khỏa lấp. Hương cũng vui vẻ cười theo. Sửa lại tấm chăn đắp trên người Trung cho ngay ngắn, Hương nhanh nhẹn bước ra và nhanh chóng trở lại với bình hoa tuyệt đẹp trên tay, những đóa lilly đài các với những cánh trắng mượt mà xen lẫn với những cánh mầu tím nhớ nhung tỏa hương thơm dìu dịu khắp phòng.  
    Sau khi khoe với Trung, nàng đặt bình hoa lên bệ cửa sổ. Ngắm hoa, Trung cũng phải thầm khen người cắm hoa có mắt nghệ thuật. Bỗng dưng Trung lại thấy Hương còn đẹp hơn cả những đóa hoa trong bình! Trung muốn ngỏ ý khen, nhưng ngập ngừng mãi cũng không biết phải nói sao. Hình như ánh mắt của Trung đang tìm ngón tay áp út trên bàn tay trái của Hương và mắt chàng rạng rỡ khi thấy ngón tay không có gì vướng bận. Trung lại cười khỏa lấp.
1781%202%20XuanHanhNgoLNTD
"Nãy giờ tôi ít nghe ông nói mà chỉ thấy ông cười. Ông có chuyện gì vui muốn chia sẽ không? Chắc ông đói lắm rồi, để tôi gọi xuống nhà bếp mang thức ăn lên cho ông dùng. "
"Không, tôi không đói, cảm ơn cô. Tôi muốn biết có ai bị thương nặng không? Còn em bé và ông bà cụ già thì sao? "
     Hương ngồi xuống chiếc ghế để cạnh giường, chậm rãi kể cho Trung biết, tất cả những nạn nhân chỉ bị phỏng nhẹ, hay bị chóng mặt vì hít nhiều thán khí, nên sau khi điều trị đều đã được xuất viện. Ngoại trừ em bé hai tuổi vì còn nhỏ nên họ muốn giữ lại qua đêm để biết chắc chắn em đã hoàn toàn bình phục. Duy chỉ có Trung, vì hít quá nhiều thán khí nên đã bị ngất xỉu và bàn tay trái bị phỏng. Bác sĩ đã chích cho Trung một liều thuốc an thần nên Trung đã ngủ một giấc đến xế chiều. Theo lời bác sĩ, Trung có thể xuất viện vào chiều mai nếu vết thương không làm độc. Đại diện công ty nơi Trung làm việc cũng gọi điện thoại thăm hỏi và cho Trung biết chàng có thể nghỉ một tuần để dưỡng bịnh. Trung chăm chú nghe lời người y tá kể. Rồi chàng kể lại cho nàng nghe về trận hỏa hoạn.
       Như thường lệ, buổi sáng Trung thức dậy thật sớm. Sửa soạn xong, chàng pha một ly cà phê, rồi ra trước cửa lấy tờ Nhật báo Houston Chronicle lướt qua vài tin tức quan trọng trước khi đi làm. Chàng thanh niên trẻ có cuộc sống rất ngăn nắp và đúng giờ. Nhưng sáng nay, khi bước chân ra cửa, qua tấm kiếng cửa sổ gian phòng khách của căn chung cư đối diện, Trung thấy ngọn lửa khổng lồ đang phừng phực bốc cháy. Khói và mùi khét bắt đầu lan rộng. Trung đập cửa ông cụ hàng xóm bảo gọi 911 cho biết có cháy nhà.
      Băng qua đường, chạy nhanh qua nhà đang phát ra ngọn lửa, tay đập cửa miệng hô to: "Fire, fire, nhà cháy, nhà cháy... " Sống ở đây đã hơn một năm, Trung biết trong chung cư này không những có những người Mỹ, mà còn có cả người Mễ Tây Cơ và người Viết Nam cư ngụ tại khu chung cư này.  Nghe Trung la hét có cháy nhà, hàng xóm ùa ra ngoài đường. Phần lớn là các ông bà cụ già và trẻ con, người lớn đã đi làm từ sớm. Đập cửa không thấy trả lời, Trung phá cửa vào nhà, ngọn lửa hầu như bắt nguồn từ chiếc lò sưởi, ngọn lửa đã bám vào màn cửa và cháy lên tầng trên. Trong khoảnh khắc, ngọn lửa lên quá cao không còn cách nào dập tắt được. Chàng vội vã xét qua từng phòng, nhưng không thấy ai trong nhà, Trung chạy lên lầu hai, giúp những ông bà cụ đang lục tục mò mẫm kéo nhau xuống thang lầu, chàng chuyền nhanh những đứa trẻ ra ngoài, có vài cụ vì quá già yếu và hoảng sợ nên không bước được, Trung phải cõng ra.
     Tất cả đã ra được hết bên ngoài, ngọn lửa vẫn phừng phực cháy, lan rộng và bốc cao hơn. Trung đã nghe thấy tiếng xe cứu hỏa vọng lại từ xa. Chàng chợt nhớ đến ông bà cụ già và đứa cháu ở dẫy C cuối đường sao không thấy? Giật vội hai tấm chăn đã nhúng nước ướt sũng trên tay bà hàng xóm, Trung vội vã trùm tấm chăn lên đầu, nhanh như chớp chàng lao mình vào đám khói đen kịt, chỉ trong phút chốc chàng đã trở ra với đứa bé trên tay, và kéo theo bà cụ cũng tấm chăn ướt trùm kín. Cũng như vậy Trung chạy ngược trở lại và cứu được ông cụ. Xe cứu hỏa đã đến. Trung thấy choáng váng và không còn biết gì sau đó.
"Ông thật can đảm! Tôi phục ông thật đấy. Tự nhiên tôi cảm thấy hãnh diện vì ông. Có lẽ tại ông là người Việt Nam nên tôi thấy gần gũi hơn. "
"Cảm ơn cô quá khen, tôi chỉ làm bổn phận của tôi. Bổn phận con người đối với con người trong lúc nguy nan. Nếu là cô, cô cũng làm những việc như tôi đã làm thôi. "
     Hương nhìn đồng hồ, nàng cho Trung biết đã đến giờ đổi ca, một người y tá khác sẽ săn sóc cho Trung đêm nay, nàng hỏi Trung có cần liên lạc với người nhà không vì hình như chưa thấy ai là người nhà của Trung vào thăm hay gọi điện thoại. Trung bảo, chàng mới dọn qua Texas được hơn một năn, ba mẹ chàng vẫn còn sống bên Connecticut để chờ đứa em trai học xong thì cả gia đình sẽ dời sang Texas ở cho ấm áp. Trung không muốn báo tin cho người nhà biết, vì ba của Trung rất thương con và hay lo lắng, còn mẹ thì sức khỏe không mấy khả quan, tin Trung đang nằn điều trị trong bệnh viện sẽ làm ba mẹ thên âu lo. Mắt Hương dường như ướt buồn khi nghe Trung nhắc đến ba mẹ chàng. Hương nói:
"... Anh có phúc hơn Hương. Anh còn đủ cha mẹ. ..."
     Sau khi đo áp huyết, và nhiệt độ cho Trung, Hương bảo áp huyết và thân nhiệt của Trung bình thường, nàng rất mừng vì không có dấu hiệu nhiễm trùng. Rót cho Trung ly nước lạnh, nhắc chàng nhớ uống nước thường xuyên. Hương chúc Trung ngủ ngon, vẫy tay, cười từ giã. Sau khi Hương ra khỏi phòng, đột nhiên Trung cảm thấy một cảm giác lạ lùng đang xâm chiếm hồn chàng, hình như trống vắng, hình như nhớ nhung. Một cảm giác thật lạ lẫm nhưng cũng thật dễ thương. Chàng nhắm mắt và hình dung lại người nữ y tá dịu hiền mà hình như tim chàng đang rạo rực đón chờ.
     Có tiếng chân bước vào phòng, nghĩ là người y tá trực đêm đến thăm sức khỏe bệnh nhân nên Trung vờ như đang ngủ. Tiếng chân dừng lại bên giường một hồi lâu. Một bàn tay mát lạnh êm ái đặt lên trán Trung như nghe ngóng. Trung mở mắt nhìn. Ô kìa! Là Hương à! Điều mà Trung đang mong ước, Trung buột miệng thốt:
"Hương! ... Hương đi rồi tôi thấy căn phòng thật trống vắng... tôi, tôi muốn nói căn phòng này quá xa lạ đối với tôi. "
"Vậy mà tôi tưởng ông đang ngủ, tôi lại sợ ông đang lên cơn sốt... tôi quay trở lại để... để xem ông có cần gì không. Nhà tôi chỉ cách đây khoảng 20 phút lái xe. Tôi đã về nhà dùng cơm chiều với mẹ tôi, nghỉ ngơi một chút, tôi nghĩ đến ông nên trở lại. Tôi có ghé phố Bellaire mua cho ông tô cháo gà đây, ông cố gắng ăn một chút để lấy lại sức. "
     Vừa nói, Hương vừa sớt cháo ra chiếc chén nhỏ và dục Trung ăn. Cử chỉ săn sóc chu đáo của Hương làmTrung thực cảm động, muốn nói lời cảm ơn nhưng mỗi lần định mở lời thì chàng lại lúng túng không biết phải nói sao cho đúng. Cố gắng lắm Trung mới nói được một câu rất ngô nghê:
"Cảm ơn Hương, nếu Hương không trở lại chắc tôi sẽ nhịn đói hôm nay. "
     Nhìn tô cháo với những cọng hành ngò xắt nhỏ cộng mùi thơm của gảo thơm và hạt tiêu bốc lên làm Trung cảm thấy đói. Trung ăn gần hết hộp cháo. Vừa ăn Trung vừa nghe Hương nói chuyện.
"Nghe tôi kể về ông, mẹ tôi rất mến ông, người trẻ tuổi có lòng nhân từ, bà gửi lời chúc ông mau bình phục. Tôi có mấy cuốn báo Xuân, đem đến ông đọc cho đỡ buồn. "
"Cảm ơn Hương, cô vừa dịu hiền, tốt bụng lại chu đáo. Tôi thật may mắn được quen biết cô. "
Hương cúi thấp đầu, mỉm cười và lập lại lời Trung nói ban chiều:
"Hương chỉ làm một việc rất tầm thường, tình đồng hương, tình con người đối với con người. "
     Trao cho Trung mấy cuốn báo Xuân, Hương nói, trước đây nàng đọc tiếng Việt hơi chậm nhưng thích đọc văn thơ trên mấy tờ báo Xây Dựng, Đẹp, Hương Quê, Đất Mẹ..., do đó nàng đọc Việt ngữ ngày càng khá hơn. Trung bảo, vốn liếng Việt Ngữ của chàng rất khiêm nhượng, cần phải học nhiều nơi Hương. Hương kể thật nhiều về người mẹ khả kính của nàng. Hương kể mẹ của Hương rất thích làm thơ, bà viết nhiều bài thơ hay, nhưng không thấy chia sẻ với bạn bè. Nhất là từ khi ba nàng qua đời thì người mẹ gửi tâm hồn mình nhiều hơn vào những áng văn.
     Hương vẫn thỉnh thoảng thấy mẹ trầm tư, lấy những bài thơ cũ ra đọc, xem lại xấp hình đã phai mầu của thời còn là cô học trò nhỏ bên quê nhà, rồi lại cẩn thận cất kỹ vào ngăn tủ. Một hôm mẹ làm rớt bài thơ trên ghế salon phòng khách, Hương nhặt được, tình cảm chứa đựng trong bài thơ làm Hương xúc động nhiều. Bài thơ khá dài, nhưng nàng còn nhớ bốn câu, nàng đọc cho Trung nghe. Giọng nàng ngọ ngào tha thiết:
Ta đã yêu nhau tự thuở nào,
Một lần hạnh ngộ tựa chiêm bao.
Tình ta sâu kín, duyên tiền kiếp,
Ước nguyện muôn đời tựa trăng sao.
( Lê Ngọc Trùng Dương).
     Cảm xúc về bài thơ, Hương chép lại rồi gửi đăng trên tờ báo Xuân Hương Quê. Lúc báo phát hành, thấy bài thơ đăng trên báo, sợ mẹ rầy, nên Hương vội vàng mang báo về thú tội cùng mẹ. Mẹ chỉ nói:
"Đó là một kỷ niệm đẹp trong quá khứ. Tuổi trẻ có nhiều kỷ niệm khó quên con ạ. Thuở đó mẹ còn trẻ hơn con bây giờ! Những người lớn tuổi như mẹ thường hay chắt chiu kỷ niệm và sống với kỷ niệm. Kỷ niệm đôi lúc làm mình khổ đau, nhưng lắm khi cũng là liều thuốc hồi sinh cho tâm hồn đang chết dần trong khô cằn. "
     Hôm ấy mẹ của Hương như muốn trút hết niềm tâm sự với người con gái của bà. Từ đó Hương mập mờ hiểu tại sao mắt mẹ thường ướt buồn khi nghe bản Tình Khúc Buồn của Ngô Thụy Miên:
Em như một nụ hồng.
Cầu mong chẳng lạnh lùng.
Em như một ngày mộng,
Mà ta hằng ngại ngùng,
Sẽ ru ta niềm nhớ,
Một ngày thoáng mây đưa,
Chuyện tình đã như mơ. ...
     Trung cũng kể về gia cảnh của chàng. Ba mẹ Trung quen và cưới nhau trong trại tỵ nạn Songkla. Cha chàng hiền lành, ít nói, ông rất thương và hy sinh nhiều cho vợ con. Hai cậu con trai là niềm vui lớn nhất của ông. Ngoài những giờ làm việc tại sở, ông dành phần lớn thì giờ còn lại cho con, chở con đi học đàn, học võ, ông không bỏ một cơ hội giúp mở mang kiến thức cho anh em Trung. Trung thương ba thật nhiều mỗi khi thấy ba khập khễnh đến bên cửa sổ nhìn nắng nghiêng nghiêng đổ trên vườn hoa sau nhà, mắt buồn xa vắng như nhớ về một thưở xưa oai hùng. Những lần thấy ba nhìn mông lung ra màn trời mưa lất phất bay, mặt đăm chiêu suy nghĩ, Trung thường đến gần gợi chuyện để ông khuây khỏa. Có lần ông nói:
"Đời người có lắm thăng trầm, ba mong các con luôn là những người thanh niên can đảm và biết tự trọng. ..."
     Riêng mẹ Trung thì rất điềm đạm và vui vẻ, bà không học cao nhưng hiểu rộng. Bà chăm chỉ, cần mẫn và rất thương yêu chồng con, niềm vui của bà là nấu được nồi canh ngọt, là đĩa cá chiên đượm mùi quê hương mà chồng bà thích, là những bộ quần áo bà may cho anh em Trung mà bà đã để hết tình thương vào đường kim mũi chỉ. Tội cho bà, sau lần bị nghẽn tim, bà yếu hẳn đi, tuy trí óc vẫn minh mẫn, nhưng bà không còn nhanh nhẹn như trước nữa. Đó là một phần lý do mà Trung đã nhận lời làm việc cho công ty dầu hỏa Shell ở Texas, vì ba mẹ Trung muốn về hưu tại vùng ấm áp và có nhiều người đồng hương.
     Chỉ trong vài giờ mà Hương và Trung đã như một đôi bạn thân, họ tâm sự với nhau về gia đình, cuộc sống, và các trường mà họ đã theo học. Họ đã đổi cách xưng hô từ lúc nào mà chính họ cũng không biết. Hương bảo, nàng muốn mời Trung đến nhà ăn tết với gia đình Hương, nhưng Trung đã định về nhà thăm ba mẹ nên đã mua vé máy bay sẵn. Trung hứa sẽ đến thăm mẹ Hương trước khi về Connecticut, nơi ba mẹ chàng đang sống. Trung cảm thấy thật hạnh phúc, lòng lâng lâng một niền vui khó tả, tim nhen nhúm một tình cảm mới lạ, nhẹ nhàng như một áng mây, du dương như điệu nhạc buồn, thoảng như làn gió xuân và dịu dàng như bàn tay êm ái của người nữ y tá đã đặt trên trán Trung ban nãy. Hương chào từ giã khi nhà thương đã hết giờ thăm viếng.
"Ngày mai được nghỉ làm, Hương sẽ trở lại thăm anh. Nếu không có người đưa rước, Hương sẽ tình nguyện làm tài xế đưa anh về căn nhà trọ. "
Nghe Hương hứa hẹn Trung mừng rỡ, nói như reo.
"Ngày mai Hương trở lại! Anh mừng quá, được Hương chở về nhà thì nhất rồi. Mẹ anh thường nói: Ở hiền gặp lành. Chắc kiếp trước anh có tu! "
Hương cười, lém lỉnh nói:
"Vì anh đau tay không lái xe được, vì cặp kiếng cận của anh đã bị gẫy gọng, nên người ta mới tình nguyện đó, nếu không, để cho anh về một mình được rồi. Người ta đâu thích làm tài xế cho ai đâu. "
1781%203%20XuanhanhNgoLPKP
Trung vui vẻ đùa theo:
"Anh hứa sẽ không quên ơn, và anh sẽ đền ơn bằng một chầu mì ăn liền. Món thường nhật nên anh nấu rất ngon. Chỉ cần một bình nước sôi là xong ngay! Bảo đảm không ngon không lấy tiền." Cả hai cùng cười vui
***
     Lái xe vào đến cổng của ngôi biệt thự gạch đỏ, bao bọc bằng hàng rào sắt với những bụi hoa giấy có hoa tim tím đan kín hàng rào. Hai cây dừa xanh lá nằm hai bên cổng, tô thêm nét Á Đông cho hai cánh cổng hình vòng cung. Bà Thủy và Hương đón Trung tận ngoài cổng. Thấy Trung, Hương mừng rỡ, chớp mắt làm duyên, nàng nói như reo mừng:
"Chào anh Trung. Anh đúng giờ quá. Hương với mẹ mới rảo ra vườn đã thấy xe anh quẹo vào ngõ. "
Quay sang bà Thủy, Hương giới thiệu.
"Anh Trung, đây là mẹ Hương. "
     Nhìn người phụ nữ đứng trước mặt, nếu Hương không giới thiệu thì Trung khó tin đây là mẹ của Hương, bà nhìn còn rất trẻ. Đôi mắt bà to tròn giống như mắt Thu Hương, nhưng đượm nhiều nét buồn. Mái tóc cắt ngắn hơi kiểu cách ôm gọn khuôn mặt hiền từ. Bộ quần áo nhung đen làm bà nhìn có một chút đài các, một chút duyên dáng. Trung nghiêng mình kính cẩn chào:
"Cháu kính chào bác. Cháu đã nghe Thu Hương nói nhiều về bác, hôm nay cháu mới hân hạnh được gặp bác.."
Quay sang Hương, Trung nói khẽ:
"Hôm nay Hương đẹp quá! "
Bà Thủy sững sờ nhìn Trung chăm chú từ lúc Trung xuống xe. Bà có cảm tưởng như đã biết Trung thừ thưở nào xa xưa lắm. Từ khuôn mặt cho đến dáng người. Khi nghe Trung chào, bà vội mỉm cười, đáp:
"Chào cháu. Chúc mừng cháu tai qua nạn khỏi. Bác cũng nghe Hương và báo chí nói nhiều về cháu. Cháu thực là người tuổi trẻ, tài cao lại có lòng bác ái. "
     Trung trở lại xe lấy cây kim quất mà chàng đã mua ở tiệm hoa trong chợ Hồng Kông sáng nay. Chàng đã cẩn thận nhờ cô bán hoa chọn cho cây sai trái nhất để biếu mẹ Hương. Chàng chúc bà và Hương một năm mới vui vẻ và gặp nhiều may mắn. Bà mời Trung vào phòng khách, một căn phòng khá rộng với lối trang trí thanh lịch, tao nhã. Giữa phòng là bộ trường kỷ bằng gỗ mun cẩn xà cừ. Trên bàn có hộp mứt thập cẩm và hạt dưa đỏ đựng trong chiếc chén thủy tinh. Bà Thủy bảo con gái pha trà mời khách. Bà nói, bà rất thích uống trà nên chồng bà bỏ công sưu tầm và mua về cho bà nhiều loại trà rất lạ. Chợt mắt Trung để ý đến bức hình lộng trong chiếc khung cũng bằng gỗ mun đen, treo trên tường, bức hình chụp đám cưới. Chú rể người Mỹ có mái tóc hung vàng mặc quốc phục Việt Nam, cô dâu lộng lẫy trong chiếc áo gấm đỏ và khăn đóng cùng mầu. Bây giờ thì Trung đã hiểu tại sao Hương nhìn không giống một cô gái Việt Nam thuần túy. Nhìn theo ánh mắt Trung, bà Thủy kể:
"... Ông nhà tôi tuy không cùng xứ sở, nhưng sau khi quen biết tôi, ông đã tìm hiểu phong tục tập quán của người Đông Phương, ông còn học nói và viết tiếng Việt rành rẽ, tên Thùy Hương là tên ông tự đặt cho con gái..., do đó, tôi cũng không cảm thấy quá lạc lõng nơi xứ người... "
     Nhìn lại tấm hình, Trung phải công nhận thuở còn trẻ, bà Thủy rất đẹp. Bà có nét đẹp kín đáo và duyên dáng, ánh mắt của bà nửa như huyền bí nửa như thiết tha. Sau ly trà nóng, bà mời tất cả sang phòng ăn, trên bàn đã bày biện bánh chưng, củ kiệu, dưa món được tỉa hoa rất khéo, món soup măng cua, bún chả giò.., lần lượt được Hương dọn lên, món nào cũng hương vị đậm đà. Trung khen:
"Bác nấu ăn khéo quá! "
Hương nhanh miệng hỏi:
"Còn Hương thì sao? Hương cũng có công chiên chả giò chứ! "
     Nghe hai người trẻ tuổi đùa giỡn, bà Thủy cũng vui lây, bà cười luôn miệng. Trong bữa ăn, bà hỏi nhiều về gia đình Trung và tên của cha mẹ Trung, khi nghe Trung bảo ba của chàng là một cựu sĩ quan Hải Quân, bà có vẻ bối rối gần như thảng thốt. Nhưng chỉ một phút, bà đã lấy lại được bình tĩnh, bà nói:
"... Tên cha mẹ cháu bác nghe rất quen, nhưng có lẽ chỉ là sự trùng hợp...".
 
1781%204%20XuanhanhngoLPKP
     Sau bữa ăn, Hương mời Trung đi dạo quanh vườn với nàng và mẹ nàng, vì đó là thói quen của hai người. Khuân vườn sau nhà là một cảnh thiên nhiên rất nên thơ với những chiếc ghế gỗ nhỏ đủ hai người ngồi để cạnh bờ tường, chiếc ghế xích đu nơi Hương thường nô đùa với cha. Quanh nhà là hàng cây đu đủ, lá đã úa mầu vì tiết lạnh mùa đông, nhưng cây chanh, khóm trúc còn tươi xanh, bụi Trà Mi vẫn còn những bông đỏ nhụy vàng làm tươi thắm một góc vườn. Hương hồn nhiên khoe:
"... Đây là hồ cá có hòn non bộ ba xây cho mẹ, mùa hè sen nở đầy hồ... Đó là cây cầu bắt ngang hồ cá ba làm cho Hương. Những đêm trăng sáng Hương thường ra đây ngắm trăng..."
     Bà Thủy đi giáp một vòng rồi vào nhà trước, bà bảo sẽ chờ Hương và Trung trong phòng khách. Hương tung tăng bên hồ cá và chỉ cho Trung xem con cá vàng đang lội, đó là quà sinh nhật thứ 20 của nàng và cũng là món quà cuối cùng của ông tặng cho con gái. Hương cho cá ăn và kể cho Trung nghe về người cha đáng kính của nàng, nàng bùi ngùi nói:
"Anh còn ba, anh có diễm phúc hơn Hương. Ước gì ba còn sống để Hương giới thiệu anh với ba."
Trung thương cảm:
"Anh sẵn sàng chia sẻ tình phụ tử của ba anh với em. Ba không có con gái, gặp em chắc ba mừng lắm. "
Dựa vào vai Trung, Hương cảm động thốt:
"Anh phải là người bạn tốt của Hương mãi nghe Trung. "
Ôm vai Hương siết nhẹ, Trung gật đầu.
     Hai người trở vào nhà khi bà Thủy đang ngồi đọc báo trong khòng khách, ba người quây quần bên bình trà mới pha và những lát mứt dừa, mứt bí thơm ngon. Bà kể cho Hương và Trung nghe những mùa xuân trên Quê Hương Việt Nam trong những ngày còn thanh bình. Hai người trẻ say sưa nghe bà kể như chuyện cổ tích huyền hoặc. Bên ngoài trời đổ mưa tầm tã. Hương hỏi mẹ mời Trung nghỉ lại qua đêm, nhà có một phòng ngủ cho khách. Hương và Trung lại giục bà kể lại những chuyện về quê hương Việt Nam cho họ nghe.
     Nửa đêm, Trung giật mình vì tiếng nhạc vọng vào phòng, tiếng nhạc rất nhỏ có lúc nghe được có lúc không, nhưng cũng đủ cho chàng nhận ra bản nhạc quen thuộc, Bản Tình Cuối của Ngô Thụy Miên,
 
... Ta đã yêu và ta đã mơ.
Mơ trăng sao đưa đến bên người.
Một lần gặp gỡ đã như quen thuở nào,
Một lần gặp gỡ nhưng tình đã xa xưa. ...
Trung thức dậy ra khỏi phòng và đi về hướng phát ra tiếng nhạc. Thì ra bà Thủy đang nghe nhạc ngoài phòng khách. Nghe tiếng động bà ngửng lên:
"Trung đó hả? "
"Cháu xin lỗi bác, nghe tiếng nhạc cháu tưởng trời đã gần sáng. "
"Bác xin lỗi, đã làm cháu thức giấc. Dạo sau này bác thường hay mất ngủ nên bác hay nghe nhạc để dỗ giấc ngủ. "
"Nhạc Ngô Thụy Miên phải không bác? "
"Cháu cũng thích nhạc Ngô Thụy Miên? "
"Dạ, ba má cháu thích thì đúng hơn. Nhất là ba cháu, ông có những băng c***ette thu nhạc Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn, tuy cũ nhưng ông rất quý. "
"Dạo ấy chúng tôi rất thích nhạc của NTM, TCS. Những dòng nhạc này đã trở thành một phần đời sống của tôi bây giờ. "
"Bác trai quen biết bác từ bên Việt Nam? "
Bà Thủy xích lại đầu chiếc xa lông, ra dấu mời Trung ngồi vào chiếc ghế đối diện. Bà chậm rãi kể:
"Không, tôi quen nhà tôi từ trường đại học Rice nơi nhà tôi dạy. Tôi là học trò của ông. Ông chỉ lớn hơn tôi bảy tuổi nhưng lúc nào ông cũng như người anh cả của tôi. Ông che chở lo lắng cho tôi từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Ông là một người bạn tốt, một người chồng lý tưởng và là một người cha gương mẫu. Nhà tôi mê tà áo dài của phụ nữ Việt Nam. Mỗi lần đi dự tiệc với ông, ông thường ngỏ ý muốn tôi và con gái mặc áo dài. - Bà thở dài - Chỉ tiếc ông qua đời quá sớm, không được chia sẻ niềm vui thành đạt của con gái. "
Dừng lại một lúc, mắt đăm chiêu xa vắng, bà nói tiếp:
     "Người tập cho tôi biết yêu những dòng nhạc trữ tình là người tình đầu đời của tôi. Lúc đó tôi còn trẻ hơn cả Thu Hương bây giờ. Chúng tôi quen nhau ở bãi biển Vũng Tàu, nơi anh ấy đóng quân. Hôm đó ba chị em gái chúng tôi đi tắm biển, tôi đạp nhằm một mảnh vỏ ốc, cắt sâu vào lòng bàn chân của tôi, anh đã đến băng bó cho tôi nhưng không thể lấy mảnh vỏ ốc cắm sâu trong chân tôi ra. Tôi níu chặt tay áo anh, khóc vì đau đớn. Anh chở tôi vào Bệnh Viện Hải Quân gần đó. Vị bác sĩ đã lấy được mảnh vỏ sò ra. Hôm đó anh đã chở ba chị em tôi về tận nhà bà cô, nơi chúng tôi đang nghỉ hè. Trước khi ra về anh xin phép cô tôi cho anh trở lại thăm, cô tôi vui vẻ nhận lời. Ngày hôm sau anh trở lại đúng theo lời hẹn. Chúng tôi quen nhau từ đó, như một tiếng sét ái tình, chúng tôi yêu nhau tha thiết. Tình yêu đầu đời đơn sơ, trong trắng. Chúng tôi chỉ biết yêu nhau, không một toan tính cho tương lai. Tôi vui mừng những lần anh về phép, áo dài trắng tôi tha thướt dạo phố bên anh. Anh đến rồi đi, không hạn kỳ, không định trước. Những lần anh đến mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc, những lần anh đi để lại cho tôi cả một trời nhớ nhung. Tình yêu của chúng tôi đẹp như một vầng trăng, thắm thiết keo sơn tưởng không bao giờ tan vỡ."
     Bà Thủy thở nhẹ, hai bàn tay bà đan chặt vào nhau, vẫn ánh mắt xa xôi, bà tiếp:
"Vậy mà anh ấy lại vội xa tôi. Anh đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa. Tôi đau đớn và bỏ mặc tất cả. Tôi như chiếc lá úa giữa dòng đời vội vã, tôi lạnh lùng như một tảng băng. Cho đến khi tôi gặp nhà tôi, tình yêu của anh ấy như một luồng hơi ấm, nhẹ nhàng nhưng kiên trì, dần đà đã làm tiêu tan băng giá trong tôi, nhưng rồi nhà tôi lại cũng bỏ tôi mà đi. "
     Bà Thủy bỗng dưng im bặt, một giọt nước mắt lăn dài xuống má. Trung bối rối tìm cách nói lời an ủi;
"Cháu thật có lỗi đã vô tình khơi lại chuyện buồn. "
Bà Thủy lấy lại bình tĩnh, bà cười nhẹ:
"Ồ! Người có lỗi là bác, đã bắt tội khách phải nghe những chuyện không vui. Nhưng không biết tại sao từ lúc gặp cháu bác đã thấy mến cháu ngay, bác có cảm tưởng như đã quen cháu từ lâu.
Bà cười mà mắt còn long lanh ngấn lệ:
"Hôm nay có thêm một người hiểu về mảnh đời quá khứ của bác nhiều hơn cả Thu Hương! "
"Cảm ơn bác đã tin tưởng cháu. Cháu rất quý mến bác. Nghe bác kể chuyện, cháu nghĩ những người của thế hệ bác có lẽ là những người giàu tình cảm, và thích chắt chiu kỷ niệm. Cháu có thể thấy điều này qua ba mẹ cháu. "
"Cháu không những thông minh mà còn nhạy cảm. Nhưng thôi để bác tắt máy cho cháu ngủ, bác cũng cần phải cố gắng ngủ một chút. Chúc cháu ngủ ngon. "
     Nói rồi bà đứng lên đi về phòng của bà, Trung chào bà rồi trở về phòng mình. Vầng trăng tròn trên đỉnh ngọn cây tùng chiếu ánh sáng mờ ảo vào căn phòng làm Trung cảm thấy dễ chịu. Nhìn tấm hình đen trắng chụp bóng đổ dài trên bãi cát của hai thiếu nữ mặc áo dài Việt Nam được phóng lớn treo trên tường trông rất nghệ thuật. Trung bật đèn lên để thấy rõ hơn. Có lẽ đây là hình chụp hai mẹ con bà Thủy! Đã có lần Hương khoe với Trung là ba nàng có thú chụp ảnh nghệ thuật, chắc hẳn đây là một trong những sáng tác của ông. Trung cảm thấy quý mến bà Thủy nhiều hơn, càng gần bà, Trung càng thấy Hương có nhiều nét giống mẹ, chàng thầm cảm ơn Thượng Đế đã cho chàng cơ hội quen biết Hương.
     Trung nhớ cha mẹ thật nhiều, nhất là người cha tật nguyền, suốt một đời tận tụy cho vợ con. Chỉ ngày mai, bằng giờ này Trung đã có mặt bên cạnh cha mẹ, chàng sẽ đưa đứa em trai đi chợ tết sắm ít quà cho ba mẹ. Tội nghiệp mẹ có chiếc áo dài may đã lâu, mỗi lần có đình đám, hội hè của người Á Đông là mẹ lại mang ra mặc. Trung mỉm cười nhớ lại những lời mẹ nói trên điện thoại hôm qua:
"Ba mẹ mới sơn lại căn phòng của con để đón con về ăn tết đó... Cái thằng Nghĩa đểnh đoảng, chẳng gọn gàng như con. Ôi cái phòng của nó mẹ dọn hoài cũng dơ hoài, quần áo sách vở vứt cả trên sàn nhà... Nó với ba con, hễ có giờ rảnh là hai cha con lại la cà ở thư viện lôi về một đống sách. Trên bàn, dưới sàn chỗ nào cũng có sách vở, báo chí con ơi! Ừa! Mà thằng Nghĩa khoe con có bạn gái hả? Sao không cho ba mẹ biết! Nhớ mang hình về cho ba mẹ xem mặt nghe...."
     Trong giấc ngủ muộn, Trung mơ thấy những khuôn mặt thân thương và đôi bàn tay êm ái của Thu Hương.
Giấc ngủ không đến với bà Thủy dễ dàng. Định tìm một quyển sách đọc với hy vọng giấc ngủ sể đến, nhưng mắt bà lại lướt qua những tấm hình chưng trên đầu tủ. Ánh mắt bà dừng lại thật lâu trên tấm hình ba thiếu nữ trẻ đẹp trong ba tà áo dài chụp trước sân nhà thờ Đức Bà. Hình ba chị em bà đã được Quân chụp trong ngày lễ Giáng Sinh năm nào. Tấm hình đưa bà trở về với vùng trời quê hương, nơi bà có cả một kho tàng kỷ niệm dấu yêu.
     Sau chuyến nghỉ hè tại Vũng Tàu, Thu Thủy không còn là cô bé hồn nhiên hay vòi vĩnh mẹ cho tiền đi coi ciné, hay nũng nịu đòi ba chở cả nhà đi ăn cơm Tầu bên chợ lớn, đòi phần bánh gateau thật lớn, ly chè đậu đỏ thật to. Từ ngày quen Quân, Thủy đã bắt đầu biết thẹn thùng làm duyên, biết bâng khuâng mong nhớ. Trở lại Sài Gòn, Thủy nhớ những ngày hè ở Vũng Tàu đến ngẩn ngơ, nàng nhớ Quân quay quắt. Thủy thẹn đỏ mặt mỗi lần nhớ đến lúc ở bãi biển bị mảnh vỏ sò đâm vào chân, Quân đã phải vỗ về dỗ dành để Thủy thôi khóc.
     Trên đường chở ba chị em Thủy về nhà cô Năm, Quân luôn miệng hỏi: "Thủy hết đau chưa? " Mỗi lần như thế thì hai cô em gái, Hồng và Hạnh lại nhéo vào tay Thủy rồi khúch khích cười. Quân kể chuyện những lần bị phạt hít đất trong những tuần lễ huấn nhục, những lần chàng đi biển "ôm sô" của những ngày tập tành hải nghiệp. Quân kể chuyện rất vui làm ba chị em cứ ôm bụng cười và Thủy quên cả đau. Đêm hôm ấy hai đứa em gái tinh nghịch luôn miệng chọc ghẹo:
"Bà Thủy có ma lực hớp hồn ông sĩ quan Hải Quân. Ê bà Thủy! Chàng cũng khôi ngô tuấn tú không kém Kim Trọng của Kiều. Eo ơi! chàng có cặp mắt đa tình đến rợn người, bà mà cặp ông ấy thì tiêu đời. Khiếp! chàng có nụ cười phong trần gớm, coi chừng cảnh phòng không gối chiếc.... ".
     Ba ngày nghỉ hè còn lại là ba ngày thật vui. Ngày nào Trung cũng trở lại thăm Thủy, nhưng vì vết thương nơi chân Thủy chưa lành nên cô Năm không cho ba chị em ra ngoài. Ngày cuối cùng cô Năm thấy tội nghiệp nên không còn cấm túc. Sáng sớm ba chị em đã có mặt tại bãi biển, tung tăng nô đùa với nước và sóng biển cho đến gần trưa, khi Quân đến đưa họ đi thăm cảnh Vũng Tàu. Một ngày qua đi thật mau. Quân bịn rịn chia tay cùng Thủy và hẹn ngày tái ngộ.
     Trở lại thành phố, Thủy mong đợi ngày đi phép của Quân để được chàng đến thăm. Thủy hãnh diện giới thiệu Quân với bạn bè mỗi lần Quân đến đón ở cổng trường. Cành me, chùm phượng vĩ trong sân trường dường như cũng miên man chia xẻ niềm hân hoan của Thủy mỗi khi Quân đến. Thủy duyên dáng bên Quân trên con đường Duy Tân cây dài bóng mát. Tuy không phải là con chiên ngoan đạo, nhưng Quân vẫn thích theo Thủy đi lễ để nghe nàng thì thầm cầu nguyện:
"Xin cho tình yêu được nồng nàn, bền vững keo sơn. "
Tình yêu lớn dần theo những lần Quân về phép. Mẹ Thủy lo lắng:
" Ngày xưa ông bà ngoại không cấm cản má khi ba cầu hôn với má, thì ngày nay má cũng không cấm cản con yêu Quân. Hơn nữa, Quân cũng là người có nhiều đức tính tốt, con sẽ tìm được hạnh phúc bên người con yêu. Má chỉ muốn nhắn nhủ với con: Có người yêu hay chồng là lính thì con phải can đảm khi có những bất trắc xảy ra. "
     Thủy vui như bước vào thiên đường hạnh phúc những ngày Quân về phép. Nàng buồn bã như cành hoa héo úa khi vắng Quân. Hồng và Hạnh lại đe dọa:
"Ai bảo bà thích làm người yêu của lính.., thì bà phải chấp nhận thương đau... "
     Và thương đau đã thực sự đến với Thủy. Một buổi chiều từ trường trở về, người bạn của Quân, đang chờ Thủy trong phòng khách. Anh báo cho Thủy một hung tin:
"... Anh Quân đã mất tích trong trận hải chiến Hoàng Sa! Có lẽ anh ấy đã tử trận! ... ".
     Thủy không còn nghe được những gì người bạn nói. Thủy chạy vào phòng nằm vật xuống giường khóc nức nở. Kể từ đó Thủy trở thành lầm lì, ít nói, ít cười. Thiên đàng hạnh phúc đã khép cửa bỏ quên Thủy bên ngoài. Thủy chìm dần xuống vực sâu đau khổ. Người bạn đã trở lại nhiều lần nhưng Thủy không tiếp. Quá thất vọng, Thủy giam mình trong bóng tối cô đơn và thinh lặng.
     Biến cố 30 tháng tư năm 75 đã đưa gia đình Thủy đến Hoa Kỳ. Hồng và Hạnh cũng lần lượt lập gia đình. Ba Thủy rồi cũng đã qua đời, mẹ nàng lo lắng cho đứa con gái đã lớn tuổi mà không nghĩ đến chuyện chồng con. Nhưng rồi tình yêu chân thật và bền bỉ của người đàn ông bản xứ đã mang lại sức sống cho trái tim tưởng như đã chết mòn trong đau khổ của Thủy. Hương ra đời mang lại cho Thủy bao niềm vui, nàng gần như quên hết dĩ vãng. Công việc hàng ngày cộng thêm bổn phận làm vợ và làm mẹ đã làm Thủy thêm bận rộn, nàng vui với niềm vui của chồng con. Cuộc sống ấm êm thanh bình bên cạnh chồng con tưởng như vô tận.
     Nhưng dường như định mệnh của Thủy được gắn liền với những thảm họa, với những mất mát lớn lao. Người thân của Thủy lại một lần nữa bỏ nàng ra đi! Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, Thủy đã ở bên cạnh chồng khi ông trút hơi thở cuối cùng sau tai nạn đụng xe khủng khiếp. Lại một lần nữa Thủy rơi vào tận cùng của cô đơn và tuyệt vọng. Dòng đời vẫn trôi và kỷ niệm là chốn nương tựa cho tâm hồn đầy thương tích của Thủy.
***
     Trời mới lờ mờ sáng bà Quân đã thức giấc. Bà nhẹ nhàng ra khỏi giường để ông Quân ngũ, bước thật nhẹ ra ngoài phòng khách thấy hai cậu con trai, cuốn gọn trong chăn, mỗi đứa một chiếc ghế salon đang say sưa ngủ. Cũng căn nhà trọ, hai phòng này, hơn hai năn trước khi Quân dọn vào, đồ đạc vỏn vẹn có cái giường nhỏ, một cái bàn học, một cái ghế gỗ mà ông Quân đã sắm vội cho con trước khi để con ở lại Houston một mình, vậy mà nay khi bà trở lại đã có đầy đủ. Phòng ngủ giường tủ ngăn nắp, chiếc phòng lớn một bên là nhà bếp có bộ bàn ăn nhỏ, một bên là nơi tiếp khách cũng có bộ salon trang nhã. Nhà bếp có đầy đủ dụng cụ làm bếp và chén, đĩa kiểu...
     Nhìn quanh nhà, cách trang trí với những bức tranh nghệ thuật trên tường, màn cửa kiểu cách, bà gật gù mãn nguyện, bà nói với chính bà: "Nhà nhìn cứ như có bàn tay người vợ hiền, thằng Trung thế mà khéo. " Bà nôn nóng mong sao trời mau sáng đến giờ hẹn với đàng gái để bà nhìn thấy cô con dâu tương lai của bà. Khuôn mặt xinh đẹp dịu dàng trong hình, giọng nói ngọt ngào nhỏ nhẹ trên điện thoại không đủ thỏa mãn lòng mong muốn một cô con dâu với đầy đủ công, dung, ngôn, hạnh cho đứa con trai đầu lòng. Bà muốn tận mắt thấy cô con dâu mà bà đã mong đợi cả năm nay để nhìn thấy mặt. Bà săm soi lại cặp rượu, hai hộp trà tàu, hai hộp bánh.
     Tất cả được bà cẩn thận gói trong giấy bóng đỏ để lát nữa đây đem qua nhà bà Thủy để "dạm ngõ Thu Hương cho con trai bà. Cả tháng nay bà đã bàn định với chồng về lễ hỏi, lễ cưới cho con trai, bà vẫn nói với chồng: "Giấy rách phải giữ lấy lề, dù ở phương trời nào thì mình vẫn phải giữ phong tục tập quán của người Việt Nam... "
     Còn bà xui nữa, bà Quân rất thích cách nói chuyện cởi mở thân mật của bà Thủy, dù chưa một lần gặp gỡ mà hai người đàn bàn như đã quen thân, có lần trên điện thoại bà Quân đã thân mật nói: "... Chị cứ gọi em bằng tên Hằng cho thân mật, mình cũng cùng tuổi tác với nhau mà..."
Tiếng chân ông Quân cắt ngang dòng tư tưởng, ngẩng nhìn chồng, bà nói:
"Anh thức dậy rồi hả? Còn sớm lắm sao anh không ngủ thêm một chút cho lại sức, ngồi cả buổi trên máy bay, rồi đêm qua còn thức khuya nói chuyện với hai con, chắc anh mệt lắm. Để em pha cho anh ly trà nóng..."
     Thực ra suốt đêm rồi ông không hề chợp mắt, ông suy nghĩ mông lung về định mệnh của một kiếp người. Đúng ra, cả gần năm nay, sau ngày Trung về thăm nhà vào dịp tết năm ngoái, bỏ quên quyển đặc san xuân có bài thơ mà ông đã viết tặng người yêu đầu đời. Cho đến ngày nay bài thơ lại được đăng trong đặc san Xuân Quê Hương! Ông đã nhiều đêm thao thức băn khoăn. Dĩ vãng của thời thanh xuân tưởng đã theo tháng năn ngủ yên trong tiềm thức nay chợt sống lại mãnh liệt trong lòng ông, chợt hiện về thật rõ nét trong ký ức ông. Những tấm hình của Thu Hương mà Trung đã gửi về cho vợ chồng ông. Ông đã ngạc nhiên đến sửng sốt khi nhìn thấy hình Thu Hương. Đôi mắt ấy làm sao ông có thể lầm lẫn được. Còn cái tên "Thu Thủy", mẹ của Thu Hương, chắc chắn không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu quả thực như điều ông suy nghĩ thì đã đến lúc ông phải đối diện với thực tế. Bưng tách trà nóng bà Quân mới pha, ông uống từng ngụm nhỏ. Nhìn đồng hồ mới hơn sáu giờ sáng, ông bảo vợ:
" Hằng à! Em nên nằn nghỉ một chút, hôm nay mình có cả một ngày dài, sợ em chịu không nổi. Lát nữa các con thức dậy, anh đưa cả nhà xuống phố ăn phở. Thằng Trung nói gần đây có tiệm phở Đà Lạt mới mở, khá ngon. "
Bà Trung kéo ghế ngồi sát bên chồng, bà mở hộp nữ trang khoe:
"Anh thì lúc nào cũng lo lắng cho mẹ con em, thân mình thì không lo. Này anh coi, cái vòng bạch kim này đẹp không? Của má em cho ngày em còn con gái đó. Mình không có con gái, hay để em tặng cho Thu Hương nghe anh. Với em, con dâu con ruột gì em cũng thương hết. "
Ông Quân ôm vai vợ siết nhẹ. Vợ ông lúc nào cũng thế, hồn nhiên, vui vẻ và tốt bụng. Ông thương vợ vì những đức tính tốt. Ông còn thương vợ vì nàng là người mẹ tuyệt diệu của hai đứa con trai của ông.
 
***
     Nhà bà Thủy hôm nay trang hoàng thật lộng lẫy, khăn bàn trắng ủi hồ thẳng nếp, hoa hồng đỏ thắm chưng giữa bàn. Cây mai Trung và Hương mua cách nay mấy tuần trổ bông tuyệt đẹp. Bà Thủy treo trên ấy mấy phong đỏ có chữ Cung Chúc Tân Xuân. Bà Thủy trang hoàng nhà cửa không hẳn chỉ để chào đón ba ngày tết mà còn để chào đón gia đình Trung đến xin "dạm ngõ con gái bà. Bà Thủy nhìn quý phái trong chiếc áo dài màu xanh rêu và quần satin chằng. Hương sau bao lần đổi ý, cuối cùng nàng chọn chiếc áo màu vàng hoàng yến. Chiếc áo dài cổ truyền của phụ nữ Việt Nam làm Hương thêm thùy mị duyên dáng. Biết Trung rất đúng giờ nên mẹ con bà đã chuẩn bị trước và ra đón tận ngoài ngõ. Chỉ vài phút sau thì gia đình Trung đến. Bà Quân cũng xinh xắn trong chiếc áo dài mầu nâu đỏ. Ba cha con ông Quân trịnh trọng trong bộ Âu phục. Hôm nay ông Quân không chống gậy. Ông chỉ dùng chiếc chân giả bằng gỗ, ông đứng thẳng người và bước những bước thật vững.
     Hôm nay là ngày trọng đại của con trai ông hay của chính ông? Chỉ mình ông biết! Dù đã chuẩn bị tinh thần, ông cũng không khỏi sửng sốt khi gặp bà Thủy. Ông nhìn người xưa mà lòng dâng lên một nỗi xúc động ngập tràn. Bà Thủy dường như cũng nhận ra người đàn ông đối diện, bà mất tự chủ, nhưng chỉ trong khoảnh khắc bà lấy lại bình tĩnh. Trung và Hương giới thiệu hai bên gia đình với nhau. Bà Thủy thăm hỏi từng người và vồn vã mời mọi người vào nhà. Bà Quân vừa gặp Hương là mến ngay, bà thầm khen Trung khéo chọn người bạn trăm năn, vừa hiền ngoan, vừa duyên dáng lại vừa đẹp. Bà Thủy cố tránh ánh mắt của ông Quân khi bà châm trà mời khách. Đỡ mâm sính lễ trên tay Nghĩa, ông đặt lên bàn và trịnh trong nói với bà Thủy mục đích của cuộc thăm viếng ngày hôm nay: "... Vì tình yêu của hai cháu Trung-Hương.
     Xin phép chị cho con trai chúng tôi, Trung, được lui tới gia đình bà để hai cháu có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu nhau..." Hai bên đối đáp rất cẩn trọng. Bà Quân vốn không thích quá câu nệ, khách sáo, nên bà tíu tít hỏi han, cười nói luôn miệng làm không khí bớt căng thẳng. Chẳng mấy chốc mà ba người phụ nữ đã trở thành thân thiện. Trong lúc mọi người chuyện trò vui vẻ. Nghĩa hỏi Hương:
"Chị Hương, nghe anh Trung nói chị có hồ cá tuyệt đẹp, đưa em đi coi được không? "
"Lát nữa đi Nghĩa, mình bỏ ra ngoài bây giờ không được đâu, mẹ la chết. "
"Em thích nuôi cá đá, chị có cá đá không? "
"Không, nhưng em thích thì hôm nào chị mua tặng em một cặp. "
"Chị hứa rồi nhé, em sẽ không để chị quên đâu. "
     Nghe câu chuyện ngây ngô của hai người trẻ, ông Trung thấy lâng lâng niền vui. Bà Thủy mời tất cả sang phòng ăn, thức ăn còn nóng hổi đã được chị giúp việc dọn sẵn. Bà Thủy mở bọc giấy bóng đỏ, lấy ra cặp rượu, trao cho ông Quân một chai và nhờ ông mở và rót giùm ra những chiếc ly pha lê. Mọi người nâng cao ly rượu chúc mừng cho tình yêu của Trung và Hương. Bà Quân lấy chiếc vòng bạch kim mang vào cườm tay cho Hương, bà nói:
"... Một chiếc vòng, hai thế hệ! Bác cầu xin ơn trên cho các con luôn thương yêu nhau và hai bên gia đình luôn thuận thảo. ..."
     Sau bữa cơm thân mật, mọi người ra phòng khách. Bà Thủy châm thêm trà và mọi người thưởng thức mứt thập cẩm do chính tay bà làm. Sợ bà Thủy theo thói quen mời ông bà Quân đi dạo, lợi dụng lúc bà Thủy trở lại nhà bếp, Trung vội nói nhỏ với bà là cha chàng bị cụt mất một bàn chân trong chiến tranh Việt Nam, do đó sự đì đứng không được bình thường, có lẽ không đi dạo được. Bà Thủy mở tròn mắt, sửng sốt nói:
"Cháu mới nói ba cháu bị cụt mất một chân ở Việt Nam? Trận hải chiến Hoàng Sa phải không? Tại sao anh ấy lại không cho tôi biết? Tại sao lại dấu tôi? "
Sợ bà Thủy coi thường ba mình, Trung vội bào chữa:
"Ba cháu rất tự trọng, không muốn làm người khác phải bận tâm về chuyện bất hạnh của mình, nên ba cháu ít khi nói cho người khác biết, ngược lại ba cháu luôn tỏ ra là một người bình thường. "
"Cháu ra tiếp ba mẹ, có hạt bụi rơi vào mắt bác, bác về phòng một chút sẽ trở lại ngay. "
     Bà Thủy đi vội về phòng, sau khi cánh cửa đã khép, bà để nước mắt tự do tuôn chảy. Bà đã hiểu tấm lòng cao thượng của người yêu đầu đời. Vậy mà bấy lâu nay bà cứ ngỡ thân xác Quân đã vùi sâu trong lòng biển cả. Bà lau vội nước mắt, rồi trở ra phòng khách. Giữ vẻ mặt tươi cười, bà tránh không nhìn ông Quân, nhưng hình như ánh mắt của Quân và Trung đều đổ dồn về bà.
     Bà Quân đang vui vẻ, bỗng ôm đầu nhăn nhó, ông Quân biết là vợ lại bị cơn nhức đầu kinh niên hành, ông vội đứng dậy đỡ vợ, ông lấy ống thuốc để sẵn trong túi, đưa cho vợ, bà uống ngay một viên. Trung hỏi bà Thủy cho mẹ nằn nghỉ trong phòng thật tối và không có tiếng động, sau khi uống viên thuốc bà sẽ ngủ một vài giờ và khi thức dậy sẽ hết nhức đầu. Hương và bà Thủy đỡ bà Quân vào phòng. Hương gói bịch nước đá nhỏ vào chiếc khăn lông và đặt lên trán bà Quân, kéo chăn đắp lên tận cổ bà, nàng nói:
"Bác nằm nghỉ, nếu cần gì bác cứ gọi cháu, cháu sẽ trở lại thăm chừng bác. "
Bà Quân cố gắng mở đôi mắt đã bắt đầu nặng trĩu, nắm tay bà Thủy và Hương, bà nói:
"Chị và cháu cứ an tâm, tôi chỉ cần nghỉ một chút sẽ trở lại bình thường. Gia đình tôi đã quen với chứng bịnh kỳ quặc của tôi. "
Siết nhẹ tay bà Quân, bà Thủy nói:
"Chị Hằng! Chị cứ an tâm nằn nghỉ, chúng tôi sẽ không gây tiếng động. Hương là y tá, cháu sẽ biết cách săn sóc chị. "
"Cảm ơn cháu, cảm ơn chị Thủy, chúng tôi thật có phúc đã quen... biết..."
     Bà Quân đã chìm vào giấc ngủ khi chưa nói hết câu. Khi mẹ con bà Thủy trở ra, ba cha con ông Quân vẫn đợi ngoài phòng khách. Trung đề nghị Hương và Trung đưa Nghĩa ra xem hồ cá. Bà Thủy và ông Quân cũng đi theo ra vườn Bà Thủy mời ông Trung ngồi xuống chiếc ghế gỗ dưới giàn dạ lý hương, bà ngồi xuống chiếc ghế gần đó. Hai người đều nhìn vu vơ về một khoảng chân trời không cố định. Một lúc lâu, bà Thủy lên tiếng:
"Tội nghiệp chị Quân! "
Ông Quân hững hờ đáp:
"Vâng! Nhà tôi dạo sau này hơi yếu, chứng nhức đầu luôn làm khổ vợ tôi. Xin lỗi đã làm phiền lòng bà trong ngày vui của con chúng ta. "
"Anh Quân! Xin đừng khách sáo"
Hai người lại im lặng. Một lúc sau ông Quân nói:
"Thu Thủy! Em..., Ồ! không,... Chị Thủy, chị nhìn vẫn như dạo nào! Chị vẫn bình an chứ? Cháu Trung cho tôi biết ba của Hương đã qua đời. -Ngừng một lát, ông thở dài- Thật tội nghiệp chị, Cháu Trung còn nói em,... ô... chị thường hay mất ngủ, lòng tôi đau như cắt. Đã từ lâu anh... ơ... tôi đã nghi ngờ Trung đang yêu con gái của người yêu đầu đời của tôi. Cặp mắt trong tấm hình của Thu Hương nhìn rất giống chị ngày xưa, rồi bài thơ anh.. tôi viết tặng Thủy đăng trên tờ báo Xuân Hương Quê ký tên TT. Thu Thủy! Tôi đâu thể lần lẫn được. Con trai tôi đã vô tình cho tôi biết tất cả.
Bà Thủy nghẹn ngào.
"Tại sao anh lại dối Thủy? Thủy cứ tưởng anh đã tử trận. Anh có biết Thủy đau khổ như thế nào không? "
"Tôi không thể ích kỷ, Tôi không thể bắt một người con gái ngây thơ, phải chịu chung số phận với tôi. Em đẹp như một nàng tiên, lộng lẫy kiêu sa như một nụ hồng. Lúc đó tôi thật tuyệt vọng và đau khổ. Tôi đã hy vọng em sẽ quên tôi, và sẽ có người xứng đáng hơn tôi sẽ thay chỗ tôi. Đã nhiều lần, thật nhiều lần, tôi đến cổng trường đợi em giờ tan học. Nhìn em tiều tụy làm tìm tôi đau đớn. Tôi đã định gọi tên em, tôi đã định gặp em và nói thật tất cả. Nhưng nhìn lại bàn chân tật nguyền! Bàn chân tật nguyền của tôi sẽ làm khổ đời em. Tôi không đủ can đảm. Tôi không thể ích kỷ! Tôi âm thầm gọi tên em trong trái tim đang rướm máu của tôi"
     Bà Thủy ngậm ngùi, rồi bật thành tiếng nấc nhỏ, nước mắt như con nước vỡ bờ, tuâm chảy dạt dào. Ông Quân chua xót nhìn người yêu, ông đến gần bà, ông muốn đưa tay ôm đôi vai run rẩy của bà và hôn lên đôi mắt mà ngày xưa ông đã từng đắm đuối si mê. Nhưng ông đã dừng lại, vì ông biết chỉ bước thêm một bước nữa thì ông sẽ không tự chủ được và ông sẽ thổ lộ lòng mình, ông sẽ bảo ông vẫn còn yêu bà tha thiết, không một ngày qua đi mà ông không nghĩ đến bà. Rồi chuyện gì xảy ra? Ông không thể lường được. Ông đã sai lầm một lần, ông không thể sai lầm thêm lần nữa. Ông đau khổ khập khễnh trở lại ghế ngồi. Mắt ông cảm thấy ướt và mũi ông cay. Ông rút khăn tay trao cho bà Thủy thấm nước mắt.
"Thủy! Cho anh ngàn lần xin lỗi, hãy tha lỗi cho anh đã làm khổ em. Yêu em, anh chỉ mong ước em được hưởng trọn vẹn hạnh phúc trong mái ấm gia đình. Anh chỉ muốn em có một người chồng xứng đánh hơn anh. Mọi tủi buồn khổ đau anh sẵn sàng hứng chịu, miễn sao người anh yêu được ấm êm hạnh phúc.."
Lau khô ngấn lệ, bà Thủy run run đáp:
"Anh Quân! Đừng xin lỗi Thủy, anh không có lỗi gì cả. Anh là người thanh niên có nhiều đức tính tốt, mẹ Thủy đã có lần nói như vậy. Anh đã hy sinh tình yêu vì nghĩ đến Thủy. Anh thật cao thượng. Cháu Trung rất giống anh, cả về khuôn mặt, dáng người lẫn tính tình. Hương rất có phước, hãy chúc lành cho con cái chúng ta."
Bà Thủy mỉm cười, giọng bà nhỏ lại, dường như giọng nói của thuở xa xưa:
"Bây giờ hai cuộc đời! Hai ngả rẽ! Chúng ta còn trách nhiệm, còn bổn phận. Chúng ta còn Trung, còn Hương. Hai người con của chúng ta sẽ cùng nhìn về một hướng tương lai. Âu cũng là định mệnh! Cảm ơn Thượng Đế anh vẫn còn sống, để Thủy gặp lại. Cảm ơn ngài đã cho Trung và Hương gặp gỡ và yêu nhau. Hình ảnh Hoàng Quốc Quân của hơn 30 năm về trước vẫn chưa bao giờ phai nhạt trong tim Thủy. "
"Thu Thủy, anh mong cả hai chúng ta hãy coi quá khứ là kỷ niệm đẹp mà chúng ta hằng trân quý. Anh sẽ yêu mãi những bản nhạc của thời xa xưa. Phải chăng tình chỉ đẹp khi còn dang dở?"
"Anh Quân, từ nay ta sẽ là  sui  gia của nhau. Kể từ nay chúng ta sẽ thôi thao thức, băn khoăn. Chúng ta sẽ được ngủ những giấc ngủ bình an!"
"Thu Thủy! Chúng tay hãy chung vui cho một mùa Xuân Hạnh Ngộ."
"Vâng ! Chúng ta hãy vào rủ chị Hằng và các con cùng chung vui với chúng ta. Hai tâm hồn đã được giải thoát."
1781%205%20XuanHanhNgoLNTD
      Buổi xế chiều mùa xuân ấm áp. Mặt trời nghiêng nghiêng, thả vạt nắng vàng loang loáng trên may hàng cây. Dưới bóng cây sồi  cổ thụ sau nhà, mọi người đã tề tựu  đông đủ. Vừa dàn dựng máy hình Trung vừa nói: "Cũng may con vừa học xong lớp nhiếp anh nghệ thuật. Con sẽ chụp tấm hình gia đình tuyệt đẹp để làm kỷ niệm."
     Ông Quân cao nhất, Trung xếp đứng giữa, bên phải là bà Quân, bà Thủy đứng cạnh bà Quân, Nghĩa đứng bên phải của ông Quân, kế là Hương. Trung bấm máy chụp tự động và bước vội đến đứng bên Hương. Mọi người cười vui vẻ. Tiếng động nhỏ phát ra từ chiếc máy ảnh báo hiệu hình đã chụp xong. Trung vui cười chúc:
"Nhân dịp Xuân về, xin chúc mọi người được toại nguyện với những điều mong ước. Con cũng xin riêng chúc ba mẹ và bác Thủy được dồi dào sức khỏe, khang an, trường thọ."
Cơn gió thoảng đầu xuân rì rào trên ngàn lá, như mang câu ca dao đáp lời chúc tụng:
Mình về ta chúc đôi lời
Chúc cha, chúc mẹ, chúc người bạn thân,
Chúc cho đôi lứa thanh tân
Đẹp  như trăng tỏ đêm xuân ngày rằm.

Lê Phạm Kim Phượng


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 11/Jan/2019 lúc 10:14am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Jan/2019 lúc 12:49pm

Án Mạng Đêm 30 Tết        <<<<<

Image%20result%20for%20nau%20banh%20chung

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Jan/2019 lúc 8:01am

Quê hương của tôi


Image%20result%20for%20quê%20hương%20việt%20nam

Ngày rời Việt Nam, mẹ tôi đưa cho tôi một nắm đất lấy từ sau vườn. Không hiểu sao mỗi lần nhìn lại nắm đất đựng trong chiếc hộp nhựa trong suốt, tôi luôn luôn nghĩ trong nắm đất có giọt nước mắt mẹ tôi. Mẹ tôi bảo khi đến nơi lạ, nướng nắm đất lên rồi nấu nước uống, sẽ tránh được bệnh “lạ nước lạ cái”.

Tôi không làm theo lời mẹ tôi khi đến nước Mỹ. Tôi muốn giữ nguyên nắm đất quê nhà. Tôi cũng không muốn nước mắt mẹ tôi tan loảng vào thứ nước lạ. Dường như nắm đất đã đem lại cho tôi những may mắn nào đó trên bước đường tha hương, nên di chuyển đến nơi nào, tôi cũng mang theo. Lúc nào nắm đất cũng nằm cạnh hình ba tôi trên bàn thờ.


Image%20result%20for%20sông%20bến%20hải

Tôi sinh ra bên kia bờ vĩ tuyến, cuộc đời nổi trôi dọc theo chiều dài đất nước. Một tuổi thơ bơ vơ nơi làng quê nghèo đói, được kết thúc bằng chặng đường cam go để vượt qua giòng Bến Hải gặp lại ba tôi. Những năm tháng miệt mài trong các trường nội trú. Nghiệp thư sinh đầy hứa hẹn đành dang dở để đi theo tiếng gọi của non sông. Hết chiến tranh, tôi bị lùa vào hơn mười trại tập trung đầy ải và thù hận của Bắc quân. Ra khỏi vòng lao lý là những ngày mưu sinh cùng cực bằng đũ phương kế để sống sót. Rồi bổng nhiên như có tấm thảm thần đưa tôi đến một thế giới khác.

Những năm tháng cuối đời tha hương, ngày lao đao với sinh kế, đêm về bồi hồi nhớ người nhớ cảnh, cái đau thân xác sao bằng cái đau trong hồn. Có khi nghĩ về cuộc đời bèo dạt của mình đã gắn liền với vận nước, như đứa bé bám vào vú mẹ đầy thương tích trên quốc lộ máu trong chiến trận Bình Long. Người mẹ cuối cùng đã chết, nhưng đứa con mồ côi phải sống. Tự thâm sâu của lòng mình, như có một chất liệu còn sót lại, không là hoài bảo ngày xưa, không là mưu cầu hôm nay, cũng chẳng phải là ước vọng ngày mai cho riêng mình: tình yêu quê hương và món nợ đất nước.

Tôi muốn về thăm mẹ tôi lần cuối trước khi bà ra đi.

Trước ngày trở về, tôi nhìn nắm đất hằng giờ, ước hẹn ngày trùng phùng một quê hương đã bỏ lại sau lưng. Quê hương chính là người mẹ đưa tôi vào đời, dẫn tôi đến trường, nhắn nhủ ngày tôi lên đường nhập ngũ, vỗ về tôi trong cơn tuyệt vọng chốn lao tù, và đôi khi trong đêm tối loé sáng mời gọi về tương lai.

Như chuyện thần thoại bí ẩn hay chuyện võ lâm hoang đường, ai đã cấy vào lòng đứa bé một hạt giống ngày cất tiếng khóc chào đời: làng quê tôi. Mảnh đất chôn nhau cắt rốn ấy đã ấp ủ tôi, nuôi tôi khôn lớn, và theo tôi suốt cuộc đời.


Related%20image

Làng tôi nghèo nhất vùng, không có sông, chẳng có núi, chỉ có những mảnh ruộng nhỏ. Nuôi sống dân làng vào mùa khô là những gánh củi, bó mây, lấy từ những cánh rừng rất xa. Nghề đan lát là sở trường của dân làng giúp miếng cơm manh áo vì lúa khoai không đũ ăn. Mùa đông, những ngọn gió thổi từ Lào qua lạnh thấu xương. Không có chăn mền, anh em tôi phải vùi vào lớp rơm vây quanh dưới giường. Không manh áo, lạnh run với cái quần cụt, chiều chiều ngồi ở ngạch cửa, anh em tôi ngóng chờ mẹ trở về từ cánh đồng Lâm Xuân hay từ ngôi chợ Hòa Ninh ở đâu đó thật xa.


Image%20result%20for%20bà%20mẹ%20quê

Khi ba tôi trốn chạy Việt Minh rồi biền biệt phương Nam, thì ở quê nhà mẹ tôi tất bật với ruộng đồng nuôi đàn con thơ dại. Những khi nghe ai hát bài Bà Mẹ Quê, tôi cứ nghĩ bà mẹ trong bài hát chính là mẹ tôi vất vả trăm chiều nuôi một đàn con chắt chiu – bà mẹ quê, hôm sớm không nề hà chi – bà mẹ quê, ngày tháng không ao ước gì, nhỏ giọt mồ hôi, vì đời trẻ vui …


Image%20result%20for%20di%20cư%20vào%20Nam

Nhưng rồi, mẹ và anh em tôi phải rời quê cha đất tổ, theo đoàn người di cư vào Nam. Tôi mang theo trọn vẹn hình ảnh ngôi làng quê và những kỷ niệm tuổi ấu thơ.

Anh em tôi gặp lại ba tôi mừng mừng tủi tủi, khi ông trở về từ một cuộc hành quân dài ngày ở Quảng Trị. Một đời cho gia đình, thế mà ba tôi đành biệt âm trong Nam mấy năm trời, sau này tôi mới biết, nếu ở lại quê nhà, ba tôi sẽ bị quy chụp là phản động, làm sao thoát được những màn đấu tố man rợ của Việt Minh. Đối với tôi, ba tôi là hình ảnh của lòng chung thủy, là cây đại thụ của gia đình. Những ngày cuối cùng trên giường bệnh, trong cơn đau nát ruột của căn bệnh, với trí nhớ khác thường, ba tôi đã kể lại cho tôi nhiều chi tiết về giòng họ, để có cuốn gia phả đầy đũ ngày hôm nay.

Từ miền Trung xuôi về Nam như đi trong khung trời mới thênh thang, nhưng dường như vẫn có gì trống vắng, như thể nửa phần hồn tôi đã để lại quê nhà.

Ngày đi học ở Tam Kỳ, một hôm tôi bỏ học theo một đứa bạn cùng lớp, lang thang vào một ngôi làng. Lạc đường, mỏi chân, đói bụng, hai đứa ghé vào một ngôi nhà tranh. Nghe tiếng chó sủa, một bà cụ già chầm chậm chống cửa lên. Khi biết chúng tôi đi lạc, bà kêu một đứa cháu dẫn đường.

Trước khi đi, bà lấy cây sào chọc trái đu đũ chín cho chúng tôi ăn. Bà nhìn hai đứa bé đói ăn sạch trái đu đũ. Tôi ngước mắt nhìn lên khuôn mặt bà. Ôi chao, khuôn mặt bà sao giống khuôn măt bà cố ngoại tôi ngày tiễn gia đình tôi vào Nam. Da nhăn nheo, mái tóc bạc, mắt xa xăm, nhưng sao nét mặt đầy nhân hậu. Phải chăng, đó là nét nhân hậu trên mọi khuôn mặt những người mẹ Việt Nam.

Năm lớp ba Tiểu Học ở Mộ Đức, để đến trường, tôi phải đi bộ mỗi ngày gần bốn cây số đường làng. Ngôi trường mái ngói chỉ một gian dành cho hai lớp học chung nằm giữa ruộng mía. Giơ tay xin thầy đi tiểu là tôi lọt giữa ruộng mía ngọt lịm tha hồ mà cạp.

Thầy Ba thương tôi nhất lớp vì tôi không can dự vào việc chia phe đánh lộn. Tan học, thầy bắt tôi đi theo thầy một đoạn trên đường về, đôi khi mưa gió, tôi được nép sát vào lòng thầy. Một hôm, sau bài tập đọc Ngày Nay Học Tâp, Ngày Mai Giúp Đời, thầy xoa đầu tôi và hỏi tôi lớn lên có muốn làm tổng thống không. Cho đến bây giờ, đã học qua bao nhiêu thầy, đối với tôi, thầy Ba là người thầy tôi ngưỡng mộ nhất, vì thầy đã gieo vào lòng tôi ý niệm giúp đời ngay từ khi còn nhỏ.

Tôi không được làm tổng thống như thầy mong muốn, nhưng tôi hãnh diện đã đứng trong hàng ngũ cầm vũ khí bảo vệ mảnh đất quê hương mình. Ước gì tôi được về lại Mộ Đức tìm thăm mộ thầy để thắp một nén nhang của đứa học trò thầy thương nhất lớp. Thầy Ba, chẳng bao giờ con quên được thầy, dù đã hơn năm mươi năm trôi qua.


Image%20result%20for%20Tết%20Trung%20Thu

Tết Trung Thu ở Sa Kỳ, trường tổ chức rước đèn. Trên đường quê leo lét những ngọn đèn dầu, đoàn người với những lồng đèn Trung Thu đũ loại, xen kẽ những con ngựa giả đi một vòng ngôi làng. Đi qua mỗi nhà, lại thấy dân chúng và trẻ con thích thú nhập vào giòng người.

Trở về lại trường, học sinh reo lên khi nhìn một dảy thúng kẹo của quân đội mang đến. Đứa nào cũng căng đầy túi bánh kẹo. Chiến tranh ở một nơi nào đó, còn xứ Sa Kỳ này vẫn thanh bình êm ã. Không phải ngôi làng tôi, nhưng sao tôi yêu thương mảnh đất này như chính nơi mình đã sinh ra.

Năm 1962, trường Thiên Hữu ở Huế tổ chức đi xe đạp xuyên tỉnh. Hơn ba mươi học sinh vượt đường dài sáu mươi cây số, ghé Quảng Trị một đêm, sáng hôm sau đi xe đò ra Bến Hải. Đứng bên này cầu Hiền Lương, tôi nhìn lá cờ thật dày cứng đơ bên kia sông, trong khi lá cờ vàng bên này uốn lượn trong gió ban mai. Nhìn về xa xăm, tôi tự hỏi, làng tôi đâu đó cuối chân trời, bây giờ ra sao? Bà cố tôi còn sống hay đã đi vào lòng đất?

Mấy anh lính chèo đò đưa học sinh ra gần giữa sông. Lảng vảng gần giữa giòng vài chiếc thuyền nhỏ. Một người lính cho hay, đó là thuyền của những nhân viên hợp tác xã miền Bắc, nhưng họ là những tên do thám thay nhau dò chừng phía Quốc Gia. Tôi hỏi người lính làm sao có thể về thăm quê tôi, anh trả lời: “Họ sẽ cho em về, nhưng không bao giờ em được trở lại miền Nam”…

Tôi thầm thì với nắm đất, như thì thầm với bà con nội ngoại ngày xưa đã nuôi tôi khôn lớn…

Số phận tôi luôn luôn sống xa gia đình. Ngay từ ấu thơ, tôi đã không có vòng tay ba tôi. Di cư vào Nam, tôi ở với gia đình được vài năm, sau đó ba tôi gởi vào các trường nội trú. Khi lớn lên, ba mẹ tôi vào lập nghiệp mãi tận rừng già Bình Long, tôi vẫn ở lại Huế đi kèm trẻ để có phương tiện tiếp tục học hành. Bước vào quân ngũ, tôi đóng quân những đơn vị xa nhà. Những ngày về phép đối với tôi quý như vàng. Tôi thích lẩn quẩn bên gia đình vui đùa, ăn uống, chụp hình kỷ niệm. Đôi khi tôi tự hỏi, sao các anh em khác luôn luôn được sống bên cạnh ba mẹ, mà tôi lại chịu cảnh xa gia đình. Có phải vì thế mà tôi thường hay tủi thân mỗi khi nhìn thấy một gia đình ấm cúng.


Image%20result%20for%20Đời%20lính

Đời lính ngang dọc, đi qua những ngôi làng, tôi thường liên tưởng đến ngôi làng nghèo đói của mình. Tiếng chó sủa về đêm, tiếng khóc trẻ thơ, ruộng bắp sắp đến ngày hái, những ống quần xăn cao trên cánh đồng vào mùa cấy lúa, những ánh mắt ngây thơ hay những khuôn mặt nhăn nheo là những hình ảnh dễ làm tôi xúc động. Một đôi khi, nhớ tuổi thơ, ao ước một ngày nào đó được về lại quê mình, tôi thường rướm rướm nước mắt như một đứa bé.


Image%20result%20for%20xóm%20nghèo

Lúc còn dưới mái học đường hay khi đã vào lính, tôi thường nắn nót chép lại những bài hát về quê hương. Tôi thích những bài hát nói về xóm nghèo, cánh đồng, cây đa đầu làng, những con đường xưa lối cũ, hát lên là nghe rung động từng đường gân thớ thịt…

Tôi ngắm nhìn nắm đất quê hương, muốn một lần tạ tội với tổ tiên bởi mình đã không được làm gì để ngăn giòng thác bạo lực…

Một miền Nam đang sống no ấm với ruộng đồng, bỗng nhiên những kẻ lạ mặt đến ép buộc tiếp nhận những điều họ không bao giờ cần đến, và bị tước đoạt đi những thứ họ đang cần cho cuộc sống. Tàn phá và gieo chết chóc được biện minh cho những nhu cầu xây dựng một thiên đường xa vời. Trong đầu óc non nớt, đứa bé như tôi chỉ thấy sự tàn ác và phi lý. Người lính chết ngoài trận địa, nhưng bom đạn cũng không tha người dân quê. Nhà cháy, cầu sập, những thi thể máu me của người dân lành đã tạo ra những câu hỏi nhức nhối cho cậu bé còn trên ghế nhà trường. Tôi chưa hiểu được những nguyên nhân gây nên chiến tranh, nhưng tôi mơ hồ những thôn tính miền Nam được điều khiển từ một nơi nào đó rất xa. Có lẽ những đêm đấu tố ở làng Thọ Linh anh em tôi chứng kiến trước ngày di cư vào Nam như là những cảnh báo một miền Nam yên lành sẽ đến phiên mình.

Cuộc đổi đời bắt đầu từ ngày 30 tháng tư năm 1975, đã tạo ra một thảm kịch toàn diện. Kẻ ra đi chia lìa thân thuộc, để tìm hơi thở tự do bất chấp sống chết trong rừng sâu hay biển rộng. Người ở lại bị tước đoạt gia sản, bị kiểm soát lối sống và cả giòng tư tưởng. Những người vô sản từ rừng núi nào đó chui ra thành phố, trong phút chốc nghiểm nhiên thành những tay giàu có, mà hai mươi năm trước đây chính họ đã mở chiến dịch đấu tố.

Một khuôn mẫu tổ chức kỳ lạ vay mượn từ một nơi xa lạ, bỗng nhiên áp đạt vào một xã hội được xây dựng từ hằng ngàn năm nay. Nền móng bị xới tung, thay vào đó những luật lệ kỳ quái, những lời dạy bảo của những con người rừng rú không cần chữ nghĩa. Gia đình, đạo đức, truyền thống, tình tự dân tộc trở thành vô nghĩa. Cướp bóc, tận diệt, dối trá trở thành những tiêu chuẩn đạo đức của một chủ thuyết lạ lùng không có huyết thống nào với dân tộc. Cùng khắp miền Nam phủ trùm nỗi sợ hãi, khiến có người hăng say phất cờ mọi nẽo phố chứng tỏ đồng tình, rút vào rừng sâu làm kẻ tiền sử, hay đành phó mặc số phận cho chủ nhân mới định đoạt.

Có phải họ là những sứ giả đến từ địa ngục? Họ say sưa triệt phá xã hội hiện tại, hứng thú thiết lập xã hội mới, sẽ đi về đâu có lẽ họ cũng chưa hình dung được. Họ gọi đó là xã hội chủ nghĩa. Từ đây, bào thai mới tượng hình hay cụ già cong lưng trên thửa ruộng cần phải được thay máu mới. Họ gọi máu đó là tư tưởng mác lê. Theo lời họ, thiên đường cộng sản với thế giới đại đồng, một ngày không xa nữa, chỉ cần đưa tay ra là có thể đón lấy.

Tôi hăm hở trốn chạy cái thiên đường đó, bỏ lại gia đình, quê hương, ngôi làng. Tôi không nghĩ mình sẽ có ngày trở lai. Ngày rời quê hương, tôi không biết mình may mắn hay bất hạnh. Ngôi làng tôi, quê hương tôi dường như đã thuộc về quá khứ.

Nhìn nắm đất, tưởng như đây là nắm đất thành Sion mà dân Do Thái mơ về, những ngày lưu đày bên bờ sông Babylone.

Suốt một tuần lễ chăm sóc mẹ tôi vừa thoát cơn bệnh thập tử nhất sinh, hầu như tôi không có thì giờ để nhìn sự đổi thay của đất nước. Cho đến khi về Sài Gòn chuẫn bị về quê, tôi mới giật mình. Xứ sở này đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Chiều hướng thay đổi rõ ràng không nhắm vào những công ích xã hội hay những người nghèo khổ, mà như chỉ phục vụ tầng lớp cầm quyền.

Ngoài đường xe cộ đũ loại lao đi như bị một lực phía sau thúc đẩy, để phóng đến những mục tiêu nào đó thật xa không định hình được. Nhà cửa nguy nga mọc lên phô diễn quyền uy của những chủ nhân mới. Trên đường phố, trong chợ, nhan nhản hàng giả bày bán công khai. Sự gian dối trong buôn bán hay giao tiếp như một nhu cầu để sống còn.

Trong câu chuyện với những người tiếp xúc, tôi không gặp được mấy người lưu tâm đến sinh tồn của đất nước. Đôi khi họ mù mờ về những thông tin trong nước mà người hải ngoại biết rất rõ. Giới trẻ hối hả lao vào những dịch vụ mới lạ có thể đem về lợi tức nhanh chóng. Có lẽ bởi không còn khả năng nhồi nhét lý thuyết không tưởng vào giới thanh niên, để sống còn, người cộng sản đành dùng sách lược cuối cùng, là tạo ra một lớp người chỉ biết kiếm tiền và hưởng thụ để tiêu diệt mọi mầm mống thay đổi hay phản kháng.

Trong một quán phở ỏ ngoại ô Sài Gòn, một em bé đến mời tôi mua vé số. Trên ngực còn phù hiệu học sinh, cô bé khoảng mười tuổi, hơi nhỏ con, mắt rất sáng nhưng tiếng nói lại quá nhỏ. Tôi lấy một tấm vé và đưa cho em tờ hai mươi đô. Em ngơ ngác không dám nhận, em nói chưa bao giờ thấy loại tiền này, chỉ xin một ngàn đồng tiền Việt. Tôi hỏi thăm em vài câu trong lúc vét hết mớ tiền Việt trong túi.

Cha em đạp xích lô vừa bị tai nạn đang nằm bệnh viện, mẹ em bỏ gánh hàng rong vào nuôi người bệnh. Hai đứa em nhỏ gởi ông bà nội. Tan học là em ra đại lý nhận vé số đi bán, mỗi ngày kiếm được mấy lít gạo cho gia đình.

Cầm mấy trăm ngàn trong tay mà môi em run run, mắt em ươn ướt. Em lí nhí cám ơn, rồi lặng lẽ ra đi. Trước khi khuất vào một con hẻm, em còn ngoái lại nhìn tôi thật lâu. Ước gì có một tay nhiếp ảnh nhà nghề lúc này. Ông ta sẽ làm mờ đi mọi thứ chung quanh, điều chỉnh máy vào đôi mắt của em, để có tấm hình về một sản phẩm của xã hội. Trong đôi mắt em, có nét đẹp của lòng hiếu thảo, có nét ngây thơ của thiên thần, thiên thần bị đọa đày xuống trần gian Việt Nam. Có khác chi tấm ảnh đã phổ biến rộng rãi trên truyền thông, vào giai đoạn thế giới đã cạn nguồn từ tâm với những người tỵ nạn khốn khổ: tấm hình đứa bé ngồi sau hàng kẻm gai trại tỵ nạn Hồng Kông trước ngày đóng cửa.

Tận cùng một con hẻm ở quận Ba, tôi gặp một cựu viên chức chế độ miền Nam. Ông nguyên là giáo sư Sử Địa. Ông quanh quẩn trong căn phòng với sách vở, dạy dỗ con cháu, chiều chiều làm bạn với bông hoa. Ông thường không trả lời các câu hỏi, chỉ thở dài. Ông nói ông không muốn dạy địa lý cho con cháu, e rằng không thể cầm phấn mà vẽ lại bản đồ Việt Nam. Ông cũng không muốn dạy lịch sử, e rằng không còn đũ sức nói hết pho sử của những tên gian hùng thời đại. Ông lại thở dài. Ông chỉ dạy con cháu đạo lý làm người.

Cuối cùng, ông cũng có cái nhìn rốt ráo về những người đang cai trị: đừng mong cảm hoá người cộng sản. Nói rồi ông lại thở thật dài.

Tôi ra về, bị ám ảnh về tiếng thở dài sau năm 1975. Một cán bộ cao cấp của Mặt Trận Giải Phóng bị lột sạch công lao, bị tước đoạt mọi quyền làm người, chỉ được tự do … đi lại trong nhà, không một phản ứng nào ngoài tiếng thở dài. Một điệp viên nhị trùng sau khi hoàn tất sứ mạng trong lòng đối phương, tưởng rằng sẽ trở thành anh hùng đi vào lịch sử, đâu ngờ phải ký tên vào bản cam kết im lặng cho đến khi bước qua thế giới bên kia. Đành thở dài cho hết kiếp. Một cán bộ “Câu Lạc Bộ Kháng Chiến”, ngao ngán tình đồng chí, bị cô lập, ôm mớ huy chương trong tay mà thở dài.

Tôi đi giữa phố phường, bàng hoàng nhìn lớp son phấn mới, bỗng thấy mình như một Từ Thức từ cảnh tiên trở về, không phải ngỡ ngàng nhìn quê hương không còn người xưa cảnh cũ, mà nghĩ đến những câu thơ của nhà thơ Trần Dần:

“Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.”

Tôi trở về ngôi làng yêu dấu của tôi. Mới đó mà đã năm mươi năm như bóng câu qua cửa. Câu hỏi lẩn quẩn trong đầu tôi suốt chặng đường dài xuyên Việt: làng tôi, ai còn ai mất?

Đón tôi ở nhà ga Minh Lệ, những người bà con vẫn với cái giọng miền quê ngồ ngộ, họ ôm chầm lấy tôi như vừa tìm lại đứa con thất lạc nửa thế kỷ nay. Tôi đã về lại giữa vòng tay của thân thuộc và xóm làng. Một vài đứa em lặng lẽ lau nước mắt. Bút nào tả hết cái tình người cùng quê cha đất tổ, chỉ có những người trong cảnh ngộ mới hưởng được thứ hạnh phúc đẫm nước mắt này.

Việc đầu tiên là nhờ mấy cậu dẫn tôi tìm lại căn nhà ba mẹ tôi. Tất cả đã thay đổi. Mảnh đất hiện do một người người cậu tàn tật ở, với căn nhà tranh xiêu vẹo, khác xa với căn nhà ba gian xinh xắn ngày xưa, cột bằng gỗ lim, mái bằng cây vọt, với hai cây mít sây trái sau nhà.

Chỉ còn vết tích cây khế cuối vườn, ai đã cưa đến tận gốc, nhưng vẫn còn mọc ra những nhánh con xum xuê. Tôi đứng lặng người nhìn cây khế mà nhớ đến ba mẹ tôi đã đổ bao mồ hôi gầy dựng cơ ngơi này.

Tôi nhắm mắt lại hồi tưởng những ngày thơ dại. Ôi chao, đây là mảnh đất tôi đã sinh ra, lớn lên giữa vòng tay nội ngoại. Một tuổi thơ nghèo đói nhưng êm ái biết dường nào. Cho đến khi Việt Minh về làng mở những cuộc đấu tố ngay trước nhà thờ, bắt trẻ con học nhảy những vũ điệu Trung-Xô, thì tuổi thơ tôi là những ngày nơm nớp sợ hãi. Co ro trong đống rơm dưới giường, anh em tôi cứ mơ tưởng ba tôi trở về đem mấy mẹ con đến một nơi nào đó.

Tôi đã về lại với những dấu tích xưa. Nhưng dường như những dấu tích ấy đang bị phủ lên một màu sắc kỳ lạ. Toàn thể ngôi làng được phân từng lô nhỏ vì dân làng sinh nở đông đảo, cây lúa được cấy sát vách nhà vì không đũ đất. Lủy tre xanh, con đường um tùm cây dứa xuyên qua làng dẫn đến một đầm nước nổi tiếng nhiều ma trơi, hai cây ngô đồng trước nhà thờ, nơi diễn ra những cuộc đấu tố cuối cùng, tất cả đã biến mất. Cái nghèo dường như còn nghèo hơn năm mươi năm trước. Cảnh vật cũ không còn nữa mà là một bức tranh xa lạ. Ngôn ngữ dân làng dùng trong giao tiếp mang một âm điệu khó nghe. Cung cách nói năng như phải tuân theo một khuôn mẫu nào đó.

Chỉ còn một thứ quen thuộc: tiếng chuông nhà thờ. Nhưng là tiếng chuông mời gọi tín đồ đến sám hối, nghe ra không là tiếng chuông loan báo điềm lành tương lai. Những kẻ tội đồ của dân tộc sao không đến tòa giải tội, mà nạn nhân lại cầu xin Chúa thứ tha? Thôi thì nghe theo lời một linh mục, việc Chúa làm người thế gian không tài nào hiểu được.

Buổi sáng từ giả, đứng trên mảnh đất thân yêu, nước mắt lưng tròng, tôi mơ hồ làng quê tôi đã mất. Chiếc túi đang mang trên vai đựng máy chụp hình, máy quay phim, trở thành vô dụng. Thôi thì tất cả hình ảnh thu được bằng mắt hôm nay hảy để vào một góc trong tâm tưởng.

Quê hương tôi, sau ngày im tiếng súng, tưởng đã thấy hòa bình, lại vỡ ra từng mảnh. Mẹ lên núi tìm xương con mình, con bỏ trường bỏ lớp bươi rác kiếm ăn, cha đi hết trại giam nầy đến trại tập trung khác. Mảnh vỡ văng bốn phương trời, qua các nhà chứa trên đất Miên, đến hòn đảo xứ Tàu làm nô lệ, trôi dạt mãi tận phương Tây mà sống sót, và một mảnh vỡ bất hạnh đã chìm xuống tận biển sâu làm những oan hồn lịch sử. Bên kia biển Thái Bình, ruột đã đau chín chiều, về đây lòng bỗng quặn thắt.

Nhưng người Việt Nam sẽ không là người Do Thái bên bờ sông Babylone, than khóc thành thánh Sion. Người Việt Nam nặng nợ với non sông biết mình sẽ phải làm gì để mời gọi con cháu dự phần vào việc xây dựng tương lai Việt Nam. Một Việt Nam cho dân tộc Việt Nam, với màu lúa chín vàng rực, không là màu máu đang nhuộm lên đất nước này.

Tôi có một người bạn đến cư ngụ tại tiểu bang M***achussetts, lúc mà đốt đuốc ngày đêm mới tìm được vài người Việt Nam. Anh cảm thấy lạc lõng từ ngoài đường phố, nơi làm việc đến khi về nhà. Một hôm ghé vào tiệm thuốc tây, anh chợt nghe phía sau kệ hàng tiếng hai mẹ con nói chuyện. Giọng nói nghe quen quen. Lại gần, anh sững sốt nhận ra họ nói tiếng Việt.

Bà mẹ trẻ chưa đến ba mươi, đứa bé gái khoảng sáu bảy tuổi. Anh lặng lẽ theo sau họ một khoảng cách thật lâu, cho đến khi hai mẹ con hốt hoảng biết có người theo dõi. Anh luýnh quýnh, thú thật bao nhiêu năm nay không được gặp một người nào nói tiếng mẹ đẻ của mình. Đối với anh, nghe họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt như thấy lại được quê hương.

Lần đầu tiên trong đời, tôi tổ chức mừng sinh nhật cho mình. Tôi không mời một ai ngoài con cháu. Nhìn mấy đứa cháu ngoại quanh quẩn bên mình, tôi cảm nhận một thứ hạnh phúc lạ lùng vượt lên những hạnh phúc riêng tư đời thường. Ðứa nhỏ nhất bốn tuổi, đứa lớn nhất đã lên tám. Sau cái chết tức tưởi của đứa con đầu lòng, hôm nay tưởng chừng Thượng Ðế đã bù đắp lại cho tôi bằng những đứa cháu xinh ngoan. Chúng nói tiếng Mỹ như suối chảy ở trường học, chúng ăn đồ ăn Mỹ mỗi ngày, chúng hưởng tiện nghi dồi dào của xã hội, nhưng chúng vẫn nói tiếng Việt mỗi khi sà vào lòng tôi.

Hôm nay tôi cũng hưởng được thứ hạnh phúc tuyệt vời như người bạn khi nghe bên tai những đứa cháu líu lo tiếng mẹ đẻ – tiếng của quê hương ngàn đời, từ lúc chào đời đến khi về với lòng đất. Trong nỗi đau chín chiều nơi xứ lạ quê người, tôi vẫn còn quê hương bên mình.

Nén hương lòng cho người đã sinh ra con


Chu Lynh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Jan/2019 lúc 9:51am

Đôi bàn tay nguyện cầu

baomai.blogspot.com

Chuyện kể rằng vào thế kỷ thứ 15, tại một ngôi làng nhỏ gần thành phố Nuremberg của nước Đức có một gia đình nghèo khó và rất đông con. Trụ cột trong gia đình – người cha là một thợ kim hoàn có tiếng thuộc dòng họ Albrecht. Ông phải làm việc quần quật suốt 18 tiếng một ngày, từ sáng sớm đến tối khuya trong nhà xưởng và đi làm thuê làm mướn bất cứ công việc gì cho người dân trong vùng để nuôi đàn con khôn lớn.

Mặc dù sống trong gia cảnh nghèo khó, nhưng hai cậu con trai đầu lòng nhà Albrecht luôn ấp ủ một ước mơ trở thành một nghệ sĩ tài ba. Tuy vậy chúng cũng hiểu rằng cha mình chẳng bao giờ có đủ tiền để chu cấp cho một trong hai đứa tới học tại trường nghệ thuật ở Nuremberg.

Sau nhiều đêm bàn bạc trên chiếc gường chật chội của mình, hai anh em cuối cùng cũng đã thỏa thuận được rằng: chúng sẽ tung đồng xu để phân định và người thua cuộc sẽ phải nghỉ học, đi làm thuê trong các hầm mỏ để kiếm tiền nuôi người kia ăn học thành tài. Người thắng sẽ hoàn thành việc học tập trong vòng 4 năm và sau đó quay trở lại kiếm tiền để nuôi người anh em còn lại của mình đi học bằng việc bán những bức tranh hay thậm chí là đi làm thuê trong các hầm mỏ.

Vậy là sự việc tung đồng xu định mệnh của anh em nhà Albrecht đã được diễn ra vào một buổi sáng chủ nhật nọ, ngay phía sau nhà thờ.

baomai.blogspot.com
  
Cuối cùng thì người anh – Durer Albrecht đã thắng cuộc và tới Nuremberg học mỹ thuật; còn người em – Albert phải nghỉ học và đi làm thuê trong những hầm mỏ, ròng rã suốt 4 năm trời vô cùng cực nhọc để kiếm tiền nuôi anh ăn học.

Người anh nhanh chóng trở thành một học trò xuất sắc ở trường. Những tác phẩm tranh vẽ, tranh khắc gỗ và tranh sơn dầu của anh thậm chí còn đẹp hơn hẳn những bức tranh khác của các bậc thầy dạy.

Như một lẽ đương nhiên, ngay khi vừa tốt nghiệp, Durer Albrecht đã bắt đầu kiếm được rất nhiều tiền từ các tác phẩm của mình.

Chàng trai trẻ trở về nhà trong niềm vui sướng hân hoan của cả gia đình. Buổi tối hôm đó, nhà Albrecht tổ chức một bữa tiệc ăn mừng lớn. Buổi tiệc tràn đầy tiếng nhạc và những lời chúc tụng. Durer Albrecht rời bàn ăn tiến tới bên người em trai yêu dấu đã bao năm vất vả lam lũ nuôi mình ăn học để nói lời biết ơn và cùng nâng cốc chúc mừng. 

Đến cuối tiệc, Durer Albrecht  dõng dạc tuyên bố:

– Này Albert! Em trai yêu quý của anh. Đã đến lúc anh chăm lo cho em được rồi. Em hãy tới Nuremberg để theo đuổi ước mơ của mình đi, anh sẽ trang trải mọi việc và luôn ở bên cạnh em.

Mọi ánh mắt đều dõi nhìn về phía cuối bàn ăn nơi Albert đứng, với niềm xúc động khôn cùng.

Nhưng người em vẫn đứng đó cúi đầu trong im lặng. Những giọt nước mắt lăn dài xuống hõm má gầy gò xanh xao của mình… và Albert nấc lên trong thổn thức:

– Không, không… không!

baomai.blogspot.com
  
Cuối cùng, Albert ngẩng đầu lên và lau những giọt nước mắt trên đôi gò má hốc hác, anh nhìn mọi người khắp một lượt, rồi run rẩy áp đôi bàn tay của mình lên bên má phải và nghẹn ngào nói:

– Anh Durer! Anh ơi, em không thể! Em không thể tới học ở Nuremberg, đã quá muộn rồi anh ạ. Anh nhìn đôi tay em này, anh ơi! Ôi, bốn năm qua làm việc trong các hầm mỏ, nó đã làm gì đôi bàn tay em! Ngón tay nào của em cũng không còn nguyên vẹn, gần đây em luôn bị dày vò bởi bệnh đau khớp ở tay phải, nó đau đến nỗi, em thậm chí còn không thể nâng ly chúc mừng anh, thế thì sao mà em có thể vẽ nên những bức tranh tinh tế trên giấy bằng chì và cọ hả anh? Thôi anh ơi, tất cả đã muộn rồi!

Cả phòng tiệc chìm đi trong im lặng. Rất nhiều người lặng lẽ rút khăn tay lau nước mắt. Durer Albrecht ôm choàng lấy em trai Albert gầy gò tội nghiệp mà không thốt lên lời!…

baomai.blogspot.com
  
Hơn 400 năm đã trôi qua, giờ đây hàng trăm kiệt tác của Durer Albrecht vẫn được treo khắp các viện bảo tàng nổi tiếng trên toàn thế giới. Những bức chân dung, những bức phác họa, tranh màu nước, những bức tranh vẽ bằng chì than, những bản tranh khắc gỗ, khắc đồng của ông… đều trở thành kiệt tác nghệ thuật được bảo tồn, đấu giá, sao lưu và triển lãm khắp nơi.

Nhưng có một bức họa được coi là ‘kiệt tác trong những kiệt tác’ của Durer Albrecht được những người yêu hội họa toàn cầu biết tới đó chính là bức tranh mà người danh họa này vẽ bằng cả tài năng, lòng trân trọng và biết ơn của mình đối với sự hy sinh thầm lặng của người em trai Albert:

baomai.blogspot.com
  
Nhiều đêm thâu, Durer Albrecht đã miệt mài vẽ bức tranh về đôi bàn tay không còn lành lặn của người em trai yêu dấu, với những ngón tay bình dị, khắc khổ chụm vào nhau hướng lên bầu trời. Ông đơn giản chỉ đặt tên cho bức họa là: “Đôi bàn tay”, nhưng hết thảy công chúng khi chiêm ngưỡng tuyệt tác này và được nghe câu chuyện cảm động về tình anh em của nhà Albrecht thì đều xúc động và gọi đó là bức họa: “Đôi bàn tay nguyện cầu”.

baomai.blogspot.com  



Đường Trung Nguyên

baomai.blogspot.com
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Jan/2019 lúc 3:49pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jan/2019 lúc 10:00am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Jan/2019 lúc 8:48am

Ngày 30 Tết


Image%20result%20for%20anh%20dong%20chuc%20mung%20nam%20moi

Bà và mẹ bảo hôm nay là 30 Tết, Phượng phải dọn dẹp nhà cửa và lau chùi, sắp xếp bàn thờ cho sạch sẽ, gon ghẽ. Mẹ đã giở tờ lịch Việt Nam cho Phượng xem, đây này 30 Tết tức là đêm giao thừa đấy, ngày này thiêng liêng và quan trọng lắm, chúng ta phải cúng để tiễn năm cũ đi, đón mừng năm mới đến với thật nhiều ước vọng may mắn.
Xem thì xem, nhưng những con số trên tờ lịch chẳng làm Phượng nhớ, chẳng chờ mong, và chẳng nôn nao khi Tết đến. Việc ấy đã có bà và mẹ lo.
Khi Phương thấy mẹ đi chợ Việt Nam về, mua những lá chuối, nếp, đậu rồi bà rửa lá, ngâm nếp… có nghĩa là Tết đấy, vì những ngày thường bận rộn quanh năm, chẳng ai muốn bày việc này ra làm gì. Nhiều khi bố thấy bà và mẹ bận rộn quá, nói mua bánh trái làm sẵn ở chợ cho tiện, nhưng bà cương quyết không chịu, mẹ cũng thế, nguyên liệu, thực phẩm ở Mỹ này rẻ quá, chỉ bỏ tí công là có đồ ăn tươi ngon và tiết kiệm được tiền, mình biết làm tội gì để cho họ ăn lời dễ dàng thế, nên hai người đàn bà này ra sức làm công việc bánh trái với tất cả lòng hăng say và yêu thích của họ.
Năm nào cũng vậy, bà gói bánh chưng, không cần khuôn, chỉ bằng tay thôi mà cái nào cái nấy vuông vức đều nhau, y như sản phẩm ra lò từ một khuôn mẫu có sẵn. Lần đầu thì luộc bánh bằng nồi to ở sau vườn với bếp củi, khói lửa lên nhiều quá, hàng xóm chạy sang phàn nàn, bố còn bảo coi chừng họ gọi 911 sở cứu hoả đến thì phiền. Nên từ năm sau trở đi bà gói bánh nhỏ lại và luộc bằng bếp gas trong garage.
Khi bánh vừa vớt ra, Phượng thích được nếm thử, gọi là nếm chứ cô xơi luôn một cái, nếp và đậu mềm nhuyễn, thơm phức mùi thịt mỡ hạt tiêu.
Công việc của mẹ là xay lá gai (do mẹ trồng và hái lá để đông lạnh, tới dịp cần dùng thì mang ra) để nhồi với bột nếp làm bánh gai, nhân đậu xanh trộn với dừa non thái sợi vương vấn mùi nước hoa bưởi. Ban đầu nhìn thấy cái bánh màu đen nhánh Phượng sợ lắm, không dám ăn, nhưng khi ăn thử rồi Phượng thấy thích. Bà và mẹ đã tập cho Phượng ăn đủ thứ món ăn Việt Nam, có cái Phượng ăn được, có cái Phượng không thích, những lúc Phượng chê đồ ăn Việt Nam thì bà mắng: con này, mày đẻ tại Mỹ nên quên cả nguồn gốc rồi, Phượng biết nguồn gốc mình là người Việt Nam chứ, nhưng bắt Phượng ăn mắm tôm, ăn tương, ăn giò heo nấu giả cày của bà thì Phượng xin chịu thua, ghê quá!
Hôm nay là 30 Tết Việt Nam, bà và mẹ lại làm như mọi năm, bà gói bánh chưng (bà bảo cho đến khi nào già yếu quá, tay run lẩy bẩy không gói được thì sẽ nhường lại việc này cho mẹ) còn mẹ đang làm bánh gai.
Phượng giặt giũ quần áo, chăn gối xong thì lau bàn thờ, bà bảo năm mới mọi thứ trong nhà phải mới, cô vừa lau vừa hỏi bà:
- Bà ơi, ngày mai mồng một Tết chúng ta có tục lệ lì xì phong bao tiền, phải không?
Bà cười hiền hậu:
- Ông bà, cha mẹ sẽ lì xì tiền cho con cháu, để chúc con cháu được mọi sự tốt lành.
- Vậy bà nhớ lì xì cho cháu nhiều tiền vào nhé, tiền già của bà mỗi tháng vài trăm bà để dành làm gì?
Mẹ mắng Phượng:
-Con gái lớn rồi mà ăn nói như còn bé lắm ấy, tiền bà để dành cúng chùa, giúp đỡ những họ hàng nghèo khó ở Việt Nam và mới đây, bà đóng góp tiền giúp nạn nhân bão lụt đấy.
Bà chép miệng:
- Tội nghiệp! bao nhiêu nhà cửa đổ nát, người chết thảm thương, cháu đừng quên lời bà dặn nhé, hãy mở lòng ra với mọi người nghèo khó hơn mình, hay đang gặp hoạn nạn, khó khăn.
- Bà dặn cháu nhiều lần rồi, cháu không quên đâu, nhưng phải đợi cháu ra trường có việc làm đã, cháu lo thân cháu xong rồi muốn giúp ai thì giúp.
- Cháu bà ngoan quá, bà sẽ lì xì cho cháu nhiều nhất nhà. Nhưng ngày xưa, khi bà 20 tuổi bằng cháu bây giờ, bà đã có 3 mặt con rồi đấy.
Phượng nhẩy cẩng lên thích thú:
- A! cháu thích nghe chuyện ngày xưa của bà, sao ngày ấy bà lấy chồng sớm thế? Boyfriend của bà đòi cưới hay bà đòi cưới?
- Boyfriend là gì hở cháu?
- Là người yêu đó, anh ta yêu bà lắm phải không?
Mẹ cau mày mắng Phượng:
- Con ăn nói phải giữ lời, “anh ta“ nào thế? Ông ngoại của con đấy.
Phượng nũng nịu nắm tay mẹ phân trần:
- Trong tiếng Anh già trẻ, ông cháu gì thì cũng dùng từ như thế thôi, mẹ biết điều đó mà.
- Nhưng mẹ sợ bà không biết bà giận.
Bà đỡ lời:
- Không sao, các cháu nó nói tiếng Anh là chính, tiếng Việt nam thế là giỏi rồi, cháu cứ tự nhiên, vì lúc nào cháu cũng là cháu gái bé bỏng của bà.
Rồi bà kể tiếp:
- Thời xưa đâu có người yêu như bây giờ, cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó.
Phượng kêu lên:
- Bất công! Và tước đoạt quyền tự do của người con gái.
- Nhưng chả sao cả cháu ạ, người ta vẫn sống hạnh phúc êm đềm và sinh con đẻ cháu. Ai như bây giờ, tự do lựa chọn người mình yêu rồi một sớm một chiều đã li dị, con cái thì bơ vơ, xa mẹ vắng cha.
Phượng cười:
- Hên cho bà là anh ta đẹp trai, cháu đã nhìn thấy hình ông ngoại hồi trẻ rồi, nếu bà lấy người xấu thì cháu cũng xấu luôn, cháu sẽ bắt đền bà đấy.
Bà mơ màng trôi về quá khứ:
- Ông ngoại đẹp trai mà nghiêm lắm, bà nể sợ ông, không dám cãi một câu, ông vừa là người chồng vừa là người chủ của bà. Bà làm dâu, hàng ngày đã bận rộn làm lụng , mỗi lần Tết đến càng bận rộn thêm, vừa trông coi vừa làm, nào gói bánh chưng, bánh gai, bánh dày, nấu chè kho, muối dưa hành. Nào mổ lợn để làm giò lụa, nem chua, nấu thịt đông, xương thì nấu măng, nấu miến… cỗ bàn 3 ngày Tết không lúc nào ngơi tay.
Phượng ngạc nhiên:
- Bà khổ thế sao? Họ abuse bà đấy, nếu ở Mỹ thì họ đáng tội vào tù.
Mẹ giải thích:
- Chẳng ai hành hạ bà cả, bà hãnh diện và sung sướng được làm những công việc ấy, chứng tỏ mình là vợ đảm dâu hiền.
Phượng chặc lưỡi ngẩn ngơ:
- Thời xưa lạ nhỉ! bị hành hạ mà vẫn sung sướng. Thế 3 ngày Tết ăn uống nhiều thứ bà có sợ mập không? Sau Tết bà có diet cho xuống cân không?
- Ăn thì cứ ăn, chẳng sao cháu ạ.
Rồi bà chép miệng:
- Ngày xưa, phong tục lễ Tết rất nhiều, ngày nay càng ngày càng đơn giản đi, và sang đến Mỹ thì mất gần hết rồi, con cháu đẻ ra ở đây, chẳng biết ngày Tết quý giá và thiêng liêng thế nào. Ngày Tết xa xưa, bà ăn một miếng bánh chưng thơm mùi nếp mùi lá dong, bà nghĩ tới những cánh đồng lúa chín vàng, tới những giọt mồ hôi cày cấy của người nông dân…
Mẹ tiếp lời:
- Bây giờ chúng nó nhìn bánh chưng bằng đôi mắt dửng dưng hoặc tò mò hỏi cái gì đây rồi lắc đầu từ chối, ngay cả không thèm ăn thử lấy một miếng.
Phượng lý luận:
- Thì bà và mẹ cũng không thích ăn hamburger, có bao giờ ăn thử miếng nào đâu!
Mẹ hồi tưởng:
- Sống ở quê hương mình, trải qua những mùa mưa nắng, những lúc đói no, mới thấm được hương vị ngày Tết. Khi đất trời vào Xuân, có nắng vàng, có gió nhẹ thổi sạch những chiếc lá khô nhỏ trên hè phố, khi chợ búa bắt đầu đổi màu sắc, ngập tràn cam quýt chín vàng, dưa hấu chất từng đống giữa chợ… còn rau sao mà nhiều thế? Sà lách xanh, bông cải trắng, cà chua chín đỏ như hẹn nhau cùng mùa thu hoạch cho kịp Xuân về… Và khi người ta vội vã mua sắm đồ Tết làm như sẽ không còn dịp nào để mua sắm nữa. Những hình ảnh đó, cảm giác đó, người Việt Nam tha hương chẳng bao giờ quên.
Phượng ngừng tay lau chùi, quay lại nhìn bà và mẹ, hai thế hệ đã qua, mỗi người có một mùa Xuân đẹp theo ý họ, trông bà lưng còng tóc bạc, trông mẹ tuổi đã xế chiều Phượng khó có thể hình dung được họ đã từng có những mùa Xuân lộng lẫy trong đời, từng bâng khuâng xao xuyến khi thời tiết giao mùa, cây cối đơm hoa nẩy lộc. Bây giờ họ thích ôn lại kỷ niệm và kể cho con cháu nghe.
Phượng nghĩ vẩn vơ sau này mình già thì sẽ có kỷ niệm gì để kể cho con cháu nhỉ? Cô sẽ kể lại cái ngày 30 Tết này vậy, rằng là bà không biết gói bánh chưng, bánh gai, nên bà ngoại và mẹ của bà sai bà làm đủ thứ chuyện, mệt kinh hồn.
Mẹ nhìn vẻ đăm chiêu của cô và hỏi:
- Con đang nghĩ gì mà ngẩn người ra thế? Lại đây mẹ chỉ cách gói bánh gai, sau này làm cho các con nó ăn.
Phương dẫy nẩy lên:
- Các con của con sẽ không thích ăn bánh này đâu.
- Con chỉ lười thôi, mấy món bánh đơn giản này mà cũng không chịu học.
Bà than thở:
- Tôi đã nói rồi mà, càng ngày con cháu ở xứ người càng quên đi mọi thứ liên quan đến cội nguồn của nó, chẳng biết tới đời con, đời cháu nó có còn biết nếm cái mùi vị ngon của bánh chưng, bánh gai, hay dưa hành ngày Tết không?
Mẹ nói như an ủi bà:
- Cũng phải thế thôi, biết sao bây giờ? Mình đâu có sống đời mà hướng dẫn chỉ bảo chúng nó được.
Bà đã gói bánh xong, gọi Phượng vào thu dọn, rồi mang bánh chưng và nồi ra garage để nấu bánh, chưa hết, bà còn giao cho Phượng một công việc nữa là đêm nay chở bà đi chùa đón Giao thừa. Bà rất chăm đi chùa, có lần Phượng đã hỏi bà :
- Bà ơi, đi chùa có vui không? Sao tuần nào bà cũng đòi đi?
Bà âu yếm mắng cháu:
- Chùa là chốn tôn nghiêm, đâu phải chỗ giải trí mà vui, nhưng có niềm vui của tâm hồn, được bình an, được thanh thản.
Tuần nào không đi được bà buồn hẳn ra, cứ than thở là già cả ở Mỹ này chỉ trông vào con cháu chở đi chùa vào dịp cuối tuần, thế mà đôi khi cũng không xong, khi vui nó chở, khi buồn thì không.
Bà nói đúng quá, những hôm bận Phượng chẳng muốn chở bà đi chùa, hay có chở thì cũng vùng vằng, kém vui. Biết sự cần thiết của bà Phượng làm tới, cô hay năn nỉ bà kể chuyện ngày xưa cho cô nghe, nếu bà không kể cháu “cúp” luôn không chở bà đi chùa nữa. Và bao giờ Phượng cũng được vừa ý.
Thường thường Phượng chở bà đến chùa và hẹn giờ đến đón, một hôm cao hứng Phượng ở lại lễ chùa với bà, cô tò mò xem có gì hấp dẫn mà tuần nào bà cũng đi như những người yêu nhau không bao giờ lỗi hẹn, cô ngồi cạnh bà, cũng quỳ, cũng lạy, nhưng cô không biết tụng kinh, chỉ biết ngồi im nghe, người ta đọc hết trang này đến trang khác làm cô sốt cả ruột hỏi bà chừng nào xong? Bà nói tụng hết cuốn kinh Pháp Hoa này, cô nhìn cuốn kinh dày cộp thở dài ngao ngán, tự trách mình lỡ dại trót ngồi đây rồi bỏ ra về giữa chừng sao được!
Từ đó, Phượng chẳng bao giờ vào chùa đọc kinh nữa và thầm phục bà mỗi tuần ngồi cả giờ đọc đi đọc lại những câu kinh ấy, những sách kinh ấy mà không chán, mà vẫn sốt sắng khăn áo đến chùa. Sau này dù Phượng có già, cũng không thể làm như bà được.
Bánh chưng và bánh gai đang được nấu trên bếp nên mọi người cảm thấy rảnh rang, bà quay ra kể chuyện đi chùa đón giao thừa, nghe tiếng chuông chùa báo hiệu năm mới vừa sang rồi ra vườn chùa hái lộc. Phượng hỏi:
- Hái lộc là gì hở bà?
- Cháu hái bất cứ một cành lá nào, gọi là hái lộc đầu năm để cầu ước mọi điều trong năm mới sẽ được tốt tươi như cành lộc ấy.
Mắt Phượng sáng long lanh:
- Cháu muốn được hái lộc, tối nay cháu vào chùa với bà.
Bà nghi ngờ:
- Nhưng đừng có chóng chán đòi về nhé?
Cô cương quyết:
- Cháu sẽ ở bên bà từ đầu đến cuối, bà biết không? Cháu sẽ cầu ước nhiều thứ lắm: bà khoẻ mạnh sống lâu, bố mẹ cháu cũng thế và cháu thì học hành khá hơn… Phượng ngừng không nói tiếp những ý nghĩ còn trong đầu là cô sẽ gặp một người tình vừa ý như mơ, điều ấy cô biết một mình là đủ rồi.
Lòng hớn hở, vui vẻ, Phượng dặn bà:
- Tối nay đi chùa bà nhớ mặc nhiều áo ấm vào, Tết của người Việt Nam, mùa Xuân của người Việt Nam, nhưng ở Mỹ này là mùa Đông đấy, bà hãy cẩn thận kẻo cảm lạnh bà nhé.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jan/2019 lúc 10:52am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22003
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Jan/2019 lúc 11:02am
Image%20result%20for%20tho%20tranh%20ncali
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 152 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.486 seconds.