Bên những bờ rừng
Nhân vội vã bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên
đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là
một cô gái Huế, cô hay nhìn lên bộ áo bay đã ngả màu của anh. Trên
hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đã vào ghế ngồi, và
thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.
Nhân nhìn đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô
gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để
cất cánh, chàng không nghe rõ câu hỏi, nhưng nhìn theo cử chỉ của cô
gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".
Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo
độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau,
che một phần áo bay đã bạc màu của chàng, trông thật dễ thương.
Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay
lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng
ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.
- Cô về đâu? ...
Cô gái đáp ngay như đã sẵn sàng từ lâu:
- Dạ em về Huế, thế còn anh?...
Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nhìn kỹ hơn qua vai nàng, đôi
mắt tròn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi
như những quả đào đang mùa.
Nhân trả lời:
- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không còn xe để ra Huế, khi tàu
về đến Ðà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:
- Dạ ...
***
Nhân nhìn ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về
những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố
nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao
nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để tìm vui bên ly cà
phê đen của quán "Dinh Ðiền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ,
nhìn theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với
những chiếc áo dài.
Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi còn ở Cần Thơ, phi trường Bình
Thủy, nơi chàng đã sống bốn năm, bên dòng sông Hậu, với bao nhiêu
vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những
hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và
các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang còn ngủ yên, để
đến những điểm hẹn, trước lúc bình minh. Rồi những ngày ghé lại Tô
Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau,
U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước.
Có một lần
chàng đã thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất
hình chử "S". Từ trên trời cao nhìn xuống một màu xanh tươi của vùng
đồng bằng với những làn sương mai đang còn lảng vảng trên mặt đất.
Trong khung cảnh thanh bình đó, cũng đang ẩn dấu những trận
chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.
Chợt cô gái quay lại hỏi:
- Anh đang nghĩ gì mà có vẽ đăm chiêu như thế?
Cô ta đang chăm chăm nhìn vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của
Nhân, chàng trả lời:
- Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau,
rồi chàng lên tiếng:
- Tôi tên Nhân, thế còn tên cô?
Cô gái có phần dạn dĩ hơn.
- Dạ em tên Hoá...
Nàng nói tên mình một cách rất tự nhiên và đang theo dõi người
đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nhìn nàng, Hoá tỏ vẻ
thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về mình, Hoá hỏi:
- Anh Nhân mới ra Pleiku?
Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:
- Vâng tôi ra Pleiku đã 3 tháng!... Thế còn Hoá?
Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân Cảnh Tư
Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương Hữu Lạc trưởng phòng
QCTP Pleiku, Hoá nói:
- Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng;
sau khi tan trường ở Huế.
Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng tình
nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đã
bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay
qua hỏi Nhân:
- Anh Nhân có thường về thăm Huế không?
Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra mình đã ít về Huế, hầu như
mỗi năm chỉ một lần. Chàng đã về Huế trước khi thuyên chuyễn lên
Pleiku, lần này với lý do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà
15 ngày trước khi trở lại đơn vị.
***
Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một
chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974).
Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đã lên
Pleiku sau ngày về nước, còn chàng thì về trình diện Vùng IV, phục
vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn
Phương, nhưng vì mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa
tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đã dí dỏm
nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:
- Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.
Nhân mỉm cười, vì ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot)
của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đã trải
qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là
phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả
đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh
Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều
rất nghiêm trọng, vì tình hình hai toán Lôi Hổ vào lòng địch trước
đây đã bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, thì bị phát
giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch;
nằm sát biên giới Việt Lào.
Phương và Nhân vào phòng hành quân để tham dự buổi thuyết trình
của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, vì sứ mạng hôm nay là bằng
mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người
này, sáng nay đã liên lạc về cho biết là họ đã hoàn thành nhiệm vụ,
nhưng suốt đêm qua đã phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp
cận biên giới.
***
Những tháng cuối năm 1971, Nhân đã có dịp bay những phi vụ với
các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quãng Lợi. Họ được đưa lên phi
trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Ðây
là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn
anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đã cùng bay với hợp
đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có gì nghiêm trọng cả. Họ
từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp
đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột
vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có
thể oanh kích và bắt sống.
Trên vòm trời lúc ấy, còn có một máy bay điều động C&C và một
máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng
qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm.
Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ vì "điếc nên không sợ
súng chăng" ?... Bây giờ Út đã ra đi, còn Nhân thuyên chuyển ra
Pleiku.
Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt này, Nhân đã được một
anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy
bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để phòng hờ cho việc mưu
sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn còn
đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính
thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi
những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô
thị, còn họ thì lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có
dịp để nghĩ về tương lai của chính mình. Họ là những người lính âm
thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy
toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp
này để chuẩn bị đi vào lòng đất địch.
***
Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào
vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán
sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú
đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho
biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người
này ra đến gần bãi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa,
sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố,
uống cà phê để được tỉnh táo.
Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đã tỏ bày những
nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài Gòn, nơi người bạn gái anh
hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về
một mối tình của một cô nữ sinh, với anh.
Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Ðại Học với
nhiều lần hẹn hò. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người
bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Ðô. Ngày ấy cũng là lúc em
học xong Ðại Học Sư Phạm. Họ đã ước hẹn một tương lai thật đẹp với
nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi
chuyến bay.
Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Ðó cũng chính là
những hình ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực
hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài Gòn vào dịp cuối năm
này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất
thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được
bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một
nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.
Hôm nay Phương và Nhân nhận lãnh phi vụ bay vào lòng địch để bốc
toán thám sát sáu người. Ðáng lý ra, người bay chiếc số hai của phi
vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đã nhận lệnh cất cánh đi
tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương
và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có
đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu.
Tuần trước Nhân tìm cách đổi chiếc radio của mình, vì chỉ chiếc
radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Phòng Tiếp
Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đã
tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Ðúng 3 giờ chiều,
khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đã nhận được tin tức toán trinh sát
đang trên đường tiến về phiá mục tiêu.
Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên vòm trời ngoài chiếc
C&C của Ðại Úy Hoàng, còn có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai
chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc
của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15
phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie
nơi Tr/tá Nguyễn Ðình Bảo đã ở lại vào mùa hè đỏ lửa 1972.
Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dãy Trường Sơn, bên
dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài
cánh chim đang bay lượn trên vòm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến
dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Ðại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:
- Số hai, vị trí bãi đáp bên phải của anh.
Nhân trả lời:
- Số hai, nghe năm.
Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên bãi đáp bên phải
của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.
Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ
phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:
- Có ground fire!...
Bên kia vô tuyến Ð/uý Hoàng đáp lại:
- Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!
Phương trả lời:
- Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.
Tiếng đạn bắn
lên đã ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần
tốc độ. Bãi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây
trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra
trên bãi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một
thân cây mục giữa Bãi đáp. Trong suốt đoạn đường vào bãi đáp thật
yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , vì lực lượng địch quân đang
trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ.
Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy
lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế Hovering, và tiếp tục cất cánh.
Nhân quan sát các đồng hồ, xong nhìn lên những thân cây cao trước
con tàu. Ðấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng
ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vã, Nhân vừa thở
xoà khi vừa ra được khỏi bãi đáp.
Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn phòng không đang bắn
trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương
ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của
Phương, con tàu như khựng lại.
Chàng nhìn thấy Phương đã buông cần lái và đầu cúi gục xuống.
Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần
lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không còn sức nâng, cần
Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đã bị trúng
đạn!... Con tàu tiếp tục lao xuống, Nhân cố kéo cần lái để bình phi.
Hệ thống thủy điều đã bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất
khó điều khiển. Sau khi bình phi được rồi, con tàu lại đâm đầu
xuống.
Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh
hoàng.
Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào
núi, bề mặt vòng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ
thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.
Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đã nổ tan
tành, thân tàu đã xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất,
thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là
tiếng hú của máy thật lớn!...
Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Ðại (Cơ phi) và
Tài (Xạ thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân
tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.
Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng
tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú
bị cắt tiết.
Nhân nhìn qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn
bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi
của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt
an toàn cho người bạn của mình. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và
rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm
sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được.
Nhân nhìn quanh để tìm người giúp, nhưng chung quanh chỉ còn lại
mỗi mình chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đã vội vàng đi theo
các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ý nghĩ rằng chính Phương đã
không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.
Nhân nhìn lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá
cửa sau để ra khỏi tàu!...
Khi đã ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ tình trạng của con tàu,
chiếc cánh quạt đuôi vẫn còn đang quay tít. Một cành cây đã đập vào
phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lý do tại sao tàu không tắt
máy được. Nhìn ra bờ rừng thì cây cối dày đặc, tầm nhìn không quá 10
mét. Nhân lần bước tiến lên tìm một lối đi, chợt chàng nhìn thấy một
cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đã bỏ lại trên lối đi,
Nhân cũng không màng lượm lên. Ði được một khoảng thời gian, cái túi
bay trên tay chàng trở nên nặng nề, vì trong túi bay Nhân đã để dây
nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay.
Ðể khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi
bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc
núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng
lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố
chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú
vẫn còn ở bên dưới chân núi vọng lên.
Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống
thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại
đây chính là bãi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đã bốc toán Lôi
Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép mình sau một bụi trúc tương đối
rậm, và nhìn ra khoảng trống quan sát. Trên vòm trời có tiếng của
chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio
trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.
- Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu
của chiếc U-17 trên vòm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin
lắc cánh. ...
Nhân lập lại một lần nữa, thì thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng
cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của
Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc
lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho
chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên bãi vừa đáp.
Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu
báo cáo tình trạng của chàng dưới đất:
- Phương đã chết trên ghế lái, và xác còn ở lại trên tàu - Sáu
anh Lôi Hổ đã dẫn theo Ðại và Tài, còn chỉ một mình tôi đang nằm
cạnh bãi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây thì thấy bên kia bờ rừng có
bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn
nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:
- Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và
các người bên dưới.
Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe
điều này, vội vã rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang
tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt
đầu trò chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ,
chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính
tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Ðịnh. Trên
tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn nòng, dành cho những
người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:
"Ðám này chính là những người lính Bắc Việt!..." Chàng vội nằm
sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dõi những bóng người giữa
bãi đáp. Không còn nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ
này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng
dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng tìm. Hai người này vừa
đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng,
và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp.
Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn còn vọng lên, nghe
thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân
ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng
không có vũ khí để tự vệ, thì làm sao để đối phó đây? ... Những ý
tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:
"Chắc là không còn hy vọng gặp lại gia đình nữa rồi!... Hoặc là
bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai
ngờ rằng chàng nằm lại nơi bìa rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ
không còn nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên
mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nhìn ra sân, như
chờ đợi bóng dáng đứa con đầu lòng của Mẹ. Ðôi mắt mẹ chàng nhạt
nhoà lệ, đã khóc oà lên khi nhìn thấy chàng từ đầu ngõ.
Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng
nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một
gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt
đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi
sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng
vọng lên:
- Các đồng chí chờ chúng tôi.
Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập
cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng
người đang vội vã hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú
lên vì mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn còn có một người
đang quan sát họ từng giây, từng phút.
***
Chờ cho bốn người kia đi đã khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược
lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo
các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt
nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm
hướng Ðông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đã học được
từ kinh nghiệm Hướng Ðạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng”
bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng.
Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đã
cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc
thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do
mấy anh Cán bộ đãi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa
thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, còn rừng Trường-Sơn thì dày
đặc, 10 mét đã không còn thấy lối đi!...
Nhân mò mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều
tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện gì đang
xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám
rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng
cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ
khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải
Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu
đựng như ý chí kiên trì của chàng.
Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, thì thấy ngay trước mặt một
bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải
nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp
theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại
cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một bìa rừng. trong lúc
đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm,
chàng rụt rè bước qua cửa hầm.
***
Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại
gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào
đó đã chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên
dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này,
chàng còn nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái gì
đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước,
chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt mình. Bất
chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp
người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng
người thấp thoáng phiá trước.
Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ
đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải
xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều bình biđông nước.
Nhìn xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân
quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:
- Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với....
Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên nòng, những bóng người phía
trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng
hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di
động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy,
chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:
- Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.
Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi
xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Ðại và Tài
nhận ra tiếng của Nhân, nên Ðại đã la lên:
- Trung Úy Nhân đây rồi, ... Ðừng bắn, đừng bắn...
Lúc ấy Ðại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn ghìm súng
hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp cò nếu có gì nguy
hiểm.
Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Ðại và Tài
nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:
- Ðừng bắn, đừng bắn...
Mọi người hú vía, vì trong rừng già, bất cứ một vật gì nghi ngờ
lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp cò. Ðại
và Tài còn đeo cây Colt-45 của họ, còn Nhân thì đã để cây súng P-38
của mình trong tuí bay, cái tuí bay này đã nằm lại bên một bìa
rừng!....
Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất
thân từ trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Gặp Nhân mọi người rất mừng,
và tỏ bày ân hận là suýt nữa đã bóp cò. Người Chuẩn Úy trưởng toán
còn cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn
vị, anh lo lắng hỏi Nhân:
- Liệu có ai đến bốc mình không Trung Úy?
Nhân nhìn đồng hồ, đã 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:
- Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ tìm cách bốc chúng ta ngay chiều
nay.
Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực
sẽ được như vậy hay không?
Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng bình bi-đông nước và
dặn dò:
- Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ
bị ngất xỉu đó. Chàng nhận bình bi-đông nước và làm theo lời của
người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc nãy
chàng nghe khi còn ở trong rừng, chàng hỏi:
- Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn
nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này
không? Người trưởng toán kể lại:
- Ðó là tiếng lựu đạn do
tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để tìm bốc Trung Úy,
nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang
đứng cạnh tàu, nên đã tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung
Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đã rút ra xa rồi. Nhân buột
miệng:
- Thì ra là thế!...
Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những
giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống
dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con
đường mòn trước mặt. Tất cả tìm cách băng qua con đường mòn này, các
anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán,
Nhân, Tài và Ðại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh
Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một hòn đá ra
giữa đường và chờ đợi.
Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con
đường đất đỏ, do xe Công Binh đã xén núi mở đường, bề ngang con lộ
đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên
bờ vách đất đỏ cao nghệu, còn bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi
đá dò dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp,
cùng leo lên con đường đất đỏ.
Tài và Ðại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi
theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với
Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân còn đeo lủng
lẳng cái bình bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo
lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất bình bi-đông
nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không
còn ai bên dưới cả. Nhân nhìn qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng
bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ý và tiếp tục leo lên theo người
trưởng toán và anh cận vệ của anh.
Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Ðông-Nam tiến
bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại vì cơn mưa lớn đang
kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh
trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa
trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh.
Nhân nhìn những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt,
chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó.
Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao
cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài,
như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần
chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào
quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro tìm hơi ấm qua nửa
điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành.
Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra
dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để tìm sự che
chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng
lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên
vọng về phía bức tường đất nơi còn để lại các vết giày và chiếc
bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và
không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn
nặng hạt.
Ðiếu thuốc đã tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh
người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ
này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường,
và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ
này.
Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của
mình. Tài và Ðại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm
này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của mình. Mười phút sau có tiếng
máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn
bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết
để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục
hành trình trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di
chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp
cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc
lên đã nghe tiếng:
- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu
không chúng tôi sẽ quay về.
Nhân vội đáp lời:
- Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rõ.
Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:
- Liệu họ có bốc mình ngay chiều nay không Trung Úy?...
Chàng gật đầu đáp:
- Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.
Chiếc máy bay L-19 đã nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi
tiếp:
- Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân
đáp lại:
- Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu
mọi người:
- Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây
để đánh dấu vị trí của mình. Xong Nhân gọi:
- Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu
không?
- OK... Chúng tôi đã nhận ra vị trí của bạn.
Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio tìm cứu, Nhân nói tiếp :
- Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...
Nhìn con tàu như cánh chuồn chuồn trên vòm trời chiều ảm đạm dưới
cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi
vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội mình.
- Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ
phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp
:
- Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định
hướng cho chúng tôi di chuyển thì nhanh hơn. Bạn nghe rõ trả lời?...
Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng
ra bãi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Bãi bốc
là một vùng đất khá rộng, chung quanh còn thấy các hố bom. Nhân và
mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm bãi đáp.
- Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn
- Lạc Long, nghe năm trên năm.
Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ,
rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực
thăng tiến lại gần.
- L-19, chúng tôi đã đánh dấu khói đỏ tại bãi đáp.
- Lạc Long, trực thăng đã thấy bãi đáp. Chúc các bạn An Lành trở
về.
- L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.
Nhân quay lại nhìn những người đồng hành với mình, Ðại và Tài
bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác bãi đáp. Nhân nhìn
đồng hồ đã 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ
không còn sự an toàn để việc thực hiện việc tìm cứu như thế này.
Nhân e ngại nhìn chiếc trực thăng đang tiến vào bãi đáp chật hẹp,
bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng
tìm cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín
người cùng leo lên: Nhân, Tài, Ðại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng
đã lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh
để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào bìa
rừng, để uy hiếp.
Nhân nhìn qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Ðình Minh, trưởng phi
cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn,
Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nhìn
mọi người tươi nụ cười hiền hòa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và
Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi
hướng đi thẳng về Pleiku thay vì về đáp tại Kontum.
***
Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian
và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến
C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm dò những cử chỉ và chờ
đợi, rồi nàng cất tiếng:
- Anh đang miêng mang chuyện gì mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như
được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:
- Tôi đã nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia
cách của những người tình của “Lính”, và gia-đình của họ qua một phi
vụ hai tuần trước đây.
- Anh kể lại cho Hoá nghe với.
Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể
trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một
chuyến bay với bao hiểm nguy, đã mất đi một người bạn - một chiến
hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để
đáp, con tàu sau khi lượn một vòng qua thành phố đã hạ cánh đáp nhẹ
nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu
hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Ðà Nẵng. Hành khách theo nhau
xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân
chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68
Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:
- Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng mình ra phố.
Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay vì đi theo những hành
khách để đi vào trong.
Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:
- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:
- Nhân đây, Anh khoẻ không?
Kim gật đầu và nói:
- Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với
phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài
Gòn ngay.
Nhân ghé qua Hoá nói:
- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng
trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Ðà Nẵng.
Nàng cúi đầu chào:
- Hoá chào anh Kim.
Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi
thăm nàng:
- Chiều nay em về đâu?
Hoá trả lời:
- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và
sáng mai em đón xe ra Huế, còn anh?... Chàng trả lời:
- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết
điạ chỉ của gia-đình ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:
- Ðây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé
thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:
- Ngày mốt anh (bỗng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được
không?
Nàng trả lời:
- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:
- Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh
bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:
- Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh
đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng
đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim
tiến lại gần chào nói:
- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...
Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với
Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:
- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!
Kim đáp lại:
- Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm,
chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và
rời Ðà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đình.
Kim nói tiếp:
- Tôi đã liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy
một xe buýt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến
khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất
cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:
- Xin lỗi Nhân và chị nghe, tôi đã bắt hai người phải chờ, anh
chàng cũng dí dỏm:
- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho
ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:
- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được
không anh Kim?...Kim trả lời:
- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...
Hoá xen vào:
- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện
trò lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:
- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều
theo ý của cô, sau đó chúng ta đi phố.
Kim Tiếp:
- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...
Nhân tiếp lời cho Hoá:
- Không sao, còn nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ
qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngã tư, Kim hiểu
ý và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:
- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh
Kim...
Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay
qua Nhân:
- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...
Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và
siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái
khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch
Ðằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đã có dịp chuyện
trò về những buồn vui của đời lính, về thân phận của mình trong từng
vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là
những mất mát mà anh đã chứng kiến trong những trận pháo kích vào
phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đã vui tạm
qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với
bổn phận và trách nhiệm của mình.
***
Trong hơi men Nhân nhìn ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn,
chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây,
nhìn qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố
nhà nhà đã lên đèn. Trên trời cao những vì sao đã lấp lánh, bên dưới
là dãy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang chìm khuất trong bóng
đêm đen như mực.
Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật.
Trung Úy Phan Văn Phương đã vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u
kia. Ở Sàigòn, vào lúc này, vẫn còn một cô giáo đang chờ đợi Phương
trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán
chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao
giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!...
Chiến tranh và
số mệnh đã lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo
đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một
người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia
đình Phan Văn Phương!.... Trung uý Phan Văn Phương bình thản, xuôi
tay trong con tàu của mình, sau một phi vụ không hề biết trước được
lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của mình ở chiến
trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Ðình Bảo,
Nguyễn văn Ðương, và nhiều người khác nữa ...
Những anh hùng
không tiếc một điều gì cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến
tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương
sẽ hoá thành một loài chim trên vòm trời xanh thật an bình. Nơi vùng
trời này sẽ không còn hận thù, không còn những nổi niềm đau xót về
đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước
chiến tranh và bom đạn điêu linh.
Phan Minh