Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Sức Khỏe - Y Tế | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Khoa Học - Kỷ Thuật :Sức Khỏe - Y Tế |
Chủ đề: CÁC THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE | |
<< phần trước Trang of 178 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 18/Jan/2018 lúc 7:23am |
SâmNói đến sâm là phải nghĩ ngay tới nước Trung Hoa với vua Thần Nông. Đây là một nhân vật với nhiều huyền thoại, sống cách đây nhiều ngàn năm, vừa là một đấng minh quân vừa là một nhà nông kinh nghiệm, biết thêm về y lý trị bệnh. Nhà vua chỉ dẫn cho dân chúng về cách dùng dược thảo và đã viết một cuốn sách nói về cả trăm thứ cây thuốc mà ông đã khổ công đi đó đây để sưu tầm. Theo sách, thì vua Thần Nông là người đầu tiên đã nhận ra công dụng chữa bệnh của một loại rễ cây có hình dạng giống con người, mọc hoang trong rừng. Nhà vua đặt tên cho cây đó là Nhân Sâm.
Nhân sâm đã được coi như một dược thảo hàng đầu (Sâm, Nhung, Quế, Phụ) ở nhiều
quốc gia Á châu như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, và ở Nga. Trong những thập
niên vừa qua, nhân sâm bắt đầu được sử dụng ở các quốc gia Âu Mỹ và cũng được
khoa học thực nghiệm nghiên cứu về công hiệu chữa bệnh của một thảo mộc mà
nhiều triệu người đã và đang dùng, do kinh nghiệm truyền cho nhau. Nhiều nhà
bào chế thuốc đã xếp sâm vào nhóm những chất có tác dụng thích nghi (adaptogen)
đối với nhiều chức năng của cơ thể và coi sâm như một chất dùng thêm có khả
năng tăng cường sinh lực, giảm căng thẳng, ngăn ngừa một số bệnh tật và làm
chậm tiến trình lão suy.
Nguồn gốc
Nguyên thủy thì nhân sâm mọc hoang trên rừng núi, dưới bóng mát ở những nơi có khí hậu lạnh như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, miền Đông Liên Bang Sô Viết, Bắc Mỹ châu.
Người Trung Hoa được coi như dân tộc đầu tiên biết sử dụng sâm để trị các bệnh
của tuổi già và họ giữ kín cho tới thế kỷ thứ 18 công dụng của sâm mới được các
quốc gia Âu Mỹ biết tới. Thoạt đầu, các nhà thảo mộc Tây phương cũng không tin
tưởng cho lắm vào công dụng của sâm như người Trung Hoa tả. Nhưng sau khi nhìn
thấy tận mắt một số hiệu quả, thì họ tin theo.
Năm 1716, tu sĩ dòng Tên Petrus Jartoux truyền đạo ở miền Bắc Trung Hoa, viết
một tài liệu cho hay sâm có thể mọc ở miệt rừng núi Gia Nã Đại vì môi trường
giống nhau. Tu sĩ Lafitau ở Gia Nã Đại bèn cho người khai thác sâm hoang ở
chung quanh vùng Montreal và xuất cảng sang Tầu để gây quỹ cho dòng tu. Cũng
vào thế kỷ 18, một số nhà thám hiểm người Pháp thấy thổ dân Bắc Mỹ dùng một
loại cây hoang để trị bệnh tiêu hóa, họ mang một ít về Âu châu để thử nghiệm và
thấy công hiệu.
Các loại sâm
Theo American Botanical Council thì có ba loại sâm chính: sâm Á châu, sâm Mỹ châu và sâm Siberian.
1- Sâm Á châu
Thường được gọi là nhân sâm, tên thực vật học là Panax ginseng C.A. Meyer. C.A.
Meyer là tên nhà thảo mộc học đã nghiên cứu sâm đầu tiên vào năm 1842. Đây là
loại sâm nổi tiếng của Trung Hoa, đã được coi là đứng đầu các vị thuốc bổ (sâm,
nhung, quế, phụ), để tu bổ ngũ tạng, làm dịu cảm xúc, bớt náo động, loại trừ
chất độc trong cơ thể, làm thị giác tinh tường, làm tăng trí nhớ và tinh thần
minh mẫn và nếu dùng liên tục thì sẽ sống lâu. Panax do gốc Hy Lạp pan có nghĩa
là tất cả, và alkos là chữa lành, tức là trị bá bệnh; còn ginseng theo nghĩa
tượng hình Trung Hoa là “tinh túy của đất trong hình dạng người”.
Y học Á châu đã dùng nhân sâm từ nhiều ngàn năm. Tây phương biết đến nhân sâm
là qua sự nhận xét và giới thiệu của một tu sĩ dòng tên Petre Jartoux vào
khoảng năm 1714. Trong khi truyền giáo ở miền Bắc Trung Hoa, vị tu sĩ này thấy
dân chúng dùng một loại rễ cây hoang để trị nhiều bệnh rất công hiệu, ông ta
bèn viết một bài để giới thiệu với các thầy thuốc ở Âu châu. Từ đó, các nhà
nghiên cứu ở Âu châu, Nhật Bản, Liên Xô, Hoa Kỳ đã để tâm nghiên cứu về loại
dược thảo có hình người này.
Nhân sâm có thành phần hóa học như sau: hỗn hợp saponins, tinh dầu panaxen,
phytosterol, tinh bột, đường, amino acid, acid phosphoric, vài sinh tố B1, B2
và vài khoáng chất. Hiện nay có khoảng 22 chất saponin được phân loại, gọi là
ginsenosides hay panaxosides, là những dược liệu chính của sâm. Hóa chất này có
công thức hóa học tương tự như loại kích thích tố mà cơ thể con người dùng để
đối phó với căng thẳng của đời sống.
W.H Lewis cho hay chất triết của nhân sâm có tác dụng làm chậm sự phát triển
của một vài tế bào u bướu, có vài tác dụng làm giảm đường trong máu. Nghiên cứu
của V.W. Petkov và D. Staneva- Stoicheva ở Bulgarie cho hay nhân sâm có tác
dụng kích thích thần kinh trung ương, giảm huyết áp, giảm đường trong máu, kích
thích hô hấp, hỗ trợ tế bào thần kinh đáp ứng với stress, tăng hồng huyết cầu
và huyết tố, giảm cholesterol. Ng và H.W. Yeung cho hay nhân sâm có công dụng
làm giảm thời gian phản ứng với các kích thích thính, thị giác; tăng sự lanh
lợi, tập trung trí thuệ; tăng phối hợp giữa thị giác và cử động. Họ cũng cho
hay nhân sâm có công dụng như chất antioxidant chống lại một vài bệnh về gan,
mắt, vữa xơ động mạch. S. Shibata, O. Tanaka và H. Saito cũng cho rằng sâm làm
tăng sự bền bỉ, chịu dựng của cơ thể với căng thẳng các loại, có tác dụng chống
kinh phong hạ nhiệt, tăng chức năng bao tử, chống viêm tế bào.
Bên Đức, chính quyền cho phép nhân sâm được mang nhãn hiệu bán như một thuốc
bổ, tăng cường sinh lực khi bị suy nhược, mệt mỏi, khi kém tập trung, và trong
thời kỳ phục sức sau bệnh hoạn. Dược thư Liên Xô xuất bản năm 1961 công nhận
nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học của Liên bang này.
Cho tới nay, đã có cả trăm nghiên cứu khoa học về công dụng của nhân sâm. Sự
nghiên cứu này cần được tiến hành lâu dài và có hệ thống hơn nữa để có thể xác
định giá trị chữa bệnh của loại dược thảo này.
2- Sâm Mỹ châu:
Sâm Mỹ châu được tu sĩ Joseph Francois Lafitau khám phá ra cách dây gần ba trăm
năm, ở vùng Montreal, Gia Nã Đại, có tên khoa học là Panax quinquefolius. Vị tu
sĩ này đã khai thác, xuất cảng rất nhiều sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ 18.
Sâm Mỹ châu mọc hoang ở miền Đông Bắc Mỹ châu, từ Quebec, Ontario xuống
Wisconsin, Minnesota, Florida, Alabama, Oklahoma. Không như sâm Á châu bị khai
thác triệt để nên còn rất ít, sâm Mỹ châu hiện vẫn còn nhiều và được các quốc
gia Hoa Kỳ, Gia Nã Đại coi là cây hiếm quý cần được bảo vệ.
Sâm Mỹ châu đã được Abraham Whisman ở Virginia bắt đầu trồng từ năm 1870. Hiện
nay Gia Nã Đại đứng hàng đầu trong việc trồng và xuất cảng sâm này. Nước Mỹ
cũng xuất cảng tới 30% tổng số sâm Mỹ châu trên thế giới. Năm 1995, có tới hơn
700,000 kí sâm trồng và 150,000 kí sâm mọc hoang được xuất cảng từ Hoa Kỳ.
Trung Hoa và Đại Hàn dẫn đầu trong việc xuất cảng sâm các loại trên thế
giới.
Sâm Mỹ châu rất được dân chúng Trung Hoa ưa thích vì tính chất bổ âm (âm/dương)
của nó, và ngọt dịu hơn sâm Á châu. Theo quan niệm Á châu, sự hài hòa giữa âm
và dương trong vũ trụ và trong con người đưa tới sự ổn định môi trường và sự
khỏe mạnh của con người. Sâm Á châu có nhiều dương tính, nóng, làm hưng phấn cơ
thể, làm tăng cường sức lực. Ngược lại, sâm Mỹ châu có nhiều âm tính, lạnh, làm
giảm căng thẳng, làm mạnh nội tạng.
Sâm Mỹ được thổ dân ở đây dùng để chữa chẩy máu cam, khó thở, tăng cường sự mầu
mỡ sinh sản nữ giới, làm tăng trí tuệ, sức khỏe thể xác, chống mỏi mệt. Vợ một
tù trưởng có thai kể cho chồng hay là trong giấc mơ ban đêm, thần nhân nói nếu
muốn sanh không đau thì cứ ngậm một miếng củ sâm hoặc uống một chút nước lá
sâm.
Sâm Mỹ châu đã được ghi vào sách the United States Pharmacopeia từ năm 1842 tới
1882. Sâm này cũng có hóa chất như nhân sâm đặc biệt là hỗn hợp gisenosides.
Sâm, nói chung, vẫn chưa được hội nhập vào kỹ thuật trị liệu ở Hoa Kỳ, mặc dù
rất nhiều người đang dùng dược thảo này. Lý do là chưa có nhiều nghiên cứu khoa
học về sâm Mỹ như nhân sâm, và có nhiều ý kiến khác nhau về sâm. Thực ra, công
dụng của sâm thay đổi đôi chút với loại sâm, thời gian hái sâm, bộ phận cây
sâm, cách pha chế, cách dùng và phân lượng dùng.
E.J Staba và S.E. Chen, trong “An Overview of Ginseng Chemistry, Pharmacology
and Anti-tumor Effects” đã ghi nhận là với phân lượng nhỏ, sâm làm kích thích
hệ thần kinh, nhưng phân lượng cao lại làm dịu; chống mệt mỏi, thích nghi được
với các căng thẳng, chống nhăn da và làm tế bào da mau sinh sản; chống lại độc
tính của chloroform, amphetamines; làm tăng trọng lượng của túi tinh dịch và
nhiếp hộ tuyến, tăng tinh trùng; làm tăng kí với lượng nhỏ nhưng giảm kí với
lượng lớn. Việc nghiên cứu công dụng của sâm ở Hoa kỳ còn mới mẻ và chưa hội
nhập vào với phương pháp trị bệnh thực nghiệm. Theo một vài tác giả, cần có
những quan tâm mạnh hơn nữa nhất là kết quả việc dùng sâm ở con người với lợi
điểm cũng như tác dụng không tốt của sâm.
3- Sâm Siberian:
Tên thực vật học là Eletherococcus senticosus, sâm này có nhiều ở Đông Bắc Trung
Hoa, kế cận với Nhật và Đại Hàn và miền Đông Nam nước Nga.
Tiến sĩ Stephen Fulder cho rằng đây không phải thuộc họ sâm nhưng được gọi như
sâm vì nó tác dụng tương tự, đã được người Nga dùng thay thế cho nhân sâm quá
đắt và khó kiếm. Hoạt chất của sâm là chất eleutherosides, có công dụng giống
như ginsenosides của sâm Á châu hoặc sâm Mỹ châu.
I.Brekham, một chuyên gia người Nga về sâm, cho binh sĩ uống sâm chạy thi với
nhóm khác uống thuốc lừa (placebo), thì nhóm dùng sâm chạy mau hơn và lâu hơn.
Các nhà khoa học Nga xếp sâm vào nhóm thực vật làm tăng sức đề kháng không đặc
biệt, giúp cơ thể có thể chịu đựng mệt mỏi, bệnh tật, tuổi già, làm việc cực
nhọc, vượt qua được các bệnh thông thường như cảm lạnh.
Năm 1961, một hội nghị về sâm đã diễn ra ở Lenigrad, Liên Sô. Năm sau, sâm
Siberian được chính quyền Sô Viết chấp thuận cho dân chúng dùng như loại thuốc
bồi bổ sức khỏe, thích nghi với căng thẳng của đời sống và chữa các bệnh như
cao huyết áp, tiểu đường, viêm phế quản kinh niên, bệnh thần kinh tâm lý, vữa
xơ động mạch máu.
Theo J. A. Duke và E.S. Ayensu trong Medicinal Plant of China, thì loại sâm này
được dân chúng ở vùng Đông Bắc Hoa Lục dùng để chữa các bệnh phong khớp xương,
viêm cuống phổi, bệnh tim, đồng thời nếu dùng liên tục, để tăng cường sức khỏe,
làm ăn ngon miệng, giúp trí nhớ tốt, kéo dài tuổi thọ.
Chính quyền y tế Đức quốc cũng coi sâm Siberian có công dụng như nhân sâm để
giúp cơ thể khỏe mạnh, giúp mau hồi phục sau bệnh hoạn cũng như gia tăng sự bền
bỉ trong lao động trí óc, chân tay.
Theo nhiều nhà chuyên môn, sự khác biệt của ba loại sâm chính này như
sau:
- Sâm Á châu có tính cách kích thích, làm nóng cơ thể, tăng cường sức khỏe,
được dùng ở người lớn tuổi, người suy yếu tổng quát, người cần dùng sức lao
động và sự bền bỉ .
- Sâm Mỹ có hàn tính, thoa dịu, thích hợp cho người hay năng động, nhưng cũng
giúp cơ thể tăng cường dẻo dai, sức chịu đựng.
- Còn sâm Siberian thì dung hòa giữa hai loại trên, không ôn quá mà cũng không
hàn quá, và có cùng đặc tính.
Ngoài ra còn các loại sâm khác như sâm Brazilian, sâm Angelica sinensis, sâm
Acanthopanax sessiliflorus. Giáo sư Đỗ Tất Lợi, trong tác phẩm Những Cây Thuốc
và Vị Thuốc Việt Nam còn kể thêm nhân sâm Việt Nam, Đảng sâm có ở quận Thượng
Đảng, Trung Quốc, ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Việt Nam; sâm Bố Chính ở Thanh Hóa,
Nghệ An, Quảng Bình Việt Nam; Thổ Cao Ly sâm, Sa sâm.
Trồng sâm
Sâm được trồng từ hạt giống của cây sâm khỏe, tốt đã mọc từ 6, 7 năm trở lên. Sâm không thể trồng như trồng lúa. Trồng sâm cần thời gian lâu để sâm mọc. Hạt giống sâm được chôn sâu dưới đất mầu mỡ, không có nước ứ đọng, dưới bóng mát. Bên Trung Hoa người ta dùng phân xanh và khô dầu để bón, tránh dùng phân bắc và nước tiểu. Âu Mỹ dùng phân hóa học và thuốc sát trùng để diệt nấm độc ăn hại sâm.
Cứ đến mùa Đông thân lá sâm héo tàn, nhưng khi Xuân đến, cây nẩy chồi từ củ sâm
nằm sâu dưới đất. Khoảng 6, 7 năm sau đào sâm lấy củ. Củ sâm được chế biến, sấy
khô rồi đóng hộp. Riêng những củ to thường được hấp trước khi sấy khô để giữ
tinh túy của sâm. Sâm mọc hoang có khi lâu đời cả mấy chục năm trong rừng gỗ
lớn nên rất đắt và quý. Nhưng số sâm mọc hoang mỗi ngày một khan hiếm vì nhiều
người đi tìm lấy. Đa số sâm bán trên thị trường bây giờ là sâm trồng. Việc
trồng sâm đã được nhiều quốc gia thực hiện, nên hiện nay trên thị trường có đủ
loại sâm.
Phần chính làm thuốc của cây sâm là khúc củ sâm, mầu vàng sậm, có nhiều rễ
nhánh nhỏ, nằm sâu dưới đất. Lá sâm có năm cánh, với một bông hoa nhỏ mầu xám
lạt nằm ở cuống lá; thân cây gắn trên củ sâm nằm sâu dưới đất. Thân cây sâm
thường héo chết vào mùa Đông, để rồi mọc trở lại từ củ sâm vào đầu mùa Xuân.
Toàn cây cao độ 60 phân.
Lựa sâm
Trên thị trường có rất nhiều loại sâm, nhưng thường thấy nhất và nhiều người mua là hồng sâm và bạch sâm. Hồng sâm là những củ to, mập, dáng đẹp, giống hình người còn bạch sâm nhỏ hơn, trắng và khô. Sau khi đào, sâm được rửa sạch, phơi sấy, và đóng hộp: hồng sâm trong hộp gỗ, bạch sâm trong hộp giấy. Ngoài ra còn sâm bách chi (rễ phụ), nhân sâm tu với rễ nhỏ như râu tóc, sâm nhị hồng với rễ nhỏ hơn nữa mọc ngang từ rễ chính ra.
Sâm Mỹ thường được xuất cảng qua Á châu và rất được ưa chuộng. Còn ở Mỹ thì lại
có nhiều sâm nhập cảng từ Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản. Nổi tiếng trên thế giới
vẫn là sâm Đại Hàn và sâm Trung Hoa.
Sâm càng to càng tốt vì sống lâu năm dưới đất, hút nhiều chất dinh dưỡng nên
khỏe hơn.
Hồng sâm tốt hơn bạch sâm.
Sâm từ Đại Hàn là tốt nhất rồi dến sâm từ Trung Hoa rồi Nhật Bản.
Khi nếm, sâm tốt có vị hơi đắng nhưng ngọt dịu. Sâm mà không có vị gì là sâm không
tốt.
Củ sâm tốt hơn râu và lá sâm.
Cách thức dùng sâm
Có nhiều cách dùng sâm:
1. Thái mỏng rồi ngậm sâm trong miệng cho tới khi mềm tan..
2. Nấu sâm trong ấm sành, ấm thủy tinh độ một giờ rồi uống nước sâm. Sâm nấu
như vậy có thể giữ trong tủ lạnh rồi uống dần mỗi ngày. Vì sâm khá đắt, nên có
thể nấu nước thứ hai mà sâm vẫn còn hương vị. Tránh dùng ấm kim loại sợ kim khí
vô hiệu hóa hoạt chất của sâm.
3. Ngâm sâm trong rượu, nhấm nháp dần dần. Ngâm càng lâu, rượu càng ngon.
4. Sâm chế biến thành bột hòa tan trong nước sôi, uống như cà phê hay
trà.
5. Sâm viên uống như các thuốc viên khác. Kỹ nghệ chế sâm viên hiện nay khá phổ
biến và chính xác, vì phân lượng hoạt chất chính trong mỗi viên thuốc sâm đều
như nhau.
6. Sâm bốc chung với các vị thuốc, sắc lên rồi uống nước thuốc.
7. Sâm miếng thái mỏng nấu thành súp với thịt hoặc gạo.
An toàn của sâm
Một câu hỏi thường được nhiều người nêu ra là sâm có an toàn không?
Giáo sư Brekhman thuộc Institute of Biologically Active Sciences bên Nga cho
hay, để có ảnh hưởng không tốt, con người phải dùng cả mấy kí lô sâm một
lúc.
Tính cách an toàn của sâm chưa bao giờ bị cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược
phẩm Hoa Kỳ (FDA) nghi ngờ và cơ quan này đã cho sâm được bán tự do vì các
nghiên cứu cho hay sâm không có tác dụng nguy hại cho người dùng.
Sâm đã được ghi vào danh bạ y dược tại các nước ở Âu châu và được công nhận như
một thực phẩm dùng thêm rất an toàn.
Tuy nhiên, cũng như dược phẩm khác, khi dùng sâm nên theo chỉ dẫn của lương y
hay nhà bào chế.
Áp dụng thực tế
Sâm đã được dùng ở các nước Á châu từ nhiều ngàn năm và đang được y học hiện đại nghiên cứu, sử dụng. Cũng như các dược thảo khác, tác dụng của sâm nhẹ nhàng, thấm từ từ nhưng kéo dài chứ không mau, mạnh như Âu dược.
Theo Đông y, sâm không phải là thứ để chữa lành một bệnh riêng biệt nào mà được
coi như chất bồi bổ sức khỏe, duy trì sinh lực và kéo dài tuổi thọ. Sâm rất
công hiệu khi cơ thể suy nhược, dưới nhiều căng thẳng thể xác và tâm thần, phục
hồi sinh lực sau khi bị trọng bệnh...
Sự dùng sâm thay đổi tùy theo điều kiện cấu tạo cơ thể và sức khỏe của mỗi cá
nhân. Theo kinh nghiệm, nếu muốn tăng cường sinh lực chung thì loại sâm nào
cũng như nhau. Người trên 45 tuổi nên dùng sâm Á châu vì sâm này kích thích
mạnh; dưới tuổi 45 còn trai tráng có thể dùng hai loại sâm ôn hòa kia. Người
cần sức lao động cao thì sâm Á châu giúp bền bỉ, sung sức hơn; nữ giới thích
hợp với sâm Mỹ châu còn nam giới thì sâm Á châu lại tốt.
Đấy chỉ là gợi ý. Trước khi dùng, nên tham khảo ý kiến người có hiểu biết về
món dược thảo này. Cũng như với các dược thảo khác, ta nên bắt đầu dùng với
phân lượng nhỏ rồi tăng dần để dò sức chịu đựng của mình đồng thời lượng định
công hiệu và tác dụng không muốn của thuốc.
BS Nguyễn Ý Đức |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 19/Jan/2018 lúc 11:18am |
11 Thủ Phạm Gây Ung Thư “Không Ai Ngờ” Trong Cuộc Sống Hiện Đại
Theo Viện Ung thư
Quốc gia Hoa Kỳ, khoảng 39,6% đàn ông và phụ nữ sẽ được chẩn đoán có
nguy cơ mắc ung thư tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời.
Các
nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, yếu tố di truyền chỉ chiếm khoảng ½
trong các nguyên nhân gây bệnh ung thư, các yếu tố môi trường và kinh
tế xã hội ngày càng chiếm phần lớn trong các nguyên nhân gây bệnh.
Trong
xã hội hiện đại, ung thư nhanh chóng trở thành vấn đề toàn cầu và là
một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nhưng nếu nhận thức
được các nguy cơ gây bệnh, bạn có thể phòng tránh được "án tử" này.
Tiến sĩ Mỹ Josh Axe
Theo Tiến sĩ Mỹ Josh Axe, các yếu tố bao gồm chế độ
ăn, béo phì, mất cân bằng hormone và viêm mãn tính là những nguyên nhân
hàng đầu dẫn đến ung thư. Những nguyên nhân ung thư bắt nguồn từ nhiều
thói quen mà hầu hết chúng ta cho rằng "vô hại", nhưng chính nó lại làm
tăng nguy cơ gây bệnh, vá đây chính là một số thủ phạm "không ai ngờ"
đó.
1. Nơi bạn sinh sống
Một
nghiên cứu năm 2017 được đăng trên tạp chí Ung thư tại Mỹ cho thấy,
người dân sinh sống ở những quận có chất lượng không khí, nước, đất, môi
trường xây dựng và các yếu tố xã hội học nghèo nàn thường có tỷ lệ mắc
bệnh ung thư cao.
Chất lượng không khí kém và môi trường xây
dựng có liên quan với sự gia tăng tỷ lệ các bệnh ung thư ở cả nam giới
và phụ nữ, bao gồm ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú. Các nghiên cứu
khác cũng phát hiện người dân sống ở các khu phố cổ có nguy cơ ung thư
cao hơn do ô nhiễm không khí.
2. Mùi hương nhân tạo
Tiến
sẽ Axe cho biết, các nhà nghiên cứu đã tiến hành đo mức độ "hóa chất
hữu cơ dễ bay hơi" tại 6 căn hộ ở York, Anh trong 5 ngày. Sau quá trình
kiểm tra, các nhà khoa học đã đo được nồng độ chất limonene – hóa chất
được tạo ra để tạo mùi cam quýt.
Hóa chất này khi
được phóng ra không khí có thể phản ứng với oxzon tạo ra formaldehyde có
liên quan đến một số loại ung thư nguy hiểm như ung thư bạch cầu tủy,
ung thư vòm họng.
Ngoài ra, các sản phẩm sử dụng mùi
hương nhân tạo này cũng có liên quan đến các hội chứng rối loạn hormone,
bệnh suyễn và các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác.
3. Mức tiêu thụ rượu bia
Năm
2016, các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã tuyên bố kết quả nghiên cứu liên
quan đến sự gia tăng mức tiêu thụ rượu và nguy cơ ung thư vú. Theo đó,
các chuyên gia đã phát hiện ra phụ nữ tăng lượng rượu bia trong thời
gian 5 năm có thể phải đối mặt với nguy cơ ung thư vú cao hơn.
Ngoài ung thư vú, các nhà nghiên cứu còn phát hiện mối
liên quan giữa rượu và ung thư cổ tử cung, ung thư thực quản, ung thư
gan và ung thư trực tràng.
4. Mùn cưa
Đây
có thể là nguyên nhân gây ung thư bạn chưa bao giờ nghe đến trước đây.
Tuy nhiên, theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC), bụi gỗ (mùn
cưa) là một trong những nguyên nhân gây ung thư ở người.
Nghiên
cứu cho thấy, thợ mộc hay những người lao động liên quan đến nghề sản
xuất nội thất có nhiều khả năng phát triển ung thư mũi cao.
5. Bao bì thực phẩm
Chắc
hẳn ai trong chúng ta cũng từng được khuyến cáo chế độ ăn uống có liên
quan đến nguy cơ ung thư, nhưng thực tế, bao bì đóng gói đồ ăn nhanh,
hộp nhựa, hộp xốp thường chứa các hợp chất perfluor hóa, còn được gọi là
PFCs và PF***.
Hóa chất này có thể ngấm vào thức ăn, đi vào cơ thể tăng nguy cơ ung thư và các vấn đề sinh sản, suy giảm chức năng miễn dịch.
6. Một số loại kem chống nắng
Không
dùng kem chống nắng và tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời tăng nguy
cơ ung thư da. Tuy nhiên, việc lạm dụng sai loại kem chống nắng cũng gây
ra những rủi ro đáng tiếc. Benzophenone-3 (hoặc oxybenzone) – thành
phần phổ biến trong các loại kem chống nắng có thể tạo ra các gốc tự do,
gây ra sự phá hủy DNA, tăng nguy cơ phát triển ung thư.
7. Thiếu vitamin D
Theo
các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Ung thư Moores thuộc Đại học
Califonia, San Diego, khoảng 250 nghìn ca ung thư trực tràng, 350 nghìn
ca ung thư vú có thể được ngăn ngừa bằng cách bổ sung vitamin D3 đầy đủ.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra mối liên quan giữa
vitamin D và ung thư bằng cách sử dụng các phép đo vệ tinh ánh nắng mặt
trời và độ che phủ mây. Sau đó, họ lấy thông tin đó và phân tích mức độ
vitamin D trong máu. Cuối cùng, họ tìm ra mối tương quan giữa vitamin D
và nguy cơ ung thư đại trực tràng, ung thư vú ở những người có hàm lượng
vitamin D thấp.
8. Các loại vi khuẩn
Một
số loại virus và vi khuẩn gây ra những nguy cơ sức khỏe ngắn hạn, tuy
nhiên, một số loại khác còn gây ra các vấn đề sức khỏe lâu dài như ung
thư. Một số nghiên cứu đã phát hiện, các virus như virus Epstein-Barr
và HIV còn liên quan đến một số bệnh ung thư.
Theo các nhà khoa học thuộc Đại học Bắc Carolina (Mỹ),
Việc nhiễm virus EBV rất hiếm khi gây ra bệnh tật, tuy nhiên virus EBV
lại xuất hiện trong một số loại ung thư chính gồm ung thư hạch và ung
thư vòm họng. Protein của virus EBV đã "đánh cắp" cơ chế kiểm soát sinh trưởng của tế bào, dẫn tới sự sinh trưởng tế bào không thể kiểm soát, qua đó dẫn đến ung thư.
Một số nghiên cứu cũng chỉ ra bệnh nhân HIV có nguy cơ cao mắc ung thư biểu mô không Hodgkin và ung thư cổ tử cung.
9. Làm việc ca đêm
Gần
15% người Mỹ làm thêm ca đêm. Theo một số nghiên cứu lớn, công việc ban
đêm có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở một số đối tượng.
Các nhà
nghiên cứu Mỹ phát hiện khi mọi người làm việc vào ban đêm, sẽ sản sinh
ra ít loại chất vốn là sản phẩm phụ của quá trình sửa chữa mô ADN.
Nghĩa là, cơ thể khó thực hiện quá trình hồi phục thiết yếu đối với các
tế bào - mà quá trình này đáng lẽ phải xảy ra tự nhiên trong đêm. Theo
thời gian, sự tích tụ này có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở nhiều cơ
quan cơ thể.
10. Thực phẩm chiên rán
Ai
cũng biết rõ nguy cơ ung thư với các thực phẩm chiên rán. Tuy nhiên,
Acrylamide là một hóa chất được tạo ra trong các loại thực phẩm có tinh
bột (như khoai tây và bánh mì nướng) khi chúng được nấu ở nhiệt độ cao.
Việc chiên rán các thực phẩm này trên 248 độ có thể kích hoạt sự
hình thành hóa chất acrylamide – hóa chất có thể hây tổn thương DNA và
ung thư ở động vật.
11. Lối sống ít vận động
Một
phân tích năm 2014 của Đại học Regensburg, Đức xuất bản đánh giá mối
tương quan giữa thời gian xem truyền hình, thời gian ngồi giải trí, thời
gian ngồi làm việc… và nguy cơ ung thư. Các nhà nghiên cứu phát hiện,
những người ít vận động thường có nguy cơ cao hơn mắc ung thư đại tràng,
nội mạc tử cung và ung thư phổi.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội
Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo, người lớn nên hoạt động vừa phải ít nhất 150,
hoặc 75 phút hoạt động mạnh mỗi tuần. Điều này không bao gồm các hoạt
động hàng ngày như đi cầu thang bộ, làm công việc nhà. st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 24/Jan/2018 lúc 4:34pm |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Jan/2018 lúc 3:14pm |
Nước Mận Khô Và Chứng Táo Bón
Nhân đọc bài viết “Của Đi Thay Người” của tác giả Phạm Hoàng Chương, kể
chuyện nhân vật ăn mít bị tắc ruột, tôi nhớ lại có một lần tôi cũng
“ngốn” một loại trái cây rồi bị chứng tắc ruột “hỏi thăm” sắp sửa cần
đến xe cấp cứu, nhưng chỉ nhờ một thức uống đơn giản mà tôi đã thoát nạn
một cách thần kỳ. Đặc biệt, loại nước mận này còn tốt hơn cả thuốc
nhuận trường, vì nó vừa “xổ” lại vừa “bổ!” Trong mười mấy năm qua nó đã
giúp cho tôi và gia đình, làm cho chứng táo bón “không có cửa” để hoành
hành. Xin viết ra đây để chia xẻ với những ai thường bị “chặc dạ.”
Trước khi đi vào câu chuyện chai nước mận, tôi xin “tản mạn” đôi chút về chứng táo bón mà có lẽ trong đời bạn cũng đã từng một vài lần bị nó “viếng thăm.” Theo tài liệu của viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ, National Institutes of Health (NIH), táo bón là cái chứng (symptom) chứ không phải bệnh (disease) nhưng lại là một trong những triệu chứng thuộc về dạ dày và ruột được phàn nàn nhiều nhất trên xứ Cờ Hoa. Hàng năm, có hơn bốn triệu người Mỹ thường xuyên bị táo bón, gây nên khoản gần ba triệu cuộc viếng thăm bác sĩ, và có khoản trên bảy trăm triệu Mỹ Kim được dùng để mua thuốc nhuận trường. Tuy nhiên, ngọai trừ những trường hợp bệnh đặc biệt về đường ruột hay bệnh nhân tiểu đường, theo NIH, chứng táo bón thường là tạm thời chứ không nghiêm trọng.
Cũng theo NIH, một số
trong những nguyên nhân thông thường nhất dẫn đến việc táo bón là do ăn
uống không đủ chất sợi (fiber), ít hoạt động, thiếu nước, bị căng
thẳng, hoặc là phải đối diện với sự đổi thay khắc nghiệt trong cuộc
sống. Có lẽ đây là trường hợp của tôi.
Khi tôi đến Mỹ thì chứng
táo bón đã theo tôi dễ cũng đến mười mấy năm rồi. Chứng táo bón này bắt
đầu hành hạ tôi từ ngày gia đình tôi rời bỏ miền thùy dương cát trắng
Nha Trang và dọn đến một vùng rừng núi để bắt đầu cuộc sống rẫy rừng.
Ở
vùng kinh tế mới, mỗi ngày tôi bỏ ba đứa con thơ dại ở nhà chơi với
nhau (khi đó ai cũng làm vậy cả, giờ nghĩ lại giật mình!) xách giỏ cơm
khoai độn kèm gói muối ớt, vai mang gùi theo nhà tôi lên rừng chặt cây,
phát rẫy, cuốc đất, trỉa bắp, trồng khoai. Chiều về, vợ nặng quằn vai
gùi củi mục và rau rừng, chồng ì ạch với khúc gỗ to hay mấy gốc cây được
đào bới lên từ nương rẫy. Đầu tắt mặt tối, cơm độn mà vẫn không đủ cho
con ăn. Trăm nỗi lo âu, ngàn điều sầu não, ngủ không đủ giấc, ăn không
đủ chất, bảo làm sao mà không…táo bón?
Nhưng thời buổi ấy có khối
việc để lo, ai quan tâm đến “nghiệp vụ” của cái ruột già ruột non mà
làm gì, hôm nay không đi được thì hôm sau, ngày này nó không ra thì ngày
khác nó cũng phải chui ra thôi. Bỡi thế cho nên khi chứng táo bón nó
đến viếng thì nó lại…làm biếng ra đi. Những người xung quanh tôi cũng
cùng chung tình trạng. Một lần, ông cụ hàng xóm người xứ Quảng đã dùng
bã mía “cạy” dùm cho thằng cháu nội vì nó “rặn” mãi mà không ra. Đau quá
thằng bé khóc la inh ỏi. Thấy tôi nhìn, cụ nói, “Hắn có ăn cái chất chi
mô mà ị hả cô, toàn là mắm với muối không thôi!”
Tội nghiệp ông cụ, người con trai đại úy Biệt Động Quân đã bị đi “học tập” mút mùa nên cụ phải phụ
với
con dâu lo cho thằng cháu sau khi đi rẫy về. Cô dâu xinh đẹp của cụ
người miền Nam, ngày xưa khi còn là vợ sĩ quan thường lên xe xuống kiệu,
cơm nhà hàng, ngủ khách sạn, nhưng “gặp thời thế” chị cũng hăng hái
thưởng thức những món “đặc sản” do người cha chồng chế biến để nuốt cho
trôi cơm. Quanh năm suốt tháng, hễ ăn hết khạp chuối cây muối cụ lại làm
một khạp cây đu đủ muối, món nào của cụ cũng mặn đến quắn cả lưỡi.
Lần
đầu tiên khi cụ giới thiệu cái món ruột cây đu đủ thái mỏng muối chua,
tôi ngạc nhiên quá đỗi. Trước 75, cây chuối và cây đu đủ thường được bà
tôi dùng nấu cho heo. Thực ra những món này cũng chỉ để lừa cái khẩu vị
đã từng quen ăn sung mặc sướng trước kia, chứ bổ khỏe gì. Cứ mãi hết
muối đến dưa cộng với sự căng thẳng, chạy đua với cuộc sống cơ cực nên
mọi người hè nhau mà “bí.”
Tôi chịu đựng cái chứng táo bón này
mãi cho đến ngày tôi rời quê hương đi định cư ở Mỹ. Khi mới đến, cái đất
nước rất quí trọng mạng sống con người này đã cho tôi được chọn một bác
sĩ gia đình, cho tôi làm xét nghiệm từ A tới Z để xem tình hình sức
khỏe của tôi. Bác sĩ đã bắt tôi uống thuốc đến sáu tháng trời vì cái
“tội” thử da bị đỏ. Nhưng cái chứng táo bón cố hữu thì dầu cho bác sĩ
thay đổi đủ lọai thuốc nhuận trường, chúng chỉ “quớt” được mấy lần đầu,
rồi sau lại “vũ như cẩn.”
Cuối cùng bác sĩ cho đi soi ruột, tôi
nhịn đói đến nỗi ngất xỉu phải gọi “Ambulance” nhưng rồi khi soi ruột
cũng không tìm được gì. Bác sĩ bèn khuyên tôi nên thay đổi thức ăn. Từ
đó, thực đơn chính của tôi nào là gạo lức muối mè, đu đủ chín, các loại
rau, trái cây, và ăn ít thịt. Vậy mà cái ruột già của tôi nó vẫn “lì” ra
đó, có khi nó làm việc có khi không. Có lẽ nó đã bị cái lũ mắm muối
“đeo bám” kỹ rồi nên khó mà thay đổi! Dù bác sĩ nói chẳng nghiêm trọng
gì, nhưng chứng táo bón đã làm cho tôi rất khó ngủ và khó chịu, bụng dạ
lúc nào cũng cảm thấy anh ách, mặt mày nhiều lúc “quạu đeo.”
Cho
đến khi tôi gặp bà Rosie. Bà khách già người Mỹ này từng làm việc trong
ngành y khi còn trẻ. Một lần tán chuyện nghe tôi bị chứng táo bón kinh
niên, bà liền đem đến cho tôi một chai nước trái mận khô gọi là “Prune
Juice.” Bà bảo tôi cứ vài ngày thì uống một lần vào buổi sáng sớm khi
bụng đói, uống chung với sữa, sẽ giúp ích cho việc nhuận trường.
Mới
đầu, tuy tôi cám ơn Rosie về sự quan tâm của bà, tôi cũng không tin lắm
vào sự hiệu quả của loại thức uống này. Tôi nghĩ, thuốc nhuận trường đủ
loại, rau quả các thứ còn chưa “trông ăn” huống chi cái thức uống ngọt
lịm đầy “nguy hiểm” này. Tôi đã từng tiếp xúc với nhiều người khách Mỹ
bị bệnh tiểu đường nên tôi thường “kỳ thị” chất ngọt, chẳng thiết tha gì
mấy với các loại thức uống và bánh kẹo của người Mỹ vì có chứa quá
nhiều đường. Nhưng thật không ngờ thứ nước uống này lại có hiệu quả
tuyệt vời. Nó đã đuổi được chứng táo bón của tôi chạy…“mất dép!” Lần đầu
tiên trong mười mấy năm, tôi hiểu thế nào là cái cảm giác “sạch ruột
nhẹ lòng” như mấy ông thầy thuốc bắc thường nói.
Tôi bắt đầu làm
“người quảng cáo thầm lặng” không công cho hảng “SunSweet.” Tất cả người
trong gia đình, người quen, bạn bè, và cả khách hàng của tôi đều được
tôi giới thiệu loại thức uống này và ai cũng hài lòng với kết quả nhuận
trường của nó. Vì dùng thường xuyên nên tôi cũng sợ, chẳng biết nó có
tác hại phụ nào không. Nhưng hầu hết các bác sĩ của gia đình tôi đều nói
là Prune Juice dùng cho táo bón rất tốt và không có hại vì tuy nó ngọt
nhưng đó là chất ngọt của chính trái “plum” chứ không có đường.
Về
sau tôi tìm ra quả là đúng như thế. Trên trang web nhà của hảng
“SunSweet” họ khẳng định trong quá trình chế biến nước Prune Juice, họ
không dùng hóa chất như chất bảo quản chống hư hoặc là bỏ thêm đường, mà
tất cả thành phần, “ingredient,” chỉ có độc nhất trái mận khô (prune).
Tôi
cũng tìm thấy thông tin từ hội đồng California Dried Plum Board (CDPB)
đại diện cho hơn 900 nhà trồng mận của tiểu bang California cho biết,
kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy chất fiber rất cao trong trái
mận khô sẽ giúp hấp thụ nước làm cho trơn ruột già, phân sẽ mềm ra dễ
đi cầu, giúp hạ thấp mức cholesterol trong máu, và rất nhiều các hợp
chất vimtamins như B6, chất khoáng minerals, carbohydrates…có thể giúp
làm giảm đi sự nguy hiểm của các chứng về tim mạch, hạ thấp chứng cao
huyết áp, và giúp điều chỉnh mức đường trong máu (theo CDPB).
Biết
được những thông tin này, tôi cũng an tâm khi liên tục dùng nước trái
mận. Tủ lạnh nhà tôi lúc nào cũng có sẵn một chai Prune Juice, và nếu
phải đi xa, tôi luôn mang theo một chai để phòng hờ nơi tôi đến không có
bán. Ngay cả khi đi du lịch Hawaii tôi cũng nhét trong hành lý vài
chai.
Nhưng có một lần tôi đi “gần,” đi ăn mừng tân gia của vợ
chồng thằng con út, nên không mang theo chai nước mận thì tôi lại gặp
chuyện. Tụi nhỏ may mắn mua được căn nhà khá đẹp, địa thế tốt ở thành
phố Freemont, Bắc Cali, mà còn mua với một cái giá “phải chăng,” bù lỗ
lại cho cái nhà thứ nhất mua trong thời điểm “bong bóng phập phồng,” nên
vợ chồng tôi rất mừng, bèn “khăn gói quả mướp” đến chung vui với con.
Hôm sau xong tiệc, ông nhà tôi trở về đi làm còn tôi ở thêm một buổi để
giúp trang trí bộ rèm cửa rồi sẽ về sau vì vợ chồng tụi nó phải đi làm.
Sáng
hôm đó, tôi ở nhà một mình, loay hoay với bộ rèm cửa cả tiếng đồng hồ
nhưng vẫn chưa đâu vào đâu, thình lình tôi cảm thấy bụng đau quặn thắc.
Tưởng là đến lúc phải “xả xui” tôi chạy vội vào nhà vệ sinh. Nhưng dù
đau đến toát mồ hôi, tôi vẫn chẳng đi được chút nào, một tí “hơi” cũng
không có. Tôi uống vào một ly nước lọc thì nó lại ào ạt “ọc” ra ngay.
Bụng căng cứng, hơi bị ứ bên trong từ bao tử dồn lên chèn ép trái tim,
làm tôi tức ngực đến không thở được.
Khó đứng khôn ngồi, tôi há
miệng thở như con cá ngáp mới vừa được gỡ khỏi lưỡi câu. Tôi dùng tay
vừa xoa cái bụng căng tròn, vừa nghĩ xem ngày trước đã ăn những gì. Thức
ăn cho bữa tiệc chỉ là những món thông thường như bánh hỏi thịt quay,
chả giò, gỏi cuốn, và súp măng cua…, con dâu tôi nó đặt mua từ một nhà
hàng Việt Nam ở San Jose. Tôi không ăn thịt heo nên chỉ ăn một ít bánh
hỏi với xì dầu và một chén xúp thì đâu đến nỗi bị ngộ độc.
Tôi
bỗng nhớ lại buổi sáng sớm trước khi đi ăn tân gia, tôi có đi bộ với cô
bạn Jilly. Thường thì mấy ngày weekend chúng tôi đều tranh thủ đi bộ một
giờ vào buổi chiều. Hôm ấy vì phải đi cả ngày Chúa Nhật nên tôi rủ
Jilly đi buổi sáng để tôi không bị gián đọan. Khi đi ngan qua một cây
hồng dòn bên lề đường Low Saramento sum suê những trái mà trái nào cũng
chín vàng ươm, Jilly dừng lại hái một trái, chùi vào áo rồi đưa lên
miệng cắn nhai rào rào luôn cả vỏ. Từ trước đến nay tôi chưa ăn hồng
luôn vỏ như thế bao giờ. Nhưng thấy Jilly ăn một cách ngon lành, tôi
nghĩ ăn vỏ chắc là “good fiber,” có nhiều chất sợi, nên tôi cũng bắt
chước. Tôi rứt một trái chín “bự chảng” cắn thử và thấy rất ngọt nên tôi
đã ngon trớn tới luôn, ăn hết sạch. Đúng là “tham thực cực thân,” có lẽ
là tại trái hồng to đùng đó.
Tôi vào tủ thuốc gia đình của tụi nó lục lấy một viên tiêu thực “Maalox”
rồi nhai như tôi vẫn thường làm mỗi khi ăn khó tiêu hay bị đầy hơi, hy
vọng sẽ ợ được hơi ra cho nhẹ bụng. Lát sau, tôi nhai thêm một viên nữa.
Hai viên tiêu thực tôi nhai đã được một lúc mà vẫn chả nghe ngóng gì, cơn đau bụng càng lúc càng tăng vì ợ không được, xả hơi không được, mà đi cầu cũng không được, tất cả các ngả “thông hơi” đều bị bế hết rồi. Phải gọi 911 thôi!
Nhưng rồi tôi nghĩ đến bao nhiêu phiền phức sẽ kèm
theo sau đó, phải gọi thằng con về trong giờ làm việc, nó đã cho biết
trong hảng có việc gấp nên dù rất muốn xin nghỉ hôm đó để dọn dẹp nhà
cửa mà nó vẫn phải đi làm, con dâu thì làm việc ở xa, rồi sợ sẽ nằm viện
lâu bỏ shop không ai làm, phải trả “deductible” cho bảo hiểm… thôi thì
ráng đợi thêm chút nữa.
Tôi sực nhớ đến chai nước Prune. Phải chi
tôi có mang nó theo thì sẽ uống một ly, may ra nó giúp cho thông cái
ruột. Vội vàng khóa cửa, tôi ôm bụng lê từng bước đến tiệm FoodMaxx gần
nhà. Nhiều lúc đau quá tôi phải ngồi xuống bên lề để thở, đợi cho dịu
xuống rồi đứng dậy đi tiếp. Tiệm chỉ cách nhà con tôi hơn ba block
đường, mà tôi cảm thấy đi lâu như cả hàng… thế kỷ. Đến nơi, tôi vào ngay
dãy thức uống và tìm thấy chai nước mận quen thuộc. Không thể chờ được
nữa, tôi ngồi bệt xuống sàn, run rẩy lắc mạnh cái chai cho đều, rồi vặn
nắp ra và đưa lên miệng nốc một hơi dài đến “quên thở,” mặc kệ những
khách hàng xung quanh đang tròn mắt nhìn tôi.
Sau đó tôi đem chai
nước ra quầy tính tiền, xin lỗi họ vì không thể chờ nên tôi đã uống
trước. Cô thâu ngân cũng vui vẻ nói, “Không sao, bà trả tiền đàng hoàng
mà.”
Tôi mang chai nước uống dở lệt bệt ra về. Đi đến gần nhà,
tôi bỗng nghe trong ruột sôi lên cuồn cuộn. Rồi tôi có cảm giác như là
đã xả chút hơi và bất thình lình ợ được một cái rột.
Và tôi bỗng
thấy nhẹ cả người, không còn đau tức nữa. Về nhà, tôi vội vàng chạy ngay
vào toa lét. Chiều hôm đó, tôi đường hoàng lái xe ra về và ngày hôm sau
đi làm tỉnh bơ. Từ đó, mỗi khi cảm thấy trong bụng đầy hơi, tôi uống
nước Prune thay vì dùng viên tiêu thực Maalox.
Chưa hết, ngoài
việc giúp nhuận trường, trái mận khô (prune) còn được cho là giúp tái
tạo xương một cách tự nhiên và rất đắc lực. Theo kết quả nghiên cứu năm
2012 của giáo sư tiến sĩ Bahram Arjmandi, chủ tịch khoa dinh dưỡng
“Nutrition, Food, and Exercise Sciences” tại đại học Florida State
University (FSU), thì ăn từ sáu đến mười trái mận khô mỗi ngày, chẳng
những có thể giúp ngăn ngừa chứng loãng xương, giúp tái tạo xương cho
phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh, mà nó còn giúp bảo vệ xương cho cánh đàn
ông, vì từ 65 tuổi trở lên, các ông cũng bị hao hụt mất xương nhanh
chóng không thua gì các bà. Từ kết quả nghiên cứu của ông, tiến sĩ
Bahram cho rằng trái mận khô là một loại trái cây “miracle,” kỳ diệu, có
thể giúp cơ thể người ta chiến đấu chống lại các chứng bệnh về xương
(theo FSU).
Đến đây thì tôi nghĩ, không biết có phải bà Rosie
cũng nhờ loại mận khô này mà bà rất khỏe và rắn chắc hay chăng. Bà đã
qua tuổi chín mươi, nhưng vẫn đi đứng hiên ngang, nói cười rổn rảng, lái
xe chạy ào ào, chứ không phải nói bằng giọng hụt hơi thì thào, còng
lưng mỏi gối như phần đông những người cao tuổi. Có lần tôi hỏi thăm bí
quyết sống của bà. Rosie cho biết bà thường ăn sáng bằng cheerios với
trái mận khô trộn sữa hoặc nho khô, đi bộ mỗi ngày một giờ, thỉnh thoảng
“rửa ruột” bằng nước mận, và tối nào bà cũng lột ăn nửa trái chanh cùng
với một ly whisky rồi “night night,” tự chúc mình ngủ ngon, và lên
giường rất sớm. Bà ngủ đến mười tiếng đồng hồ mỗi đêm. Thật là ngưỡng
mộ, vì tôi còn trẻ hơn bà, được sinh ra sau bà gần bốn thập niên mà họa
hoằn lắm tôi mới ngủ được một đêm tám tiếng. Khi tôi dọn đi khỏi thành
phố thì bà đã bước qua tuổi chín mươi lăm.
Đó là chuyện về nước
và trái mận khô. Về chứng táo bón, viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ đã có
lời khuyên, “phòng bệnh hơn là chữa bệnh,” chứng táo bón không có gì
nguy hiểm, nếu biết cách điều chỉnh cuộc sống, thay đổi thức ăn, cộng
với thể thao thể dục thường xuyên, người ta sẽ tránh được nó. (Chứ để
chứng táo bón “bám rễ” như trường hợp của tôi thì khổ lắm!) Phòng được
bệnh chẳng những giúp cho chính bản thân và gia đình, mà còn giúp giảm
đi chi phí “Medical” cho nước Mỹ.
Tính sơ sơ nội cái chỉ cần giảm
được chứng táo bón không thôi, mỗi năm đất nước Hoa Kỳ cũng sẽ tiết
kiệm được hàng bảy tám trăm triệu Mỹ Kim.
Nhưng quan trọng hơn
hết, sống khỏe thì mới sống vui, sống hạnh phúc yêu đời. Chứ cái mặt cứ
“nhăn nhăn như thằng táo bón” thì yêu đời sao nổi.
Tips cho chai nước Prune Juice:
Ở
các tiệm thực phẩm có bán rất nhiều loại chai nước “Prune Juice.” Nếu
bạn đã từng biết đến và thử qua loại nước mận này nhưng không có hiệu
quả, thì có lẽ bạn đã mua không đúng loại rồi, vì trong thực tế chỉ có
một loại nước Prune dùng tốt nhất cho táo bón. Nếu bạn muốn thử, hãy mua
đúng loại chai có nắp màu cam và có chữ “WITH PULP” (có xác) y như hình
trên thì mới hiệu quả.
Dùng cho táo bón: Buổi sáng lúc mới ngủ
dậy bụng đói, uống trước một ly nước lọc. Sau đó trộn nửa ly sữa chung
với nửa ly nước Prune Juice rồi uống hết một lần. Có thể uống thêm nước
lọc lai rai cho đến khi đi vệ sinh. Bảo đảm ruột của bạn sẽ được rửa
sạch, “không đẹp không ăn tiền!”
Loại nước chai có nắp màu cam
này hơi khó tìm vì lúc nào cũng được bán hết sớm hơn các lọai có nắp màu
khác và giá cao hơn nhiều. Bạn có thể lên trang nhà của hảng này để
mua, giá rẻ hơn một nửa giá bán lẻ của các tiệm thực phẩm: $2.35 so với
$5.99/chai, hoặc nếu có “on sale” thì ít nhất cũng phải trên $4.00. Nếu ở
không xa, bạn cũng có thể đến tận địa chỉ nhà máy mà mua, họ có phòng
bán lẻ tại đó để giới thiệu mặt hàng. Nếu mua nhiều, họ gửi UPS cước phí
cũng nhẹ:
st.
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 01/Feb/2018 lúc 10:42am |
Kỹ Thuật Thông Tim
Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác lắm.
Ðúng ra là thông Ðộng Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân yêu của
chúng ta.
Thay vì trơn tru mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa,
tắc nghẽn với nhiều chất khác nhau bám vào thành của huyết quản.
Ðộng Mạch Vành (coronary artery) bao bọc trái tim
như một cái vương miện với hai nhánh phải và trái và nhận máu trực
tiếp từ Ðộng Mạch Chủ (aorta). Tế bào tim được tiếp tế oxy và chất
dinh dưỡng từ động mạch vành. Nếu vì một lý do nào đó mà động mạch
này bị nghẹt thì sự nuôi dưỡng bị trở ngại, tim thiếu dưỡng khí, báo
động bằng cơn đau thắt ngực (angina).
Trong đa số các trường hợp, tắc nghẽn là do chất
béo bám vào mặt trong của thành động mạch. Ðó là bệnh Vữa Xơ Ðộng
Mạch.
Ngày nay, nhiều người cứ nói vữa xơ là hậu quả của
nếp sống dư thừa trong thời buổi văn minh tiến bộ hiện đại. Thực ra
dấu hiệu vữa xơ đã tìm thấy ở xác ướp bên Ai Cập cả nhiều ngàn năm
về trước.
Vữa xơ động mạch (atherosclerosis) là bệnh trong
đó các mảng gồm nhiều chất khác nhau bám vào mặt trong thành động
mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị gián đoạn. Thành phần chính
của mảng này là chất béo, chất cholesterol cộng thêm các chất phụ
khác như calcium, tế bào xơ. Mảng xơ vữa có thể tan vỡ, đưa tới
chứng huyết khối.
Vữa xơ là một diễn tiến phức tạp, phát triển chậm,
xuất hiện từ tuổi nhỏ và trầm trọng lên với thời gian. Theo nhiều
khoa học gia, bệnh bắt đầu với sự tổn thương ở lớp tế bào trong cùng
của động mạch.
Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, ba rủi ro đã được chứng
minh làm tổn thương lòng động mạch là:
- 1. Mức độ cholesterol và triglyceride trong máu
lên quá cao;
- 2. Cao huyết áp;
- 3. Ảnh hưởng của hút thuốc lá.
Ngoài ra vữa xơ còn hay xảy ra ở người béo phì, mắc bệnh tiểu đường, có nhiều căng thẳng tâm thần và không vận động cơ thể.
Di truyền cũng tham dự phần nhỏ. Nếu cả cha lẫn mẹ
bị vữa xơ thì con có nhiều triển vọng bị bệnh.
Cũng còn phải kể tới tuổi tác và giới tính.
Người dưới năm mươi tuổi ít vữa xơ hơn người trên
tuổi này.
Trước khi mãn kinh, phụ nữ ít bị vữa xơ hơn nam
giới nhờ sự bảo vệ của kích thích tố nữ, nhưng từ tuổi mãn kinh thì
nam nữ bị vữa xơ bằng nhau.
Vữa xơ có thể thấy ở các động mạch cỡ trung và lớn.
Nếu ở động mạch vành nuôi dưỡng tim thì đưa tới thiếu máu cơ tim;
động mạch cảnh nuôi dưỡng não bộ sẽ có tai biến mạch máu não, động
mạch nuôi dưỡng chi dưới với hoại tử chi; động mạch võng mạc đưa tới
khiếm thị, mù lòa...
Tắc nghẽn thì phải kiếm cách thông, giống như
thông ống cống nước từ bếp ra vườn. Nhưng thông cống chỉ việc tống
cây sào dài vào hoặc đổ nửa lít nước hóa chất là xong. Còn mạch máu
thì nằm ở xa lại mỏng manh, khó mà đạt tới. Cũng đã có nhiều dược
phẩm để giải tỏa tắc nghẽn nhưng công hiệu chậm. Cho nên nếu thông
được như thông cống thì hay biết mấy.
Thế là các nhà y khoa học lại vắt tay lên trán,
tìm kiếm kỹ thuật, thuốc men.
Và mở đầu với sự tò mò , mạo hiểm của một sinh
viên nội trú y khoa người Ðức, anh Werner Frossmann.
Ðó là vào năm 1929. Từ lâu, anh ta vẫn muốn tìm
cách để thám hiểm trái tim mà không gây ra thương tổn gì.
Sau khi đã có một ý niệm, anh trình bầy với các vị
thầy, các vị đàn anh về điều anh định làm. Nhưng mọi người đều không
tin tưởng và cấm không cho anh thực hiện ý tưởng điên rồ đó trong
bệnh viện.
Anh bèn năn nỉ một nữ điều dưỡng viên cho mượn một
ống thông. Anh đưa ống thông từ mạch máu ở khuỷu tay của mình, luồn
dần lên tim. Ðặt ống xong, anh lại năn nỉ một đồng nghiệp điện tuyến,
chụp cho một tấm hình X -Quang ngực. Và thấy đầu ống thông đã an
toàn nằm ở tim mà không gây ra khó khăn gì cho sức khỏe của mình.
Werner hăm hở tường trình sự việc với ông thầy.
Chẳng những không được khen mà còn bị khiển trách, không cho thực
tập ngành tim tại bệnh viện. Anh ta đành học về tiết niệu và tiếp
tục lén lút nghiên cứu, thọc thêm tới 15 lần nữa vào tim mạch của
mình. Nghiên cứu được anh công bố trong y giới, nhưng không ai để ý.
Buồn tình, anh về một tỉnh lẻ, hành nghề y, kiếm bạc cắc cho qua
ngày.
Rồi một ngày đẹp trời của năm 1956, Werner được
mời ra nhận giải Nobel với hai nhà Tim học Andreas Frderic Coumand
và Dickinson W. Richards. Hai vị bác sĩ này đã dựa trên kết quả các
mạo hiểm trước đây của Werner để tìm cách chữa tắc nghẽn động mạch.
Năm 1941, hai ông đã thành công trong việc dùng ống thông tim để đo
lưu lượng máu từ tim ra.
Các nhà y khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Tới năm 1977 thì bác sĩ Andreas Gruentzig của Bệnh
Viện Ðại Học Zurich, Thụy Sĩ, là người đầu tiên thực hiện kỹ thuật
thông mạch máu bằng bóng (balloon) ở người. Sau đó, bác sĩ Gruentzig
sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục tìm hiểu về bệnh tim và làm giầu
trí thức cho quốc gia này. Balloon làm bằng một loại plastic gọi là
polyethylene terephthalate (PET) rất bền bỉ và thay đổi hình dạng dễ
dàng
Ngày 3 tháng 8 năm 1994, cơ quan Thực Dược Phẩm
Hoa Kỳ công nhận Balloon-Expandable –Stent do bác sĩ Richards Schatz
chế biến để làm thông và mở rộng động mạch tim bị tắc nghẽn vì mỡ
đóng lên.
Ngày nay, cả triệu bệnh nhân nghẹt tim được thông
bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật rất phổ thông, được mang ra dùng tại hầu
hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Phương pháp thông tim giản dị và dễ thực hiện hơn
là giải phẫu bắc cầu (by-p*** surgery), nhưng một trở ngại là từ 30
– 50% bệnh nhân cần thông lại vì nghẹt mạch có thể tái diễn. Và một
phương tiện mới có tên là stent được các nhà chuyên môn đặt để tránh
sự tái tắc nghẹt này.
Xác định tắc nghẽn mạch máu
Vữa xơ động mạch được xác định bằng kỹ thuật chụp
tim thông X-Quang (cardiac catheterization). Ðây là một kỹ thuật rất
hữu ích và khá chính xác để biết tình trạng tốt xấu của hệ thống
tuần hoàn.
Một ống hướng dẫn bằng plastic mềm nhỏ được đưa
vào mạch máu ở cánh tay hoặc ở bẹn. Ống được đẩy dọc theo mạch máu
để vào lòng trái tim hoặc động mạch nuôi tim. Một loại hóa chất cản
quang đặc biệt được chuyền vào ống hướng dẫn. Chất này giúp ta nhìn
rõ được tình trạng trong lòng mạch máu hoặc các phòng trái tim qua
máy X-Quang.
Chụp X-Quang mạch máu được áp dụng trong các
trường hợp sau:
-Khi có dấu hiệu đau động mạch tim như là cơn đau
trước ngực;
-Ðau không biết nguyên nhân ở ngực, cằm, cổ, cánh
tay mà các thử nghiệm khác đều không xác định được tại sao;
-Khi có cơn đau mới xảy ra ở ngực;
-Không có triệu chứng gì nhưng vài thử nghiệm khác
cho là có thể bị bệnh tim mạch;
-Khi sẽ có phẫu thuật không liên hệ tới tim mạch
nhưng có thể có rủi ro bệnh tim trong khi giải phẫu;
-Khi sẽ có giải phẫu về van tim;
-Khi đã có bệnh tim bẩm sinh;
-Khi đang bị suy tim;
-Khi có chấn thương ngực hoặc một bệnh tim nào đó.
Thông Tim-Ðặt Lưới
Khi tình trạng vữa xơ động mạch tim không có kết
quả tốt với thay đổi nếp sống, dược phẩm, hoặc khi cơn đau tim càng
ngày càng trầm trọng thì bác sĩ có thể đề nghị làm thông tim- đặt
lưới (angioplasty balloon).
Trước khi thực hiện, bệnh nhân sẽ được khám tổng
quát và làm một số thử nghiệm như:
1-Chụp một phim x-Quang đen trắng của lồng ngực.
Việc này rất dễ thực hiện nhưng cho ta nhiều điều
cần biết: hình dạng lớn nhỏ của trái tim, của đại động mạch và tĩnh
mạch phổi; tình trạng toàn hảo của hai lá phổi, màng phổi và phế
quản.
2-Làm Ðiện Tâm Ðồ.
Mỗi làn trái tin đập một nhịp thì có những dòng
điện phát ra từ một số tế bào đặc biệt của trái tim. Luồng điện chạy
khắp tim, khiến tim co bóp. Ðiện tâm đồ ghi lại các sinh hoạt điện
năng này.
Nhìn hình tâm đồ, bác sĩ có thể chẩn đoán các rối
loạn về nhịp đập của tim; cấu tạo bất thường to nhỏ của tim, sự nuôi
dưỡng của tế bào tim với oxy; có tiền sử hoặc đang có cơn đau tim;
theo dõi tình trạng tim khi đang giải phẫu hoặc khi thông động mạch.
3-Thử nghiệm máu để coi mức cao thấp của
cholesterol lành HDL, cholesterol dữ LDL; của các yếu tố giúp máu
bớt loãng prothrombine, fibrinogen; các diêu tố tim CPK, LDH,
Troponin mà khi lên cao có thể là dấu hiệu của cơn đau tim...
Tới ngày thông tim thì được nhắn nhủ không ăn từ
nửa đêm hôm trước, điều chỉnh liều lượng hoặc ngưng một vài loại
thuốc đang dùng, nhất là thuốc loãng máu, thuốc tiểu đường.
Kỹ thuật sẽ được một bác sĩ chuyên khoa tim có tu
nghiệp thêm về phương pháp này thực hiện với sự tiếp tay của một
nhóm chuyên viên điều dưỡng và kỹ thuật. Kỹ thuật thường được làm ở
một trung tâm y tế có đơn vị tim mạch, để phòng hờ trường hợp cần
cấp cứu giải phẫu tim.
Thông tim thường thực hiện ở động mạch đùi, đôi
khi động mạch cánh tay hoặc cổ tay. Bệnh nhân không cần gây mê tổng
quát mà chỉ một chút thuốc tê được chích vào háng để giảm đau. Do đó
ta tỉnh táo trong suốt thời gian phương pháp được thực hiện.
Một vết cắt nhỏ trên da ở bẹn được rạch và một ống
ngắn nhỏ được đẩy vào động mạch. Qua ống này, một ống thông hướng
đạo dài hơn, có thể uốn cong, được luồn vào trong. Dưới sự hướng dẫn
của X- quang, ống thông được đưa lên động mạch tim, nơi bị nghẹt.
Ống đi lên rất nhẹ nhàng, ta không cảm thấy đau gì, ngoại trừ một
chút thôn thốn ở bẹn mà thôi. Nếu đau thì cho bác sĩ hay ngay để họ
đối phó.
Một chút dung dịch mầu cản quang được bơm vào ống,
tới động mạch vành để chụp hình X quang, coi tắc nghẽn lớn nhỏ ra
sao.
Rồi một ống khác nhỏ hơn đầu có mang một bong bóng
xẹp được chuyền vào trong ống hướng đạo. Khi lên tới chỗ bị tắc
nghẽn, thì bong bóng được bơm phồng lên. Lúc này máu tới tim sẽ giảm
chút ít và ta thấy hơi đau nhói nơi ngực. Bong bóng được bơm phồng
lên, xẹp xuống vài lần, sẽ đè vào nơi động mạch dính đầy chất béo,
làm lòng động mạch mở rộng. Xong nhiệm vụ, bóng được làm xẹp trở lại.
Công hiệu của nong bóng không vĩnh viễn. Theo
thống kê, có tới 1/3 bệnh nhân có thể bị nghẹt trở lại trong vòng
vài tháng.
Ðể ngăn ngừa tái tắc nghẽn, một lưới gọi là stent
nhỏ xíu được phát minh. Lưới nằm trên ống hướng đạo bong bóng, được
đưa tới chỗ nghẹt. Bóng được bơm phồng, lưới mở ra và bám ép vào
thành động mạch. Lưới an toàn nằm đó suốt đời người như một cái giá
chống đỡ không cho động mạch nghẹt trở lại. Lưới làm bằng hợp kim
không rỉ, không hư hao, không di chuyển và không trở ngại khi ta đi
qua máy rà kim loại ở phi trường hoặc chup X-Quang cơ thể..
Ống hướng dẫn được rút ra và phương pháp thông tim
đặt lưới hoàn tất. Trước sau chỉ mất vài giờ đồng hồ, đôi khi chỉ ba
mươi phút dưới bàn tay điêu luyện của một chuyên viên đặt ống giầu
kinh nghiệm.
Thường thường ta cần nằm lại nhà thương khoảng 24
giờ để bác sĩ theo dõi tình trạng sau giải phẫu.
Các ống đều được rút ra. Vết cắt trên da nơi bẹn
và động mạch được băng bó để tránh chẩy máu, nhiễm trùng và để vết
thương mau lành. Tim được tâm điện đồ theo dõi, để phát hiện và
phòng ngừa biến chứng. Nên nằm nghỉ, chân duỗi thẳng
Một vài thuốc chống huyết cục như aspirin, thuốc
kháng tiểu cầu, thuốc an thần được bác sĩ biên toa. Nên uống thuốc
theo liều lượng, thời gian mà bác sĩ đã dặn.
Về nhà, nên nghỉ ngơi, tránh làm việc quá nặng
trong dăm ngày, uống nhiều nước để loại chất mầu cản quang.
Ðể ý các dấu hiệu bất thường như chẩy máu, nhiễm
trùng sưng đỏ, đau nơi vết thương ở bẹn, nhiệt độ cơ thể lên cao,
trong người mệt mỏi, đau ngực, khó thở. Thông báo cho bác sĩ ngay.
Vài tuần sau, khi bác sĩ đồng ý, ta có thể đi làm
trở lại được.
Và nhớ giữ ngày tái khám theo hẹn của bác sĩ.
Thế là từ nay ta không còn đau ngực, không còn lo
ngại cơn suy tim, tai biến não, tàn phế cơ thể. Nhiều người thấy da
dẻ hồng hào, mặt mũi tươi rói, sinh hoạt gia tăng, yêu đời hơn.
Nhưng nên lưu ý lành mạnh nếp sống, bỏ hút thuốc
lá, ăn nhiều rau trái cây, bớt chất béo bão hòa động vật, vận động
cơ thể đều đặn, giảm cân nếu quá mập phì, chữa các bệnh kinh niên
như cao huyết áp, cao cholesterol, bệnh tiểu đường.
Và nhẹ nhàng sống trong niềm vui của Tâm Thân An
Lạc với gia đình, thân hữu.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 02/Feb/2018 lúc 8:24am |
8 Thói Quen Giúp Sống Thọ Các chuyên gia sức khỏe trên thế giới nghiên cứu và đúc kết “Công thức 8 thói quen sống” được sắp xếp theo số thứ tự từ 1 đến 8. Bạn có thể ghi nhớ lại để thực hành mỗi ngày.
Ăn uống tốt là việc quan trọng, nhưng quan trọng hơn là “vào-ra” phải thuận lợi. Cách tốt nhất là nên duy trì tối thiểu mỗi ngày đi đại tiện một lần, đặc biệt là người cao tuổi thì càng nên phải chú ý điều này. Nguyên tắc: Hãy cố gắng dần dần tăng lượng chất xơ vào thực đơn hàng ngày. Hiệp hội Dinh dưỡng Mỹ khuyến cáo người lớn nên ăn 20-35g chất xơ mỗi ngày, bệnh nhân bị táo bón ít nhất 30g trở lên. Chất xơ có nhiều trong các thực phẩm chứa carbohydrate như các loại hạt, trái cây và rau quả, pho mát, rau chân vịt và khoai tây. Đây là những món ăn có thể thúc đẩy nhu động ruột, giúp tạo ra cảm giác buồn đi ngoài. Để tránh những phản ứng bất lợi trong quá trình hấp thụ chất xơ, bạn nên tăng dần lượng chất xơ hàng ngày để cơ thể có đủ khả năng tiêu hóa.
Người càng lớn tuổi chất lượng giấc ngủ càng kém đi. Nếu ban đêm bạn ngủ không đủ giấc thì nên ngủ thêm vào ban ngày để duy trì thời gian ngủ đủ. Thời gian ngủ của mỗi người dựa trên nhu cầu cá nhân của cơ thể, cách nhận biết ngủ đủ là khi bạn ngủ dậy dễ dàng, không còn cảm giác muốn ngủ thêm. Nguyên tắc: Giáo sư Friedman, Đại học Stanford (Mỹ) cho rằng, mỗi người nên ngủ trưa 30 phút mỗi ngày, có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành 30%, đặc biệt là người cao tuổi. Các nhà khoa học Mỹ phát hiện ra rằng, một giấc ngủ ngắn 24 phút có thể làm tăng độ nhạy tổng thể của tâm trí lên tới 54%. Chuyên gia về giấc ngủ trị liệu Na Ruina-Orem Abraham thuộc Học viện Allegheny (Mỹ) nói:“Thậm chí nếu bạn không thực sự rơi vào giấc ngủ thì chỉ cần nằm xuống thư giãn não cũng sẽ nhận được rất nhiều lợi ích“.
Khi càng cao tuổi, bạn càng nên chú ý đến thời gian làm việc thay vì nghỉ ngơi nhàn rỗi hoàn toàn. Khi trẻ, bạn làm việc điều độ trong phạm vi sức khỏe của mình. Khi tuổi cao hơn, nghỉ hưu vẫn nên duy trì thời gian làm việc, hoạt động khoảng ít nhất 3 giờ/ngày. Bạn có thể tìm những công việc mà mình muốn làm, đơn giản như đọc báo, ca hát hoặc tình nguyện viên từ thiện, các công tác xã hội. Nguyên tắc: Bạn nên tập thể dục trong phạm vi sức khỏe cho phép, không nên làm việc liên tục trong thời gian dài. Trong quá trình làm việc nên dừng lại nghỉ ngơi để phòng các bệnh về đau lưng, cột sống, tim và các vùng cơ bắp khác. Kể từ ngày 1/6/2012, Chính phủ Singapore tăng tuổi lái xe taxi cho người đã nghỉ hưu từ 73 lên 75 tuổi, mục đích là để cho những lái xe taxi khỏe mạnh vẫn tiếp tục lái xe. Ngoài các tài xế, ở các ngành khác cũng đều sử dụng lao động cao tuổi từ 60-70 tuổi.
Ngoài việc ăn cơm 3 bữa chính, bạn nên sắp xếp thời gian để ăn thêm một bữa phụ, đảm bảo sức khỏe. Bữa ăn nhẹ này nên thực hiện vào giữa buổi chiều, vừa bổ sung năng lượng, vừa có tác dụng giúp bạn ăn các bữa ăn khác ít hơn. Nguyên tắc: Giáo sư Peggy Anderson, Trung tâm Nghiên cứu lão hóa, Đại học Bắc Carolina (Mỹ) cho rằng, khi có tuổi, bạn nên duy trì thói quen ngủ sớm dậy sớm. Vì thế nên đẩy thời gian ăn sáng sớm hơn, ví dụ vào lúc 7h. Các bữa sau ăn lúc 11 giờ, 3 giờ chiều và 7 giờ tối. Nếu bữa sáng bạn ăn tối muộn thì khoảng 3 giờ chiều bạn nên chú ý ăn bổ sung đồ ăn nhẹ hoặc uống thêm trà, bánh.
Người cao tuổi dễ bị mất nước, vì thế cần chủ động uống nước thay vì chờ khát mới uống. Buổi sáng sau khi ngủ dậy uống một cốc, buổi trưa và chiều tối nên chia thời gian uống thêm 4 cốc. Mỗi ngày tối thiểu 5 cốc. Bạn có thể uống ít nước nhưng không được phép quên uống nước. Nguyên tắc: Sau một đêm ngủ dài, cơ thể tiêu hao nhiều nước sẽ dẫn đến bị thiếu hụt sau khi thức dậy, vì vậy ngủ dậy nên uống ngay 1 cốc. Việc này có thể đề phòng hiệu quả hiện tượng tăng huyết áp, đột quỵ vào buổi sáng. Khoảng 1 tiếng trước khi ăn trưa và ăn tối, lúc bụng đói bạn nên uống thêm nước. Việc này vừa có thể cung cấp lượng nước cơ thể cần, vừa có thể giúp cho hệ tiêu hóa phân giải thức ăn một cách thuận lợi, đồng thời tăng cảm giác ngon miệng cho bữa ăn tiếp theo, giúp hấp thụ chất dinh dưỡng tốt hơn. Khoảng 2-3 giờ trước khi đi ngủ bạn uống nước thêm một lần nữa để hỗ trợ việc pha loãng máu, thúc đẩy tuần hoàn máu, phòng tránh máu vón cục. Nhưng cố gắng uống ít ngay trước khi đi ngủ để tránh đi tiểu đêm nhiều lần. Thừa nước cũng có thể khiến khuôn mặt nặng nề hơn vào hôm sau.
Mỗi ngày bạn nên vận động đủ 60 phút để cải thiện tình trạng sức khỏe một cách khoa học...Thời gian tập do bạn quyết định, nhưng có thể tập ngay trong nhà vào buổi sáng sau khi ngủ dậy bằng các bài tập như chạy tại chỗ, yoga, vận động tay chân. Nếu duy trì được sẽ giúp bạn có được tinh thần sung mãn trong cả ngày. Nguyên tắc: Con người thuộc nhóm động vật nên buộc phải vận động mới có thể tồn tại, vận động đúng cách không chỉ sống khỏe mà còn có cơ hội sống thọ. Người cao tuổi có thời gian thì nên vận động đều đặn, ra ngoài giao lưu với bạn bè, tập thể dục trong công viên, đi bộ hoặc các hoạt động cộng đồng khác. Duy trì trạng thái vui vẻ và tập thể dục đều đặn là vô cùng quan trọng. Nên nhớ rằng trò chuyện, tán gẫu cũng là một cách vận động, rèn luyện trí não.
Nhiều người chỉ dành thời gian xem thời sự vào lúc 7 giờ tối mà quên rằng bạn có thể cập nhật tin tức ở rất nhiều kênh khác nhau. Người càng cao tuổi bao nhiêu, càng cần cập nhật thông tin mới nhiều hơn để không bị lạc hậu tin tức với thời cuộc, rời xa dòng chảy xã hội. Nguyên tắc: Nếu chỉ xem thời sự trên tivi, bạn có thể sẽ bị bỏ lỡ rất nhiều thông tin cần thiết khác. Vì vậy, có thể đọc sách, vào mạng xã hội, chơi cờ, đi hát, đi du lịch và các loại hình sinh hoạt tập thể văn hóa khác. Chúng ta cần đuổi kịp sự phát triển thông tin nhanh nhạy trên thế giới, đi nhiều nơi, gặp nhiều người, hiểu thấu thiên hạ thì mới có thể thông tuệ, minh mẫn
Lựa chọn thực phẩm đa dạng và ăn uống cân bằng là tiêu chí đảm bảo sức khỏe ổn định. Khi có tuổi thì bạn càng cần phải tuân thủ nguyên tắc này. Thực đơn nên chọn tối thiểu 8 loại thực phẩm/ngày gồm trứng, sữa, cá, thịt theo định lượng vừa đủ. Ăn nhiều rau củ quả trái cây, nấm và các chế phẩm từ đậu. Nguyên tắc: Làm sao để lựa chọn thực phẩm một cách cân bằng và khoa học? Theo chuyên gia dinh dưỡng Mỹ Christopher Gans khuyên, bạn có thể chọn thực phẩm theo màu sắc như sau: – Trắng: sữa, bắp cải, súp lơ. – Đỏ: cà chua, cà rốt, dâu tây, táo.. – Xanh lá cây: rau diếp, đậu lăng, rau chân vịt. – Vàng: cà rốt, khoai lang, ngô, bí, đậu tương. – Tím/Đen: bắp cải tím, chocolate đen, quế. Tuổi thọ của một người không ai có thể đảm bảo được, nhưng việc duy trì những thói quen tốt có thể mang lại một sức khỏe tốt, cơ thể khỏe mạnh thì mới có thể theo đuổi mục tiêu tuổi thọ, từ đó mới có cơ hội sống thọ. st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 03/Feb/2018 lúc 10:12am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 07/Feb/2018 lúc 10:26am |
Dấu Hiệu Bạn Sắp Đột Quỵ Mà Không Biết
Đột
quỵ là căn bệnh cấp tính, đột ngột, có tính chất nguy hiểm cao. Vì thế
ai cũng cần nắm vững cách phát hiện và xử lý căn bệnh này kịp thời để
cấp cứu cho bệnh nhân.
Đột
quỵ, hay còn gọi là tai biến mạch máu não là tình trạng bệnh lý do tổn
thương mạch máu não. Bệnh xảy ra khi việc cung cấp máu lên một phần của
não bột bị ngừng trệ đột ngột.
Đột
quỵ có thể xảy ra do 2 nguyên nhân: Do nhồi máu não (tắc mạch) làm
ngừng trệ dòng máu lên nuôi não hoặc chảy máu não (vỡ mạch) làm cho máu
trong lòng mạch thoát ra bên ngoài tràn vào mô não phá hủy và chép ép mô
não.
Đột
quỵ là căn bệnh cấp tính, đột ngột, có tính chất nguy hiểm cao. Bệnh có
thể khiến cho phần não liên quan bị tổn thương, không thể hoạt động
được.
Người bị đột quỵ rơi vào tình trạng bỗng dưng đổ gục xuống, hôn mê, đối mặt với di chứng tàn tật, thậm chí tử vong.
Chính vì tính chất nguy hiểm của căn bệnh này, nên việc phòng ngừa nguy cơ xảy ra đột quỵ rất quan trọng.
Đồng
thời, việc phát hiện sớm những dấu hiệu của chứng bệnh này là cực kỳ
quan trọng để giảm thiểu những biến chứng nguy hiểm của bệnh, rút ngắn
thời gian điều trị bệnh.
1. Dấu hiệu của bệnh đột quỵ
Do chứng bệnh này không có triệu chứng báo hiệu kéo dài nên không ai có thể biết trước mình sẽ bị đột quỵ.
Chính
vì thế, bạn hãy nắm vững những dấu hiệu sau đây là có thể phát hiện sớm
chứng đột quỵ ở bản thân hay những người xung quanh để có thể cấp cứu
kịp thời.
–
Dấu hiệu ở thị lực: Thị lực giảm, nhìn mờ dần cả hai mắt hoặc một mắt,
tuy nhiên biểu hiện này không rõ ràng nên bên cạnh khó nhận ra. Chỉ có
người bệnh khi nhận thấy mình có dấu hiệu này thì nên yêu cầu được cấp
cứu ngay.
–
Dấu hiệu ở mặt: Mặt có biểu hiện thiếu cân xứng, miệng méo, nhân trung
hơi lệch qua một bên so với bình thường, nếp mũi má bên yếu bị rũ xuống.
Đặc biệt khi người bệnh nói hoặc cười thì sẽ thấy rõ dấu hiệu méo miệng
và thiếu cân xứng trên mặt.
–
Dấu hiệu ở tay: Cảm giác của người bị đột quỵ là tay bị tê mỏi, khó cử
động, khó thao tác. Ngoài ra thì người bệnh cũng cảm thấy đi lại khó
khăn, không nhấc chân lên được.
–
Dấu hiệu qua giọng nói: Người bị đột quỵ có thể gặp triệu chứng nói
ngọng bất thường, môi lưỡi bị tê cứng, miệng mở khó, phải gắng sức thì
mới nói được.
– Dấu hiệu qua nhận thức: Người bệnh có biểu hiện rối loạn trí nhớ, không nhận thức được, mắt mờ, tai ù không nghe rõ.
–
Dấu hiệu ở thần kinh: Người bệnh cảm thấy nhức đầu dữ dội. Đây là triệu
chứng nặng và khá phổ biến của bệnh đột quỵ, nhất là người bệnh có tiền
sử bị đau nửa đầu.
2. Cách phòng ngừa bệnh đột quỵ
–
Ổn định huyết áp ở những người mắc bệnh huyết áp cao: Huyết áp cao là
nguyên nhân chính gây đứt mạch máu não, vì thế bệnh nhân cần được điều
trị để ổn định huyết áp, tránh nguy cơ đột quỵ.
–
Ổn định đường huyết: Bệnh tiểu đường là yếu tố gây mảng xơ vữa động
mạch lớn, dẫn đến thiếu máu ở não. Ổn định đường huyết cũng là cách để
phòng ngừa bệnh đột quỵ.
– Kiểm soát cholesterol trong máu.
–
Bỏ thuốc lá: Thuốc lá là nguyên nhân chính gây bệnh mạch máu não. Ngừng
hút thuốc lá là đã giảm thiểu nguy cơ rất lớn gây đột quỵ.
– Thiết lập một chế độ ăn uống lành mạnh với nhiều rau xanh, ít dầu mỡ, ít cholesterol và muối.
– Thường xuyên vận động để rèn luyện thể chất.
– Ổn định trọng lượng cơ thể.
– Kiểm tra sức khỏe định kỳ.
st.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 09/Feb/2018 lúc 3:16pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22191 |
Gởi ngày: 10/Feb/2018 lúc 9:00am |
Tương Tác Giữa Thực Phẩm Và Dược PhẩmNếu thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của cơ thể thì dược phẩm cũng có vai trò rất quan trọng cho cơ thể đó, nhất là khi bịnh hoạn đau ốm cần điều trị bằng thuốc men.
Hai nhu cầu đều
có dụng ý tốt, nhưng dùng chung với nhau
đôi khi sẽ có những hậu quả không
hay. Ảnh hưởng này đã được
nghiên cứu rộng rãi, vì trong những
thập niên vừa qua, việc tiêu thụ dược
phẩm gia tăng và tai nạn do trị liệu
bằng các hóa chất này cũng thường
xẩy ra.
Dược phẩm là những hóa chất
hoặc thảo mộc được dùng để
chữa dứt hoặc làm giảm các triệu
chứng của bệnh. Dược phẩm cũng
được dùng để ngăn ngừa
sự xuất hiện của một số
bệnh.
Trong cơ
thể, dược phẩm được
sử dụng qua ba giai đoạn:
a-thuốc sẽ
được hòa tan trong bộ máy tiêu hóa;
b-rồi được
máu hấp thụ, chuyển vào các tế bào; và
c-sẽ có những
đáp ứng của cơ thể với tác
dụng của dược phẩm.
Dược phẩm
được phân phối nhiều nhất vào
các cơ quan như tim, gan, thận, não bộ;
một số nhỏ vào thịt, da, mỡ.
Dược phẩm có
thể làm tăng hoặc giảm sự dinh dưỡng.
Ngược lại, tình trạng dinh dưỡng
của người bệnh có thể làm
giảm tác dụng hoặc làm tăng độc
tính của dược phẩm.
Thực phẩm có
thể làm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho
sự hấp thụ dược phẩm, làm
sự chuyển hóa mau hoặc chậm, ngăn
chặn tác dụng của dược phẩm.
Ngược lại,
dược phẩm có thể làm giảm
khẩu vị, làm thực phẩm trở nên khó
tiêu, khó hấp thụ hoặc làm thất thoát
sinh tố, muối khoáng qua sự bài tiết phân
và nước tiểu. Hậu quả là tình
trạng suy dinh dưỡng của cơ thể.
A- Tương tác
của Dược Phẩm vào Dinh Dưỡng
1-Ảnh hưởng
vào sự ăn uống.
Rất nhiều dược phẩm có thể làm
giảm khẩu vị, mất sự ngon
miệng. Tác dụng này trở nên có ích khi ta
muốn giảm cân vì quá mập phì. Nhưng
đối với nhiều người thì tác
dụng lại không tốt và đưa tới
thiếu dinh dưỡng.
Sau đây là một
số thuốc làm giảm sự ăn ngon:
Sulfasalazine trị bệnh thấp khớp;
Colchicine chữa thống phong; Diabenese chữa
tiểu đường; thuốc hạ huyết
áp Furosemide, Hydralazine, Hydrochlorothiazide; thuốc
trị suy tim Digitalis; thuốc an thần Temazepam;
thuốc trị kinh phong Tegretol. Đặc
biệt là các hóa chất trị ung thư
khiến người bệnh buồn nôn,
giảm vị giác, thấy thức ăn không còn
hấp dẫn.
Các thuốc làm
giảm hoặc thay đổi vị giác thì
rất nhiều. Xin kể một vài thứ thường
dùng: thuốc ngủ an thần Meprobamate, Dalmane,
Triazolam; thuốc trầm cảm Lithium; kinh phong
Phenytoin; kháng nấm Griseofulvin.
Thuốc làm tăng
sự thèm ăn như Cyproheptadine ( Periactin) giúp
ăn ngon hơn và tăng sức nặng cho cơ
thể. Ngược lại, thuốc Amphetamine
lại làm giảm sự thèm ăn, nên
được người mập dùng để
có eo.
Các thuốc vừa
kể đều có tác dụng phụ nên
cần được dùng dưới sự hướng
dẫn của bác sĩ.
2-Ảnh hưởng
vào sự hấp thụ Thực Phẩm.
Hầu hết sự hấp thụ dược
thực phẩm đều diễn ra ở
ruột non. Do đó, sự tương tác
nếu có, sẽ là giảm khả năng
hấp thụ của màng niêm ruột và bao
tử, giảm thời gian thực phẩm
nằm trong ruột.
Lấy một thí dụ là thuốc nhuận tràng
dầu khoáng chất (mineral oil). Thuốc này
được bán tự do không cần toa bác sĩ
và nhiều người chúng ta thường dùng
để thông đại tiện. Sau khi
uống, thuốc hòa lẫn với thực
phẩm đã được tiêu hóa, vào bao
tử và ruột, làm lòng ruột trơn
nhờn . Một số sinh tố hòa tan trong
chất béo như A,D,E,K có thể được
hòa hợp vào dầu thuốc, chạy khỏi
ruột mà không được hấp thụ.
Hậu quả là thiếu sinh tố có thể
xẩy ra nếu ta dùng dầu xổ này quá thường
xuyên.
Giảm hấp
thụ thực phẩm cũng có thể do
thuốc làm giảm tác dụng của một vài
diêu tố như là mật trong sự tiêu hóa
mỡ béo. Chất béo không được
hấp thụ, thì các sinh tố hòa tan trong
mỡ sẽ mất đi. Thuốc hạ
cholesterol trong máu và kháng sinh neomycin đều
ảnh hưởng tới mật và gây khó khăn
cho sự tiêu hóa cũng như hấp thụ
chất béo.
Cimetidine chữa loét bao tử làm giảm acid
trong bộ máy tiêu hóa, đưa đến kém
hấp thụ sinh tố B 12 bằng cách không cho
sinh tố này tách ra khỏi thực phẩm.
Trường hợp
thuốc chống đau nhức Aspirin và các dược
phẩm có chất chua acid cũng đáng
nhớ. Các thuốc này làm hư hao màng niêm bao
tử và ruột khiến trở ngại sự
hấp thụ thực phẩm ở các bộ
phận này, nhất là khoáng calcium và sắt.
Thuốc Neomycin thay
đổi cấu trúc của niêm mạc làm cho
sự hấp thụ chất đạm, béo và các
muối sodium, pot***ium bị trở ngại. Nhưng
may mắn là khi ngưng thuốc thì mọi
sự trở lại bình thường.
3-Ảnh hưởng
tới sự chuyển hóa và phế thải
thực phẩm.
Sau khi hấp thu, chất dinh dưỡng sẽ
được chuyển hóa thành năng lượng
và các phần tử căn bản để
cấu tạo tế bào.
Sự chuyển hóa
chỉ xẩy ra dưới tác dụng của các
diêu tố (enzyme). Với số lượng
rất nhỏ, diêu tố có thể thúc đẩy
một phản ứng sinh học mà không bị
tiêu hao. Diêu tố được sản
xuất từ trong hoặc ngoài tế bào
với sự hiện diện của vài phần
tử dinh dưỡng như sinh tố.
Một số dược
phẩm ngăn chặn sự thành hình của diêu
tố bằng cách lấy đi vài hóa chất
cần thiết cho việc sản xuất diêu
tố. Các thuốc Methrotrexate chữa ung thư máu,
viêm thấp khớp và thuốc Pyrimethamine
chữa sốt rét ngã nước là hai loại
thuốc lấy đi folate acid trong DNA của diêu
tố khiến nó vừa không phân sinh vừa
bị tiêu hủy.
Thực phẩm và dược
phẩm có thể liên kết, tạo ra một
hợp chất mà cơ thể không dùng
được. Thí dụ khi uống INH để
chữa hoặc ngừa bệnh lao, ta thường
phải uống thêm sinh tố B 6 vì INH kết
hợp với Pyridoxine B 6 trong thực phẩm thành
một hợp chất mà cơ thể không dùng
được. Các thuốc này được
gọi là loại chống sinh tố anti vitamins.
Một số dược
phẩm làm tăng sự phế thải chất
dinh dưỡng. Thí dụ khi ta uống các
thuốc lợi tiểu tiện thì thuốc cũng
làm thất thoát calcium, pot***ium, zinc theo nước
tiểu và cơ thể sẽ thiếu những
khoáng này.
B-Ảnh hưởng
của Thực phẩm vào Dược phẩm
1-Ảnh hưởng
vào sự hấp thụ dược phẩm .
Hấp thụ dược phẩm là mang
thuốc vào mạch máu từ bao tử hoặc
ruột vì đa số thuốc được
uống dưới dạng viên hoặc dung
dịch. Sinh- hiện- hữu (bioavilability) là
số lượng thuốc sẵn sàng để
có thể được hấp thụ vào máu
sau khi uống hoặc chích.
Sự hấp thụ
tùy thuộc vào kích thước của các
hạt thuốc, lý hóa tính của thuốc,
dạng thuốc và nồng độ
thuốc. Ngoài ra sự hấp thụ cũng
chịu ảnh hưởng của mức độ
acid/kiềm ( pH) của môi trường, sự
co bóp của ruột, sự hiện diện
của thức ăn, khả năng hấp
thụ của tế bào ruột và số lượng
máu lưu thông ở ruột.
Một số chất dinh dưỡng trong
ruột có thể làm giảm hoặc trì hoãn
sự hấp thụ vài loại thuốc. Do
đó thuốc không đạt được
mức độ tối thiểu trong máu để
có hiệu quả. Đôi khi sự hấp
thụ chậm cũng kéo dài tác dụng của
thuốc.
Như trường
hợp của hầu hết thuốc kháng sinh,
khi uống chung với thức ăn thì tốc
độ cũng như số lượng
thuốc được hấp thụ đều
giảm. Vì thế, chỉ nên uống kháng sinh
khi bao tử không có thực phẩm, thí dụ
hai giờ trước hoặc sau khi ăn.
Calcium trong thực
phẩm ngăn sự hấp thụ thuốc
Tetracycline cho nên khi uống thuốc này thì không
uống sữa có nhiều calcium. Sữa cũng
làm độ acid trong bao tử lên cao khiến
cho các viên thuốc bọc (enteric coated tablets) tan
ra và làm bao tử xót, do đó sự hấp
thụ giảm đi rất nhiều.
Thuốc trị kinh
phong Phenytoin sẽ bị giảm hấp thụ
nếu thực phẩm có nhiều chất đạm
vì thuốc này sẽ bám chặt vào chất
đạm.
Thuốc nước
thường ít bị ảnh hưởng
của thực phẩm vì nó không cần
được làm hòa tan và có thể chuyển
dễ dàng sang máu.
Còn thực phẩm làm
tăng sự hấp thụ của thuốc thì
phải kể tới trường hợp
thuốc Griseofulvin. Thuốc này dùng để
chữa các bệnh về nấm ( fungal diseases).
Khi dùng chung với thức ăn nhất là có
nhiều mỡ béo, thì sự hấp thụ
của nó lại tăng lên rất cao. Lý do là
chất béo làm gan tăng sản xuất mật.
Thuốc hòa tan trong dầu mỡ cũng theo
mật để chuyển vào máu nhiều hơn.
Khi ăn no, thuốc
nằm lâu trong bao tử, hòa tan nhiều và
được hấp thụ tốt hơn.
2-Làm
giảm hiệu lực của thuốc.
Nếu là
một thuốc có công hiệu rất mạnh,
thì một vài thực phẩm có thể làm
giảm công dụng này và đưa tới
hậu quả không tốt cho bệnh nhân.
Một thí dụ là
thuốc Warfarin (Coumadin) để chống
lại sự đóng cục của máu trong
một vài bệnh. Tác dụng của Coumadin tùy
thuộc vào sự hiện diện của sinh
tố K. Dược lực giảm nếu người
bệnh ăn thực phẩm có nhiều sinh
tố K như gan, rau xanh. Hậu quả là
sự đóng cục của máu trở nên
trầm trọng hơn. Ngược lại, khi
bệnh đang ổn định với một
lượng Coumadin nào đó mà bây giờ
bệnh nhân giảm tiêu thụ thực phẩm
có sinh tố K thì tác dụng loãng máu của
Coumadin sẽ gia tăng. Xin nhắc lại là sinh
tố K giúp máu đông đặc, không bị
loãng và băng huyết.
3-Tăng và
giảm độc tính của thuốc
Một vài chất
dinh dưỡng có thể làm tăng độc
tính của thuốc.
Thí dụ thuốc
chữa trầm cảm và cao huyết áp MAO (
monoamine oxidase). Khi uống thuốc này thì không
được dùng thực phẩm có chất
Tyramine kẻo mà huyết áp sẽ vọt lên
rất cao.
Tyramine có trong
thực phẩm như pho mát, sữa chua,
chuối, dầu đậu nành, la de, rượu
vang đặc biệt là tim động vật.
Trái lại, vài
chất dinh dưỡng lại làm giảm tác
dụng xấu của thuốc. Thí dụ,
nếu uống thuốc trị nhiễm trùng
Nitrofurantoin lúc bụng đói thì thấy
ruột cồn cào khó chịu, mà uống chung
với một ít sữa hoặc ăn một chút
thực phẩm thì tránh được khó
chịu này.
4-Tác
dụng trên sự chuyển hóa dược
phẩm.
Chuyển hóa là
sự thay đổi hóa chất của thuốc
với nhiều mục tiêu khác nhau: a)để
phế thải sau khi thuốc được dùng;
b)với chuyển hóa, thuốc sẽ tăng
hoặc mới có tác dụng và c) chuyển hóa
làm tăng dược tính của thuốc.
Sự chuyển hóa tùy thuộc phần lớn vào
số lượng các chất dinh dưỡng chính
là chất đạm, chất béo và carbohydrates.
Đa số phản ứng chuyển hóa
thuốc xẩy ra ở gan, nhưng cũng có
thể ở một số cơ quan khác.
Thuốc thường
bám vào các chất dinh dưỡng. Phần
thuốc lưu hành tự do trong máu không bám vào
thực phẩm mới có công dụng trị
bệnh. Chẳng hạn khi chất đạm
albumin giảm vì suy dinh dưỡng hay suy gan,
thuốc không có chỗ bám, sẽ lưu hành
nhiều trong máu và dược tính của
thuốc gia tăng. Thực phẩm nhiều
chất béo sẽ làm chất béo acit fatty acids
trong máu gia tăng. Fatty acids chiếm hết
albumin, thuốc tự do có nhiều và tác
dụng thuốc mạnh hơn.
Nói chung, bất
cứ chất gì có thể thay đổi tỷ
lệ bám/ không bám với dược phẩm
đều có thể thay đổi dược
lực.
Ngoài ra, sự
chuyển hóa cũng tùy thuộc vào tốc độ
hấp thụ thuốc ở ruột chuyển
sang gan; tùy theo tình trạng tốt xấu các
chức năng gan và tùy theo các bệnh của cơ
thể cũng như tình trạng dinh dưỡng.
5-Tác dụng trên sự phế thải của dược
phẩm.
Thuốc được
thải theo nhiều đường dây: qua
thận, gan, hệ tiêu hóa và qua sữa mẹ. Các
chất dinh dưỡng có ảnh hưởng trên
sự thải bỏ này bằng cách thay đổi
độ acid của nước tiểu.
Thực phẩm làm nước
tiểu kiềm sẽ tăng thải thuốc có
tính acid như phenobarbital; thực phẩm làm nước
tiểu acid sẽ tăng loại bỏ thuốc
alkaline như amphetamine.Thực phẩm có
nhiều đạm sẽ tăng thải
barbiturates, theophylline, phenytoin từ thận.
Thực phẩm có nhiều chất xơ tăng
thải thuốc hòa tan trong chất béo. Thiếu
muối sodium sẽ tăng tái hấp thụ
thuốc lithium làm tăng độc tính
thuốc này.
Rượu được
xếp vào loại dược phẩm nhưng
lại được nhiều người
uống như một thực phẩm. Khi dùng
kinh niên, rượu có thể tăng chuyển hóa
thuốc, đưa đến giảm tác
dụng của thuốc. Ngược lại, khi
uống nhiều mà chỉ uống một vài
lần thì rượu lại ngăn sự
chuyển hóa thuốc, thuốc tăng công
hiệu.
C-Giảm
sự hấp thụ của cả thuốc và
chất dinh dưỡng.
Một đôi khi, tương
tác giữa thuốc và chất dinh dưỡng
đưa tới suy giảm hấp thụ
của cả hai thứ phẩm vào máu.
Thí dụ kháng sinh
Tetracycline là loại thuốc rất thường
dùng, có thể liên kết với các khoáng
calcium, magnesium, sắt thành ra hợp chất không
hòa tan và không được hấp thụ.
Thuốc và chất dinh dưỡng bị
phế thải hết. Thành ra, nên uống
tetracycline khi bụng đói. Mà khi bụng đói
thì thuốc lại cồn cào ruột. Muốn
tránh, có thể uống một ly nước
đầy.
Không nên uống
sữa hoặc phó sản của sữa với
tetracycline, vì calcium trong các thực phẩm này và
thuốc sẽ kết hợp thành hợp
chất không hòa tan và thuốc thành vô dụng.
D-Một số
thuốc và thực phẩm gây tương tác.
Sau đây là một
số thuốc và dược phẩm thường
gây tương tác.
1-Thuốc
chống đau nhức.
Nói chung các thuốc này đều kích thích niêm
mạc bao tử, vậy không nên dùng chung
với rượu hoặc nước trái cây mà
có thể ăn một chút thực phẩm.
Thuốc chống đau thường dùng là
Aspirin, Ibuprofen, Corticosteroids, Indomethacin
2-Thuốc
chữa cao huyết áp.
Nên hạn chế muối để thuốc công
hiệu hơn.
3-Thuốc
chống máu cục
như Warfarin, Coumadin. Không nên dùng nhiều
thực phẩm có sinh tố K vì sinh tố này
tạo ra chất làm máu đông lại. Sinh
tố K có trong rau spinach, khoai tây, lòng đỏ
trứng, dầu thảo mộc, cauliflower,
bắp cải chồi ( brussel sprout).
4- Thuốc
thông tiểu tiện
như Lasix, Furosemide, Esidrex, Hydrodiuril làm mất
pot***ium nên thường phải dùng thêm khoáng này.
K có nhiều trong chuối, cam trái.
5- Thuốc
chống dị ứng
như Benadryl, Chlotrimeton, Dimetane. Không dùng chung
với rượu, vì cả hai loại đều
làm tăng ngất ngây, buồn ngủ, chậm
phản ứng.
6-Thuốc
suyễn
làm mở cuống phổi như Theodur,
Aminophylline đều không nên dùng chung với
thực phẩm nước uống có nhiều
caffeine, để tránh kích thích thần kinh.
7- Thuốc
kháng sinh
nhóm Penicillin như Amoxicillin, Ampicillin, Penicillin G và
V khi ăn no thường kém hiệu nghiệm vì
giảm hấp thụ. Sulfa khi dùng chung với rượu
gây ra buồn nôn; nên tránh uống kháng sinh
tetracycline với sữa, sữa chua, pho mát
hoặc khi đang dùng thêm khoáng sắt , calcium
8- Thuốc
ngủ
hoặc thuốc trị bệnh tâm thần đều
có tương tác với rượu, gây ngây
ngất, buồn ngủ, nên tránh dùng chung. Đặc
biệt thuốc trị trầm cảm Monoamine
oxidase không được dùng với thực
phẩm có tyramine, vì huyết áp sẽ tăng
rất cao. Thực phẩm có nhiều tyramine là
pho mát, súc cù là, gan gà và heo, rượu vang.
9- Thuốc
nhuận trường,
mà đa số đều mua tự do không
cần toa bác sĩ, nếu dùng thường xuyên
có thể làm mất sinh tố và khoáng chất.
Kết
luận.
Cả hai thứ
thực phẩm và dược phẩm đều
cần thiết cho cơ thể nhưng đôi
khi sự hòa lẫn hai thứ đưa tới
vài khó khăn.
Nguy cơ gây tương
tác giữa thực phẩm và dược
phẩm tùy thuộc vào tình trạng sức
khỏe tổng quát của cơ thể,
bệnh hoạn kinh niên, chế độ kiêng
khem, ăn uống, lạm dụng rượu,
thuốc gây ghiền, sử dụng nhiều
loại dược phẩm.
Để tránh
hậu quả tương tác, người
bệnh cần thông hiểu cái hay cái dở
của thuốc; người thầy thuốc, nhân
viên dược phòng cũng dành thì giờ căn
dặn, chỉ dẫn bệnh nhân cách dùng
thuốc.
Được như
vây, thì ăn uống an toàn, thuốc men hiệu
quả, cuộc đời sẽ an lành hơn.
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 178 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |