Người gởi |
Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
|
Gởi ngày: 08/Sep/2020 lúc 2:18pm |
Thời gian tiêu hóa chính xác của thực phẩm phụ thuộc vào thể chất, sự trao đổi chất, tuổi tác và thậm chí giới tính.
Thời
gian tiêu hóa được hiểu chính là một quy trình khi thức ăn mà bạn nạp
vào phân hủy thành các hạt nhỏ, được chuyển thành các chất dinh dưỡng và
đi qua hệ thống đường ruột của bạn vào máu. Điều quan trọng là phải
hiểu thời gian tiêu hóa của các loại thức ăn để đạt mục đích giảm cân
hoặc duy trì cân nặng hợp lý.
Thức
ăn tiêu hóa nhanh: Nếu ăn nhiều thức ăn tiêu hóa nhanh, bạn sẽ dễ ăn
nhiều hơn nhưng nhanh đói hơn. Các loại thức ăn này giúp bạn tăng cường
năng lượng nhanh chóng – nói cách khác giúp tăng nhanh mức glucose. Tuy
nhiên, cơ thể bạn bị thừa glucose và không sử dụng, phần còn lại có thể
biến thành chất béo.
Thức
ăn tiêu hóa chậm làm tăng lượng đường trong máu của bạn theo cách chậm
hơn, tạo mức năng lượng ổn định và cân bằng hơn. Nhưng nếu bạn chỉ ăn
thức ăn tiêu hóa chậm, điều này có thể làm cho hệ thống tiêu hóa của bạn
hoạt động tối đa và có thể trở nên quá tải.
Nước được nạp vào ruột ngay lập tức khi vào cơ thể
Nước trái cây hoặc rau quả tiêu hóa trong 15 - 20 phút
Rau củ ăn sống tiêu hóa sau 30 – 40 phút.
Rau củ quả nấu chín tiêu hóa sau 40 phút.
Cá tiêu hóa sau 45-60 phút.
Rau củ trộn dầu tiêu hóa mất khoảng 1 giờ.
Củ nhiều tinh bột mất khoảng 1,5-2 giờ để tiêu hóa hết.
Ngũ cốc mất 2 giờ để tiêu hóa
Phô mai tiêu hóa sau 2 giờ.
Các loại hạt mất 3 giờ để tiêu hóa.
Thịt bò tiêu hóa mất 3 giờ.
Thịt cừu tiêu hóa mất 4 giờ. Các bữa ăn sáng và bữa tối nên đơn giản hơn
với các sản phẩm được tiêu hóa nhanh chóng, điều này sẽ giúp cơ thể
được tăng cường năng lượng ngay sau bữa sáng và để cho dạ dày của bạn
được nghỉ ngơi vào ban đêm.
Thịt lợn tiêu hóa mất 5 giờ. Các chuyên gia khuyên rằng tránh ăn thức ăn
tiêu hóa nhanh ngay sau khi mới tiêu thụ thức ăn tiêu hóa chậm, vì lúc
này quá trình tiêu hóa vẫn chưa kết thúc và dạ dày có thể quá tải.
Theo VOV
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
|
Gởi ngày: 12/Sep/2020 lúc 7:43am |
Khi có bệnh khó, ta nên đến bác sĩ được biết có kinh nghiệm về bệnh đó.
Tuổi tác không phải là bảo chứng của kinh nghiệm, vì người thầy thuốc
già vẫn có thể phạm cùng một lỗi lầm nhiều lần. (Hình minh họa: Tang
Chhin Sothy/AFP via Getty Images)
Tuổi dù cao, mà không bệnh hoạn, thì sức khỏe tương đối vẫn còn khả
quan. Tuy nhiên cơ thể về già, cũng như cái máy xe hơi chạy trên trăm
ngàn dặm, có những bất thường, chẳng giống ai.
Ta mất đi một số khả năng thích ứng với ngoại cảnh và bệnh tật, nên
đã đau thì thường trầm trọng hơn và kéo dài lâu hơn. Dấu hiệu bệnh không
giống như ở người trẻ. Chẳng hạn khi sưng phổi thì ta hay than phiền
mệt mỏi, yếu sức toàn thân, rối loạn tâm thần, còn người trẻ thì có
triệu chứng rõ ràng như ho, nóng sốt.
Phản ứng của ta với bệnh tật cũng khác. Nhiều người có bệnh mà không
nói ra vì tính tình chịu đựng, đôi khi nghĩ là dù có khai với bác sĩ,
ông ta lại bảo tại già nó vậy, hoặc e ngại bác sĩ sẽ thực hiện nhiều thử
nghiệm, lấy máu, phiền phức, đau đớn.
Một số người cao tuổi có nhiều bệnh, uống nhiều thuốc khác nhau do
nhiều bác sĩ cho toa. Họ cũng thường đi khám bác sĩ nhiều hơn người ở
các tuổi khác. Những phức tạp, khác với bình thường đó đặt ra vấn đề
tương quan giữa thầy thuốc và bệnh nhân, sao cho đôi bên đều thỏa mãn
trong tình nghĩa phúc chủ, lộc thầy.
Đào tạo bác sĩ
Với bệnh nhân, thầy thuốc là người sẽ định bệnh, làm giảm sự đau đớn,
cho biết diễn tiến bệnh, phục hồi khả năng đã mất, và phương cách ngừa
bệnh tái phát. Người bệnh, khi đã lựa được thầy thuốc thích hợp, thì đặt
mọi tin tưởng vào thầy thuốc, và mối tương quan sẽ tốt đẹp. Để lựa một
lương y, ta cần biết về thành tích chuyên môn cũng như đức độ của họ.
Ngày nay, bác sĩ đều được đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế với bốn năm
dự bị, bốn năm y khoa, rồi từ ba tới năm năm chuyên khoa để được coi
như tinh thông y nghiệp.
Người bác sĩ đầu tiên mà ta tiếp xúc mỗi khi đau ốm là thầy thuốc
riêng của mỗi gia đình. Vị này có thể là chuyên ngành y khoa gia đình,
nội khoa, nhi khoa, phụ khoa hay giải phẫu tổng quát. Họ được huấn luyện
để khám và trị căn bản, rồi sau đó nếu cần sẽ gửi đi chuyên khoa riêng
biệt. Họ còn giúp ta phòng ngừa bệnh tật, như chích ngừa, làm thử nghiệm
tìm ung thư tử cung, nhiếp hộ tuyến, thử máu kiểm soát lượng
cholesterol, đường trong máu. Những tiểu giải phẫu như khâu vết thương,
mổ một mụn nhọt cũng được họ thực hiện ngay tại phòng mạch. Họ cũng chữa
các bệnh thông thường về ngũ quan.
Với kiến thức tổng quát rộng, họ sẽ là người phối hợp việc trị bệnh
của ta với các bác sĩ chuyên khoa từng bộ phận, giải quyết những ý kiến
khác nhau về cách điều trị. Thường thường, họ rất dè dặt, cẩn thận trong
việc trị bệnh.
Các bác sĩ chuyên môn riêng biệt đều được huấn luyện thêm vài năm về
bệnh của một bộ phận cơ thể. Có bác sĩ chuyên về ngoài da, dị ứng, đường
ruột, tim mạch, tiết niệu, xương khớp… Họ thường phải qua một kỳ thi để
được chính thức công nhận và giới thiệu tước vị chuyên môn.
Ngoài kiến thức rộng, cập nhật hóa về bệnh, họ còn sử dụng các kỹ
thuật khám phá, truy tầm nguyên nhân bệnh tân kỳ hơn, cần khéo tay, kinh
nghiệm hơn, như kỹ thuật thông tim, cắt một nhúm tế bào ở thận, ở phổi,
ở gan, nhìn vào ống phổi, ruột non, ruột già, hay khâu vết thương nhỏ
trên võng mạc. Ta cần các bác sĩ này khi có một bệnh hiếm hay biến chứng
mà bác sĩ gia đình ngần ngại giải quyết, hoặc sau thời gian điều trị,
bệnh không thuyên giảm, hoặc ta cần những thử nghiệm ngoài phạm vi của
bác sĩ gia đình.
Chúng ta đừng e dè khi gợi ý xin tham khảo chuyên môn vì bác sĩ gia
đình thường rất vui vẻ giới thiệu, hơn nữa họ cũng không muốn bị liên
lụy pháp lý nếu có chuyện gì xảy ra cho người bệnh.
Từ vài thập niên vừa qua, đã có một số bác sĩ chuyên về lão khoa,
hoặc qua vài năm huấn luyện chính thức, hoặc do kinh nghiệm điều trị
người già. Số bác sĩ này vẫn còn rất ít, nên thường được sử dụng trong
việc săn sóc người cao niên yếu đuối với một nhóm chuyên viên về lão
bệnh như người làm công tác xã hội, y tá, dinh dưỡng viên, chuyên viên
phục hồi, dược sĩ… để đánh giá khả năng sinh hoạt, tình trạng sức khỏe
của người già yếu đuối, đề nghị một chương trình săn sóc, điều trị hầu
mang lại một số chức năng cho quý vị này.
Là
bệnh nhân, đã có hẹn, thì giữ hẹn, tới sớm một chút để có thì giờ ngồi
nghỉ. Nếu không giữ được hẹn, nên thông báo trước 24 giờ để bệnh nhân
khác có thể được thay thế vào hẹn của mình. (Hình minh họa: Philippe
Huguen/AFP via Getty Images)
Lựa chọn bác sĩ
Nói đến đức độ, thì người ta lại nghĩ đến câu “lương y như từ mẫu.”
Người mẹ hiền đức ngọt ngào, nhẹ nhàng với con, nhưng không quá nuông
chiều, hiểu con, sẵn sàng cho con, chỉ dạy cho con từ đường đi nước
bước, sao cho con trở nên người. Một lương y cũng cần có một vài đức
tính của người mẹ hiền, vì khi đau ốm, ta trở nên bất lực và phụ thuộc,
như đứa trẻ thơ.
1-Kinh nghiệm. Tuổi tác không phải là bảo chứng của kinh nghiệm, vì người thầy thuốc
già vẫn có thể phạm cùng một lỗi lầm nhiều lần. Vì thế, khi có bệnh
khó, ta nên đến bác sĩ được biết có kinh nghiệm về bệnh đó, ta sẽ được
săn sóc đúng thầy đúng thuốc.
2- Danh tiếng. Nổi tiếng có thể hoặc xấu hoặc tốt. Nổi danh về y
nghiệp, về y đạo, về giao tế nhân sự. Nổi danh do nhận xét của bệnh
nhân, của đồng nghiệp, của nhân viên hợp tác.
Có những nhận xét công bằng, thì lại cũng có nhận xét thiên lệch, vì
những lý do khác nhau. Nhưng nhận xét nào được nhiều người nhắc đi nhắc
lại thì chắc là đáng tin cậy hơn.
3-Sẵn sàng phục vụ. Bệnh đến bất thường, kêu bác sĩ gia đình, chỉ
thấy tiếng máy trả lời bác sĩ đi nghỉ Hè, xin liên lạc với bác sĩ trực
phòng cấp cứu nhà thương, thì thực là quá thất vọng.
Bác sĩ đông khách, muốn xin hẹn phải đợi cả tháng, thì cũng rất bất tiện. Đâu còn cứu bệnh như cứu hỏa.
Thành ra, khi lựa các bác sĩ, nên hỏi rõ vài chi tiết như: chẳng may
đau ban đêm, tôi sẽ phải liên lạc với ai; bác sĩ nào trong nhóm sẽ trực
khi có khẩn cấp; khi nhập viện, bác sĩ có vào coi bệnh tôi mỗi ngày; khi
cần khám giữa kỳ hẹn, tôi có được gặp bác sĩ hay người khác.
Thường thường một nhóm nhỏ bác sĩ hợp tác với nhau, họ thay phiên
trực thì ta dễ có cơ hội gặp bác sĩ gia đình hay bác sĩ quen khi có khẩn
cấp, nhờ đó nhu cầu trị bệnh được thỏa mãn dễ dàng.
4-Tác phong. Như một từ mẫu, bác sĩ thường được bệnh nhân hy vọng là
sẽ đối xử với mình chu đáo, hiều biết, chịu đựng. Thầy thuốc tốt sẵn
sàng dành thêm chút thì giờ giải thích rõ bệnh trạng, diễn tiến, biến chứng, phương
cách trị liệu, đề phòng tái phát bằng ngôn ngữ dễ hiểu. Bệnh nhân sẽ
thỏa mãn hơn nếu được bác sĩ yêu cầu góp ý kiến vào việc trị bệnh.
Bác sĩ cũng đối xử không quá nghiêm khắc, lạnh nhạt, kiêu kỳ, coi nhẹ
nhân vị bệnh nhân. Khi bệnh nhân không vui lòng với thầy thuốc thì họ
đi kiếm bác sĩ khác, đổi bảo hiểm, lơ là với chỉ dẫn của bác sĩ. Nhiều
lúc bệnh nhân già ta cũng dễ dàng chấp nhận sự bẳn tính của người thầy
thuốc cao tuổi nhưng tận tâm và có khả năng.
Bổn phận bệnh nhân
Đã có những đòi hỏi của bệnh nhân với thầy thuốc, thì ngược lại thầy
thuốc cũng có vài yêu cầu mà ta cần đáp ứng, vì sau khi đã lựa chọn được
vị bác sĩ vừa ý, ta đã trở nên thân chủ của họ. Là người bệnh, người
hưởng thụ chăm sóc y tế, ta có những trách nhiệm phải thực hiện để việc
đi khám bác sĩ mang lại kết quả tốt đẹp.
1- Đã có hẹn, thì giữ hẹn, tới sớm một chút để có thì giờ ngồi nghỉ,
coi lại những điều cần khai với bác sĩ. Nếu không giữ được hẹn, nên
thông báo trước 24 giờ để bệnh nhân khác có thể được thay thế vào hẹn
của mình.
2- Viết sẵn chi tiết bệnh với triệu chứng, tập trung vào điểm chính
yếu, những thắc mắc muốn hỏi. Nếu có thể, ghi những bệnh quan trọng mà
người thân trong gia đình đã, đang có.
3- Mang tất cả các dược phẩm đang uống để bác sĩ coi, tránh trường hợp
cho thuốc giống nhau. Có thân nhân đi cùng cũng tốt vì người này nhắc
ta câu hỏi bị quên, hay nhắc lại cho ta lời chỉ dẫn của bác sĩ.
4- Trình bày chính xác, rõ ràng về bệnh trạng của mình. Thí dụ đau,
thì đau ở đâu, từ bao giờ, đau như thế nào, làm gì để bớt đau.
Đặt câu hỏi cho tới khi hiều rõ bệnh trạng, cũng như trả lời câu hỏi đầy đủ.
Yêu cầu bác sĩ giải thích theo ngôn từ bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ.
Sự hài lòng với săn sóc y tế tùy thuộc phần lớn vào hiệu quả sự thông cảm, đối thoại giữa thầy thuốc và bệnh nhân.
5- Về nhà, dùng thuốc, ăn uống, nghỉ ngơi đúng theo chỉ dẫn. Liên lạc
với bác sĩ ngay khi có triệu chứng bất thường hay có tác dụng không muốn
của dược phẩm.
6- Giữ đúng hẹn để được theo dõi kết quả việc trị liệu.
Trên đây là tương quan điều trị khoa học, giữa người có bệnh với người làm bớt bệnh.
Gần đây, khía cạnh tôn giáo trong tương quan này đã được nêu lên. Một
cuộc nghiên cứu phối hợp của nhiều trung tâm y học có uy tín ở Mỹ đã đi
đến kết luận là: tôn giáo có nhiều tác dụng tích cực vào sức khỏe của
người cao tuổi, nhất là về sức khỏe tâm thần; và thầy thuôc nên thảo
luận về tôn giáo với bệnh nhân, đôi khi cùng cầu nguyện, khi được yêu
cầu.
Người cao tuổi thường tin tưởng vào tôn giáo hay đi lễ. Có người cho
thân xác của mình là của Thượng Đế, mọi lạm dụng (như ghiền rượu,
thuốc), hay lơ là chăm sóc là ngược lại với giáo lý, đức tin, cho nên đi
trị bệnh là làm bổn phận đối với Thượng Đế. Cũng có người quá tin lại
nghĩ bệnh là do sự trừng phạt của Thượng Đế vì những tôi lỗi đã phạm,
nên chịu đựng sự trừng phạt mà không đi chữa trị, hoặc chờ khi được tha
thứ thì hết bệnh.
Vì tính cách quan trọng của tôn giáo với người cao tuổi, nên đã có đề
nghị trong chương trình đào tạo bác sĩ bao gồm phần nói đến ảnh hưởng
đó trong việc trị liệu,và nhấn mạnh tới tương quan giữa tôn giáo và sức
khỏe.
Mối tương quan thầy thuốc và bệnh nhân ở các quốc gia kỹ nghệ cao
ngày nay chịu nhiều chi phối bởi các nhóm tài phiệt, thương mại. Thầy
thuốc bị giới hạn trong việc trị bệnh, người bệnh bị hạn chế quyền được
chăm sóc y tế. Lương y trở thành người cung cấp dịch vụ, thân chủ là
giới thụ hưởng. Mối giao hảo trở nên lỏng lẻo, sòng phẳng, đôi khi căng
thẳng vì sơ hở là đôi bên đáo tụng đình, làm giàu cho nhóm người nhiều
mưu mẹo pháp lý.
Nhưng, để sinh tồn, đôi bên vẫn phải giữ tương quan tốt với nhau, để
một bênh hưởng lợi nhuận kinh tế, một bên có sức khỏe bình an.
Ngõ hầu cùng mong được an hưởng tuổi vàng.
BS. Nguyễn Ý Đức
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Sep/2020 lúc 7:45am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
|
Gởi ngày: 17/Sep/2020 lúc 7:24am |
Các
bạn già còn nhớ các quán cơm ngày xưa tại cầu Bắc Mỹ Thuận không? Họ
bày bếp nướng ngay trước cửa- Mỗi khi có khách bộ hành đi ngang qua thì
cô chủ quạt lia lịa trên lò cho mùi thịt sườn nướng bay quyện theo gió
thơm phức rất hấp dẫn. Cô em vừa cười duyên vừa mời mọc mình một cách
chân tình , “mời thầy cô dô ăn cơm đái ỉa”. Ôi quê hương miền Nam ta ngày ấy sao mà nó mộc mạc và thân thương quá…
Thôi
thì mình “dô làm bậy“ một dĩa cơm sườn ngon ơi là ngon và chơi luôn một
ly cối trà đá thì khỏe ngay lập tức. Lâu lâu ăn cơm chợ lạ miệng vẫn
thấy ngon hơn cơm nhà. Đó là chuyện của 45 năm về trước.
Puellement en 14 éditions, le Guide Michelin récompense les plus grands restaurants du monde en leur ***ignant d’une à trois Étoiles Michelin. Recevoir une seule Étoile Michelin est un honneur dont bien peu de restaurateurs peuvent se vanter
Chuyện thịt heo tại Canada
Bs Nguyễn Thượng Chánh tại nhà máy Olymel lớn nhứt Québec 2002
Tại sao người ta gọi thịt heo là thịt đỏ?
Máu đem oxy đến các bắp cơ và gắn vào chất myoglobine
để tạo nên màu đỏ hồng của thịt. Chính số lượng myoglobine trong các
bắp cơ quyết định màu đỏ của thịt. Thịt heo chứa rất nhiều myoglobine
khác với thịt gà hay cá.
Tại Canada được xếp vào thịt đỏ là: thịt heo, thịt bò, thịt dê cừu và đồ lòng của các thú nầy.
Thịt gà và thịt gà Tây được gọi là thịt trắng.
Thịt heo có bổ dưỡng hay không?
Ngày
xưa thịt heo thường chứa rất nhiều mỡ, nhưng từ vài chục năm nay nhờ
vào sự tiến bộ của ngành di truyền học, kỹ thuật phối giống đã tạo ra
được những dòng heo ít mỡ và đặc biệt là lớp mỡ lưng mỏng hơn ngày xưa.
Mỡ
nhiều hay ít cũng còn tùy theo các coupes của thịt. Nói chung tại các
nhà máy Canada, thịt heo thường bị lột bỏ da và lớp mỡ phía ngoài thịt
cũng bị lạng mỏng bớt đi rất nhiều.
Thịt xay (ground pork, porc haché)
bán ngoài chợ thường là loại thịt hạ phẩm, chứa rất nhiều mỡ. Thịt xay
được làm từ các loại thịt vụn sau khi đã được lóc bỏ xương.
Thịt
heo chứa nhiều vitamins nhóm B, như B1, B2 và Niacine. Thịt heo cũng
chứa nhiều chất kẽm (Zn), pot***ium và phosphore. Giá trị dinh dưỡng
thay đổi tùy theo thịt có nhiều hoặc ít mỡ và cũng tùy theo loại coupe nữa.
Thịt heo chúng ta mua trong siêu thị thuộc heo thịt (market hog, porc de marché)
hạ thịt lúc 5 tháng tuổi với cân đứng khoảng 110-130 kg và khi làm xong
thì quầy thịt cân nặng lối 85 kg. Tất cả heo đực đều bị thiến lúc nhỏ,
nếu chẳng may có heo tơ nào còn sót dịch hoàn lại lúc hạ thịt thì quày
thịt sẽ bị đóng dấu chữ B (boar) màu xanh để tránh được gởi đi xuất cảng.
Heo nái và heo nọc già cho một loại thịt dai và rất hôi vì vậy chỉ được sử dụng trong công nghiệp biến chế thành jambon, saucisse, bologna…mà thôi.
Thịt heo có chứa chất tồn dư kháng sinh không?
Trong
chăn nuôi, 90% chất kháng sinh được trộn vào thức ăn hỗn hợp của heo
nhằm mục dích để ngừa bệnh và nhứt là để thúc đẩy sự tăng trưởng (growth promoter). Phần còn lại, thuốc kháng sinh được sử dụng để trị bệnh.
Theo
luật kiểm soát thực phẩm, thịt bán ra phải được trong lành cũng như
không được chứa chất tồn dư kháng sinh. Trước khi hạ thịt đôi ba ngày,
chủ nuôi có bổn phận phải ngưng sử dụng thuốc kháng sinh để thịt có thời
gian loại bỏ hết chất tồn dư. Thời gian ngưng thuốc này được gọi là withdrawal period hay période de retrait
và dài hay ngắn tùy từng loại thuốc sử dụng. Tại nhà máy, các quầy thịt
nào có vẻ khả nghi đều bị bác sĩ thú y giữ lại để làm test thử nghiệm
sự hiện diện của tồn dư kháng sinh. Nếu kết quả dương tính, quầy thịt sẽ
bị hủy bỏ. Ngoài ra cũng còn có những chương trình kiểm soát ngẩu nhiên
(random test) và định kỳ thường xuyên để thử nghiệm mỗi ngày một số quầy thịt nhất định nào đó.
Còn
vấn đề tồn dư hormones tăng trưởng trong thịt heo không cần phải đặt ra
vì tại Canada không có một hormone nào được cơ quan Health Canada phê
chuẩn chấp thuận cho bán để nuôi heo cả. Hormone chỉ được sử dụng trong
kỹ nghệ chăn nuôi bò thịt mà thôi.
Vậy lỡ ăn thịt heo có chứa tồn dư kháng sinh thì sao? Đây là câu hỏi mà mọi người thường đặt ra.
Thịt có chứa chất kháng sinh có thể gây hại cho sức khỏe bằng những cách sau đây:
– Gây ra dị ứng: thí dụ Penicilline sẽ chuyển ra thành acide Pénicilline là một chất gây dị ứng hay allergen.
– Tạo ra chủng vi khuẩn kháng kháng sinh (antibiorésistance), sau nầy dễ sinh ra hiện tượng lờn thuốc.
– Một vài loại thuốc sử dụng trong chăn nuôi heo bị nghi ngờ là có thể gây cancer cho nguời. Thuốc Carbadox là một thí dụ, nay đã bị cấm sử dụng tại Canada và tại rất nhiều quốc gia khác trên thế giới.
“The
Canadian Pork Council is trying to persuade Health Canada to go easy on
further restrictions on Carbadox antibiotics because of trade
implications with the US.
The
issue is complicated and carries financial implications for Canada’s
pig producers. They cannot use Carbadox, whereas their competitors in
the US and Mexico can.
Canada
prohibited the antibiotics from feed in 2001, because the antibiotics
can break down into metabolites that cause cancer. Residues, however,
continued to show up in Canadian-produced pork. That prompted Health Canada to
adopt tighter restrictions in the spring of 2004, in effect barring
farmers from importing these antibiotics for their own on-farm use.
…In the European Union, Carbadox has been forbidden at any level”.( by EDITOR PIGPROGRESS Aug 23, 2006)
Thịt heo có thể bị nhiễm những loại vi khuẩn nào?
Nói
chung cũng như bất kỳ các loại thịt khác, thịt heo nếu sản xuất hay bảo
quản không đúng cách thì rất có thể bị nhiễm các loại vi khuẩn như E.coli, Salmonella sp, Staphylococcus aureus, Listeria monocytogenes
vv…Ăn phải thịt nhiễm trùng chúng ta sẽ bị ngộ độc thực phẩm biểu hiện
qua các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, v.v…
Thu hồi thịt heo tươi nghi nhiễm khuẩn E.coli
“Cơ quan thanh tra thực phẩm Canada (Ca
nadian
Food Inspection Agency- CFIA) đã công bố lệnh thu hồi thịt heo tươi do
hai công ty V&T Meat and Food và Hiep Thanh Trading sản xuất.
Các sản phẩm này được phân phối trên thị trường Calgary và Edmonton thuộc Alberta.
Theo
thông báo của CFIA, công ty V&T và Hiep Thanh Trading sẽ phải thu
hồi toàn bộ lô hàng thịt heo đã bán ra trong khoảng thời gian từ 10/7
đến ngày 3/9.
Những
lô hàng nhiễm khuẩn trên chỉ bán ra trong phạm vi tỉnh bang Alberta.
Tuy nhiên rất có thể các đại lý đã bán lại lô thịt heo này tới các địa
phương khác.
CFIA
kêu gọi người tiêu thụ, nhà hàng, cơ sở sản xuất và chế biến không nên
sử dụng thịt heo nói trên…”(Ngưng trích Thời Báo-Sept 8, 2014)
“Tất
cả hịt heo do V&T sản xuất tử giữa tháng 7 đều bị thu hồi vì nhiễm
vi khuẩn E.coli độc hại 0157:H7 . Đã có 100 người ngã bệnh, 19 người
trong tình trạng nặng cần phải nằm bệnh viện và 5 bệnh nhân bị suy thận
mãn tính”.(Theo Calgary Herald,sept 8, 2014)
Thịt heo gạo là gì?
Hơn 100 người ở Bình Phước nhiễm bệnh sán dây lợn- November 7, 2018
Thịt heo gạo (Photo NTC) Đây là bệnh cysticercosis, thịt heo chứa nang sán dây Taenia solium.
Video: Parasites Photos DrTrần Mạnh Ngô & Nguyễn Thượng Chánh
* Người ta thường gọi đó là thịt heo gạo (measly pork, ladrerie) vì nó chứa rất nhiều nang (cyst) nhỏ trong bóng như hạt gạo. Heo là ký chủ trung gian (intermediate host).Trong mỗi nang có chứa một cái đầu (scolex) của sán..
Khi chúng ta ăn phải thịt heo gạo nấu không đủ chín, ấu trùng sẽ nở ra thành sán dây trưởng thành và đặc biệt là chỉ có một con duy nhất dài từ 2 đến 7 mét, bởi vậy người ta còn gọi nó là “sán cô đơn” vers solitaire.
Người là ký chủ thật sự (definitive host) của sán trưởng thành và nó có thể sống cả chục năm trong ruột chúng ta…
Sán teania solium (trưởng thành) trong ruột của người
Khi chúng ta ị, một số đốt (proglottids) cuối cùng của sán đứt ra và theo phân ra ngoài. Các đốt nầy đều chứa đầy ấp trứng bên trong.
Lúc đi toilet nếu để ý kỹ chúng ta có thể nhận thấy một số đốt màu trắng lẫn lộn trong phân.
Tại
Việt Nam, heo đi ăn bên ngoài chuồng, trong vườn, trong cỏ cũng như
việc sử dụng phân người trong việc trồng trặt là nguyên nhân chính của
bệnh heo gạo.
*Heo
ăn bẩn nhiễm trứng sán. Trứng nở thành ấu trùng trong ruột rồi từ đó đi
định vị tứ tung trong thịt, trong hoành cách mô, trong tim, trong lưỡi
heo và kết thành những nang nhỏ như hạt gạo, khoa học gọi là cysticercus cellulosae.
Heo
là ký chủ trung gian cho nên sán chỉ ở giai đoạn ấu trùng mà thôi chớ
không thể phát triển tiếp để trở thành con sán dây trưởng thành được.
*Người ăn nhầm trứng sán thì sao?
Có
thể do ăn rau cải bẩn nhiễm trứng sán từ phân người. Trứng có thể nhiễm
vào nguồn nước, chén bát, mâm thớt dơ bẩn… Cũng có thể chính bệnh nhân
đang mang sẵn sán trưởng thành trong ruột. Đi cầu dính tay, hay bị ngứa
hậu môn nên gãi chổ đó rồi bóc thức ăn đưa vào miệng…ăn luôn trứng
sán.Trường hợp nầy khoa học gọi là tự nhiễm (autoinfection).
Trứng chỉ nở ra thành ấu trùng trong ruột mà thôi chớ không bao giờ phát triển ra thành sán trưởng thành được.
Ấu
trùng từ ruột, theo đường máu sẽ tìm cách đi định vị dưới dạng những
nang nhỏ khắp cơ thể của chúng ta. Khoa học gọi đây là bệnh human cysticercosis.
Nếu ấu trùng kết nang trong hệ thần kinh trung ương, chẳng hạn như trong tủy sống hay trong não thì gọi là bệnh neurocysticercosis, rất ư là nguy hiểm cho sức khỏe.
Bệnh neurocysticercosis là một trong nhiều nguyên nhân gây động kinh (epilepsy) và các triệu chứng thần kinh khác ở người tại một số quốc gia Phi châu, Nam Mỹ và cả Việt Nam.
Xem Video Neurocysticercosis ở người (Slideshow)
How do humans get cysticercosis?
People get cysticercosis when they swallow T. solium eggs
that are p***ed in the feces of a human with a tapeworm. Tapeworm eggs
are spread through food, water, or surfaces contaminated with feces.
Humans swallow the eggs when they eat contaminated food or put
contaminated fingers in their mouth. Importantly, someone with a
tapeworm can infect him-or herself with tapeworm eggs (this is called
autoinfection), and can infect others in the family. Eating pork cannot
give you cysticercosis.(CDC) http://www.cdc.gov/parasites/cysticercosis/gen_info/faqs.html
Ngoài
việc nấu nướng ra, việc làm đông lạnh thịt ở nhiệt độ thật thấp trừ 20
độ C trong 10 ngày (chỉ có thể làm ở nhà máy mà thôi) sẽ hủy diệt được
ấu trùng sán. Ăn thịt nấu thật chín thì vô hại!
Trong
23 năm làm việc trong ngành khám thịt tại Canada, tác giả chưa từng
nghe báo cáo hay chính mắt thấy một ca thịt heo gạo nào xảy ra tại xứ
nầy cả, có lẽ nhờ sự kiện heo Canada chỉ được nuôi nhốt trong chuồng,
chớ không được thả rong ra ngoài vườn để được tự do ăn bẩn như ở VN.
Ngoài ra luật Canada cũng cấm ngặt việc dùng phân người (còn gọi là phân bắc) để trồng rau cải.
Nếu có đi du lịch ViệtNam, Á châu, Nam Mỹ và Phi châu thì tốt hơn nên ăn thịt (bất cứ thịt gì) đã được nấu thật chín rồi.
« Theo tin VietnamNet 26/9/2006,Tiến sĩ Đặng thị Cẩm Thạch, TrưởngPhòng Ký Sinh Trùng (Viện Sốt Rét,Ký Sinh Trùng-Côn Trùng trung ương) cho biết tình hình nhiễm giun sán rất nghiêm trọng ở Việtnam.
Có
lối 60 triệu người VN đã bị nhiễm giun sán.Thống kê của viện SRKST-CT-
TƯ từ năm 2000 đến 2004 có trên 700 ca bệnh ấu trùng sán heo, trong đó
có 84% trường hợp bị tổn thương ở não với các triệu chứng như: động
kinh, liệt, mù mắt, tăng áp lực nội sọ…và tử vong. .. »
*Thịt heo chứa ấu trùng giun baoTrichinella spiralis.
Đây
là một bệnh ký sinh trùng khác của heo. Mắt thường không thể nhìn thấy
loại giun nầy trong miếng thịt được. Bệnh rất hiếm thấy xảy ra cho heo
tại Canada.
Cục
kiểm tra thực phẩm cũng thường xuyên cho thực hiện các loại test xét
nghiệm qua kính hiển vi và test huyết thanh học để tìm ấu trùng Trichinella spiralis ở thịt heo và thịt ngựa tại các lò sát sinh.
Kết quả đều âm tính. Không cần phải lo nếu dùng thịt tại Canada. Bệnh do thịt có Trichinella spiralis chỉ thấy báo cáo xảy ra trên miền cực bắc Canada, nơi các sắc dân Inuits sinh sống.
Tại Canada, mỗi năm có vào khoảng vài chục người chết vì bệnh bệnh giun bao. Đa số nạn nhân là thổ dân Indien và dân thiểu số Esquimaux ở vùng North West Territories về phía cực Bắc của lãnh thổ.
Có lẽ tập tục ăn thịt thú rừng như thịt gấu chẳng hạn là nguyên nhân chính để làm cho họ dễ nhiễm bệnh!
Ăn thịt heo bệnh, nếu nấu không thật chín, chúng ta sẽ bị nhiễm bệnh trichinosis.
Acide trong bao tử sẽ làm tan các vỏ nang và phóng thích ấu trùng Trichinella spiralis ra ngoài và trở thành giun trưởng thành (dài từ 1,5mm tới 3,5mm) trong ruột.
Giun đẻ trứng, trứng nở thành ấu trùng, và qua đường bạch huyết đi định vị khắp nơi.
Nếu
bị nhiễm nhẹ thì không thấy có triệu chứng gì cả. Triệu chứng thường
thấy xuất hiện 5-15 ngày sau khi dùng thịt bị nhiễm giun bao. Nếu khá
nặng, bệnh nhân sẽ cảm thấy bị mệt mỏi, đau nhức các bắp thịt và các
khớp xương, mí mắt sưng phù và mắt có thể bị nhức nhối.
Trường hợp nhiễm thật nặng thì sẽ có biến chứng tim và não.
Ngoài các loại thú rừng ra còn có một loài động vật khác, đó là con sư tử biển (sea lion, morse) ở Bắc cực cũng có tỉ lệ nhiễm bệnh giun bao rất cao.
Từ năm 2001, trên 18 triệu heo (kể cả heo rừng nuôi) đã được hạ thịt tại các nhà máy Canada.
Các tests xét nghiệm huyết thanh học đều không tìm thấy sự hiện diện của bệnh trichinosis ở số heo kể trên.
Riêng
đối với thịt ngựa sản xuất tại Canada mà phần lớn được xuất cảng sang
Pháp, Liên Âu, bắt buộc mỗi quầy thịt đều phải được kiểm tra ngay tại
nhà máy sự hiện diện của ký sinh trùng giun bao Trichinella spiralis.
Người ta sử dụng phương pháp tiêu hóa mẫu thịt bằng enzyme, sau đó ký sinh trùng sẽ được tìm dưới kính phóng đại đặc biệt.
Thịt nấu thật chín thì ăn vô hại…
Tại
Canada, tháng giêng năm 2013 vừa qua có báo cáo về một trường hợp thịt
heo bị nhiễm giun bao. Đây là ca heo được nuôi và làm thịt và tiêu thụ
ngay tại trại.
The
most recent Canadian occurance of trichinellosis in swine occurred in
January 2013 in a pig raised on a non-commercial farm. It was
slaughtered and consumed on the farm. No product entered the commercial
food system. (CFIA)
Bệnh giun bao đã thấy báo cáo tại Sơn La, Bắc Việt Nam.
“Theo nguồn tin riêng của HNMO, mới đây sau
khi ăn tiết canh và món lạp (gỏi thịt lợn), nhiều người dân bản Păng
Khúa, xã Làng Chếu, tỉnh Sơn La đột nhiêu xuất hiện “căn bệnh lạ” với
các triệu chứng ban đầu như đau đầu, nhức mỏi khắp người. Tính đến
22/6/2008, bản đã có 2 người đã tử vong và 22 người khác mắc bệnh.
Theo
xét nghiệm tại Viện Lâm sàng các bệnh nhiệt đới, các bệnh nhân đều đã
bị nhiễm giun bao do ăn phải thịt lợn mang ấu trùng giun. Đây là lần đầu
tiên bệnh giun bao xuất hiện ở Sơn La.” (Ngưng trích HNMO)
Ấu trùng giun bao Trichinella spiralis trong sớ thịt heo, nhìn qua kính hiển vi
Nhà máy làm thịt heo tại Canada
Có hai loại nhà máy;
-Nhà
máy lớn thuộc thẩm quyền của chánh phủ liên bang Canada. Mỗi ngày giết 4
000- 5 000 heo.Luật lệ và kiểm soát rất chặt chẽ. Có quyền xuất cảng
thịt đi khắp thế giới.
-Nhà
máy nhỏ, luật lệ kiểm soát thú y lỏng lẻo hơn. Mỗi ngày giết trên dưới
100 con heo là cùng. Thịt không được quyền xuất cảng, nhưng chỉ bán
trong tỉnh mà thôi.
Các xe camion chở heo ngày đêm không ngớt nối đuôi nhau đổ heo xuống khu tiếp nhận thường nằm ở phía sau lò sát sanh.
được
Tất cả đều là heo thịt y chang nhau nghĩa là những heo tơ lối 5 tháng
tuổi và có cân đứng khoảng 120-130 kg. Tất cả heo đều đã được chủ nuôi
dống dấu số xâm trên lưng đê dễ nhận diện sau khi giết thịt. Mục đích là
để nhà máy biết nguồn gốc con vật là của ai, để trả tiền hay không khi
heo có vấn đề sau khi bị hạ thịt.
Trường hợp heo bị Bs thú y hủy bỏ condemned
vì bệnh tật nào đó thì nhà máy không có trả tiền cho người chủ con vật.
Ngược lại nếu là do lỗi của nhà máy (chẳng hạng như ca quầy thịt có màu
quá đỏ vì thọt huyết không hoàn hảo (malsaignée), hay quầy thịt bị quá chín do nhiệt độ nước sôi quá cao (suréchaudage) thì là lỗi của nhà máy. Người chủ vẫn được trả tiền như thường.
Heo được nhốt vào những ngăn riêng biệt và không được quá 50 con cho mỗi
ngăn. Hệ thống nước dọc theo các vách được mở ra và phun một màng sương
mỏng cho heo được mát, và khỏe nhờ vậy phẩm chất thịt sẽ được tốt hơn.
Heo nào có vẻ yếu què quặt, bệnh hoạn thì bị nhốt riêng ra chờ sự phán
quyết của bác sĩ thú y. Nếu trường hợp bệnh nặng con vật sẽ bị giết bỏ
ngay tại chỗ, còn các trường hợp khác thì heo được đánh dấu xâm trên da,
thú y sĩ ghi chẩn đoán sơ khởi vào phiếu khám bệnh trước khi con vật bị
hạ thịt.Tiếng trong nghề gọi là làm antemortem inspection lúc con vật còn sống…
Lúc heo được mổ ra sẽ khám kỹ hơn và gọi là làm postmortem inspection.
Tất cả các công đoạn sản xuất đều theo phương pháp dây chuyền. Phần lớn
đều làm bằng máy, về phần công nhân mỗi người sẽ thực hiện một động tác
nhất định nào đó mà thôi…
Vận tốc vận hành trung bình là 400-500 con heo trong một giờ.
Trước khi làm thịt, tất cả heo của từng ngăn chuồng được lùa vào một
hành lang nhỏ lần lần khép hẹp lại chỉ đủ chỗ cho con vật đi tới mà thôi
và không thể nào quay trở lại được.
Đến cuối đường có một khung sắt hạ xuống cài cứng cổ con vật, và một
dụng cụ khác chích điện phía cổ sau 2 bên lỗ tai của con vật…
Heo trân mình rồi bất tỉnh ngay lập tức. Đây là phương pháp “giết nhân đạo” (humane slaughter) (sic!) quy định bởi luật thú y. Con vật sẽ không còn cảm giác đau đớn lúc bị thọt huyết…
Cũng có nơi, thay gì sử dụng điện, họ sử dụng phương pháp dùng khí
carbon dioxide CO2 để làm con vật bất tỉnh rồi sau đó mới thọt huyết….
Kế
tiếp là heo được móc ngược 2 giò sau lên trên cao, sau đó dây chuyền
kéo chúng chạy qua bể nuớc sôi dài 15 mét, xong chạy tiếp qua dụng cụ
đánh lông, kế là chạy ngang qua một hệ thống phung lửa để đốt hết các
lông còn sót trên thân heo. Mỗi quầy thịt được máy đánh số xâm tự động và
theo thứ tự (séquence 1-2-3-4 vv…)
Đến đây, thì một công nhân mổ bụng con vật từ trên xuống tới dưới qua
khỏi lồng ngực. Ruột, gan, tim, phổi đựợc móc ra để vào một cái khay bên
dưới và khay này sẽ chạy song song cùng một vận tốc với quầy thịt tương
ứng. Kế đến một công nhân dùng cưa tròn xẻ dọc theo xương sống để phân quầy
thịt ra làm 2 phần chỉ còn dính có cái đầu ở phía dưới mà thôi. Cũng có
nơi thay gì xẻ quầy thịt bằng tay, nhà máy sử dụng robot để làm công
việc nầy.
Tại vị trí khám, một inspector hay kiểm tra viên chuyên lo khám khay đồ
lòng, và một người khác thì chỉ khám quầy thịt mà thôi. Mỗi inspector
chỉ có lối 8 giây để kiểm soát một con heo. Trường hợp có dấu hiệu bệnh
tật, hoặc có điểm gì khác thường, inspector sẽ làm dấu cho hủy bỏ khay
đồ lòng và đánh dấu đặc biệt lên trên quầy thịt, để sau đó được đổỉ exit
chạy đến vị trí khám của bác sĩ thú y…
Tại đây thú y sĩ có thể cho cắt bỏ phần thịt bịnh, hoặc hủy bỏ hoàn toàn quầy thịt nếu xét thấy cần.
Đôi khi quầy thịt bị giam lại trong nhiều ngày để chờ kết quả xét nghiệm của labo.
Trường hợp bình thường, thì nhà máy sẽ giữ lại tim, gan và thận để bán
cho người tiêu thụ Canada. Ruột, bao tử, phổi và lá lách đều bị bỏ đi để
làm thức ăn cho gia súc…
Nếu có yêu cầu đặc biệt để phục vụ một sắc tộc nào đó, các món đồ lòng
như phổi, bao tử, tử cung cũng được giữ lại để bán. Tập tục ăn uống của
Canada có khác hơn VN mình nên đầu heo không được bán trong siêu thị
nhưng được lóc và nạo lấy thịt hai bên má và thịt nầy sau đó được trộn
chung với các phần thịt vụng khác để xay ra dùng trong kỹ nghệ biến chế
làm saucisse, v.v…
Qua khỏi vị trí khám của inspector, quầy thịt được máy đóng dấu vào 2
bên lưng. Đến đây thì quầy thịt được chính thức xem là trong lành và
được áp pru cho phép bán.
Các quầy thịt được giữ trong phòng lạnh qua đêm, hôm sau thì được phân
phối đến các nhà máy chuyên phân cắt xẻ ra thành những coupes khác nhau
để bán, hoặc gởi đến nhà máy biến chế…
Về phương diện giao thương quốc tế, chỉ được xuất cảng thịt heo tơ sản
xuất tại các nhà máy thuộc quyền kiểm soát liên bang (federal) như cơ
quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA) mà thôi!
Các nhà máy thuộc thẩm quyền của tỉnh bang (provincial) không được quyền xuất cảng sản phẩm ra khỏi Canada.
Thịt heo bán trong các siêu thị Canada
Tất cả thịt được sản xuất tại các nhà máy thì thuộc quyền kiểm soát
của chính phủ liên bang Canada. Thịt heo nái và thịt heo nọc không được
phép bán như thịt tươi, và chỉ được sử dụng để biến chế làm lạp xưởng,
saucisse, bolona, hot dog mà thôi.
Tại Canada, thịt heo được xả ra theo những coupes khác nhau rất tiện cho người mua.
Thịt ngon nhất, mềm nhất vẫn là thịt vùng lưng, thịt thăn…Dai hơn, và rẻ
tiền hơn là thịt mông, thịt đùi, thịt vai. Giá cả vì vậy cũng thay đổi
tùy theo coupes.
Theo kỹ nghệ thịt thì miếng thịt nào cho thấy có chen nhiều sớ mỡ ở giữa các sớ thịt (gọi là persillé, marbling) là thịt ngon nhứt và mềm nhứt!
Thịt heo mua ở các chợ Á đông thường được bán theo các coupes của người VN và rất tiện để luộc hay kho theo kiểu VN mình. Heo con, và heo sữa (cochon de lait) là những commandes đặc biệt thẳng từ các nhà máy thịt.
Mua xương, hay giò heo mình có thể nhờ họ cắt ra từng khúc theo ý muốn. Nên
lựa một miếng thịt ít mỡ phía ngoài. Khi sờ vào thịt phải có vẻ chắc
nịch, màu hồng hoặc hơi trắng nhạt. Thường thì thịt thăn có màu nhạt hơn
thịt bắp đùi hay thịt bả vai. Nếu thịt đã ngã màu xám xịt đó là thịt
xấu.
Trong chợ, nên mua thịt sau chót nhất trước khi ra quày trả tiền. Nên bỏ
thịt vào túi nylon để tránh nước thịt có thể chảy ra làm nhiễm rau quả.
Về
đến nhà nên cất thịt ngay vào ngăn lạnh và nên sử dụng trong vòng 3
ngày mà thôi. Muốn giữ thịt trong thời gian lâu hơn thì nên phân cắt
thịt ra thành từng phần nhỏ đủ ăn cho một ngày, vô bao nylon, và đem cất
hết trong ngăn đông lạnh. Khi sử dụng, chỉ cần đem ra một bao mà thôi.
Đồ lòng (abats, offals)
Đồ
lòng heo được quy định nằm trong nhóm thịt đỏ. Tại Canada, luật kiểm
tra thực phẩm chỉ cho phép giữ lại tim, gan, thận để bán cho người tiêu
thụ. Còn lại mấy thứ khác đều bị bỏ đi hay gởi đi biến chế thành thức ăn
cho gia súc. Nếu có yêu cầu của các nhóm sắc tộc, một số đồ lòng như
bao tử, dồi trường (tử cung heo cái), phèo (ruột non), phổi cũng có thể
được giữ lại để bán…
Khuynh hướng mới: thịt hữu cơ (Bio, Organic).
Cùng với tất cả những hỉ nộ ái ố do thịt gây ra, giới
chăn nuôi đã đưa ra một phương hướng giải quyết mới, đó là thịt hữu cơ
hay thịt Bio (organic).Đây là loại thịt có được từ súc vật nuôi dưỡng một cách thiên nhiên, không sử dụng hóa chất và thuốc kháng sinh.
Đúng là kiểu chăn nuôi ở miền quê Việt Nam 4-5 chục năm về trước.
Thịt
Bio là sản phẩm do giới chăn nuôi nghĩ ra ra nhằm mục đích kinh doanh
mà thôi. Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm của chính phủ Canada không có dính
dáng gì hết vào lãnh vực nầy!
Một
số công ty tư nhân đứng ra kiểm soát, và cấp giấy chứng nhận sản phẩm
đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được mang danh xưng Bio trên nhãn
hiệu. Tại Québec, các tổ chức đó là Orgnic Crop Improvement ***ociation (OCIA), Québec Vrai, Garantie BIO, và Quality ***urance International.
Xin đơn cử sau đây một vài điều kiện để một sản phẩm có thể được chứng nhận là Bio: con vật không được uống nước có chất Chlore,
không dùng bột thịt, mỡ súc vật để trộn trong thức ăn hỗn hợp nuôi thú,
không xài thuốc trừ sâu, không bón phân hóa học trên đồng cỏ, gia súc
phải có sân vận động thoải mái, không được dùng hormone để kích thích
tăng trưởng, không dùng thuốc kháng sinh cũng như hóa chất trong việc
phòng và chữa bệnh cho thú, và cuối cùng là không được nuôi những thú đã
được chuyển đổi gène (GMO).
Bởi
những đòi hỏi gắt gao như vậy nên năng xuất của sản phẩm Bio rất kém,
nhưng giá cả bán ra rất đắt từ 20% đến 100% cao hơn sản phẩm bình thường
cùng loại.
Vấn
đề Bio hiện là đầu mối tranh cãi giữa nhiều phe nhóm kể cả giữa các nhà
khoa học với nhau. Có người thuận thì cũng có người khác chống lại.
Rất mắc tiền–Thịt bio, thăn (filet) heo
Phe
thuận thì cho rằng sản phẩm Bio ăn ngon hơn, bổ hơn, tốt để bảo vệ môi
sinh, và an toàn cho sức khỏe hơn sản phẩm bình thường.
Phe
chống thì nói là sản phẩm Bio cũng chẳng có gì khác biệt, nhưng giá cả
của nó lại quá đắt và cũng không có cách gì để chứng minh đó là Bio thật
sự cả, mà chắc gì đó không phải là hàng dỏm. Có thật sự bio hay không thì chỉ có Ông Trời và chủ nuôi mới biết mà thôi.
Tại các siêu thị Canada, đa số thịt Bio đều được bán ra dưới dạng đông lạnh.
Ăn thịt hay không ăn thịt?
Câu trả lời có khác nhau hay không là tùy theo cái nhìn và sở thích của mỗi người.
Ngày
nay, rất nhiều nhà khoa học đều khuyên chúng ta nên giảm bớt việc ăn
thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu, đồ lòng, gan, tim, thận…).
Nên ăn thịt nạc, hoặc thay thế bằng thịt trắng như thịt gà đã lóc da bỏ mỡ, và cũng nên ăn cá 2-3 lần trong tuần.
Nên dùng thức ăn đa dạng, ít mỡ dầu, ít muối, ít đường, nhiều chất xơ,
nhiều rau quả tươi 10 portions, servings tức 10 phần chuẩn trong một
ngày (1phần tương đương ½ tách rau tươi hoặc 1 trái pomme trung bình),
nhiều đậu và hạt.
Bớt rượu, bớt cà phê, bỏ thuốc lá và phải nhớ vận động tập thể dục đều đặn và thường xuyên./.
Tham khảo
– Video:Pig slaughter- Comparison of different stunning methods used
-CFIA-Trichinellosis – Fact Sheet
-CDC –How do humans get cysticercosis
-Food safety officials pull more pork from stores as investigation expands
BY MATT MCCLURE, CALGARY HERALD SEPTEMBER 8, 2014 )
Montreal
Nguyễn Thượng Chánh
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
|
Gởi ngày: 21/Sep/2020 lúc 12:50pm |
Bạn bị đau xương khớp cổ vai
gáy, đau lưng và đầu gối? Bạn đang tìm một bài tập thể dục giúp phòng và
chữa bệnh này? Đây chính là gợi ý tuyệt vời nhất mà bạn nên thử tập
ngay.
Bệnh đau xương khớp không quá nguy hiểm, nhưng giảm chất lượng sống, bạn đừng chủ quan.
Bệnh
xương khớp được xem là một trong những căn bệnh phổ biến, càng ngày
càng trẻ hóa với tỉ lệ người mắc bệnh tăng cao. Nhưng do các dấu hiệu
bệnh xuất hiện ở mức từ nhẹ đến nặng, từ không rõ ràng đến đau đớn có
trải qua một quãng thời gian khá dài nên nhiều người hầu như không để ý,
thậm chí coi nhẹ căn bệnh nguy hiểm này.
Tuy nhiên theo các
chuyên gia sức khỏe, đây là căn bệnh có thể làm giảm chất lượng sống,
gây đau đớn và rất khó để điều trị triệt để trong khi bệnh có xu hướng
nặng lên theo thời gian. Cách tốt nhất để giải quyết các chứng đau xương
khớp chính là tập thể dục.
Trong muôn vàn bài tập, bạn biết
chọn tập động tác nào khi thời gian có hạn mà lại muốn tăng nhanh hiệu
quả tập luyện? Hãy tham khảo 5 động tác đơn giản dưới đây. Nếu bạn muốn
cải thiện các chứng đau, việc của bạn là phải kiên trì tập, sáng và tối
hoặc bất kỳ lúc nào rảnh rỗi.
Bệnh đau cổ vai gáy, đau lưng hay
đầu gối… không chỉ tác động tại điểm đau, mà còn là nguyên nhân gây ra
các bệnh khác như đau đầu chóng mặt, ù tai, đi lại khó khăn, vóc dáng vì ảnh hưởng, khiến cho người bệnh khó chịu và khổ sở.
Bài tập sau đây được xem là thuốc "giảm đau" cho những người bị bệnh về xương khớp
Mỗi ngày bạn nên tập động tác này đều đặn, vừa đi bộ vừa giơ tay lên cao. Đi khoảng 200 bước.
Bài
tập này có tác dụng phòng và trị bệnh đau cổ. Ngoài ra, trong khi làm
việc, cứ ngồi 1 giờ đồng hồ, bạn nên dừng lại hoạt động một chút, tập
xoay vai cổ, bất kỳ lúc nào rảnh có thể xoa bóp vùng cổ, xoa cho đến khi
nóng ấm vùng da bên ngoài là sẽ có hiệu quả.
2. Bài tập chữa đau đốt sống lưng
Bị đau đốt
sống lưng, khó chịu vùng lưng dưới, người mỏi thường xuyên, bạn có thể
tập động tác này. Người muốn phòng bệnh cũng nên tập, vừa tránh bệnh,
vừa đẹp dáng.
Thay đổi chân khi tập, lặp lại 50 lần. Mỗi ngày tập 2 lần vào buổi sáng và tối.
Khi
tập động tác đá chân ra sau, có thể cảm thấy vùng lưng dưới hơi đau một
chút. Nếu người bị đau nhiều hoặc muốn tăng hiệu quả nhanh, nên tập bất
kỳ thời gian nào trong ngày, bất kỳ nơi nào bạn đứng và có thời gian
rảnh. Đá chân khoảng 100 cái.
3. Bài tập bảo vệ các khớp
Thực hiện động tác đứng dựa vào tường hoặc một mặt phẳng, ngồi xuống đứng lên khoảng 30 lần. Có thể tập 2 lần vào sáng và tối.
4. Bài tập chữa đau đầu gối
Khi bị đau đầu gối,
mỏi hoặc khó chịu, kể cả người đi lại nhiều, ngồi nhiều, muốn phòng
chữa đau đầu gối có thể thực hiện động tác vỗ đầu gối bằng cách dùng 2
tay vỗ nhẹ vào phía trước đầu gối, phía 2 bên và phía sau. Mỗi một vị
trí quanh đầu gối nên vỗ nhẹ khoảng 30 cái.
Việc vỗ đầu gối
tưởng đơn giản nhưng nếu làm thường xuyên, sẽ giúp cho các kinh mạch và
mạch máu được kích thích, giúp chúng hoạt động hiệu quả, máu lưu thông
thuận lợi, giúp tăng cường và sản xuất dịch ở xương khớp.
Khi
bạn ngồi trên xe ô tô hoặc ngồi xem ti vi cũng có thể xoa bóp vùng đùi,
chân, đầu gối, việc này vô cùng hữu ích trong việc giúp sản sinh dịch
cung cấp cho khớp và tuần hoàn máu nhanh hơn, giảm đau hiệu quả.
5. Bài tập chữa đau xương hông
Đứng thẳng
người, dang hay tay ngang sang hai bên thẳng bằng vai. Đứng một chân làm
trụ, nhấc chân còn lại đá sang hai bên. Mỗi lần tập tối thiểu kéo dài
khoảng 1 phút, mỗi ngày nên tập từ 2-3 lần.
Ngoài ra, hàng ngày,
bất kỳ khi nào bạn rảnh rỗi, đều nên vỗ vào vùng xương hông nhẹ nhàng.
Mỗi lần vỗ khoảng 80 cái, đây là cách tốt nhất để giảm tình trạng đau
mỏi.
Hầu hết các cơn đau trong cơ thể là do tình trạng bị nhiễm lạnh và ẩm
ướt gây ra, từ đó lưu thông máu không tốt, và cơn đau sẽ được tạo ra
theo thời gian. Cách tốt nhất để thực sự giải quyết cơn đau là:
- Ít ngồi hơn
- Chơi nhiều môn thể thao hơn.
Tóm
lại, nghe nói đến bệnh xương khớp, sẽ không khiến bạn sợ hãi ngay lập
tức, nhưng nếu mắc bệnh, rất khó điều trị, giảm chất lượng sống, ảnh
hưởng sinh hoạt và công việc cũng như tuổi thọ. Vì vậy, hãy siêng năng
chăm sóc cơ thể hàng ngày để phòng bệnh. Nếu có bệnh, càng phải chăm sóc
tốt hơn.
Nếu thấy bài viết bổ ích, hãy chia sẻ cho bạn bè của bạn.
st.
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 26/Sep/2020 lúc 12:57pm |
Từ
việc sinh ra ra hóa chất độc hại tới làm tăng nguy cơ bị ung thư phổi,
những bằng chứng mới nhất cho thấy một số cách nấu ăn gây hại cho sức
khỏe. Ta nên làm gì để tránh?
"Toàn
bộ lý do khiến con người tiến hóa là vì ta bắt đầu nấu ăn," Jenna
Macciochi khẳng định chắc nịch. "Khi chỉ ăn uống thực phẩm sống, ta phải
ăn liên tục, vì cơ thể ta vất vả mới lấy được dưỡng chất từ thực phẩm
sống."
Các
nhà sinh học từ lâu đã đồng tình với Macciochi, người chuyên nghiên cứu
về tác động qua lại giữa lối sống và dinh dưỡng ảnh hưởng ra sao tới hệ
miễn dịch của con người, tại Đại học Sussex.
Trong
thực tế có cả một danh sách bằng chứng dài đáng kể cho thấy quá trình
tiến hóa của con người có liên hệ trực tiếp với việc biết dùng lửa.
Khi
tổ tiên của chúng ta biết nấu ăn và chế biến thực phẩm, họ đã khiến
chất béo và calories trong thực phẩm dễ tiêu hóa hơn, và điều đó giúp
làm tăng khoảng cách giữa năng lượng con người cần để tiêu hóa thức ăn
với số năng lượng họ có thể chiết xuất từ thực phẩm. Mà như vậy cũng có
nghĩa là con người đỡ phải nhai nhiều như trước.
Người
ta từng cho rằng kỹ năng nấu nướng không chỉ giúp làm kích cỡ xương hàm
của con người giảm xuống, mà còn có nghĩa là bộ não ta có thể tiến hóa
và tăng kích cỡ lớn hơn - và có đủ khả năng dung chứa những hoạt động
thần kinh (vốn rất hao tốn năng lượng) mà con người cần đến.
Nấu
ăn cũng giúp tiêu diệt những vi khuẩn có hại có thể có bên trong và
trên bề mặt thực phẩm, nhờ vậy bảo vệ giúp con người tránh không bị bệnh
vì ngộ độc thực phẩm.
Vậy
nhưng dù nấu ăn đem lại rất nhiều lợi ích thì liệu có xảy ra trường hợp
quá trình chế biến thực phẩm với nhiệt độ cao có thể đem lại những rủi
ro tiềm ẩn về sức khỏe không?
Xu
hướng ngày càng phổ biến với chế độ ăn đồ tươi sống và nhiều chuyển đổi
đến những kỹ thuật nấu nướng biến tấu hơn, các nhà khoa học khắp thế
giới giờ đây chú tâm hơn tìm hiểu về những bữa ăn chế biến nóng sốt.
Acrylamide: Nguy cơ bị ung thư vì nấu quá kỹ
Không
phải mọi phương thức nấu nướng đều giống nhau khi ta chuẩn bị một món
ăn. Và với một số kiểu nấu nướng - như khi sử dụng nhiệt độ cực kỳ cao -
thì thực phẩm ta nấu ra sẽ có khác biệt rất lớn.
Với
những loại thực phẩm là tinh bột chẳng hạn, thì rủi ro mà Cơ quan Tiêu
chuẩn Thực phẩm (FSA) ở Anh Quốc đã ra cảnh báo về chất acrylamide. Đây
là hóa chất thường được sử dụng trong công nghiệp để làm giấy, nhuộm và
nhựa, nhưng nó cũng xuất hiện trong thực phẩm khi ta quay, chiên hoặc
nướng đồ ăn ở nhiệt độ rất cao trong thời gian dài.
Những
nguyên liệu nấu nướng giàu carbohydrate như khoai tây, các loại rau củ,
bánh mì nướng, ngũ cốc, cà phê, bánh ngọt và bánh quy, là những loại
nhạy cảm nhất, và phản ứng ta có thể thấy là khi tinh bột trong món ăn
bắt đầu chuyển màu sẫm, chúng có thể hóa thành màu nâu vàng hay bắt đầu
có vẻ như bị cháy.
Acrylamide
được coi là nguyên nhân tiềm ẩn gây ung thư, mặc dù hầu hết bằng chứng
hiện thời cho thấy mối liên hệ này đến từ động vật.
Để
đề phòng, Macciochi nói, các nhà dinh dưỡng học và cơ quan về thực phẩm
cho rằng tốt hơn là nên tránh tiêu thụ quá nhiều thực phẩm với hàm
lượng nhiều hóa chất acrylamide.
"Hầu hết các thí nghiệm được thực hiện trong phòng thí nghiệm với động
vật, [nhưng] chúng tôi thực sự nghĩ rằng acrylamide có nguy cơ gây ung
thư ở người, vì vậy mọi người nên ý thức đề phòng, và cũng để ý đến thực
phẩm đã qua chế biến mà họ mua, có lẽ có hàm lượng acrylamide cao hơn
vì quá trình chế biến công nghiệp," bà nói thêm.
Để
tránh hàm lượng acrylamides cao, FSA đề nghị ta nên hướng đến nấu thức
ăn đến độ vàng vừa phải và tránh bỏ khoai tây vào tủ lạnh nếu sau đó
định nấu ở nhiệt độ cao (vì khoai tây đông lạnh phóng thích đường, sau
đó sẽ kết hợp với các amino acid và tạo ra acrylamide khi nấu). Nói
chung là tránh nấu quá kỹ những thành phần này, và tránh tạo ra hợp chất
acrylamide.
Tuy nhiên, nguy cơ này không dừng lại với quy trình nướng thức ăn.
"Những
chất như acrylamide trong thực phẩm chỉ là một trong nhiều nguy cơ của
chế độ ăn thời hiện đại," Macciochi cảnh báo, "vì vậy tự chất này sẽ
không tạo ra nguy cơ khiến bạn bị ung thư, nhưng nếu một người có chế độ
ăn rất nghèo nàn, đó là thứ ta có thể thay đổi để tránh rủi ro."
Khói bếp và bệnh ung thư phổi
Hiệu ứng từ nấu nướng không chỉ truyền qua thức ăn, mà còn qua những thứ ta hít vào.
Đầu tiên, bản thân bếp nấu là nguồn chính gây bệnh ở nhiều quốc gia đang phát triển.
Ở
những nơi dùng các loại nhiên liệu đun nấu là gỗ, rơm rạ thải, và than,
khói bếp trong nhà có thể tăng lên. Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO,
khói nhà bếp là nguyên nhân gây ra 3,8 triệu trường hợp chết yểu mỗi
năm.
Nhưng một số nguyên liệu nhất định trong thực phẩm ta nấu cũng có thể gây ra ô nhiễm không khí trong nhà.
Một
nghiên cứu năm 2017, do Tạp chí Nghiên cứu Ung thư và Ung bướu Lâm sàng
công bố, tìm thấy bằng chứng khi ta hít phải khói do dầu ăn gây ra cũng
làm tăng nguy cơ bị ung thư phổi.
Các
nhà khoa học phân tích 23 nghiên cứu về 9.411 ca bệnh ung thư ở Trung
Quốc, và cho thấy không chỉ có phụ nữ nấu ăn trong tình trạng không có
hệ thống thông khí tốt trong nhà bếp có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn,
mà cả các phương pháp nấu ăn khác nhau cũng gây ra hệ quả khác nhau.
Chẳng hạn như chiên xào làm tăng nguy cơ bị ung thư phổi, trong khi chiên thức ăn ngập dầu thì không làm tăng nguy cơ.
Các
nghiên cứu khác cũng cung cấp bằng chứng cho thấy nếu hít phải khói từ
dầu ăn trong thời kỳ mang thai có thể gây ảnh hưởng đến thai nhi, khiến
trẻ bị nhẹ cân khi sinh.
Năm
2017, các nhà khoa học ở Đài Loan so sánh hàm lượng aldehydes - một
nhóm các hợp chất phản ứng rộng, mà nhiều hợp chất trong số đó độc hại
với con người - sinh ra từ các phương pháp nấu nướng khác nhau.
Trong
nghiên cứu này, các tác giả chỉ ra rằng khói bốc lên từ dầu hướng dương
khi nấu ở nhiệt độ cao và phương thức chiên ngập dầu và chiên trong
chảo có nguy cơ sản sinh ra lượng aldehyde lớn hơn, trong khi đó các
loại dầu ăn có hàm lượng chất béo không bão hòa thấp, như dầu cọ hay dầu
hạt cải, cũng như các phương thức nấu nướng nhẹ nhàng hơn như chiên
xào, thì không có xu hướng tạo ra hàm lượng lớn hợp chất này hoặc những
hợp chất được cho là có hại khác.
Thịt nấu chín và bệnh tiểu đường
Người ăn thịt nên suy nghĩ lại cách họ nấu thịt và mức độ thường xuyên ăn thịt.
Nhiều
nghiên cứu khác nhau cho thấy phương thức nấu trực tiếp với lửa như nấu
thịt đỏ, đặc biệt là nướng bằng chảo hoặc nướng than cũng như các
phương thức nấu sử dụng nhiệt độ cao, như quay thịt trong lò, có thể làm
tăng nguy cơ tiểu đường ở những phụ nữ thường sử dụng thịt đỏ ở Hoa Kỳ -
mặc dù người ta chưa rõ vì sao nguy cơ này chỉ tác động đến phụ nữ mà
không ảnh hưởng đến đàn ông.
Một nghiên cứu khác chỉ ra mối liên hệ tương tự giữa cách nấu trực tiếp
trên ngọn lửa hoặc nấu ở nhiệt độ cao và bệnh tiểu đường Type 2 ở người
ăn thịt đỏ, thịt gà và cá ít nhất 15 lần mỗi tháng, bất kể là nam hay
nữ, ăn nhiều hay ít chừng nào.
Điều
quan trọng cần lưu ý ở đây là không có nghiên cứu nào trong số này kiểm
soát các yếu tố về lối sống như thể thao hoặc các nhân tố khác trong
chế độ dinh dưỡng của họ, trong đó có hàm lượng đường họ tiêu thụ, vì
vậy có thể còn có những thứ đằng sau nữa tác động đến kết quả được đưa
ra.
Tuy
nhiên, một số phương thức nấu ăn thay thế do các nhà nghiên cứu đề xuất
như luộc hay hấp có vẻ không gây ra nguy cơ mắc tiểu đường.
Các phương pháp nấu ăn khác
Trong
thế kỷ qua, phương thức nấu nướng đã tiến hóa và đa dạng hơn, và nấu
nướng dần dịch chuyển khỏi những nguồn nhiệt thời nguyên thủy.
Lò
vi sóng, bếp điện và lò nướng bánh giờ đây có mặt gần như trong mọi
nhà, đem lại các phương thức thay thế cho ngọn lửa nhiệt độ cao.
Ngày càng nhiều các nhà khoa học chỉ ra rằng sử dụng lò vi sóng là cách nấu ăn lành mạnh hơn, tùy thuộc vào món bạn nấu.
Chẳng
hạn, một nghiên cứu gần đây từ Thụy Điển cho thấy một trong những cách
lành mạnh nhất để nấu nấm là sử dụng lò vi sóng. Phương thức này làm
tăng đáng kể các chất chống oxy hóa - là hợp chất giúp bảo vệ tế bào
khỏi tình trạng hư hỏng. Trái lại, luộc hoặc chiên nấm làm giảm hàm
lượng chất chống oxy hóa.
Trong
thực tế bằng chứng khoa học cho thấy phương thức tốt nhất để giữ lại
được các vitamin và dưỡng chất khi nấu rau là sử dụng thời gian nấu ngắn
và dùng càng ít nước càng tốt.
Điều
đó có nghĩa là sử dụng lò vi sóng là cách nấu tốt vì sẽ khiến ít dưỡng
chất mất đi hơn - không giống như khi ta luộc rau, khiến dưỡng chất đều
trôi vào nước luộc hết.
"Hấp
rau cũng tốt hơn là luộc, bất cứ thứ gì bạn nấu trong thời gian dài ở
nhiệt độ cao đều có vẻ gặp nhiều vấn đề hơn, làm giảm giá trị dinh dưỡng
hoặc gây ra một số hợp chất không tốt, như acrylamide," Macciochi giải
thích.
Một
vấn đề khác với cách chiên đồ ăn, hay các kiểu nấu nướng có dầu ăn, đó
là sẽ có vấn đề xảy ra khi một số loại chất béo được làm nóng lên. Hóa
ra quá trình đốt nóng có thể khiến dầu ăn trải qua hàng loạt phản ứng
hóa học, vì vậy khi bạn nấu ở nhiệt độ cao, bạn gặp rủi ro sẽ cho ra món
có thành phần thay đổi ít nhiều so với thành phần ban đầu bạn bỏ vào
nấu.
Không phải mọi loại dầu ăn đều mẫn cảm và dễ thay đổi như vậy.
Ví
dụ, dầu olive có "điểm bốc khói" khá thấp, so với những loại chất béo
bão hòa như dầu dừa. Đây là mức nhiệt độ mà dầu sẽ bắt đầu thay đổi -
khi dầu bắt đầu bốc hơi và mất một số hợp chất tốt cho sức khỏe, như hợp
chất oleocanthal chống viêm.
Đây cũng là mức nhiệt độ mà dầu bắt đầu sinh ra các hợp chất độc hại, như một số aldehyde.
Macciochi
vẫn đề xuất nên sử dụng dầu olive trong hầu hết quá trình nấu nướng vì
loại dầu này rất tốt cho sức khỏe, chỉ là không nên dùng trong nấu ăn
công nghiệp, hoặc khi chế biến bất cứ món gì cần thời gian nấu kéo dài.
Tuy nhiên, dù một số kiểu nấu ăn có chứa rủi ro, thì bỏ hẳn việc nấu chín thức ăn lại có nguy cơ gây hại hơn rất nhiều.
Một
nghiên cứu của Đức về những người tuân thủ chế độ ăn chỉ dùng đồ tươi
sống hầu như không qua chế biến trong vài năm nhận thấy đàn ông giảm 9kg
cân nặng, trong khi phụ nữ giảm 12kg cân nặng.
Vào
cuối kỳ nghiên cứu, một số người đáng kể bị tình trạng thiếu cân - và
khoảng một phần ba số phụ nữ không còn kinh nguyệt đều đặn.
Các
tác giả kết luận với một thông điệp khá nhẹ nhàng theo kiểu khoa học
"chế độ ăn thực phẩm tươi sống nghiêm ngặt không được khuyến khích áp
dụng thời gian kéo dài".
"Rốt
cuộc thì việc nấu chín thịt và nấu carbohydrate là cách tốt để giúp
tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng trong các loại thực phẩm này, ngược
lại so với việc ăn sống," Macciochi nhận định, "vì thử nghĩ tới một củ
khoai tây sống xem, sẽ cực kỳ khó hấp thụ chất dinh dưỡng từ nó chứ đừng
nói đến chuyện chỉ là ăn cảm thấy ngon lành."
Có vẻ như tổ tiên của chúng ta mơ hồ đã hiểu đúng điều gì đó, hẳn là vậy.
st.
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 28/Sep/2020 lúc 10:56am |
Chân mạng Đế Vương
Ai
mắc bệnh Gút thì hình như ít nhiều đều có “Chân Mạng Đế Vương” cả! Bằng
cớ là bệnh thường luôn bắt đầu từ dưới chân, ở ngón chân cái trước rồi
mới lan đi các nơi, và mặt khác, từ xa xưa, người ta cũng đã gọi Gút là
bệnh của Vua (maladie des rois). Lịch sử y học cũng đã ghi nhận
Alexandre le Grand, Charlemagne, Louis XIV… đều bị Gut! Vua
Chúa hay đi săn bắn, ăn thịt rừng, uống nhiều rượu nên dễ bị Gut. Về
sau, những người giàu có cũng hay mắc phải bệnh này do những bữa
ăn “Đạm-Bạc” đầy rượu thịt của họ (theo cách giải-thích bây giờ thì đó
là những bữa ăn nhiều ĐẠM và tốn bạc!) nên Gut cũng là bệnh của nhà
giàu! (maladie des riches).
Đau
khủng khiếp! À không, nhức nữa, nhức khủng khiếp. À mà không đúng, buốt
nữa, buốt khủng khiếp. Đau. Nhức. Buốt. Nhích qua nhích lại nhích tới
nhích lui gì cũng đau cả. Chân sưng một cục, nóng đỏ. Mất ngủ. Mất ăn.
Vua cũng phải kêu Trời!
Tôi vừa bị một vố. Đau sưng ngón chân cái của bàn chân phải. Đúng truyền thống: “Chân” của “Mạng
Đế Vương” rồi còn gì! Nhưng oan quá, lâu nay ăn uống cẩn thận mà, có
săn bắn có nội tạng động vật gì đâu… Từ lâu đã bỏ THỊT! Chỉ còn Rau, Cá,
Củ, Quả! Chắc tại già. Già, Thận yếu, thải không kịp độc chất chăng?
Độc
chất ở đây là Acid Uric, sinh ra từ chuyển hóa Protein có chứa nhiều
Purin trong thức ăn. Acid Uric lắng đọng tạo thành muối Urat, quyện
quanh và chèn vào giữa các khớp, đại khái như cho cát vào các khớp xe
rồi nổ máy, rồ ga cho nó chạy vậy!
Các
thức ăn chứa nhiều purin là thịt rừng, hải sản, kèm với bia rượu, dzô
dzô 100% thì dễ có “Chân Mạng Đế Vương” lắm vậy. Lúc còn trẻ, còn khỏe
thì Thận tốt, thải độc rất nhanh, nhưng vẫn tích tụ đó, chờ có tuổi,
sinh sự! Gút có thể dẫn tới biến dạng bàn chân bàn tay với những u,
những cục, những hòn, đúng là “Lục-cục lòn-hòn”… lổn nhổn làm hạn chế cử
động và đau nhức kinh niên! Thuốc
trị Gút thì đã có, nhưng nhiều thứ có hại, thứ thì gây loét bao tử (dạ
dày), làm mục xương, hội chứng cổ trâu, tăng huyết áp (Cushing), thứ thì
gây nhiều tác dụng phụ, tương tác thuốc tùm lum nên cần có Hướng-Dẫn
của Bác-Sĩ!
Nghe
tôi bị Gút, các bạn đồng nghiệp, học trò… hỏi thử máu chưa? Uống thuốc
chưa? Rồi đem cho mấy thứ! Ông bạn nhà thơ từ bên Mỹ cũng gởi mấy bài
thơ bảo đọc đi cho mau khỏi bệnh. “Tiếng còi xe lửa ôi ồn quá, anh giụi
vào em mái tóc thề, Huế của em đây, trong mái tóc, em thơm lừng ôi em
hương quê! Em của anh à, em của anh… Nắng hình như làm lá thêm xanh,
nắng hình như làm môi em đỏ, nắng hình như mắt em long-lanh…” (TVL). Có
bạn còn kêu đọc thần chú, niệm Nam mô… Có bạn bên trời Tây viết “…Ở
Thế-Kỷ 21 này mà không có cái gì làm cho người ta không bị 'Đau nhức
kinh-khủng' sao? Ở bên Mỹ họ có cái thuốc 'Painkiller' (Sát-Sanh
kiểu này thì chắc không có tội!), có Hữu-Hiệu không?”. Dĩ nhiên là hữu
hiệu, nhưng tạm thôi, không dứt hẳn được, lại cũng sinh lắm biến chứng,
Side-effects. Còn cái “Painkiller” này có sát sanh không ư? Thì… có! Bởi
cái “Pain” này hẳn phải do nhiều yếu tố hợp thành, do duyên sanh cả đó
thôi, nên chắc chắn cũng là một thứ “Chúng Sanh”! Tốt nhất là làm sao
cho nó “Vô Sanh” thay vì “Kill” nó! Nghĩ
lại, đúng là có chuyện “Duyên Sanh” thiệt. Mấy ngày trước ăn nhiều cá
thu quá! Cá thu chiên, cá thu xốt cà, cá thu kho, cá thu “Muối Sư”… (do
mấy bà chị ở quê thương tình, mang cho). Mình lại quên cá thu có rất
nhiều Purin! Vậy là đáng đời! Tôi nhất định không uống thuốc, “Để xem
con Tạo xoay vần đến đâu!”. Tôi hiểu cơ thể phải có một cơ chế “Sưng
nóng đỏ đau” (viêm) nào đó để chống bệnh, nếu dùng thuốc kháng viêm
chẳng hóa ra triệt tiêu mất cái cơ chế tự nhiên rất quý này của cơ thể
sao? Vậy, chuyển hẳn qua ăn rau củ quả xem sao? Có hiệu nghiệm! Thế
nhưng nghe có bạn chỉ ăn toàn đậu với đậu mà cũng bị Gút Cấp-Tính! Thì
ra các thứ đậu cũng có nhiều Purin, đậu nành, đậu xanh, đậu phộng, đậu
Hoà-Lan… kể cả hạt Điều! Ăn vừa vừa thôi thì không sao! Các loại thịt
rừng, nội tạng động vật (Thận, Tim, Gan, Pâté Gan, Xúc-Xích…) và các
loại hải sản như cá thu, cá hồi, tôm hùm… đều chứa rất nhiều Purin cần
tránh!
Qua
ngày thứ ba thì bớt đau, bớt sưng, nhưng mất cả tuần mới bình phục hẳn!
Dĩ nhiên đây chỉ là một cơn Gút Cấp-Tính, không cẩn thận thì tái phát
như chơi và trở thành kinh niên! May quá, Rau, Trái, Sữa, Yaourt, Fromage, Kem… Trà, Cà-phê đều rất ít Purin!
Tóm lại, nếu ai có cái «Chân Mạng Đế Vương» thì NÊN TỪ BỎ SỚM!!! BS Đỗ Hồng Ngọc
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 30/Sep/2020 lúc 7:45am |
Sữa Chua
Truyền
thuyết dân gian kể lại rằng: Vào buổi sáng hôm đó, khi xuống chuồng vắt
sữa bò như thường lệ, một trại chủ thấy bình sữa bỏ quên trong góc nhà.
Cầm lên coi, ông ta thấy sữa hơi đông lại, ngửi không thấy hư, ông ta
bèn nếm.
Sữa có vị hơi chua chua, ngọt ngọt và thơm.. Tiếc của Trời, ông
ta mang về cho bà vợ và cả nhà cùng ăn. Ai cũng khen ngon và không bị
phản ứng gì!
Trại chủ liền khoe với lối xóm là đã chế được món
sữa đặc biệt. Ông ta tiếp tục “bỏ quên” nhiều bình sữa như thế rồi mang
ra chợ bán. Mọi người đều ưa thích món sữa “bỏ quên” này và ông ta đã kiếm được rất nhiều tiền. Sữa chua được khám phá ra như thế, và nhanh chóng được phổ biến khắp nơi.
Rồi
đến thời kỳ Phục Hưng ở bên Pháp vào đầu thế kỷ thứ 16, vua Francois I
bị chứng đau bụng đi cầu đã lâu ngày, mọi danh y đều bó tay. Một
thầy thuốc người Thổ Nhĩ Kỳ được mời đến. Sau khi khám bệnh, ông ta cho
nhà vua dùng một bài thuốc gia truyền trong một tuần lễ, nhà vua khỏi
bệnh. Đó là món sữa chua mà gia đình vị lang y kia vẫn dùng để chữa cho
dân chúng bị bệnh khó tiêu. Từ đó, sữa chua được liên tục dùng khắp nơi trên thế giới như một thực phẩm và thuốc trị bệnh theo.
Khám phá khoa học về sữa chua
Nhưng
phải đợi tới đầu thế kỷ thứ 20 thì nguyên lý tạo thành sữa chua mới
được làm sáng tỏ qua nghiên cứu của một bác học người Nga, ông Ilya
Metchinov (1845-1916). Nhà khoa học này khao khát đi tìm một phương
thức kéo dài tuổi thọ. Do đó, ông rất quan tâm đến một nhóm dân Bulgaria
có tỷ lệ rất cao số người sống đến trên một trăm tuổi.
Ông nhận
thấy là họ tiêu thụ nhiều sữa chua. Vì thế, ông bắt đầu tìm hiểu đặc
tính của loại sữa này và thấy trong sữa có những vi sinh vật làm thay
đổi hóa chất của sữa, khiến sữa trở thành tốt hơn cho sức khỏe con
người. Ông ta đặt tên cho một trong nhiều vi sinh vật đó là Lactobacillus Bulgaricus. Từ đó sữa chua được chế biến khoa học hơn.
Cũng
xin lưu ý là Ilya Metchinkoff được giải thưởng Nobel về Y Học năm 1908
nhờ sự khám phá ra tính miễn dịch trong cơ thể con người. Ông cũng
là bạn thân của nhà bác học nổi tiếng Louis Pasteur của nước Pháp. Theo
định nghĩa của Codex Alimentarius Commissions, một tổ chức quốc tế có
nhiều uy tín trong việc đưa ra các tiêu chuẩn chung về thực phẩm, sữa
chua là sản phẩm từ sữa được lên men và làm đông đặc bằng cách để cho
bay hơi.
Trong những điều kiện thuận lợi về thời gian và nhiệt
độ, đường lactose của sữa chuyển thành acid lactic, dưới tác dụng của
các vi sinh vật như Streptocoous thermophilus, Lactobacillus
Bulgaricus,Lactobacillus acidophilus.. . Sau đó sữa trở thành một chất giống như kem và có vị chua đặc biệt.
Yogurt có thể làm từ sữa cừu, sữa dê… nhưng thường thường là từ sữa bò. Sữa chua cung cấp số năng lượng tương đương với sữa tươi, nhưng giá trị dinh dưỡng cao hơn. Sữa chua có nhiều chất đạm, carbohydrat, sinh tố, các khoáng calci, phosphat, pot***ium, niacin, riboflavin. Chất đạm trong sữa chua rất dễ tiêu và dễ hấp thụ vào máu.
Trong
100g sữa chua có: 4,3g chất đạm, 4,8 g carbohydrat, 1,1 g chất béo, 4
mg cholesterol, 173 mg calci, 0,18 mg riboflavin, 110 mg phosphor và
cung cấp 50 calori. Nước chiếm tỷ lệ 88% và là nguồn cung cấp nước rất
tốt cho cơ thể.
Nhiều người khi uống sữa tươi vào là bị tiêu chẩy, vì không tiêu hóa được đường lactose trong sữa. Khi dùng sữa chua thì không có vấn đề, vì đường này đã được chuyển hóa ra lactic acid. Lactic acid và vi sinh vật trong sữa chua làm tăng độ chua trong bao tử, giúp sự tiêu hóa chất đạm và sinh tố C được dễ dàng.
Công dụng chữa bệnh của sữa chua
Cách
đây hơn nửa thế kỷ, Ilya Ilich Metchnikov đã nêu ra giả thuyết là một
số bệnh tật gây ra do độc tố từ vi trùng trong ruột bị hư rữa, đưa đến
phá hoại thành mạch máu. Theo ông ta, sự việc này có thể ngăn ngừa bằng các vi sinh vật trong sữa chua. Sau đó các khoa học gia đã dành nhiều cố gắng để nghiên cứu về công dụng của sữa chua. Theo
dõi công dụng này ở cơ thể con người có phần khó khăn, nên đa số đều
thực hiện với những con chuột trong phòng thí nghiệm. Kết quả đều cho
thấy là sữa chua rất tốt và có ích để chữa một vài bệnh..
1-Sữa chua giúp tiêu hóa đường lactose trong sữa.
Theo
thống kê, hiện nay có khoảng 75% người lớn tuổi trên thế giới không
tiêu hóa được đường lactose trong sữa, nhất là dân châu Á và châu Phi. Khi uống sữa là họ bị đau bụng, đầy hơi, tiêu chẩy… Nguyên do là vì họ thiếu lactase để tiêu hóa đường sữa lactose. Khi ăn sữa chua, họ tránh được vấn đề trên vì lactose đã được chuyển ra lactic acid.
2- Sữa chua chữa bệnh tiêu chẩy.
Trong
ruột có rất nhiều vi sinh vật có lợi cũng như có hại, đua nhau tăng
trưởng. Loại nào phát triển mạnh hơn thì sẽ tạo ảnh hưởng đến sự tiêu
hóa và sức khỏe con người. Ruột trẻ em có nhiều vi khuẩn E Coli gây ra tiêu chẩy. Sữa chua có thể chữa một số trường hợp tiêu chẩy.
Một
nghiên cứu ở Nữu Ước năm 1963 đã so sánh tác dụng của sữa chua với hỗn
hợp thuốc trị tiêu chẩy Kaopectate và kháng sinh neomycin. Kết quả cho thấy là vi sinh vật trong sữa chua rút ngắn thời gian bị tiêu chẩy.
Các nhà nghiên cứu ở Ý nhận thấy sữa chua làm giảm số vi khuẩn E Coli trong ruột. Sữa
chua cũng làm bớt tiêu chẩy gây ra do thuốc kháng sinh. Ở các nước Ý và
Nga, sữa chua được cho trẻ em bị tiêu chẩy dùng để chữa bệnh này.
Bên Nhật, sữa chua được dùng để trị bệnh kiết lỵ. Năm
1995, cơ quan Y Tế Thế giới (WHO) có khuyến cáo là khi chữa tiêu chẩy,
nên thay thế sữa thường bằng sữa chua, vì sữa chua dễ tiêu hơn , có thể
ngừa thiếu dinh dưỡng. Nhiều nghiên cứu khác cho hay sữa chua còn có tác dụng nhuận tràng.
3- Sữa chua có chất kháng sinh.
Bác Sĩ Khem Shahani, một chuyên gia nổi tiếng trên thế giới về sữa
chua, thuộc trường Đại học Nebraska, cho hay là ông ta đã phân tích được
hai loại kháng sinh từ sữa chua do các vi sinh vật L acidophilus và L.
bulgaris tiết ra. Các nghiên cứu ở Nhật, Ý, Thụy sĩ, Hoa Kỳ đều cho
là vi sinh vật trong sữa chua có thể tiêu diệt được nhiều loại vi khuẩn
gây bệnh.
4- Sữa chua làm giảm cholesterol trong máu.
Các
nhà quan sát nhận thấy dân chúng ở bộ lạc Maasai bên châu Phi dùng tới 2
lít sữa chua mồi ngày và lượng cholesterol trong máu rất thấp.
Họ
kết luận là sữa chua có thể làm hạ cholesterol. Bác sĩ George Mann đã
tìm ra một chất trong sữa chua mà ông ta đặt tên là hydroxymethyl
glutarate có đặc tính làm giảm cholesterol .. Sau đó, nhiều nghiên
cứu kế tiếp cũng đưa tới kết luận là sữa chua làm tăng mức cholesterol
lành HDL và hạ thấp tổng lượng cholesterol trong máu.
5- Sữa chua làm tăng tính miễn dịch.
Các nhà nghiên cứu ở Pháp đã chứng minh là sữa chua làm tăng miễn dịch tính ở chuột trong phòng thí nghiệm. Năm
1986, nhóm khoa học gia ở Ý tiến xa hơn với kết luận là vi sinh vật
trong sữa chua làm tăng tính miễn dịch ở người qua việc gia tăng sản
xuất kháng thể. Sữa chua cũng làm giảm bớt các triệu chứng của dị ứng mũi.
6- Sữa chua với bệnh ung thư.
Một
nhóm các nhà nghiên cứu ở Nam Tư cho biết vi sinh vật L. bulgaricus
trong sữa chua tiết ra chất blastolyn có thể ngăn chặn sự phát triển tế
bào ung thư loại Rous Sarcoma. Kết quả nghiên cứu tại đại học
Boston bên Mỹ và bên Pháp đều kết luận là L. acidophilus chống được ung
thư vú và ruột già bằng cách làm giảm hóa chất gây ung thư trong ruột
già. Bác Sĩ Shahani cũng đồng ý là vi sinh vật L. acidophilus ngăn chặn
ung thư ở loài chuột.
7- Sữa chua ngừa loét bao tử.
Bác Sĩ Samuel Money thuộc Trung Tâm Y Khoa Brooklyn, Nữu Ước, cho hay trong sữa chua có chất kích thích Prostaglandin. Chất này có khả năng che trở niêm mạc bao tử với tác nhân độc hại như thuốc lá, rượu và do đó ngừa được bệnh loét bao tử. Chất
Prostaglandin hiện đang được tổng hợp để làm thuốc chữa bệnh bao tử.
Ngoài ra trong sữa chua còn có chất tryptophan có tác dụng làm dịu thần
kinh, dễ ngủ. Đồng thời kết quả nghiên cứu tại Đại học M***achusett
lại cho thấy sữa chua có tác dụng hưng phấn, làm ta tỉnh táo. Sữa chua
cũng làm bớt nhiễm độc nấm ở cơ quan sinh dục nữ giới.
Chọn lựa sữa chua.
Sữa chua được bầy ban với nhiều nhãn hiệu khác nhau, cũng như được pha thêm trái cây cho có hương vị đặc biệt. Có
loại sữa chua giữ nguyên chất béo, có loại đã được lấy bớt đi. Nhãn
hiệu trên hộp sữa có ghi chú rõ ràng thành phần dinh dưỡng, như là có
bao nhiêu calori, số lượng chất béo bão hòa, cholesterol, muối sodium,
chất carbohydrat, đường, chất xơ, đạm chất, sinh tố A, C, chất sắt và
calci.
Điều quan trọng là sản phẩm phải có vi sinh vật còn sống
(live cultures). Ta thường thấy ghi tắt chữ LAC (Live and Active
Cultures) của Hiệp Hội Các Nhà Sản Xuất Sữa Chua Hoa Kỳ, có nghĩa là 100
g sữa chua chứa ít nhất 100 triệu vi sinh vật còn sống và hoạt động. Vì có sinh vật sống nên sữa chua cần được giữ trong tủ lạnh, tránh bị hơi nóng hủy hoại.
Cách làm sữa chua
Cách thức làm sữa chua dùng trong gia đình cũng đơn giản. Chúng ta chỉ cần thực hiện các bước tuần tư như sau:
Chuẩn bị khoảng 2 lít sữa bột ít chất béo, một lon sữa đặc không đường, một thìa sữa chua ít chất béo. Pha lẫn hai loại sữa, khuấy cho đều với một chiếc thìa bằng gỗ. đun sôi với nhiệt độ vừa phải. Trong khi đun vẫn tiếp tục khuấy để sữa khỏi bị cháy dưới đáy nồi. Khi sữa sôi có bọt thì nhắc ra, để nguội.
Khi
sữa nguội tới mức mà ta nhúng ngón tay vào mà không bị bỏng ( khoảng từ
40ºC – 46ºC), thì cho thìa sữa chua vào, khuấy cho đều với một cái
muỗng bằng gỗ khoảng 30 giây. Nhớ khuấy theo một chiều để vi sinh
vật không bị tổn thương. Phủ lên nắp bình mấy tờ giấy để hút bớt nước
bốc hơi và để sữa đặc lại. Đậy nắp bình, bọc chung quanh bằng một
cái chăn len, để qua đêm, sáng sau là sẵn sàng để ăn. Ta có thể pha thêm
các loại trái cây hay hạt ngũ cốc khô để có thêm hương vị đặc biệt.
Kết luận:
Sữa chua là một trong nhiều món ăn được nhiều người ưa thích và là món ăn vặt rất hấp dẫn giữa hai bữa cơm chính. Ngoài
hương vị ngon, sữa chua còn có nhiều chất dinh dưỡng, chất kháng sinh,
chất chống ung thư, có khả năng làm giảm cholesterol, đặc biệt là chất
đạm trong sữa chua rất dễ tiêu.
Người bị bất dung với sữa
thường, có thể thay thế bằng sữa chua. Với một ly nhỏ sữa chua mỗi
ngày, ta có đủ số lượng calci cần thiết. Trẻ em trên ba tháng cũng có
thể dùng sữa chua được rồi.
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 02/Oct/2020 lúc 7:21am |
Thời
gian là những năm tháng của thập niên 40, không gian là một tỉnh lỵ nằm
trên đường số 5 giữa Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng.
Cả tỉnh chỉ có một bác sĩ, một nhà thương nhỏ.
Nhà
thương được một ông y tá, một bà đỡ và vài nhân viên tạp dịch điều
hành. Sáng sớm mỗi ngày, bệnh nhân xếp hàng đợi lấy số thứ tự, cũng
không đông, độ hai chục người, với mấy loại bệnh thông thường như nhức
đầu, tiêu chảy, ban sởi trẻ em, ghẻ lở, bụng ỏng sán lãi.
Thuốc
men giản dị. Ghẻ lở được bôi với Bleu de Méthylène xanh lè cả chân
cẳng. Nhức đầu được lãnh dăm viên Optalidon, Aspirin Bayer, tiêu chảy có
Bismuth, Charcoal, nặng thì được vài viên Sulfaguanidine. Bệnh trầm
trọng hơn thì bác sĩ khám, nếu cần sẽ được chở về bệnh viện Phủ Doãn ở
Hà Nội, có bác sĩ Tây, có nhiều ông thầy dạy học. Nói là nặng chứ không
phải là nhồi máu cơ tim, tai biến mạch mãu não, kích tim, giỏi lắm là
vài trường hợp uốn ván, có thai ngoài dạ con, thương hàn, ngã nước.
Kháng
sinh chưa có ngoài thuốc Dagénan, được coi là thần dược, trị mọi bệnh
nhiễm trùng. Mà muốn có thuốc này, phải là dân nhà giàu, đến phòng mạch
tư của bác sĩ, xin toa ra nhà thuốc tây duy nhất ở tỉnh để mua.
Bệnh
nhận không đến nhà thương thì đến chẩn bệnh ở các vị đông y, bốc thuốc
bắc, thuốc nam ở các tiệm cao đơn hoàn tán của “chú khách”, hoặc đi lễ
xin thuốc thần thuốc thánh, chữa theo kinh nghiệm dân gian “Đau bụng lấy
bụng mà chườm”.
Phương
tiện trị liệu, định bệnh thô sơ, tử vong cao, sống tới tuổi 40 đã ăn
mừng tứ tuần đại khánh. Sự tiến bộ của văn minh y học trên thế giới chưa
rọi tới mảnh đất thuộc địa nghèo nàn. Những phong trào nhà ánh sáng,
lưu thông cống rãnh, vệ sinh thường thức chỉ mới manh nha.
Nhìn ra các nước tiên tiến trên thế giới, từ đầu thế kỷ, y học đã liên
tục đi những bước dài để bảo vệ sức khỏe con người.
Một
trăm năm qua đã có nhiều phát minh, sáng kiến tuyệt hảo để chẩn bệnh,
trị bệnh, phòng bệnh. Tuổi thọ trung bình 45 tuổi ở năm 1900 đã được
nâng lên 76,5 tuổi vào cuối thế kỉ, cái gọi là thất thập cổ lai hy đã
trở nên chuyện bình thường, trường thọ đã là một trong nhiều quà tặng
của nền y khoa tiến bộ trong thế kỉ 20 dành cho nhân loại.
Những
tử vong vì đẻ non, vì bệnh nan y, vì điều kiện sinh sống kém, dinh
dưỡng không cân bằng, vì những dịch truyền nhiễm đều đã được nhiều phần
khắc phục.
Chúng tôi xin cùng quý vị tìm hiểu lại một số những tiến bộ tuyệt hảo này, rồi đoán vọng tương lai. Ta cùng ôn cố để tri tân.
1- Lãnh vực phòng ngừa bệnh
Trước
thế kỉ 20, bệnh truyền nhiễm là một trong nhiều nguyên nhân gây ra số
tử vong cao cho con người. Lý do là vì chưa có kháng sinh, vaccin tiêm
phòng, vệ sinh cá nhân, nhà ở chưa được phổ biến, vi trùng tha hồ hoành
hành tác hại.
Dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 làm thiệt mạng hơn 20 triệu người trên toàn thế giới.
Bệnh
lao, bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt trẻ em, bệnh bạch hầu, uốn ván tràn
lan. Ngay cả Tổng thống Hoa Kì Roosevelt Franklin cũng bị bại liệt vào
tháng 8 năm 1921 khiến liệt nửa thân.
Sau đó bệnh truyền nhiễm giảm bớt nhờ nhiều phương tiện, trong đó có tiêm chủng.
Khám
phá ra dự chủng ngừa dựa vào một nhận xét là, những nông trại vắt sữa
bò, bị lây bệnh đậu của bò thì không mắc bệnh đậu mùa nữa, do đó chích
ngừa là để tạo ra chất kháng thể chống lại sự xâm nhập vi khuẩn cùng
loại.
Năm
1790, Edward Jenner, người Anh, là người đầu tiên cấy chất liệu từ vết
đậu của bò cho người để tạo tính miễn dịch, nhưng phải đợi tới thế kỷ 20
vaccin để chủng phòng bệnh đậu mùa mới được hoàn thiện.
Trong
thế kỷ vừa qua, y khoa đã chế ra vaccin phòng bệnh lao BCG năm 1908,
sốt vàng da năm 1937, bại liệt trẻ em năm 1955, bệnh sởi năm 1962, thủy
đậu năm 1975 và nhiều loại thuốc ngừa các bệnh khác như bệnh quai bị,
bạch hầu, cúm, viêm gan các loại, thương hàn, dịch tả, ho gà…
Bệnh
đậu mùa, bệnh sởi đã được coi như bị xóa sổ trên thế giới, ngoại trừ
một vài địa phương nhỏ. Trong tương lai gần đây, sẽ có vaccin phòng ngừa
sốt rét, và phòng HIV/AIDS.
2- Thuốc kháng sinh
Còn
nhớ lại những năm tản cư ở Đông Triều, Cổ Vịt, dân chúng cố kiếm mua
mấy viên Dagénan mang theo để chữa đủ bệnh nhiễm trùng. Đôi khi còn phải
nhờ người vào “thành” mua lậu cho mấy ống, vì thuốc mới quá hiếm. Viên
Dagénan đã cứu sống nhiều người trong giai đoạn đó.
Theo
định nghĩa, kháng sinh là chất do vi sinh vật tạo ra, có khả năng tiêu
diệt hay ngăn ngừa sự tăng trưởng của vi sinh vật khác như vi khuẩn, nấm
độc. Nhà bác học Pháp Louis Pasteur là người đầu tiên nhận ra đặc tính
này.
Năm
1929, do sự tình cờ, Alexander Fleming tại bệnh viện St Mary Luân Đôn,
thấy rằng mốc của nấm Penicillium natatum tiết ra chất Penicillin có thể
giết chết được vi trùng. Nhưng ta phải đợi tới năm 1940, nhờ các nghiên
cứu của H.W.Florey và E.B.Chain, thuốc Penicillin mới được sản xuất đại
quy mô để trị bệnh.
Sự khám phá ra thuốc Penicillin được coi như một thành quả lớn của thế kỉ 20.
Thuốc trị vi trùng nhóm Sulfamid được bào chế năm 1932, Strepomycin trị lao năm 1943.
Ngày
nay, kháng sinh có rất nhiều loại, trị được nhiều bệnh nhiễm trùng khác
nhau, với cách dùng như uống, chích, bôi ngoài da. Nhưng vì con người
lạm dụng thuốc nên một số vi trùng trở nên nhờn mặt với vài loại kháng
sinh.
3- Giải pháp nối-ghép bộ phận cơ thể
Phương
pháp ghép bộ phận cơ thể hiện nay khá phổ thông và tiến bộ tới mức
trước đây không ai nghĩ tới. Các bác sĩ giải phẫu mổ lấy bộ phận người
này ghép thay vào bộ phận thiếu hoặc không hoạt động ở người khác, qua
sự sang nhượng hay lấy từ người sắp chết tặng. Cũng có thể tự ghép bộ
phận như ghép da, ghép nối động tĩnh mạch, dây thần kinh.
Truyền
máu cũng là một hình thức chuyển ghép tế bào, và đã được thực hiện từ
thế kỉ 17 ở Châu Âu, nhưng có nhiều tai nạn chết người do phản ứng của
máu người cho và người nhận. Mãi tới năm 1900, việc truyền máu mới được
an toàn nhờ nhà bác học người Úc, Karl Landsteiner, tìm ra các loại máu
A, B, O của con người.
Thận nhân tạo để lọc máu được sáng chế năm 1913.
Trường
hợp ghép chuyển thận thành công đầu tiên vào năm 1954 được hai bác sĩ
J.Hartwell Harrison và Joseph Murray, ở Boston, Hoa Kỳ thực hiện.
Năm 1963 các phẫu thuật gia bắt đầu thử thay phổi, thay gan, và hiện nay các sự thay ghép này đã được áp dụng.
Bác sĩ Christian N.Barnad, Nam Phi, giải phẫu thay tim đầu tiên vào năm 1967.
Một
trở ngại thường gặp trong việc thay ghép là cơ thể người nhận đôi khi
chối từ, tấn công bộ phận cho vì những bất đồng cấu tạo, sinh lý.
Từ
năm 1970, việc chuyển ghép bộ phận cơ thể được thực hiện thường xuyên,
rộng rãi nhờ thuốc Cyclosporin vô hiệu hóa việc đào thải mảnh ghép.
Hiện nay, mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ có tới gần 3000 con tim được thay thế.
Tim nhân tạo cũng đã và đang được thử nghiệm, nhất là để tạm thời thay thế tim hư, chờ có tim cho.
Giác
mạc mắt được thay ghép ít nhất trên 40,000 lần mỗi năm tại Hoa Kỳ do
người sắp chết tặng. Vì số tặng không đủ, các khoa học gia, đặc biệt là
bác sĩ May Griffith, đang nuôi giác mạc trong phòng thí nghiệm.
Xin kể thêm là phổi sắt (máy thở) được dùng đầu tiên năm 1927 để hỗ trợ hô hấp cho người bị tê liệt mà phổi không tự thở được.
Và việc thay khớp xương hông nhân tạo được bắt đầu vào năm 1938.
4- Dược phẩm quan trọng
Thời
cổ xưa, người ta coi bệnh tâm thần là do ma quỷ nhập hay là do thần
thánh, thượng đế trừng phạt. Bệnh nhân bị cô lập, bỏ tù, trói cột, hành
hạ, đôi khi bị thiêu sống. Cho tới thế kỷ 19, bọn con buôn còn mang
triển lãm, để lấy tiền, những người điên, cười nói, khóc lóc vô cớ, hành
động không kiểm soát.
Khi
bác sĩ Philippe Pinel, tổ sư ngành tâm thần học, cởi thả những người bị
điên loạn thì cấp trên của ông ta bảo rằng anh điên hay sao mà thả họ
ra. Pinel cho là cần phải có thái độ nhân đạo, hỗ trợ với người bị bệnh
tâm thần.
Thuốc
trị loạn tâm thần hưng trầm cảm Lithium được tìm ra năm 1949, và hiện
giờ vẫn còn là thuốc căn bản trị bệnh này. Năm 1950, thuốc Chlorpromazin
trị loạn tâm trí được bào chế.
Cho tới nay, đã có nhiều dược phẩm cũng như phương tiện khoa học để trị đủ loại bệnh tâm thần mỗi ngày mỗi tăng của thời đại.
Cách
đây trên nửa thế kỉ, nếu có phương tiện công hiệu để trị bệnh cao huyết
áp, bệnh tim mạch như ngày nay thì có lẽ Tổng thống Hoa Kì
F.D.Roosevelt không bị chết vì các chứng xuất huyết trong bệnh cao huyết
áp và suy tim của ông. Thực vậy, trong lãnh vực này, đã có những tiến
bộ vượt bậc về các phương thức điều trị.
Ngoài
dược phẩm có giá trị cao, phẫu thuật nối động mạch cơ tim được bác sĩ
DeBakey thực hiện vào thập niên 60, rồi đến sự thông động mạch vành tắc
nghẽn bằng bơm bóng, bằng tia Laser, bằng lưỡi dao tí hon xoay tròn mới
đây, tất cả đã trở nên rất phổ biến.
Đồng
thời sự hiểu biết tường tận về ích lợi của việc tập luyện cơ thể, cách
thức giữ gìn ăn uống quân bình, về nguy cơ gây bệnh của rượu, thuốc lá,
cholesterol đã đóng góp rất nhiều vào việc ngừa, chữa bệnh tim mạch các
loại, và hạ thấp mức tử vong.
Năm
1921, chất Insulin được Frederick Banting và Charles Best, Đại hoc
Toronto, lấy từ tụy tạng chó là sự kiện quan trọng trong lịch sử y khoa
học.
Insulin
là kích thích tố duy nhất làm giảm đường trong máu và được tụy tạng
tiết ra khi đường tăng cao, như là sau bữa ăn hay khi bị căng thẳng tâm
thần. Khi đường trong máu lên quá cao, bệnh nhân bị hôn mê, có nguy cơ
mạng vong.
Mặc
dù không trị dứt được bệnh tiểu đường nhưng Insulin là một loại thuốc
tối cần thiết cho người mắc bệnh này và Insulin đã giảm thiểu tử vong do
hôn mê vì lượng đường cao cũng như nhiều biến chứng trầm trọng về mắt,
thận, tim.
Vào
thập niên 60, thuốc viên ngừa thai ( the Pill) gồm kích thích tố
Estrogen và Progesteron được tung ra thị trường, cùng lúc với phong trào
đòi nam nữ bình quyền, đã giúp nữ giới tận hưởng thú vui ân ái mà không
lo ngại mang thai.
Cũng
trong phạm vi thai nghén, năm 1978, em bé ống nghiệm đầu tiên Louise
Brown ra đời ở Luân Đôn, và tới nay, riêng tại Mỹ, Louise có ít nhất
trên 100.000 người em trai gái cùng được thụ thai trong phòng thí
nghiệm, giữa những ống thủy tinh, thay vì trên giường.
Rồi
đây, hành động ái ân biết đâu chẳng chỉ là phương tiện để thỏa mãn thú
vui xác thịt chứ không cần thiết cho việc nối dõi tông đường.
5- Các phương pháp cơ khí trị liệu, tìm bệnh
Máy
điện tâm đồ, đo hoạt động điện năng của cơ tim (Electrocardiograph),
được dùng đầu tiên vào năm 1903 để khám phá chứng huyết khối động mạch
vành, rối loạn nhịp tim, rối loạn cơ tim.
Máy
điều hòa nhịp tim (pace maker) được hoàn tất năm 1957; mười năm sau
chụp X quang tuyến vú được sử dụng để tìm kiếm ung thư cơ quan này.
Thực
ra quang tuyến X được bác học người Đức Wilhelm Roentgen phát giác ra
công dụng từ năm 1895, nhưng phải tới năm 1920, tia X mới áp dụng rộng
rãi. Rồi những năm gần đây, người ta có thể chụp hình từng bộ phận cơ
thể dưới nhiều khía cạnh khác nhau (cắt lớp) với CT scan, PET scan, MRI.
Về
con mắt, vào những thập niên cuối của thế kỉ đã có một tiến bộ tuyệt
hảo trong việc chữa các tật cận thị, viễn thị, bong tróc võng mạc bằng
tia Laser, giúp cho nhiều người lấy lại được thị lực mà không cần mang
kính điều chỉnh.
Tia Laser còn được sử dụng vào nhiều giải phẫu trị liệu khác, vừa ít đau vừa thu ngắn thời gian trên bàn mổ mà lại mau phục hồi.
6- Nhìn về tương lai
Còn
nhiều thành quả khác có thể coi là ngoạn mục, cổ kim không ai nghĩ tới ,
của nền y khoa học trong thế kỉ vừa qua, những thành quả đã giúp con
người sống lâu hơn, sống khỏe mạnh tích cực hơn.
Ngoài
ra, cũng có nhiều phát minh, sáng kiến được mạnh nha nhưng có nhiều hứa
hẹn thành công để hiểu rõ hơn nguyên nhân chính của bệnh tật, từ đó đưa
ra phương thức điều trị.
Người
ta nói tới sự thiết lập Dự Án Bộ Gen Con Người với đầy đủ mã số thông
tin. Gen là yếu tố di truyền căn bản, mà khi bị đột biến sẽ là nguyên
nhân gây nhiều bệnh tật cũng như đẩy nhanh diễn tiến lão suy.
Trong
tương lai, sẽ trị bệnh bằng cách sắp xếp lại cấu trúc Gen, và mỗi người
sẽ có một Chip AND với toàn bộ danh mục Gen lành, Gen bệnh.
Sẽ
không còn nối tắt động mạch vành bị tắc nghẽn, mà có phương pháp kích
thích cơ tim tạo ra động mạch vành mới thay thế cho động mạch nghẽn.
Bằng
kỹ thuật sinh sản vô tính, người ta đã tạo ra một con cừu do sự phối
hợp của tế bào thường với trứng không nhân của con cừu cái khiến nhiều
nhà tôn giáo, đạo đức đã cau mặt e ngại một ngày nào đó con người cũng
được sinh sản vô tính.
Sẽ
có thuốc chặn sự nuôi dưỡng, tăng trưởng tế bào ung thư khiến chúng bị
hủy diệt hay gửi những “siêu trùng Kinh Kha” đột nhập tế bào ung thư để
tiêu hủy.
Và bộ phận cơ thể sẽ được cấu tạo từ những tế bào gốc (stem cells) để thay thế cho trái tim già nua, lá gan suy yếu.
Kết luận
Sáng hôm đó, mở Internet coi tin tức, hoa hậu Vũ Trụ Ngân Giang thấy một quảng cáo của Viện Sinh Bào BAGIAI, Inc như sau:
“Các
nhà Bác Vật của Viện nghiên cứu chúng tôi vừa mới hoàn tất một CHIP-DNA
có 64 genes được xếp theo bộ tế bào thượng hạng số 76/69/35 bảo đảm
không mắc mười ba loại bệnh ung thư, không bị dị ứng với hải sản, không
bị nhồi máu cơ tim, phong tình nhập cốt và có thương số trí tuệ 109.
Quý
vị có thể đặt mua CHIP-DNA này ngay từ bây giờ, bán “sêu” tới hết ngày
3/5/2035, và nhớ dùng CHIP này một tuần lễ trước ngày qúy bà dự trù có
thai để có một đứa con lành mạnh, nhiều bản lãnh, bảo đảm sẽ làm lãnh tụ
ở tuổi 36.
Mua
trước ngày kể trên, quý vị sẽ được bổn Viện Trưởng thân thương tặng một
ký lô xà bông giặt quần áo VŨ TẠO số 1 làm bằng nhiên liệu nhập, một
phiếu miễn phí làm niềng răng bằng thủy ngân tại nhà trồng răng MINH
SINH Hàng Bông Thợ Nhuộm”.
Người
Đẹp đưa tay lấy cây bút máy nguyên tử cài trên vành tai, ký chi phiếu
trên màn ảnh máy vi tính, trả tiền, mua liền một lúc hai CHIP, tự nhủ:
một trăm hai mươi sáu ngàn tiền đô, mai đây sanh con trai cho làm Tổng
Thống, con gái nối ngôi Hoa Hậu, rẻ chán!!!. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 10/Oct/2020 lúc 10:36am |
Ảnh hưởng của chân lên các cơ quan khác trong cơ thể (nguồn: internet) Hàng
ngày bạn tiêu tốn thời gian để dưỡng da, tập thể thao, thiền, yoga…với
mục đích giữ gìn cơ thể khỏe mạnh nhưng lại bỏ quên đôi chân, nơi chịu
toàn bộ trọng lượng cơ thể của cả ngày.
Chân được ví như con tim thứ hai của cơ thể.
Theo Đông y tất cả các huyệt ở chân đều ảnh hưởng đến các cơ quan khác
với vô số đầu dây thần kinh nối liền với não. Tất cả máu lưu thông trong
cơ thể đều đi qua mạng mạch máu dưới chân. Bảo vệ đôi chân là bảo vệ
sức khỏe của cơ thể. Nếu khí huyết lưu thông tốt , cơ thể sẽ mạnh khoẻ
và tránh được bệnh tật. Mà chân lại là nơi giao nhau của rất nhiều kinh
mạch, tập trung nhiều huyệt đạo, nên giữ cho khí huyết lưu thông ở chân
rất quan trọng.
Bài viết này sẽ hướng dẫn cho bạn một số cách giúp khí huyết lưu thông ở chân một cách hiệu quả.
1. Để bàn chân được tự do
Hàng
ngày khi đi làm, đi học, bàn chân đều được bọc kín trong tất, giày làm
mồ hôi ứ đọng, các ngón chân không được vận động thoải mái, khí huyết
cũng ứ trệ khó lưu thông. Vậy nên khi có cơ hội hãy để chân trần được
thông thoáng, giúp bạn mang lại cảm giác dễ chịu hơn và ngăn ngừa được
các bệnh ở chân như nấm, nhiễm khuẩn.
Lúc
ở nhà, nên đi chân trần, như vậy các ngón và cơ bàn chân có cơ hội vận
động, giúp cơ thể bám chắc trên nền đất. Điều này rất quan trọng vì chân
là nơi chịu lực của cơ thể, một bàn chân mềm yếu thì tướng đi sẽ không
đẹp, đi và đứng lâu dễ mỏi.
Theo
Trung y, khi chân trần tiếp đất cũng là lúc cơ thể và mặt đất cân bằng
âm dương, giúp cơ thể giải phóng những khí dương dư thừa và bổ sung tính
âm còn thiếu.
2. Ngâm chân bằng nước ấm
Chân
có hệ thống mạch máu phức tạp và dày đặc, là nơi phần lớn máu của cơ
thể tập trung để trao đổi chất độc và đi ngang qua. Vì vậy chân được
mệnh danh là trái tim thứ hai, tuy nhiên trái tim này ở xa trung tâm và
dễ bị nhiễm lạnh nhất. Ban đêm nếu chân lạnh, dòng máu lưu thông từ chân
trở về tim sẽ mang khí lạnh khiến cơ thể dễ nhiễm bệnh, và làm tim tiêu
hao năng lượng để sưởi ấm máu.
Vì
vậy ngâm chân bằng nước ấm vào ban đêm chính là cách tốt nhất để bảo vệ
sức khoẻ cho cơ thể, nhất là những ngày đông lạnh hay lúc cơ thể bị cảm
lạnh. Nước ấm giúp mạch máu nỡ ra, giúp cơ thể trao đổi chất được nhiều
hơn.
Cách
thức: Ngâm chân với lượng nước ấm vừa phải từ 40-50 độ C, nước ngang
mắt cá chân , ngâm từ 5-10 phút trước khi đi ngủ. Có thể rắc 1 chút
muối, có tác dụng diệt khuẩn, sẽ giúp làm sạch bề mặt da và các khoé
móng. Sau khi ngâm nhớ lau thật khô bàn chân cũng như khoé móng. Ngâm chân bằng nước ấm (nguồn: internet)
3. Tắm nắng cho chân
Cũng
giống như ngâm chân bằng nước ấm, tắm nắng cho chân cũng là một biện
pháp tuyệt vời để sưởi ấm cơ thể, giúp khí huyết lưu thông, trao đổi
chất hiệu quả. Sáng sớm hoặc chiều tà là khoảng thời gian tuyệt nhất để
tắm nắng.
Bạn
hãy cởi hết giày tất, để hai bàn chân về hướng mặt trời sưởi nắng 20-30
phút, các chuyên gia cho rằng đây là biện pháp tắm trần cho chân. Điều
kỳ diệu của biện pháp này là làm cho tia tử ngoại trong ánh nắng mặt
trời trực tiếp chiếu rọi vào lòng bàn chân, thúc đẩy toàn thân trao đổi
chất, tăng nhanh tuần hoàn máu, nâng cao hoạt lực cho các cơ quan nội
tạng, làm cho chức năng của các bộ phận trong cơ thể được phát huy dồi
dào.
Cách này có hiệu quả chữa trị khá tốt đối với các bệnh như huyết áp thấp, thiếu máu, viêm mũi, bệnh còi xương v.v.
4. M***age chân
Như
đã trình bày ở trên, chân là nơi tập trung của hầu hết các đường kinh
mạch lớn của cơ thể, và tập trung nhiều huyệt quan trọng bổ trợ cho ngũ
tạng. Vậy nên xoa bóp, bấm huyệt giúp kinh mạch lưu thông, có thể gián
tiếp điều chỉnh những bất ổn hay thiếu xót trong cơ thể, tránh được bệnh
tật.
Cách làm cụ thể là mỗi lần rửa chân thì m***age toàn bộ phần chân 1-2 lần, mỗi lần khoảng 30-40 phút. Ngâm chân bằng nước ấm (nguồn: internet)
5. Vận động ngón chân tốt cho bao tử
Các
nhà y học Nhật bản gần đây đã nghiên cứu và phát hiện, thường xuyên vận
động ngón chân có thể làm mạnh khỏe bao tử. Lý luận kinh lạc cho rằng,
kinh lạc của dạ dày là nằm giữa ngón chân thứ 2 và thứ 3, nguồn huyệt
của bao tử cũng nằm ở vị trí đốt ngón chân. Vì vậy, chúng ta nên luyện
tập ngón chân thứ 2 và thứ 3 giúp 2 ngón có tính đàn hồi, linh hoạt.
Ngoài ra, người có chức năng bao tử mạnh, khi đứng thẳng thì ngón chân
cũng bám rất chắc. Người có chức năng dạ dày yếu thì nên thường xuyên
luyện tập các ngón chân.
Cách
làm rất đơn giản mỗi ngày bất cứ khi nào rảnh bạn cho các ngón chân cử
động, dùng 2 ngón thứ 2 và 3 gắp đồ… Cứ luyện tập dần dần như vậy chức
năng của bao tử sẽ mạnh dần lên.
6. Đấm chân luyện tập sức khỏe
Sau mát xa, ngâm chân nước ấm thì đấm chân cũng là 1 cách tác động lên các huyệt đạo, giúp khí huyết lưu thông.
Dùng
một cây gậy đấm lưng đấm nhẹ lên lòng bàn chân, mỗi lần khoảng 50-100
cái, làm cho chúng ta có cảm giác nhức, tê, nóng, sưng, lần lượt đấm từ
chân trái rồi chân phải. Thông qua đấm chân để kích thích hậu tố thần
kinh dưới chân, thúc đẩy tuần hoàn máu, có thể đạt được hiệu quả khỏe
mạnh và phòng chống bệnh tật.
7. Lắc chân giải tỏa mệt mỏi
Nằm
ngửa, hai chân nhắc lên cao, sau đó lắc đi lắc lại hai chân, cuối cùng
chuyển động một cách có tiết tấu giống như đạp xe đạp, mỗi lần làm từ
5-6 phút. Cách này có thể thúc đẩy toàn thân tuần hoàn máu, giải tỏa cảm
giác mệt mỏi.
8. Cọ xát chân thư giãn gân cốt
Bỏ
giày, đặt một vật hình tròn to như quả bóng tennis vào lòng bàn chân,
chuyển động qua lại 1-2 phút, như thế có thể giúp cho chúng ta phòng
chống chuột rút ở chân hoặc mệt mỏi quá độ. M***age chân bằng bóng tennis (nguồn : internet)
9. Ấm chân phòng bệnh
Hàn
lạnh bắt đầu từ chân, cho nên mùa đông chúng ta phải đặc biệt chú ý.
Lòng bàn chân cách xa tim, lượng máu cung ứng ít, bề mặt có liên kết với
thần kinh của đường hô hấp trên, đặc biệt là có liên kết chặt chẽ với
niêm mạc mũi. Vì vậy không nên xem nhẹ giữ ấm cho chân, nếu không sẽ dễ
bị cảm, trúng gió. Nếu bạn bị nghẹt mũi, cảm lạnh, có thể dùng dầu gió
thoa một ít ở lòng bàn chân, cũng là 1 cách giữ ấm và chữa bệnh hiệu
quả.
10. Chăm sóc chân đuổi bệnh
Móng
chân chỉ cần một chút là có thể bong ra khỏi ngón và vùng đó có thể sẽ
bị viêm nhiễm do vi khuẩn. Để tránh trường hợp này chúng ta có thể
thường xuyên cắt móng chân để tránh móng chân bị gãy đột ngột. Ngoài ra,
khi cắt móng chân không nên để móng chân nhọn, hai bên móng cũng không
nên cắt quá ngắn, nếu không móng chân sẽ châm vào da và ảnh hưởng đến sự
phát triển của thịt móng phía trong.
Qua
10 phương pháp đơn giản trên bạn đã có thể chăm sóc bàn chân để cơ thể
khỏe mạnh. Hãy nhớ kiên trì và bền bỉ để có được hiệu quả tốt, ngoài ra
cách đơn giản nhất để bảo vệ chân là không nên đứng quá lâu, m***age
chân trước khi đi ngủ.
Chúc bạn luôn có 1 sức khỏe tràn trề.
st.
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
|
Gởi ngày: 14/Oct/2020 lúc 7:24am |
Thủy
tổ loài người đã dùng mảnh đá nhọn để mổ lấy gai của cây cối đâm vào chân khi
đi bộ săn bắn thú rừng, kiếm thực phẩm. Đá, kim loại sắc nhọn được dùng để
khoan lỗ trên sọ, chữa nhức đầu, động kinh cũng như mở đường xua đuổi tà ma gây
bệnh xâm nhập lũng đoạn não bộ.
Luật
lệ Babylonians Ai Cập xưa quy định tưởng thưởng mười tiền khi y sư giải phẫu
thành công cho một vị vương giả, năm tiền khi là thường dân và hai tiền nếu bệnh
nhân là tên nô lệ. Nhưng nếu chẳng may mổ xẻ lại gây ra thiệt mạng cho vương
gia thì thầy thuốc bị trừng phạt chặt bỏ một bàn tay.
Quan
Công uống rượu, đánh cờ, quên đau để Hoa Đà sồn sột cạo mổ vết thương làm độc
do mũi tên độc hiểm của phe Tào Tháo gây ra.
Thành
ra giải phẫu đã là phương tiện trị liệu từ thuở mới có loài người trên trái đất. Ngày
nay, với đà tiến bộ của y khoa học, người ta đã không những giải phẫu để chữa bệnh,
mà còn thay tim, ghép thận, cấy gan, biến hình dạng xấu thành mĩ miều như Phan
An, Hằng Nga tiên nữ.
Theo
thống kê, hàng năm bên Mỹ có khoảng trên dưới hai chục triệu người trải qua một
cuộc giải phẫu nào đó. Tại các quốc gia khác, con số cũng cao không kém, tùy
theo nhu cầu, dân số nhiều ít.
Giải
phẫu có thể là để cấp cứu mạng sống hoặc đã được hoạch định trước; có thể là tiểu
hoặc đaị; cần thuốc tê tại chỗ hoặc phải gây mê tổng quát; trong bệnh viện hoặc
tại phòng mạch tư, mổ xong về liền. Nhưng bao giờ cũng phải do lương y được huấn
luyện, có kinh nghiệm chuyên môn thực hiện.
Và
tương quan thầy thuốc- bệnh nhân phải được xác định rõ ràng. Giống như trong
thương trường, thuận mua vừa bán. Thầy thuốc phải giải thích lợi hại về giải phẫu
cho bệnh nhân. Bệnh nhân phải thấu hiểu thiện ý “lương y như từ mẫu” của phẫu
thuật gia, mục đích và hậu quả của phương thức trị liệu. Cảm thông trước giải phẫu
Để
có tương quan tốt đẹp này, đôi bên cần có vài sửa soạn tiền giải phẫu. Đó là
chuyện nhỏ nhưng nếu không làm thì sẽ thành to chuyện, mích lòng nhau. Đôi khi
lại “đáo tụng đình”.
Trước
ngày ra tay dao kéo, phẫu thuật gia phải ước định tình trạng sức khỏe tổng quát
người bệnh dựa trên kết quả của y sử, khám xét tổng quát cơ thể, thử nghiệm
máu, nước tiểu, chụp hình, siêu âm, coi xem có rủi ro cho giải phẫu trước sau.
Rồi giải thích cho bệnh nhân.
Là
bệnh gì? Tại sao cần giải phẫu? Giải phẫu cách nào, ở đâu? Lợi hại của giải phẫu.
Rủi ro có thể xẩy ra. Nếu không giải phẫu thì sẽ ra sao. Bao lâu sẽ bình phục?
vân vân...
Mà
bệnh nhân cũng cần thấu hiểu nội tình trước khi “nhắm mắt đưa chân”, quyết
định lên bàn mổ.
Tại
sao cắt bỏ? Có cách chữa nào khác không? Nếu không mổ tôi sẽ ra sao? Mổ xong
tôi có đánh tennis được không? Nằm bệnh viện mấy ngày? Bao giờ thì nấu cơm cho
chồng con, đưa vợ đi coi mua nhà mới được? À mà tôi phải trả bao nhiêu tiền
tươi? Đồng tiền liền khúc ruột mà. Nhiều bệnh nhân kỹ càng còn hỏi thêm cả về
kinh nghiệm, khả năng chuyên môn của phẫu thuật gia.
Yếu tố ảnh hưởng tới giải phẫu
Bệnh
nhân cũng cần biết những yếu tố có thể ảnh hưởng tới giải phẫu.
Như là: a-Tuổi
tác:
Tuổi
không là một cấm kỵ với giải phẫu, nhưng có thể có nguy cơ tử vong cao hơn sau giải
phẫu. Theo thống kê, với đại giải phẫu, một lão nhân 80 tuổi có tỷ lệ tử vong
là 5%, trong khi người trẻ chỉ có 2%.
Kết
quả nhiều nghiên cứu cho hay, đây có thể là sự trùng hợp, khi người tuổi cao có
vài bệnh kinh niên và sức chịu đựng của họ chắc không bằng người trẻ hơn mình. b-Phái
tính.
Theo
thống kê, nam giới có nhiều rủi ro hậu giải phẫu hơn quý bà. Nguyên do có thể
là các ông hay bị bệnh tim mạch hơn, thường lơ là trong việc chăm sóc sức khỏe,
khám bệnh rồi lại còn tứ đổ tường, rượu, thuốc lá nhiều hơn c-Tình
trạng sức khỏe.
Bảng
phân loại sức khỏe của Hội Tê Mê Hoa Kỳ phân chia hậu quả của tình trạng sức khỏe
với sau giải phẫu làm năm loại:
-Loại một trong đó sức khỏe tốt không ảnh
hưởng gì tới giải phẫu;
-Loại hai có vài rủi ro nhưng không có vấn
đề sức khỏe trầm trọng nào;
-Loại ba có bệnh tật giới hạn sinh hoạt của
bệnh nhân nhưng chưa bất khiển dụng;
-Loại bốn với bệnh tật khiến không có khả
năng sinh hoạt;
Loại năm hấp hối, không qua khỏi 24 giờ.
Rủi ro giải phẫu tăng từ 0,1% cho loại 1;
5% cho loại 3 và trên 20% cho loại 5.
d-Đang
có bệnh.
Đây
là rủi ro lớn cho giải phẫu, nhất là khi có bệnh tim, cao huyết áp, bệnh phổi,
tiểu đường, suy gan, bệnh thận. Các bệnh này cần được điều trị, kiểm soát trước
khi quyết định mổ. e-Tình
trạng dinh dưỡng.
Nếu
trước khi giải phẫu mà sức nặng cơ thể giảm 20% thì tỷ lệ tử vong cao hơn tới 6
lần, biến chứng nhiều hơn tới 4 lần, so với người dinh dưỡng đầy đủ.Trong khi
đó thì mập phì đôi khi lại có thể gây rủi ro trong khi đánh thuốc mê hoặc sau
giải phẫu, như là máu đóng cục, khó khăn hô hấp, tuần hoàn.
g-Tình
trạng tâm trí.
Bệnh
nhân lú lẫn , không tự chăm sóc được, thường có nhiều rủi ro hơn người bình thường
tới 50%, nhất là các biến chứng sau khi giải phẫu.
h-Rượu,
thuốc lá, các dược phẩm đang dùng cũng có ảnh hưởng tới giải phẫu.
Rượu
có thể khiến ta phản ứng khác thường với thuốc gây mê; thuốc lợi tiểu ảnh hưởng
tới thành phần hóa chất của máu; thuốc loại steroid ảnh hưởng tới sức chịu đựng
của cơ thể với giải phẫu.
Cho
nên cần cho bác sĩ hay mọi thứ thuốc đang dùng cũng như không rượu, không nhiều
nicotine trước khi mổ.
i-Loại
giải phẫu.
Tiểu
giải phẫu ít rủi ro hơn đại giải phẫu; giải phẫu đã định trước ít khó khăn hậu
giải phẫu hơn khi cần mổ xẻ cấp cứu; cắt da quy đầu mau hồi phục hơn bắc cầu by
p*** mạch máu tim...
Rủi ro chuyên môn
Trên
đây là những nguy cơ từ phía bệnh nhân. Cũng có những rủi ro từ phía người và
nơi cung cấp dịch vụ.
Ông
thầy mổ bất cẩn, kém kỹ thuật chuyên môn; người đánh thuốc mê ngủ gật; cô y tá
tiêm lộn thuốc; bệnh viện không trang bị đầy đủ phương tiện cấp cứu, giải phẫu;
nhiễm trùng vì môi trường xấu trong nhà thương; sang nhầm loại máu hoặc máu nhiễm
bệnh phong tình, viêm gan.
Lại
còn lợn lành chữa thành lợn què, thận đang tốt bị lấy đi, để lại thận hư hao,
cườm mắt trái mổ mắt phải
Theo
thống kê, mấy thầy mổ xương là hay lẫn bên phải bên trái. Cho nên từ năm 1997 hội
đoàn y sĩ ngành này đã yêu cầu trước khi mổ, phẫu gia phải ghi vào hồ sơ bằng mực
không tẩy xóa được là đã nói chuyện với bệnh nhân về diễn tiến công việc sẽ
làm.
Giấy đồng ý giải phẫu
Sau
khi hiểu rõ mọi chuyện, bệnh nhân được yêu cầu ký Giấy Ưng Thuận- Hiểu Rõ.
Tiếng Anh gọi là “Informed Consent”.
Quan
niệm Informed Consent này đặt căn bản trên niềm tin rằng con người có quyền kiểm
soát đời sống và cơ thể mình.
Hiến
pháp nhiều quốc gia có ghi: Do bản năng, mọi người đều được tự do và tự chủ và
có những quyền không thể chuyển nhượng được. Trong số những quyền này là an hưởng
và bảo vệ đời sống; tạo mãi và duy trì tài sản; đeo đuổi và được sự an toàn, hạnh
phúc cũng như có riêng tư cá nhân. Hiến pháp Hoa kỳ có ghi quyền được tự do một
mình (right to be alone).
Luật
lệ xác định là khi có một sự liên hệ thầy thuốc-bệnh nhân, thì thầy thuốc có bổn
phận phải cung cấp cho bệnh nhân các tin tức cần thiết để bệnh nhân có thể quyết
định một cách hợp lý sự điều trị nói chung và giải phẫu nói riêng. Và cả quyền
từ chối điều trị.
Lấy
IC là nhiệm vụ của người thầy thuốc. Tuy nhiên, họ có thể ủy cho nhân viên phụ
tá làm việc giải thích cho bệnh nhân. Nhưng nếu có chuyện gì xẩy ra thì trách
nhiệm vẫn là bác sĩ. Vị này không thể chạy tội bằng “Xin lỗi, nhân viên của tôi
quên không nói cho bà ta hay rằng, cắt thịt dư có thể đưa tới thay đổi dọng
nói”.
Không
lấy IC là phạm tội cẩu thả và đã có thời kỳ bi coi như một sự hành hung, xâm phạm
cơ thể người khác.
Khi
bệnh nhân không ký IC thì bác sĩ cũng phải yêu cầu họ ký giấy từ chối sau khi
giải thích cặn kẽ về những rủi ro có thể xẩy ra nếu không điều trị.
Nếu
vì lý do nào mà bệnh nhân không hiểu được lợi hại của giải phẫu, không minh mẫn
để ký giấy IC, bác sĩ phải hành động căn cứ vào quyết định của thân nhân hoặc
người chăm sóc hợp pháp. Đặc biệt là sau tai nạn, thương tích trầm trọng, bệnh
nhân bất tỉnh, hôn mê. Vì cứu bệnh như cứu hỏa.
Một
điểm quan trọng trước khi quyết định giải phẫu, là phải nắm vững các vấn đề. Nếu
vẫn chưa đả thông thì lấy Ý Kiến Thứ Hai, thứ ba. Đó là Second Opinion.
Second
Opinion là để mình hiểu rõ bệnh tình của mình hơn trước khi quyết định.
Đây
là một quyền của ta và các bác sĩ cũng khuyến khích bệnh nhân sử dụng. Đừng ngần
ngại, sợ mích lòng “Ông Bà Thầy từ trước tới giờ vẫn tốt và thực thà với
mình.- Tin nhau là quý”. Có thể xin thầy thuốc gới thiệu cho một bác sĩ
chuyên khoa khác hoặc hỏi bạn bè, nhân viên y tế giúp tìm người chuyên môn,
kinh nghiệm về giải phẫu của mình, để xin thêm ý kiến.
Second
opinion có thể không khác mấy với ý kiến ban đầu, nhưng sẽ làm mình yên tâm
hơn. Medicare và hầu hết các bảo hiểm sức khỏe đều đồng ý trả y phí cho việc
tham khảo thêm này.
Ngoài
ra, giải phẫu đôi khi không phải là đáp số duy nhất cho bệnh tình của mình. Còn
có những trị liệu không dao kéo như thuốc men, dinh dưỡng, thay đổi nếp sống, y
khoa phục hồi. Nếu bệnh không thập tử nhất sinh thì ta có thể chờ đợi xem sao,
sau khi cân nhắc hơn thiệt với bác sĩ điều trị.
Thống
kê cho hay, second opinion giảm thiểu bắc cầu động mạch tim tới 50% vì giải phẫu
không cần thiết. Sao
lại có chuyện cần thiết với không cần thiết nhỉ!?.
Vâng,
vì lòng người đôi khi cũng không trong sáng. Một số môn đệ Hoa Đà, Hippocrates
đặt lợi nhuận trên lợi ích điều trị, cảm nghĩ cá nhân trên luận cứ y khoa học.
Thống
kê đã nêu ra các giải phẫu không vì mục đích điều trị thường thấy nhất là cắt bỏ
tử cung và túi mật, by p*** động mạch tim.
Thầy
thuốc nói nghẹt bốn năm mạch máu trên tim, mà mình chẳng thấy triệu chứng gì,
nên còn do dự. Nhưng “không mổ thì tiêu tùng đấy nhé”. Thế là nhắm mắt
lên bàn, hít thở thuốc mê, tỉnh dậy trả tiền.
Nói
vậy không có nghĩa là nghi ngờ “lòng tốt” của giải phẫu gia.
Nội
xuất huyết vì bao tử loét thủng lỗ, xương sườn gẫy đâm vào phổi, ruột dư hành
mà không giải phẫu ngay thì chỉ có “hai năm mươi”.
Ung
thư da mà không cắt bỏ; cườm mắt mà không laser, trật xương sống liệt chân mà
không giải tỏa thì sao cho khỏi bệnh.
Nhiều
khi giải phẫu cũng để phòng ngừa biến chứng, tái tạo phần hư hao.
Tóm
lại là giải phẫu có thể cứu sống ta, làm ta lành bệnh, ngăn ngừa biến chứng, di
căn, phục hồi chức năng, bộ phận. Và cả thẩm mỹ khiến ta đẹp, trẻ dễ thương
hơn.
Kết
luận.
Giả
tưởng .“Sau vài giờ nằm trên bàn mổ, thiêm thiếp đi vào giấc mộng du, mặc
tình cho tay thầy thuốc tín nhiệm trổ tài với trái tim nhỏ bé thân thương nhưng
kém chức năng của mình, bác Minh tỉnh dậy thấy mình khỏe mạnh như Hercule. Ông
vươn vai đứng lên, trả bill, chào tạm biệt toán thợ mổ rồi cặp tay bà xã ra về,
trong lòng thơ thới. Thế là từ nay ta mặc sức enjoy cuộc đời, không còn sợ tim
ngưng bất tử.
Mà
thầy giải phẫu cũng hân hoan, hãnh diện với việc làm cứu nhân độ thế của mình.
Đồng thời lại có thêm tí tiền còm, phụ thêm cho chuyến du lịch cùng vợ con lên
cung trăng thăm chị Hằng vào Trung Thu năm nay và mua mảnh đất cạnh cây đa của
chú Cuội để xây nhà nghỉ mát mùa Hè”.
Thế
là đôi bên lưỡng lợi. Vì đã áp dụng kinh nghiệm của các cụ ta: “Thà mất lòng
trước, được lòng sau”, còn hơn cả nể rồi mai mốt kéo nhau ra Ba Tòa Quan Nhớn
mà tranh luận phải trái, ký kết bồi thường thiệt hại bên này, bên kia…
Bác
sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|