Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Sức Khỏe - Y Tế | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Khoa Học - Kỷ Thuật :Sức Khỏe - Y Tế |
Chủ đề: CÁC THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE | |
<< phần trước Trang of 179 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 21/Sep/2018 lúc 11:41am |
Tắm đúng cách để trị bịnh Theo Đông y , con người là một "tiểu
Thiên-Địa" với đầy đủ Âm Dương, Ngũ Hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ . Khi
tất cả những yếu-tố đó vận-hành trơn tru thì con người sẻ khỏe mạnh ,
ngược lại nếu bị rối loạn tất sẻ sinh ra các thứ bệnh tật cho cơ-thể !
Mà một nguyên-nhân thường do chính chúng ta gây nên sự rối loạn là TẮM
KHÔNG ĐÚNG CÁCH ! 1/ Ngậm một ngum nước (nước mà ta sắp dùng để
tắm vào người), dùng lưỡi đảo nước trong miệng vì dưới lưỡi có 2 huyệt
-đạo rất quan-trọng cho cơ-thể Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Sep/2018 lúc 11:51am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 22/Sep/2018 lúc 7:36am |
Ăn Tối Là Ăn Cho Kẻ Thù
Ăn tối nhiều, ăn ngon và ăn trễ, gây ra bệnh phì lũ, cancer và sạn thận.
1. Bữa tối và béo phì.
90% Người béo phì là do ăn tối quá bổ dưỡng, ăn quá nhiều, hơn nữa
buổi tối hoạt động ít, tiêu thụ lượng calo ít, lượng calo dư thừa dưới
tác dụng của insulin trong cơ thể tổng hợp thành chất béo, mỡ tự nhiên
hình thành.
2. Bữa tối với bệnh tiểu đường
Ăn bữa tối quá no suốt một thời gian dài, thường kích thích
tiết tố insulin, có thể dễ dàng làm tăng chất tăng trọng insulin, đẩy
nhanh quá trình lão hóa,và dẫn đến nguy cơ bị bệnh tiểu đường. Bữa tối
ăn quá nhiều, ăn quá bổ, hình thành béo phì, mặt khác cũng dẫn đến bệnh
tiểu đường.
3. Bữa tối và ung thư ruột kết.
Bữa tối, nếu bạn ăn quá đầy đủ, các thực phẩm chứa protein
không thể tiêu hóa hoàn toàn, dưới tác dụng của các vi khuẩn bên trong
đường ruột sẽ sản sinh ra một số chất độc hại,cộng với việc hoạt động ít
khi chìm vào trạng thái ngủ, làm cho nhu động ruột chậm lại, kéo dài
thời gian kết tủa của các chất độc hại trong ruột, tăng tỷ lệ mắc ung
thư đại tràng.
4. Bữa tối và sỏi thận.
Canxi trong cơ thể người sẽ tăng cao nhất sau bữa ăn 45 giờ,nếu ăn tối quá muộn, khi lượng canxi tăng lên cao điểm, thường là lúc cơ thế đang chìm vào giấc ngủ, đồng thời nước tiểu trong niệu quản, bàng quang, niệu đạo và đường tiết niệu khác không thể bài tiết, dẫn đến tăng canxi niệu, dễ dàng tạo thành các tinh thể nhỏ,về lâu dài sẽ mở rộng và hình thành sỏi.
5. Bữa tối và mức độ tăng lipid máu.
Bữa tối nếu nạp lượng protein, chất béo, calo cao, sẽ kích
thích gan sản sinh các lipoprotein ở mật độ cực thấp, triglycerides cũng
có xu hướng tăng lên, dẫn đến tăng lipid trong máu.
6. Bữa tối và tăng huyết áp.
Nếu thực đơn trong bữa tối là thịt, cá, cộng với tốc độ lưu
thông máu chậm lại trong khi ngủ, một lượng lớn các chất béo sẽ tích tụ
trong mạch, khiến động mạch co lại hẹp hơn, hỗ trợ tăng trưởng mạch máu
ngoại vi, làm cho huyết áp dễ dàng đột ngột tăng cao, hơn nữa còn tăng
tốc xơ cứng hệ thống tiểu mạch.
7. Bữa tối với xơ vữa động mạch và bệnh tim.
Chế độ dinh dưỡng bữa tối với hàm lượng chất béo quá cao, nhiệt
lượng cao có thể sinh ra cholesterol rồi tích tụ trong thành động mạch
gây xơ vữa động mạch và nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh tim. Ngoài ra,
còn một lý do dẫn đến sự hình thành xơ vữa động mạch, là sự lắng đọng
canxi trong huyết quản, vì dinh dưỡng quá nhiều vào bữa tối và ăn tối
quá muộn, là những lý do dẫn đến bệnh tim mạch.
8. Bữa tối và gan nhiễm mỡ.
Nếu bạn ăn tối quá bổ dưỡng, ăn quá nhiều, nồng độ của các axit
béo và glucose sẽ đẩy nhanh quá trình tổng hợp chất béo,cộng thêm việc
ít hoạt động vào ban đêm,cũng đẩy nhanh việc chuyển hóa chất béo, hình
thành gan nhiễm mỡ.
9. Bữa tối và viêm tụy cấp tính.
Bữa tối nếu ăn uống quá nhiều, còn sử dụng rượu, dễ dàng gây ra viêm tụy cấp tính,thậm chí khiến bạn sốc trong khi ngủ, đột tử.
10. Bữa tối và thoái hóa não.
Nếu duy trì thói quen ăn quá nhiều bữa ăn tối, khi ngủ, dạ dày,
gan, túi mật, tuyến tụy và các cơ quan khác gần đó vẫn đang hoạt động,
khiến cho não bộ không thể nghỉ ngơi, máu lưu thông lên não không đủ, do
đó ảnh hưởng đến các tế bào bình thường của não chuyển hóa, tăng tốc
lão hóa não. Những thanh niên thường ăn tối như một ông hoàng sẽ dẫn đến
một trong năm nguy cơ chính gây mất trí nhớ lúc về già.
11. Bữa tối và chất lượng giấc ngủ.
Dùng bữa tối quá thịnh soạn và ăn quá no, chắc chắn sẽ dẫn đến dạ
dày, gan, túi mật, tuyến tụy tiếp tục làm việc trong khi ngủ, thông qua
đó gửi thông điệp lên não, não ở trạng thái kích thích, dẫn đến ngủ mơ,
mất ngủ, theo thời gian sẽ dẫn đến suy nhược thần kinh và các bệnh khác.
Sưu tầm
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 24/Sep/2018 lúc 9:43am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 26/Sep/2018 lúc 8:12am |
Xoa Bóp Bàn Chân
M***age: Foot Reflexology
How to do Reflexology – M***age Techniques
Bàn
chân có mối liên quan mật thiết tới lục phủ ngũ tạng, ảnh hưởng tới sức
khỏe của con người. Thí dụ : Mu ngón chân út có liên quan đến bàng
quang, mu ngón chân thứ hai có liên quan đến dạ dày, ngón thứ tư có liên
quan đến gan, ngón chân cái có liên quan đến gan, tì, lòng bàn chân có
liên quan đến thận…
Xoa bóp hai bàn chân không những thúc đẩy máu cục bộ lưu thông, cải thiện việc trao đổi chất dinh dưỡng, làm cho cơ, xương, khớp mềm mại, dẻo dai, mà còn làm thông kinh hoạt lạc, tăng cường sức đề kháng và chống các bệnh tật của toàn thân. Khi day hoặc bấm các huyệt vi ở bàn chân còn có tác dụng chữa được bệnh, phòng bệnh, kéo dài tuổi xuân và tăng thêm tuổi thọ… Sau đây là kỹ thuật xoa bóp bàn chân giúp bạn đọc tham khảo, áp dụng:
Tư
thế ngồi, chân trái đặt lên trên đầu gối chân phải, tay trái giữ bàn
chân, tay phải áp sát vào gan bàn chân xoa và xát theo chiều dọc bàn
chân 20 lần, làm từ nhẹ đến mạnh, từ chậm đến nhanh. Bàn chân sẽ nóng
dần lên là tốt.
Xoa bóp mu bàn chân
BS. Đình Thuấn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 28/Sep/2018 lúc 8:21am |
Ích Lợi Của Thực Phẩm
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 01/Oct/2018 lúc 6:50am |
Sữa Bò và Sức Khỏe
Sữa có thể giúp ngăn ngừa ung thư, làm bớt sâu răng, chống nhiễm vi khuẩn. (Hình: health.clevelandclinic.org)
Ngoài giá trị dinh dưỡng, sữa bò còn có một số ích lợi về y học cũng
như có thể gây ra một vài trở ngại cho người dùng sữa. Vì thế, khi dùng
thì cũng cần phải có những hiểu biết nhất định.
Lợi ích về y học
Nhiều nghiên cứu y khoa học cho thấy sữa có một số ích lợi đối với sức khỏe.
a- Ngăn ngừa bệnh loãng xương, còn gọi là bệnh xương xốp. Loãng xương
thường xảy ra ở người cao tuổi nhất là nữ giới vào thời kỳ mãn kinh,
kích thích tố nữ estrogen giảm thiểu. Loãng xương dễ đưa đến gãy xương,
đặc biệt là xương đùi.
Loãng xương có thể tránh được nếu ta dùng đủ số lượng calcium cần
thiết, tức là khoảng 1,200 mg mỗi ngày. Ba ly sữa không chất béo cung
cấp đủ số calcium này.
b- Vì được tăng cường thêm sinh tố D nên sữa có thể ngăn ngừa bệnh còi xương trẻ em. c-Một nghiên cứu tại bệnh viện St. Luke, New York, cho hay uống thêm 1,200 mg calcium mỗi ngày có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu của hội chứng tiền kinh nguyệt. Sữa bò có nhiều calci nên có thể được dùng làm nguồn cung cấp calci dễ dàng.
d- Năm 1985, Bác Sĩ Cedric Garland thuộc trường Đại Học California-San
Diego, công bố kết quả quan sát hơn 2,000 người đàn ông trong 20 năm.
Ông ta thấy rằng những người mỗi ngày uống hai, ba ly sữa thì có ruột
già tốt lành hơn và cũng ít bị ung thư hơn người không uống sữa. Một
nghiên cứu khác ở Úc vào năm 1987 cũng xác định nhận xét này.
Tạp san của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ (JAMA) số ra ngày 23 Tháng Chín,
1998, có đăng kết quả một cuộc nghiên cứu, theo đó sữa và các phó sản
như pho mát, kem… đang trở thành những công cụ hữu hiệu trong việc ngăn
ngừa ung thư ruột.
Nhiều khoa học gia cho rằng đó là nhờ sữa có nhiều calcium. Trong
ruột khoáng chất này vô hiệu hóa acid mật (bile acid), một chất được coi
như có nguy cơ gây ra ung thư ruột già.
e- Theo Bác Sĩ George Mann thì sữa đã bỏ bớt chất béo có thể làm hạ mức độ cholesterol trong máu. Một nghiên cứu bên Nhật Bản cũng tìm thấy cùng kết quả là ở loài chuột, sữa ít béo làm bớt những bựa cholesterol bám trong động mạch. f- Nhờ nhiều calci nên sữa có thể làm hạ huyết áp. Kết quả nghiên cứu của Viện Tim, Phổi và Huyết Học Quốc Gia tại Hoa Kỳ cho hay người không uống sữa bị cao huyết áp nhiều gấp đôi người uống sữa mỗi ngày. g- Những người nghiện thuốc lá nếu uống nhiều sữa sẽ ít bị viêm cuống phổi kinh niên hơn so với người hút thuốc mà không uống sữa. Đó là kết quả nghiên cứu của các khoa học gia tại đại học danh tiếng John Hopkins bên Hoa Kỳ.
h- Đã từ lâu, các cụ ta vẫn biết là sữa có công dụng làm giảm các dấu
hiệu khó chịu khi bị loét bao tử. Cách đây vài chục năm, một nghiên cứu
tại Đại Học Harvard cũng thấy là nhóm sinh viên uống nhiều sữa ít bị
viêm bao tử hơn nhóm không uống sữa. Đó là nhờ chất prostaglandin có
trong sữa.
Nhưng nên chú ý rằng nếu đã bị viêm bao tử thì sữa lại làm bệnh trầm trọng hơn vì sữa kích thích dạ dầy tiết ra nhiều acid.
i- Kết quả nghiên cứu của Bác Sĩ Robert Yolken, Đại Học Y Khoa Johns Hopkins, Baltimore cho hay sữa bò chứa một loại kháng thể có khả năng bảo vệ trẻ em khỏi bị chứng tiêu chảy gây ra do Rotavirus. j- Nhiều người tin là muốn dễ dàng đi vào giấc ngủ thì uống một ly sữa nóng trước khi lên giường, vì hóa chất tryptophan trong sữa làm dịu các sinh hoạt não. Nhưng một số nghiên cứu khác lại cho rằng sữa, nhất là sữa ít béo, làm ta tỉnh táo, khó ngủ hơn.
k- Ngoài ra sữa còn được cho là có khả năng ngăn ngừa ung thư, làm bớt sâu răng, chống nhiễm vi khuẩn…
Tuy nhiên, sữa là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra dị ứng, với các
triệu chứng như nổi ban ngứa trên da, sưng môi và mi mắt, khó chịu trong
hệ tiêu hóa. (Hình: health.clevelandclinic.org)
Dị ứng – bất dung sữa
Dị ứng và bất dung với một thực phẩm là hai hiện tượng hoàn toàn khác biệt.
Không dung nạp sữa là không dùng được sữa vì không tiêu hóa được
đường lactose trong sữa. Những người này không có diếu tố lactase trong
cơ thể, đặc biệt thường thấy ở người Châu Á và Châu Phi. Diếu tố này
chuyển hóa lactose thành glucose và galactose, là các dạng dễ tiêu hóa
hơn. Người không dung nạp mà vẫn uống sữa thì thấy đầy bụng, đi tiêu
chảy, lâm râm đau bụng.
Dị ứng với sữa là những trường hợp mà cơ thể phản ứng, đôi khi rất
mạnh, với chất đạm trong sữa. Dị ứng sữa khá hiếm và cần được sự xác
định cũng như hướng dẫn giải quyết bởi các giới chức y khoa chuyên môn.
Theo nhiều nghiên cứu, một người dù có bất dung với sữa có lactose
vẫn có thể uống được một vài ly sữa mỗi ngày nếu biết áp dụng một vài
biện pháp như sau:
- Uống sữa từng ít một, chia làm nhiều lần trong ngày cùng với bữa ăn chính hoặc thời gian giữa các bữa ăn.
- Có thể dùng pho-mát hay sữa chua thay cho sữa hoặc chọn loại sữa đã được giảm bớt lactose.
- Dùng kèm với men lactase dạng tổng hợp (Lactaid) hiện có bán trên
thị trường. Có thể uống một viên hay mươi giọt Lactaid trước khi uống
sữa.
Calci trong sữa
Calci có trong rất nhiều loại thực phẩm, nhưng theo nhiều nhà dinh
dưỡng thì sữa vẫn là nguồn cung cấp calci nhiều và tốt hơn cả.
Theo mức tiêu thụ hiện nay, sữa cung cấp tới 73% tổng số calcium
trong tất cả các loại thực phẩm, và calcium trong sữa được cơ thể hấp
thụ dễ hơn. Không thực phẩm nào cung cấp được lượng calcium tương dương
như sữa.
Chẳng hạn như muốn có lượng calcium tương đương với một ly sữa , ta
phải ăn bốn ly súp lơ trắng, bốn ly đậu, ba ly cải xoăn, hoặc một ly hạt
hạnh nhân.
Ngoài ra sữa còn có nhiều chất đạm, riboflavin, sinh tố A và D có thể giúp sự hấp thụ calci dễ dàng hơn.
Nhiều người cũng e ngại là nếu dùng nhiều calci quá thì có hại.
Theo các nhà dinh dưỡng, mỗi ngày ta cần 1,200 mg calci, với lượng
tối đa có thể chấp nhận được là 2,500 mg và nếu chỉ dùng quá nhiều trong
một vài ngày thì không sao. Nếu dùng nhiều hơn nữa và kéo dài liên tục
thì sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thận, mắt, và gây các triệu chứng như
ăn mất ngon, mệt mỏi, ói mửa, suy nhược…
Sữa mẹ
Hiện nay, không ai phủ nhận việc nuôi con bằng sữa mẹ có nhiều lợi điểm hơn sữa bò. Xin tìm hiểu thêm về vấn đề này.
Các nhà y học đều đồng ý là trẻ bú mẹ được cung cấp những chất dinh
dưỡng hoàn hảo và đầy đủ nhất. Ngoài ra còn có các lợi điểm sau:
a- Sữa mẹ hội đủ những nhu cầu dinh dưỡng của hài nhi trong mấy tháng đầu sau khi sanh.
b- Sữa mẹ không tốn tiền mua, sẵn sàng khi cần mà không phải pha chế. c- Sữa được chứa trong vú, rất an toàn, không sợ nhiễm chất có hại, lại ở nhiệt độ thích hợp, không phải hâm nóng. d- Có sẵn một số kháng thể giúp con tăng cường hệ thống miễn nhiễm e- Sữa mẹ có nhiều đường lactose giúp trẻ hấp thụ calci và sắt dễ dàng hơn cũng như ngăn chặn sự tăng trưởng của vi sinh vật trong ruột. f- Chất đạm trong sữa mẹ chỉ bằng 1/3 trong sữa bò, nhưng dễ tiêu hơn và có nhiều chất làm tăng cường hệ miễn nhiễm của trẻ. g- Chất béo trong sữa mẹ nhiều hơn sữa bò một chút nhưng hầu hết thuộc nhóm bất bão hòa, ít có tác dụng xấu. h- Sữa mẹ có đủ các sinh tố hòa tan trong nước và trong chất béo, ngoại trừ sinh tố D, cho nên trẻ em bú sữa mẹ cần dùng thêm sinh tố này. i- Những giọt sữa non (colostrum) trong mấy ngày đầu sau khi sinh có nhiều chất đạm, ít lactose và chất béo, có nhiều kháng thể. Sữa non có tác dụng nhuận tràng rất tốt và giúp kích thích chức năng bài tiết của ruột. j- Sữa mẹ còn bảo vệ trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng màng não, ruột, hô hấp. .. k- Khi lớn, trẻ em nuôi bằng sữa mẹ cũng ít bị một số bệnh như dị ứng, béo phì, tiểu đường, suyễn, vài bệnh tim, phổi cũng như vài loại ung thư. l- Nuôi con bằng sữa mình, bà mẹ cũng có nhiều lợi ích. Quan trọng nhất là đã tạo ra tình cảm gắn bó, ràng buộc thân yêu mẹ và con. Ngoài ra, khi con ngậm hút núm vú, dạ con của mẹ được kích thích mau co trở lại kích thước bình thường do đó bớt băng huyết. Người mẹ cũng bớt mập.
Đây cũng là cách ngừa thai tự nhiên vì khi cho con bú sữa thì sự rụng
trứng của người mẹ cũng như thời gian trở lại vòng kinh sẽ chậm lại
khoảng 10 tuần lễ, có khi đến một năm.
Người mẹ cũng giảm thấp được nguy cơ ung thư vú và loãng xương khi vào tuổi mãn kinh.
Rủi ro của sữa
Mặc dù có nhiều lợi điểm, nhưng sữa cũng có thể mang lại một số rủi
ro cho người dùng, nhất là khi lạm dụng sữa quá mức bình thường..
a- Là thực phẩm từ động vật, sữa nguyên trạng là nguồn chất béo bão
hòa và cholesterol đáng kể mà hai chất này khi tiêu thụ nhiều lại là
những nguy cơ gây ra bệnh tim mạch. Cho nên cần giới hạn cholesterol
không quá 300 mg và số calori do chất béo không quá 30% tổng số nhu cầu
calori trong ngày. Nếu dùng, nên chọn các loại sữa ít béo hoặc không
béo.
b- Sữa là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra dị ứng, với các triệu chứng như nổi ban ngứa trên da, sưng môi và mi mắt, khó chịu trong hệ tiêu hóa. c- Hiện tượng bất dung sữa có đường lactose, như đã trình bày. d- Sữa tươi chưa nấu có thể nhiễm vi khuẩn Salmonella, Listeria, gây ra các triệu chứng như là ói mửa, tiêu chẩy e- Calci trong sữa có thể làm giảm công hiệu của vài loại thuốc kháng sinh như Terramycin, Minocin, Vibramycin khi dùng chung với nhau. Kết luận
Sữa là nguồn dinh dưỡng dồi dào và thích hợp với mọi lứa tuổi, là
thực phẩm rất tốt cho sức khỏe con người. Chỉ cần hiểu biết đầy đủ và
không lạm dụng thái quá, sữa không mang lại những rủi ro nghiêm trọng về
sức khỏe như một số thực phẩm khác, chẳng hạn như thịt, chất béo…
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 04/Oct/2018 lúc 6:51am |
Có nên ăn lòng trứng đỏ mỗi ngày?
Nhiều người tin rằng, ăn lòng đỏ hằng ngày sẽ có tác dụng ngược gây hại cơ thể.
Trứng là
một trong những thực phẩm phổ biến trong thực đơn hằng ngày vì dễ ăn và
dễ chế biến thành nhiều món khác nhau. Mặc dù trứng từ lâu nổi tiếng là
có nhiều chất dinh dưỡng tốt cho sức khỏe nhưng có nhiều người tin rằng,
ăn nhiều trứng hoặc ăn trứng mỗi ngày, đặc biệt là lòng đỏ, sẽ có tác
dụng ngược gây hại cơ thể.
Để đi tìm
cho câu hỏi liệu ăn lòng đỏ trứng mỗi ngày có thật sự nguy hiểm hay
không, trang mạng Livestrong có buổi phỏng vấn ngắn với chuyên gia dinh
dưỡng Kelly Plowe, chủ nhân trang mạng chuyên về sức khỏe BeachBody on
Demand.
“Nếu cho
tôi chọn 10 món ‘superfood’, chắc chắn sẽ có trứng trong danh sách này,”
chuyên gia Kelly Plowe cho biết. “Bạn có thể chế biến nhiều món ăn với
trứng khác nhau, từ trứng chiên ốp la, chả trứng hay đơn giản chỉ luộc
quả trứng để ăn vào buổi sáng. Tôi bảo đảm với bạn rằng, đây là những bữa sáng nhanh gọn lẹ cho bạn mà cung cấp đầy đủ dưỡng chất.”
Lòng trắng trong trứng có mặt trong rất nhiều cách ăn
kiêng vì nó có chứa nhiều protein. Một số người sẽ ngạc nhiên khi biết
rằng lòng đỏ của trứng có chứa khoảng ba gram protein, gần bằng một nửa
lượng protein có trong trứng.”
Lòng đỏ
cũng là nơi có rất nhiều cholesterol, với trung bình khoảng 185mg mỗi
quả. Trung Tâm Tim Mạch Hoa Kỳ khuyến cáo phương thức ăn uống chỉ giữ
lượng 300mg mỗi ngày, vì vậy việc lòng đỏ có gần 200mg thì không đáng
kể.
Không chỉ
giàu protein, lòng đỏ còn chứa rất nhiều vitamin D, phosphorus,
riboflavin, choline và selenium, là những chất được xem là khoáng chất
rất cần thiết và tốt cho cơ thể.
Vì vậy, ăn một quả trứng mỗi ngày không có gì là hại cho sức khỏe, ngược lại còn đem lại nhiều lợi ích khác.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 06/Oct/2018 lúc 10:48am |
6 cách ăn uống phòng ngừa ung thư rất dễ thực hiện
Ung thư
là sự phát triển vô độ của tế bào trong quá trình phân chia. Thực phẩm,
ăn uống được xem là một trong những tác nhân có liên quan giúp thúc đẩy
bệnh ung thư phát triển.
35% do ăn uống
Mỗi năm
nước ta ghi nhận thêm 126.000 trường hợp mắc ung thư mới và trên 94.000
người tử vong do ung thư, cao hơn 9 lần số ca tử vong do tai nạn giao
thông.
Nói đến
bệnh ung thư ai cũng sợ, trong đó có nhiều người cho rằng đây là "cửa
tử". Bác sĩ Wynn Huynh Tran công tác tại Mỹ cho biết ung thư là một bệnh
lý nguy hiểm nhưng con người ta không chết vì ung thư tại vị trí đó mà
thường chết do ung thư di căn sang các bộ phận khác.
Ung thư
phát sinh từ 1 tế bào mà ra. Trong khi đó mỗi ngày tế bào đều được sinh
ra và một tế bào ung thư và tế bào ung thư thì tế bào phát triển không
kiểm soát khiến cho cơ thể có các mô ngày càng to ra và khi ta phát hiện
nó thành khối u.
Những năm
qua, với sự kết hợp cùng lúc cả 4 hướng: Phòng bệnh, phát hiện sớm,
tăng cường chẩn đoán điều trị, chăm sóc giảm nhẹ, tỉ lệ chữa khỏi ung
thư tại Việt Nam có nhích lên nhưng vẫn chỉ đạt khoảng 40%, thấp hơn
nhiều so với các nước phát triển (70-80%).
5 loại
ung thư thường gặp nhiều nhất ở nữ gồm: Ung thư vú, ung thư đại trực
tràng, ung thư phổi, ung thư cổ tử cung và ung thư dạ dày.
5 loại ung thư nhiều nhất ở nam giới gồm: Ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư đầu trực tràng và ung thư thực quản.
Trong các
yếu tố gây ra ung thư thì ăn uống chiếm tới 30% thúc đẩy tế bào ung thư
phát triển. Trong đó chế độ ăn nhiều thịt, mỡ động vật, ít rau quả làm
tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng và ung thư vú.
Các chất
bảo quản thực phẩm, nhuộm màu thực phẩm có nguồn gốc hoá học, các chất
trung gian chuyển và sinh ra từ thực phẩm nấm mốc, lên men (cà, dưa
muối) gây ra nhiều loại ung thư đường tiêu hoá như: Dạ dày, gan, đại
tràng, thực quản...
6 quy tắc ăn uống
Bác sĩ Wynn Huynh Tran đã đưa ra 6 nguyên tắc ăn uống để phòng bệnh ung thư.
1. Uống nhiều nước: Uống
ít nhất 2 lít nước/ngày, uống nhiều lần trong ngày, không đợi khát mới
nước, uống kèm nước với trái cây, rau củ. Nếu không uống nước cũng giống
như chúng ta chạy xe không đổ xăng, dầu. Động cơ không hoạt động được
và con người cũng thế, nước vô cùng quan trọng.
Chúng ta có thể nhịn ăn 30 ngày nhưng nếu không uống nước 2 ngày thì có thể nguy hiểm tới tính mạng.
2. Ăn nhiều rau củ quả: Ăn
nhiều rau cải, bất kỳ rau củ quả tươi nào cũng đều có các chất tốt
trong phòng chống ung thư. Bữa cơm nhiều màu thì càng tốt như cà rốt,
cải tím. Không nhất thiết phải ăn rau quả hữu cơ nếu không có tiền ăn
rau quả tươi thường đều được và đừng bao giờ ăn đồ hộp vì rau quả trong
đồ hộp bắt buộc phải có phụ gia.
3. Giảm thịt động vật: Hạn
chế thịt đỏ, trong thịt đỏ như thịt bò, heo chứa các chất kích thích
viêm. Nhiều nghiên cứu trong thịt đỏ có chất này theo thời gian dễ biến
thành tế bào ác tính.
Những món
thịt đỏ chế biến ăn rất ngon nhưng nguy hiểm, thịt đỏ xào, chế biến tạo
ra các phản ứng từ sinh ra Acrylamide – một hoá chất có thể gây ung
thư.
4. Ăn uống đa dạng: Người
Việt Nam hay ăn nước mắm, xì dầu ít ai ăn dầu ô liu, ăn nhiều đồ khác
nhau thì tế bào ung thư khó phát triển. Ăn nhiều trái cây, củ, hạt. Các
loại gạo lứt, muối mè có nhiều dinh dưỡng tốt cho sức khoẻ.
5. Giảm chiên xào áp chảo: Giảm
đồ chiên xào vì thức ăn chế biến nhiệt độ cao với dầu ăn tăng rủi ro
ung thư. Người Nhật Bản và Hàn Quốc có tỷ lệ ung thư dạ dày, tiêu hoá
cao cũng vì thói quen hay ăn đồ ăn chiên, xào, nướng.
6. Ăn cho ngon, không ăn cho no: Ăn
vừa phải giúp bao tử và hệ tiêu hoá của mình khoẻ mạnh. Ăn đủ ngăn ngừa
các bệnh tiểu đường, dinh dưỡng, có thể dẫn đến ung thư.
Ngoài ra,
cũng nên biết chăm sóc tinh thần. Người Việt ít để ý đến chăm sóc bữa
ăn tinh thần, “buồn phiền - lo nghĩ” là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh.
Có những thói quen nhỏ như nghe nước chảy, chim hót rất nhỏ thôi những
cũng giúp chúng ta ngăn ngừa được bệnh tật trong đó có ung thư.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 10/Oct/2018 lúc 7:36am |
Chứng Tiểu Đêm Ở Người Già Trong chương trình hôm nay, bác sĩ Hiền giải đáp thắc mắc của thính giả Phạm Hạnh, hiện cư ngụ tại bang Maryland, Hoa Kỳ, về chứng đi tiểu đêm ở người già. Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lý do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm. Ngoài việc gây rối loạn giấc ngủ, bệnh nhân sáng sớm mệt mỏi, không nghỉ ngơi đầy đủ, nguy cơ té và có thể gẫy xương có thể là những chuyện nguy hiểm đi kèm theo chứng tiểu đêm. Bệnh nhân đàn ông có thể có những triệu chứng kèm theo làm cho bác sĩ nghĩ đến những nguyên nhân ở đường tiểu phía dưới (lower urinary tract): như ban ngày đi tiểu liên miên (urinary frequency, (trên 8 lần/ngày)), dòng nước tiểu yếu, cần đi tiểu ngay (urgency), hay són tiểu (urinary incontinence). Nguyên nhân chúng ta thường nghe đến là tuyến tiền liệt phì đại lành tính (benign prostate hypertrophy) (không phải ung thư) làm đường thoát ra của nước tiểu bị nhỏ lại và tiểu không thông, chia làm nhiều lần, do đó bác sĩ của vị thính giả đặt câu hỏi khuyên bệnh nhân đi mổ cắt tuyến tiền liệt. Phụ nữ có thể đi tiểu nhiều lần hơn lúc lớn tuổi, hoặc do kết quả sinh đẻ, hoặc do thói quen phụ nữ hay đi tiểu. Vài ý niệm về cơ thể học: Chúng ta có hai trái thận (kidney, Fr: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu, đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml thì mắc tiểu, nếu bộ óc cho phép “mở cửa” thì nước tiểu thoát ra niệu đạo (tiểu tiện), nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa. Tuyến tiền liệt (prostate) là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam, tuy nhiên gần đây người ta cũng đặt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate). Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngõ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], giữ cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta còn gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng. Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, nếu tuyến lớn quá (phì đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu. Tuy nhiên, chứng đi tiểu đêm không phải luôn luôn do tuyến tiền liệt, và tôi xin nêu sau đây những tin tức để chúng ta cùng học hỏi. Xin nhắc lại, tôi không có mục đích định bệnh và chữa bệnh trong chương trình y học này, và quý vị cần theo dõi mọi hướng dẫn của bác sĩ quý vị. Sau đây là những lý do khác nhau có thể gây chứng tiểu đêm: 1) Do nước tiểu nhiều lúc ban đêm (nocturnal polyuria):
Nếu bệnh nhân ngáy to, thỉnh thoảng yên lặng không nghe tiếng thở, nhất là người mập, nên coi chừng có sleep apnea hay không, bằng cách đo polysomnogram (đo tim, nhịp thở, oxy trong hơi thở, não điện đồ cùng một lúc trong khi bệnh nhân ngủ). Nếu cần, dùng CPAP cho apnea (máy tạo nên áp suất dương thường trực trong đường hô hấp trong lúc ngủ.) 2) Bệnh nhân nói chung tạo ra quá nhiều nước tiểu: - do bệnh tiểu đường (đái tháo đường, diabetes) - đái tháo nhạt (diabetes insipidus, do tổn thương não bộ, hoặc do thận bị hư /nephrogenic diabetes insipidus) - uống nước quá nhiều (polydipsia) 3) Do thể tích (dung tích, capacity) bọng đái quá nhỏ về đêm: - hệ thần kinh bọng đái bất thường (neurogenic bladder) không kiểm soát được - viêm bọng đái (bàng quang)(cystitis) - ung thư bọng đái, tiền liệt, niệu đạo (cancer of the bladder, prostate, urethra) - thói quen đi tiểu lúc bọng đái chưa đầy (~300-600ml) - “overactive bladder” (OAB) (bọng đái “quá hoạt động”) - lo âu (anxiety) - rượu, cafe - thuốc men:
-sạn trong bọng đái Nói chung, nếu cần nên đến bác sĩ gia đình để tìm xem chính xác nguyên nhân ở đâu, ngoài khả năng do tuyến tiền liệt gây ra. Nếu bác sĩ cho phép, có thể thử những biện pháp thông thường như:
Chúc bệnh nhân may mắn. BS-HVH |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22273 |
Gởi ngày: 11/Oct/2018 lúc 8:02am |
Trứng Và Những Điều Cần Biết
Trứng loại A thì lòng trắng trải mỏng hơn, lòng đỏ rắn chắc. (Hình: npr.org)
Đi học mà được thầy cô phết cho hai “quả trứng” thì về nhà chắc
chắn lại được thưởng thức thêm vài con lươn đỏ mông đít. Nhưng được ăn
hai quả trứng gà ốp la hoặc hai cái hột vịt lộn thì ta đã có một lượng
dinh dưỡng đáng kể cho ngày hôm đó. Trứng mà mọi gia đình thường dùng là
trứng gà, trứng vịt. Đôi khi cũng là trứng ngỗng, trứng ngan hoặc trứng
chim cút, chim bồ câu.
Trứng là một thực phẩm có nhiều công dụng khác nhau.
Trứng có thể được chế biến đơn độc theo nhiều cách để cho
những món ăn ngon, nhưng cũng có thể được nấu chung với một số loại thực
phẩm khác và làm tăng phẩm chất cũng như dáng vẻ hấp dẫn cho món ăn.
Trứng cũng có thể kết hợp các gia vị với nhau, làm cho món ăn trở nên
mềm xốp hoặc nở to hơn.
Cấu tạo của trứng
Trứng có một lớp vỏ bằng chất vôi với nhiều lỗ nhỏ li ti.
Vỏ được một lớp chất nhầy mucin bao phủ để che chở và giữ trứng được
tươi. Khi rửa lớp mucin này đi thì các lỗ nhỏ sẽ mở đường cho vi khuẩn
xâm nhập, làm trứng mau khô và mau hư.
Mặt trong vỏ trứng còn hai lớp màng mỏng nữa để bảo vệ phẩm chất của trứng.
Lòng trắng trứng có ba lớp: hai lớp mỏng phủ lên một lớp dày.
Lòng đỏ nằm ở trong cùng và được hai sợi dây chằng ở hai đầu gắn chặt vào lòng trắng.
Lòng đỏ và lòng trắng khác nhau ở số lượng nước và chất
béo. Lòng trắng không có chất béo và có nhiều nước hơn (87%) so với lòng
đỏ (50%).
Giá trị dinh dưỡng
Về phương diện dinh dưỡng, trứng là một món quà tuyệt hảo
của thiên nhiên dành cho chúng ta. Chứa đựng trong cái vỏ mỏng manh,
lòng đỏ và lòng trắng của trứng là:
-Cả một nguồn chất dinh dưỡng phong phú cần thiết cho mọi người.
-Thực phẩm rất phổ thông, giá phải chăng mà nhiều người cho là còn bổ dưỡng hơn cả sữa bò, sữa dê.
-Món điểm tâm hoặc trong các bữa ăn chính với nhiều cách nấu nướng khác nhau.
-Dễ dàng hòa lẫn với nhiều thực phẩm khác để tạo ra các món ăn đa dạng, hấp dẫn, nhiều dinh dưỡng.
Chất đạm của trứng có đủ các loại amino acid cần thiết cho
cơ thể mà theo một số nghiên cứu, còn tốt hơn đạm của thịt, rau hoặc
sữa. Chất đạm này hoàn hảo đến mức mà nhiều khoa học gia dùng làm tiêu
chuẩn để đo lường giá trị dinh dưỡng chất đạm trong các thực phẩm khác.
Trứng không có carbohydrat.
Lòng đỏ có một lượng chất béo đáng kể mà cholesterol là
thành phần chính. Mục đích của trứng là tạo ra một sinh vật mới, đó là
con gà con. Cholesterol rất cần thiết cho sự tạo sinh này.
Cholesterol giữ một vai trò rất quan trọng trong cơ thể. Nó
cần thiết cho sự dẫn truyền các tín hiệu thần kinh, chế tạo các loại
kích thích tố.
Thường thường thực phẩm chỉ cung cấp khoảng 30% cholesterol, phần còn lại là do cơ thể sản xuất. Ngoài nguồn cung cấp từ chất béo, mức độ cholesterol trong máu còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khác như sự vận động cơ thể, căng thẳng, gene di truyền, thực phẩm ít chất xơ, thiếu các loại sinh tố… Nhưng khi cholesterol trong máu lên quá cao thì lại có hại vì khoa học đã xác nhận đó là một trong nhiều nguy cơ đưa tới các bệnh về tim.
Lòng đỏ có nhiều chất sắt và sinh tố A. Lượng sinh tố A này nhiều ít tùy theo thực phẩm dùng để nuôi gà mái.
Trứng là nguồn cung cấp sinh tố D nhiều thứ nhì sau dầu gan
cá. Sinh tố D thay đổi tùy theo mùa, vì khi gà mái tiếp cận với nhiều
ánh nắng mặt trời thì đẻ ra trứng có nhiều sinh tố D hơn khi chúng ở
trong nhà.
Lòng trắng trứng không có chất béo và cholesterol nhưng có nhiều loại chất đạm như ovalbumin, ovomucin, livetin.
Khi ăn sống, lòng trắng sẽ dẫn vào cơ thể một chất đạm độc gọi là avidin. Chất này gây ra bệnh khiếm khuyết sinh tố, được gọi là bệnh “lòng trắng trứng.” Avidin thường bám vào sinh tố B Biotin, tạo thành một hợp chất không hòa tan khiến cho cơ thể không hấp thụ được sinh tố này. Trung bình mỗi quả trứng có 6 gr đạm, 5 gr chất béo, 600 unit sinh tố A, 250 mg cholesterol, 3 mg sắt, các loại sinh tố B (nhất là B12), sinh tố E và một ít đồng, kẽm và cung cấp 80 calorie mà hầu hết từ chất béo của lòng đỏ. Trứng không có sinh tố C.
Trứng cũng có nhiều chất choline, cần thiết cho tế bào thần kinh và cấu trúc của các loại tế bào.
Trứng trong y học
Ngoài giá trị dinh dưỡng, trứng còn được nghiên cứu để trị bệnh.
-Bác Sĩ Robert Yolken của Trung Tâm Y Khoa John Hopkins,
nhận thấy trứng gà thường hay nhiễm loại siêu trùng rotavirus, một trong
nhiều nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy trẻ em. Do đó lòng đỏ trứng có
nhiều kháng thể với virus này. Bác Sĩ Yolken và cộng tác viên đã chế
biến immunoglobulin (Ig) trị tiêu chảy trẻ em bằng cách cấy rotavirus
vào gà. Khi gà đẻ ra trứng thì lấy lòng đỏ của loại trứng này để chế tạo
immunoglobulin.
-Lòng trắng trứng đánh nhuyễn, thoa trên mặt làm da mềm,
nhẵn vì khi lớp trứng này khô đi, chất đạm sẽ lấy hết các tế bào chết
trên da. Khi pha với thuốc gội đầu, chất đạm trong trứng làm tóc óng
mượt.
-Đã có một thời kỳ trứng được coi là không tốt vì có nhiều cholesterol, một nguy cơ gây bệnh cho động mạch vành.
Một nghiên cứu dài ngày vào (năm 1913 do khoa học gia người
Nga Nicolai Anichkov thực hiện vào những con thỏ, được nuôi với 60 quả
trứng một ngày. Kết quả là trong động mạch của thỏ có nhiều cholesterol
bám vào.
Rồi tới năm 1984, tuần báo Time công bố kết quả một cuộc
nghiên cứu cho thấy cholesterol cao đưa tới bệnh tim và khi uống thuốc
hạ cholesterol thì bệnh tim giảm đi. Bài báo khuyên dân chúng không nên
ăn bơ và trứng vì hai thứ này gây ra bệnh tim mạch. Thực ra nghiên cứu
này không đả động gì tới ảnh hưởng của thực phẩm với cholesterol nên lời
khuyên không ăn trứng là thiếu căn bản khoa học. Mặc dù vậy, bài báo đã
có tác động đến tâm lý quần chúng khiến cho rất nhiều người giới hạn
việc ăn trứng, nhất là lòng đỏ.
Không cần rửa trứng trước khi xếp vào tủ lạnh. (Hình: foodandnutrition.org)
Kết quả nghiên cứu công bố năm 1999 của khoa học gia Frank
B. Hu cho thấy là không có bằng chứng nào về sự liên hệ giữa việc ăn một
quả trứng mỗi ngày với nguy cơ gây bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim. Tác
giả kết luận việc loại bỏ trứng trong khẩu phần dinh dưỡng là điều không
cần thiết.
Theo Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ (American Heart ***ociation), ta có thể ăn mỗi tuần bốn lòng đỏ trứng.
Tuy nhiên, trứng là một trong 12 loại thực phẩm dễ gây ra
dị ứng cho cơ thể của một số người: làm sưng môi và mắt, làm nổi ngứa mề
đay, làm bao tử khó chịu. Do đó, những ai bị dị ứng với trứng đều không
được dùng thuốc chủng ngừa sống phòng bệnh sởi, bệnh quai bị, hoặc
thuốc ngừa bệnh cúm vì các thuốc này được nuôi dưỡng bằng dung dịch
trứng.
Trứng dễ bị nhiễm trùng Salmonella Enteritis, gây ra bệnh tiêu chảy trầm trọng có thể chết người, nhất là đối với quý vị cao tuổi và trẻ em, đàn bà có thai, người suy yếu hệ thống miễn dịch như ung thư hoặc đang đau yếu. Năm 1994, tại Hoa Kỳ, có hơn 200,000 người trúng độc khi ăn kem được chuyên chở trong một xe vận tải trước đó mới chở trứng. Điều đó chứng tỏ rằng chỉ cần một chút trứng nhiễm trùng cũng đủ gây bệnh. Tại Hoa Kỳ, hàng năm có trên 600 người chết và gần 700,000 người bị bệnh vì ăn trứng nhiễm Salmonella. Dó đó, nên tránh ăn trứng sống hay trứng ngâm nước sôi. Vài điều về trứng
1-Phân loại: Tại Hoa Kỳ và một số quốc gia khác, trứng được phân chia theo cỡ lớn nhỏ và loại hạng (size và grade).
a-Cỡ lớn nhỏ khác nhau tùy theo sức nặng của một tá trứng.
Trứng càng to thì càng đắt nhưng lại nhiều chất liệu hơn, tuy nhiên phẩm
chất đều giống nhau. Trứng lớn (large) là loại thường dùng trong việc
nấu nướng.
b-Hạng. Trứng cũng được chia ra hạng AA, A và B vì mục đích khác nhau khi nấu nướng chứ không phải vì tốt xấu.
Khi đập vỏ, thả vào chảo hay trên mặt bằng, trứng loại AA
nằm thu gọn trong phạm vi nhỏ của chảo, lòng trắng trứng dày, lòng đỏ
săn chắc, không xẹp, nằm ngay giữa và giữ nguyên hình dạng này sau khi
chiên hoặc chần. Khi cắt đôi quả trứng luộc chín, lòng đỏ nằm gọn ở giữa
lòng trắng.
Trứng loại A thì lòng trắng trải mỏng hơn, lòng đỏ rắn chắc.
Trứng loại B khi đập trong chảo thì trải rộng ra, lòng
trắng lỏng, lòng đỏ xẹp mỏng. Cắt đôi quả trứng chín, lòng đỏ nằm lệch
sang một bên.
Thành ra khi muốn trứng có hình thù đẹp sau khi tráng thì
dùng trứng loại AA, còn khi làm món ăn với trứng đánh tan thì trứng nào
cũng được. Trứng cũ, lòng trắng cũng loãng hơn, nên khi đập ra chảo,
trứng lan rộng ra và nom như lớn hơn.
2-Màu sắc: Nhiều người thích trứng có vỏ màu nâu hoặc màu trắng. Nhưng theo các nhà chuyên môn thì giá trị dinh dưỡng của hai loại trứng đều như nhau.
Màu của vỏ trứng không liên quan gì tới phẩm chất cũng như
sự mới hay cũ của trứng mà tùy thuộc loại gà: gà mái lông và tai trắng
đẻ trứng màu trắng, gà lông và tai màu đỏ đẻ trứng màu nâu. Nhưng trứng
màu trắng vẫn thông dụng hơn và lại rẻ hơn. Còn trứng do gà nuôi bằng
thực phẩm không pha hóa chất (organic eggs) lại đắt hơn trứng thường
nhưng giá trị dinh dưỡng cũng như nhau.
Đôi khi ta thấy một vết máu nhỏ trên lòng đỏ mà nhiều người cho là trứng đã ấp hoặc hư. Thực ra đó chỉ là một mạch máu nhỏ bị vỡ trong khi trứng thành hình, nên trứng đó không hư và vẫn ăn được. Lòng đỏ trứng có thể đậm hay nhạt tùy theo chất màu thiên nhiên trong thực phẩm nuôi gà vịt. Đôi khi luộc trứng xong thấy chung quanh lòng đỏ có một vòng màu đen. Đó là do luộc quá lâu hoặc do chất sắt trong lòng đỏ tác dụng với hơi hydrogen sulfite trong lòng trắng trứng gây ra. Thật ra thì chứ trứng này vẫn tốt, chỉ mất đẹp một chút. Muốn tránh hiện tượng này, có thể luộc trứng đúng thời hạn rồi ngâm ngay vào nước lạnh. Mua và cất giữ trứng
Tại nhiều quốc gia, trước khi mang ra bán, trứng đều được
các cơ quan canh nông hoặc y tế kiểm tra để bảo đảm sự an toàn cho người
tiêu thụ. Từ cách thu lượm trứng, lau rửa, giữ ở nhiệt độ thích hợp,
phân loại tới đóng hộp, đóng dấu nhãn hiệu đều được quan sát kỹ lưỡng.
Trứng được đặt vào những dụng cụ điện tử đặc biệt để soi nhìn xem lòng đỏ và lòng trắng có toàn vẹn không. Đôi khi nhân viên kiểm tra còn đập bất cứ một quả trứng nào đó để kiểm soát.
Nhiều người sành ăn nhận thấy rằng trứng có mùi vị khác nhau, đó là tùy theo thực phẩm nuôi gà và môi trường sống của gà.
Khi chọn mua trứng, chỉ mua trứng còn nguyên vẹn, vỏ không nứt và sạch.
Nên để ý tới ngày trứng hết hạn được bán, và chỉ mua trứng
được bày trong ngăn tủ lạnh vì để ở ngoài không khí, nhiệt độ trong
phòng làm cho trứng rất mau hư và dễ nhiễm độc.
-Mang trứng về nhà, nên cất ngay vào tủ lạnh, xếp đầu nhọn
xuống dưới, đầu to quay lên trên. Đầu to vỏ cứng hơn, khó vỡ, đồng thời
cũng để cho lòng đỏ nằm gọn trong sự che chở của chất kháng sinh ở lòng
trắng. Tốt hơn hết là giữ trứng trong hộp nguyên thủy từ tiệm hoặc trong
hộp có nắp đậy. Giữ như vậy, trứng vẫn còn tốt, an toàn tới ba tuần lễ.
Đôi khi nếu cất giữ ở nhiệt độ thấp và nơi khô ráo, trứng có thể vẫn
còn tốt tới sáu tháng.
Tránh để trứng gần thực phẩm có mùi như hành, tỏi vì trứng dễ hút mùi của các thực phẩm này.
-Không cần rửa trứng trước khi xếp vào tủ lạnh. Trên vỏ
trứng, có một lớp màng mỏng tự nhiên hay do nông trại nhúng trứng vào
một loại dầu không mùi, vô hại để che chở cho trứng khỏi bị vi khuẩn xâm
nhập cũng như tránh thất thoát độ ẩm và khí carbon dioxide trong trứng.
Vỏ trứng rất xốp để trứng có thể thở. Nhưng đây cũng là nhược điểm vì
trứng cũ sẽ mất bớt carbon dioxide khiến hương vị trứng giảm bớt, khoảng
không khí ở đầu quả trứng tăng, lòng trắng đổi sang vị kiềm.
-Trứng còn tươi khi đập khỏi vỏ thì lòng đỏ tròn đầy với lòng trắng đặc quánh bao chung quanh. Trứng hư, lòng đỏ xẹp, lòng trắng vữa loãng. Trứng mới thì lòng trắng đục mờ như sữa, đôi khi còn dính vào vỏ khi ta đập trứng ra; trứng cũ thì lòng trắng nom trong hơn.
Trứng đã nứt vỏ rất mau hư nên cần nấu ngay. Ra khỏi vỏ,
trứng có thể giữ trong hộp đậy kín, cất trong tủ lạnh vài ngày. Lòng
trắng trứng có thể giữ được một tuần trong tủ lạnh hoặc dăm tháng trong
tủ đông lạnh, nhưng lòng đỏ thì chỉ giữ trong tủ lạnh độ vài ngày là hư.
Nên thả lòng đỏ trong một bình nước lạnh đậy kín để giữ được lâu hơn.
Nhiều người tò mò thấy hai đầu lòng đỏ có hai sợi lòng trắng đặc hơn, đó là cách tự nhiên để giữ cho lòng đỏ nằm ở trung tâm trứng.
Ngoài trứng nguyên trái, còn có các loại trứng chế biến như
bột, trứng nước, trứng sấy khô hoặc trứng đông lạnh mà giá trị dinh
dưỡng cũng giống như trứng tươi. Trứng chế biến thường phải mua trực
tiếp từ nhà sản xuất và được dùng rất nhiều trong kỹ nghệ làm bánh ngọt,
mì, kem…
Thử trứng
Để thử xem trứng mới hay cũ, có thể làm như sau: trứng mới
khi thả vào nước lã hoặc nước pha muối thì chìm xuống đáy. Trứng để lâu,
không khí vào nhiều, túi hơi trong trứng lớn, trứng sẽ nổi trên mặt
nước. Khi mới đẻ ra, trứng còn ấm, lòng trắng lòng đỏ tràn ngập trứng.
Khi nguội lạnh, ruột trứng teo, tạo ra túi không khí. Trứng mới túi nhỏ,
trứng càng cũ túi càng lớn.
Luộc trứng
Vì vỏ xốp, vi khuẩn Salmonella dễ xâm nhập trứng nên cần
luộc lâu khoảng mươi phút ở nhiệt độ ít nhất là 70 độ C đến 80 độ C để
tiêu diệt vi khuẩn này. Không nên luộc lâu quá vì trứng sẽ cứng, mất
ngon.
Sau khi luộc, ngâm trứng ngay vào trong nước lạnh chứ đừng để trứng nằm trong nồi chờ nguội. Lý do là vì trong khi luộc, vỏ trứng thay đổi cấu tạo, vi khuẩn dễ đi qua. Ngâm trong nước lạnh cũng làm bóc vỏ dễ dàng hơn. Dễ hơn nữa là sau khi ngâm nước đá lạnh, bỏ trứng vào nước nóng mươi giây đồng hồ rồi bóc. Đôi khi ta thấy một vệt mầu xám nằm giữa lòng trắng và lòng đỏ quả trứng luộc. Đó chỉ là chất ferrous sulfit do tác dụng của sắt trong lòng đỏ và sulfur trong lòng trắng, ăn không nguy hại gì. Trứng chiên
Trứng chiên thường được dùng trong bữa điểm tâm, có thể làm
theo hai cách. Cách thứ nhất là trứng được chiên chậm rãi với lượng mỡ
phủ kín mặt trứng. Cách thứ hai là chỉ dùng một lớp mỏng chất béo để
trứng không dính vào chảo, còn mặt trên của trứng thì phủ với một chút
nước để bao che trứng.
Trứng ngon khi lòng trắng trở nên hơi dày, có màu trắng,
còn lòng đỏ thì không vỡ, bao phủ với một lớp lòng trắng. Khi chiên, nên
giữ nhiệt độ thấp.
Làm trứng ốp la hay tráng trứng khuấy đều, nấu lâu chừng 3 phút, cho trứng săn chắc, không còn chảy nước.
Thay đổi khi nấu nướng
Nấu nướng đưa tới một số thay đổi như:
-Thường thường sau khi nấu, chất dinh dưỡng của trứng giảm đi chút ít.
-Sau khi nấu, trứng cho màu sắc, hương vị đặc biệt.
-Trứng cũng có công dụng tập hợp các gia vị khác với nhau.
-Chất đạm ở lòng đỏ và lòng trắng đông lại khi đun nóng. Lòng đỏ lại giữ không khí nên khi làm bánh ngọt thì bánh nở to.
Cấu trúc của trứng thay đổi sau khi nấu. Nhỏ lửa, lòng
trắng săn lại và mềm, lòng đỏ mịn. Nấu quá lâu ở nhiệt độ cao thì lòng
trắng săn, cứng còn lòng đỏ lại khô như bột.
BS Nguyễn Ý Đức
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 179 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |