Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: LỊCH SỬ VIỆT NAM Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 11 phần sau >>
Người gởi Nội dung
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 28/Oct/2013 lúc 9:25am
 

Cuộc đời bi thương của Hoàng thái tử triều Nguyễn

 

 

Hoàng thái tử Bảo Long từng bị giám sát chặt chẽ khi đi học, tham gia quân đội trong tuyệt vọng và qua đời lặng lẽ tại Pháp.
 
Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị từ năm 1945, nhưng cho đến giữa thập niên 1950, mong muốn và tính toán cho việc đưa Hoàng thái tử Bảo Long (sinh năm 1936) lên ngôi chấp chính vẫn còn âm ỉ. Trên đất Pháp, Bảo Long được chăm chút chuyện học hành, chăm sóc bảo vệ theo tiêu chuẩn của một ông hoàng. Th ế nhưng, khác với Bảo Đại, Bảo Long đã tự quăng quật trong khó khăn, luôn cố gắng thoát khỏi bóng dáng chiếc áo bào Vương gia.
 
Năm 1948, sau khi sang Pháp, bà Nam Phương quyết định cho Bảo Long vào học trường Roches. Đây là một trường đứng đắn, kỷ luật rất nghiêm khắc, được nhà thờ Công giáo bảo trợ. Bà rất hiểu tính nết bướng bỉnh khó bảo của con trai, hy vọng học trường này con bà sẽ trở nên thuần thục hơn.
 
Bảo Long cố gắng khép mình vào kỷ luật học đường, song tước vị hoàng tử kế nghiệp cũng cho cậu được hưởng một số đặc quyền: mỗi buổi sáng cậu ta được tắm nước nóng trong khi các bạn cùng lớp phải tắm nước lạnh. Khẩu phần bữa tối cũng được ưu tiên: được chia nhiều thức ăn hơn, nhiều chocolate hơn. Cậu ta còn đem chia bớt cho các bạn.
 
Bảo Long thông minh, sáng dạ, nhanh chóng hoà nhập với tập thể, giỏi văn chương, ngôn ngữ, cả từ ngữ như tiếng Hy Lạp cổ. Ngược lại về toán và các khoa học tự nhiên thì kết quả bình thường, tuy nhiên, cũng nhiều lần đứng hàng đầu trong bảng tổng xếp hạng.
 
Thời gian đầu, các thầy cô giáo và bạn học lúng túng không biết xưng hô thế nào cho phải với tước vị cao quý của Bảo Long. Cuối cùng ông hiệu trưởng chọn tên… Philippe để đặt cho cậu. Philippe có nguồn gốc Hy Lạp “hyppos”, có nghĩa là ngựa. Bảo Long vốn mê cưỡi ngựa. Được hỏi ý kiến, Bảo Long về hỏi lại mẹ, cuối cùng cả hai đều đồng ý.
 
Bảo Long chỉ có ba người bạn thật sự gọi là thân thiết. Ông thích thể thao, biết chơi nhiều môn. Đây cũng là đặc thù của nhà trường. Phần lớn các buổi chiều đều dành cho hoạt động thể thao. Sinh hoạt lớp có trưởng lớp điều khiển, được gọi là “đội trưởng”. Bảo Long được lòng bạn bè nên từ lớp đệ nhị bậc trung học ông được chỉ định làm trưởng lớp.
 
17 tuổi, Bảo Long đỗ tú tài triết học, nhưng vẫn luôn luôn có cảnh binh đi kèm. Sau này Bảo Long kể lại: “Tôi phải sống ngăn cách với thế giới xung quanh, có cảnh binh bảo vệ, mặc dù ở Cannes là cả một thế giới ăn chơi, có ôtô sang trọng, có máy bay riêng, có gia nhân đầy tớ. Tóm lại tôi không biểu sao người ta lại bắt tôi sống trong ký túc xá trường trung học Roches, kỷ luật khắt khe, thiếu thốn mọi thứ. Sau này tôi mới hiểu, chính mẹ tôi muốn tránh cho tôi khỏi bị nuông chiều quá, tránh cuộc sống phóng đãng như cha tôi, một lối sống đã gây cho bà nhiều đau khổ”.
 
Dù sao, ông cũng được bố tặng một chiếc ôtô làm quà sinh nhật, tuy còn thiếu nửa năm nữa mới đến tuổi cầm tay lái. Trên chiếc thuyền cha ông mới mua, neo ở Monte Carlo, ở đó một thanh tra cảnh sát đã chuẩn bị sẵn chờ ông đến là trao giấy phép đặc cách, dành cho con trai Hoàng đế An Nam do nước cộng hoà Pháp bảo trợ.
 
Đó là một chiếc xe đẹp và dài, nổi tiếng thanh lịch, động cơ mang nhãn hiệu Jaguar XK 120. Vừa ra khỏi cảng, xe đã đâm vào sườn một chiếc xe đi ngược chiều. Bảo Long khi đó chưa biết lái xe, chưa qua một lớp học lái, chỉ trông vào thực hành. Trong hai năm, ông gây ra mười hai vụ tai nạn. May là không nghiêm trọng cho cả hai bên. 
 
Mỗi lần cầm tay lái chiếc xe tốc độ cao, ông phải cố kiềm chế để xe đi với vận tốc trung bình. Đám cảnh sát hò hét hết hơi để chạy theo, nhiều khi phải mượn chiếc xe 203 c ủa cha ông mới đuổi kịp. Sau vụ âm mưu bắt cóc, cảnh sát vẫn giám sát chặt chẽ hành trạng của Bảo Long.
 
Thường chỉ có một nhân viên được phân công luôn luôn kèm sát thái tử để bảo vệ. Đó là thanh tra Tổng nha tình báo Chabrier. Ông ngủ luôn ở phòng liền kề, thông với phòng ngủ của Bảo Long, có thể nhanh chóng can thiệp khi có chuyện. Hàng ngày, ông theo B ảo Long đến trường, chiếm một chỗ ngồi cuối lớp nhưng không phải để nghe giảng bài mà chỉ chăm chăm theo dõi nhất cử nhất động của thái tử.
 
Ban đầu, các bạn học ngạc nhiên thấy hôm nào cũng có một người lớn tuổi có mặt trong lớp nhưng cũng quen dần. Mỗi khi Bảo Long ra ngoài, dù trên máy bay hay xe lửa, Chabrier luôn luôn đi bên cạnh. Những hôm Bảo Long lái xe đi chơi xa, người ta thấy ông ghì chặt tay lái chiếc xe 203 bám theo xe của Bảo Long. Nhưng khi ông về nghỉ với gia đình ở Paris, Cannes hay Valberg, thì lập tức đã có cảnh sát địa phương thay thế.
 
Đỗ tú tài xong, Bảo Long ghi tên học dự thính cả hai trường một lúc: trường Hành chính và trường Luật. Thế rồi, đột nhiên Bảo Long muốn từ bỏ cuộc sống được chiều chuộng quá mức, có nhiều xe ôtô sang trọng, kể cả các thanh tra Tổng nha tình báo chăm chú bảo vệ mình để xin đứng vào hàng ngũ chiến đấu.
 
Ông cho cha ông biết ý định từ bỏ vai trò kế vị ngôi báu mà người ta giao cho ông từ khi chào đời và muốn trở về nước, theo học trường võ bị Đà Lạt mới thành lập để trở thành sĩ quan quân đội quốc gia (của chính phủ Bảo Đại làm quốc trưởng bù nhìn).
 
Bất ngờ trước ý định của con trai, cựu hoàng Bảo Đại ban đầu chối từ vì ông không muốn con trai ông làm vật hy sinh. Thấy Bảo Long tha thiết theo đuổi binh nghiệp hơn là làm chính trị, Bảo Đại cho con vào học trường võ bị Saint Cyr, có tiếng hơn và… an toàn hơn. Ngoài ra ông thường nói: “Làm gì có giải pháp Bảo Đại mà chỉ có một giải pháp của người Pháp mà thôi!”. Trong lòng bực bội nhưng Bảo Long tuân lệnh cha, không trở lại Việt Nam .
 
Bảo Long bình thản chịu đựng cuộc sống khắc khổ trong quân ngũ, chan hoà với 27 bạn đồng ngũ chung chạ trong một phòng. Ông có thể rời bỏ trường bất kỳ lúc nào ông muốn nhưng ông ở lại, kiêu hãnh trong bộ quân phục áo đỏ, mũ chùm lông, đặc trưng của học sinh quân Saint-Cyr. Ông tham gia cuộc diễu binh ngày Quốc khánh Phá p 14/7/1955 , đi qua quảng trường Champs Elysées, ông đi ở hàng cuối của tiểu đoàn vì vóc dáng bé nhỏ.
 
Bảo Long rất ít giống cha. Trong khi vẫn nói ông quyến luyến và khâm phục cha nhưng ông hết sức cố gắng để không giống cha. Tất cả những gì là kiêu căng, hợm hĩnh và tự mãn đều xa lạ đối với ông. Tính tình Bảo Long hướng về cái bi thảm còn cha ông, ngược lại, ham chơi, thích hưởng lạc.
 
Cuối năm 1956, sau hai năm học ông phải chọn một trường thực hành Năm học thực hành kết thúc, xa Saumur, xa bầy ngựa, ông nghĩ đến… cái chết. Một cái chết nhanh chóng, nếu có thể, phải là cái chết vẻ vang. Ông không vượt qua được nỗi đau mất nước và quên đi thất bại thảm hại của cha ông.
 
Chàng thanh niên kế vị triều Nguyễn quyết định dứt khoát, tìm đến cái chết để khỏi phải đau khổ, chấm dứt chuỗi thất bại và bơ vơ trong thời niên thiếu của mình. Thay vì tự tử ông xin chuyển sang đội quân lê dương để đi chiến đấu ở Algerie. Ông nghĩ đó là cách chắc chắn nhất để không bao giờ phải nghĩ lại nữa và tự kết liễu đời mình nhanh nhất. Phải gần 3 tháng sau, ông mới nhận được công văn chấp thuận của Bộ chiến tranh, trong khi ở Sài Gòn người ta đem hình nộm và ảnh chân dung của cha ông ra đốt và làm nhục.
 
Khi biết quyết định của con, Bảo Đại cũng như Nam Phương “tôn trọng ý nguyện của con” không tìm cách làm thay đổi sự lựa chọn của con, tránh không gợi vấn đề và giữ im lặng, không bộc lộ cơn xúc động trước mặt con.
 
10 năm phục vụ ở Algerie đã để lại trong ông một dư vị cay đắng. Đạo quân ông đã lầm lạc phục vụ suốt 10 năm, không để lại cho ông một kỷ niệm nào tốt đẹp. Ông đã mất thăng bằng về tinh thần và ngày một tuyệt vọng.
 
Sau đó, Bảo Long rời quân đội làm việc trong một chi nhánh ngân hàng có hội sở giao dịch khá to và đẹp trên đại lộ Opéra. Ông là người có tài, có kinh nghiệm dày dạn trong việc làm cho tiền của mẹ ông sinh sôi. Ông phụ trách công việc đầu tư tiền của khách hàng ra nước ngoài, đem lại lợi ích cho họ.
 
Đến giờ ăn trưa, ông cũng dừng lại trước một quầy hàng có mái che rồi bước vào mua một bánh mì kẹp thịt như tất cả mọi người. Trái với cha, ôngkhá giàu có. Từ văn phòng ngân hàng, ông quản lý tài sản thừa kế của mẹ, quan tâm đến việc sinh lợi, giữ được đôi chút ổn định sau bao nhiêu bão tố.
 
Ông sống trong một căn hộ đẹp ở đường Marais. Chưa bao giờ lập gia đình, ông cũng không có con cái. Ông luôn luôn day dứt vì cuộc sống lưu vong. Cuộc sống nhiều tai tiếng của bố, những tranh chấp kiện tụng giữa hai cha con chia nhau báu vật khiến tâm trạng ông lúc nào cũng u uất, buồn phiền.
 
Trong đám tang Bảo Đại, Bảo Long đứng ở bên linh cữu. Nhưng khi tang lễ kết thúc, trong lúc tiếng đàn ống lớn của nhà thờ vang lên, ông không đi theo cùng đoàn tang như truyền thống đòi hỏi. Bảo Long, gần như không muốn mọi người nhìn thấy, kín đáo bước ra khỏi nhà thờ bằng một cửa ngách. Cộng đồng người ở Paris không biết gì mấy về một ông hoàng bí ẩn, giữ kẽ.
 
Ông qua đời ngày 28/7/2007 tại Bệnh viện Sens (Pháp), lễ an táng được tổ chức vào ngày 2/8/2007, chỉ bao gồm những người thân thích của gia đình.
 
 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 28/Oct/2013 lúc 9:32am
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 11/Sep/2014 lúc 10:04pm
 
 
11 chiếc ấn rồng vàng tinh xảo của triều Nguyễn
 
 

Trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn có hơn 100 chiếc ấn, thường đúc bằng vàng ròng hoặc ngọc quý.
Tại chái đông điện Thái Hòa (Đại Nội Huế) vào ngày 18/5 đã diễn ra triển lãm “Phiên bản ấn vàng triều Nguyễn và văn bản hành chính”. Những chiếc ấn quý y như thật dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân đã cho người xem nhiều bất ngờ.
Trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn, thường đúc bằng vàng, bạc (gọi là kim bảo), chế tác từ ngọc quý (gọi là ngọc tỷ). Dưới thời Nguyễn (1802-1945), thời Gia Long (1802-1820) có 12 chiếc, thời Minh Mạng (1820-1840) có đến 15 chiếc; thời Thiệu Trị (1841-1847) có 10 chiếc; thời Tự Đức (1848-1883) cũng có 15 chiếc, thời Kiến Phúc (1884) và Hàm Nghi (1885) đều chỉ có 1 chiếc; thời Đồng Khánh (1885-1888) có 5 chiếc; thời Thành Thái (1889-1907) có 10 chiếc; thời Khải Định (1916-1924) có 12 chiếc; và thời Bảo Đại (1925-1945) có 8 chiếc.
Các%20ấn%20rồng%20vàng%20phiên%20bản%201:1
Các ấn rồng vàng phiên bản 1:1.
Về cấu trúc và kiểu dáng, các bảo tỷ nói chung bao gồm 2 phần: thân ấn và quai ấn. Biểu tượng chủ yếu trên ấn là con rồng, chân có năm móng. Trong văn hoá phương Đông, đây là linh vật tượng trưng cho nhà vua, sự chính thống của ngôi vị và quyền lực.
Kim bảo, ngọc tỷ là những báu vật của quốc gia. Điều đáng tiếc là một số chiếc ấn có tính biểu tượng như chiếc ấn Hoàng đế chi bảo đã thất tán tại Cộng hòa Pháp, một số chiếc đã bị đánh cắp và tiêu hủy như chiếc ấn Nam Phương Hoàng hậu chi bảo. Nhưng hiện nay tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vẫn còn giữ được 85 chiếc ấn bằng vàng, bằng ngọc, bằng bạc của triều Nguyễn.
Nhằm góp phần giúp du khách đến tham quan cố đô Huế ngày nay có cơ hội hình dung về một loại cổ vật đặc biệt, gắn liền với quá trình điều hành và quản lý nhà nước thời quân chủ, nghệ nhân Trần Độ từ làng gốm Bát Tràng đã bỏ công sức làm 11 phiên bản của từ các tiêu bản lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đó là 11 chiếc ấn làm bằng gốm, thếp vàng với tỷ lệ 1/1 y như thật.
Ấn
Ấn Sắc mệnh chi bảo bằng vàng, nặng ~ 8,3 kg, đúc vào niên hiệu Minh Mạng thứ tám (1827). Sau khi đúc, ấn Sắc mệnh chi bảo được đóng vào các văn bản ban cấp cho văn võ, phong tặng cho thần dân.
Ấn
Chiếc ấn thuộc dạng lớn nhất với con rồng rất tinh xảo và bệ vệ. Quai rồng cuộn ngồi xổm, đẩu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xòe 9 dải hình ngọn lửa, chân 5 móng.
Ấn
Ấn Văn lý mật sát bằng vàng 8 tuổi (nặng 6 lạng 9 phân), đúc vào niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên (1886). Ấn này dùng để đóng dùng để đóng vào các chỉ dụ, sớ chương đã có tẩy xóa hoặc thêm vào hoặc những chỗ giáp nhau của hai tờ văn bản quan trọng.
Ấn
Ấn Bảo Đại thần hàn, vàng 15 lạng, quai hình rồng bay, đầu ngẩng, há miệng, lưng cong vồng, đuôi xòe 5 dải hình ngọn lửa.
Ấn
Ấn Tự Đức thần hàn bằng vàng (vàng 10 tuổi, 76 lạng, 6 tiền, 5 phân) đúc vào niên hiệu Tự Đức thứ nhất (1848). Đây là ấn của vua Tự Đức, dùng để đóng trên văn từ của vua viết bằng mực son (châu phê hoặc châu bút).Quai hình rồng chầu, 2 chân trước chống, 2 chân sau quỳ, đầu ngẩng, mũi cao, bờm dài, đuôi xoáy.
Ấn
Ấn Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu chi bảo đúc bằng vàng tuổi 8 năm rưỡi (nặng 86 lạng 4 tiền 8 phân), đúc vào niên hiệu Hàm Nghi nguyên niên (1885). Năm 1883, trong một di chiếu trước khi mất, vua Tự Đức đã tấn tôn Hoàng Thái hậu Từ Dũ là Thái Hoàng Thái hậu. Ấn này do vua Hàm Nghi chỉ thị đúc nhân tổ chức lễ tấn tôn cho Hoàng thái hậu Từ Dũ vào năm 1885. Ấn quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân chùn.
Ấn
Ấn Từ Minh Huệ hoàng hậu chi bảo bằng bạc mạ vàng, quai hình rồng chạy, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi xòe 5 dải hình ngọn lửa, 4 chân nghiêng.
Ấn
Ấn Hoằng Tông Tuyên hoàng đế chi bảo bằng vàng. Quai rồng tư thế chạy, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi xoắn, sừng bờm vây lưng dài, 4 chân 5 móng tư thế đứng.
Ấn
Ấn Thánh Tổ Nhân hoàng đế chi bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841). Ấn này do vua Thiệu Trị chỉ thị đúc, Thánh Tổ Nhân hoàng đế là miếu hiệu của vua Minh Mạng, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Làm bằng vàng 8 tuổi rưỡi, nặng 111 lạng 5 tiền 4 phân. Quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng, đuôi xoáy 6 dải nhọn, chân 5 móng.
Ấn
Ấn Giản Tông Nghị hoàng đế chi bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Kiến Phúc nguyên niên (1883). Sau khi vua Kiến Phúc băng hà, vua Hàm Nghi chỉ thị đúc ấn này để dâng miếu hiệu, Giản Tông Nghị hoàng đế  là miếu hiệu của vua Kiến Phúc, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Làm bằng vàng 8 tuổi, nặng 49 lạng 5 tiền 1 phân. Rồng đầu ngẩng, miệng ngậm ngọc, lưng cong, đuôi cuốn, 4 chân chùn.
Ấn
Ấn Cảnh Tông Thuần hoàng đế chi bảo bằng vàng, đúc vào niên hiệu Thành Thái thứ nhất (1889). Ấn này do vua Thành Thái chỉ thị đúc, Cảnh Tông Thuần hoàng đế là miếu hiệu của vua Đồng Khánh, ấn này dùng để thờ trong Thế Miếu. Quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, mũi cao, sừng và râu dài, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân đứng thăng bằng.
Ấn%20rất%20quan%20trọng%20là
Ấn rất quan trọng là Quốc gia tín bảo bằng vàng đúc vào niên hiệu Gia Long thứ nhất (1802). Ấn này dùng để đóng trên các văn kiện triệu tập các tướng lĩnh, phát động binh lính, trưng binh nhập ngũ cùng một số văn kiện quan trọng khác. Quai hình rồng đứng, đầu quay lại, lưng cong, đuôi cụp lại.
Chiếc%20ấn%20này%20có%20hình%20dáng%20rất%20đẹp
Chiếc%20ấn%20này%20có%20hình%20dáng%20rất%20đẹp
Chiếc ấn này có hình dáng rất đẹp.
Sắc%20phong%20thời%20Bảo%20Đại%20được%20đóng%20%20%20bởi%20ấn%20vàng%20dấu%20đỏ
Sắc phong thời Bảo Đại được đóng bởi ấn vàng dấu đỏ. 

__._,_.___
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 09/Nov/2014 lúc 5:37pm


Lăng Ông Bà Chiểu và Mả Ngụy

06/11/201400:00:00(Xem: 428)
1* Mở bài

Hàng năm, trong ba ngày Tết, lăng Ông Bà Chiểu tràn ngập rừng người đi lễ, một số lớn là người Hoa trong Chợ Lớn. Bên trong khói nhang mù mịt đến nghẹt thở.

Ban đầu người dân vùng Sài Gòn Chợ Lớn đến lăng mộ để tưởng niệm công ơn của ông, nhưng những thế hệ sau tin tưởng rằng lăng mộ của một vị thần hiển linh, đề cầu an và cầu phước.

Sau lễ, họ hái lộc đầu xuân khiến cho cây cối chung quanh bị chặt cành bẻ lá do những người tham lam cho rằng cành lớn và dài thì có nhiều lộc.

Khu mộ nầy đã có một thời bị triều đình vua Minh Mạng trừng phạt người đã chết bằng cách lấy xích sắt xiềng lại rồi đánh vào mộ 100 roi trước khi san bằng nấm mộ. Triều đình cho đó là mả của loạn thần, gọi là Mả Ngụy. Nhưng hai tiếng Mả Ngụy được chính thức gọi tên là mồ mả của gần hai ngàn người trong thành Bát Quái có liên quan đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi chống lại triều đình vua Minh Mạng.

2* Lăng Ông Bà Chiểu

2.1. Vị trí

Lăng Ông Bà Chiểu gọi tắt là Lăng Ông, có tên Thượng Công Miếu, là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832), tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng thuộc phường 1 quận Bình Thạnh thành phố Sàigon ngày nay.

Diện tích 18,500 mét vuông, nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu cho nên thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Nhiều người ở nơi khác thường hiểu lầm là cái lăng thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu. Đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu.

2.2. Lịch sử của Lăng Ông

Đền thờ Lê Văn Duyệt bên trong lăng Ông Mộ Lê Văn Duyệt và phu nhân

Do thù oán với vua Minh Mạng, cho nên sau khi chết, mồ mả của Lê Văn Duyệt bị vua cho san bằng, xiềng lại bằng xích sắt, đánh trên mộ 100 roi, dựng bia khắc 8 chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử" (Chỗ tên lại cái Lê Văn Duyệt chịu tội).

Đến năm Tân sửu (1841) vua Thiệu Trị (con của Minh Mạng) cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ.

Năm 1848, vua Tự Đức (cháu vua Minh Mạng) mới truy phong lại và ban phẩm tước cho con cháu. Ông Lê Văn Duyệt được truy phong là "Vọng các công thần, chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân, quận công". Quan chức làng Long Hưng tỉnh Mỹ Tho (Định Tường, Tiền Giang) tìm ra được Lê Văn Niên, con của bà Lê Thị Hổ (em Lê Văn Duyệt), Niên gọi ông bằng cậu. Trả lại 32 mẫu ruộng làm của hương quả thờ cúng họ Lê.

Phần mộ được đắp lại cho rộng thêm và sửa sang lại miếu thờ. Trong khu vực lăng còn có phần mộ của vợ ông là bà Đỗ Thị Phận cùng 2 cô hầu.

2.3. Thờ cúng

Hàng năm có 2 lễ hội lớn tại lăng, đó là ngày giỗ của Tả quân Lê Văn Duyệt từ ngày 1 đến 3 tháng 8 âm lịch. Và ngày hội đầu xuân, mồng một và mồng 2 Tết.

Khi Lê Văn Duyệt mất, dân gian xem ông như một vị thần, vì vậy việc thờ cúng, tế lễ mang nghi thức thờ thần, tế thần, không giống như ngày lễ tưởng niệm anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Huỳnh Đức, mà mang tính dân gian như lễ vía Bà Chúa Xứ hoặc vía Điện Bà ở Tây Ninh (Núi Bà Đen)

Số người dự đến cả chục vạn người, trong đó số người Hoa chiếm phân nửa. Bởi vì lúc sinh thời,Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt có những chính sách giúp đỡ cho cộng đồng người Hoa phát triển ngành nghề và an cư lạc nghiệp ở quê hương thứ hai của họ là Sài gòn Gia Định, Việt Nam.

Hình ảnh về Tướng Lê Văn Duyệt.

3* Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832)

Tả quân Lê Văn Duyệt là bậc khai quốc công thần, là vị tướng giỏi phò Chúa Nguyễn Ánh vạn dặm trường chinh từ khi Chúa Nguyễn còn gian nan bôn tẩu cho đến lúc lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long.

Ông người làng Hòa Khánh, huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho (Định Tường, Tiền Giang). Thân phụ là Lê Văn Toại, gốc Quảng Nghĩa, dời vào sống ở Định Tường. (Mỹ Tho-Tiền Giang)

Ông theo chúa Nguyễn Phúc Ánh từ lúc 17 tuổi. Đến năm 1789, ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của Chúa Nguyễn.

Tài năng Lê Văn Duyệt sáng chói khi ông chỉ huy đánh tan hải quân của nhà Tây Sơn ở cửa Thị Nại (Qui Nhơn) vào năm 1801.

Trận đánh được ghi vào sử nhà Nguyễn là “Trung hưng đệ nhất võ công” (Võ công oanh liệt nhất của công cuộc trung hưng nhà Nguyễn)

Năm 1793, Lê Văn Duyệt cùng với các tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, Võ Di Nguy và Võ Tánh theo Nguyễn Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được Diên Khánh và Bình Khương, rồi sau đó chiếm được biển Thị Nại rồi Đà Nẳng.

Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt sống phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phạm Văn Sách.

Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long phong cho Lê Văn Duyệt Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân.

Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định Thành hai lần. Lần thứ nhất từ 1813 đến 1816, lần thứ hai từ 1820 cho đến lúc qua đời năm 1832. Ông rất có uy quyền, ai ai cũng kính phục, gọi ông là "Ông Lớn Thượng".

Các nước lân cận đương thời đều sợ oai phong của ông, gọi ông là "Cọp Gấm Đồng Nai" là một trong ngũ hổ tướng bao gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Kiến Xương Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức và Long Vân Hầu Trương Tấn Bữu.

Lê Văn Duyệt đã thành lập hai cơ quan từ thiện: "Anh Hài", để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và "Giáo Dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương và nghề nghiệp.

Hàng năm, ông tổ chức hai lễ lớn: Lễ triều kiến vua và Lễ duyệt binh. Mỗi năm, vào Tết Nguyên Đán, vua Cao Miên phải sang chúc thọ vua Việt Nam tại thành Phiên An. (Thành Gia Định được Lê Văn Duyệt xây đắp thêm) Cứ vào ngày 30 Tết thì vua Miên phải có mặt tại thành Phiên An để ngày hôm sau, Tả quân tiến hành Lễ chúc thọ tại Vọng Cung.

Ngoài ra, ngày mồng 6 tháng giêng thì tổ chức Lễ xuất binh để thị oai với các nước láng giềng.

Dưới sự cai trị của ông, sự phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự của Thành Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau, Hà Tiên. Tài năng và công đức của ông được người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính.

Lê Văn Duyệt qua đời ngày 28-8-1832, thọ 69 tuổi.

4* Sự hiềm khích giữa vua Minh Mạng và Lê Văn Duyệt

- Lê Văn Duyệt không ủng hộ vua Minh Mạng lên ngôi, mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh, khi vua Gia Long hỏi ý kiến, trước khi băng hà.

- Lê Văn Duyệt đã dùng quyền “tiền trảm hậu tấu” xử chém Huỳnh Công Lý là cha của một quý phi được vua Minh Mạng sủng ái.

- Lê Văn Duyệt nhiều lần vượt quyền hoặc làm sai ý kiến của triều đình nhất là sau khi vua Gia Long qua đời.

- Do trước kia, Lê Văn Duyệt được hưởng quyền "Nhập triều bất bái" (Vào triều không cần phải lạy) cho nên sau nầy Lê Văn Duyệt không chịu quỳ lạy vua Minh Mạng.

- Lê Văn Duyệt ủng hộ các nhà truyền giáo châu Âu làm nghịch ý vua Minh Mạng.

- Lê Văn Duyệt ít học, bản chất quan võ nóng nảy, nói năng cộc lốc, không biết chiều ý vua cho nên bị ghét.

Nhưng nguyên nhân chính là chính sách trung ương tập quyền của vua Minh Mạng, bãi bỏ chức vụ Tổng trấn của thời Gia Long cho phép đại diện nhà vua trông coi các tỉnh trong địa hạt. Tổng trấn Gia Định Thành quản lý 6 tỉnh Nam Bộ.

Hình ảnh về Tướng Lê Văn Duyệt.

5* Vua Minh Mạng “trị tội” sau khi Lê Văn Duyệt qua đời

Khi còn sống, Lê Văn Duyệt nắm giữ binh quyền rất lớn cho nên vua Minh Mạng vốn thù ghét nhưng không làm gì được.

Năm 1832, ngay sau khi Lê Văn Duyệt mất, thọ 69 tuổi, vua Minh Mạng thi hành chánh sách tập trung quyền lực bằng cách bãi bỏ hai chức vụ Tổng trấn Bắc Thành và Tổng trấn Gia Định Thành. Tất cả trở thành tỉnh trực thuộc triều đình Huế. Tại mỗi tỉnh có chức Tổng đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát sứ và Lãnh binh cai quản.

Gia Định Thành hay Thành Phiên An được đổi lại thành tỉnh Gia Định do Nguyễn Văn Quế làm Tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm Bố chánh, và Nguyễn Chung Đạt làm Án sát.

Khi đến nhậm chức Bố chánh, Bạch Xuân Nguyên tuyên bố rằng thừa hành mật chỉ của triều đình truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt.

Bản án được thành lập, trong đó Lê Văn Duyệt can tội tham nhũng, lạm dụng quyền lực, có mưu đồ tạo phản chống lại triều đình như việc tu chỉnh thành Bát Quái và việc đóng tàu.

Đồng thời, nhiều thuộc hạ của Lê Văn Duyệt bị bắt giam, trong đó có con nuôi là Lê Văn Khôi. 16 người nhà của Lê Văn Duyệt bị giết chết hết.

Bản án có 7 tội phải bị chém đầu, 2 tội phải bị thắt cổ và một tội phải đi sung quân.

Vua Minh Mạng phê trong bản án rằng "Tội của Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc kể ra cũng không hết, nói ra đau lòng. Dù có chẻ quan tài ra mà giết thêm một lần nữa cũng đáng tội. Nhưng nghĩ hắn chết đã lâu, và đã bị truy đoạt các quan tước, xương khô trong mả, cho nên chẳng cần phải gia hình chi nữa cho uổng công. Vậy tổng đốc thành Phiên An (Gia Định) đến chỗ mả hắn, cuốc bỏ nấm mộ, san bằng mặt đất và dựng lên một bia đá khắc mấy chữ thật to "Đây là chỗ tên lại cái lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước" (Quyền yếm Lê Văn Duyệt thụ pháp xử)

Phẩm hàm của cha ông bị tước, bia mộ bị đục xóa, điền ruộng bị tịch thu, nhà thờ họ tộc tại làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức Quảng Ngãi bị voi của quan quân đem về tàn phá.

Lê Văn Duyệt là ái nam ái nữ bẩm sinh chớ không phải tự hoạn để làm thái giám. Sau nầy, ông lập được nhiều công, vua Gia Long gả cho ông một cung nữ tên Đỗ Thị Phận về làm vợ mặc dù biết ông là bán nam bán nữ.

Mộ của Lê Văn Duyệt bị san bằng, bị xiềng lại bằng xích sắt và đánh trên mộ 100 hèo. Đó là thời gian mà mộ của Lê Văn Duyệt bị gọi là Mả Nguỵ.

Và sau nầy, sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn bất thành, tất cả 1,831 quân bại trận đều bị giết và cùng chôn chung một mồ tập thể, cũng gọi đó là Mả Nguỵ.

6* Lê Văn Khôi nổi dậy chống triều đình

6.1. Lê Văn Khôi

Lê Văn Khôi tên thật là Nguyễn Hữu Khôi, người Cao Bằng. Do khởi binh làm loạn nên bị quân triều đình đánh đuổi, phải chạy vào Thanh Hóa và gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đó nên Khôi ra xin đầu thú.

Lê Văn Duyệt tin dùng và nhận làm con nuôi, đổi tên là Lê Văn Khôi rồi đem về Gia Định thành cất nhắc làm Phó vệ úy.

6.2. Lê Văn Khôi nổi dậy chống triều đình

Sau khi Lê Văn Duyệt mất thì Bạch Xuân Nguyên bắt giam Khôi. Lê Văn Khôi ngầm liên lạc với thủ hạ bên ngoài, đêm 5-7-1833 ông cùng 27 thuộc hạ phá ngục, đột nhập vào tư dinh giết chết cả nhà Bố chánh Bạch Xuân Nguyên và giết luôn Tổng đốc Nguyễn Văn Quế.

Lúc đó, Gia Định Thành có những người bị tội ở Bắc Hà bị đày vào Gia Định, họ gọi là lính hồi lương. Thành phần nầy theo Lê Văn Khôi khởi binh.

Lê Văn Khôi chiếm thành Bát Quái. Tổ chức lễ thắp đuốc tại mộ Lê Văn Duyệt và tuyên bố bất phục triều đình. Ủng hộ An Hòa là con trai của hoàng tử Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh). Tối hôm đó giết chết tên tổng đốc mới nhậm chức là Nguyễn Văn Quế.

6.3. Lê Văn Khôi đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ

Nhiều quan lại do triều đình cử vào Gia Định Thành bị giết hoặc bỏ chạy. Quân nổi dậy của Lê Văn Khôi nhanh chóng phát binh đánh chiếm 6 tỉnh ở đồng bằng Nam Bộ.

Chỉ trong ba ngày toàn bộ sáu tỉnh nằm trong tay quân nổi dậy.

Lê Văn Khôi làm chủ thành Phiên An. Nhiều quan văn võ triều đình ra đầu thú.

Ông đúc ấn tự xưng là Đại nguyên soái rồi phong cho thuộc hạ vào những chức vụ Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân, Thủy quân, Tượng quân…

Tháng 8 năm 1833, vua Minh Mạng cử Trương Minh Giảng và các tướng đem thủy, bộ và tượng binh vào đánh quân nổi dậy của Lê Văn Khôi.

Quân triều đình lấy lại các tỉnh Nam Bộ.

Trước thắng thế của quân triều đình, địa chủ, phú hào các nơi không dám ủng hộ và tiếp tế cho quân nổi dậy nữa.

6.4. Quân nổi dậy thất trận

Một tướng giỏi của Lê Văn Khôi là Thái Công Triều kéo quân ra đầu hàng quân triều đình và được cử đi đánh Thành Gia Định. Thế lực quân nổi dậy suy yếu.

Lê Văn Khôi nhờ giáo sĩ Tây phương sang cầu viện Xiêm La (Thái Lan). Xiêm La vốn có ý đồ chiếm Đại Việt nên nhận lời đưa quan sang trợ chiến.

Lê Văn Khôi còn mời giáo sĩ người Pháp là Joseph Marchand và các giáo sĩ Công Giáo người Việt vào trong thành trợ chiến. Những giáo sĩ người Việt giữ vai trò lãnh đạo lực lượng Công Giáo địa phương đánh lại quân triều đình.

Năm 1834, quân triều đình đánh bại quân Xiêm La chiếm lại toàn bộ 6 tỉnh miền Nam và chuyển sang vây thành Bát Quái.

Trong khi thành bị vây thì Lê Văn Khôi chết vì bịnh thủng. Con trai là Lê Văn Cù, mới 8 tuổi, được cử lên thay.

Trong khi Thành Bát Quái bị bao vây thì bịnh dịch tả hoành hành. Súng đạn hư hỏng và cạn dần. Lương thực dự trữ còn nhiều nhưng bị ẩm mốc. Tinh thần và sức lực của quân nổi dậy suy sụp, chao đảo và ly tán.

Ngày 8-9-1835, quân triều đình chia làm 8 mũi theo đồ hình Bát Quái ào ạt tấn công. Quân nổi dậy kháng cự không nổi. Bị thua.

6.5. Mả Ngụy

Cánh đồng mồ mả

Mả Ngụy hay Mả Biền Tru là những mồ chôn tập thể gần 2,000 gồm những người tham gia hoặc có liên hệ đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi chống triều đình.

Thành Bát Quái là một vị trí phòng thủ vô cùng lợi hại do những kỹ sư công binh người Pháp thiết kế và xây dựng. Hàng vạn quân thủy bộ binh của triều đình bao vây tấn công suốt hơn hai năm mới chiếm được thành.

Quân nổi dậy và dân chúng trong thành và cả ngoài thành vài dặm, bao gồm già trẻ, trai gái gì cũng đem ra giết sạch. Tổng số người chết lên tới 1,831 người. Những mồ tập thể đó gọi là Mả Ngụy.

Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện viết: “…bè đảng a dua, không cứ già trẻ trai gái ở trong thành và ở vài dặm ngoài thành đều chém ngay rồi đào hố to vất thây, lấp đất, chồng đá làm gò, dựng bia khắc đây là “nơi bọn nghịch tặc bị giết, để tỏ quốc pháp”

Vị trí của những ngôi mộ được cho là ở vùng ngã sáu đầu đường Phan Thanh Giản và Lý Thái Tổ, quận Ba Sài Gòn. Vùng nầy trước kia là cánh đồng rộng lớn hoang vu với nhiều lùm cây u tùm.

Cái tên Mả Ngụy được người dân nói đến trong thời gian họ còn sợ vua Minh Mạng, nhưng về sau không ai gọi tên ấy nữa, mà gọi là “đồng mả lạng” Người Pháp gọi đó là cánh đồng mồ mả vì có quá nhiều mả.

Sáu người bị kết tội chủ mưu bị đóng cũi giải về Huế nhận án lăng trì, gồm có: Lê Văn Cù, 8 tuổi, con của Lê Văn Khôi, giáo sĩ người Pháp là Joseph Marchand (Cố Du), một người Hoa tên Mạch Tấn Giai và Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Trắm và Nguyễn Văn Bột. Trên đường bị giải về kinh đô một người tử tử.

Sau cuộc nổi dậy, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái kiên cố và cho xây lại thành nhỏ hơn, ít kiên cố hơn là Thành Gia Định hay Phượng Thành, Phụng Thành.

Sự nổi dậy của Lê Văn Khôi kéo dài 3 năm.

Hình ảnh về Tướng Lê Văn Duyệt.

6.6. Xử Lăng Trì (Tùng xẻo hay Bá đao)

1). Giáo sĩ Joseph Marchand bị xử lăng trì.

Ba giờ sáng ngày 30-11-1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án.

Giáo sĩ Marchand (cha Du) và bốn thủ hạ thân tín của Lê Văn Khôi được đưa ra khỏi cũi. Các tử tội phải lột áo ra nửa người xã xuống đến ngang lưng, quần thì xắn lên tới đùi rồi được đưa đến cửa Ngọ Môn trình diện và phải phục lạy nhà vua năm lạy.

Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu hiệu không ân xá lần cuối cùng.

Lính trói năm tử tội vào năm cọc cắm sẵn, giáo sĩ Marchand bị trói vào vọc thứ hai.

Dân chúng bị đuổi lùi ra 30 thước. Mỗi tử tội có ba người lý hình, một cầm kềm, một cầm dao và một người lo đếm cho đủ số 100 lát cắt. Trước đó lính đã nhét vào miệng tử tội và cột chặt để không thể kêu la được.

Sau một hồi trống, bọn lý hình đưa cái kềm đã nung lửa đỏ vào nhiều chỗ trên thân thể tội nhân. Cứ thế dao và kềm lấy từng miếng thịt đỏ máu. Sau cùng bọn lý hình cắt lớp da trên trán cha Du, lật xuống che mặt rồi cắt từng miếng trên hai bên ngực, sau lưng, tay chân.

Cha Du giãy giụa, quằn quại, ngước mặt lên trời rồi gục đầu xuống. Lìa đời.

Tiếp theo quân lính cắt lấy đầu của ông. Cởi dây trói, bổ thân hình ra làm bốn để đem đi ném xuống biển. Còn thủ cấp các tử tội thì đem bêu ở nhiều nơi rồi được trả về kinh đô, bỏ vào cối giả cho nát để rắc xuống biển.

2). Tổng quát về tội lăng trì

Chữ Hán "Lăng trì" có nghĩa là "Lấn lên một cách chậm chạp".

Tội tùng xẻo là một trong những hình phạt tàn nhẫn và dã man được dùng rộng rãi ở Trung Quốc và ở VN thời phong kiến.

Đây là một hình thức ghê rợn nhất trong các án tử hình. Phạm nhân vô cùng đau đớn vì không được chết nhanh chóng. Có những trường hợp dùng dao xẻo cả phân nửa thân thể mà nạn nhân vẫn còn giãy dụa.

Đao phủ còn có nhiệm vụ là không để cho chết một cách nhanh chóng. Tức là đã có quy định là phải thực hiện bao nhiêu nhát xẻo mới được cho chết.

Nạn nhân bị trói chặt vào một cây cột, sau đó bọn khoái tử thủ (đao phủ) chặt hết chân tay, rồi dùng dao xẻo từng miếng thịt cho đến chết. Thịt lóc ra được trưng bày nơi công cộng để răn đe dân chúng.

7* Nói thêm về thành Bát Quái

Thành Bát Quái là một khu vực mà ngày nay là trung tâm thành phố Sàigon. Nó là một công sự phòng thủ nằm trong Gia Định Thành mà Chúa Nguyễn Ánh chọn làm kinh đô, còn gọi là Gia Định Kinh.

Năm 1790, chúa Nguyễn Ánh nhờ 2 sĩ quan công binh người Pháp là Victoir Olivier de Puymanel (Tên Việt là Nguyễn Văn Tín) và Théodore LeBrun vẽ họa đồ và huy động 30,000 dân phu xây thành theo lối kiến trúc Vauban, tức là nặng về mặt phòng thủ. Thành mang hình Bát Quái là định hướng về phong thổ Á Đông kết hợp với mỹ thuật của dân tộc.

Tường thành cao 4.8 mét toàn bằng đá ong Biên Hòa. Có 8 cổng đặt theo tên Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Trong thành có các đồn lính, các kiến trúc tôn giáo như chùa Cây Mai, chợ búa, các khối ngành thủ công, các cửa hàng, kho hàng, khu dân cư...

Vì tình hình bất an, nhiều người Hoa ở Hà Tiên và Định Quán chạy về Sàigon, gần thành Bát Quái tạo thành khu vực Chợ Lớn.

Dân cư trong Gia Định Thành vào năm 1819 có khoảng 180,000 người bản địa và 10,000 người Hoa.

Năm 1801, nhờ sự hỗ trợ của người Pháp, Nguyễn Ánh đánh bại được quân Tây Sơn, thống nhất Việt Nam, lập triều Nguyễn, lên ngôi hiệu là Gia Long và dời đô ra Huế năm 1811.

8* Kết luận

Lê Văn Duyệt là một tướng tài trong ngũ hổ tướng của nhà Nguyễn. Ông là người chánh trực, công bằng, nhân ái và một mực trung thành với nhà Nguyễn.

Vua Gia Long đã từng ủy nhiệm cho ông trọn quyền giải quyết tranh chấp giữa Xiêm La (Thái Lan) và Chân Lạp (Cao Miên). Hai quốc gia nầy một mực kính trọng ông.

Ông có công làm phát triển kinh tế, văn hóa và quân sự của miền Nam, được người dân tôn kính và thờ như một vị thần.

Ông bị vua Minh Mạng trừng phạt một cách oan uổng cho nên sau đó, con và cháu của Minh Mạng là Thiệu Trị và Tự Đức giải oan cho ông. Phục hồi danh dự và phẩm chức.

Vụ án oan đưa đến cuộc nổi dật của Lê Văn Khôi, kéo theo cái chết của gần hai ngàn người trong và ngoài thành Bát Quái.

Trường nữ trung học Gia Định lấy tên của ông đặt cho trường, đó là trường Lê Văn Duyệt.

Trúc Giang

Minnesota ngày 5-11-2014

__._,_.___


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 09/Nov/2014 lúc 5:41pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2014 lúc 2:11am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 06/Feb/2015 lúc 10:45pm
 
 



           

nh đc chuyến công du nước Pháp ca vua Khi Đnh - Chuyn đi xưa -

 

 

 

 


                                                

 

                                                                                                                                   

 

Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một ông vua triều Nguyễn công du chính thức nước ngoài.

 

  • alt

Con tàu Porthos chở vua Khải Định cập Cảng Marseille, Pháp, ngày 21/6/1922. Ảnh: Gallica.bnf.fr.

 

 

 

 

  • alt

Bộ trưởng Bộ thuộc địa Albert Sarraut và các quan chức Pháp chờ đón vua Khải Định tại Cảng Marseille.

 

 

 

 

  • alt

Các quan chức An Nam tại bến cảng.

 

 

 

  • alt

Đoàn quan chức An Nam ra khu vực cầu tàu đón vua Khải Định.

 

 

 

  • alt

Bộ trưởng Bộ thuộc địa Albert Sarraut dẫn vua Khải Định xuống tàu.

 

 

 

  • alt

Phía sau ông Albert Sarraut và vua Khải Định là hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này) sang Pháp để du học.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định, hoàng tử Vĩnh Thụy, bộ trưởng Albert Sarraut và hoàng thân Vĩnh Cẩn ở Marseille.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định đến ga Bois de Boulogne tại Paris ngày 24/6/1922.

 

 

 

  • alt

Nhà vua lên xe ngựa phía trước ga.

 

 

 

  • alt

Cỗ xe ngựa rời nhà ga.

 

 

 

Trong chuyến công du nước Pháp năm 1922, vua Khải Định đã có dịp được ngồi xem đua ngựa cùng Tổng thống Pháp Millerand ở Paris.

 

  • alt

Vua Khải Định, hoàng tử Vĩnh Thụy cùng các quan chức, tướng lĩnh Pháp thăm viếng mộ Chiến sĩ vô danh ở Paris. Ảnh: Gallica.bnf.fr.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định thăm đền tưởng niệm Tử sĩ Đông Dương ở vườn thuộc địa Nogent sur Marne, Paris, 26/6/1922.

 

 

 

 

  • alt

Đứng bên phải nhà vua là quan Thượng thư Nguyễn Hữu Bài.

 

 

 

  • alt

Khải Định cùng các quan chức Pháp tiến vào trong đền.

 

 

  • alt

Tất cả an tọa ở sân trước đền Tử sĩ Đông Dương.

 

 

 

  • alt

Chính điện của đền Tử sĩ.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định bước ra sau khi viếng đền.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định viếng đài tưởng niệm những tử sĩ người Việt theo Công Giáo đã chết cho nước Pháp trong chiến tranh thế giới nhứ nhất.

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định trong cuộc mít tinh ở vườn thuộc địa Nogent-sur-Marne..

 

 

 

 

  • alt

Vua Khải Định viếng thăm Hội địa lý Pháp.

 

 

 

  • alt

Tổng thống Pháp Millerand và Vua Khải Định trên khán đài trường đua ngựa tại Longchamp.

 

 

 

Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2015 lúc 10:15pm


Sự trở về của cô gái Pháp mang dòng máu vua Hàm Nghi
-------------------------------------------------------



Amandine Dabat tại buổi trò chuyện tại TP.HCM
Một câu chuyện kì lạ khác về vua Hàm Nghi vừa làm ngỡ ngàng người Sài Gòn, khi một nữ trí thức trẻ người pháp trở về nhận là hậu duệ của ông và cho biết đang làm luận án tiến sĩ lịch sử nghệ thuật về chính bậc tiền nhân của mình...
Hàm Nghi là vị hoàng đế có số phận kì lạ, từ chuyện ông được chọn lên ngôi, truyền hịch Cần Vương chống pháp, bị bắt lưu đày biệt xứ, từ chối học tiếng Pháp và cả việc ông vẽ hàng trăm bức tranh mà mãi sau này mới được biết đến.
Sống lại hình ảnh tuổi trẻ vua Hàm Nghi trong mắt cô cháu gái
Nữ trí thức trẻ ấy có gương mặt xinh đẹp, thanh tú rất Pháp và cái tên cũng hoàn toàn Pháp: Amandine Dabat, sinh năm 1987 ở Paris, tốt nghiệp cử nhân Việt Nam học tại Pháp năm 2012. Vẻ đẹp rạng rỡ, phong cách ứng xử tinh tế và diễn ngôn lưu loát của cô làm dịu đi cái nắng xuân oi bức Sài Gòn tháng 3.2015.
Điều gây ngạc nhiên cho mọi người là cô lại mang trong mình dòng máu của vị hoàng đế yêu nước Hàm Nghi, mà theo cách gọi của người Pháp thời thuộc địa là “ông hoàng An Nam”. Bằng kiến văn sâu sắc và khách quan, cô đã giúp làm sáng tỏ thêm nhiều điều bất ngờ thú vị về ông vua có tâm hồn nghệ sĩ.
Lịch sử cho biết, Hàm Nghi tên huý Nguyễn Phúc Ưng Lịch là hoàng đế thứ 8 của triều đình nhà Nguyễn, do phái chủ chiến mà đứng đầu là hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường dựng lên làm vua khi ông mới 13 tuổi. Là con thứ 5 của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, ông là một trong ba vị vua là ba anh em ruột được sinh trưởng trong cùng một gia đình hoàng tộc: Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh. Ông cũng là một trong ba vị vua nhà Nguyễn được lịch sử tôn vinh yêu nước chống giặc Pháp xâm lược: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Và sau ba năm phất cờ khởi nghĩa Cần Vương, ông bị kẻ phản bội chỉ điểm và bị thực dân Pháp bắt xuống tàu đày sang an trí tận thủ đô Alger của Algeria năm 1888.
Bị giam lỏng xứ người xa xôi, sống buồn tủi trong ngôi biệt thự Rừng Thông (Villa des Pins, thuộc làng El Biar), cựu hoàng trẻ tuổi vẫn giữ cách ăn mặc, sinh hoạt của người Việt, từ chối học tiếng Pháp, vì ông cho đó là ngôn ngữ của kẻ thù xâm lược Tổ quốc mình. Tuy nhiên, cuối cùng nhận thấy người Pháp ở Algeria tỏ ra tử tế hơn người Pháp ở Việt Nam và cũng do nhu cầu giao tiếp , nên ông dần học và nói, viết rành tiếng Pháp.
Đến năm 1904, Hàm Nghi đã kết hôn với bà Marcelle Laloe ở Alger và lần lượt sinh hạ ba người con: hai công chúa Như Mai, Như Lý và hoàng tử Minh Đức. Trong đó, công chúa Như Lý (hoặc Như Luân, 1908 - 2005) từng tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với công tước Frangois Barthomivat de la Besse, mà cô Amandine Dabat là cháu đời thứ 4; cũng có nghĩa Amandine là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi.
Đây không phải là chuyến trở về Việt Nam đầu tiên của Amandine Dabat, nhưng là lần đầu cô có buổi trò chuyện trước hàng trăm người tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM, lại nói về cuộc đời kì lạ của một người thân thích của mình là hoàng đế - nghệ sĩ Hàm Nghi.
Điều đó gây xúc động trong từng lời nói của nữ trí thức trẻ này và xúc động cả người nghe đông đảo khán phòng. Hình ảnh vị vua yêu nước trẻ tuổi có số phận đặc biệt từ hơn một trăm năm trước như sống lại trong mỗi ánh mắt, cử chỉ thông minh của người chắt ngoại xa lạ mà dễ gần của ông. Mọi người bắt gặp phía trong hình hài rất Pháp của cô gái trẻ là một tâm hồn rất Việt, với tinh thần tự tôn về tổ tiên và tình yêu cháy bỏng đối với di sản yêu nước và nghệ thuật mà cụ tổ là hoàng đế Hàm Nghi để lại.
Amandine Dabat cho biết, cô càng nghiên cứu kho sử liệu gia đình thì càng tự hào vì trong mình có dòng máu của vị vua người Việt Nam yêu nước, một nghệ sĩ có cuộc đời thật kì lạ.
Khi bị lưu đày tại Algeria, vua Hàm Nghi vẫn bị người Pháp cho rằng có thể quay về Việt Nam làm vua và xem ông như một quân bài dự bị chiến lược. Cả người quản gia cũng là nhân viên an ninh theo dõi nhà vua và đã làm báo cáo nhiều trang gửi chính quyền thực dân. Thư từ hoàn toàn bị kiểm soát và chỉ một số ít đến được tay của nhà vua.
Hàm Nghi là một trong hai hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên theo phong cách phương Tây
Đối với thế giới nghệ thuật, cựu hoàng Hàm Nghi với nghệ danh Tử Xuân ký dưới các bức tranh, là một hoạ sĩ đích thực với niềm đam mê hội hoạ lớn lao và có thành tựu, chứ ông không chỉ đơn giản dùng tranh để khuây khoả những năm tháng bị đày ải biệt xứ.
“Thực sự lúc đầu tôi nghĩ rằng ông vẽ như một cách để tìm niềm vui. Nhưng qua tư liệu cho thấy, khi đã khởi đầu thì ông đam mê vẽ cả ngày, vẽ như một hoạ sĩ thực sự. Và theo tôi, ông đã trở thành hoạ sĩ một cách tự nhiên”. Amandine Dabat cũng nói rằng, nhà vua đã vượt ra khỏi sự giam lỏng của chính quyền thực dân Pháp để tìm đến với nghệ thuật như một cách bày tỏ nỗi nhớ cố hương đang chìm trong bóng giặc. Tác phẩm của ông không bộc lộ quan điểm chính trị.
Hành trình đến với nghệ thuật của cựu hoàng Hàm Nghi cũng khá đặc biệt. Ông vốn không tỏ ra có năng khiếu mỹ thuật. Vào năm 1899, từ Alger ông sang Paris và thích thú khi xem một cuộc triển lãm của danh họa Paul Gauguin, từ đó khơi lên trong ông ngọn lửa tình yêu hội họa. Và cũng từ đó ông dần đắm chìm trong sắc màu.
Tranh của ông chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng của nước Pháp và châu Âu. Người gần gũi dạy vẽ trực tiếp cho ông 15 năm là hoạ sĩ Pháp Marius Reynaud sống ở Algeria. Ngoài ra, Hàm Nghi cũng từng “thọ giáo” nhà điêu khắc vĩ đại nhất nước Pháp August Rodin, mà tại cuộc triển lãm năm 1979, trong phần Rodin với vùng Viễn Đông có xác thực điều này.
Nhờ những chuyến du hành hạn chế sang Pháp và trên đất nước Algeria mà ông đã vẽ nhiều bức phong cảnh, tĩnh vật và điêu khắc một số tượng chân dung bằng đồng, thạch cao. Tranh tượng của Hàm Nghi dùng bút pháp phương Tây nhưng hoà quyện tinh thần văn hoá phương Đông, nơi sinh thành ra ông với những hình ảnh thân thuộc như cánh đồng, cây cối, hoa trái, cánh cò cánh vạc vào buổi hoàng hôn. Điều đó giúp ông giải toả nỗi nhớ cố hương và cũng là hồn cốt tạo nên sự khác biệt trong tác phẩm của ông.
Kì lạ là hơn nửa thế kỉ sau khi cựu hoàng Hàm Nghi qua đời, mọi người mới lơ mơ biết rằng ông từng vẽ tranh khắc tượng. Thông tin về các tác phẩm của ông chỉ được biết qua thư từ mà ông trao đổi với bạn bè, nhất là catalogue của cuộc triển lãm riêng vào năm 1926 tại Paris dưới bút danh Tử Xuân; còn đa số tranh của ông đã bị thất lạc, nhất là khi căn nhà ông ở bị cháy trong biến cố chiến tranh ở Algeria năm 1962.
Đến nay tranh của ông còn lại khoảng dưới 100 tác phẩm, về bức tranh Chiều tà (Déclin du jour) của Hàm Nghi được phát hiện và bán đấu giá 8.800 euro ở Paris ngày 24.11.2010, Amandine Dabat nói rằng cô và gia đình không hề hay biết cho tới khi nghe thông tin qua báo chí.
Vì sao Hàm Nghi ký tên dưới các bức tranh là Tử Xuân, chứ không phải Xuân Tử vốn là tên được cha mẹ đặt cho? Ông kí tên bằng chữ quốc ngữ rất rõ ràng nhưng không có dấu, theo kiểu tiếng Pháp: Tu Xuan. Vấn đề này được đặt ra và tranh luận nhỏ tại buổi giao lưu.
Theo lý giải của Amandine Dabat, khi chống Pháp và bị bắt lưu đày, Hàm Nghi chưa tiếp cận chữ quốc ngữ mà chỉ dùng chữ Pháp và chữ Hán. Về sau, những người Việt sang Pháp du học mới dạy cho cựu hoàng chữ quốc ngữ và ông đã sử dụng nó để kí tên vào tác phẩm của mình.
Có mặt tại buổi giao lưu, Tiến sĩ văn học Trần Hoài Anh cho rằng, việc Hàm Nghi đã viết tên mình theo ngữ pháp tiếng Việt chứ không phải ngữ pháp tiếng Hán cho thấy ý thức khát khao độc lập về văn hoá của vị vua yêu nước. Với trình độ Hán học uyên thâm, không thể có chuyện cựu hoàng viết nhầm Xuân Tử thành Tử Xuân được. Đây chắc chắn là một biểu hiện có chủ ý của vua Hàm Nghi.
Amandine Dabat cho hay, cô đã tập hợp trên 2.500 tư liệu thư từ gia đình, thư viện, chứng từ hành chính trong thời kỳ lịch sử có liên quan đến vua Hàm Nghi để dựng lại cuộc đời của ông. Cô đang hoàn thành hai công trình để xuất bản thành sách, đó là luận án tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học Sorbonne mà cô thực hiện năm 2010 có chủ đề: “Tử Xuân: danh mục các tác phẩm tranh ảnh, điêu khắc của Hàm Nghi (1871-1944), vị hoàng đế Việt Nam lưu vong” và luận án tiến sĩ ngành lịch sử nghệ thuật và khảo cổ với chủ đề “Vua An Nam: khảo cổ học nhân học”.
Ngoài thư viện gia đình, Amandine Dabat đã tiến hành nhiều chuyến đi khảo cứu ở Algeria, Việt Nam và ngay tại Paris có liên quan tới cuộc đời vua Hàm Nghi. Cô nói: “Tôi hi vọng sẽ sớm xuất bản cuốn sách phát triển từ luận án về vua Hàm Nghi viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Mọi thông tin cần biết về vị vua yêu nước và là một nghệ sĩ tài năng đích thực sẽ là niềm tự hào cho tất cả chúng ta”.
Trong câu chuyện, cô hay nói từ “chúng ta” bằng tình cảm chân thành và gần gũi của một người con xa xứ trở về cố hương với bao trăn trở về quá khứ đau thương xen lẫn tự hào về bậc tiền nhân “vị quốc vong thân”!
Chúng ta đã biết Hàm Nghi là vị hoàng đế yêu nước và đã thể hiện được bản lĩnh tâm hồn, nhân cách Việt khi bị lưu đày ở xứ lạ quê người. Qua “giọt máu” đáng quý của ông là Amandine Dabat, nhất định rồi đây chúng ta sẽ biết rõ thêm một Hàm Nghi nghệ sĩ, có thể là người tiên phong của nền mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: “Luận án tiến sĩ của Amandine nghiên cứu về toàn bộ cuộc đời làm nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Hàm Nghi nghệ sĩ vẽ tranh, Hàm Nghi nặn tượng và Hàm Nghi nhiếp ảnh. Khi luận án này trình xong, cùng với Lê Văn Miến, vua Hàm Nghi sẽ được khẳng định là một trong hai họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ tranh, nặn tượng theo phong cách phương Tây.

Hoàng Thủy (Pháp luật và Cuộc sống)



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 03/Apr/2015 lúc 10:23pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Oct/2016 lúc 8:25am
Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam




Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó… riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc; nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?


Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam:

Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.

Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.


1 Tên do địa hình, địa thế:


Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:

“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”


Giồng


là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”

Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:

“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”


Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa.

(Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).

Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?

Truông


l[bLà đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.

“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”


Tại sao lại có câu ca dao này?

Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.

Phá


Là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy, sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.

Bàu


Là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.

Đầm


Chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng giòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.

Bưng


Từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.

“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.

Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.

Láng


Chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hòa (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.

Trảng


Chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hòa có Trảng Bom, Trảng Táo.

Đồng


khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hòa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.

Hố


chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hòa có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.

2 Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer


Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hóa đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hóa một cách tài tình.

Cần Thơ


Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”.

Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”.

Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.

Mỹ Tho


Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt.

Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.

Sóc Trăng


Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”.

Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua.

Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn.

Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt). Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.

Bãi Xàu


Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng.

Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống.

Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.

Kế Sách


Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hóa tiếng Khmer “k’sach”.

Một số địa danh khác:


Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.

Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.

Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).

Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.

Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”, là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.

Cà Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.

3 Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.


Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.

Chợ


Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau:

– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.

– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.

– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.

Xóm


Là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…

Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.

Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để nuôi tằm).

Thủ


Là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.

Bến


Ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng, xe lam…

Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ ở Biên Hòa.

Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:

Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).

4 Một số trường hợp khác


Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó.

Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo cách này: Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ… Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận.

Trường hợp hình thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.

“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”


Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi còn sống.

Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa.

Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.


Kết


Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền.

Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được.

Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn.

Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối.

Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).

Hồ Đình Vũ-
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Nov/2016 lúc 10:37am

Bắc Ninh: Quê Hương Quan Họ

Bèo Dạt Mây Trôi

Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi
Anh ơi em vẫn đợi… bèo dạt.
Mây trôi chim sa tang tính tình, cá lội
Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ
Sao chẳng thấy đâu?
Một mảnh trăng treo suốt canh thâu,
Anh ơi trăng đã ngả ngang đầu.
Thương nhớ… ai sương rơi đêm sắp tàn, trăng mờ.
Cành tre đưa trước gió, là gió la đà
Em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh?
Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi
Anh ơi, em vẫn đợi… bèo dạt
Mây trôi chim sa tang tính tình cá lội
Ngẫm một tin trông, hai tin đợi, ba, bốn tin chờ
Sao chẳng thấy đâu?
Ngày ngày ra trông chốn xa xăm
Anh ơi em vẫn đợi mỏi mòn.
Ra trông sao sa tang tính tình hoa tàn,
Người đi xa có nhớ,
Là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời,
Sao chẳng, sao chẳng thấy anh?

BacNinhQuanHo%20001BacNinhQuanHo%20002

 

Thưa quí vị, khi xưa đọc truyện Tiêu Sơn tráng sĩ, Sao Khuê cứ vương vấn cái tên trấn Kinh Bắc. Lúc mà chung quanh mình chỉ có tỉnh, thành phố, thị xã mà đột nhiên lại có cái tên trấn Kinh Bắc, nghe sao huyền bí lạ lùng… Rồi, nào là Phạm Thái, nào là Trương Quỳnh Như, nào là Sơ Kính Tân Trang do chính Phạm Thái viết kể chuyện tình oan trái của chính mình, truyện và thực cứ trộn lẫn vào nhau khiến người đọc không khỏi bâng khuâng lưu luyến của một thời xưa vang bóng… Thế rồi có vị bác sĩ gợi ý một buổi nói chuyện về ‘Quan Họ’ mà đã nói đến Quan Họ là phải nói đến Bắc Ninh, quê hương của Quan Họ.

Thưa quí vị, đây là bản đồ trấn Kinh Bắc, Bắc Ninh

BacNinhQuanHo%20004

 

BacNinhQuanHo%20005   BacNinhQuanHo%20006

BacNinhQuanHo%20003

Tỉnh Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh là cửa ngõ của cố đô Thăng Long. Do có các đường thuỷ, đường bộ chạy qua, nên vị trí quân sự của Bắc Ninh cực kỳ quan trọng.
Đường bộ có các quốc lộ 1A, cao tốc 1B (Hà Nội - Lạng Sơn), cao tốc Hà nội - Bắc Ninh nằm trên đường quốc lộ 18 nối sân bay quốc tế Nội Bài với Thành phố Hạ Long và hải cảng Cái Lân, Quảng Ninh và đường 38 nối Bắc Ninh với tỉnh Hải Dương.
Đường sắt: tuyến đường sắt quốc tế Hà Nội - Hữu Nghị Quan.
Đường thủy: qua sông Cầu, sông Thái Bình và sông Đuống nối ra sông Hồng; các sông nhỏ như sông Ngũ huyện Khê, sông Dân, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê (nay không còn), sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Thời Bắc thuộc, Bắc Ninh là trị sở của Giao Chỉ Bộ là nơi phát huy văn hoá Lạc Việt, nơi tiếp nhận Nho giáo từ Trung quốc phương Bắc truyền xuống, trạm của Phật Giáo Ấn Độ truyền sang Trung Quốc theo đường biển, nơi khởi phát Phật giáo tại Giao Châu mà di tích còn lại là trung tâm Phật giáo Luy Lâu, thủ phủ của Lĩnh Nam còn lưu lại đền thờ Tôn Sĩ Nhiếp.
Bắc Ninh ngày xưa gọi là Kinh Bắc có lẽ vì nằm về phía Bắc của kinh đô Hà Nội? Kinh Bắc là nơi có 3 kinh đô cổ của Việt Nam: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên.
Theo sử, năm Canh Tuất 1490 vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước gồm 13 đạo sau gọi là xứ. Từ triều Tây Sơn tới đầu triều Nguyễn đổi sang gọi là trấn: từ Nghệ An trở ra Bắc gồm: (trấn) xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam (trấn Sơn Nam Thượng, trấn Sơn Nam Hạ), Xứ Đông (trấn Hải Dương), Xứ Đoài (trấn Sơn Tây - em nhớ xứ Đoài mây trắng lắm...), trấn Hưng Hóa, trấn Cao Bằng, trấn An Quảng (Yên Quảng), xứ Thái Nguyên, xứ Lạng Sơn, xứ Tuyên Quang, phủ Hoài Đức (Thăng Long), đạo Thanh Bình, nội trấn Thanh Hoa, trấn Nghệ An.
Thời vua Gia Long nhà Nguyễn, Kinh Bắc vẫn được gọi là xứ: xứ Kinh Bắc hay trấn Kinh Bắc thuộc Bắc thành tổng trấn. Trấn Kinh Bắc xưa gồm 4 phủ (20 huyện), bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh lân cận Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng). Năm 1831 trấn Kinh Bắc đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Đây là một tỉnh rất lớn bao gồm toàn bộ Bắc Ninh hiện nay, gần hết Bắc Giang, một phần Hà Nội, một phần Vĩnh Phúc và một ít của Lạng Sơn, chia thành 20 huyện: Đông Ngàn, Tiên Du, Yên Phong, Quế Dương, Võ Giàng, Siêu Toại, Gia Bình, Lang Tài, Văn Giang, Gia Lâm, Thiên Phúc, Hiệp Hòa, Kim Anh, Phượng Nhãn, Bảo Lộc, Lục Ngạn, Yên Thế, Hữu Lũng, Yên Dũng, Việt Yên.Trấn lỵ của trấn Bắc Ninh trước kia ở xã Đáp Cầu thuộc huyện Võ Giàng. Tháng 2 năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long cho dời trấn lỵ đến xã Lỗi Đình thuộc huyện Tiên Du.
Lúc đầu, thành Bắc Ninh chỉ được đắp bằng đất, cho tới năm Minh Mạng thứ 6 (1825), thành được xây lại bằng đá ong và cuối cùng xây lại bằng gạch vào thời Thiệu Trị (1841). Thành xây tại chỗ giáp giới của 3 xã thuộc 3 huyện là Đỗ Xá (huyện Võ Giàng), Khúc Toại (huyện Yên Phong) và Lỗi Đình (huyện Tiên Du). Các sắc dân sinh ống ở Bắc Ninh gồm : Việt (Kinh), Nùng, Mường, Tày...
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Tương,... sống bằng nông nghiệp và thủ công nghệ. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,... bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,... Mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tạo các đồ trang sức và làm gốm,...
Bắc Ninh không những chỉ có vị trí quân sự quan trọng mà còn là cái nôi cuả văn hoá lịch sử và Phật pháp cũng như thủ công nghệ của Việt Nam.
Trên mảnh đất Bắc Ninh này, những huyền thoại về ông Đùng, bà Đùng, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành Cổ Loa. Các di tích lịch sử như lăng Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du,,.. đền Đô, chùa Phúc Nghiêm Tự (chùa Tổ), đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, đình làng Tam Tảo v.v…Chùa Dâu, Chùa Phật Tích là những nơi phát sinh Phật giáo Việt Nam; nơi phát sinh vương triều Lý như Đền Đô, Chùa Dận...

BacNinhQuanHo%20008  BacNinhQuanHo%20007

 

 

 

 

Đền Đô và thành Cổ Loa

BacNinhQuanHo%20009

BacNinhQuanHo%20010

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tường thành Cổ Loa và Chùa Bút tháp

BacNinhQuanHo%20011

BacNinhQuanHo%20012

 

 

 

 

 

 

 

 

cầu đá chùa Bút Tháp và Chùa Dâu

A. Các làng làm nghề truyền thống

BacNinhQuanHo%20013

Làng nghề đúc đồng truyền thống Quảng Bố-Lương Tài
Làng Gỗ mỹ nghệ Hương Mạc
Làng gò đúc đồng Đại Bái
Làng tranh dân gian Đông Hồ
Làng dệt Tam Tảo
Làng dệt Hồi Quan
Làng gốm Phù Lãng
"Làng" Giấy Phong Khê
Làng Gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ
Làng nghề sắt thép
Làng Gỗ mỹ nghệ Mai Động
Làng Gỗ mỹ nghệ Phù Khê
Làng tơ tằm Vọng Nguyệt
Làng đúc phế liệu
Làng tre Xuân Lai

B. Chùa ở Bắc Ninh:

Bắc Ninh được xem như nơi khởi phát của Phật Giáo Việt Nam mà chùa Pháp Vân là cổ tự lâu đời nhất ngoài ra còn rất nhiều chùa như Chùa Bút tháp, Cảm Ứng Tự, Chùa Dâu, Chùa Dạm, chùa Dận, chùa Kim đài, Chùa Phúc Lâm, Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Phật Tích, chùa Trăm Gian…

1. Chùa Bút Tháp

BacNinhQuanHo%20014

Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Chùa có tượng Phật Quan Âm ngàn tay. Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc".

BacNinhQuanHo%20015 


Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.

Chùa Dâu,

BacNinhQuanHo%20012

còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Duyên Ứng Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam. Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa Trăm Gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Tại vùng Dâu có bốn ngôi chùa cổ: Pháp Vân ("mây pháp), Pháp Vũ (mưa pháp), Pháp Lôi (sấm pháp) và Pháp Điện (chớp pháp). Bốn chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Dàn, Bà Tướng.

Chùa Phật Tích

BacNinhQuanHo%20016

(Phật Tích tự) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam.
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý nhưng ngôi chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa.
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..."
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ).
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.

Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội làm gẫy cành hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên. Do tích này, trước đây chùa Phật Tích có mở hội Hoa Mẫu đơn hàng năm.

BacNinhQuanHo%20017  BacNinhQuanHo%20018 BacNinhQuanHo%20019 BacNinhQuanHo%20020

Đền Đô nằm trên vùng đất "địa linh nhân kiệt" Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh (cách Thủ đô Hà Nội gần 20 km). Từ xưa vùng đất này đã nổi tiếng là vùng văn hóa, là nơi có phong cảnh đẹp. Đền Đô được xây dựng từ thời Lý Công Uẩn (thế kỷ XI). Đền thờ 8 vị vua nhà Lý đó là: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009-1028); Lý Thái Tông (1028-1054); Lý Thánh Tông (1054-1072); Lý Nhân Tông (1072-1128); Lý Thần Tông (1128-1138); Lý Anh Tông (1138-1175); Lý Cao Tông (1175-1210) và Lý Huệ Tông (1210-1224).Quê hương nhà Lý là nơi tiêu biểu cho các làng quê vùng kinh Bắc. Nơi đây có các di tích lịch sử - văn hóa như chùa Cổ Pháp, Kim Đài (một trong những trung tâm Phật giáo cực thịnh vào thế kỷ VIII); đình làng Lý Khánh Văn, nơi thờ và tưởng niệm người cha nuôi của vua Lý Thái Tổ; Thọ Lăng Thiên Đức, khu lăng mộ của 8 vua nhà Lý khiêm tốn, giản dị.

Chùa Kim Đài (còn gọi là chùa Đài, chùa Quỳnh Lâm (Quỳnh Lâm tự), chùa Lục Tổ) là một ngôi chùa tại xóm Xuân Đài, làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tương truyền, Lý Công Uẩn, người sáng lập triều Lý Việt Nam, lúc nhỏ từng là một chú tiểu tại chùa này.[1]

Chùa Thiên Tâm (Chùa Tiêu) Chùa Thiên Tâm hay còn gọi là chùa Ba Sơn, chùa Tiêu, "Thiên Tâm tự" là tên chính của chùa vì vốn từ khi mới khởi dựng, đứng trên đỉnh núi - giữa đất trời bao la, dân cư, làng xóm thưa vắng, núi Tiêu như là nơi tụ hội, trung tâm của đất trời vậy, còn cái tên Tiêu Sơn là gọi theo tên đất, tên làng, tên núi nơi đây.
Chùa Thiên Tâm được xây dựng khoảng trước thời Tiền Lê, đến thời Lý đã được tôn tạo khá khang trang và trở thành nơi tu thiền, giảng đạo của nhiều bậc cao tăng như Thiền sư Lý Vạn Hạnh - Quốc sư, người có công nuôi dưỡng và dạy dỗ Lý Công Uẩn (vị vua khai sáng Vương triều Lý) trụ trì và viên tịch...

C. Lễ hội

Hàng năm, tỉnh Bắc Ninh có hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau:

Lễ hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du) được tổ chức vào 13 tháng giêng hàng năm, tổ chức thi hát quan họ.
Lễ hội làng Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du. Được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 2 hàng năm, Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương Trần Quý và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu Phương Dung. Tưởng nhớ ơn hai vị tướng Đào Lại Bộ người có công giúp Thục Phán An Dương Vương đánh Triệu Đà xâm lược.
Lễ hội Đền Đô (Đình Bảng, thị xã Từ Sơn) để kỷ niệm ngày đăng quang của vua Lý Thái Tổ - 15 tháng 3 năm Canh Tuất 1010, và tưởng niệm các vị vua nhà Lý.
Lễ hội Phù Đổng (của bốn xã trong đó có xã Phù Đổng huyện Tiên Du) ngày 9- tháng 4 để kỷ niệm vị anh hùng dân tộc Phù Đổng Thiên Vương.
Lễ hội Thập Đình (của mười xã thuộc hai huyện Quế Võ và Gia Bình) để kỷ niệm trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam tức Thái sư Lê Văn Thịnh và Doãn Công (Cao Doãn Công).
Lễ hội Đền Cao Lỗ Vương ngày 10 - tháng 3 ở làng Tiểu Than(làng Dựng) xã Vạn Ninh và làng Đại Than (làng Lớ) ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
Lễ hội Đền Tam Phủ xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
Lễ hội Đồng Kỵ ngày 4 - tháng Giêng.
Lễ hội Chùa Dâu ngày 8 - tháng 4.
Lễ hội Đình Châm Khê ngày 4 - tháng tám (âm)
Có câu:
Mùng bẩy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín hội Gióng
Mồng mười hội Bưởi
đâu đâu cũng về

BacNinhQuanHo%20009
Thành Cổ loa

BacNinhQuanHo%20021


Đền Phù Đổng

BacNinhQuanHo%20024


But Tháp

BacNinhQuanHo%20023


Chùa Lim

D Di tích lịch sử:

Đền thờ Nguyễn Cao
Chùa Bút Tháp
Chùa Tiêu - Trung tâm Phật giáo xưa của Việt Nam. Nơi thụ thai và nuôi dưỡng Lý Thái Tổ đến năm 15 tuổi.
Chùa Tổ - Huyền tích của một vùng Tứ Pháp
Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua triều Lý
Chùa Dạm
Chùa Dâu
Chùa Phật Tích
Chùa Phúc Lâm - Làng Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du
Đình làng Hồi Quan
Đình làng Đình Bảng
Đình làng Hoài Trung
Đình làng Tam Tảo
Đền Phụ Quốc - Làng Tam Tảo
Đình Chùa Làng Yên Mẫn
Đền Cao Lỗ Vương
Đình Quan Đình
Đình Mẫn Xá
Đình Tiểu Than, Lăng mộ Cao Lỗ Vương
Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương - Nam Bang Thủy Tổ (Kinh Dương Vương là cha của Lạc Long Quân)

E.Các vị trạng nguyên:

Bắc Ninh có 544 vị tiến sĩ với 15 vị trạng nguyên trong tổng số 49 trạng nguyên VN
Lê Văn Thịnh (1075]] - Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử
Lý Đạo Tái (1272)
Lưu Thúc Kiệm (1400)
Nguyễn Nghiêu Tư (1448)
Vũ Kiệt (1472)
Nguyễn Quang Bật (1484)
Nghiêm Hoản (1496)
Nguyễn Giản Thanh (1508)
Ngô Miễn Thiệu (1518)
Hoàng Văn Tán (1523)
Nguyễn Lượng Thái (1553)
Phạm Quang Tiến (1565)
Vũ Giới (1577)
Nguyễn Xuân Chính (1637)
Nguyễn Đăng Đạo (1683)

F. Danh nhân

*Cao Lỗ Vương (Tướng chế nỏ thần thời An Dương Vương)
*Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
*Trần Qúy (Phụ Quốc Đại Vương - Người có công cứu Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
*Đặng Thị Phương Dung (Minh Phúc Hoàng Thái Hậu - Người có công cứu Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
*Nguyên Phi Ỷ Lan (Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lại hàng tay ta)
*Đàm Quốc Sư
*Nguyễn Đăng Đạo (lưỡng quốc Trạng nguyên)
*Nguyễn Văn Cừ
*Ngô Gia Tự
*Lê Quang Đạo
*Nguyễn Cao
*Hàn Thuyên ( vơí văn tế cá sấu )
*Lê Văn Thịnh (Thủ khoa Đại Việt đầu tiên)
*Tuyên Phi Đặng thị Huệ tức bà chúa Chè người làng Phù Đổng (Gióng) huyện Tiên Du
* Cao Bá Quát
Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường

* Nữ sĩ Đoàn thị Điểm ( người làng Hiến Phạm huyện Văn Giang) với dịch phẩm nổi tiếng Chinh Phụ Ngâm khúc.
* Thân mẫu của Nguyễn Du là bà Trần thị Thấn.
* Hoàng Cầm với lá Diêu bông

Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều,
Cuống rạ.
Chị bảo: Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em đi tìm thấy lá

Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời...
ới Diêu Bông!
(Hoàng Cầm)

BacNinhQuanHo%20025

Quan họ Bắc Ninh

BacNinhQuanHo%20026

Vào lúc 16h55 ngày 30/9/2009 tại thủ đô Abu Dhabi của Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Ủy ban UNESCO đã công nhận quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa của nhân loại dựa trên các giá trị văn hóa, giá trị lưu giữ tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, phong cách ứng xử văn hóa, ca từ và trang phục. Phạm vi công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ phân bố như sau: tỉnh Bắc Giang có 5 làng là Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ; tỉnh Bắc Ninh có 44 làng là: Bái Uyên, Duệ Đông, Hạ Giang, Hoài Thị, Hoài Trung, Lũng Giang (Lim), Lũng Sơn, Ngang Nội, Vân Khám, Tam Sơn, Tiêu, Đông Mai, Đông Yên, Bồ Sơn, Châm Khê, Cổ Mễ, Dương Ổ, Đẩu Hàn, Điều Thôn, Đông Xá, Đỗ Xá, Hòa Đình, Hữu Chấp, Khả Lễ, Khúc Toại, Ném Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Niềm Xá, Phúc Sơn, Thanh Sơn, Thị Chung, Thị Cầu, Thọ Ninh, Thượng Đồng, Trà Xuyên, Vệ An, Viêm Xá, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Ổ, Xuân Viên, Y Na, Yên Mẫn.

Vậy quan họ là gì?

A.Truyền thuyết:Thời vua Gia Long có hai họ quan người làng Diềm và làng Bịu kết bạn vơi nhau tổ chức ca hát sau đó lối ca hát này truyền ra ngoài nên mang tên hát quan họ.

B. Quan họ là loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác bằng cách truyền khẩu ở vùng đồng bằng miền Bắc, tập trung ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).
Dân ca quan họ là hát đối đáp nam,nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về lời ca và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao và có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo.
Khi hát hai bên hát với nhau, bên hát trước giọng nào thì bên sau phải theo giọng nấy để trả lời và phải theo cho đúng như thế mới gọi là đối chọi, không đối được là tỏ ra cái kém cỏi của mình.

* Có 4 giọng chính:
Giọng sổng (transitor air)
Giọng vặt (diverse air)
Giọng hãm (recitative air)
Giọng bỉ (tunes borrowed from other sources)

* Những lối hát quan họ:
Quan họ cầu đảo: tại làng Diềm cầu cho nhà nông khi bị hạn hán tại đền Vua Bà tức Tối Linh Thượng Đẳng thần hay Đại Vương Nam Hải tức thần Nước
Quan họ trùm đầu: tại làng Diềm vào những tuần trăng sáng mùa thu theo đó khi hát thì trùm đầu bằng áo hay khăn nên được hát tự do cử chỉ cũng tự do.
Quan họ Hiếu: tại làng Lũng Giang (làng Lim) và Tam Sơn là hai làng kết chạ, cầu cho luá tốt, cây xanh, nước trong và hát khúc Nhị Thập Tứ Hiếu.
Quan họ kết chạ : kết chạ có ăn giải thưởng tại làng Bồ Sơn trong 3 ngày từ 10 tháng giêng đến 12 tháng giêng âm lịch

BacNinhQuanHo%20027


* Vơí 4 kỹ thuật : Vang, rền nền, nảy.
* và 4 hình thức chính: Hát canh = hát tại nhà giữa hai nhóm quan họ
Hát hội = hát ở hội thi lấy giải
Hát mừng = hát ở đám
Hát cầu = hát ở cửa đình cửa đền
* Tục lệ quan họ
Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục “ngủ bọn
Đầu tiên là tập quán "kết chạ" giữa các làng quan họ. Từ tục "kết chạ", trong các "bọn" quan họ xuất hiện một tập quán xã hội đặc biệt là tục kết bạn quan họ. Mỗi "bọn" quan họ của một làng đều kết bạn với một "bọn" quan họ ở làng khác theo nguyên tắc quan họ nam kết bạn với quan họ nữ và ngược lại. Với các làng đã "kết chạ", trai gái trong các "bọn" quan họ đã kết bạn không được cưới nhau.
Một điểm khác biệt của quan họ Bắc Ninh so với các loại dân ca khác ở Việt Nam là tục "ngủ bọn". Sau một ngày làm việc, "bọn" quan họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 17 tuổi thường rủ nhau "ngủ bọn" ở nhà ông / bà Trùm để tập nói năng, ứng xử, giao tiếp, học câu, luyện giọng, và nhất là phải biết bẻ giọng, ứng đối kịp thời. Yêu cầu đặt ra với tục "ngủ bọn" là "liền anh" và "liền chị" phải ghép đôi và luyện sao cho từng đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát.
Muốn hát quan họ phải có "bọn": "bọn nam" hoặc "bọn nữ". Trong một làng quan họ thường có nhiều "bọn nam" và "bọn nữ". Mỗi "bọn" thường có 4, 5, 6 người và được đặt tên theo thứ tự: chị Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu. Nếu số người đông tới 7, 8 người thì đặt tên là chị Ba, chị Tư (bé) hoặc anh Ba, anh Tư (bé)… mà không đặt chị Bảy, Tám hay anh Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên của "bọn" quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong "bọn".

C Ẩm thực quan họ.

BacNinhQuanHo%20028

* trầu quan họ thì phải là trầu têm cánh phượng hoặc trầu têm cánh quế, chè phải là chè Thái Nguyên.

BacNinhQuanHo%20029 BacNinhQuanHo%20030

* Cơm quan họ dùng mâm đan nghĩa là mâm gỗ tròn sơn đỏ, còn gọi là "mâm son", vừa trang trọng vừa thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà đối với khách. Các món ăn trong bữa cơm phụ thuộc vào tập quán của từng làng nhưng phải có một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa, thịt lợn nạc, đặc biệt không dùng thức ăn nhiều mỡ để tránh hỏng giọng.

BacNinhQuanHo%20031
Mâm cơm quan họ

BacNinhQuanHo%20032

Thi nấu cơm quan họ

BacNinhQuanHo%20033

D.Y phục quan họ

Y phục của "liền anh" và "liền chị" có sự khác biệt.
Y phục của "liền chị" gồm nón ba tầm hoặc nón thúng quai thao, khăn vấn và khăn mỏ quạ, yếm đào xẻ con nhạn, áo tứ thân nhiễu điều nhiễu tía, váy, thắt lưng, dép.
Chiếc nón quai thao đi kèm với bộ áo mớ ba (3 áo ), mớ bảy ( 7 áo) màu hoa đào, màu hoa hiên, màu xanh thiên lý hay màu vàng chanh của những lớp áo trong. Phía dưới, các quý bà, quý cô thường mặc váy lưỡi trai bảy bức bằng lĩnh hay sồi đen buông chấm gót, làm nền cho những dải thắt lưng cánh sen hay mỡ gà thắt nút so le rủ xuống, đong đưa mỗi khi cơn gió thoảng qua. Các cô còn vấn khăn nhiễu tím hay đen, vắt cao lọn tóc đuôi gà dài óng ả, bên mình là bộ xà tích kèm ống vôi quả đào bằng bạc và con dao gấp xinh xinh, vừa để trang sức lại vừa để têm trầu, bổ cau… Và bộ trang phục này càng thêm hài hòa khi các cô xỏ chân vào đôi dép cong da trâu, hay đôi guốc gỗ cong sơn then quai bằng da hoặc sợi mây.

BacNinhQuanHo%20034 BacNinhQuanHo%20035

 

Y phục của "liền anh" gồm khăn xếp, ô lục soạn, áo cánh bên trong và áo dài 5 thân bên ngoài, quần, dép.
Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn mầu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh…gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ.

 BacNinhQuanHo%20002 BacNinhQuanHo%20036

BacNinhQuanHo%20037 BacNinhQuanHo%20038

BacNinhQuanHo%20039

E.Lời ca quan họ

Dân ca quan họ chủ yếu là nghệ thuật phổ lời ca dao và thơ. Nghệ thuật này đòi hỏi phải sử dụng những tiếng phụ, lời phụ bên cạnh những tiếng chính, lời chính nhằm làm cho tiếng hát trôi chảy, bổ sung ý nghĩa cho lời ca chính, làm cho lời ca thêm phong phú, linh hoạt, tăng nhạc tính của bài ca, phát triển giai điệu, làm cho âm nhạc của bài ca trở nên sinh động, bố cục trở nên hợp lý. Không dùng tiếng phụ, lời phụ, lời ca dễ đơn điệu, mất cân đối.

Chuyển điệu thức là hiện tượng đặc biệt của Dân ca quan họ với 2 hình thức: cách biệt và nối liền. Nghệ nhân ghép hai, ba âm giai ngũ cung trong một bài hát, đã khéo vận dụng nhiều dạng điệu thức khác nhau. Duy trì ở một mức độ nhất định lối cấu trúc mở, họ đã kết hợp một số mô hình cấu trúc tương phản và những thủ pháp đan điệu, chuyển điệu trong cùng một hệ thống ngũ cung hoặc chuyển hệ để phá vỡ sự đơn điệu trong một bài.
Khi hát họ sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sang, mẫu mực. Những bài ca quan họ cũng được sáng tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong một cuộc thi tranh giải của làng. Nội dung các bài ca thể hiện các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy định của những tập quán xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.

Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với trên 500 bài ca.
Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là thể thơ và ca dao của Việt Nam, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp với từ ngữ giàu tính ẩn dụ, trong sáng, mẫu mực. Đây là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca là thể hiện tình yêu lứa đôi. Lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi,ư hư, a ha v.v…
Lời cũng được lấy từ những tác phẩm văn học như Tống Trân Cúc Hoa, Lục Vân tiên, Nhị Độ Mai, Nữ Tú Tài, Sơ Kính Tân Trang … và nhất là Truyện Kiều.
# Truyện Kiều anh thuộc đã lâu
Đố anh kể được hai câu năm chữ “này” (1) hay năm người (2)
hoặc Truyện Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh kể được hai dòng toàn nôm
Thì câu trả lời đều là:
* Này chồng, này mẹ này cha
Này là em ruột này là em dâu

# Truyện Kiều anh đã thuộc thông
Đố anh kể được hai dòng toà nho
Câu trả lời là:
Hồ công quyết kề thừa cơ
Lễ tiên binh hậu, khắc cờ lập công

# Truyện Kiều anh thuộc đã lâu
Đố anh kể được một câu mười người
Hai bên mười vị tướng quân
Đặt gươm cơỉ giáp trước sân khấu đầu

# Truyện Kiền anh thuộc đã lâu
Đố anh đọc được hai câu hết Kiều
Trăm năm trong cõi người ta
Mua vui cũng được một và trống canh

# Truyện Kiền anh thuộc từng vần
Đố anh kể được ba lần trăm năm
Trăm năm trong coĩ người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không

# Truyện Kiều anh thuộc đã nhiều
Đố anh kể được câu Kiều mười cho
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân!

# Thấy em hay đọc truyện Kiều
Cho nên anh hỏi mấy điều xem sao
Kiều, Vân em chị thế nào
Tuổi ai hơn kém, má đào giỏi giang
Hỏi chi ngoắt nghéo hỡi chàng
Thúy Kiều là chị rõ ràng hẳn hoi
Hai người cùng đẻ sinh đôi
Chàng xem trong truyện chàng thời hiểu ra
Đầu lòng hai ả Tố Nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Hai người một tuổi một năm
Lấy đâu hơn kém mà thăm hỏi dò
Kiều càng sắc sảo mặn mà
Cho nên bạc mệnh ai mà chẳng hay

Truyện Lục Vân Tiên
Trai thì trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình

Sơ Kính Tân Trang
Bốn chúng tôi quyến bạn yên hà
Say sưa đồng quyến la đà xuân phong…..

Văn thể của Hát Quan họ tuy là lối lục bát, nhưng khi hát, vì những chỗ lên xuống trầm bổng, vì những nhu cầu của sự chuyển giọng, chuyển lời nên loại dân ca này có mang vài đặc tính là bài hát bao giờ cũng có thêm vào nhiều tiếng không có trong nguyên văn. Đó là những tiếng vô nghĩa, hoặc những chữ hát chệch hẳn đi, những tiếng dùng để đưa hơi như; y, a, ư, ô, ơ, ha, ối, ý, này, a, i, ì.v.v.v…Nhờ những tiếng đệm, tiếng láy lập lại như thế mà tính chất nhịp điệu của tiết tấu câu thơ lục bát được thay đổi luôn, trở nên phong phú vô cùng.
Ví dụ bài trống cơm:
“Trống cơm khéo vỗ nên bồng, Một bầy con nít lội sông đi tìm.
Thương ai con mắt lim dim
Một bầy con nhện giăng tơ đi tìm.
Thương ai duyên nợ tang bồng”
Khi trở thành bài hát Quan họ Bắc Ninh là:
1.(Tình bằng có cái) trống cơm (khen ai) khéo vỗ (ố mấy bông) nên bông.
2.Một bầy (tang tình) con nít (ố mấy lội) lội sông (ố mấy) đi tìm.
3.(em nhớ) thương ai (đôi) con mắt (ô mấy) lim dim
4.Một bầy (tang tình) con nhện (ớ ớ ớ ố mấy) giăng tơ (giăng tơ ố mấy) đi tìm.
5.(em nhớ) thương ai duyên nợ (khách) tang bồng.
Đó là chưa kể đến chỗ hát lại hai lần như phần đầu câu 2 và ở cuối câu 1,2,3,5.
Ngoài ra những tiếng đưa hơi, tiếng đệm, tiếng láy, có khi trong bài hát có cả những tiếng dùng để ghi hệ thống âm giai của cổ nhạc là: Hò, xàng, xư, xê, cống.
Ví dụ như bài “Xe chỉ luồn kim”
“May quần tình chung là vuông nhiễu tím (í a, í a)
Gởi ra (gởi ra chồng) cho chồng.
Ứ xàng, ừ xàng u cái liu

F. Đặc thù của quan họ

** Hát chia làm từng bên. Mỗi bên, trai hay gái phải có ít nhất 4 người để thay phiên nhau hát vì hát rất hao hơi. Quan họ phải hát giọng đôi, nghĩa là hai người hát cùng một lúc, một người “dẫn” (chính) và một người luồn (phụ). Mỗi bên Quan họ có một người đứng đầu đại diện và được tôn làm Chị hai, Anh hai. Những người khác cứ theo thứ tự hát hay, hát kém mà lấy tên anh ba, anh tư, chị ba, chị tư. Chỉ cần bốn người hát được, còn bao nhiêu dựa vào cho đông cũng không sao.
** Trai gái hát Quan họ không phải sống nghề về hát, không thể gọi là những người hát chuyên nghiệp nhưng không phải bất cứ ai ai cũng có thể hát được Quan họ. Muốn hát Quan họ phải có nhiều điều kiện, phải có giọng tốt, phải chịu khó luyện tập, phải có trí nhớ và ít nhiều thông minh, nghĩa là có ít nhiều tài đối đáp, biết bình tĩnh để trả lời người đối diện không những trong ‎ý câu hát mà nhất là trong giọng bài hát.
Tình bạn hữu, tình anh em giữa những người cùng chung “gia đình” Quan họ thật thân thiết. Họ coi cha mẹ của nhau như cha mẹ của mình. Những dịp hiếu hỉ, buồn vui, họ đều đến thăm hỏi, cha mẹ bạn có yếu đau họ tìm đến chăm sóc an ủi.
Cũng như hầu hết các loại dân ca trữ tình ở Việt nam, hát Quan họ vay mượn nhiều ở phong dao. Hầu hết các bài Quan họ đều theo thể lục bát biến thể. Đó là những bài tình ca do nam nữ thanh niên Bắc Ninh hát lên để ca tụng tình yêu, nói lên những oán trách, hờn ghen và giận tủi về yêu đương hoặc biểu lộ những tâm tình sôi sục yêu đương.
** Hát quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn, hát đối đáp dẫn giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp đến mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống nhất. Có 4 kỹ thuật hát quan họ là: nền, rền, vang, nảy nhưng hát quan họ không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng mà còn bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các nghệ nhân quan họ tuy có nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại rất riêng, khó lẫn. Tùy theo theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy có thể lớn nhỏ về cường độ.
** Khác biệt của Dân ca quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca ở Việt Nam trong việc truyền dạy là tục ngủ bọn. Sau một ngày lao động, đêm đến, bọn quan họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 16, 17 tuổi thường rủ nhau ngủ bọn nhà ông/bà Trùm để học câu, luyện giọng: phải học đủ lối, đủ câu, luyện giọng sao cho vang, rền, nền, nảy, tập nói năng, ứng xử, giao tiếp và phải biết đặt câu, bẻ giọng, ứng đối kịp thời. Yêu cầu đặt với tục ngủ bọn là liền anh/liền chị phải ghép và luyện sao cho từng đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát.

BacNinhQuanHo%20040

Tính chất trữ tình của các điệu hát ấy có thể chia thành nhiều loại. Loại có tính chất nhẹ nhàng, chân thật vui tươi, cởi mở, hoạt bát, thoải mái. Có loại bài có tính chất bày tỏ, tin tưởng lạc quan, yêu đời, trìu mến. Có loại tình tứ, duyên dáng, thắm thiết say sưa. Có loại mang tính chất vui tươi nửa trào phúng, nửa tình tứ một cách ý nhị. Có loại đượm nỗi nhớ nhung, trách móc. Trong các bài Quan họ nhiều nhất là những bài để tỏ tình. Rất ít bài nói lên sự thất tình. Nhưng trong sự tỏ tình có nhiều hình thức : khi thổ lộ tâm tình, khi thăm dò lòng bạn, khi hy vọng, mong mỏi nhớ nhung người tình, khi trách hờn giận, ghen tuông người tình; nhưng rút cuộc những câu thổ lộ tâm sự cũng là để thăm dò tình bạn là nhiều hơn cả.
Ví dụ:
“Anh như cây gỗ xoan đào,
Em như câu đối dán vào nên chăng?”
“Em như cây cảnh trên chùa,
Anh như con bướm đậu nhờ nên chăng?”

G. Hát quan họ lúc nào? ở đâu

Ngày xưa trai gái vùng Bắc ninh có thể hát bài quan họ quanh năm. Mỗi khi có dịp lễ là họ mời nhau đến hát, ban đêm không có việc gì, họ cũng rủ nhau đến một làng nào đó trong vùng để cùng nhau vui hát.. Nhưng hát Quan họ đặc biệt thịnh hành vào mùa thu tháng tám, và nhất là vào tiết mùa xuân trong ba tháng giêng, hai, ba… Dịp hát quan trọng nhất là những dịp đám cưới, đám khao, đám giỗ, đám hội. Hát Quan họ là lối hát không dính dáng đến lao động, trái với nhiều loại dân ca khác như hò hát, ví, vì thế không hát ở ngoài đồng trong khi làm lụng mà có thể hát tại nhà trong các dịp cưới hỏi, giỗ, khao… hay sau khi hát ở hội đình, hội chùa rồi mời nhau về nhà. Tại nhà có khi liền chị ngồi trong nhà hát ra, và liền anh trên bờ hát vọng xuống. Có khi họ cùng ngồi trong thuyền trên mặt hồ để vui hát trong một đêm hè hay một chiều thu. Có đến 100 bài ca nói đến thuyền bè bến nước trong 500 bài dân ca quan họ:
Thuyền ơi có nhớ bến không
Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền

hay
Ngồi tựa mạn thuyền
Trăng in mặt nước
Càng nhìn non nước càng xinh
Sơn thủy hữu tình
Thơ ngâm ngoài lái
Rượu bình giải trí trong khoang

BacNinhQuanHo%20041
Tại hội đình trai gái hát trước bàn thờ Thành hoàng. Lắm khi các bài hát, lúc đầu chỉ có tính chất tôn giáo một ít, còn về sau đều có tính chất tình tứ. Tại hội chùa, họ hát trước cửa chùa, giữa sân chùa, có khi cả trong chùa. Nhưng thường hát ở các sườn đồi hay giữa các đám ruộng hoặc trên những bờ đê bên cạnh chùa.

 BacNinhQuanHo%20042

H. Hội quan họ

BacNinhQuanHo%20043 BacNinhQuanHo%20044

Hội hát Quan họ thường gắn với hội chùa. Cho nên chùa là nơi tụ hội và đón nhận khách Quan họ. Có tới 49 làng hát quan họ, phân bố trong bốn huyện, xã phía nam tỉnh Bắc Ninh. Nhưng nói tới Quan họ, người ta nghĩ ngay đến hội Lim. Lim là tên nôm của xã Lũng Giang xưa. Hội mở trên đồi, nơi có chùa Lim (chùa Hồng Ân). Hội Lim đông vui và nổi tiếng nhất trong các hội Quan họ. Hội mở vào ngày 13 tháng giêng, đúng phiên đầu năm của chợ Lim. Đến hội Lim, khách du xuân được xem và nghe hát trên đồi, hát sau chùa, hát trên thuyền và hát trong các tư gia (hát trong nhà); lại có thể nghe hát đối từng cặp (đôi nam, đôi nữ), hoặc "bọn" nam, nữ. Hội Lim chính là hội chùa làng Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương huyện Tiên Du. Hội Lim trở thành hội hàng tổng (hội vùng) vào thế kỷ 18. Khi quan trấn thủ xứ Thanh Hóa Nguyễn Đình Diễn là người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc, có nhiều công lao với triều đình, được phong thưởng nhiều bổng lộc, đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông còn cho xây dựng trước phần lăng mộ của mình đặt tên là lăng Hồng Vân trên núi Lim. Do có nhiều công lao với hàng tổng và việc ông đặt hậu ở chùa Hồng ân, nên khi ông mất nhân dân tổng Nội Duệ đã tôn thờ làm hậu thần, hậu Phật hàng tổng. Văn bia lăng Hồng Vân có tên Hồng Vân từ bi ký niên đại Cảnh Hưng 30 (1769) hiện giữ ở đình thôn Đình Cả đã cho biết khá rõ lai lịch, công trạng và việc thờ phụng hậu hàng tổng Nguyễn Đình Diễn mỗi năm hai dịp vào "ngày sinh" và "ngày hóa" của ông tại lăng Hồng Vân và chùa Hồng Ân trên núi Lim.
Hội Lim được mở từ ngày 12 đến 14 tháng giêng Âm lịch hàng năm, trong đó ngày 13 là chính hội, thường được kéo dài trong khoảng thời gian 3-5 ngày (11/1 - 15/1 Âm lịch).

Hội Lim bao giờ cũng gồm 2 phần tách bạch: Lễ và Hội. Các làng Duệ Khánh, Đình Cả, Lộ Bao, Lũng Giang hội tụ thành một đoàn rước từ từ tiến vào trung tâm hội thu hút sự chú ý, quan tâm đặc biệt của hội. Đây là tâm điểm của phần Lễ, hoạt động tế lễ của các đoàn rước chính là chương trình khai hội.

Ngày 13 mới là chính hội. Nhưng từ sớm ngày 12, đồi Lim - trung tâm lễ hội đã tưng bừng với các lán hát Quan họ và các trò chơi dân gian như: Thi tổ tôm điếm, đu tiên, vật, đập niêu, thi cờ người, dệt cửi hội, trò bịt mắt bắt dê và kéo co.
Lúc 8giờ sáng ngày 13/1 Âm lịch, Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước. Đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu và cũng vô cùng cầu kì, đẹp mắt kéo dài tới cả gần km. Trong ngày lễ, có nhiều nghi lễ và tục trò dân gian nổi tiếng, trong đó có tục hát thờ hậu. Toàn thể quan viên, hương lão, nam đinh của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ hậu thần. Trong khi tế có nghi thức hát quan họ thờ thần.

Để hát thờ, các liền anh,liền chị quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành hàng trước cửa lăng hát vọng vào. Trong khi hát, họ chỉ được hát những giọng lề lối để ca ngợi công lao của thần.

Hội Lim đi vào lịch sử và tồn tại và phát triển cho đến ngày nay được hàng tổng chuẩn bị tập rượt rất chu đáo từ ngày 9 và 10, rồi được diễn ra từ ngày 11 đến hết ngày 14 tháng giêng. Chính hội là ngày 13, với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy. Trong các nhà thờ họ Nguyễn, họ Đỗ ở làng Đình Cả, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân.
Đặc sắc hơn cả là phần hát hội và là phần căn bản và đặc trưng nhất của hội Lim. Từ hát mời trầu, hát gọi đò đến con sáo sang sông, con nhện giăng mùng...
Hội thi hát diễn ra khoảng gần trưa, được tổ chức theo hình thức du thuyền hát quan họ. Tại một hồ nước nhỏ sát bên cánh đồng làng Lim, chiếc thuyền hình rồng được sơn son thiếp vàng rời bến trong những câu hát đậm đà nghĩa tình. Một bên thuyền là các liền chị, đối diện là những em nhỏ súng sính trong những tà áo tứ thân. Các liền anh thì đứng hoặc ngồi sát hai phía đầu và cuối thuyền.
Tối ngày 12 sẽ là đêm hội hát thi quan họ giữa các làng quan họ. Mỗi làng quan họ có được dựng một trại tại phần sân rộng của đồi Lim. Đây là phần hội hay nhất của cả lễ hội Hội Lim.
Về với Hội Lim là về với một trời âm thanh, thơ và nhạc náo nức không gian đến xao xuyến lòng người. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm... như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách chơi hội của người quan họ vùng Lim cũng là cách chơi độc đáo, mỗi cử chỉ giao tiếp đã mang trong nó một sắc thái văn hoá cao.
Lễ hội diễn ra khắp các làng xã trong tổng Nội Duệ, trung tâm là núi Hồng Vân, với nghi thức tế lễ rước xách uy nghiêm, hùng tráng và nhiều trò vui, đặc sắc mà hấp dẫn nhất là đánh cờ người, tổ tôm điếm, thi dệt vải, thi làm cỗ và đón bạn, ca hát Quan họ.
Là lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc, với những hoạt động phong phú của lễ và hội đã có nội dung và tầm cỡ lễ hội văn hóa dân gian Kinh Bắc, gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh - mảnh đất có nhiều lễ hội dân gian.
Đến hội Lim, du khách được xem và nghe hát trên đồi, hát sau chùa, hát trên thuyền và hát trong các tư gia (hát trong nhà); lại có thể nghe hát đối từng cặp (đôi nam, đôi nữ), hoặc "bọn" nam, nữ.

Mời trầu

Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền nan i,
có về là về với hội có gái ngoan gái ngoan tầm (tìm) chồng
N: Ô mấy dẫu tình rằng anh
Nam: cô cả cô hai nay đấy ơi.
N: Anh cả anh hai nay đấy ơi.
Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền rồng
Có về là về với hội có cái công cái công đi tìm
N: Ô mấy dẫu tình rằng

Nam: cô cả cô hai có biết không?
N: Anh cả anh hai vẫn còn không?
Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền không
Có về là về với hội có bến sông bến sông bãi bồi
N: Ô mấy dẫu tình rằng,
Nam: Cô cả cô hai ớ làng Đôi
N: anh cả anh hai ớ làng Chanh.
Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền mành i,v Có về là về với hội có cái danh cái danh với đời
N: Ô mấy dẫu tình mời,
Nam: cô cả cô hai ra hát chơi,
N: anh cả anh hai ra hát chơi
Nam: Ba quan i một chiếc là chiếc thuyền không,
Có về là về với với hội (có) bến sông (có a) con thuyền
N: Ô mấy dẫu tình rằng anh cả anh hai nay có duyên,
Nam: cô cả cô hai nay có duyên.
cả 2: Ô mấy dẫu tình rằng.ô mấy dẫu tình ơi!...

Nam:Trên trời – có đám mây xanh
Có con ngựa bạch chạy quanh i gầm í trời
N:Ô mấy dẫu tình rằng,ô mấy dẫu tình ơi

Nam: Đôi ta – muốn lấy nhau chơi
Nhưng cái duyên không định thì trời không xe
N: Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi.
Nam: Những nơi tít tắp bờ tre (ô mấy dẫu tình ơi)
Nhưng cái duyên cứ định, trời xe anh vào (Ô mấy dẫu tình rằng, ô mấy dẫu tình ơi)
Nam: Ba đồng (Ba đồng) một sợi chỉ đào (một sợi chỉ đào)
Áo vóc không vá, vá vào áo tơi
N: ô mấy dẫu tình ơi
Tủi lòng ì thiếp lắm chàng ơi, dẫu rằng lên ngược xuống xuôi lỡ làng.
cả 2: Ô mấy dẫu tình rằng ô mấy dẫu tình ơi, Ô mấy đãu tình rằng ô mấy dẫu tình ơi

Nói tự do:

Gặp chàng dưới ánh trăng thanh,
Xin mời ăn miếng trầu xanh thắm nồng.
Trầu xanh, cau trắng, tranh hồng.
Đẹp duyên phải phận tơ hồng trời xe…

Dạ! Xin mời anh Cả, anh Hai ăn với em miếng trầu…

Nam: Ăn một miếng trầu gặp đây ăn một miếng trầu,không ăn ơ cầm lấy í, không ăn ơ cầm lấy í cho nhau bằng lòng,
Trầu này trầu tính ớ trầu tình, trầu này trầu tính i trầu tình.
Ăn vào cho đỏ ăn vào cho đỏ môi mình môi ta, miếng trầu là miếng trầu vàng.
N: Đứng ở đằng xa yêu nhau i đứng ở đằng xa,
con mắt liếc lại í con mắt liếc lại í bằng ba đứng gần.
Nam: Anh còn son,
N: em cũng còn son. Anh còn son i, em i cũng ư còn son i
cả 2: Ước gì ta được ước a gì ta được í làm con một nhà.
N: Em về thưa với me cha
Nam: Anh về thưa với mẹ cha
cả 2: ta về thưa với mẹ cha
…………….

Hội làng Phù Đổng

BacNinhQuanHo%20045

Trong một nội san của Edmonton Canada có nói về một vị linh mục đã soạn những bài thánh ca quan họ nhưng Sao Khuê chưa tìm ra được để viết cho quí vị đọc, vị nào tình cờ biết được xin cho biết. Thưa quý độc giả nội dung của bài viết trên đây hoàn toàn tìm thấy trên mạng, Sao Khuê chỉ là ngươì sắp xếp lại cho có thứ tự mạch lạc mà thôi.

BacNinhQuanHo%20046

Sao Khuê

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Nov/2016 lúc 4:56pm

Thành Cổ Loa


Thành Cổ Loa là di tích lịch sử có từ hơn 2050 năm, là di tích thứ nhì sau vua Hùng.

Ước nguyện là làm thế nào để đến được các di tích lịch sử từ đời vua Hùng cho đến các triều đại về sau.
Xin giới thiệu di tích thành Cổ Loa ở Đông Anh - Hà Nội.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2546_zps45d8c193.jpg
Hình hướng dẫn du khách vào thành Cổ Loa ở Đông Anh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/Re-exposureof385_coloa1_zpsd62a2935.jpg
 
Sơ đồ thành Cổ Loa, nhìn thì biết thế nhưng thật ra để nhìn toàn cảnh thành Cổ Loa phải dùng máy bay trực thăng mới thấy được tổng thể của thành vì quá rộng lớn.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
 
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km. Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2548_zps7469dace.jpg
Điểm đến đầu tiên khi vào thành Cổ Loa, dọc đường đông đúc nhà của phố thị là cửa Trấn Nam.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2549_zpsb7fff9d1.jpg
Miếu thờ thần trấn cửa Nam. Thành Cổ Loa có 4 miếu trấn 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2554_zpsfbfa09cb.jpg
Qua cửa Trấn Nam rẽ tay phải đến khu di tích đền thờ tướng Cao Lỗ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2555_zps924bfb6b.jpg
 
Hình tượng tướng Cao Lỗ ở giủa hồ, tay dương nỏ Liên Châu.
 
Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là Nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2556_zps687dc738.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/Re-exposureofMUITENDONGCOLOA_zps471691ee.jpg
 
Đền thờ Cao Lỗ.
Mũi tên bằng đồng, cổ vật được tìm thấy tại khu di tích thành Cổ Loa.
Cha đẻ nỏ Thần
Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (nỏ thần), bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.
Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2557_zps477edbae.jpg
Án thờ tiền sảnh, thờ Bách gia trăm họ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2558_zps451c8805.jpg
Án thờ Cao Lỗ ở Hậu cung.
Qua đời
 
Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.
Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2563_zpsc55608cd.jpg
Toàn cảnh đền thờ Cao Lỗ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2564_zps1d0c36a0.jpg
Đền thờ Vua An Dương Vương cách đền thờ Cao Lỗ chừng 150m
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2566_zpsbb6263d9.jpg
Hồ nước trước đền thờ, một phong cảnh hữu tình nhất của thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2565_zps238a8844.jpg
Cổng chính của đền thờ vua nhìn ra hồ nước.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2567_zps7023c6a1.jpg
Qua cổng chính là cổng Tam Quan.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2570_zps4a6af86c.jpg
Hình ảnh nhìn từ chánh điện ra phía trước, thiêt kế gọn gàng, hai bên là hai nhà tả, hữu. Buổi trưa hết giờ hành chánh cửa điện đóng nên không vào bên trong điện được
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2593_zps4d2f2cf9.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2583_zpse59174fd.jpg
Rời điện thờ, ra ngoài nhìn cảnh hồ thật nên thơ, chụp một bức ảnh góc xa nhìn về ngôi đền.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2572_zpsce730119.jpg
Dù đã trưa nhưng vẫn tiếp tục quay lại đền Cao Lỗ, phái sau đền Cao Lỗ là cung đình, nơi hội họp của An Dương Vương.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2573_zpsb9fcb294.jpg
Cổng chánh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2574_zps494bb072.jpg
Cung điện là một tòa nhà 9 căn, cửa đóng then gài vì quá trưa không mở cửa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2576_zpsd9c876ac.jpg
Bên cạnh là miếu thờ Mỵ Nương.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2578_zps23b4c1c9.jpg
Án thờ Hội đồng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2577_zpse34622d9.jpg
Án thờ Mỵ Nương ở Hậu cung, nơi đây âm u thấy rợn người khi lẻn vào chụp ảnh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2579_zpseabfecc0.jpg
Một góc nhìn về chánh điện.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2589_zps7b41ec25.jpg
Một cảnh của hồ nước trước trước đền thờ rất thơ mộng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2584_zps490ae392.jpg
Góc xa nhìn về ngôi đền thờ vua.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2590_zpsc66c72a4.jpg
 
Hình ảnh một đoạn thành Cổ Loa.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/250px-Thanh_co_loa1_zps1022c942.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2591_zps1a74ad6f.jpg 
Nhiều đoạn thành bị cắt xẻ để làm đường giao thông đi lại từ khu vực nầy sang khu vực khác do mật độ dân số tăng lên, lập thành hệ thống liên thông giửa là này qua làng khác đã phá vỡ cảnh quang của hệ thống thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2596_zps91ee23a1.jpg 
Cửa Trấn Bắc
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2595_zpsbf6a3659.jpg 
Cửa Trấn Bắc trên vị trí vòng thành thứ 3, cách trung tâm Cổ Loa 5km. được người dân nơi đây tôn tạo giữ gìn.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2601_zpsd76dd8b3.jpg
Vòng thành bị đứt nhiều đoạn. Cứ thấy giửa cánh đồng có đoạn nào cao, cây cối mọc sum sê thì đó là đoạn thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2604_zps50c9be72.jpg
Cửa Trấn Tây. Riêng cửa Trấn Đông không còn vì người dân nơi đó đã san bằng để xây dựng nhà cửa. Thật đáng tiếc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2605_zps19527801.jpg
Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2606_zps09feffa8.jpg
Vài hình ảnh về nhánh sông Hoàng bao quanh thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2607_zps50b0a389.jpg
Hình ảnh sông Hoàng chảy về thành Cổ Loa. Hiện nay tốc độ xây dựng khu dân cư, làng xóm trong phạm vi khu nội thành đã phá vỡ cảnh quang của khu di tích, nhà cửa xây cao tầng sát với các khu đền thờ quan trọng nhất của thành Cổ Loa.
 
 
Nguyễn Hữu Chánh - Sưu tầm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Jan/2017 lúc 10:57am

Năm Gà Lại Tới, Sao Quên Được Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945


vnch%20doiatdau


Thế chiến 2 tuy chính thức mở màn từ tháng 9-1939 giữa phe trục Đức-Ý và Đồng Minh (Anh, Pháp, Hà Lan) nhưng tới ngày 10-5-1940, Hitler mới khai hoả cuộc chiến tại Âu Châu. Ngày 14-6-1940 chính phủ Pháp do nội các Reynaud cầm đầu, di tản chiến thuật xuống tận Bordeaux rồi sụp đổ. Đồng lúc kinh đô Paris bị bỏ ngõ để quân Đức vào chiếm đóng.

Ngày 17-6-1940 tướng Pétain lãnh đạo lâm thời nước Pháp, ký hiệp ước đầu hàng Đức. Biến cố trên được coi như là một bước ngoặt quan trong nhất trong dòng lịch sử cận đại của VN, vì chính nó đã mở đường để quân phiệt Nhật vào Đông Dương (1940-1945), gây nên thảm kịch 2 triệu người VN bị chết đói năm Ất Dậu 1945.

Cọng sản đệ tam quốc tế do ************ đứng đầu, lúc đó đang núp trong Mặt Trận Việt Minh, đã tàn nhẩn lợi dụng nạn đói trên cùng những biến chuyển lịch sử trong thế chiến II, làm sụp đổ chính phủ Trần Trọng Kim và cướp được chính quyền lúc đó đang bị các phe phái bỏ ngỏ. Do những bí ẩn của lịch sử chưa được khai quật tron vẹn trong nấm mộ thời gian, nên chúng ta cũng đừng ngạc nhiên, khi thấy ngụy quyền cộng sản Hà Nội từ đó đến nay, vẫn tỉnh queo trước biến cố dân chết đói năm Ất Dậu 1945. Đã thế các sử gia đỏ còn to mồm một mực đổ thừa cho Pháp-Nhật là nguyên nhân gây nên thảm kịch trên.

Nhưng giấy làm sao gói được lửa và thúng cũng chẳng úp giấu được voi bao lâu, nên ngày nay chẳng những người Việt mà cả thế giới, đều biết chính bọn cọng sản quốc tế trong Mặt Trận Việt Minh lúc đó, cũng là những tòng phạm giấu mặt, đã cùng với Pháp-Nhật gây nên thảm án thiên cổ kinh hoàng nhất trong dòng sông lịch sử Hồng Lạc.

Ngày 30-4-1975 Miền Nam VN sụp đổ hoàn toàn vì thù trong giặc ngoài, khiến cho cả nước từ trên xuống dưới, giàu nghèo khôn dại, già trẻ trai gái đều phải ngoi ngóp sống trong vũng bùn ô uế của xã nghĩa thiên đàng, kéo dài từ đó đến nay cảnh đói nghèo bất công tàn bạo vẫn không chấm dứt cho dù VN nói là đã đổi mới.

Cũng từ đó, thảm kich đói cơm ăn áo mặc và không khí tự do thở hít, đã thường trực hằng hằng làm cho người dân Miền Nam trơ xương mắt trắng, khi phải đối diện với cái ưu việt của nền kinh tế quốc doanh, lấy hộ khẩu và sổ tem phiếu làm cơ bản, được mang từ Hà Nội vào để thay thế nền kinh tế tư bản của VNCH, bị đảng kết tội là bóc lột xấu xa và phồn vinh giả tạo vì chỉ biết lệ thuộc vào đồng tiền viện trợ của Mỹ Nhật.

Do đó người Việt gần như cả nước, trong số này có rất nhiều thành phần từng đâm sau lưng người lính trận miền Nam đã cùng những cây cột đèn, liều chết vượt biển vượt biên đi tìm tự do trong cái chết. Phong trào bỏ quê làng đất mẹ ra đi, trốn lánh sự kềm kẹp man rơ của giặc Hồ, có một không hai trong lịch sử của nhân loại và Dân tộc Hồng-Lạc. Nhờ đó đã đánh thức được lương tâm mù lòa của thế giới, cũng như một số khoa bản-trí thức, học cho nhiều mà tim óc thì ù ù cạc cạc, nghĩ suy nông cạn, tuyên bồ hồ đồ, trong suột chiến cuộc Đông Dương lần thứ ba (1945-1975), do đệ tam quốc tế Nga-Tàu khởi xướng.

Năm 1945 Nhật Pháp và Việt Minh gây nên thảm nạn 2 triệu người chết đói từ Quảng Trị ra tới Miền Bắc VN. Tháng 4-1975, Cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội lại gây nên cơn hồng thủy biển Đông, mà mở màn từ những ngày di tản tại Huế, Đà Nẳng.. vào đầu tháng 4-1975. khi Quân Đoàn 1 mất. Sự thèm khát tự do của người VN vẫn tiếp nối tới nay chưa bao giờ chấm dứt, kéo thêm nổi oan khiên trầm thống của cả một dân tộc đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc thực dân đỏ do ngụy quyền việt gian Hà Nội cầm đầu.

Cái giá tự do mà người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới ngày nay đã có, đã phải trả cho Việt Cộng bằng vàng, tiền, nước mắt, máu xương bản thân gia đình, cùng với những sự hãi hùng trên biển Đông, khi đối diện với sóng gió và nạn hải tặc tàn bạo dã man Thái Lan. Năm 1945 những người VN chết đói, chỉ mới có ăn cỏ cây xác động vật nhưng sau năm 1975, những người tị nạn VN trên biển Đông, chết đói, đã phải ăn thịt người thân của mình để sống sót.

Gần bốn mươi hai năm qua, nay cũng đã đến lúc phải lột trần lịch sử, để trả lại sự oan khiên cho triệu triệu hồn ma uổng tử, đang sống vất vưởng trên vạn nẻo đường đất nước và trong lòng biển xanh mông mênh. Tất cả đều do ************ và đảng CSVN gây ra từ năm 1930 tới bây giờ, những tội lỗi trong muôn ngàn tội lỗi không sao dung thứ được, trong đó có tội bán nước Việt cho Tàu đỏ “kẻ thù truyền kiếp ngàn đời của Dân Tộc Việt”!

Hưng thịnh và tồn vong của một triều đại, ngoài việc để cho nhân thế về sau viết nhớ, phê phán khen chê nhưng tội ác đối với dân tộc mà ngụy quyền Hà Nội đã làm hơn 80 năm qua, chẳng những bị lịch sử bôi đen mà còn mãi mãi nằm trong bia miệng đay nghiến muôn đời

“thằng khùng thì đã vượt biên
còn thằng ở lại, nửa điên nửa khùng
bác hồ chết giữa ngày trùng
để toàn dân tộc nửa khùng nửa điên”

1 - Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945:

Nhờ Minh Trị Thiên Hoàng canh tân đất nước nên Nhật đã trở thành một cường quốc Châu Á, đánh bại Mãn Thanh lẫn Nga Hoàng và nuôi mộng làm bá chủ Đế Quốc Đại Á. Từ đó Nhật bành trướng thế lực quân sự không ngừng. Thập niên 20-30, Nhật chiếm Cao Ly, Mãn Châu và Bán Đảo Liêu Đông. Tháng 7-1937, Nhật gây chiến với Trung Hoa và gần như chiếm trọn nước Tàu, đuổi Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Trung Hoa kháng chiến chạy tới Trùng Khánh và bắt đầu dòm ngó Đông Dương.

Tháng 2-1939 Nhật chiếm Đảo Hải Nam, Hoàng Sa và Trường Sa, khiến Pháp phải cử tướng Georges Catroux làm Toàn Quyền Đông Dương, để lo phòng thủ và chống đỡ. Cùng lúc Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng từ Đông Kinh về Thượng Hải, thành lập VN. Phục Quốc Đồng Minh Hội (VNPQĐMH), trong đó có Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lâm, Trần Trọng Khắc.. chuẩn bị trở về VN lật đổ thực dân Pháp.

Ngày 19-6-1940, Bộ Ngoại Giao Nhật gủi tối hậu thư đòi Toàn Quyền Đông Dương phải chấm dứt tiếp tế cho Chính phủ Kháng Chiến Trung Hoa ở Hoa Nam, đồng thời cho quân Nhật vào đóng tại Bắc Việt. Ngày 17-7-1940, Decoux thay Catroux làm Toàn Quyền, qua thái độ phách lối trong lúc đã yếu thế, tạo thêm cớ để Nhật tiến vào VN, Miên, Lào, nhất là lúc phe quân phiệt cuồng sát của Tướng Tojo Hideki đang nắm quyền.

Ngày 1-8-1940 Nhật công khai thiết lập Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á, bao gồm Đông Dương thuộc Pháp và Đông Ấn (Indonesia) thuộc Hòa Lan. Tóm lại chỉ vì quyền lợi mà thực dân Pháp đã muối mặt ký với Nhật một hiệp ước ngày 30-8-1940. Theo đó, Nhật cho Pháp làm chủ Đông Dương và ngược lại Pháp hợp tác với Nhật, để cùng chia xẽ những quyền lợi tại bản xứ, đồng thời cho quân Nhật vào Bắc Việt cũng như được di chuyển khắp lãnh thổ Đông Dương.

Từ đó Nhật mới chính thức gia nhập Khối Trục với Đức-Ý, đưa Quân Đoàn Viễn Chinh Đông Dương (Indoshina Hakengun) do Thiếu Tướng Nishimurs Takuma làm tư lệnh, vào đóng khắp Việt-Miên-Lào. Nói chung, suốt thời gian 1940-9/1945, trên danh nghĩa Nhật vẫn để cho Pháp coi về Hành Chánh, An Ninh mà thội, còn tất cả tự thao túng một mình một chợ, gây nên nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, khiến hơn hai triệu đồng bào phải chết tức tủi trong oan khiên khổ nhục vì cổ phải mang tới bốn tròng (Pháp, Nhật, Quốc Gia và Việt Minh CS).

Ngày nay, qua các tài liệu lịch sử được giãi mật, cho thấy Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945, do nhiều nguyên nhân gây ra từ Pháp-Nhật, Chiến Tranh, Thiên Tai và Bàn Tay đẫm máu của Việt Minh. Qua dòng lịch sử, ta biết Dân Tộc VN từ thời lập nước Văn Lang Vua Hùng đầu tiên, tới nay do lấy nông nghiệp làm căn bản, nên không bao giờ bị đói, nếu như đất nước không bị chiến tranh hay thiên tai bất thường. Đói là nguyên nhân gây chiến tranh và làm sụp đổ nhiều triều đại trên thế giới nhất là nước Tàu.

Trong dòng Việt Sử thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, vùng đất Bắc và Nam Bố Chánh từ Thanh Nghệ vào tới Thuận Quảng luôn là bãi chiến trường, khiến cho dân chúng phải hứng chịu nhiều đau khổ. Hơn nửa vùng này lại là trung tâm bảo tố thiên tai của VN, nên luôn luôn bị mất mùa đói kém. Từ năm 1774-1778, ở Nghệ An mất mùa khiến nhiều người phải chết đói, trong lúc đó tại Thuận Hóa tình hình cũng không khá gì hơn, vì thiên tại nên không đủ gạo.

Vả lại dù có gạo nhưng giá bán quá mắc mõ, một chén tới một quan nên dân chúng chết đói nằm la liệt ngoài đường. Thời nhà Nguyễn (1802-1945) cũng nhiều lần dân bị đói, vì cảnh loạn lạc, chiến tranh và nhất là bị thiên tai, hạn hán, nạn châu chấu phá hại mùa màng.... nhưng hầu hết chỉ có tính cách địa phương và được Triều đình giải quyết nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn.

Nhưng tất cả các lần đói trên, dù có căn cứ vào Việt Sử hay tài liệu của các nhà truyền giáo Pháp như La Bartette.thì chỉ là muối đem bỏ biển, trước mức độ thiệt hại trên 2 triệu người bị chết đói, từ Quảng Trị ra Miền Bắc vào năm Ất Dậu 1945.

Năm 1942 nhà văn tiền chiến nổi tiếng Tô Hoài, đã viết “Quê Người” . Qua tác phẩm này, ta đã thấy được sự báo trước tai họa đói kém của miền quê Bắc Việt, thường cùng sống chung một nghề, để rồi cả làng tổng cùng chịu những tai biến như nhau khi bị hoạn nạn. Do hàng ế ẩm, mọi người phải nghĩ và đổ xô đi làm thuê, còn đồng lúa thì mất mùa, khiến gạo càng thêm kém.

Rồi thì nạn đói ập đến thật khủng khiếp, trong cảnh ngàn ngàn vạn vạn người khắp các nẻo đường đất Bắc vào tận Quảng Trị, Đồng bào bị Thực dân Pháp lẫn Quân Phiệt Nhật, bóc lột tận xương tủy khi quy vào đất ruộng mà thu thóc, không cần biết có làm ruộng hay không. Bởi vậy cả miền trung châu sông Hồng, vốn là cái vựa lúa toàn miền, cũng phải lâm vào cái cảnh không còn gạo để mà nấu. Túng quẩn, mọi người phải ăn gia súc, khoai sắn cây cỏ, chuột mèo và những gì có thể ăn được. Sau đó cả làng bỏ nhà cùng đi lần ra tỉnh thành và Hà Nội để xin ăn và cùng chết gục dần mòn trên đường hành khuất.

Đó là một trong những trang vong quốc sử thời Pháp thuộc, từ lúc chúng sang cai trị cho tới khi bị đánh đuổi nhục nhã phải rời VN trở về cố quốc. Trong gần trăm năm cưỡng chiếm nước ta, thực dân ngoài việc bóc lột và đàn áp đồng bào mình, chúng còn dùng rượu, thuốc phiện, bài bạc và văn chương thi phú lãng mạn để ru ngũ, đầu độc mọi tầng lớp thanh niên nam nữ trụy lạc, vong bản để không còn chống đối giặc thù cướp nước..

Theo tài liệu của Toàn quyền Đông Dương Decoux, ghi lai trong “À la barre de Lindochine” , thì chỉ riêng thời gian từ tháng 10-1940 tới tháng 3-1945, thực dân Pháp đã cướp của VN số bạc lên tới 723 triệu đồng Đông Dương để dâng nạp cho Nhật Bổn, đánh đổi chủ quyền về Hành Chánh-An Ninh tại Việt -Miên-Lào. Từ năm 1943-1945, tuân theo lệnh Đông Kinh, Pháp bắt nông dân phải nộp 3/4 hay nhiều hơn số thóc đã thu hoạch được hay nhiều hơn, số lượng đã gặt tại ruộng. Sự bóc lột tàn nhẫn quá đáng này, là nguyên nhân chính đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu 1945.

Trên tờ Thanh Nghị số 110 ngày 26-5-1945, Vũ Đình Hòe đã viết bài “Giá thóc phải nộp cho nhà nước” , cho thấy Pháp lẩn Nhật đã tận tuyệt vơ vét bóc lột nông dân VN lúc đó, để lập các kho dự trữ phòng bị chiến tranh khắp cả nước, từ Bắc vào Nam. Điều vô lý bất nhân của thảm kịch là Pháp Nhật đã “quân phân “số lương thu mua thóc, tới tất cả mọi người. Trong lúc đó theo nguyên tắc, chính quyền Bảo Hộ chỉ nên thu mua gạo lúa của các đại điền chủ có ruộng đất cò bay thẳng cánh, gạo thóc núi bồ, cho mọt ăn trong khi đợi các chủ chành gạo Ba Tàu-Chợ Lớn tới chở về Sài Gòn và các tỉnh thị, đầu cơ tích trữ, bán lại cho dân nghèo bằng cái giá cắt cổ, theo qui định của bọn thực dân Pháp và quân phiệt Nhật, đang làm trùm tại Đông Dương.

Theo các nguồn sử liệu còn lưu trữ, thì thực dân Pháp lúc đó, chỉ cần thu mua lúa gạo, từ các điền chủ có số ruộng trên 13 mẫu cũng dư sức lập kho dự trữ lúa gạo, theo ý chúng là 120.000 tấn, mà không cần phải vơ vét thu mua gạo thóc của các tiểu điền chủ, nông dân nghèo.

Cuối cùng Pháp và Nhật trong mưu đồ chính trị riêng, đã công khai đồng lõa với bọn nhà giàu bản xứ mà phần lớn là Hoa kiều, khi miễn trừ đem luật trừng phạt gian thương (Requisitionner) của luật pháp hiện hành, để bắt đại điền chủ bán gạo cho nhà nước khi cần thiết. Một điều quan trọng khác, là Pháp-Nhật khi thu mua gạo lúc đó, đã không theo giá thị trường mà lại áp dụng một thứ giá đặc biệt rất thấp, khiến cho đại đa số đồng bào VN với 90 % sống bằng nghề làm ruộng, tức khắc bi thương tổn vì thu hoạch không đủ bù vào tiền vốn cầy cấy, nên phải vơ vét hết gạo thóc để dành trong mùa sau, đem bán lấy tiền trả nợ hoặc sống qua ngày. Về lý thuyết thì giá gạo trên thị trường, năm 1943 đối với năm 1940 có tăng từ 11$50-14$50/1tạ, nhưng trong lúc đó vật giá, cũng đã tăng lên tới 300%, nên giá thóc phải được ấn định là 35$/1ta, còn gạo 75$/1tạ mới hợp lý, theo sinh hoạt giá cả năm 1943 đã tăng gấp 3 lần năm 1940.

Cũng liên quan tới thảm kịch chết đói năm 1945, một Pháp kiều ở VN đã viết “Témoignages et documents Francais relatifs à la colonization Francais au VN” , tố cáo sự kiện thực dân Pháp gây nên trận đói năm Ất Dậu, làm chết 2 triệu người từ Quảng Trị ra đất Bắc, chỉ nhằm hai mục đích chính, như Thống Sứ Bắc Kỳ lúc đó là Chauvet đã tự nhận: Bắt dân VN chết đói để nhận chìm phong trào cả nước đang nổi lên khắp nơi chống sự đô hộ của giặc Pháp, lúc đó bản quốc tại Âu Châu, cũng đang sống ô nhục dưới gót giầy sắt của Phát Xít Đức. Gây nạn đói, khi cho phép các công ty Pháp-Nhật (Cenis Frères và Mitsubishi) độc quyền thu mua bốc lột gạo thóc với giá rẻ mạt, khiến cho dân chúng lâm vào đường cùng. Từ đó mới có nhiều người đi làm phu đồn điền cao su và hầm mỏ cho thực dân tại thuộc địa ở đảo Nouvelle Calédonie gần Úc Châu.

Một tác giả Nhật tên Yoshizawa Minami trong tác phẩm “Chiến tranh Châu Á, trong tiềm thức của chúng ta” đã xác nhận là sự hiện diện của 80.000 quân Thiên Hoàng và hơn 200.000 Nhật Kiều từ năm 1940-1945, đã làm cho đất nước VN hỗn loạn cùng cực, khi Nhật lấy Đông Dương làm vị trí then chốt, trong việc cung cấp lương thực, chẳng những cho quân Nhật đang chiến đấu tại đây, mà còn cả Châu Á và Thái Bình Dương. Đây mới chính là nguyên nhân gây chết đói năm 1945.

Vì muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương trong lúc yếu thế, thực dân Pháp qua toàn quyền Decoux bất chấp thủ đoạn và lương tâm con người, đã bán đứng Dân Tộc cũng như Đất nước VN cho quân phiệt Nhật qua các hiệp ước bất bình đẳng, chỉ làm tổn hại cho VN mà lợi cho cả Pháp và Nhật lúc đó, quan trọng nhất là sự kiện Pháp càng lúc càng xuất cảng sang Nhật thêm nhiều lúa gạo, thực phẩm là tài nguyên mà VN dành nuôi sống người trong nước.

Để thực hiện cái kế hoạch lưu manh trên, từ tháng 12-1942 Decoux cho thành lâp Uỷ Ban Ngủ Cốc ( Comité des Céréales), độc quyền cấp giấy phép cũng như mua bán các loại nhu yếu phẩm này. Ngoài ra Pháp còn ra lệnh cho nông dân cả nước phải dành một số đồng ruộng để trồng bông vải, day, gai, thầu dầu.. theo đòi hỏi của Nhật. Sự kiên trên đã làm cho đất đai miền Bắc và Bắc Trung Phần, vốn đã ít ỏi lại càng bị thu hẹp hơn, đã khiến cho nông dân bình thường vốn chỉ đủ gạo để mà ăn nếu không bị thiên tai mất mùa, nay bị đói là điều không sao tránh được.

Rồi giữa lúc nạn đói đã bắt đầu dân chúng nông thôn phải ăn độn khoai sắn, thì Pháp lại ra lệnh phải bán hết số thóc gạo dự trữ của mình, để chúng lâp kho quân lương tại Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ.. từ tháng 3/1944-1945. Song song quân Nhật cũng lập kho dự trữ gạo dành cho Quân Đoàn 38.

Trong lúc đó, tại Bắc Việt và vùng Thanh-Nghệ-Tỉnh-Quảng Bình, từ năm 1936-1945 không năm nào là không có bảo tố, lụt lội, khiến cho mùa màng bị hư hại vì ngập nước, làm cho nhiều gia đình quá nghèo, không đủ tiền mua gạo giá chợ đen, phải dắt díu nhau ra tỉnh thành xin ăn qua ngày.

Rồi chiến tranh càng lúc càng ác liệt sau khi Hoa Kỳ trực tiếp tham dự vào Thế Chiến II, đối đầu với Nhật ở Châu Á. Tại Đông Dương từng giờ, tàu ngầm tàu chiến, máy bay Đồng Minh không ngớt oanh tạc tấn công các đơn vị Nhật trấn đóng tại VN, khiến cho mọi phương tiện chuyên chở, giao thông, từ Nam ra Bắc đều bị bế tắc. Tình trạng trên khiến cho gạo trong Nam chất đống như núi tại bến cảng, nhà kho, trong khi ngoài Bắc không có một hột, làm cho nhiều người lâm cảnh đói. Ngoài ra, thay vì phải tận dụng số phương tiện còn lại thật ít ỏi lúc đó, để chở gạo ra Bắc cứu dân đói nhưng Pháp và Nhật đã cùng chiếm lĩnh các phương tiện này, trong đó có xe lửa, để chuyển quân đội và quân trang dụng mà thôi.

2 - Chính Phủ Trần Trọng Kim cứu đói và Việt Minh lợi dụng nạn đói để cướp chính quyền

Ngày 9-3-1945 quân phiệt Nhật chính thức xóa bỏ sự cầm quyền của thực dân Pháp tại bán đảo Đông Dương, kéo dài hơn 80 năm thống trị và đô hộ các quốc gia Việt Miên Lào. Biến cố lịch sử trọng đại này, lại ngẫu nhiên trùng hợp với nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc và bắc Trung Kỳ, càng tô thêm sự bi thảm của Dân Tộc VN, trong thời kỳ cận sử.

Nhưng đây cũng chính là thời cơ, để cho Mặt Trận Việt Minh MTVM) một tổ chức ngoại vi của đảng cọng sản Đông Dương, do ************ cầm đầu từ năm 1941, lợi dụng tình trạng đói kém của đồng bào để mà tuyên truyền lôi kéo mọi người vào đảng:

“Đồng bào hãy vùng dậy !
quyết tâm theo bác hồ
nông dân sẽ có đất
người nghèo sẽ có ăn
gạo lúa sẽ đầy sân
đả đảo địa chủ
đả đảo cường hào ác bá”

Nương theo thời cơ và sự giúp đỡ của Mỹ do nhu cầu tình báo lúc đó, Việt Minh đã trương bảng hiệu “Chống phát xít Nhật và thực dân Pháp”. Theo các tài liệu mật được giải mã, thì chính sự giúp đỡ của Đại Uý Archimede L.Patti, một nhân viên OSS (tiền thân của CIA), qua vũ khí đạn dược, thuốc men cũng như sự công nhận của Mỹ, làm cho Việt Minh, chẳng những không bị Nhật tiêu diệt và còn có cơ hội cướp được chính quyền vào mùa thu tháng tám năm 1945, trong lúc cả Hoa Kỳ lẫn Patti đều biết Hồ Chí Minh là một điệp viên ngoại hạng của Đệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, làm việc cho điện Câm Linh (Liên Xô và Trung Cộng ).

Sau ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ thực dân Pháp, thì phong trào quốc gia ngày một sôi sục và dâng cao khắp nước, khiến cho Người Nhật lúc đó phải ủng hộ vai trò cầm quyền của vua Bảo Đại để đối kháng với Mặt trận Việt Minh, được người Mỹ giúp đỡ trong vai trò chống Nhật. Ngày 17-3-1945 Hoàng Đế tuyên cáo nước VN độc lập, dù chỉ liên quan tới Bắc và Trung Kỳ, đồng thời với sự ra đời của Chính Phủ Trần Trọng Kim (17/4/1945-25-8-1945).

Tuy Chính phủ này chỉ hiện diện trên chính trường VN một thời gian ngắn ngủi và trong quá khứ đã không ngớt bị cộng sản xuyên tạc bôi bác là “Cải Cách Giấy”. Nhưng nay qua sự soi sáng của lịch sử, ta mới biết được Thủ tướng Kim và nội các chính phủ, đã làm được rất nhiều chuyện có lợi ích cho quốc dân VN, đồng thời đã phản ảnh được quan điểm chung của tầng lớp thương lưu trí thức đương thời.

Ngày 4-5-1945 chính phủ quyết định lấy lại quốc hiệu Việt Nam, để chỉ sự vẹn toàn lãnh thổ ba miền Bắc-Trung-Nam như năm 1801, khi vua Gia Long thống nhất được đất nước. Việc làm ý nghĩa này, tức khắc được quốc dân cũng nhu cả thế giới chấp nhân. Cũng từ đó nhân loại mới dùng danh từ “Vietnamese” để chỉ người VN và loại bỏ các danh xưng khiếm nhã trước đó của Tàu gọi chúng ta như An Nam, Giao Chỉ.. và của Pháp sau này, với ác ý làm nhục cũng như phân chia nước Việt thành ba miền riêng biệt để cai trị.

Ngày 2-6-1945 chính phủ đã chọn lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ theo hình Quẻ Ly, làm Quốc Kỳ Mới của Quốc Gia VN. Đồng thời vào ngày 30-6-1945, lại chọn bài “Đăng Đàn Cung” làm Quốc Thiều.

Giữa lúc đất nước hỗn loạn vì chiến tranh, cộng thêm nạn đói hoành hành và trên hết là sự chống phá của phe nhóm thưc dân Pháp theo DeGaulle và Việt Minh được Mỹ yểm trợ, trong khi Chính Phủ Trần Trọng Kim không có quân đội và phương tiện, để thực thi những quốc sách. Tuy nhiên nhờ uy tín và tài năng từ vị Thủ Tướng, cũng như nhiều Bộ Trưởng trong nội các, nên vào tháng 7-1945 Nhật trên nguyên tắc, đồng ý trao trả Nam Việt lại cho VN.

Đối với Nạn Đói năm Ất Dậu 1945 tuy phương tiện và nhân lực rất hạn chế, Chính Phủ Kim cũng đã dồn hết nỗ lực để cứu giúp đồng bào trong cơn hoạn nạn. Một mặt Ông yêu cầu Nhật bỏ lệ thu mua gạo tại Miền Trung, đồng thời Miền Bắc chỉ thu mua gạo cho ai có trên 3 mẫu ruộng. Bộ trưởng Tiếp tế là Nguyễn Hữu Thí cũng được cử vào Sài Gòn, lo việc chuyên chở gạo Miền Nam ra Bắc cứu đói, bằng các chuyến thuyền buồm và ghe bầu.

Ngoài ra còn cho phép các tư nhân được tự do và toàn quyền mua bán gạo, nhưng nghiêm trị những gian thương, đầu cơ tích trữ lúa gạo bằng hình luật tử hình và tịch biên tài sản. Chính phủ cũng cho tập trung tất cả những nạn nhân vụ đói còn sống sót, cũng như thành phần vô gia cư, vào các Trung Tâm Cứu Trợ Đặc Biệt, để chăm sóc họ. Báo chí trong nước đều tham gia kêu gọi cưu trợ.

Nhờ vậy đến cuối tháng 4-1945, miền Bắc đã thành lập được Tổng Hội Cứu Tế, do Nguyễn Văn Tố cầm đầu và tới cuối tháng 5-1945 đã quyên góp được 783.403 đồng tiền Đông Dương. Ở Nam Kỳ qua lời kêu gọi của Chính Phủ Kim, chỉ trong tháng 5-1945, đã quyên góp được 1.677.886 đồng, cùng 1.592 tạ gạo, mà tiền mua và chuyên chở ra Bắc tốn hết 481.403 đồng. Tuy hầu hết các ghe bầu chạy buồm bị Nhật trưng dụng và Hải cảng Hải Phòng bị Hoa Kỳ phong tỏa và oang tạc, nhưng cuối cùng việc chuyển gạo từ Nam ra Bắc cứu đói của Chính Phủ Trần Trọng Kim, cũng đạt được hiệu quả, giảm bớt phần nào thảm trạng đau khổ của nạn nhân, đồng thời tạo cơ hội cho đồng bào cả nước, nhất là giới trẻ và trí thức, đoàn kết nhau trong các sinh hoạt xã hội..

Nhưng hỡi ơi lòng tham của con người thật là tàn nhẫn, trong lúc Chính Phủ Quốc Gia banh ruột xẻ gan để cứu trợ hơn hai triệu người bị chết đói, bỏ xác phơi thây khắp các nẻo đường, thì Việt Minh bằng mọi cách phá hoại các công tác nhân đạo dành cứu trợ đồng bào đang chết đói. Một mặt Hồ cho du kích chận đường cướp gạo cứu tế từ trong Nam ra, nơi đường biển lẫn đường bộ. Nhưng quan trọng nhất là Việt Minh không ngớt xúi dục đồng bào, đánh phá cướp giựt các kho vựa chứa gạo lúa của Chính Phủ dành tiếp tế cứu đói.

Ngoài ra Việt Minh còn cho người ám sát hay tuyên truyền bôi nhọ, những nhân vật cầm đầu các Hội Từ Thiện. Nhưng tàn ác vô nhân đạo nhất, vẫn là cung cấp tin tình báo cho Hoa Kỳ về ngày giờ các chuyến xe lửa hay ghe bầu chở gạo, trong Nam ra Bắc cứu đói. Nhỡ vậy Người Mỹ đã đạt được chiến thắng vinh quang, khi oanh tạc trúng phóc những chuyến tàu thuyền chở gạo cứu đói, làm cho Miền Bắc phải lâm vào thảm kịch Chết đói năm Ất Dậu, có một không hai trong Việt Sử.

Nhờ sự tận tâm vô bờ của Chính Phủ Quốc Gia, đồng thời do Trời Phật thương xót nên trong vụ lúa tháng 5-1945 Miền Bắc được mùa, nên đã giải quyết phần nào nạn đói và chấm dứt hẳn, khi các tàu chở gạo trong Nam cấp được các bến trên đất Bắc. Ngày 25-8-1945 chính quyền Nhật tại Đông Dương bị sụp đổ khi Mỹ dội hai trái bom nguyên tử trên Đất Nhật, kéo theo sự tan vỡ của người Quốc Gia. Trong lúc đó, Việt Minh từ bưng tiến về Thành, qua sự yểm trợ hùng hậu của người Mỹ, nên đã thừa lúc dâu đổ bìm leo, cướp được chính quyền lúc đó, đang lăn lóc bên vệ đường trong cơn hỗn loạn chính trị.

Tóm lại trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm chết đói hơn 2 triệu người, do Pháp và Nhật gây nên. Ngoài ra còn có Mặt Trận Việt Minh đã thừa nước đục thả câu, lợi dụng nạn đói, cướp giựt thực phẩm tiếp tế dành cho đồng bào, để tuyên truyền chống Pháp-Nhật, theo nhu cầu của người Mỹ lúc đó, khiến cho người dân chết đói càng thêm bi thảm tận tuyệt.

Thế chiến II chấm dứt, bao nhiêu thảm kịch của nhân loại lần lượt được phơi bày ra ánh sáng công lý nhưng thảm kịch hai triệu người VN bị chết đói năm Ất Dậu 1945, vẫn chưa thấy Pháp, Nhật hay Việt Cộng nhắc tới. Thời VNCH, người Nhật bồi thường chiến tranh 39 triệu US, đồng thời cho Chính phủ vay tiền xây dựng hệ thống thủy diện Đa Nhim, nên vụ chết đói 1945 coi như được xóa sổ.

Sau tháng 4- 1975 VC cưỡng đoạt và làm trùm cả nước, sống nhờ tiền Nhật đầu tư cũng như viện trợ và cho vay tiền để thực hiện các cơ sở hạ tầng, nên nguy quyền cũng câm họng, ngậm miệng ăn tiền. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, nếu Người Trung Hoa và Triều Tiên, chỉ vì một thiểu số đàn bà con gái bị Nhật bắt làm phương tiện giải quyết tình dục, đã không ngớt đòi bồi thường hay hạ nhục nước Nhật trên công luận quốc tế, thì người VN sớm muộn, cũng sẽ bắt Pháp -Nhật và kẻ tòng phạm mang mặt nạ là Việt Minh, phải công khai nhận trách nhiệm giết người, trước lương tâm nhân loại.

MƯỜNG GIANG

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 11 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.236 seconds.