Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt . Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Chủ đề: Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt .
    Gởi ngày: 11/Nov/2015 lúc 8:08pm
Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt



Đôi khi trong đời người ta, viết văn chỉ vì nhu cầu thôi thúc chứ thực ra nhà văn chưa chắc đã nắm vững một số kỹ thuật hoặc nguyên tắc viết văn. Ngay chính bản thân tôi cũng rơi vào trường hợp như vậy. Ðiều này cũng dễ hiểu vì tôi không tốt nghiệp hoặc chưa theo học một truờng hoặc một lớp dạy viết văn nào. Mặc dầu tôi đã trải qua sáu năm đại học nhưng ở đại học người ta không chấm điểm theo nghệ thuật viết văn mà chấm điểm theo nội dung bài vở. Cho nên khi khởi đầu viết tác phẩm Những Sự Thực Không Thể Chối Bỏ năm 1987 thì kỹ thuật viết văn của tôi như nguyên tắc viết hoa, cách chấm câu v.v.. hoàn toàn là của Lớp Ðệ Thất, Ðệ Lục với lời dạy của thầy, cô trong môn Việt Văn rất đơn sơ mà tôi chỉ còn nhớ lõm bõm. Sau mười năm sống ở Mỹ tức khoảng năm 1995 và sau khi đã làm việc trong các trường học, theo dõi các bài giảng dạy viết văn của học sinh Mỹ, đọc các sách biên khảo về văn chương Hoa Kỳ tôi mới bắt đầu hiểu một số vấn đề như sau:

I. Quy tắc viết hoa

Trước khi nói về nguyên tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên tắc viết hoa của văn chương Việt Nam như thế nào. Theo tôi, khi tổ tiên chúng ta còn xử dụng tiếng Hán để làm văn tự thì chắc chắn không có quy tắc viết hoa. Khi chữ quốc ngữ được sáng tạo thì quy tắc viết hoa của chúng ta đã được mô phỏng hoặc bắt chước theo lối viết hoa của văn chương Pháp. Thế nhưng quy tắc mà chúng ta ứng dụng hoặc bắt chước lại hỗn loạn và không thống nhất. Tôi không hiểu lỗi này do cha ông chúng ta không có một Hàn Lâm Viện để đặt một quy tắc thống nhất hoặc giả đây là lỗi của nhà văn, nhà xuất bản, của ban biên tập, của người sắp chữ (sau này là người đánh máy)? Riêng bản thân tôi, cho mãi tới năm 2000 – tức là sau 15 năm viết văn tôi mới chính thức tuân thủ lối viết hoa thống nhất theo văn chương Hoa Kỳ. Ðiều này qúy vị độc giả có thể nhận thấy trong cuốn Ký Sự 15 Năm xuất bản năm 2000. Chứ còn năm tác phẩm về trước, lối viết hoa của tôi hoàn toàn không thống nhất và hết sức lộn xộn. Sau đây là lối viết hoa trong văn chương Việt Nam theo thứ tự thời gian mà tôi đưa ra như những điển hình.

Viết hoa theo Việt Nam Tự Ðiển Khai Trí Tiến Ðức(1931):

Chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa và có gạch nối giữa các chữ. Thí dụ:

Kinh-dương-vương

Hà-nội, Hà-nam, Hà-tĩnh, Giáo-sư, Giáo-sĩ, Hương-giang, Nga-la-tư, Thái-bình-dương

Thế nhưng: A-di-đà-Phật (chữ Phật cuối cùng lại viết hoa)

Lối viết hoa không thống nhất trong Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng:

Tên người: Viết hoa cả họ, tên và chữ lót theo văn chương Mỹ nhưng vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Dương-Huy, Nguyễn-Thiết-Thanh, Nguyễn-Yên. Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Dương-thị-Mai (chữ thịkhông viết hoa)

Tước hiệu, chức vụ: Thường không viết hoa và rất lộn xộn. Thí dụ:

cụ tú Ninh-Bắc, cụ tú Lãm, ông hàn Thanh

nhưng ở một chỗ khác lại viết Bà Cán, ông Tham Lộc

(Tham ở đây là một tước vị lại viết hoa)

Ðịa danh, dinh thự, công viên, thành phố, trường học:

Khái Hưng chỉ viết hoa chữ đầu và vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ:

Phúc-yên, Hà-nội, chùa Bách-môn

Thế nhưng ở những chỗ khác tất cả lại viết hoa. Thí dụ:

Thạch-Lỗi, Quan-Thánh, Phú-Thọ, Trù-Mật, Ninh-Bắc, Nam-Ðịnh, Gia-Lâm

Các con đường, con sông Khái Hưng viết hoa cũng không thống nhất: Thí dụ:

đường Quan-Thánh (Quan Thánh viết hoa)

Sông Tô-lịch (sông lại viết hoa, lịch lại không viết hoa)

Ngày, tháng Khái Hưng không viết hoa. Thí dụ: thứ bảy

Lối viết hoa của Nhất Linh trong Bướm Trắng:

Về địa danh, Nhất Linh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ:

Sầm-sơn, Hà-nội, Khâm-thiên, Chợ-lớn

Thế nhưng Sài Gòn có chỗ lại viết:

Sài gòn (không gạch nối)

Sài-gòn (có gạch nối)

Nhật bản (không gạch nối)

Về tên người Nhất Linh viết hoa theo lối Mỹ. Thí dụ:

Bác-sĩ Trần Ðình Chuyên (không gạch nối, chữ lót viết hoa)

Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Vũ-đình-Trương (có gạch nối và chữ lót lại không viết hoa)

Lối viết hoa không thống nhất của Thanh Tịnh trong Quê Mẹ:

Các địa danh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối.

Thí dụ:

phá Tam-giang, trường Mỹ-lý, Trung-kỳ, Hà-nội

Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Trường Mỹ-lý (trường viết hoa mà không phải ở đầu câu)

làng Hòa ấp (lại không có gạch nối)

chùa Ðồng Tâm (chữ tâm lại viết hoa và không có gạch nối)

Chức vụ chỉ viết hoa chữ đầu. Thí dụ: Hương-thơ

Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết:

ông đốc (đốc không viết hoa)

ông Huyện Phong (hai chữ sau lại viết hoa)

Miếu Thần Ðá (tất cả lại viết hoa)

miễu Thánh (chữ miễu không viết hoa)

Các tên người đều viết hoa theo lối Mỹ nhưng có gạch nối. Thí dụ:

Hoàng-Thiên-Y, Khổng-Tử, Lý-Tịnh, Na-Tra

Nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Lê Bá Xuân (không gạch nối)

Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Văn Chí:

Về tên các quốc gia: Viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ:

Việt-Nam, Ðông-Nam-Á, Ðông-Dương, Hòa-Lan

Nhưng ở nhiều chỗ khác chỉ viết hoa chữ đầu:

Hoa-kỳ, Thái-lan, Ấn-độ, Trung-cộng, Tây-tạng,

Tên các nhân vật: Có lúc viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ:

Khuyển-Dưỡng-Nghị, Tôn-Văn, Vương-Dương-Minh

Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết:

Phan-đình-Phùng, Tôn-thất-Thuyết (chữ lót không viết hoa)

Nhóm, hội đoàn, đoàn thể: Viết hoa không thống nhất, chỗ có gạch nối, chỗ không. Thí dụ:

Phong trào Cần-Vương

Phong trào Ðông Du (không gạch nối)

Phong trào Văn-Thân

phong trào cộng sản (cả bốn chữ lại không viết hoa)

Các địa danh viết hoa cũng không thống nhất.

Thí dụ:

Thượng-Hải, Hồng-Kông, Trà-Lùng, Hàng-Bông, Làng Cổ-Am, Yên-Báy, Hải-Phòng

Thế nhưng ở những chỗ khác lại chỉ viết hoa chữ đầu mà thôi. Thí dụ:

Hà-nội, Quảng-châu, Quảng-nam, Lạng-sơn, Dương-tư, Nam-đàn v.v…

Lối viết hoa của Duyên Anh trong Về Yêu Hoa Cúc(1970):

Ðại lược về tên người, địa danh, tên trường học, tước hiệu Duyên Anh viết hoa theo lối Mỹ và bỏ gạch nối. Thí dụ:

Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Mai Thảo, Nguyên Sa, Ðinh Hùng, Hàn Mặc Tử

Ðại Học Văn Khoa, Ðà Lạt, Hà Nội, Mỹ Tho

Thế nhưng còn hai chữ Sài Gòn thì Duyên Anh có lúc viết Sài-gòn (có gạch nối, chữ gòn không viết hoa), rồi có lúc lại viết Sài gòn (không gạch nối)

Tên các tờ báo, tạp chí lối viết hoa cũng không thống nhất. Thí dụ:

nhật báo Ðồng Nai, tuần báo Kịch Ảnh

tức là các chữ nhật báo, tuần báo không viết hoa)

thế nhưng lại viết: Ðông Dương Tạp Chí (tạp chí lại viết hoa)

Các tác phẩm văn chương chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa (tức theo lối cũ). Thí dụ:

Ngày về, Lạnh lùng, Chân trời cũ

Nhưng ở chỗ khác lại viết Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tất cả đều viết hoa)

Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Khởi Phong trong Người Trăm Năm Cũ (1993):

Hoàng Khởi Phong là cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp Chí Văn Học trong khoảng thời gian từ 1989-1990. Dĩ nhiên với chức năng này ông phải đọc lại và coi lại rất nhiều bài viết thế nhưng lối viết hoa của ông cũng không thống nhất – điển hình qua tác phẩm Người Trăm Năm Cũ.

Các tước vị hoặc ngôi thứ trong gia đình đều viết hoa như:

Ðề Thám, Cai Kinh, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Tổng đốc Lê Hoan…

Thế nhưng ở nhiều chỗ khác, các tước vị lại không viết hoa:

Thí dụ: vua Hàm Nghi, tướng Voyron, quan ba Lambert…

Các điạ danh, cách viết hoa cũng không thống nhất:

Thí dụ: Phủ Lạng Thương, tỉnh Hà Ðông, huyện Nhã Nam

(Phủ, huyện, tỉnh đều là đơn vị hành chánh thế mà phủviết hoa còn tỉnh và huyện lại không viết hoa).

Các biến cố lịch sử đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa.

Thí dụ: Cuộc khởi nghiã Yên Thế, chiến khu Yên Thế. Ðáng lý phải viết: Cuộc Khởi Nghĩa Yên Thế, Chiến Khu Yên Thế.

Lối viết hoa không thống nhất của Tạ Chí Ðại Trường trong Tạp Chí Văn Học năm 2000:

Tạ Chí Ðại Trường là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học sức học rất uyên bác nhưng cũng lại không để ý đến quy tắc viết hoa. Thí dụ:

Công Giáo (tất cả đều viết hoa)

Thế nhưng ở chỗ khác lại viết: Tam giáo (chữ giáo không viết hoa)

Tự Ðức kí Dụ: Ðáng lý kí viết hoa lại không viết hoa.

truờng Bảo hoä (chữ hộ không viết hoa) nhưng lại viết trường Chu Văn An (chữ an lại viết hoa)

Hồng vệ binh maxít phương Ðông: (chữ phương không viết hoa). Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Văn Minh Tây Phương (chữ phương lại viết hoa)

Hồng quân Trung Quốc (chữ quân đáng lý viết hoa lại không viết hoa)

Cộng hòa Ðại Hàn (chữ hòa đáng lý viết hoa lại không viết hoa)

Phong trào Không liên kết Thế giới thưù Ba: Các chữ trào, liên kết, giới, thứ – đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa.

Lối viết hoa của Nguyễn Hưng Quốc trong Tạp Chí Văn Học năm 2000

Nguyễn Hưng Quốc là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học. Là một nhà bình luận văn học rất kỹ lưỡng thế nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng không chú ý đến quy luật viết hoa.

Tên các tác phẩm đều viết hoa như:

Truyện Kiều

Thơ Mới của Hoài Thanh

Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

thơ Nguyễn Công Trứ (chữ thơ không viết hoa)

Các tên nhóm, hội đoàn đều viết hoa như:

Nhóm Sáng Tạo (chữ nhóm viết hoa)

trường phái Phê Bình Mới (đáng lẽ chữ trường phái cũng phải viết hoa)

Rồi ở một chỗ khác lại viết:

nhóm Ngôn ngữ học tại Moscow (đáng lý phải viết: Nhóm Ngôn Ngữ Học tại Moscow

II. Quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ

Ðây là quy tắc thống nhất được áp dụng ở khắp mọi nơi. Ít khi thấy nhà văn, nhà thơ, nhà báo Hoa Kỳ vi phạm quy tắc này. Nguyên do chính là vì xã hội của họ đã ổn định cả hai trăm năm nay, việc gì cũng đã trở thành quy củ, nề nếp, có trường ốc. Ngoài ra tờ báo nào, nhà xuất bản nào cũng có một ban biên tập chịu trách nhiệm về vấn đề này chứ không “tự biên tự diễn, tự đánh máy, tự in, tự sáng chế” như chúng ta. Giới thiệu quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ ở đây không có nghĩa là cái gì của Mỹ cũng nhất. Quy tắc nào cũng tốt cả nhưng với điều kiện phải thống nhất. Không thể ở đầu trang viết: Phong trào Ðông du rồi ở cuối sách lại viết Phong Trào Ðông Du. Nếu cứ tiếp tục viết lộn xộn như thế này thì con cháu chúng ta cũng sẽ tiếp tục thừa kế cái lộn xộn đó và hậu quả là cả ngàn năm sau nền văn chương Việt Nam vẫn cứ tiếp tục lộn xộn làm người ngoại quốc điên đầu khi nghiên cứu văn chương Việt Nam. Sau đây là quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ:

1) Tên người:

Thí dụ: Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, Ông Tô Hiến Thành, Ông Cao Bá Quát, Ông Tôn Thất Thuyết, Bà Ðoàn Thị Ðiểm, Ông Ðặng Trần Côn, Cô Nguyễn Thị Giang, Cô Bắc.

2) Các con vật mình nuôi và thương mến (pet):

Con Vàng, Con Vện, Con Loulou, Con Cún, Con Bống

3) Các chức vụ, tước hiệu và các chữ tắt của tên:

Thí dụ: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sử Gia Lê Văn Hưu, Chúa Sãi, Chúa Trịnh, Bà Huyện Thanh Quan, Ðô Ðốc Tuyết, Cai Tổng Vàng, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Nguyễn C. Hách, GS Phạm B. Tâm, Ðại Sứ Cabot Lodge, Tiến Sĩ Kissinger, Tổng Thống Roosevelt.

4) Ngôi thứ trong gia đình:

Thí dụ: Cô Bảy, Bác Ba, Bà Cả Tề, Thím Năm, Cô Ba Bến Tre, Cô Năm Phỉ, Út Trà Ôn.

5) Ðịa danh, dinh thự, công viên, thành phố, quận:

Thí dụ: Thành Phố Ðà Lạt, Dinh Ðộc Lập, Phủ Thủ Hiến, Phủ Thủ Tướng, Tòa Thị Chính Nha Trang, Công Viên Tao Ðàn, Vườn Hoa Con Cóc, Vườn Hoa Chéo, Quận Gò Vấp, Quận Châu Thành Mỹ Tho, Xã An Hội…

5) Bến, cảng, phi trường:

Thí dụ: Phi Trường Tân Sơn Nhất, Ga Hàng Cỏ, Bến Vân Ðồn, Bến Sáu Kho, Bến Ðò Bính, Bến Ðò Lèn, Cảng Hải Phòng

6) Ðường:

Thí dụ: Ðường Trần Hưng Ðạo, Xa Lộ Biên Hòa, Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 7, Hương Lộ 8…

7) Chợ:

Thí dụ: Chợ Bến Thành, Chợ Ðồng Xuân, Chợ Tân Ðịnh, Chợ Bà Chiểu, Chợ Lớn, Chợ Huyệïn Thanh Vân…

8) Núi, đèo, cửa ải:

Thí dụ: Núi Hoàng Liên Sơn, Núi Sam, Núi Ba Vì, Núi Ngũ Hành, Núi Ông Voi, Núi Ngự, Ðèo Hải Vân, Ðèo Cả, Ải Nam Quan…

9) Sông, thác, hồ, suối:

Thí dụ: Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Hương, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Than Thở, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc, Suối Giải Oan…

10) Vịnh, biển, đảo:

Thí dụ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Cam Ranh, Rạch Cái Cối, Vũng Rô, Quần Ðảo Hoàng Sa, Quần Ðảo Trường Sa, Ðảo Tây Sa, Côn Ðảo, Hòn Bà, Hòn Chồng, Hòn Vọng Phu, Phá Tam Giang.

11) Ngày tháng:

Thí dụ: Tháng Giêng, Thứ Hai, nhưng mùa thu, mùa xuân (các mùa lại không viết hoa)

12) Ngày lễ:

Thí dụ: Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Ðán, Tết Ðoan Ngọ, Ngày Thiếu Nhi Toàn Quốc, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền…

13) Nhóm, hội đoàn:

Thí dụ: Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Ngàn Lau, Hội Ðua Ngựa Phú Thọ, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội Ái Hữu Gò Công, Câu Lạc Bộ Lướt Sóng, Môn Phái Vovinam, Môn Phái Thiếu Lâm, Trường Phái Siêu Thực, Trường Phái Dã Thú, Trường Phái Ấn Tượng.

14) Ban nhạc:

Thí dụ: Ban Thăng Long, Ban Tiếng Tơ Ðồng, Ban The Rolling Stone, Ðoàn Cải Lương Hương Mùa Thu, Ðoàn Thoại Kịch Tiếng Chuông Vàng.

15) Báo chí, tựa đề các cuốn sách, thơ, bài báo, vở kịch, bức hoạ, bản nhạc, truyện, cuốn phim và tựa đề của một bài viết (*):

Thí dụ: Nam Phong Tạp Chí, Tạp Chí Bách Khoa, Nhật Báo Người Việt, Ðoạn Tuyệt, Thơ Vũ Hoàng Chương, Truyện Kiều, Kịch Lôi Vũ, Trường Ca Mẹ Việt Nam, Cầu Sông Qwai…

16) Thánh thần và kinh sách:

Thí dụ: Trời, Phật, Chúa, Ðức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu Hạnh, Mẹ Âu Cơ, Kinh Kim Cang, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh Coran, Kinh Cựu Ước..

17) Miền, vùng của một đất nước (nhưng không phải để chỉ phương hướng). Thí dụ:

Miền Nam, Miền Bắc, Miền Trung, Vùng Cao Nguyên, Miền Tây, Bắc Bình Ðịnh…

18) Các biến cố lịch sử, tài liệu, mốc thời gian:

Thí dụ: Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ, Ðệ II Thế Chiến,

Thời Kỳ Bắc Thuộc, Thời Kỳ Trịnh – Nguyễn Phân Tranh, Thời Kỳ Phục Hưng, Nhà Hậu Lê, Bình Ngô Ðại Cáo…

19) Ngôn ngữ, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo:

Thí dụ: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Hoa Ngữ, Nhật Ngữ, Việt Ngữ

Thái, Nùng, Kinh, Thượng, Ra-Ðê, Việt v.v…

Việt Tịch, Pháp Tịch, Ấn Tịch…

Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Ðộ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo…

20) Tên các con tàu, xe lửa, máy bay hoặc nhãn hiệu xe hơi:

Thí dụ: Tuần Dương Hạm Yết Kiêu, Khu Trục Hạm Vạn Kiếp, Hàng Không Mẫu Hạm Trần Hưng Ðạo…La Dalat, Citroyen, Toyota v.v…

Thiên Lôi (Thunderchief), Con Ma (Phantom)

21) Chữ đầu của câu trích dẫn:

Thí dụ: Trần Bình Trọng dõng dạc nói “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.”

(Trích Tuyển Tập 20 Năm Viết Văn xuất bản năm 2004)

(*) Hoàn chỉnh theo góp ý của một độc giả.

TG: Đào Văn Bình
Nguồn : Thư Viện Toàn Cầu

Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 13/Nov/2015 lúc 8:38pm

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 13/Nov/2015 lúc 8:45pm
Thế Nào Là Tiếng Việt Trong Sáng?

TG: Đào Văn Bình

Chữ viết và tiếng nói là phương tiện truyền đạt giữa con người và con người.
Loài vật chắc cũng có tiếng nói qua những âm thanh như: Hót, kêu, gầm, hú, sủa… để truyền đạt cho nhau, nhưng loài vật không có chữ viết.
Con người do trí thông minh, do bản năng tiến hóa, lại có ý thức, sau khi sáng tạo ra chữ viết, lần hồi biết tổng hợp, gọt giũa để biến thành văn chương.
Còn tiếng nói cũng cải tiến không ngừng. Ngôn ngữ đi như bóng với hình với văn chương, từ thô thiển trở thành thanh tao, từ thẳng thừng trở nên bóng bẩy, từ thô lỗ trở nên ý nhị. Có thể nói văn chương càng phát triển bao nhiêu thì ngôn ngữ càng đẹp bấy nhiêu. Tư tưởng càng phát triển bao nhiêu thì văn chương và ngôn ngữ càng phong phú bấy nhiêu.
Thế nhưng muốn đạt được tinh hoa ngôn ngữ của dân tộc, nhất định là phải có giáo dục.
Một đứa trẻ không được đi học vẫn nói được, nói liến thoắng đủ điều nhưng không viết được và chắc chắn ngôn ngữ rất nghèo nàn và thường mang âm hưởng “chợ đời” chứ không có những ngôn từ của một đứa trẻ được cắp sách đến trường mà ngày xưa gọi là “Cửa Khổng sân Trình”.
Không những phải học hết lớp 12 phổ thông mà còn phải bước lên đại học nữa.
Một người không thế có tiếng Việt phong phú nếu không học qua các bộ môn như Lịch sử, Triết học, Tôn giáo, Luật học, Kinh tế học, Tâm lý học, Chính trị học, Xã hội học, Nhân chủng học, Khảo cổ học, Kiến thức về quân sự, Ngoại giao… và ít nhất cũng phải biết qua các tác phẩm văn chương lớn của đất nước – cổ cũng như kim. Chỉ cần dành chút ít thời giờ đọc và nhớ ba tác phẩm như Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Chinh Phụ Ngâm thôi thì vốn Việt Ngữ của chúng ta cũng đã phong phú thêm biết là bao nhiêu.

Viết thì ai cũng có thể viết được. Nói thì ai cũng nói được.
Nhưng xin nhớ cho trong bất kỳ quốc gia nào cũng có hai loại ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thượng lưu và Ngôn ngữ bình dân;
Văn chương bác học và Văn chương bình dân.
Ngôn ngữ thượng lưu là lời nói văn vẻ, ý nhị, nhẹ nhàng, lễ độ, dễ nghe, thâm thúy.
Còn ngôn ngữ bình dân không phải là xấu, chân tình nhưng mộc mạc, thường thì cọc cằn, thô lỗ và không giữ gìn ý tứ.
Văn chương bác học là văn chương cầu kỳ, gọt giũa, xử dụng nhiều ẩn dụ, điển tích.
Còn văn chương bình dân không cầu kỳ, nghe là hiểu ngay không cần phải suy nghĩ nhiều.
Có một điểm chung là dù loại văn chương hay ngôn ngữ nào đi nữa thì nó cũng phải trong sáng, thông dụng và dễ hiểu.

Theo dòng lịch sử, dân tộc ta đã tiếp nhận nhiều nền văn hóa bên ngoài du nhập vào. Trải qua 1000 năm Bắc Thuộc, Tổ tiên chúng ta đã không để mất gốc – mà Việt hóa tinh hoa của học thuật, ngôn ngữ Trung Hoa, biến nó thành tiếng Hán-Việt khiến tiếng Việt trở nên phong phú. Rồi thì 100 thuộc Pháp, cha ông chúng ta cũng không để tiếng Việt bị lai căng. Dựa vào tinh hoa của nền văn chương Pháp, từ đó giản dị hóa, trong sáng hóa tiếng Việt.
Còn ngày hôm nay, văn hóa Mỹ không vào Việt Nam bằng các tác phẩm văn chương, học thuật mà bằng đồng đô-la, Cola Cola, trò chơi điện tử (Games), phim ảnh gợi tình, bạo lực và bắn giết. Sách vở du nhập vào không phải là các tác phẩm văn học, học thuật tư tưởng lớn mà là các tạp chí về sắc đẹp, thời trang, son phấn, nước hoa, quần áo lót v.v.. tràn vào như thác lũ. Qua thương mại, qua các trang điện tử, quảng cáo và giải trí cùng với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, tiếng Việt có nguy cơ trở nên một thứ lai căng hổ lốn trong chớp nhoáng.

Xin nhớ cho văn hóa Mỹ là một nền văn hóa áp đảo bởi vì nó là một nền văn hóa tiêu thụ đánh ngay vào thị hiếu cấp thời của con người cho nên các quốc gia chậm tiến nghèo khổ không sao cưỡng lại được.
Trước nguy cơ đó đã nảy ra tiếng kêu cứu về tiếng Việt trong sáng.
Nói về tiếng Việt trong sáng thì dễ, nhưng nội dung của “Tiếng Việt trong sáng” là gì?
Theo thiển ý, sự trong sáng của tiếng Việt bao gồm nhiều yếu tố như:

-Không lai căng tức không chen tiếng Tây, tiếng Mỹ vào.
-Không tối nghĩa.
-Không gây hiểu lầm.
-Giản dị. (không cầu kỳ, rắc rối)
-Lịch sự, thanh tao.

Trong khi chúng ta chưa có viện hàn lâm, tạm thời dựa vào các tiêu chuẩn này, chúng ta thử “chẩn bệnh” một loại tiếng Việt mới đang được xử dụng tràn lan ở trong nước và hải ngoại. Loại tiếng Việt mới này chen tiếng Mỹ, sáng chế những danh từ kỳ quặc, khó hiểu mang tính khoe khoang, làm dáng:

1) Nội y: Tại sao lại phải dùng chữ khó vậy? Đây chỉ là thứ quần áo lót /đồ lót của đàn ông hay đàn bà.

2) Triều cường: “Triều cường làm ngập đường phố Hà Nội.” Tại sao không dùng chữ nhẹ nhàng và dễ hiều hơn “ Nước dâng cao làm ngập đường phố Hà Nội.”

3) Các thiết bị siêu trường siêu trọng: Các thiết bị nặng và dài. Các thiết bị quá nặng và quá dài.

4) Xe container: Xe vận tải hạng nặng, xe tải hạng nặng.

5) Các container: Các kiện hàng, thùng hàng

6) Bunker/Boong-ke: Hầm trú ẩn.

7) Blog: Trang tin chuyên đề/ trang chuyên đề. Blogger: Người viết trang chuyên đề.

8) Audio-visual: Âm thanh & hình ảnh/ phần âm thanh & hình ảnh.

9) Bình ắc-quy: Bình điện. Sạc (Charge): Tiếp điện, nạp điện.

10) Trái cherry to, đỏ mọng…Xin nhắc khéo báo phapluat : rằng cherry là trái anh đào.

11) Mát-xa (M***age): Đấm bóp, nghề đấm bóp.

12) Ảnh nude: Ảnh khỏa thân, lõa thể.

13) Hot girls : Gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

14) Ăn mặc hot: Ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

15) Ảnh hot: Ảnh có cảnh khiêu dâm hoặc gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

16) Bản nhạc ấy hot lắm: Bản nhạc đang được ưa chuộng.

17) Thị trường đang hot: Thị trường bán rất chạy (trái với ế ẩm)

18) Top ten: Mười…đứng đầu. Mười hạng đầu.

19) Email: Điện thư.

20) Logo: Huy hiệu.

21) Mít-tinh: Cuộc biểu tình, buổi tập họp.

22) Tiêm vaccine: Chích ngừa, chủng ngừa.

23) Logic: Thuận lý, hợp lý, lý đương nhiên (không cần tranh biện).

24) Clip: đoạn băng, đoạn thu hình ngắn. Mỹ định nghĩa clip: “A short part of a movie or television program…”

25) Một số danh từ quân sự: Nên sử dụng danh từ có sẵn trong ngôn ngữ Việt vừa mạnh vừa sắc gọn: Ví dụ: Tàu pháo = Pháo hạm; Tàu tuần dương= Tuần dương hạm; Tàu hộ tống= Hộ tống Hạm; Tàu khu trục = Khu trục hạm & Trục lôi hạm; Tàu khinh tốc= Khinh tốc hạm; Tàu vận tải= Quân vận hạm; Cảng quân sự= Quân cảng. Ví dụ: Quân Cảng Cam Ranh để phân biệt với Thương Cảng Cam Ranh; Đội tàu= Hạm Đội. Ví dụ: Hạm Đội Phú Quốc, Hạm Đội 7 v.v..

26) Bắt khẩn cấp: “Cảnh sát bắt khẩn cấp…” nghe nó kỳ làm sao ấy. Tại sao không dùng “Cảnh sát đã bắt ngay, bắt gấp nghi phạm…” hoặc “Tòa ra lệnh tức tốc bắt ngay can phạm”

27) Đóng mới: Đóng tàu là đóng tàu mới rồi, chẳng ai đóng tàu cũ cả cho nên thêm chữ ”mới” là thừa.

28) Cà- phê đểu: Đây là loại “cà-phê giả” nhưng cách dùng chữ của tác giả khiến người đọc hơi khó chịu. Xin nhớ cho có nhiều cách để diễn tả cùng một sự kiện, cách thì thanh tao, cách thì thô tục. Khi một đất nước tiến lên thì mọi thứ cũng phải tiến lên kể cả ngôn ngữ. Ngày nay hình như trên thế giới người ta dần dần loại bỏ những ngôn từ nghe có vẻ kỳ thị, xúc phạm, khinh rẻ hoặc gây ấn tượng bạo động. Chẳng hạn chữ nigger (mọi đen) ở Mỹ không ai dám nói nữa vì nó dùng để hạ thấp người Da Đen. Con người không thể ăn mặc thời trang, đi xe lộng lẫy, ở biệt thự, son phấn đầy người mà lại nói năng thô bỉ. Ngôn ngữ của một dân tộc có “văn hiến” thì mỗi ngày phải mỗi đẹp hơn và thanh tao hơn. Cho nên theo tôi một số ngôn từ sau đây như: đồ đểu, đồ con đĩ, đồ thất học, đồ hèn, đồ ngu, thằng mọi, đồ mất dạy, tiên sư cha mày v.v.. cũng cần phải loại bỏ trong ngôn ngữ Việt Nam.

29) Hoành tráng: Ngày nay ở Việt Nam cái gì cũng “hoành tráng” làm cho một số tính từ diễn tả vẻ đẹp lần hồi trở nên bị “tuyệt chủng”. Chẳng hạn như: Một ngôi nhà bề thế, một phòng hội khang trang, một khu chợ ngăn nắp, một kiến trúc trang nhã, một lâu đài tráng lệ, một cuộc diễn binh hùng tráng, một cung điện nguy nga, một ngọn núi hùng vĩ, một ngôi chùa cổ kính v.v…Nếu tất cả những tính từ trên được thay bằng hai chữ “hoành tráng” thì tiếng Việt sẽ ra sao?

30) Rất đẳng cấp: Cầu thủ đó rất đẳng cấp, bộ quần áo rất đẳng cấp, chiếc xe thuộc loại đẳng cấp…Bộ kho tàng ngôn ngữ Việt không còn chữ nào để thay cho hai chữ “đẳng cấp” nữa sao? Tại sao không nói: Cầu thủ nhà nghề, cầu thủ quốc tế, cầu thủ đắt giá; bộ quần áo đắt tiền; xe thuộc loại sang v.v.. Ngoài ra tự thân hai chữ “đẳng cấp” chỉ có nghĩa là “thứ bậc” như “đẳng cấp thấp”, “đẳng cấp cao” chứ nó không có nghĩa là “cao, giỏi, sang”. Từ Điển Việt Nam do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành năm 2000 nơi trang 291 định nghĩa: đẳng cấp là thứ, bậc, hạng trong xã hội như đẳng cấp xã hội.

31) Phỏng vấn trực tuyến: Chữ tuyến nghe có vẻ hình học. Nào là trung tuyến, tiếp tuyến v.v…Tại sao không dùng “phỏng vấn trực tiếp” hoặc “giải đáp trực tiếp” tức không qua trung gian nào, mà trực tiếp trên truyền hình hoặc họp báo chứ không chờ tới ngày mai hoặc trả lời bằng thư.

32) Văn hóa ẩm thực: Văn hóa bao gồm nhiều lãnh vực như: Cách ăn uống, y phục, nói năng, lễ nghi, chữ viết, giao tiếp, cư xử v.v…Nếu nói văn hóa ẩm thực thì chẳng lẽ lại có thêm văn hóa lễ hội, văn hoá y phục nữa sao? Vậy nói “văn hóa ẩm thực” là không đúng. Đó chỉ là các món ăn và cách ăn uống mà thôi. Khi chúng ta du lịch Hòa Bình chẳng hạn, ngoài việc ngắm phong cảnh, dĩ nhiên chúng ta còn muốn thưởng thức các món ngon, lạ, độc đáo của đồng bào Mường và chỉ có thế. Nếu nói, “Chúng ta khám phá văn hóa ẩm thực của đồng bào Mường” nghe có vẻ “ghê gớm” quá.

33) Giải phóng mặt bằng: Nên thay bằng “giải tỏa mặt bằng” cho nó nhẹ nhàng. Chính phủ có thể giải tỏa một khu ổ chuột để chỉnh trang đô thị. Nhưng nếu nói “ Giải phóng một khu ổ chuột” có thể gây hiểu lầm là cứu dân ở đây ra khỏi cuộc đời lầm than như “giải phóng nô lệ” chẳng hạn.

34) Cảng biển: Nghe rất lạ tai. Tại sao không dùng “hải cảng”? Còn “cảng bay” tại sao không dùng “ phi cảng” ? Trong nước hiện có “Cảng Hàng Không Quốc Tế Đà Nẵng”. Rút gọn hơn chúng ta có thể dùng “Phi Cảng Quốc Tế Đà Nẵng”.

35) Báo vietnamnet : “Những ‘bí mật’ trong hầm đường bộ Hải Vân” Sao dùng chữ “khó” quá vậy? Xin đơn giản thành “Những ‘bí mật’ trong đường hầm Đèo Hải Vân.” giống như “đường hầm Thủ Thiêm”. Nếu chúng ta viết “hầm đường bộ Thủ Thiêm” thì độc giả sẽ nghĩ sao?

36) Cũng báo vietnamnet : “Hội chứng hot girl nude giữa thiên nhiên”. Thực ra tác giả muốn đưa tin: Có một “bệnh dịch” hoặc “thói bắt chước” tạp chí dâm ô Mỹ chụp hình cởi truồng ngoài trời (để nổi tiếng) nhưng lại dùng một đoạn văn thật kỳ lạ.

37) Báo phunutoday : “Thành phố….vừa điều chuyển hai công chức không ’vừa lòng’ dân”. Chữ “điều chuyển” nghe chưa quen, nên nói là “thuyên chuyển”. Nếu trong quân đội thì nói là “thuyên chuyển tới một đơn vị khác”. Còn hai chữ “điều động” thì có nghĩa là điều động binh lực, nhân lực, điều động một lực lượng an ninh v.v..

38) “Bố nghiện ma túy giết con 10 tháng tuổi”: Chữ tuổi ở đây là thừa mà chỉ cần viết “Bố nghiện ma túy giết con mới 10 tháng” thì ai cũng hiểu.

39) “Người cao tuổi được mua vé xe buýt trợ giá”. Nên viết “Người cao tuổi được giảm vé xe buýt”. Viết báo cốt ở nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu.

40) Báo giaoduc : có tựa đề: “Bé sơ sinh hai đầu ở Sóc Trăng đã tử vong”. Chữ “tử vong” có nghĩa là chết. Còn “thương vong” có nghĩa là vừa chết vừa bị thương. Vậy tại sao không dùng hai chữ “đã chết” cho nó nhẹ nhàng hơn?

41) Cận cảnh (close-up) là ảnh chụp gần, kề sát mặt. Nếu không phải là ảnh chụp gần mà chỉ là khoảng cách bình thường thì không được dùng hai chữ “cận cảnh”.

42) Chùm ảnh: Chữ “chùm” làm chúng ta liên tưởng tới chùm nho, chùm nhãn, dính chùm v.v…Vậy thì nên dùng chữ “một loạt hình ảnh”, “một số hình ảnh”. Ví dụ: Một số hình ảnh về đại hội…

43) Tiền boa: Nói đầy đủ là “pour boire” theo cách lịch sự của người Pháp coi đó chỉ là chút “tiền trà nước”. Vậy thì nên dùng “tiền trà nước” thay vì “tiền boa” vì ông Tây đã rời Việt Nam lâu lắm rồi.

44) Minh họa (Illustrated): Là hình vẽ của họa sĩ để diễn tả, trình bày một cuốn sách, một câu truyện. Nếu ngoài bìa cuốn sách ghi “Illustrated by” có nghĩa là “Vẽ bởi họa sĩ”. Nếu ghi “ photography by”có nghĩa “Hình ảnh của”. Ví dụ, trong một bài viết nói về Khu Trục Hạm Lý Thái Tổ mà chúng ta không có tấm hình của chiếc này và thay thế bằng tấm hình của chiếc khu trục hạm khác thì chúng ta không được ghi “Hình minh họa” mà chỉ cần ghi chú ở dưới tấm hình “Đây là hình ảnh khu trục hạm ABC một loại tương tự” thì độc giả hiểu ngay. Ngày nay câu “ hình minh họa” được dùng tràn lan ở trong nước để phụ chú dưới tấm hình…như thế là hoàn toàn sai. Xin nhớ cho minh họa có nghĩa là vẽ ra, diễn tả bằng tranh chứ không phải bức hình thật hoặc bức hình thay thế. Nếu không biết thì cứ mở sach vở, báo chí Nhật, Mỹ, Nga… ra mà học thì biết ngay.

45) Trồng cây xanh: Trồng cây là đủ rồi bởi vì cây nào lá chẳng xanh? Nói thêm “xanh” là thừa. Nói “trồng cây xanh” chẳng khác nào nói “Trồng gấc đỏ”. Xin thưa gấc nào mà chẳng đỏ? Chúng ta thường nói “Đỏ như gấc”. Tuy nhiên cũng phải để ý là có khá nhiều loại cây lá không xanh mà nâu hoặc nâu đậm. Nếu “trồng cây xanh” thì chẳng lẽ không trồng các loại này sao? Ngày xưa các cụ đã chế giễu cách dùng văn thừa thãi và trùng lập qua hai câu thơ:
Nửa đêm giờ tý canh ba.
Vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi.

46) Báo Tuổi Trẻ đi một tiêu đề như sau “Cầu thủ bóng đá VN luôn luôn thua thiệt cầu thủ ngoại khi tranh chấp bóng tay đôi do hạn chế về thể lực và thể hình.” Câu văn này nặng nề giống như dịch lại từ một đoạn văn từ báo Hồng Kông, Đài Loan. Người ta nói “tranh bóng” chứ không nói “tranh chấp bóng”. Chữ “ tranh chấp” nên dành cho tranh chấp quyền lực, tranh chấp lãnh thổ. Ngoài ra các chữ “thể lực và thể hình” nghe “đao to búa lớn quá” không thích hợp trong lãnh vực thể thao. Chúng ta có hai chữ “sức vóc” vừa giản dị vừa dễ hiểu tại sao không dùng? Xin thưa “sức” là sức khỏe, “vóc” là sự cao lớn, tầm vóc. Nếu thay bằng hai chữ này, bỏ bớt những chữ thừa thì câu văn sẽ gọn nhẹ, từ 27 chỉ còn 19 chữ “Cầu thủ Việt Nam khi tranh bóng luôn luôn lép vế/thua cầu thủ nước ngoài do sức vóc kém.”

47) Báo giaoduc: “Cô gái xinh đẹp hát ca trù làm xiêu lòng người nghe.” Ông phóng viên nào đó dùng chữ “xiêu lòng” không đúng. Xiêu lòng có nghĩa là mới đầu không bằng lòng, sau thuyết phục, nói mãi thì “xiêu lòng” tức thuận theo. Tôi cũng đã xem đoạn băng này. Thực ra trong cuộc thi hát, cô thí sinh này còn trẻ, xinh xắn, mới 18 tuổi, mà hát được ca trù (cũng tàm tạm) cho nên chinh phục được hoặc tạo thiện cảm nơi khán giả chứ không phải làm “xiêu lòng” khán giả.

48) Đắng lòng trước cảnh…: Từ trước đến giờ chưa có sách vở nào viết “đắng lòng” cả mà chỉ thấy viết “Đau lòng trước cảnh…” Xin quý ông/bà làm ơn coi lại hai chữ này. Bà Huyện Thanh Quan viết “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc”, chứ bà không viết “Nhớ nước đắng lòng con cuốc cuốc”.

49) Báo giaoduc : “Chi phí dao động từ 30.000 USD đến 60.000 một năm”. Chữ ‘dao động” ở đây thừa. Chỉ cần viết “Chi phí khoảng từ 30,000 USD đến 50,000 USD một năm” là người ta hiểu rồi.

50) Cũng lại giaoduc : “NoithatVP đang thanh lý các sản phẩm tủ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.” Trời ơi! Các sản phẩm tủ là gì? Tại sao không viết, “các loại tủ” cho ngắn gọn và dễ hiểu? Ngoài ra chữ “thanh lý” làm người đọc liên tưởng tới sự “thanh lý môn hộ” tức truy lùng, giết những kẻ phản nghịch trong các môn phái (cũng giống như “thanh trừng” vậy). Do đó chúng ta nên thay thế bằng các chữ giản dị hơn như “giải quyết” hoặc”bán hết” hoặc “tống hết”. Nếu thế thì câu văn sẽ tạm gọn nhẹ như sau: “NoithatVP đang muốn bán/giải quyết hết tất cả các loại tủ xuất cảng sang Nhật Bản.”

51) Báo phunutoday : “Trong tiết trời lạnh giá, boots cao cổ có lẽ là lựa chọn hàng đầu.” Chẳng lẽ tiếng Việt không có chữ nào để dịch chữ boots sao? Xin thưa đó là “giầy cao cổ” hoặc “giầy ống”. Thật lạ lùng! Bao kẻ sống xa quê hương mấy chục năm trời mà vẫn tha thiết với tiếng Việt tinh ròng, trong khi kẻ ở trong nước tiếng Anh tiếng Pháp chẳng bao nhiêu, lại tập viết lối văn hổ lốn chen tiếng Tây tiếng Mỹ vào.

52) Báo vnEpress.net: Có một tựa đề “Gu đàn ông của phụ nữ qua từng độ tuổi.” Xin thưa “gu” (gout) có nghĩa là “sở thích”. Ý của tác giả muốn nói,“Sở thích của phụ nữ về đàn ông tùy tuổi tác.” nhưng lại diễn tả bằng một câu văn thật trúc trắc. Rồi Thời Báo Kinh Tế Saigon Online “Chương trình truyền hình càng lắm scandal thì rating càng tăng vọt.” Thật lai căng hết chỗ nói! Giống hệt như trẻ con nói tiếng Việt ở Mỹ.

53) Báo Vietnamnet.vn: “Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ- Trung.” Cuộc chơi quyền lực chính là cuộc đọ sức. Tại sao không dùng hai chữ ấy cho giản dị và sáng sủa hơn?

54) Trang BBC tiếng Việt ngày 1/1/2013: “Ít nhất 60 người đã bị dẫm đạp chết…” Ý tác giả muốn nói “ Ít nhất 60 người dẫm đạp lên nhau mà chết..” nhưng lại dùng một câu văn khiến độc giả có thể hiểu 60 người này bị voi hoặc trâu bò dẫm đạp lên mà chết! Xin nhớ cho khi dùng chữ “bị” tức thể thụ động thì phải nói “bị cái gì” như : bị voi giày, bị xe cán, bị trâu bò húc chết v.v.. Chính mình làm thì không dùng chữ “bị”.

55) Trang VOA tiếng Việt : “Hàng ngàn fan ở Đài Loan đã đến xem buổi ca nhạc..” ; “trang web xã hội”; “vi rút trong bao tử”; “không chịu gia hạn visa”; “một chương trình doping chuyên nghiệp”…và còn rất nhiều nữa. Xin thưa fan là người hâm mộ, vi rút là siêu vi trùng, visa là nhập cảnh, doping là dùng thuốc kích thích. Trang báo mang tên “tiếng Việt” mà thực tế lại là “tiếng Việt lai Mỹ”.

Tạm kết luận:
Viết một bài báo, một bản tin, đặt một tựa đề không phải dễ. Mình viết ra rồi cần có chủ bút/chủ biên duyệt lại. Ở Mỹ mà viết bậy, viết kém thì tiêu tan sự nghiệp, chỉ có nước tìm nghề khác kiếm ăn. Viết bậy, viết nhảm, viết thiếu đứng đắn làm giảm giá trị người viết và xúc phạm độc giả. Nói về chuyện viết văn thiếu đứng đắn tôi có một kỷ niệm thời thơ ấu lúc còn học Lớp Đệ Thất (Lớp 6) năm 1955 ở trong Nam như sau:
Trong một bài luận văn mô tả một buổi đi câu tôi đã dùng hai chữ “khoái tỉ” tiếng mà bọn trẻ Miền Bắc hay dùng lúc bấy giờ có nghĩa là “sung sướng”. Chấm bài xong thầy Nguyễn Tri Tài – người Huế – gọi tôi lên nói, “Chữ khoái tỉ không được đứng đắn, con không nên dùng.” Nghe thầy nói vậy tôi “ngộ” ra ngay và cho tới ngày hôm nay, dù đã hơn nửa thế kỷ, tôi vẫn nhớ lời thầy là phải dùng chữ cẩn thận khi viết văn.
Đừng tưởng lời nói hay bài viết sẽ qua đi như một cơn gió thoảng – mà nó còn “tạo nghiệp”- nghiệp lành hay nghiệp dữ – tức gây tác hại cho người khác và cho chính mình theo giáo lý nhân-quả của nhà Phật.
Trong cuốn hồi ký của một nhà văn xuất bản ở hải ngọai – một ông chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton”. Ông thường chen vào truyện một vài chi tiết khiêu dâm, gợi dục để “câu” độc giả trẻ. Một ngày kia cô con gái về khoe với ông:
“Ba ơi! Con bạn học của con đọc tới cái đoạn…mà ba viết, nó ớn quá, rùng cả mình !!!” Nghe con gái nói thế ông toát mồ hôi, không ngờ những gì mình viết ra đã ảnh hưởng đến chính cô con gái cưng. Từ đó ông không bao giờ dám viết văn theo cái kiểu chen vào những chi tiết khiêu dâm nữa.
Hiện nay chữ “nhí” đang được dùng tràn lan trong nước. Xin nhớ cho chữ “nhí” là tiếng lóng dùng để chỉ “nhỏ, bé” có ý diễu cợt, không đứng đắn. Nếu dùng không đúng chỗ sẽ làm tổn thương người ta. Dù là trẻ em cũng có nhân cách của trẻ em. Chẳng hạn nếu chúng ta nói “ca sĩ tí hon”, “nhạc sĩ thần đồng”, “chú tiểu nhỏ”, “con chim bé bỏng” nghe có vẻ thanh tao hơn là “ca sĩ nhí”, “nhạc sĩ nhí”, “chú tiểu nhí”, “con chim nhí”.
Làm phóng sự, viết bản tin phải viết một cách trung thực, nghiêm trang, không bông đùa, châm chọc hoặc khôi hài vô ý thức. Bài viết sẽ bộc lộ tư cách và trình độ của người viết. Người xưa nói, “Văn tức là người”.

Ngôn ngữ và văn chương là tài sản vô giá do tiền nhân để lại, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy cho mỗi ngày thêm sáng đẹp. Do giao tiếp với nhiều nguồn văn hóa ngoại lai, những chữ nào có thể dịch sang Việt Ngữ thì phải cố mà dịch cho được để giữ gìn ngôn ngữ và văn chương Việt cho thuần khiết. Chen tiếng ngoại quốc vào tiếng Việt một cách bừa bãi khiến tiếng Việt trở nên lai căng, hổ lốn. Muốn thế thì phải học hỏi và nhất là phải cẩn thận và viết với tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm có nghĩa là hiểu được hậu quả của những gì mình viết ra. Nếu không giỏi thì cứ học theo người xưa mà viết ra, cố “sáng chế” tức viết bậy, viết nhảm. Chúng ta không nên đùa rỡn, nói mạnh hơn là phá hoại ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc. Học tiếng nước ngoài là để giao dịch, làm ăn buôn bán và nghiên cứu những kiến thức mà sách Việt không có. Học tiếng nước ngoài không có nghĩa là để về hủy hoại tiếng mẹ đẻ hoặc thỉnh thoảng “xổ” ra vài tiếng để chứng tỏ mình văn minh hơn đời hoặc có vẻ “Mỹ” đây.

Người Mỹ có bắt chước ai đâu? Họ đứng trên đôi chân của họ. Tại sao ta phải tự ti mặc cảm về ngôn ngữ của dân tộc mình? Chuyện “nói tiếng Tây ba rọi” đã xưa lắm rồi và bị mỉa mai suốt thời kỳ Thực Dân Pháp còn đô hộ nước ta.

Sau hết, cũng xin nhớ cho:
Muốn giữ gìn tiếng Việt trong sáng thì tâm hồn mình cũng phải trong sáng trước đã. Tâm hồn trong sáng là tâm hồn của một người yêu nước Việt và tiếng Việt.
Khi mình nói mình yêu cha mẹ tức là phải làm sao cho cha mẹ sung sướng.
Còn khi mình nói mình yêu tiếng Việt có nghĩa là mình phải làm sao cho tiếng Việt mỗi ngày mỗi trở nên sáng, đẹp, thanh tao.

ĐÀO VĂN BÌNH

Nguồn : Thư Viện Toàn Cầu

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.195 seconds.