Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Sống để bụng, chết đem theo Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 3 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Chủ đề: Sống để bụng, chết đem theo
    Gởi ngày: 13/Feb/2015 lúc 11:00am

Chút quà từ Cali.


Vợ hỏi đi chơi mang gì về nhiều vậy ?
Sao anh ấp úng như cù lần…
Có gì mà cứ đứng chết trân ?
Không mua được món nào cho bà xã…

Có chớ em, cặp bông mai đen đủi,
Để nhớ những ngày anh gài trên nắp túi lúc hành quân.
Kèm chiếc thẻ bài luôn treo trên cổ
Bạn anh sẽ nhận diện nếu anh ngắt nghẻo từ trần…

Có chớ em, 1 băng y tế cá nhân.
Anh nhớ lúc quấn cho thằng đệ tử bị thương.
Sao ông thầy không để dành, vì chiếc đó là chiếc cuối ? Nó hỏi…
Mầy 1 vợ 3 con, phải sống,
Còn thân tao cô độc, đừng thắc mắc chi, thằng 1 võng, 1 poncho?

Có chớ em, đôi giày sô mòn đế,
Để cho anh nhớ những buổi chuyển quân mau.
Mưa rả rít trên đầu, mang giày ướt sủng mà không đeo vớ…
Giờ thì anh để dành, mang nó để cắt cỏ sân sau…

Có chớ em, bộ đồ trận bạc màu…
Để anh nhớ những ngày chinh chiến cũ…
40 năm qua, giờ anh già như ông cụ
Đánh đấm gì… ừ thì thua vẫn là thua .
Nổi nhục anh mang, đêm mớ ngủ cợt đùa,
Để nó nằm kế bên cho đở tủi…

Có chớ em, anh đem về cái nón sắt…
Nặng mùi mồ hôi, đọng giọt nước mắt cay xè…
Vụt bên lề đường năm xửa năm xưa…
Giờ để đó mà nhớ về đồng đội anh còn lầm than bên quê mẹ.


Nam Map
02/2015




Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 02/Mar/2015 lúc 6:08pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 28/Feb/2015 lúc 12:45am

Xuân đến, xuân đi

https://nhacsituankhanh.files.wordpress.com/2015/02/21f9d79c256fd02aad57f43d66bdde97ada1285ed7e7f957ca8898ca09729279.jpg

Sáng 30, đường phố Sài Gòn vắng đi, nhưng không vắng hẳn. Điều dễ thấy của xuân năm nay là những người buôn bán nghèo khó vẫn tiếp tục cầm cự bày hàng. Vỉa hè nhiều nơi vẫn còn chen nhau kiếm thêm chút, dành dụm cho một năm mới dự báo không nhiều niềm vui.

Cứ từng năm qua, mùa xuân như cứ nhạt dần. Đường phố không còn không khí của những ngày Tết mà ai ai cũng muốn đóng cửa nghỉ ngơi, ai ai cũng muốn dừng tay lại để hít thở với chút cảm giác khó tả của trái tim mình khi bước qua thêm một lằn ranh nữa ở cõi sinh tồn thế gian. Quán café trước ngõ vẫn đông khách như một ngày rất thường. Quán bánh ướt vỉa hè trong ngỏ hẻm cũng không nghĩ sáng 30 Tết. Quán không có có bàn, những người đến ăn phải ngồi ghế đẩu, cầm đĩa ăn cho đến hết. Những người ăn vội vàng cho qua một bữa sáng, cho qua một ngày 30 mà trước đây Sài Gòn đón chờ như một điều thiêng liêng và hân hoan. Ông cụ ngồi ăn bánh quay sang bắt chuyện. “Tết đến làm gì, chán quá”. Một cụ khác cười, góp thêm “Tui thấy 5 năm Tết một lần cũng được”.

Nghĩ mà buồn cười. Tết 5 năm một lần, cứ như là nhiệm kỳ của một ông quan thiên nhiên. Xuân đến như không mang đủ ngọt ngào của cuộc đời, đến mức dân chúng chán chê muốn xua đi, chỉ mong gặp và hy vọng vào một mùa xuân của nhiệm kỳ mới. Cuộc đời cũng vậy, bạn đã có bao giờ ngao ngán và chờ một điều mới mẻ nào đó từ con người, quan quyền trên đất nước này chưa?

Tết ở Sài Gòn, đặc biệt ở quận 5, lâu rồi không còn nghe tiếng “tùng cheng”. Chắc cũng phải hơn 5 năm, những chiếc xe ba gác bán đầu lân, đầu ông địa cho trẻ con không còn dạo khắp phố phường với tiếng “tùng cheng” quen thuộc như tín hiệu rộn ràng của một mùa xuân. Ngay trong thủ phủ của người Hoa Chợ Lớn, một vài cửa hàng có treo đầu lân, đầu ông địa cũng xao xác buồn. Ngày xưa trẻ con ai cũng muốn phải có cho được một món để chơi mùa Tết, nay thì cầm món ấy đi giữa phố, chẳng khác nào kẻ lập dị. Mới năm trước, lúc trước giờ giao thừa vẫn hay có các nhóm nhỏ Lân Sư Rồng đi dạo phố phường, vào nhà xin lì xì. Nay thì cũng vắng bặt. Tiền dành dụm chưa đầy, dân chúng ai còn dám mạnh dạn mở hầu bao. Ấy vậy mà báo Nhà nước vẫn có tờ đăng tin Việt Nam là quốc gia có name có mark về hạnh phúc và dễ kiếm tiền.

Trên chuyến xe taxi đi vào trung tâm Sài Gòn di chuyển chậm vì đông người trong những ngày cận Tết, người tài xế giết thời giờ bằng cách kể chuyện đó đây, trong đó ấn tượng nhất là chuyện bạn của anh làm công nhân mà năm nay không đủ tiền về quê. “Rất nhiều người gặp khó khăn như vậy nên ở lại buôn bán thời vụ, làm thêm để kiếm chút tiền sau Tết về”, anh tài xế kể. Trong bài hát Xuân này con không về của Trịnh Lâm Ngân, ca sĩ Duy Khánh có hát rằng “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo không người sửa sang…”, giờ thì về quê đâu chỉ có dùng sức mà lo được cho mái tranh của mẹ. Tháng 12/2014, các bản tin của báo Nhà nước còn đưa tin rằng nhiều tỉnh nghèo quay quắt chờ 8.000 tấn gạo cứu đói mùa Tết này. Không có tiền thì vô phương. Pháo bông giao thừa cũng chẳng để làm chi, rồi chỉ biết ngó lầu đài của các quan chức như ông tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền mà thở dài. Trong những nhịp đồng hồ cuối cùng của năm âm lịch, báo đưa tin những người bán hoa, cây kiểng ở trung tâm Sài Gòn, ở bến Bình Đông rơi nước mắt vì ế ẩm, không bán được hàng. Đọc mà lòng tự dưng buồn khôn tả.


Tết năm nay không thấy bà tổ trưởng nhắc treo cờ, anh công an khu vực đi kiểm tra. Có lẽ mệt mỏi vì nhiều năm nhắc hoài mà dân chúng vẫn lơ là, nên chính quyền địa phương ở nhiều nơi theo lệnh mà xuất tiền trồng cờ dọc theo cầu, dọc theo lề đường. Khắp nơi rực rỡ một màu đỏ như ngày đánh thắng một mùa xuân. Cờ được chất đống trên các xe tải nhỏ và được các bạn trẻ dân phòng vội vã ghé vào, cắm dựng, vuốt… rồi chạy đi chỗ khác làm cho kịp chỉ tiêu. Cờ ngay ngắn và rõ ràng như phân lô đất trong thành phố.

Ào một cái đã đến giờ cúng giao thừa. Mùa xuân vội đến và vội đi vậy sao? Mùa xuân nhạt nhòa và không còn rõ ràng trong sự chờ đón của con người. Những bài nhạc xuân viết mới ồn ào, như cố xô người nghe vào một không gian chộn rộn lố bịch đầy cố gắng. Khắp nơi ầm ầm như một chiến dịch đuổi bắt xuân. Mọi thứ đó, như chỉ để nhắc nhau về một điều gì đó gọi là mùa xuân nhưng dường như đã vàng phai biết mấy, hoặc đã không còn tìm thấy nữa.


by nhacsituankhanh






Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 02/Mar/2015 lúc 11:26am
mk
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2015 lúc 10:03am
Cám ơn những tấm lòng son của người con Gò Công vẫn kiên tâm nhóm lửa !


Người Lính Năm xưa.

Năm 1978, sau khi ra khỏi trại tù ở Hương Mỹ, Bến Tre, tôi về quê quán ở Gò Công sinh sống. Một lần đi mua bán thuốc lá ở thị xã, bất ngờ tôi gặp lại người lính cùng tiểu đoàn, đã có thời gian mang ba lô đi theo nấu cơm cho tôi trong những lúc tôi đi đề lô cho các cánh quân bạn.

Trong lúc bất ngờ nầy, anh sững sờ ôm chầm lấy tôi rồi la lên: “Trời ơi! Thiếu úy ơi ! Sao ra nông nỗi vầy?” Anh lính nầy tên là Ðức, còn rất trẻ và cũng rất dễ thương khi xưa trong đơn vị. Tôi chợt nổi da gà khi nghe có người gọi cấp bậc cũ của mình, trong vòng kiềm toả của cộng sản, 1 lời nói trái tai đều có thể mạng vong hay vào tù lao dịch. Tội nghiệp Ðức không cầm được nước mắt khi thấy tôi mặc áo vá 9, 10 mảnh, cái quần nhà binh thùng thình, chân thì không có được đôi dép, tay xách túi đệm, đầu trần ngoài nắng. Tôi ra dấu cho Ðức đi ra xa xa chỗ vắng người. Hai thầy trò tay nắm tay, mừng mừng tủi tủi tâm sự với nhau và cùng rơi nước mắt trước tình cảnh bấy giờ.

Lúc chia tay, Ðức móc trong túi anh ta tờ giấy 5 đồng của vc, bảo tôi đừng từ chối, để ông thầy uống cà phê mà ! Tôi nghẹn ngào cầm lấy đồng tiền của Ðức, nửa cảm động vì nghĩa xưa, nửa mắc cở vì tôi cần nó, thật ra tôi phải mất 2 ngày làm công (xay nước mía mướn) mới kiếm được số tiền nầy. Trước lúc khuất bóng sau bãi xe lam, Ðức còn rán nhắn với tôi một câu “Rán nghe ông thầy, tụi em chỉ còn có mấy ông thầy mà thôi, đừng để tụi em thất vọng…!”

Ôi ! câu nói của người lính nầy ám ảnh tôi cho đến bây giờ, hơn 35 năm trời như giấc ngủ trưa, giờ tôi yên ấm xứ người… không biết người bạn năm xưa sinh sống ra sao ở quê nhà, Đức ơi ! Tôi vẫn mơ ngày gặp lại.


Nam Map





Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 02/Mar/2015 lúc 6:09pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2015 lúc 11:17am

Xin trích đoạn cuối bài viết “Chiến Sĩ Vô Danh – Người Lính không số quân” của tác giả Lê Phi Ô - TĐT/TĐ344/TK Bình Tuy. Ghi lại trân chiến vào tháng 12/1974 – tháng 1/1975 , nhắc đến các địa danh : Tánh Linh, Hoài Đức, …., Xuân Lộc, Bình Phước ; nhắc đến sự hy sinh oai hùng của Chiến Sĩ , của Người Lính VNCH và cả Người Lính Vô Danh, Người Lính Không Số Quân : V LÍNH !

(Mời vào link bên dưới đọc trọn bài viết :

Chiến-Sĩ Vô Danh/Người lính không số quân | Tin tức Online  )


MyKieu

 

 


Chiến-Sĩ Vô Danh / Người lính không s quân


Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước họa xâm lăng của cộng-sản phương Bắc, QLVNCH đã có biết bao anh hùng, liệt nữ ‘vị quốc vong thân’. Bên cạnh đó, còn có những hy sinh không kém hào hùng ít được nhắc tới, ở đây, tôi muốn nói đến những người lính không có số quân, đó là những người “Vợ Lính”.

 

Đúng 2 giờ sáng ngày 09/12/1974, lính vừa đổi phiên gác thì một ánh chớp cùng tiếng nổ long trời phát ra tại hàng rào hướng tây của chi-khu, nơi tuyến phòng thủ của một trung đội thuộc ĐĐ3, một trung đội thuộc ĐĐCH và Tiểu-đội thám-báo của TĐ. Khói lửa, cát bụi mịt mùng ...................
...................................
...................................

Hai ĐĐ của tôi bên ngoài thì ĐĐ1/344 của Đ/U Trương-Kiêm tan hàng trong đêm, mất hẳn liên lạc, ĐĐ2/344 của Trung-úy Thời thì còn lại 36 người, ĐĐ512/TS của Tr/U Đường thì đã lui lại khu vực chợ cách BCH chi-khu không xa vì áp lực địch quá mạnh, rồi ngay trưa hôm đó Tr/U Đường tử thương và ĐĐTS tan hàng! Bây giờ thì không riêng gì con bé Hạ mà cả các chị vợ và con lính cũng được cấp phát súng đạn. Vợ Trung-sĩ Hảo là cô đỡ (bà mụ ở nông thôn) trở thành y tá của TĐ. Hai tay chị đầy máu, một thương binh cánh tay trái chưa đứt lìa hẳn, đã bốc mùi thối phải cắt bỏ, không còn thuốc tê, với lưỡi dao cạo râu chị cố bình tĩnh cắt bỏ cánh tay, anh thương binh cắn răng chịu với hai hàng nước mắt chảy liên tục vì quá đau đớn!

...................................
...................................

Tôi vừa buông ống liên hợp thì tiếng kèn, tiếng hô xung phong của VC nổi vang trời xen lẫn tiếng đạn nổ long trời lở đất. Đạn đại bác tung cát bụi mịt mù, hình như cả ngàn quả nổ cùng một lượt nhưng không có quả nào lọt vào bên trong mà chỉ nổ phía bên ngoài hàng rào, ngay trên tuyến VC. Trong cát bụi mịt mờ thân xác  bọn sanh Bắc tử Nam bị hất tung lên cao từng đợt, từng đợt, tiếng đạn đại bác nổ liên tục nghe ghê rợn hơn lệnh xé xác trong truyện kiếm hiệp Kim-Dung. Hơn trăm người còn sống chúng tôi ngẩn ngơ quên cả bóp cò, chỉ  giương mắt nhìn một màn xi-nê sống động và hay hơn cả phim chiến tranh đã từng xem. Bởi đó là cảnh thật chứ không phải trên màn ảnh, tiếng đạn đại bác vẫn nổ liên tục cho đến trưa...và, trong tiếng đại bác reo hò là tiếng phi cơ phản lực nghe càng lúc càng gần. Trên bầu trời những chiếc F5 quen thuộc xuất hiện như những thiên-thần. Tiếng đại bác vừa ngưng là những chiếc F5 chúi xuống thả từng cặp bom Napalm trên đầu giặc biến Võ-Đắt thành biển lửa. Quân tử thủ chúng tôi chợt tỉnh cơn mê...  rồi bỗng nhiên reo hò ầm ĩ “ tiếp viện đến ...tiếp viện đến!” Đ/U Chính, TB3TĐ chạy lại phía tôi la lớn “SĐ18 vào tới rồi, mình sống rồi Trung-Hiếu ơi!”. Nước mắt lưng tròng, tôi, Đ/U Chính và hình như tất cả mọi người đều khóc! những giọt nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má rồi chảy xuống chiến bào đã khô cứng vì cát, đất và máu của đồng đội. Võ-Đắt đã hồi sinh sau 33 ngày sống trong địa ngục!!!

 

Tôi đi một vòng quanh tuyến phòng thủ, nghiêm chào mỗi xác đồng đội, ôm hai vai hoặc nắm chặt tay những anh em còn sống hoặc bị thương để nghe xúc cảm dâng trào trong tim thay cho muôn lời nói! Khi ngang qua một lô-cốt tôi thấy bé Hạ ngồi khóc. tôi hoảng hốt hỏi xem cô bé có bị thương không, nó không nói mà đưa tay chỉ xuống hầm. Tôi chui vào, nhìn thấy xác hai chị “vợ lính” nằm kề bên nhau, tay vẫn còn giữ chặt hai khẩu súng. Nhìn qua lỗ châu mai, khoảng cách gần, xác 3 tên VC bị bắn vỡ toang đầu. Nhìn lại, hai chị nằm đó như đang ngủ say! Tôi đứng nghiêm chào và thầm nói “Thưa các chị, xin hãy yên giấc ngàn thu, Tổ Quốc muôn đời mãi mãi ghi ơn các chị! Trong trận chiến khốc liệt để bảo vệ an nguy, tự-do, hạnh-phúc cho người dân miền Nam nói chung, đồng bào Hoài-Đức Bình-Tuy nói riêng, sự hy sinh của các chị sẽ được ghi vào sử sách của những người lính không có số quân, và không có cả  12 tháng lương tử tuất. Các chị đã nối bước tiền nhân, không hổ danh con cháu bà Trưng, bà Triệu. Đại diện những người còn sống hôm nay, tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh những anh-hùng liệt-nữ vô danh, và xin ngàn thu vĩnh biệt!”. Nước mắt tự dưng trào ra, tôi bước ra khỏi hầm, tâm tư trĩu nặng nỗi buồn nhưng đầy niềm kiêu hãnh cho một thế hệ, bất kể nam nữ, đã và đang cống hiến cả cuộc đời và thân xác cho cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ an bình, tự do cho đất nước VNCH. Tôi ngước mắt nhìn trời, cảm ơn Thượng- Đế đã cho tôi và anh em binh-sĩ được sống, chiến đấu, và được biết thế nào về hai chữ anh hùng trong chiến trận. Tôi thấy mình may mắn được chiến đấu bên cạnh những anh hùng đó, những chiến-sĩ vô danh mang tên “vợ lính” !

 

Lê Phi Ô - TĐT/TĐ344/TK Bình Tuy

 



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Mar/2015 lúc 8:27pm
mk
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2015 lúc 12:36pm

Làm Dâu Trăm Họ.

Vài hàng tâm sự :
Dây là những giòng ký sự thật của đời tôi. Tôi cũng không ghét thù gì ai hết, chỉ tự mình muốn nói lên cái sự thật hải hùng, 1 góc lịch sử của cuộc chiến tranh tương tàn Việt Nam, có giết chóc, có hận thù, tùy ý người đọc suy diễn. Tôi chưa từng thấy, lảnh 1 cái huy chương hay bất cứ 1 phần thưởng nào dành cho tôi trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình. Có một số anh em nghĩ rằng bài viết của tôi làm mích lòng đàn anh, đó là chuyện vô lý và thật vô cùng mai mĩa. Tôi là một trong lớp Sĩ quan trẻ tuổi nhất thời bấy giờ, tay chưa biết bợn nhơ, mái đầu còn xanh và hoàn toàn trong sạch trong trận chiến tranh kinh hoàng năm xưa. Sau ba mươi mấy năm dài, tôi nghĩ rằng mình cũng đã khôn ra, đủ sức, đủ quyền để suy nghĩ lại những gì đã xải ra cho cuộc đời mình. Những lời, những chử tôi viết ra đây như một vết hằn, một cái thẹo để đời chớ không một lời oán trách ai. Cay nghiệt có hay chăng là do trời, nếu năm xưa xác thịt mình làm phân nuôi cỏ rừng sâu thì cũng chẳng có gì phải tiếc nuối, đời là cát bụi mà, biết sao hơn…
Đàn anh Đề Lô của tôi trong lúc dẫn tôi đi tập sự thường gọi cái nghiệp Đề Lô là “Làm dâu trăm họ” vì cứ phải thay đổi hoài, rày đây mai đó… cho nên tôi lấy nó làm tựa cho bài của mình để nhớ lại một thời trẻ trung, sống động, đau thương mà chẳng bao giờ mình tìm lại được.

Xã Thái Hưng…Quận Công Thanh, tháng 8, 1974…

Đếm từng ngày, tháng qua mau, tôi, thằng Tiền Sát Viên Pháo Binh của TĐ 181 trong những ngày tháng sau cùng của Miền Nam đau khổ. Thằng Đề Lô miệng còn hôi sửa ngày nào giờ đã như thanh sắt được trui rèn trong máu lửa bạo tàn. Ngang dọc cả miền đông nam phần với chiến đoàn 43/18 và nhiều nhất là đi yểm trợ cho ĐĐ 43 Trinh sát. Một Thái Hưng kiêu hùng, ba mươi chàng trinh sát, ba thầy trò pháo binh dám ngửa mặt chống đở hàng trăm đợt xung phong biển người của công trường 5 để giữ vẹn mảnh đất làng quê sau khi 2 tiểu đoàn địa phương quân thối lui về đàng sau. Thiếu lính đến nổi thượng sĩ Nuôi nói với tôi cho thằng đệ tử ra gác thế dùm…
3 tuần thức trắng dờ con mắt, khan cổ gọi từng trái pháo bắn ngay trên đầu bạn để giải tỏa áp lực xung phong của địch bằng tọa độ bạch văn làm sởn tóc gáy 2 trung đội pháo binh diện địa của tiểu khu Biên Hòa. Ngày nguy kịch sau cùng, đệ tử của Tỷ Phú đã chặt chuối đóng bè chuẩn bị thả trôi theo dòng Trị an. Áp lực của địch quân càng nặng, hết gạo, hết đạn. Pháo binh của Tiểu khu yểm trợ ngày càng nhỏ giọt bắt mà bực mình, mỗi lần tôi xin bắn lại phải chờ lịnh thẩm quyền… Yểm trợ tôi đắc lực nhất cho đến giờ phút nầy chỉ có anh bạn TD 180 PB, 2 khẩu thôi mà nuôi tôi bất kể ngày đêm. Trung đội 155 ly nầy bắn vô cùng chính xác góp phần bảo vệ cho đại đội không bị địch quân càn quét… Chiều lại Ông Hạnh và Đ/tá Hiếu bay thị sát chiến trường, bảo tôi rán gồng thêm một đêm sẽ có anh hai đến nuôi ăn (pháo đội C / 181 của Tr/úy Dật, bọn đề lô tụi tôi kêu mấy ông quan hai trong tiểu đoàn là anh Hai hết ráo mà…) tin nầy cũng làm Đại úy Tỷ phấn khởi trở lại… Gồng thì rán gồng cho ông thầy vui chớ thằng em nầy hết xíu quách rồi. Đêm xuống thức trắng gọi pháo nhà nổ liên tục vào tuyến giặc để át tiếng ca nô của công binh sư đoàn đang đưa tiểu đoàn 2/43 nín thở qua sông. Bắt tay được với TĐ 2/43 vào nửa đêm, ngồi dựa miệng hầm nhìn Trung Dung (danh hiệu của Trung úy Mười, khóa 26 Vỏ Bị, quyền Đại Đội trưởng đại đội 2, quê Cầu Tàu, Gò Công) rút cây “ru lô” xung phong lên tuyến trước mà lòng nhẹ nhỏm, sáng dậy ăn miếng cơm nguội mới thấy ngon…

Xã Chánh Tâm… Quận Gia Rai, tháng 12, 1974…

Đề lô mút mùa là tôi, không biết duyên cớ gì mà Thiếu tá Sáng lại không mấy gì ưa cái thằng ròm nầy. Ngoại trừ những ngày đi phép, hể lên đến tiền cứ là ra hành quân liền. Không thế chàng nầy thì cũng đi cho ông nọ. Có lần mới lội cho Luân Vũ (TĐ 1/43) từ Trại cùi Bến Sắn ra, chưa kịp uống hết ly cà phê, Đại úy Thiện, trưởng ban 3 hành quân cho hay Tiểu đoàn 58 Biệt động Quân xin đề lô đi giải vây cho Liên đoàn 7 đang bị bao vây ở Chánh tâm, Gia Rai. Trong đó có cả pháo đội A trừ của Tiểu đoàn 181 do Trung úy Nhân chỉ huy. Nghĩa và Lộc nghĩ ngơi ở tiền cứ hổm rày, nhởn nhơ đánh chắn, Anh Quốc (danh hiệu Th/tá Sáng) lại muốn tôi đi. Thôi thì cũng được đi thì đi chớ có sao, tôi nói thầm trong miệng. Ba thầy trò tom góp lương thưc, xin thêm Pin, đổi khóa KDC, chuẩn bị đón xe đò về Long Khánh vì lúc đó tiền cứ của LĐ 7 nằm ở sát hậu cứ của Sư đoàn 18 ở Long Khánh mà thầy trò tôi lại ở tận căn cứ 90, Tân Uyên, Biên Hòa. Không biết Th/tá Sáng nghỉ sao, ông sai thằng tài xế của Th/ tá Hạnh xách xe Jeep của ông thầy đưa tụi tôi về đến Long Khánh, lại còn gởi theo cho tôi 1 cây Basto quân tiếp vụ (tôi biết ông thầy Sáng ghiền nặng thứ nầy mà.) Tôi nói đúng 1 cây có nghĩa là 1 cây nguyên xi, chưa xé ra gói nào hết, chuyện ít có với Th/ tá Sáng. Thôi thì đành nói với thằng tài xế về cảm ơn ông thầy chớ tui có giận gì ổng đâu. Đi đâu thì cũng là đi, có chết thì ở cái lổ nẻ nào cũng chết mà…
Lặn lội nửa tháng trời với Thiếu tá Măng, TĐ trưởng 58 BĐQ, ăn cái Giáng sinh 1974 trong rừng Chánh Tâm, Ông Măng và ông TĐ Phó (Thiếu tá Phúc, khóa đàn anh của ông Măng) đãi tôi một ly Hennessy và nói rằng: “Đ. M, ly rượu nầy cho 1 mình mầy đó nghen, tao hổng ngờ mầy điều chỉnh pháo binh giỏi vậy. Tụi tao dậm chân đây gần cả tháng trời xin được có 5 trái, mầy mới vô mấy phút dứt liền mấy trăm quả. Mấy thằng con ngoài ĐĐ 1 có lời cám ơn mầy, sau trận nổ, tụi nó bò lên chốp được cây cối 61 ly, miểng pháo còn dính tùm lum, tao sẽ cho triển lảm ở Liên Đoàn. Cái cây cối chó đẻ nầy kèm chân mấy thằng con tao, ngóc đầu không nổi mấy ngày nay…” Tôi lúng búng cám ơn những lời chân tình của ông Măng. Số là nhờ tôi làm gan bò ngay lên tuyến đầu của ĐĐ 1, ngó thấy rỏ ràng anh vẹm ta đang xử dụng cây cối gỏ nhịp đều trên đầu mấy em mình. Chấm đúng điểm, gọi ông thầy Nhân cho nổ dùm 1 trái đống đa cải cách. Tiếng khàn khàn của anh Nhân mừng tôi vô vùng và bảo yên chí đi “anh nuôi ăn cho em tối đa…” Tôi xin có 1 trái nổ điều chỉnh, thằng em tác xạ pháo đội thông báo đạn đi sao tôi nghe có gì không ổn, bất thình lình cái máy PRC-25 mắc cái chứng ôn gì gọi lại không được, úy trời ơi… đạn pháo nhà nổ tứ tung, 2 trái lọt đàng sau tuyến phòng thủ của ĐĐ 1, may hồn không ai bị thương. Khói lửa mịt mù… đến chừng liên lạc được trở lại… Anh Nhân hỏi tôi vậy chớ mầy đã chưa, anh cho mầy 200 trái đó… Mẹ cha tôi ơi, ông Nhân có biết đâu thằng em của ông ngoài nầy dái thót lên tới cần cổ, chỉ cần một mạng Biệt Động bị thương hay chết vì pháo nhà thì em đây cũng đi theo luôn, mấy chả dứt em trước rồi nói chuyện sau thì lúc đó em cũng ngũm cù đèo rồi… Sau nầy mới rỏ chuyện ra là pháo đội anh Nhân được lệnh rút lui, còn bao nhiêu đạn rời phải thanh toán cho hết. Hú ba hồn chín vía thằng đề lô, vậy mà cũng xong, nhờ thằng ròm mát tay, TĐ 58 bắt tay được với gia đình và giải tỏa được Chánh Tâm. Tôi đứng trên đường lộ loang lổ dấu đạn pháo, chứng kiến tận mắt cái cảnh chiếc Chinook làm rơi khẩu súng của ông Nhân trong rừng thấy mà rầu… thầm bảo trong bụng là chết cha rồi, anh Nhân về thế nào cũng bị lảnh củ, lại thêm an ninh điều tra tới lui nữa cúng đủ nín thở…

Quận Vỏ Đắt… tháng giêng, 1975…
Từ cây số 125 ở Phương Lâm, tám thằng vô 1 toán, tôi, thằng đề lô lận đận, lại leo lên trực thăng theo Trinh sát 43 nhào vô giải vây cho quận Vỏ Đắt, ở trong đó có tiểu đoàn 1/43, cùng kẹt với 2 tiểu đoàn ĐPQ và cơ hửu chi khu, bị địch bao vây và tấn công rất nặng, sắp sửa tan hàng. Phải mất 2 ngày 2 đêm đại đội Trinh sát mới nhào lên chiếm gọn được núi Bảo Đại, điểm cao tối cần của tôi để gọi pháo binh yểm trợ. Nơi đây tôi đã đêm ngày khan cổ gọi pháo nhà bắn tối đa cho quân bạn mình giữ vửng chi khu, nhiều lúc quá gấp, điều chỉnh cả súng cối của Th/úy Vọng (trưởng khẩu súng cối của tiểu đoàn 1/43.) Lệnh của Luân Vũ “không tính điểm… cứ bắn thả dàn…” làm tôi yên tâm, đạn bắn sát tuyến quá, có lúc nổ thẳng trên đầu quân bạn, tôi cứ áy náy trong lòng. Địch vào quá gần tuyến của TĐ1, đứng trên núi nhìn xuống rỏ như ban ngày, tôi liên tiếp gọi tác xạ và đồng thời báo động cho Luân Vũ. Ông Hạnh ra lệnh ông thầy Quyền (Đại úy Lê danh Quyền là pháo đội trưởng PĐ B/181 của tôi) thảy vào cho tôi cặp lưởng mục kính nhưng làm sao mà gởi vào được. Có một lần, đang lúc hăng say gọi bắn, bất thình lình 1 trái 85 ly không giật của địch trực xạ ngay tôi, tiếng nổ quá to, đẩy tôi rớt xuống đáy hồ (tục truyền đây là hồ tắm của Vua Bảo Đại) phá nát cái máy truyền tin. Trinh sát gọi về chiến đoàn báo “…97… died… rồi” làm ông thầy Hạnh hết hồn, nhưng không sao, tôi tỉnh lại sau 5, 3 phút bất tỉnh, mặt rát nóng vì lửa, tai lùng bùng như ve kêu… mượn tạm máy nội bộ của Trinh sát, tôi tiếp tục điều chỉnh tác xạ, quân bạn dưới kia đang cần tôi mà… Ngày Vỏ Đắt giải tỏa xong, tôi tuột núi ghé vào thăm TĐ 1/43, Luân Vũ thưởng cho tôi lon bia cuối cùng còn sót lại của đơn vị và bảo tôi rằng… “Chỉ có một mình mầy xứng đáng để hưởng lon bia nầy…” làm tôi vô cùng cảm động. Đời lính mà… Vào chi khu thăm anh trung đội trường pháo binh diện địa, tội nghiệp anh còn có 1 chiếc quần tà lỏn trên người, lính tráng đâu mất hết trơn, 2 khẩu súng thì tan tành, còn nằm trong thế trực xạ, bánh xe xẹp lép, hoàn toàn bất khiển dụng, anh ôm tôi nói lời cám ơn chân thành thật là xúc động…
Tôi tiếp tục theo Trinh sát 43 lên phòng thủ xã Vỏ Xu, chứng kiến cảnh đau lòng của đại đội, khi toán viển thám, theo lệnh Tướng Toàn, leo trực thăng nhảy vào Tánh Linh cấm cờ… được bao nhiêu thằng trở lại hởi trời…tính cả anh Trịnh minh Nhựt, Pilot của chiếc trực thăng đầu tiên bị bắn hạ khi vào đến thung lũng Tánh Linh. Xin một phút cúi đầu tưởng niệm những người bạn 43 Trinh sát chết tức tưởi năm xưa…
Cuối tháng 2, 1975 Phước Long thất thủ, trong một kế hoạch giải vây bất ngờ, Sư đoàn định gởi thằng con cưng là Trinh sát 18, lúc đó do Trung úy Đa, khóa 25 Vỏ Bị chỉ huy, nhảy vào tỉnh lỵ, bên pháo binh sư đoàn muốn xin Đề lô của TĐ 181 tăng phái, ông Sáng lại kêu tôi. May mà anh cả Hạnh kịp thời lên tiếng… “đâu có thằng nào dới tới để nuôi ăn cho nó đâu mà cho nó đi…” lại thêm một phen hú vía…


Nam Map




Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 04/Mar/2015 lúc 7:06pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2015 lúc 2:22am


Xin chào anh NamMap ,
Phải rồi anh Nam ! MK rất hiểu khi Anh viết những dòng này :

"Sau ba mươi mấy năm dài, tôi nghĩ rằng mình cũng đã khôn ra, đủ sức, đủ quyền để suy nghĩ lại những gì đã xảy ra cho cuộc đời mình. Những lời, những chữ tôi viết ra đây như một vết hằn, một cái thẹo để đời chớ không một lời oán trách ai. Cay nghiệt có hay chăng là do trời, nếu năm xưa xác thịt mình làm phân nuôi cỏ rừng sâu thì cũng chẳng có gì phải tiếc nuối, đời là cát bụi mà, biết sao hơn… "
Tất cả đã qua, tất cả là quá khứ, quá khứ đau buồn của thế hệ Cha Ông , của thế hệ chúng ta, các thế hệ trưởng thành trong một đất nước chiến tranh triền miên ! Xin các Anh hãy viết tiếp, hãy viết lại những gì còn đọng lại trong tâm tư, dù kiêu hùng hay đau thương thì đó cũng là sự kiện trung thực, rất trung thực, trung thực gấp ngàn lần sử liệu được ghi lại theo "ý đồ riêng" đã được phổ biến , tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông .

Thế hệ chúng ta đã nhiều người lần lượt "ngàn trùng xa cách" !, có lẽ không bao lâu nữa, những Người Lính VNCH một thời chinh chiến để bảo vệ Miền Nam VN, sẽ không còn, muốn nghe kể "Chuyện Nhà Binh" biết tìm ai đây !? .


MyKieu xin gửi bà con Đồng Hương và Thân Hữu bài viết của Người-Lính-trong-cuộc , ghi lại một phần đời Lính của Ông,
gian khổ nhưng hào hùng, tình Huynh Đệ Chi Binh đến chết vẫn còn vương mang , Hương Hồn Người Lính hạ sĩ quan đã hiển linh phù hộ cho "Ông Thầy" cũng như đồng đội thật cảm động .
Trân trọng kính chuyển .
MK








TÂM THC NGƯỜI LÍNH NHY DÙ TRONG CÕI VÔ SC

(Người Lính Nhẩy Dù Với Chiều Kích Tâm Linh)
Mũ Đỏ Trương Văn Út (ÚtBạchLan)


Chập chờn trong giấc ngủ mỏi mệt gần như kiệt sức, tôi trở mình xoay qua phải, tay trái gác lên xác Minh đã được gói ghém cẩn thận trong lớp poncho ướt đẫm sương khuya. Chiều nay, trước khi đặt xác Minh vào chiếc quan tài bằng nylon dã chiến này, tôi đã khấn nguyện như thầm nhủ với em :”…thôi em hãy đi… đi...vào cõi siêu thoát , chớ vương vấn chi…chi những hệ luỵ của kiếp người phù du trong cuộc đời vô thường như ảo mộng nầy…”…và vuốt đôi mắt mở trừng tới lần thứ ba, Minh mới chịu nhắm mắt…!

Minh trình diện tôi cuối năm 1968 với cấp bậc Hạ Sĩ truyền tin, nhân tướng cao dong dõng với khuôn mặt đẹp trai dáng vẻ thư sinh, tài tử phim ảnh hơn là một “Lính Nhẩy Dù” gan lỳ dũng mãnh mà gót giầy Saut dẫm nát trên 4 vùng chiến thuật với những chiến trận khốc liệt tử sinh không biết ngày mai ai còn ai mất…?...với tính tình vui vẻ hoà đồng với mọi người, nhưng khi lâm trận thì can đảm, lỳ lợm không thua kém một ai trong đơn vị…!!! Chỉ một năm sau, Minh được thăng cấp Trung Sĩ và tôi gửi Minh đi học khóa Truyền Tin đặc biệt về mật mã, sau khóa học Minh trở về đơn vị, được thăng cấp Trung Sĩ Nhất và đuợc tôi bổ nhiệm chức vụ Trưởng Ban Truyền Tin của Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù. Trong nhiệm vụ này, Minh lúc nào cũng thường kề cận sát bên cạnh tôi như hình với bóng, và theo thời gian binh lửa ngút ngàn, dần… dần tôi thương mến Minh như em ruột của mình…! Minh còn độc thân, chỉ có một mẹ già và một đứa em gái nhỏ đang buôn bán tảo tần ở chợ Trương Minh Giảng. Minh rất giàu đầu óc sáng tạo, tự “chế tác” ra những mật mã Truyền Tin nguỵ hoá để xử dụng hiệu quả mà ngay Nha Kỹ Thuật cũng không mã hoá được, huống hồ mấy tên cán ngố “sinh Bắc tử Nam” có thể phát hiện được qua âm thoại trên tầng sóng điện máy truyền tin … Đụng trận, Minh hét lên trong máy báo cáo liên lạc: “… ba lẽ tám bẩy không chín tám mười hai ba ba ba...” (giải mật mã là: 2 toán viển thám: 1 và 2 xuống chân đồi, 2 trung đội trinh sát theo sau và tấn công bộc hậu lên đồi).

Sau hai ngày “san định” đồi 1049 (Delta), một Đại Đội của Tiểu Đoàn 2Nhẩy Dù (ĐĐ/TĐ2ND) thay thế Trinh Sát 2Nhẩy Dù (TS2ND), chúng tôi có lệnh di chuyên về hường Bắc để bắt tay với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2Nhẩy Dù (BCH/TĐ2ND) đang ở đồi Charlie. Chúng tôi vừa “di hành” vừa nhổ “đẹp” chốt địch và tống tiễn hồn Bắc quân khiếp đảm, kinh hoàng bay tung về với thế giới cô hồn uổng tử…! Nhưng khi đến đồi 1028 (cao độ so với mặt nước biển) thì "đụng nặng". với một trung đội súng nặng của Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 320 CSBV trú phòng trên đó với ưu thế hầm hố, địa đạo chiến đấu đã bố trí vững chắc, sẵn sàng chờ đợi để “gom bi” TS2ND chúng tôi…với “Thế Bối Thủy”, tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn xông lên vượt đường máu lửa để sống còn, tôi ra lệnh "táp pi"…súng nổ vang rền chiến trận… Minh bị một tràng AK47 xé banh lồng ngực chết tại chỗ, máu tuôn ướt đẫm thân xác…!.

Tôi mệt lã chập chờn trong giấc ngũ dật dờ, bàn tay trái vẫn còn trên cái poncho bó xác của Minh lạnh giá, chợt tai nghe tiếng nói của Minh từ một cõi âm ty thâm u xa xăm nào đó mang âm hưởng tỉ tê não nuột rờn rợn ớn lạnh toàn thân…!

- Đại Úy ơi…! Mở ba lô của em ra, lấy cái poncholight của em mà đắp và giữ nó bên mình. Mở cái poncho của em ra lấy cái thẻ bài gửi cho Mẹ em và con Nguyệt (em gái của Minh), còn sợi dây chuyền có cái thẻ ngà bằng nanh heo rừng Đại Úy hãy mang vào cổ đừng bao giờ rời nó....”…!

Tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Trời hãy còn tối đen như mực, chỉ nghe tiếng xào xạc của lá cây rừng cùng tiếng văng vẳng đâu đây của Minh như chưa tan loãng hết trong không gian u uất linh hồn phất phơ đầu cây ngọn cỏ còn ướt đẫm sương đêm…! Nhìn quanh bên cạnh vài thước, Y khương vẫn còn ghìm súng trong phiên gác nửa đêm về sáng…Tôi tự lự: có thật linh hồn của Minh vẫn còn lẫn khuất quanh đây, em về báo mộng cho tôi, hay chỉ là hư ảo qua tình cảm tiếc thương đứa em cận kề thâm tình bấy lâu nay mà sinh chuyện mộng mị giữa đời thường, trong khi áp lực địch quân trùng điệp với lưới thép lửa đạn dầy dặc vẫn còn vây kín tứ phương …và cho dù có tin hay không tin cũng phải chờ cho đến khi trời sáng có L19 (phi cơ quan sát) bao vùng và mong là sẽ có C&C của Lữ Đoàn bay trên không phận để liên lạc với tôi…! Tôi làm theo lời báo mộng của Minh, thò tay lục ba lô và mở poncho gói xác Minh… quả thật đúng như vậy và tôi làm đúng những gì Minh căn dặn là tìm thấy được: một pocholight, sợi dây chuyền có cái nanh heo rừng khắc Phạn Ngữ Chú Nguyện theo phương pháp bùa Miên mà các vị “Lục Khủ” (Thầy) phúc tụng, tom phép hộ thân vào Katha… Suốt ngày hôm đó trực thăng của Phi Đoàn 229 không tiếp tế, tản thương được, đến buổi chiều chỉ có chiếc LOH của John Paul Van rà xuống đạp vội vài thùng lựu đạn, đạn đại liên và vài chục ống đạn 155 ly chứa nước uống. Hơn hai mươi thương binh và 12 xác chết vẫn còn nguyên đó…! Tôi nhận được công điên từ hậu cứ Long Bình của Trung Úy Tài nguyên văn:" Kính đích thân ! Sáng nay mẹ và em gái của TSN Nguyễn Văn Minh có đến văn phòng hậu cứ khóc lóc thảm thiết và chất vấn tôi về tình trạng Minh đã tử trận. Tôi quá đổi ngạc nhiên vì chưa nhận được một báo cáo hành quân nào cả. Chỉ biết là đơn vị đang đụng nặng và chờ tin tức mà thôi. Tôi hỏi thì bà trả lời rằng: “… thằng Minh đã chết và đã có về báo mộng cho tôi đêm qua …"…?!!! Đọc công điện từ hậu cứ, tôi giao động thân tâm thẩn thờ như kẻ mất hồn…! Đã có báo cáo tổn thất tổng quát cho Lữ Đoàn nhưng chưa có chi tiết tên họ tử sĩ và thương binh, vì người thay thế cho Minh phụ trách công điện chưa thành thạo công việc truyền tin liên lạc báo cáo… vả lại TS2ND chúng tôi còn trong vòng chiến trận bị Bắc quân vây hãm với hoả lực hùng hậu tứ bề thọ địch…!!! Để độc giả có thể hình dung được bối cảnh lâm trận của TS2ND và tương quan lực lượng với địch quân trên Mặt Trận Tây Nguyên – Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 , tôi xin trích dẫn đoạn văn của Tác Giả Vương Hồng Anh là Nhà Văn Quân Đội đã dầy công biên soạn Quân Sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đã có đề cập đến Đơn Vị TS2ND trong trận thư hùng khốc liệt với Bắc quân: “Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù Tử Chiến Tại Vùng Đồi Delta, Charlie”:

"Trận chiến giữa Trinh sát 2 Nhảy Dù và Cộng Quân ở đồi Delta :

Đồi Delta là một ngọn đồi nằm về hướng Nam Charlie, quanh khu vực này Cộng quân đã bố trí 1 tiểu đoàn phòng không được bảo vệ bởi các cụm chốt do 1 đơn vị sư đoàn 320 CSBV phụ trách. Để giải tỏa áp lực của CQ, đại tá Trần Quốc Lịch-lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã cho lệnh đại đội 2 Trinh Sát do trung úy Trương Văn Út chỉ huy đổ quân ngay trên đầu địch. Cuộc đột kích diễn ra vào rạng sáng ngày 17 tháng 3/1972 bằng trực thăng vận.

Sau khi Pháo binh và Không quân hỏa tập để dọn bãi đáp, đoàn trực thăng đổ đại đội Trinh Sát vào đỉnh đồi. Vừa nhảy xuống mục tiêu, toàn đại đội tràn lên tấn công. Bị tấn kích bất ngờ, cụm tiền đồn của CQ không kịp phản ứng, đã bị triệt hạ. Nguyên cả toán tiền đồn của tiểu đoàn 1/trung đoàn 3/sư đoàn 320 CSBV bị bắt sống. Tuy nhiên, ngày hôm sau, Cộng quân đã điều động 1 tiểu đoàn để bao vây đại đội Trinh Sát. Dù bị áp đảo về quân số, nhưng trung úy Út (ám danh dùng để liên lạc qua máy truyền tin là Út Bạch Lan) đã linh động tìm cách thức đánh trả. Út Bạch Lan cho phân tán đại đội và lưu động tác xạ để đánh lạc hướng phán đoán của đối phương. Cộng quân tràn lên xung phong nhưng chỉ gặp từng toán nhỏ, các toán này đã nhanh nhẹn lẫn tránh sau khi đã bấm mìm claymore. Địch quân lại tiếp tục bao vây, không ngờ rằng đại đội Trinh sát 2 đã vòng ra phía sau tấn công ngay vào bộ chỉ huy tiểu đoàn Cộng quân và bắt trọn cả bộ phận này, trong đó có cả tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/ trung đoàn 3 CSBV là Trương Hà.

Bị tổn thất nặng, ngay sau đó, trung đoàn 3 CSBV điều động toàn bộ lực lượng bao vây đồi Delta với quyết tâm triệt hạ đại đội Trinh Sát 2 để trả thù cho tiểu đoàn 1 của trung đoàn này. Vào lúc này, đại đội Trinh sát cũng đã mệt mỏi do phải lưu động để tránh địch. Bị một trung đoàn CQ bao vây, mặc dù đã áp dụng chiến thuật phân tán mỏng để cố thủ nhưng do đạn dược và lương thực gần cạn, nên đại đội Trinh sát 2 ở trong tình trạng nguy kịch. Nhận được khẩn báo của Út Bạch Lan, các phi công VN của phi đoàn trực thăng Bạch Tượng đã dũng cảm bay vào vùng đồi Delta nhưng không thể nào tiếp tế được cho đại đội Trinh sát 2 Nhảy Dù. Cuối cùng, nhờ một phi công kinh nghiệm và gan lì của phi đoàn Song Chùy đã điều khiển trực thăng lách qua các ổ phòng không của địch mới tiếp tế cho đại đội này được một chuyến duy nhất.

* Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù nhập trận:

Ngày 20 tháng 3/1972, bộ chỉ huy lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã điều động tiểu đoàn 2 Nhảy Dù từ căn cứ Charlie đến giải vây cho đại đội Trinh sát 2. Ngay khi vào khu vực hành quân, thiếu tá Lê Văn Mạnh-tiểu đoàn trưởng đã điều động 4 đại đội tác chiến của tiểu đoàn tấn công ngang hông. Trận chiến đã diễn ra khốc liệt, sau 3 ngày kịch chiến, từ ngoài đánh vào, từ trong tấn công ra, tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và đại đội Trinh sát 2 đã đánh bại trung đoàn 3 CSBV, “xé” trung đoàn này thành từng phần nhỏ. Sau đó, đại đội Trinh sát 2 được trực thăng bốc về Võ Định để tái chỉnh trang và bổ sung quân số.Được báo tin về chiến thắng của đại đội Trinh Sát 2 Nhảy Dù, trung tướng Ngô Du đã bay đến nơi quan sát, vị tư lệnh Quân đoàn 2 đã đích thân gắn cấp bậc đại úy cùng Đệ ngũ đẳng Bảo quốc Huân chương cho đại đội trưởng Trương Văn Út. Ngoài ra, đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh đã thưởng cho đại đội này 1 triệu 200 ngàn đồng về chiến tích bắt sống 12 tù binh của sư đoàn 320 CSBV”. (ngưng trích).

Và trích dẫn bài viết “Charlie Ngọn Đồi Quyết Tử” của Nhà Văn Quân Đội Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập , đăng trên báo Chiến Sĩ Cộng Hoà số 2, xuất bản tháng 8 năm 2009 do Hệ Thống Báo SàiGònNhỏ phát hành:

“Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Võ Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá. Nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực...tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như trường hợp của Đại Đội 2 Trinh Sát Dù dưới sự chỉ huy của Đại Uý Trương Văn Út (danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan) đã được trực thăng vận nhẩy xuống trấn thủ ngọn đồi 1069 ở Mặt Trận Tây Nguy ên 1972. Nhận biết được tin quân Việt Cộng sẽ cường tập tấn công ngay trong đêm để tận diệt TS2ND , viên cố vấn Mỹ của Đại Đội là Trung Uý Buda đã gọi liên lạc xin với Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn 2 Mr Paul Van và Tướng Ngô Du Tư Lệnh Quân Đoàn II xử dụng toàn bộ hoả lực phi pháo, hải pháo Việt - Mỹ để yểm trợ cho TS2ND dứt điểm giết chết cả Trung Đoàn Phòng Không thuộc Sư Đoàn Thép 320 lừng danh của Bắc Việt, cộng quân phơi xác vương vải khắp cả ngọn đồi 1069…! Với chiến thắng lẩy lừng Quân Sử nầy Tướng Ngô Du đã đặc tên cho đồi 1069 là “Đồi Út Bạch Lan” …!!! Và vì trận này mà Bộ Chì Huy Quân Sự Việt Cộng đã lên án tử hình Đại Úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho T Đ11 ND ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một p*** B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết vì pháo”. (ngưng trích)


…Tiếp theo chuyện của Minh: Tôi hỏi Sơn Nhung, Hạ Sĩ Nhất người Miên bên cạnh tôi với Minh về sợi dây chuyền và cái nanh heo rừng. Sơn Nhung nói :

- Thưa Đại Úy đây là cái thẻ "Bùa Miên". Trên cái thẻ ngà màu trắng đục có khắc một hàng chữ Miên màu đỏ, nó là câu thần chú để khi gặp cơn nguy biến thì đọc lên...may ra có ứng nghiệm...em không hiểu câu thần chú là gì, nhưng Đại Úy có thể đọc khi hữu sự " Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát ". Thằng Minh nó sống khôn chết thiêng, nó đang phù trợ cho Đại Úy đó "…!

Tôi không biết có nên tin hay không…? Nhưng thuở còn học trung học, tôi thích nhất môn hình học không gian, trong đó có chiều thứ ba, ngoài không gian và thời gian. Sau này khi ra hải ngoại đọc bộ sách của Giáo Sư Linh Mục Lương Kim Định mới hiểu chút chút ngôn từ "Chiều Kích Tâm Linh". Giờ nhớ lại mới thấy thấm thía…!

Sau khi đơn vị (TS2ND) được bốc về căn cứ Võ Định (BCH/ LĐ2ND ) tôi được lệnh bay cùng Đại Úy Phạm Công Cẩn C&C Trưởng Phòng Hành Quân Phi Đoàn 229 (K21 ĐL) để liên lạc với Đại Tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh Sư Đoàn 22BB vì Quân Đoàn cho biết ĐT Đạt vẫn còn liên lạc qua hệ thống Rescue Radio của Hoa Kỳ. Tôi lên trực thăng bay với một Trung Úy Tác Chiến Điện Tử của SĐND và phi hành đoàn. Trực thăng cất cánh 30 giây, vừa lên cao độ khoảng 100 bộ thì bị phòng không của địch bắn vào hông tàu đã rách bươm lỗ đạn. chiếc gunship bay bên cánh trái bị bắn nổ tung như một khối cầu lửa trên không , chiếc bên phải nghiêng mình lách về hướng Đông để cố vượt lưới đạn phòng không như thiên la địa võng giăng mắc tử thần…!!! Cẩn gọi tôi như hét trên headset: "…thắt dây nịt cho thật chặt ...", tôi vội vàng chụp lấy dây bell an toàn cài khoá , Cẩn bậm môi, tay trái đẩy hạ cần Collective lái chiếc C&C lao xuống sát mặt đường QL14 và hướng về Tân Cảnh…Người xạ thủ đại liên bên phải đã chết gục đầu xuống cây M60 tự khi nào, co pilot ngồi ở ghế trên gục đầu bất tỉnh nhân sự, Trung Úy TCĐT bị một viên đạn 12ly7 vào chân phải gẫy lặc lìa...! Tôi hồn phi phách tán, vô thức thò tay vào ngực mò tìm cái bùa nanh heo rừng của Minh đang mang theo và miệng lẩm bẩm “cầu Kinh”…!!! Tàu vừa mới tới vùng trời Tân Cảnh, thì ôi thôi lại thêm một trận kinh hoàng: phía dưới là hằng chục chiến xa T54 VC đang tùng thiết trên đường Ql14 xuôi Nam như đang diễn binh …!!!. Như vậy Tân Cảnh (Dakto) đã bị over run…! Phạm Công Cẩn lại cắn chặt môi, bàn tay trái kéo cần Collective lấy cao độ và vận tốc , tay phải điều khiển Controller đưa Tàu lướt tới rồi cho con tàu quẹo thật gắt về phía Đông, chiếc trực thăng nghiêng bẻ góc, gầm rú dữ dội, tiếng cánh quạt xé gió phành phạch tưởng chừng như vỡ tung thân Tàu…!!! Tôi thấy vẻ mặt Anh đanh lên khẩn thiết, cương nghị, dưới Helmet khuôn mặt mổ hôi nhỏ giọt nhễ nhại…Nhưng phối hợp thao tác tinh xảo với hai chân đạp nhịp nhàng trên pedal và tay trái kéo lên, hạ xuống cần Collective, tay phải điều khiển cần Controller lên xuống , trái phải để lái con Tàu bay lên cao, rớt xuống thấp, lắt léo qua lại như chiếc lá rơi chao lượn trong cơn bão để cố vượt tránh thoát những tràng đạn của địch bắn lên từ dưới đất, con Tàu hoạt động tối đa công xuất, tiếng động cơ nổ vang rền liên thanh như gầm rú dữ dội lạ thường, thân Tàu chuyển động run lên bần bật với tiếng kêu răng rắc như muốn vỡ bung ra từng mảnh, tiếng cánh quạt chém xé gió phành phạch xen lẫn tiếng súng và đạn phòng không nổ long trời, chớp nhoáng sấm sét lấp loáng không gian, thần chết ẩn hiện chờ cơ hội thu đoạt lấy linh hồn người chết trận oan nghiệt khuất uất…”Chu Công Cẩn” của Tam Quốc Chí tân thời lại phải hạ cần lái một lần nữa cho con Tàu hạ cao độ bay là xà xuống thung lũng, men theo khe suối cố lết cánh quạt về tới Võ Định. (Sau nầy tìm hiểu thêm , Tôi mới được biết kỹ thuật bay trực thăng như chiếc lá rơi để tránh đạn đạo là phát minh từ tài nghệ thao luyện tinh xảo có một không hai trên thế giới, do Cố Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh - Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân, khi Ông hãy còn là Phi Công với chức vụ Thiếu Tá Phi Đoàn Trưởng - Phi Đoàn 211 Trực Thăng. “Kỹ Thuật Bay Lá Rơi “ được phát huy và huấn luyện cho những Phi Công tài hoa tinh nhuệ và gan dạ những “Nam Nhi Chinh Chiến Kỹ Nhân Hồi” là Kinh Kha thế hệ của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà đã viết lên trang sử Anh Hùng Bảo Quốc Trấn Không suốt 21 năm cuộc chiến Quốc - Cộng…Khi cất cánh tung hoành trên những trần mây xanh thẳm, hay ráng chiều tim tím hoàng hôn cũng chiếu sáng bởi con Tàu bị trúng đạn phòng không bùng nổ cháy đỏ rực như khối cầu lửa trong không gian dung chứa biết bao tình…! Phái Bộ Quân Sự Mỹ cũng đã cử Chuyên Gia Huấn Luyện Kỹ Thuật Bay Helicopter đến Việt Nam để tham khảo và thực nghiệm với Ông). Trực Thăng vừa đáp vội vàng ở căn cứ Võ Định, “Công Cẩn” hỏi tôi:

- Mi có sao không ?

- Dạ không, ...nhờ có bùa hộ mạng…? …và cười trừ…!!!

Tôi nghĩ tới Minh trong những giây phút thập tử nhất sinh vừa qua , em có bên cạnh anh với máy PRC25 nặng chình chịch trên lưng của em hay không, hay em đang ở một cõi trời vô sắc nào đó không có không gian cũng không có thời gian,em đã vào hư vô hay vẫn hiện hữu bên anh…?

Hai tuần lễ sau đó, Lữ Đoàn II ND triệt thoái Komtum không vận về Sài Gòn bổ sung quân số, quân trang, quân dụng, đạn dược, vũ khí… trong khi An Lộc đang ngập chìm trong biển lửa, Đông Hà, Quảng Trị thất thủ,… Cộng quân nã đại pháo bắn giết tan tành dân lành vô tội tháo chạy giặc, tìm sinh lộ lánh nạn trên “đại lộ kinh hoàng”, đường lui quân xuôi Nam của gần hai trăm ngàn dân (200 000) và hai mươi ngàn lính(20 000) đang tháo chạy về phía Nam trong Chiến Dịch Xuân Hè 1972 của Quân Đội Nhân Dân (VC)…! Sau chiến trận, công binh đã phải xử dụng xe cày đào huyệt mộ để chôn cất hàng ngàn xác người đang dần phân huỷ…thảm cảnh địa ngục môn có thật giữa đời thường trần gian đầy máu và nước mắt của quân dân tỉnh địa đầu giới tuyến…!

Ôi vùng Trị Thiên, An Lộc, vùng Tam Biên
lửa máu từ rừng sâu ngụt trời
Dòng máu đỏ da vàng, trên đất nghèo nàn đã đổ vì ai
Kìa giặc thù đốt phá quê hương ta
Kìa giặc thù bắn giết đồng bào ta…!!!

Để gọi đích danh chúng: “bọn đồ tể Việt Cộng”:

Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay dính máu đồng bào
Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay vấy máu anh em.
Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay chiến tích hận thù
Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay giết chóc hôi tanh.

Lợi dụng mấy ngày ở hậu cứ, tôi cùng Trung Úy Tài Chỉ Huy Hậu Cứ, Thượng Sĩ Nhất Tá Thường Vụ, Thượng Sĩ Nhất Chiến HSQ Tiếp Liệu đến Nghĩa Trang Quân Đội để viếng mộ của Minh. Ngôi mộ chắc chỉ mới được lấp đất vài ba hôm trông thảm hại…! Đứng trước mộ của Minh, tôi thầm khấn vái: " Em sống khôn, nay chết có linh thiêng xin phù trợ cho tất cả anh em được tai qua nạn khỏi "…! Buổi chiều cùng ngày tôi với các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ trong đơn vị “làm” cạn láng 5 thùng Remy Martell của toán Cố Vấn Mỹ mua tặng…rượu hết, tàn tiệc…tôi say chếnh choáng, thần trí lờ mờ, chân bước loạng choạng ngã nghiêng tìm giường và ngáy khò khò chìm vào giấc ngủ say khước…Bỗng tai lại nghe văng vẳng đâu đây âm thanh quen thuộc trên máy PRC25 khi trời vừa sáng:”… Đại Úy ơi...nhớ ngày mai ra thăm em lần nữa… và nhớ ghi cho kỹ số mả của em để mua vé số” ! Tôi choàng tĩnh giấc và có cảm giác như linh hồn của Minh còn dang lãng vãng quanh đây…và tôi tin có thật Minh đã ở bên cạnh phù hộ thân cho tôi và anh em trong đơn vị đã thoát qua hai cơn hiểm nghèo, một ở phía tây Charlie, một ở Chupao… cũng bởi nhờ vào kỷ vật nanh heo rừng có khắc Phạn ngữ chú nguyện cho người hữu Duyên của Minh báo mộng “trao” lại…?!!! Trong buổi họp bỏ túi sáng hôm sau, bên tách cà phê đang bốc khói ở Câu Lạc Bộ TS2ND, tôi đem câu chuyện Minh báo mộng đêm qua tâm sự với tất cả Sĩ Quan trong đơn vị và họ đề nghị:”… thì mình cứ làm thử xem, cầu may mà, có tốn kém gì đâu…”! Sau đó ai muốn đóng góp bao nhiêu tiền tùy hỉ, giao cho HSQ kế toán làm sổ sách...tổng cộng được trên mười ngàn đồng để mua vé số.!

Tôi với Trung Úy Tài SQ Hậu Cứ đến Nghĩa Trang Quân Đội vào lúc buổi trưa. Mộ của Minh vẫn chưa có bia, chỉ có tên họ số quân đơn vị viết nguệch ngoạc trên tấm gỗ cắm trước mồ, không có số mộ…! Trung Úy Tài vào văn phòng của Đại Đội Chung Sự mới tìm ra đưọc danh số mộ bia là: 198264. Tôi tính nhẫm cộng lại thành ra số “bù” (10 nút)…Nhớ trước đây khi Minh còn sống, em luôn luôn chọn danh số liên lạc truyền tin cho tôi lúc nào cũng chín nút chẳng hạn như: 81, 72, 63...hay 531, 405 và các Sĩ Quan Trung Đội Trưởng cũng tương tự như vậy...Nay em đã mất,mộ bia của em lại mang con số “bù”…Ngẫm tạo hoá cũng khéo trêu người…?!!! Tôi hỏi:

- Anh Tài ...anh nghĩ sao ?

- Đã nói là "cầu may " mà đại úy…!

Trên đường trở về doanh trại, những ý nghĩ lung tung cứ vẫn vơ trong đầu, tôi cố lắc đầu mấy cái để xô đuổi những thứ vẫn vơ “bù” với “chín nút” đó đi… trong khi còn bao nhiêu việc chuẩn bị để hai ngày nữa lên đường đem quân ra Huế rồi vào Quảng Trị với những tin tức chiến trường mỗi ngày càng tăng thêm khốc liệt…Nhưng sáu con số 198264 vẫn y cứ quanh quẩn trong trí óc của tôi như một nỗi ám ảnh bâng quơ nào đó mà lại khó phai mờ hay bỏ quên theo ngày lại qua ngày …? Tôi tự nhũ thầm hãy quên nó đi để còn lo bao nhiêu công việc chuẩn bị lên đường ra Quảng Trị. Buổi chiều trước khi về căn nhà trong khu gia binh nằm dưới lưng chừng đồi Long Bình, tôi căn dặn Trung Úy Tài:

- Anh bảo Thượng Sĩ Dự (kế toán trưởng) giao số tiền đó cho Anh để đi mua vé số…và phải nhớ cho kỹ...tìm cho bằng được lô có bốn số đầu 1982, còn hai số sau, số nào cũng được nhưng cộng lại phải là con số bù… Đừng mua một lần mà phải tìm mua nhiều lần cho đến khi hết mười hai ngàn thì thôi…!


Đường vào Cổ Thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị:

Từ ngã ba Long Hưng, cửa ngõ vào thành phố Quảng Trị đến làng Tri Bưu phía chính Đông của cổ thành chỉ non một cây số. Tiểu Đoàn 11 ND đã áp sát nhà thờ La Vang từ phía Nam, TĐ7ND đã vào tới Long Hưng, nhưng chậm bước vì sức kháng cự của địch quân quá mãnh liệt, TĐ5ND bên cạnh sườn phải của TĐ7ND về phía Đông và chỉa mũi dùi thẳng vào Tri Bưu theo trục Nam - Bắc. Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND) được thiết vận xa "cõng" ra gần bờ biển, mượn đường Thuỷ Quân Lục Chiến (TQLC) đâm thẳng vào Tri Bưu theo trục Đông-Tây cho đến khi bắt tay được với Tiểu Đoàn.

Từ Tri Bưu đến chân tường cổ thành chỉ có vài trăm thước mà chúng tôi TĐ5ND và TS2ND có cảm tưởng như Cửu Niên Đạo, trên con đường chín năm này chúng tôi không biết cũng không nhớ, làm sao mà đếm để mà biết mà nhớ, có bao nhiêu đồng đội của chúng tôi lên thiên đàng hay xuống địa ngục hay chưa siêu thoát vẫn còn lỡn vỡn quanh đây…?!!! Tôi và Thiếu Úy Khâm là tiền sát viên của TĐ1PBND đang đứng trước một mộ bia khá lớn check lại vị trí để điều chỉnh tác xạ…Bỗng nghe “cắc bùm” một tiếng động khô khan của CKC bắn tỉa, Thiếu Úy Khâm bật ngửa tay chân giựt giựt vài cái, mắt trợn trừng…! Tôi ngồi thụp xuống tấm mộ bia bằng xi măng, phía sau có ai đó với bàn tay hộ pháp nắm giây ba chạc của tôi giật mạnh, tôi bật ngã mạnh ra phía sau cùng lúc tiếng nổ ầm trước mặt, một quả không giật trúng ngay mộ bia, tôi ngất đi không còn biết gì nữa…?!!! Nửa giờ sau tôi lay tĩnh, tâm trí mù mờ, nghe thoang thoảng tiếng của Sơn Nhung mừng rỡ cười nói bên tai:

- Đại Úy tỉnh lại rồi… Đại Úy tỉnh rồi… anh Được ơi…!!!

Được là Trung Sĩ Nhất y tá của TĐQY/SDND biệt phái Cho TS2ND, Được nhào tới bên tôi, trong khi tôi vẫn còn nghe tiếng M16, M60, M79 vang rền chung quanh.

- Không sao đâu Đại Úy. May nhờ cái mộ bia, không bị vết thương nào...chỉ tức thở một chút thôi, tôi đã làm hô hấp rồi, Đại Úy có cần tản thương thì tôi đưa đi ngay, vì tôi đã gửi công điện báo cáo rồi…?!!!

- Không sao đâu, cám ơn cậu, đỡ tôi ngồi dậy đi… !

Tôi vung tay, vung chân cố bò qua máy truyền tin liên lạc với Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền) và BCHLD2ND để báo cáo rằng tôi vô sự để cấp trên yên tâm. Tôi hỏi Sơn Nhung:

- Lúc nãy cậu nắm giây ba chạc giật tôi ngã ngửa ra sau có phải không ?

- Dạ không, …lúc đó em đang nằm bẹp bên phải cạnh Đại Úy, nó bắn rát quá, em thì hết đạn nên nằm im lìm cúi đầu chịu trận, thằng Bi ôm cây đại liên không dám xài phí, chỉ chực chờ nó tràn tới thì thằng Bi đứng xổng lên quạt vài tràng rồi ngồi thụp xuống ẩn núp…chớ …. em không có ở đằng sau lưng Đại Úy hồi nào đâu,, chỉ có thằng Chỉnh mang máy, nhưng nó đang núp phía sau một mộ bia khác cùng với thằng mang máy Pháo Binh...?!!!

Như vậy,… thì tôi đã hiểu và càng tin mãnh liệt thêm về cái “bùa Miên” của Minh mà tôi đang đeo trên ngực…!

Hai Biệt Đội 81Biệt Cách Dù (BĐ81BCD) thay thế TS2ND. Chúng tôi lui ra phía sau giữ "Bến Đò Đưa Xác" ở sông Nhung (sông Vĩnh Điện) trong khi quân số còn không quá 40 nhân mạng… ! Bây giờ đến phiên TS2ND khiêng poncho, cõng thương binh của TĐ5ND và 81BCD để chất lên Thiết Vận Xa M113 cách đó gần 500 mét… cho đến gần hai tuần lễ sau mới có lệnh TQLC thay thế toàn bộ lực ND và 81BCD…! Chúng tôi TS2ND được triệt thoái về phía Nam sông Bồ chờ bổ sung quân số và tiếp liệu…!!! Tôi nhận được công điện của Trung Úy Tài Chỉ huy hậu cứ báo: " Ngày mai tôi sẽ có mặt hành quân. Có vài điều cần trình với đích thân. Tài". Sau đó Tài theo chuyến bay tiếp tế ra chỗ hành quân gặp tôi và trình báo:

- Anh-Em mình đã trúng lô độc đắc một triệu đồng đúng con số ở bia mả thằng Minh…!!!

Tài vừa trình bày chi tiết vừa mếu máo, nào là phải mất bao nhiêu ngày lùng sục khắp các chợ Biên Hòa, Thủ Đức, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định…để mua cho bằng được vé số đúng sáu con số ghi trên bia mộ của Minh như em đã báo mộng cho tôi….và:”… phải mua liên tiếp cả lô cho tới tuần lễ thứ ba, mới nghe radio phát thanh số trúng độc đắc 1000 000$ … xong chạy lòng vòng sân trại như người điên hét lên mình trúng số rồi, chúng mình trúng số độc đắc rồi ha …ha...ha…”!!!

Tôi rót một ly Remy Martell cho Tài.

- Uống đi Tài... để rồi mình tính chuyện sau…!!!

Tôi suy nghĩ phải làm gì đây với số tiền một triệu đồng trúng số...? Con số chính xác theo “lời nói” của Minh đã báo mộng. Số trúng độc đắc một triệu đồng năm 1972 ngay trong Mùa Hè Đỏ Lửa, hay số phận của Minh cùng sự hẩm hiu của bà mẹ già với đứa em gái tuổi còn thơ dại…?! Tôi quyết định ngay:

- Ngày mai trở về hậu cứ, anh Tài tìm đến nhà Mẹ của Minh và cứ giao hết số tiền này cho bà cụ…với lời nhắn của tôi là xây mộ phần cho Minh khang trang…!

Tài làm y như lời tôi yêu cầu. Mẹ và em gái của Minh rất xúc động…! Nhưng bà cụ không nhận tất cả số tiền mặt mà chỉ xin cho một trăm ngàn (100 000$) để sang lại một cái sập nhỏ ở chợ Trương Minh Giảng để bán bún suông sinh sống, số còn lại 900 000$ xin giúp cho những gia đình tử sĩ cùng tử trận với Minh ngày hôm đó ở đồi Delta-Kontum… Nài nĩ cách nào Bà cũng không nhận…! Cuối cùng tôi phải xin nghỉ phép đặc biệt vài ngày để bay về Sài Gòn gặp Bà thuyết phục thì Bà mới nhận 500 000$ để lo phần mộ cho Minh và chi phí cho Nguyệt là em gái của Minh ăn học khi mới vừa tuổi trăng tròn…!!! Còn lại 500 000$, tôi chia ra để chi giúp cho các quả phụ: Thiếu Úy Thới, Thiếu Úy Mỗi, Thiếu Úy Oanh mỗi người năm chục ngàn và chia đều cho 23 gia đình quả phụ khác…!!!


Con người ta từ đâu tới và khi chết sẽ đi về đâu…???

Tôi vốn xuất thân “Võ Biền”, văn dốt chữ nát… thì làm sao để có thể biện luận, giải thích, trình bày từ u mặc cho chí lý hiển lộ được hiện tượng, trạng thái, tính chất chân đế, qui ước chế định là chỉ Danh để vay mượn tạm mà làm phương tiện hạn hẹp trong lắm lời ngôn từ vốn thường tối nghĩa để lý sự chỉ bày nhiều trường hợp rất giản dị và thường tình mà hạng “thuật sĩ”, triết gia thời đại, …thường hay lẻo mép dạy đời…và lại nữa “thì làm sao” “thuyết minh” câu chuyện mộng mị của cố Thượng Sĩ Minh, người Hạ Sĩ Quan Truyền Tin bên cạnh tôi như hình với bóng trong suốt một khoảng thời gian dài chinh chiến dạn dầy gian khổ, hiểm nguy… có dư thừa bi thương máu lửa và nước mắt mà được ít ngắn ngủi niềm vui …! Hôm nay đây ở Mỹ, vào những ngày đầu Nguyên Đán khí trời ấm ám, gió sớm thoáng thổi nhè nhẹ mang theo tiết Xuân hây hây vờn những sợi tóc mây phơn phớt trên má cô gái Xuân thì e ấp nói cười, trong nhà, ngoài ngõ sắc Xuân tươi thắm mơn mỡn hiện nét trên những cành chồi non, hoa Xuân nở rộ khoe sắc,…Chuyện chinh chiến máu lửa không còn nữa, nước mắt đã khô cạn, nhưng trong tôi vẫn có linh cảm Minh vẫn còn “hiện hữu” bên cạnh tôi với những thăng trầm trong cuộc sống hoài cố hương nơi xứ lạ, em luôn phù hộ nâng tôi đứng dậy khi tôi ngã quỵ, an ủi tôi khi rơi vào nghịch cảnh…và có đôi khi thu thúc lục căn, thân tâm khinh an lạc bước dạo chơi vào thế giới quan “Âm cảnh” lý sự mang mang với Minh nơi cõi “Vô Sắc Giới” hà phương chi liễu ngộ vốn vô minh mà sinh chấp hữu vạn pháp giới ...chí đến:

Thuỷ chung tương hoán hà phi xứ
Lai khứ thường niên hà thị tâm
Vạn hoá đại toàn ai khá biết !
Cổ lai muôn sự lý tuỳ trung…

“Cái” tuỳ trung, hiểu biết như ở trong lòng bàn tay là ở những “Bậc Thần Nhân” Đại Trí, Đại Lược, Đại Dũng,…phải chăng cũng là “ đại gạt, đại gian hùng, đại ác độc” …đã thiết kế Chính Trị,… và dùng cường quyền đưa đẩy Dân Tộc - Đất Nước Việt Nam vào chiến sự khốc liệt suốt cả phần tư thế kỷ, rồi tháo chạy an toàn về hậu phương “phớt tĩnh Ăng Lê” (England) mồm loa mép giải với “danh ngôn” để lại lịch sử mai hậu soi chơi:” …trang sử Việtnam đã được lật (lọng) qua…”…!!! Thống kê của “Người Mỹ” đã đưa lên con số 3000 000 (ba triệu) người Việt đã bị giết trong cuộc chiến, thống kê của Nhà Nước Việt Nam (VC) hơn 1,100 000 (một triệu một trăm ngàn) quân dân Bắc Việt hy sinh và còn nữa (Quí Độc Giả có thể lên Net để xem thống kê) …! Con số thật nạn nhân bị Việt bị bom đạn được sản xuất tận các quốc gia Văn Minh Âu, Mỹ, Liên Xô, Tàu Cộng ,…phải nhiều lần hơn thế ! Thế giới đã đồng loã với tội ác với Việt Cộng. Vì nếu nói thật, viết thật, công bố thật số nạn nhân Việt Nam trong cuộc chiến Quốc - Cộng chẳng khác nào như gián tiếp tố cáo “Tính Nhân Đạo,Trí Thức, Lương Tâm” …của “người” văn minh Tây Phương trước sự diệt chủng của Việt Cộng dẫu sao cũng đã mang đến lợi nhuận cho “họ” rất nhiều…Người Lính Nhẩy Dù chúng tôi và toàn thể dân Việt đã phải nhận chịu bao nhiêu triệu tấn bom đạn đã trút xuống ruộng vườn, nương rẩy, nhà cửa, mồ mả gia tiên, súng đạn từ Nga,Tàu, Khối Sô Viết và những “quốc gia anh em Cộng Sản” cũng chỉ để tàn sát dân Việt. Người Việt chúng tôi là Người đó ! Minh là một điển hình: “ Người Lính chết trận khi mái tóc còn xanh” và:

Một ngày tôi đi qua
Trại lính ngang nhà
Thấy một lá cờ
Với một vòng hoa.
Hỏi ra:
Mới biết anh là
Lính trẻ xa nhà
Chết trận đêm qua !
Chung quanh đây
Có ai đâu…?
Đưa tiễn anh về
Buồn tiễn anh về
Với lòng đất sâu…!


Đêm Xuân nơi xứ người, trời khuya lành lạnh…! Chạnh nỗi nhớ quê nhà, tôi thắp lên nén hương thầm tâm sự lênh đênh với “chúng sanh” Minh:

Ai từ sắc tướng tìm ta ?
Ai từ âm tiếng gọi ma cõi ngoài ?

Tâm tư của tôi như chuyến tàu đêm đỗ bến quê nhà, viếng mộ em nay còn hay đã hoang phế tiêu điều mà rợ hoang đã mọc phủ kín chỗ nằm…? Minh ơi ! Anh không có tham vọng là ảo tưởng để “ăn cơm dưới đất mà nói chuyện trên trời” lấy “cái” trí tục vật hạn hẹp để bàn chuyện bao la vô cùng của vô thuỷ, vô chung không không du du hạt vi trần du phương trôi lăn hà tứ xứ…chỉ là khúc nôi của trí não chưa bị lú lẫn còn nhận biết:” phân biệt là Thức, vô phân biệt là Trí; dựa Thức là Nhiễm, dựa vào Trí là Tịnh. Nhiễm tất có Sinh Tử; Tịnh chẳng có Chư Phật”…bước “chân” vào thế giới Chân Đế nầy Anh phải cởi bỏ kiến thức cũng như giầy dép để qua ngưỡng cửa thế gian pháp, tháo mở nút thắt thói tục đã huân tập, tiêm nhiễm biết bao định kiến, thành kiến, thường kiến, đoạn kiến …là si mê bao bọc, đóng chặc nẽo về giác ngộ…! Minh ơi ! …Không gian bao la vô cùng và hằng chuyển…trái đất “của” chúng ta đang sinh sống đây “thuở trời đất chưa có cơn gió bụi” nó như là một tinh cầu than (carbon) chết bay hoài, bay huỷ…nhiều tỷ tỷ tỷ năm …và những “hạt” vi trần năng lượng làm Nhân theo trùng trùng Duyên khởi mà cấu tạo thành môi sinh để nẩy nở vật chất là vạn pháp tiến hoá…khởi thuỷ hành tinh có sự sống nầy không có ngay cả ý niệm thời gian thì nói gì đến có ngày:” thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư, thứ Nam, thứ Sáu, thứ Bẩy và Chủ Nhật”…?!!! Sắc Pháp: thân thể Vật Lý hay Vật Chất luôn biến đổi theo tính chất vô thường… là duyên “vay mượn” của hạt năng lượng trong không gian có sẵn mà cấu thành…? Danh Pháp: là “phần” Tâm Lý” 121 Tâm Vương, Tâm Sở cũng là Duyên vay mượn từ 33 cõi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, Siêu Thế Giới… làm: Thọ, Tưởng, Hành, Thức và là “nơi” chúng sanh “Người” thọ hưởng tướng trạng hạnh phúc hay đau khổ…?!!! Đó cũng là ý nghĩa của bản Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - Prajna-Paramita Sutra: “ Ngài Bồ Tát dụng tuệ giác không có gì ngăn ngại quán xét thâm sâu hiện tại, soi thấy ngũ uẩn: Sắc (hình thể vật lý), Danh (tâm lý): Thọ cảm giác chủ thể chịu ảnh hưởng bởi đối tượng, Tưởng tác ý đến đối tượng, Hành hiện tượng tâm lý hay cảm xúc phát khởi theo sự kích động của thọ và tưởng, Thức sự hiểu biết …đều không có tự tánh (vô ngã)…nên rốt ráo là giai không…! Vậy thì Minh ơi, sau khi tử cận tâm chấm dứt thân thể vật chất của em chỉ còn là cái xác vô tri, vô giác đang theo tiến trình huỷ hoại vật lý…Tâm thức của em ngay lập tức tái sanh theo nghiệp mới, sanh trở lại trong kiếp sống kế tiếp, không là người, mà là một “chúng sanh” Ma trong cõi vô sắc giới còn giữ được nguyên trí giác, tính năng ở tàng thức thứ 8 Alayda…mà như như quán tính khi còn tại thế Minh vẫn miệt mài gian khổ, vui buồn kinh qua đoạn đường chiến chinh…? Hay em cũng như bao “chúng sanh” hữu tình ở cõi sắc giới, vô sắc giới do vô minh u… u… mê… mê lầm tưởng là đời sống ở những cõi như thế là hạnh phúc vĩnh viễn và tâm tham được sống, tham ái phát sinh mà thành nhân thức tái sanh kiếp người tương lai khi có hội đủ phước báu và nhân duyên…? Thời Kinh khuya tụng:” Sappe Satta Avera Hontu Sukita Hontu …phúc chúc và hồi hướng cho em được an lạc, hạnh phúc, tái sanh nhàn cảnh…”…! Nhưng em khẳng định:” Em không muốn tái sinh khi bọn Việt cộng còn đang ngự trị trên dân tộc, đất nước Việt Nam…”…! Khiến cho anh đã bao lần cũng mong ước sẽ được về lại quê nhà, thăm bao người thân, quyến thuộc, viếng mộ Ông Bà, Cha Mẹ và tìm lại mộ phần của em…Nay “đành” phải dứt khoát thái độ sẽ không về Việt Nam khi còn loài Việt cộng kẻ thừa sai của Hán thất trên đất nước Việt thân yêu.

Khi còn sống Minh hiền lành, khôn ngoan…sau khi chết em linh hiển “Hồn” vẫn còn tình Huynh Đệ Chi Binh quyến luyến, thường theo bên đời phù độ giúp cho anh may mắn thoát khỏi bao hiểm nguy giăng mắc trên đoạn đường chiến binh …Tự thân anh biết cũng là quá đủ để thầm truy điệu tử sĩ và cám ơn em với tất cả tấm lòng trĩu nặng ân tình:

Nếu cuộc đời là hữu phùng hữu biệt
Thì tôi như mậy trắng mãi ngàn phương…
Nếu cuộc đời là sầu đa lạc thiểu
Sao chân cầu còn lưu nước trường giang ?
Ai đã qua sông còn ngoảnh vời cố quận
Thiên lãng xa ải nhạn hướng đâu tìm…?
(TTA)

Mũ Đỏ Trương Văn Út (ÚtBạchLan)
Viết xong Mùa Xuân Ất Mùi 2015 Houston, Texas

 




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 14/Mar/2015 lúc 2:19am
mk
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2015 lúc 1:26pm


Chị Mỹ Kiều biết hôn, Năm Mập sợ chiếu tranh, thù chiến tranh, không bao giờ xem phim đánh nhau, vậy mà chỉ có 1 điều, Năm Mập không bao giờ quên chuyện xưa...








Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 04/Mar/2015 lúc 7:17pm
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2015 lúc 1:28pm
  Tan Hàng

Ngày 7 tháng tư, 1975. Ðang đóng quân ở ngã ba Túc Trưng, Ðịnh Quán thì có lịnh về hợp ở hậu cứ Sư đoàn ở Long Khánh, cấp Tiểu đoàn trưởng, Ðại đội trưởng, và đặt biệt là Ðề Lô pháo binh mà thôi. Tướng Ðảo nói 1 câu tôi nhớ đến bây giờ: “…đ. m. 9 tây nó đánh tụi bây đó…” Chỉ có thế thôi, đánh thì đánh chớ, tụi nầy đánh nhau với Sư 5, Sư 7, Sư 9 của đám việt cộng nầy nhừ tử rồi, đâu có gì mới đâu mà lo. Chỉ lo thiếu thuốc, mấy gói Basto nhảy xổm hết mẹ nó rồi, ngáp hoài…

Ngày 8 tháng tư, 1975. Tập hợp ngoài sân bay gần đồn Ðịa phương quân, lệnh đổ Trinh sát 43 vào Ðồi Ma làm tôi cũng đâm ra mệt mõi, có 1 chuyện buồn xảy ra trong ÐÐ trinh sát là tụi tôi phải chia tay với Ð/úy Tỷ, danh hiệu là TỶ PHÚ, tôi và ông cùng sống chết với nhau biết bao nhiêu trận, hể chổ nào Trinh Sát 43 nhẩy vào là ông thầy Tỷ nhất định phải có thằng … đi theo. Số là khi ở trên ngọn đồi lạn tại ngã ba Túc trưng, một em Trinh sát nhà mình, nấu cơm để cháy mấy tàu chuối khô, rồi sau đó lan ra cháy rụi cả mấy mẫu vườn mãng cầu cuả 1 ông tướng họ Lâm nào đó trong QLVNCH bấy giờ, chuyện mới ra nông nổi.

Tội nghiệp Tỷ Phú, đi Sài Gòn về đâu có biết ất giáp gì đâu, nhận lịnh về trình diện Chiến đoàn 43. Trung uý Khoát, khóa 25 Ðà Lạt, danh hiệu Trùng Khánh, đang ở TÐ 2/43 của Thiếu Tá Chế, về Trinh sát 43 thế chức ÐÐ trưởng. Rồi thì chuyện buồn cũng qua, nhà binh mà ! Tôi, thằng Ðề Lô pháo binh của TÐ 181, lại khăn gói quả mướp theo ông thầy mới, leo lên trực thăng, nhào vào chiếm Ðồi Ma, điểm cao nhất đối diện với Núi Thị, ở đó hiện đang có 1 pháo đội trừ cuả Pháo đội B/TÐ 181 pháo binh trấn giữ, do Ð/uý Lê Danh Quyền chỉ huy. Theo trí nhớ của tôi, lúc nầy Trinh Sát 43 vẫn còn thuộc quyền chỉ huy của Chiến đoàn 52, vì lúc ở Túc Trưng, lệnh tăng phái cho Ch/Ð 52 còn sờ sờ đó mà, đại đội cũng mới vừa chia tay với Chi đoàn 18 Thiết kỵ mấy ngày nay. Khóa KÐC của tôi cũng có đầy đủ danh hiệu và tầng số liên lạc với anh bạn pháo binh là Pháo đội B 105 ly của TÐ 182 Pháo binh hiện đang ra sức yểm trợ tôi trên đỉnh đồi nầy (Pháo Ðội Trưởng nầy tên là Phước thì phải.)

Ðánh nhau lẻ tẻ với bọn vẹm xung quanh sườn đồi, không có gì đáng lo ngại. Hai trung đội của Th/úy Thọ và Thượng sĩ Nhã dẹp tan tụi du kích địa phương như sấm chớp, lập 2 chốt phòng thủ ở tuyến ngoài. Tr/sĩ nhất Khê chỉ huy trung đội viển thám, rải dài theo hướng Suối Tre. Ðại đội tạm thời an toàn.

Mặt trận Long Khánh bùng nổ dử dội bắt đầu từ sáng ngày 09/04 y như lời tiên đoán của Tướng Ðảo. Trên đỉnh đồi cao nầy, ban ngày tôi ngồi với Trùng Khánh ở bộ chỉ huy đại đội, theo dõi những trận chiến ác liệt đang xảy ra ở toàn tỉnh Long Khánh. Nào là tin của TÐ 93 BÐQ từ Phan Rang di chuyển về, bị kẹt lại và trấn một góc của phi trường Long Khánh. Lữ đoàn 3 Dù tiếp viện, trực thăng Chinook bay đầy trời, câu những khẩu 105 ly thảy vào vùng cho các pháo đội Dù. Quan sát Phi cơ AC 130 của Không quân VNCH trải thảm những thùng xăng đặc nổ kinh hồn lên đầu các sư đoàn bắc việt thấy mà nôn. Tụi tôi lắng nghe Tướng Ðảo gọi Ð/tá Hiếu trên máy: “12 đây Hằng Minh, đ. m. 12 thấy B52 Việt Nam đánh đẹp chưa?...” Ðêm đêm tôi vào tần số nhà của TÐ181, gọi pháo bắn vào từng hàng Molotova của cộng sản bắc việt đang rọi đèn pha tiến về hướng chúng tôi từ phía Ðịnh Quán. Địch quân chưa thọt lét Trinh sát 43, dù biết rằng tụi tôi đang là cây gai nhọn trong mắt chúng, vì ở vị trí nầy, tôi quan sát được khắp vùng, dễ phát hiện quân địch, điều chỉnh tác xạ cũng rất chính xác nhờ điểm cao đặc biệt. Chúng tôi trấn giữ Ðồi Ma chu toàn cho đến ngày 20/04, ngày nầy mới thật là ngày định mệnh của đại đội.

Sáng 20, tháng tư 1975
, phe đề lô ở thị xã Long Khánh đã lột nón sắt, đi long rong uống cà fé được rồi mà. Chiến sự tạm thời lắng dịu, các công trường Bắc việt bị đẩy lùi ra khỏi vòng đai phòng thủ của Sư đoàn 18. Tôi đang ngồi tán dóc với Trùng Khánh, thì Pháo đội B/181 ở Núi Thị gọi “97” lên máy, ông Quyền (cũng là Pháo đội trưởng của tôi) muốn tôi điều chỉnh 200 trái đạn loại chống biển người (loại đạn 105 ly mới nhất mà ông nhận được.) Tôi chấm mục tiêu, báo cho quân bạn xung quanh, lúc đó tôi còn nhớ Trung úy Mười, khóa 26 Ðà Lạt, đại đội trưởng ÐÐ 2/43 đang đóng quân ở hướng Suối Tre.   200 quả đạn nổ cũng xong, chiều lại, nằm trên vỏng, “bẻ nhánh sang sông” nói dóc với anh em bạn đang đi Ðề Lô cho mấy tiểu đoàn bộ binh khác ( “Sang sông” là tiếng lóng của dân Ðề lô trên máy PRC 25, chuyển tần số để nói chuyện tầm phào mà không bị cấp trên nghe ngóng.)

Sang sông gọi không được ai hết. Tự nhiên tôi nghe có cái gì không ổn. Vừa bực vừa lo, tôi vào tần số của ông thầy ruột bên Pháo đội B ở Núi Thị, hoàn toàn im lặng, cái im lặng hải hùng vì tôi mới còn liên lạc với ổng cho đến trưa nầy mà. Cố giữ tần số nầy một lúc, tôi nghe tiếng của Phương, Hạ sĩ tác xạ của Pháo đội B Núi Thị hớt hải trong máy đọc mật lịnh đốt súng của ông Quyền, tôi rởn tóc gáy, ngồi bật dậy gọi Trung úy Khoát báo cho ông biết là Pháo binh Núi Thị đốt súng, ông có hay gì không? Lúc đó cũng khoảng 3, 4 giờ chiều, Trùng Khánh lạnh người, bảo truyền tin gọi về Chiến đoàn 52, lạnh tanh không tiếng trả lời, gọi về Chiến đoàn 43 cũng bặt tăm. Tôi lật đật chuyển tần số gọi cho Pháo đội B của TÐ 182 bên tần số pháo binh, đang đóng ở hướng quốc lộ 20, may hồn tôi bắt được liên lạc với Ð/úy Phước trong khi cả Sư đoàn đều “Im Lặng Vô Tuyến”, không ai còn nhớ đến đại đội Trinh sát 43 đang cô thân, độc mã trên đỉnh đồi Ma. Tôi lên tiếng yêu cầu ông thầy đừng bỏ đàn em bên nầy, hiện giờ tụi tôi (cả ÐÐ trinh sát 43) đang “mồ côi” cả cha lẫn mẹ.

Linh tính cho biết rằng không sớm thì muộn bọn việt cộng sẽ tấn công, ông Khoát gọi Thiếu uý Bảo (khóa 1/72 Thủ Ðức) đang là tùng sự đại đội phó, ra lệnh cho anh em cơm nước sẵn sàng, chuẩn bị thủ thành, tôi thì lật bản đồ rà lại mấy mục tiêu nghi ngờ, đọc cho ông Phước để pháo đội ông sẳn sàng tác xạ, tội nghiệp ông thầy Phước, (đến lúc nầy tôi mối thấy được tình huynh đệ chi binh của gia đình pháo thủ) ổng dặn dò với tôi rằng: “anh nuôi ăn cho em hết mình, nhưng vì trở ngại tà giác bức chắn, nói với ông thẩm quyền bên đó, lở có trúng quân ta thì cũng đừng tính điểm, tội nghiệp anh em bên nầy nghe em…” Ông nói có lý của ông vì tụi tôi đang đóng trên đồi cao mà, “yểm trợ được nhau là quí lắm rồi đâu ai tính điểm anh đâu mà anh sợ…” tôi trả lời cho ổng yên tâm chớ trong ruột cũng thót từng cơn theo từng trái đạn nổ. Chưa kịp nhai hết dĩa cơm nguội thằng đệ tử đưa cho, tôi vội chụp máy liên lạc xin bắn, vẹm bắt đầu ngửi mùi thịt người, tấn công vào tuyến phòng thủ của Th/sĩ Nhã, Th/úy Thọ bên ngoài.

Sau vài lần nhấp nhử, địch bắt đầu xung phong liên tục… Ðại đội trinh sát 43 với sự yểm trợ tối đa của Pháo Binh TÐ182, chống trả từng đợt xung phong của giặc cho đến khoảng 9 giờ đêm, đạn pháo binh hòa với lựu đạn M26, B40, beta của giặc nổ vang trời, tiếng kêu la vang vội cả đồi cao. Bất thình lình, Trung úy Khoát bi thương, một miếng miển đạn nhỏ thôi, găm vào gò má ông làm ông hơi mất thần, tiếng xung phong “hàng sống, chống chết” càng lúc càng gần, lửa, đá, miển văng rát mặt, ông Khoát gọi Th/úy Bảo ra lệnh rút khỏi đỉnh đồi, rẻ hướng Núi Thị mà tuột xuống, tôi cũng cố gắng lôi thằng đệ tử nhà mình theo, nó đang run như cầy sấy bên hông tôi. Không biết bao nhiêu quân còn theo được, tiếng rên la của những người lính Trinh sát 43 bị thương và bị bỏ rơi lại đàng sau nghe nảo ruột, tôi rơi nước mắt, biết làm sao cứu anh em bây giờ. Trong suốt thời gian ở chiến đoàn 43, tôi đi Ðề lô cho Trinh sát 43 nhiều nhất, thân với anh em binh sĩ như ruột thịt, hiểm nguy cùng nhau chia sẽ, vậy mà bây giờ… tôi không dám nghĩ tới nữa. Trung úy Khoát mới về với đại đội, có những quyết định hơi lạ lùng, nhưng với vai vế là dân đề lô tăng phái, tôi đâu có quyền xen vào chuyện riêng của đại đội, ước gì Ð/úy Tỷ còn đây…

Thay gì dẫn quân tuột xuống ấp Trần Hưng Ðạo, tụi tôi có đường về Ngã ba Dầu Giây an toàn vì theo tôi biết quân của phe ta (chiến đoàn 52) còn nằm đâu bên đó mà. Khoảng 11 giờ đêm, làm cách nào không biết, Trung úy Khoát lại liên lạc được với Bảo Ðịnh (Th/tá Chế TĐ 2/43) bằng tần số nội bộ, ông Chế bảo ông dẩn quân ra miệt Núi Ðỏ, ngoài ngả ba Tân Phong, sẽ gặp ông ở đó rồi cùng về… Ông Khoát nghe lời, ra lệnh cho lính chạy ngược về hướng Tân Phong, tôi kêu trời trong bụng mà đâu dám nói ra, thôi đành nhắm mắt đi theo. Bỏ hết lính bị thương ở lại, thất tha thất thỉu tới sáng, tụi tôi cũng tới được Núi Ðỏ, núp trong rừng chuối, cho lính vào làng xem xét, dân trong làng kêu trời khi thấy lính Trinh sát 43 còn đây, họ nói: “Mấy ông ơi, sao không chạy đi? việt cộng tràn ngập làng rồi…” Bật ngữa ra, ông Khoát và đoàn quân chạy ngược trở vào sâu trong rừng, điểm quân lại, tụi nầy còn được trung đội của Th/úy Ðức (khóa 7/72 Sĩ quan Ðồng Ðế) Th/úy Kiệt, cháu của Ðức Tổng Giám Mục Bình đang điều động anh em bên ngoài, Th/úy Bảo chỉ huy trung đội 1, 2. Ông Khoát ra lệnh phá hủy súng nặng, máy móc, đặc lịnh truyền tin. Ðồng thời ra lệnh xẻ đôi đoàn quân, Ðức và Kiệt dẫn một toán theo đường riêng mà đi, ông Khoát và Bảo dẫn đoàn còn lại trong đó có 2 thầy trò pháo binh tôi.

Ðêm xuống, Trùng Khánh ra lệnh đi ngược trở lại, theo hướng bản đồ, rừng gìà mịt mùng, Th/úy Bảo không chịu đi đầu, anh lại chuyển lệnh cho Trung sĩ nhất Khê, trưởng toán Viển Thám, đi đầu. Phần thì mệt mõi vì đánh nhau suốt ngày đêm bên tuyến ngoài, phần lại bất mãn cấp chỉ huy ươn hèn, giữa rừng sâu, Tr/sĩ nhất Khê lên đạn cây M16 đòi bắn bỏ Th/úy Bảo. Trung úy Khoát sựng người, phần đau đớn vì vết thương trên mặt đang sưng to phình, cứng họng không biết phải phản ứng như thế nào. Tôi, lại thằng tôi, thằng Ðề lô pháo binh không còn manh giáp, không biết lúc đó tôi suy nghĩ như thế nào, có khùng hay là tỉnh nữa? Tôi nhào vào giữa trận cải vả của Khê và Bảo, tay ngăn súng Khê, miệng la làng: “Trời ơi! Khê ơi! Mầy làm vậy là chết cả lủ trong rừng, việt cộng xung quanh không mà. Thôi, bỏ súng xuống, nghe lời tao đi, ông Bảo không đi đầu thì tao đi cho, mầy về lo cơm nước cho mấy đứa em ở ngoài đi.” Trời thương tôi! Khê dịu xuống, làm êm bỏ ra ngoài, tôi bẻ một cành khô vắt lên nón sắt (trong đêm tối đen như mực, cành cây khô có tác dụng như ánh lân tinh soi đường, tôi cũng chẳng nhớ ai dạy mình nữa.) Xin Khê một trái lựu đạn, “lở có gì tao cưa hai...” Trời ơi! Thứ nầy tôi ghét nhất, hồi ở quân trường dám khai bịnh 2 bửa để khỏi học liệng lựu đạn mà… Vậy mà bây giờ… tôi cắt ngang, không dám nghĩ đến nữa…

Buột sợi mây rừng vào gấu quần, đưa cho thằng đệ tử dặn nó nắm cho thật chặt để khỏi lạc, tôi ra hiệu và cầm địa bàn bò đầu, anh em trong đoàn quân nối theo. Ði, chạy, bò, trườn, lết, đũ mọi kiểu học ở quân trường tôi đem ra áp dụng ngon lành ở nơi rừng sâu hiểm nguy nầy, cứ nhắm theo hướng 5000, tôi hy vọng sẽ trở ra được quốc lộ 1 theo kinh nghiệm, về phía quân ta đang còn trấn thủ. Ngày đêm bất kể, hể buồn ngủ thì có cái đùi gối đầu của thằng đệ tử, đói lã người vì không còn lương thực, khát thì tìm uống nước trong những miểng chén đựng mũ cao su trong rừng, đắng còn hơn thuốc tể. Có lần vừa vượt khỏi một cánh rừng tre, tôi nghe ngưa ngúa trong háng, vạch ra xem thì thấy toàn là vắt, vắt cha, vắt con, vắt mẹ, vắt em, đeo đầy đùm… đầy vế của mình, nhìn muốn xỉu, lại nhờ anh đệ tử bắt dùm từ con ra, một phen thảm sầu.

Di chuyến liên tục, ông Khoát ra lệnh không được bắn dù bất cứ trường hợp nào, thấy địch thì né, và tiếp tục đi, có lần gặp việt cộng trưóc mặt , không có chổ núp, cả bọn nhào vào bụi tre to, khi vào thì rất dễ vì gai tre xuôi theo hướng vào, đến chừng tụi vẹm rút đi, muốn chui ra thì không cách nào vì gai tre mọc ngược chiều, nó cào rách đầu, rách mặt, máu chải ròng ròng như đang bị thương, rán chịu cơn đau rớt nước mắt, chun ra vừa khỏi bụi tre thì bị tấn công, AK nổ tới tấp, cả toán quân chạy thất thần qua cánh rừng chồi.

Ngày thứ 5 trong rừng, cập được vào cánh rừng chuối, chuối ơi là chuối, đang cơn đói lã người, gặp được chuối chín, cả đoàn quân nhào vào mà ăn dành ăn dựt, nói gỡ chớ lúc nầy địch có tấn công chắt cũng đành chịu vì đâu có ai canh gác gì nữa. Ăn xong xuôi, no nê thì lại bị chứng nôn ruột, chuối sứ mà, ăn nhiều quá thì đi hết nổi, mệt mỏi, mất ngủ lâu ngày, tụi tôi đành lắt đầu chịu thua, khoanh tròn lại 1 khúm. Buổi trưa trời nắng gắt, ngó lên cao, thì bất ngờ lại thấy 1 chiếc trực thăng từ xa, cao, sâu trên trời mây xanh, “Ông trời ơi!” tôi kêu lên. Cả bọn như chết đi sống lại, Khê dùng kính “Mắt thần” của Viển thám chiếu lên chiếc phi cơ nhỏ bằng con chuồn chuồn, lắc lia, lắc lịa, chiếc trực thăng bay mất… Cả bọn ê chề thất vọng, Trùng Khánh ra lệnh chuẩn bị đi tiếp. Tôi lết hết nổi, thằng em thì cứ đeo cứng ngắc bên chân “ông thầy ơi! Đừng bỏ em tội nghiệp, em còn 3 đứa con nhỏ ở nhà…” Nghe mà rầu dùm cho nó.

Thình lình có tiếng máy trực thăng quá lớn ngay trên đầu, thì ra nó bay đi rồi quay lại, quá gần, trên đầu, ngang tầm vai, rồi ngay trước mặt. Anh Xạ thủ phi hành và một người mặt áo giáp ngồi phía trong ra dấu cho tụi tôi leo lên cho đến khi chiếc trực thăng đầy nhóc, nó rán ngóc cái đầu lên mà không sao lên nổi, lại đáp xuống, anh xạ thủ đẩy bớt lính ra, tôi đang đứng trên cái càng đáp của chiếc trực thăng, may sao lại được anh thò tay nắm ngực áo tôi dựt ngược trở vào. Hai tay ôm cái trụ súng và cái chân của anh xạ thủ, tôi rán gồng mình chịu trận trong khi chiếc phi cơ tội nghiệp cố ngóc lên, ngóc lên cao, rồi rà rà bay suốt ra ngoài quốc lộ 1 đang hiện rỏ dưới chân. Phi cơ đáp xuống tại 1 căn cứ Pháo binh 155 ly của Sư đoàn 5, ông mặc áo giáp bảo tụi tôi điểm danh và chờ ở đây, ông ta và chiếc trực thăng quay lại cứu những người lính còn sót lại.

Một chuyến nữa là xong, 15 phút sau, thầy trò tôi ôm nhau trong vòng rào bình an, anh phi công nhăn nhó quá chừng vì Viển thám lắc kiếng nhiều lần quá, chói mắt làm mấy anh không thấy đường mà bay. Ðến bây giờ cái ông mập ù ù, mang áo giáp sạch bóng, mới cho tụi tôi biết ông là Ðại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trưởng Tỉnh Biên Hòa đang trên đường thị xát chiến trường Trảng Bom. “Qua nghi là mấy em lắm mà...” ông thân tình nói với bọn tôi, mấy hôm nay nghe bên Sư đoàn đang bay tìm số quân bị lạc trong rừng, yên chí đi, Qua không bỏ mấy em đâu…” Ôi những lời nói thân thương chân tình nầy làm sao tôi quên được cho đến khi nhắm mắt. Tôi hồi nào giờ có biết ông là ai mà lại cứu tụi tôi khỏi cơn hoạn nạn. Tôi mang ơn ông suốt đời. Chốn sa trường hiểm nguy, lở trực thăng ông đang bay cứu chúng tôi bị bắn rớt lúc đó thì sao?

Sau khi kiểm điểm quân số, 22 chàng trinh sát 43 và 2 thầy trò pháo binh, tụi tôi được anh em ở pháo đội 155 ly của TÐ 50 pháo binh, Sư đoàn 5 tiếp tế nước uống, gạo sấy no bụng. Nghĩ ngơi được một chút, lại cũng chiếc trực thăng của Ðại Tá Lưu Yểm, đưa toán tàn quân về tận căn cứ Long Bình, đó là ngày 25/04. Tôi và thằng đệ tử về trình diện tiền cứ TÐ 181, áo quần tả tơi, máu từ những cây gai tre còn đọng giọt trên đầu, mặt và 2 cánh tay. Thiếu Tá Hạnh lắc đầu rơi nước mắt, bảo tôi đi tắm rửa. Trung úy Nguyễn Ðắt Tài, ban 5, bẻ cái lon Trung úy làm 2 cho tôi đeo vì lon lá đã lột vụt hết trong rừng. Chiều 25/04, ông Hạnh dẫn tôi và các Sĩ quan trong pháo đội chỉ huy đi ăn cháo cá lóc ở Ngả ba ông Vạn, ngày 26/04 sẽ cho tôi 2 ngày phép về Sàigòn.

Sáng ngày 26/04/75, ra Ngả ba Tam Hiệp đón xe về Sài Gòn, ghé chợ trời mua lại ba cái đồ nhà binh, vì áo quần vụt trong rừng sạch trơn rồi, tình cờ gặp lại mấy chàng Trinh Sát 43 thuộc trung đội của Th/úy Thọ và Nhã cũng đang đi chợ, ôm nhau mừng quá sức. Hỏi ra mới biết đúng theo ý tôi lúc tan hàng trên Ðồi Ma, Thọ và Nhã dẫn quân chạy tắt qua quốc lộ 20, bắt tay được với Chiến Ðoàn 52, về tiền cứ Long Bình ngay ngày hôm sau, 21/04/75, báo cáo lên Sư đoàn là toán quân do Tr/úy Khoát chỉ huy đã tan hàng và chết hết rồi. Tôi chắt lưỡi nói một mình: “hú ba hồn chín vía mầy nghe…” Leo lên Daihashu, tôi trực chỉ về Sài Gòn, 2 ngày bình yên tại nhà của một người anh cô cậu, nằm kể chuyện đánh nhau ở Long Khánh cho ông nghe, lo ngại hằn trên nét mặt ông anh, tôi cứ nghĩ rằng ông quá lo vì thương thằng em sương gió. Sáng ngày 28/04/75, từ giã ông anh, tôi đón Daihashu trở lại trình diện tiền cứ tiểu đoàn ở Biên Hòa, cạnh căn cứ Long Bình. Ngang cầu Tân cảng, Quân cảnh chận lại không cho đi, họ trình bày tình thế bây giờ là: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập.” Không còn cách nào khác, tôi buồn hiu trở lại Sài Gòn, vừa nhớ đơn vị, vừa nhớ bạn bè.

Xế trưa hôm đó, tôi về lại Ngả ba Chú ía, định ghé nhà của ông anh cô cậu ở nhờ qua đêm rồi tính sau (tôi mới ở đó hôm qua mà!) Mới vừa tạt vào xe nước mía của bà chị dâu, trên trời 2 chiếc A-37 của Không lực VNCH đảo ngang, đạn phòng không nổ tứ tung, tôi như thằng mù, chẳng biết tình hình ra sao bấy giờ. Theo tụi cháu bước vào nhà, vừa mới tới bực thềm ngoài, ông anh cô cậu tôi đã vội chạy ra bảo tôi rằng: “thôi em đi kiếm chổ khác ở dùm đi, nhà nầy không có chứa được em nữa...” Như bị một gáo nước lạnh tạt vào mặt, tôi không nói nên lời, lẳng lặng bước ra đường, nhớ lại khuôn mặt ái ngại của ông anh hôm trước, à, thì ra...! kêu taxi trở lại Ngả sáu, tôi vào Quân vụ thị trấn xin tá túc đở 1 đêm rồi mai ra sao đó thì ra. Nhà má tôi cánh đó đâu có xa, nhưng sau khi bị gáo nước lạnh tạt vào mặt một cách phủ phàng, thằng tôi không muốn về nhà nữa, tôi nói thầm trong bụng là nhất định tìm lại đơn vị, có chết cũng không buồn.

Thao thức trắng đêm với mấy anh quân cảnh cơ hữu cho đến sáng ngày 29/04/75, một Tr/úy Quân Cảnh trong Quân vụ thị trấn báo cho tôi rằng: “Thôi Thiếu úy tìm đường về đơn vị đi, tụi tôi ở đây không còn đủ chổ chứa lính tan hàng nữa...” Tôi buồn bã gói ghém lại mớ hành trang trong chiếc túi xách tay của bên không quân, 1 tấm mền dù, 1 chiếc võng dù, 2 bộ đồ trận mới vừa sắm lại ở Biên Hòa, 1 cái địa bàn, 1 cây Colt 45, đeo lại trên cổ áo cặp lon Th/úy, kỹ niệm của Tr/úy Nguyễn Ðắc Tài bẻ làm hai cho tôi mấy hôm trước. Ðang lang thang trên Ngả 6, bổng dưng gặp 1 anh bạn cùng quê chạy chiếc Honda ngang qua, anh thấy tôi, dừng xe lại nói là anh cũng ở Biên Hòa thoát về, T54 của vc tới sau lưng rồi. Ở đây tôi có nghe thấy gì đâu... đúng là điếc đặt mà.

Tôi theo anh bạn qua bên Cầu Kiệu ngũ lại 1 đêm, sáng 30/04, bước ra đường Vỏ di Nguy, gặp Tr/úy Tú, pháo đội A/181 PB, mừng quá, định hỏi thăm anh về tình hình đơn vị mình, anh không nói 1 lời, chạy thẳng vào phía nhà trong rồi không bao giờ trở ra. Trên đường còn 1 chiếc GMC của Pháo đội, đàng sau còn kéo được 1 khẩu 105 ly, nòng còn sơn chử “Mảnh Hổ” màu đỏ/trắng, lính tráng còn lóc nhóc ngoài xe, tài xế ngóng chừng xem ông sếp mình có trở ra không mà sao trông hoài không thấy. Tôi bước băng qua đường nói với anh hạ sĩ nhứt ngồi đằng trước cạnh tài xế (anh biết tôi là sĩ quan trong đơn vị) “Thôi anh em đừng chờ Tr/úy Tú nữa, ổng không ra đâu, mấy anh em nhà ai nấy về đi, bỏ khẩu súng lại đây, không sao đâu...” Trong đời quân ngũ, tôi chưa từng có cảnh nào đau lòng như cảnh nầy, tôi cắn răng, rưng nước mắt vẩy chào các anh lính đang tom góp đồ dùng trên xe rồi lẳng lặng chia tay nhau mỗi người một nẻo…

Năm Mập

•     Ðây là chuyện thật của đời tôi, tất cả danh xưng và địa điểm đều thật. Hơn 30 năm trôi qua, từ một thằng thanh niên 20 tuổi đời nay đầu đã muối tiêu, trí nhớ đã mòn, có gì thiếu sót xin anh em bỏ qua cho. Tất cả cũng chỉ còn là kỹ niệm.

•     Kính tặng Thiếu Tá Nguyễn Tiến Hạnh và TÐ 181 Pháo Binh.

•     Kính Tặng Ðại Úy Trần Văn Tỷ và ÐÐ Trinh Sát 43, kỹ niệm những ngày trên tuyến lửa Suối Ðĩa, Thái Hưng, Vỏ Ðắc, Vỏ Xu, Tánh Linh, Cây số 125, Ðịnh Quán, Gia Kiệm, Túc Trưng, Ðồi Ma, Bàu Ðồn, Bàu Hàm...

•     Kính tặng Ð/úy Phước (nếu đúng tên của ông), Pháo đội trưởng Pháo đội B/ TÐ 182 Pháo Binh.

•     Tháng hai, 2005, tôi có được Email từ người con gái của Ðại Tá Lưu Yểm, cô cho biết tin rằng ông đã qui tiên ở Tiểu bang Mississippi, tôi có nhờ cô đốt dùm tôi ba cây nhang trên bàn thờ của ông và nói với cô rằng tôi mang ơn c
ứu tử của ông cho đến mãn đời.




Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 04/Mar/2015 lúc 7:00pm
IP IP Logged
Nam Map
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 21/Jan/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 109
Quote Nam Map Replybullet Gởi ngày: 06/Mar/2015 lúc 12:28pm

Cuối tháng 8, 1974… Xã Thái Hưng, quận Công Thanh, Biên Hòa…

Giải tỏa xong áp lực của công trường 5, TĐ 2/43 và TĐ 64 BĐQ khoanh vùng, Trinh sát 43 có thời gian dừng chân nghĩ ngơi chờ bổ sung quân số tại 1 rìa làng, xa xa là 1 nhà thờ to, tháp chuông còn xừng xửng, ngạo nghể vươn lên trong muôn vàn đổ nát chung quanh.
Ban chỉ huy ĐĐ và tôi đang ngồi ăn cơm trưa dưới một căn nhà sụp mái thì Hạ sỉ nhứt Muôn, xạ thủ M60 của trung đội súng nặng, ái nái, thập thò ngoài cửa. Tỷ Phú hỏi… có gì đó mậy…? Muôn ngập ngừng, lấp vấp trong cổ họng… dạ Đ/úy cho em về phép, em nhớ vợ con em quá chừng… vài bửa em lên… Tôi nhìn Muôn ngạc nhiên, tay nầy cứng cựa nhất trong đại đội mà, sao…? Tỷ phú dịu giọng… em về trung đội đi, khi quân số bổ sung rồi thì anh cho em đi phép 2 tuần, đại đội mình từ 106 mạng, sau mấy tuần đánh nhau giờ còn có không đầy ba chục, làm sao cho em đi được. Muôn ngại ngần cúi đầu, mắt rưng rưng quay trở ra ngoài, tôi nhìn theo mà cảm thấy có 1 cái gì không yên… tôi bật nói với Tỷ Phú… ông làm ơn kêu nó vô ký sự vụ lịnh cho nó đi ngay đi, nhìn cặp mắt thất thần của thằng Muôn, sao tôi thấy lạ quá… Tỷ phú chưa kịp đồng ý với tôi, chén cơm còn trên tay, đồng 1 lúc, có tiếng đạn nổ xa xa, rồi chuyện đến, Dũng truyền tin tuôn chạy tất tả vào nhà… Đ/úy ơi thằng Muôn chết rồi, bắn sẻ, bắn sẻ…
Đ/úy khóc, Tr/úy khóc, thằng đề lô pháo binh cũng khóc, lính xung quanh khóc theo như đưa đám ma…
Tôi chạy vội ra ngoài, dựt cái ông dòm quan sát liền chổ bắn sẻ chết người, à, nó đây rồi, 3 cán binh công trường 5, quân phục tươm tất, áo trong quần, đầu nón cối rơm hiện rỏ trên tháp chuông nhà thờ, 2 tên đang hả hê, 1 đang đọc tờ giấy gì đó chắc có lẻ đang làm báo cáo, 1 khẩu 85 ly không giật, 1 khẩu CKC dùng để bắn sẻ đang còn dựng kế bên. Mỉa mai cho bọn tôi, chuyện là dân xã Thái Hưng nầy gom lại từ 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên năm xưa khi di cư vào Nam, rất trọng đạo, tôi đếm tất cả 11 cái nhà thờ to tổ bố mà… Trong lúc tụi tôi đổ xương máu giải tỏa xã làng, bảo vệ mảnh đất cho dân lành thì bên kia bờ thác Trị An, 2 ông cha và hàng trăm giáo dân đang lên loa biểu tình yêu cầu pháo binh đừng bắn phá nhà thờ. Thì bây giờ cũng từ nhà thờ, viên đạn oan nghiệt đã giết chết 1 thanh niên vừa tròn 25 mấy hôm trước, 1 gia đình đang ấm êm, với một ước mơ quá nhỏ nhoi… “nhớ vợ con em quá chừng…” ơi… ông trời ngó xuống mà coi hởi trời…
Tôi chụp máy liên lạc, gọi về pháo đội xin tác xạ, không cần suy nghỉ, cũng chẳng chút đắn đo… “HOA MAI xuống hai rưởi, trái một rưởi, 10 đạn nổ VT, không cần điều chỉnh… bắn … trả lời…” khói lửa ngập trời… tiếng “ngưng tác xạ… “ báo đi, tháp chuông biến thành gạch vụn…

30 năm sau, tình cờ nói chuyện được với Tỷ Phú bên Mỹ, câu đầu tiên của ông trên điện thoại… “… ơi, tao nhớ ánh mắt thằng Muôn cho đến khi tao nhắm mắt… tại tao, tại tao hết… phải chi tao gât đầu cho nó đi…”


Năm Mập



Năm Mập cám ơn anh TKBáu edit bài dùm.


Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 11/Mar/2015 lúc 12:44am
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2015 lúc 2:55am

Người Miền Nam VN có quyền hãnh diện về  Người-Lính VNCH !
Người Gò Công có quyền hãnh diện về Người-Con-Xứ-Gò !
Đó là : Trung Tướng ĐỒNG VĂN KHUYÊN , sinh năm 1925, tại GÒ CÔNG .

Mời cả nhà đọc bài viết của tác giả Giao Chỉ .
MyKieu





Đồng Văn Khuyên :

Vị Nội Tướng Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

13/03/2015  00:01:00 (Xem: 4291)

Giao Chỉ - San Jose



ĐỒNG  VĂN KHUYÊN 
Vị Nội Tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 

                                                                                   blank

                                 
 
     Người nuôi quân

Chiến tranh Việt Nam thực sự khốc liệt nhất trong 10 năm cuối cùng từ 1965 đến 1975. 
Trong suốt thời gian khói lửa trên toàn thể miền Nam, mọi quyết định hành quân quan trọng nằm trong tay các tư lệnh quân đoàn kiêm tư lệnh Vùng theo chỉ thị trực tiếp từ tổng thống.
                blank
                                        
Chức vụ tổng tham mưu trưởng bộ TTM và tổng trưởng quốc phòng đã bị lu mờ vì những lý do chính trị. Tuy nhiên bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu vẫn nỗ lực làm tròn bổn phận về quản trị hành chánh, tài chánh, huấn luyện, tiếp vận, chiến tranh chính trị và nhân lực. Không có các chức quyền khả năng điều hợp tại hậu phương, tiền tuyến không thể đứng vững.
Suốt 10 năm chinh chiến,  đã có trên 10 vị trung tướng tư lệnh quân đoàn thay nhau chỉ huy các Vùng chiến thuật. Các vị tư lệnh nổi danh một thời, tên tuổi lừng lẫy trên các chiến trường và trên những trang báo Sài Gòn. Nhưng rất ít người biết đến một vị trung tướng, trong suốt 10 năm đóng vài trò hết sức quan trọng trong công tác nuôi đạo quân một triệu lính.
Ông là người giới quân sự Mỹ tin tưởng nhất, tôn trọng nhất và Ngũ giác đài Hoa Kỳ đã có lúc gián tiếp cho rằng không ai thay thế được. Khi thảo luận về các chức vụ tại tổng tham mưu, trung tướng Trần Văn Đôn, vị bộ trưởng quốc phòng cuối cùng cũng nói rằng việc này phải giao cho ông.
Vào những ngày cuối, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng ra đi đã để lại giấy ủy nhiệm chức vụ cho ông. Tướng Nguyễn Cao Kỳ, sáng 29 tháng tư, sau khi bay một vòng trên không phận Sài Gòn, đáp xuống bộ tổng tham mưu ghé vào hỏi thăm, vị trung tướng còn ngồi lại cho biết tình hình tuyệt vọng. Ông Kỳ bỏ ý định bay xuống miền Tây. Trực thăng của ông bay thẳng ra biển Đông.
Vị trung tướng cuối cùng của VNCH mà người Mỹ đợi chờ dục dã  đưa đi nhưng vẫn còn ngồi lại mà trong lòng như lửa đốt. Ông lên xe chạy qua văn phòng tùy viên Mỹ trong Tân sơn Nhất. Rồi ông lại trở về. Hai giờ chiều 29 ông đi một vòng bộ tổng tham mưu rồi lại qua bên Tân sơn nhất. Ông ở đó để được Hoa Kỳ bốc đi vào buổi tối. Người đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên, vị Nội Tướng của QLVNCH. Người trách nhiệm nuôi một triệu lính trong 10 năm cuối của miền Nam. Bài này tôi viết cho Ông.


Gia đình tiếp vận.                                                                        
Trong gia đình, để ca ngợi người vợ hiền quán xuyến, thiên hạ gọi bà là nội tướng. Khi đề cập đến vị trung tướng tổng tham mưu trưởng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, nếu gọi ông là nội tướng ắt có sự hiểu lầm, sẽ chê bai đây là chức vụ tầm thường trong bếp.
Không. Ủy Ban Path Finder của chúng tôi gồm các sĩ quan Mỹ Việt chuyên về biên khảo và phân tích đã có 1 thời đồng ý rằng các trung tướng tư lệnh vùng trước sau cả chục ông nhưng con người chỉ huy toàn bộ guồng máy tiếp vận suốt 10 năm chinh chiến chỉ có một trung tướng duy nhất.
Ông Đồng Văn Khuyên sinh năm 1925 tại Gò Công.
Đại tá Thịnh từ Was. DC mới điện thoại cho tôi nói là ông xếp 86 tuổi của chúng tôi đã nhập viện. Tinh thần không còn minh mẫn, thể chất đã quá yếu. Chẳng biết ra đi lúc nào. Thuộc cấp gần với ông Khuyên còn lại cũng chả được mấy người. Anh thì 3 chân 4 cẳng, anh thì xe lăn. Anh thì lặn kỹ khắp bốn phương trời. Nào biết chăng còn bao nhiêu hơi sức để về thắp nén hương cho người chỉ huy gốc nông dân miền Hậu Giang.
Tôi với ông sinh ra ở 2 miền đất nước. Người ta là công tử xứ Thăng Long ngàn năm văn vật, quê tôi ở chỗ Nam Định quê mùa. Các bác là anh chị từ Bạc Liêu qua Cần Thơ lên đến Saigon. Ông Khuyên là dân Gò Công tỉnh lẻ nằm ngoài lề con đường cái quan.
Mười năm đầu của trường đời trong quân ngũ, tôi còn lang thang đây đó. Mười năm sau của cuộc binh đao, tôi có duyên gặp ông, làm việc với ông, hiểu rõ cuộc đời, cá tính và hoàn cảnh của ông xếp.
Bài viết cho ông mà giãi bầy cả cuộc đời mình, xin phân trần 1 lần cho cả toàn quân dù nay đã rã ngũ.. Trong suốt 21 năm ở lính, chúng tôi trải qua nhiều giai đoạn, biết  được bao nhiêu là các cấp chỉ huy. Bắt đầu là đại tá sau lên trung tướng Dương Văn Đức. Từ lúc ông hét ra lửa ở Sóc Trăng cho đến lúc thành người điên đứng đái ở đường phố Saigon. Có thời kỳ là xếp đại tá Y, thân phụ của cô ca sĩ đấu tranh Nguyệt Ánh.
Ở miền Tây trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu thì gặp ông Dương Văn Minh. Đã từng rủ đại tá tư lệnh Nguyễn Hữu Có đi ciné xem phim Cầu Sông Kwai. Cùng đi chơi bời với tướng Nguyễn Văn Toàn ở ngã ba Vườn Chuối. Chuyện sai chuyện đúng, chuyện lớn chuyện nhỏ biết được khá nhiều.
Mới đây được anh Chu Xuân Viên nhắc lại khi viết báo Chính Luận cho Từ Chung tôi đã được Thế Uyên rủ rê đi họp nhóm Thái Độ tưởng dùng văn hóa mà nổi dậy làm cách mạng. Khi họp về bị an ninh quân đội bắt làm báo cáo. Tôi cóc báo cáo nhưng cũng thôi đi họp. Những bài báo trên Chính Luận chê trách các niên trưởng lại bị an ninh quân đội yêu cầu muốn tiếp tục viết báo phải làm đơn xin bộ Quốc Phòng. Chả dại gì mà xin, bèn thôi. Tất cả hồ sơ đến tay ông Khuyên đều được phê Xếp.
Những ân tình thông cảm như thế, làm sao quên được !
Khi ngành tiếp vận tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập, xếp Khuyên cầm tay hồ sơ dành cho riêng mình tôi lên cấp đại tá đặc cách. Tướng Vỹ bộ trưởng quốc phòng thấy chưa có bằng chỉ huy tham mưu cao cấp bèn từ chối. Ông Khuyên yêu cầu tướng Vỹ cho nợ. Đeo lon rồi đi học sau.
Mấy năm sau, ông Khuyên được trực thăng Mỹ chở ra biển Đông đêm 29 tháng 4-75. Chiều 2 tháng 5-1975, tàu quân vận của chúng tôi được Mỹ vớt lên thương thuyền. Đại tá Giao Chỉ nhà ta áo trận lon vàng còn cả tùy viên và chiến hữu đứng nghênh ngang không giống ai, bèn bị Marine Mỹ tước súng vất xuống biển. Ngó đi ngó lại thấy đủ 20 ông tướng di tản kể cả ông Kỳ, ông Trưởng và ông Khuyên. Các vị niên trưởng đã thay quần áo dân sự ngồi yên lặng mỗi người một góc, mặt dài như chiều đông. Ông Khuyên gọi tôi ngồi xuống, lấy kéo cắt chỉ gỡ cặp lon đại tá mà ông gắn cho tôi mấy năm trước tại bộ Tổng Tham Mưu.
 Ân tình của cậu bé Nam Định đối với ông nhà quê Gò Công biết đời nào tôi quên !


Người yêu nước ở miền Nam

                    
Thời kỳ hơp tác với Mỹ chỉ huy Ủy ban Pathfinder tôi có dịp xem bản sao hồ sơ các tướng lãnh miền Nam do Mỹ lưu trữ. Ông nào ông ấy đều có chuyện nhỏ to. Hồ sơ ông Khuyên sạch boong với những ghi chú hết sức đặc biệt.  
"Cốt cách nông dân, hết sức thanh liêm, cá nhân và gia đình không có nhu cầu. Nhà trong cư xá, không có nhà riêng, không có xe riêng. Thậm chí không có chương mục ngân hàng. Không lấy lính làm gia nhân. Lợi tức bổ túc: nuôi gà.
Ghi chú : Trung tướng không biết lái xe, không biết khiêu vũ, không uống rượu, không hút thuốc, không có bạn gái. Không liên hệ với cộng sản như tin đồn. Không có bạn bè thân thiết ăn nhậu...                 
Khuyết điểm : Quá say mê làm việc. Hay nổi nóng bất ngờ. Đôi khi quá tình cảm bao che cho thuộc cấp. Khi thảo luận về nhu cầu quân viện hay đòi hỏi vô lý. Nhân vật chính trong vụ chuẩn bị quỹ tiết kiệm nuôi quân tự túc ngoài chương trình viện trợ. Tuy nhiên, sau cùng đây là người yêu nước miền Nam, không có tinh thần kỳ thị ".                                                               
Bản ghi chú về ông Khuyên đề ngày 13 Nov. 1972 với chữ ký của tướng Jos M. Heiser, Jr. xếp về logistics tại Ngũ giác đài. Bàn văn này ông đại tá Sheriff cố vấn đối nhiệm của tôi tại Pattfinder II cho xem trước khi về nước.


Nhà quản trị thanh liêm.                                                         
Từ ngày ra trường, ngoài thời gian ông làm phụ tá cho tướng Thanh chỉ huy địa phương quân miền Tây, từ đó về sau tướng Khuyên chuyên về quản trị và tiếp vận. Ông là 1 sĩ quan vô địch về chuyên cần, ông say mê làm việc, có óc sáng tạo, có khả năng điều hành quân sự và hết lòng lo cho quân đội. Người thanh niên đất Gò Công với tấm lòng yêu nước bao la và tuyệt đối không màng đến quyền lợi riêng tư. Cấp bậc và chức vụ đuổi theo ông chứ ông không chạy theo chức vụ và cấp bậc. Suốt cuộc đời ngày đêm toàn chuyện quân đội, chuyện ngoài đời ông là tay khờ khạo. Không có bạn bè thân thiết trong tình đồng khóa, trong hàng tướng lãnh hay thuộc cấp. Tất cả đều là công việc và do đó khi thiên hạ đồn ông là cộng sản nằm vùng, lặn sâu trong hàng ngũ quân đội cũng dễ dàng cho đám nhẹ dạ tin theo.
Điều quan trọng là từ khi lên cấp tướng làm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận, ông được sự tin tưởng tuyệt đối của phái bộ viện trợ Hoa Kỳ. Báo chí Mỹ đôi khi có thể ca tụng các sĩ quan Việt Nam xuất sắc tại tiền tuyến nhưng báo cáo mật của Mỹ luôn luôn ghi lại những phê phán xuất sắc về tướng Đồng Văn Khuyên. Có thể nói thật sự ngay như ông Thiệu, ông Viên muốn thay thế ông Khuyên cũng không có người nào được Mỹ chấp thuận. Lòng yêu nước, sự tận tụy với công vụ và sự trong sạch vô địch của ông Khuyên đã giữ ông ở chức vụ có thể nói là không thể thay thế.
Thiếu tá Quý viết bài báo về ông xếp, ghi lại là vừa đi làm về thấy vợ báo cáo là chuồng gà bị hư, xếp cởi áo 3 sao vắt trên ghế, quần xà lỏn với áo thung rách, xếp lấy kìm búa sửa chuồng gà. Anh tài xế trố mắt đứng nhìn không tin là ông tướng thực. Không những thế gia đình ông lại sạch sẽ cả vợ lẫn chồng. Bà Khuyên từ lúc lấy chồng cho đến khi chồng lên trung tướng, dường như vẫn mãi mãi là người vợ lính chân quê.
Tướng Khuyên tác người nhỏ bé nhưng học hành xuất sắc. Khóa 1 Thủ Đức ra trường đậu thứ nhì. Phải mà ông to con, cao hơn một tấc chắc phải lãnh chức Thủ khoa. Toàn quân suốt 4 vùng chiến thuật, nếu không ở gần không ai hiểu rõ tướng Đồng Văn Khuyên. Tin tức đồn thổi láo lếu đã quả quyết ông Khuyên là cộng sản nằm vùng bà con với tướng cộng sản Đồng văn Cống. Sự thực hoàn toàn không hề liên hệ. Đã 40 năm qua, đêm nay tôi ngồi nhớ lại hành trình trên con tàu buôn chạy từ biển Đông mà đến đảo Guam. Mấy chục ông tướng hải lục không quân bây giờ sao chẳng còn ai. Bên không quân còn nhớ có ông Kỳ, ông Trần Văn Minh, ông Phan phụng Tiên. Bên Hải quân thấy có ông Hoàng cơ Minh. Các tư lệnh vùng có tướng Toàn, tướng Trưởng và còn rất nhiều niên trưởng tao ngộ trên cùng chuyến tầu. Ngày nay chẳng còn được mấy người. Phân trần cũng chẳng còn ai lắng nghe. Khi anh em ngồi trên tàu quân vận trên sông Saigon, thấy lửa cháy bên kho đạn Thành tuy Hạ. Tàu của bộ binh chúng tôi trôi trên sông Saigon theo tàu hải quân ra đi lần cuối.. Chúng tôi nghe tướng Vĩnh Lộc nói rằng sao đã chạy như chuột. Nhưng rồi ông cũng vội xuống tàu đi sau tàu của anh em. 21 năm binh nghiệp của chúng tôi trôi như lục bình. Nhưng mà còn đỡ. Hùng xùi anh em khóa Tư kẹt lại sau này đã nói rằng. Chúng mày chạy được là may. Bọn tao ở lại nhục lắm.

Họp mặt trại Trần Hưng Đạo.

Năm 2005 tôi tổ chức họp mặt trại Trần Hưng Đạo trên thủ đô Hoa Kỳ. Niên trưởng Cao văn Viên đau yếu không đến được. Xếp Khuyên đi chào bàn các chiến hữu gặp Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện, anh em cùng khóa của tôi. Các bạn ở tù hơi lâu. Luyện nhẩy Bắc năm 66 bị tù 21 năm trong đó có hơn 1 nửa thời gian cùm biệt giam.
Ông Khuyên nước mắt long lanh nói lời gan ruột. Ông nói: Kể ra mình chạy được cũng là hèn.
Đây là lần thứ ba tôi trông thấy ông khóc. Lần thứ nhất họp tại tổng tham mưu nói về Phước Long thất thủ. Lần thứ hai là ông cùng tướng Mỹ chạy lên Hóc Môn xem cảnh máy bay C5 chở cô nhi bị rớt. Và 30 năm sau họp mặt trại Trần Hưng Đạo năm 2005.
Thời kỳ mới qua Mỹ, vợ ông tướng bán chiếc nhẫn cưới trong trại để lấy tiền gọi điện thoại cho chồng còn ở đảo Guam. Qua Hoa Kỳ, tướng Mỹ bảo trợ cho tướng Việt Nam. Ông lớn nhà binh Mỹ ấm ớ hội tề không biết tiền xã hội Cali sẵn sàng giúp cho tỵ nạn học nghề làm lại cuộc đời.  Ông giới thiệu cho xếp tôi đi làm xếp bồi cho nhà hàng. Bà Khuyên được chồng nuôi cho đi học lại. Cả 2 vợ chồng đều không biết lái xe.
Hoàn cảnh ở Việt Nam như thế, hoàn cảnh ở Mỹ như thế. Vậy mà có thằng khốn nạn viết sách, viết báo nói ông Khuyên bán xăng bạc triệu để thành siêu tham nhũng. Nó nói là ông bán xăng ngay trên biển Đông. Bán xăng Mỹ theo kiểu quốc tế. Tàu dầu Hoa Kỳ thay vì đến kho xăng Nhà Bè thì ghé bán cho Singapore để ông Khuyên đưa tiền vào nhà băng Thụy Sĩ.
Tên khốn nạn lại còn viết rằng không quân VN chế ra loại bom xăng thả trực tiếp từng thùng 200 lít xuống mặt trận.  Các đơn vị cộng sản chết cháy cả trung đoàn. Nếu có đủ xăng mà đánh như thế thì phe ta không thua trận 75. Vì xếp Khuyên và cả thằng Lộc bán xăng bên Tân gia Ba nên quân ta không có xăng mà đánh hỏa công. Chúng nó nói thế mà cũng có người tin thì còn trời đất gì nữa !!!
Thưa niên trưởng,
Ngày nay tuy không ở gần nhưng tôi vẫn hiểu ông trước sau như một. Những ngày cuối ông để mọi việc ngoài tai. Ông tìm đường đi vào đạo Phật. Người ông nhẹ tênh. Tôi lên thăm ông xếp. Ông nhìn tôi cười thật tươi.
                                                                 blank
                                                                         
Tôi mời ông ra vườn sau có ánh nắng để chụp bức hình kỷ niệm. Tôi đưa ông cầm bức tượng Tiếc Thương như để thầy trò nhớ lại ngày xưa khi buồn phiền mình lên thăm nghĩa trang quân đội. Toàn quân các binh chủng đều bình đẳng về đất nằm dài dưới ánh mặt trời chói chang cờ vàng. Sao kỳ này chuẩn úy chết quá nhiều. Cũng như mình ngày xưa. Mới ra trường sợ lính cười nên anh sĩ quan trẻ hiên ngang xông ra đằng trước.
                                                 blank
                                     
Ông xếp là nội trợ của toàn quân. Lính sống, lính chết đều là con cái của mẹ già. Thiên hạ nói là tại sao phe ta không chuẩn bị để tự chiến đấu nếu bị Mỹ bỏ rơi. Thưa quý ngài, chúng tôi cũng có tính đến bài chiến đấu một mình.
Ông Khuyên đã từng tích cực tham dự vào chương trình quỹ tiết kiệm quân đội. Trích lương lính mỗi tháng 100 để xây dựng công binh xưởng. Than ôi, mộng lớn chưa biết có thành không mà Mỹ cùng ba Tàu Chợ Lớn đã xúm lại đánh xập dự án tự túc tự cường. Ông Thiệu, ông Khiêm còn không đỡ nổi.
Bây giờ 40 năm sau, nhân danh tổng thư ký của buổi họp bài trừ tham nhũng tại bộ tổng tham mưu ngày xưa, tôi xin thưa rằng vị chủ tọa hôm đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên. Ông  là người sạch nhất trong hàng tướng lãnh. Có anh trung úy tốt nghiệp chiến tranh chính trị đứng lên hỏi rằng có thể trung tướng tham nhũng nhưng giỏi quá, khéo dấu thì sao.
Ông xếp tôi ngồi thừ người rồi nghẹn ngào nói rằng:
- Tôi mà bê bối thì xin ra lăng ông bà Chiểu bẻ cổ gà mà thề.  "Qua mà ăn thì xe mười bánh ăn qua đi."
Ôi ! xếp Khuyên, nghe ông nông dân Gò Công nói như thế, anh em thương ông biết là bao ! Bây giờ, viết lại chuyện cũ, còn ai đọc mà hiểu được những tình tiết này. Người biết không nói. Người nói không biết. Biết hay không biết, tất cả đều qua đi.
Ngày mai khi ông ra đi, phải chi tôi còn tìm được can xăng quân đội mà bán để lấy tiền mua vé máy bay lên Was. DC tiễn đưa ông lần cuối... thì phải lẽ biết chừng nào !
Thưa niên trưởng, kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo...

Giao Chỉ, San Jose




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 14/Mar/2015 lúc 11:28pm
mk
IP IP Logged
Trang  of 3 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.463 seconds.