Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: Rể Gò Công Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
tuavanle
Admin Group
Admin Group
Avatar

Tham gia ngày: 30/May/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 335
Quote tuavanle Replybullet Chủ đề: Rể Gò Công
    Gởi ngày: 11/Nov/2014 lúc 1:36pm
Rể Gò Công
Người Gò Công tôn sùng Trương Công Định. Nhưng Trương Công Định không phải là người Gò Công, mà là Rễ Gò Công. Hoàng Đế Bảo Đại cũng là Rễ Gò Công. Rể Gò Công thì nhiều lắm. Trong bài nầy chỉ đề cập vài điểm đặc biệt lý thú về Hoàng Đế Bảo Đại mà thôi.
Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rễ Gò Công không phải là dễ.
Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rễ xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.
Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rễ của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ. Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.
Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.
Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rễ Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử. Muốn làm rễ Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham. Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẽ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:
- Gia đình cô đồng ý trước đả.
- Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:
- Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.
- Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.
-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép hai người buộc ai.
Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.
Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.
Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rễ Gò Công.
Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.
Bảo Đại giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế.” Người đàn bà duy nhứt trong lịch sử Việt Nam được chỉ dụ đặc biệt nầy.
Trong hồi ký . . . đã viết về Hoàng Hậu như sau: “Chân dung Nam Phương Hoàng Hậu mặc quốc phục thật xứng đáng là “Đệ Nhất Phu Nhân”. Trông gương mặt bà sang trọng mà không kiêu, hiền mà không tầm thường, dễ dãi. Nụ cười kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh. Chiếc cổ tròn, thon và cao hợp với khuôn mặt. Dáng bà lại cao nên xứng đôi khi đi bên cạnh Bảo Đại. Nếu chỉ so sánh về sắc đẹp với những vị đệ nhất phu nhân khác trên thế giới như Hoàng Hậu xứ Monaco, Phi Luật Tân thì chắc chắn bà Nam Phương Hoàng Hậu phải được chấm giải nhứt. Nhất không phải chỉ riêng vì sắc đẹp, mà nhất về tư cách và đạo đức và cách sống của bà từ ngày trở thành Hoàng Hậu cho tới ngày tạ thế với tước vị Long Mỹ Hầu rồi tăng thêm là Long Mỹ Quận Công và Kim Khánh Bội Tinh đệ nhứt hạng cho mẹ vợ là bà Lê Thị Bình (Con ông tỷ phú Huyện Sỹ) với tước vị Mệnh Phụ Cung Đình đệ nhất hạng.
Sau đây là vài chi tiết về người con rễ Gò Công nầy:
“Theo Đế Hệ Nguyễn tộc: Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh, Bảo, Quý, Định, Long, Trường, thì Bảo Đại thuộc về hệ thứ 5 tức là Vĩnh – Vĩnh Thụy. * Lên ngôi Hoàng Đế năm 12 tuổi (13 tuổi ta) ngày 8 tháng 1 năm 1925 lấy hiệu là Bảo Đại, và lại tiếp tục sang Pháp du học.
*Bảo Đại hồi loan: Tàu D’Artagnan cập bến cảng Saint – Jacques (Vũng Tàu) đầu tháng 9 năm 1932. Ông ngỏ lời trước quốc dân là ông sẽ lãnh trách nhiệm làm cho toàn thể quốc dân được tiến hành trong công cuộc văn minh tiến bộ. Sau đó ông cải cách guồng máy chính trị cho phù hợp với thời gian lúc bấy giờ. Như lập thêm Bộ Xã Hội Kinh Tế, Bộ Tài Chánh. . .
“Được phong làm Đông Cung Thái Tử năm vừa được 7 tuổi (năm Khải Định thứ 5) Chiếu chỉ ban ngày 20 tháng 2 năm 1920.
Sang Pháp du học ngày 24 tháng 2 năm 1922 ở biệt thự sang trọng đường Bourdonnais Paris.
Ông vừa học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và cả chữ Pháp. Ông được nhập học trường Lycée Condorcet Puis Sciences Politique.
Ngoài giờ học ở trường, ông còn học thêm về âm nhạc, đàn dương cầm, chơi quần vợt, tập lái xe hơi, bơi lội, và tập khiêu vũ với những cô đầm non cùng lứa tuổi với ông.
*Thân thế: Nói đến chàng rễ Gò Công Bảo Đại, chúng ta chưa có một manh mối nào về cha ruột của người Hoàng Đế cuối cùng của Việt Nam nầy. Chỉ biết mẹ ruột là bà Hoàng Thị Cúc tức là bà Từ Cung sau nầy. Còn cha ruột? Trong sách sử cũng như các tư liệu đều nói rằng Ông Bửu Đảo tước hiệu là Phụng Hóa Công là vua Khải Định là cha trên giấy tờ là người bất lực, vô hậu. Chỉ biết Bảo Đại tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm Quý Sửu (1913) tại Huế. Theo nhà nghiên cứu Phan Thứ Lang thì sau khi lược qua những tập di cảo đồ xộ, lọc ra nhiều chi tiết có liên quan đến việc Vĩnh Thụy chính là con cụ Hường Đ.
Hành động đầu tiên: Là một việc nhỏ nhưng lúc bấy giờ là một việc trọng đại, một cách mạng trong nghi lễ triều đình: Bỏ năm lạy, chỉ có xá ba xá là “Tam khấu lể”. Lý do là Ông muốn tôn trọng người lớn tuổi, đáng bậc chú, bậc cha, nếu các vị quan trong triều mà phủ phục quỳ lạy một người tuổi chỉ đáng hàng con cháu thì khó coi quá.
Còn người ngoại quốc thì chỉ bắt tay theo phép xã giao Tây phương cho được thoải mái.
*Đồng bạc Bảo Đại: Đựơc đúc bằng đồng mỏng. Có giá trị bằng ½ tiền Khải Định
Trong dân gian lúc bấy giờ có câu:
“Hai con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền”.
Sở thích: Gần như cái gì Bảo Đại cũng thích. Đánh bài, khiêu vũ, săn bắn, cởi voi, lái xe, đàn dương cầm. . .
Trong tài liệu nói rằng ông ném vô sòng bài chiếc du thuyền 250.000 đô lúc đó, đến nỗi cái lâu đài ở Cannes gần thành phố Nice – miền Nam nước Pháp – cũng đem nướng luôn. Nhưng cũng có lần được thắng thì cho bà Nam Phương đi mua sắm hả hê. Có lần đánh ở sòng bài quốc tế Monaco với các tiểu vương và các nhà tư bản giàu sụ ông thắng đậm và mua ngay cho bà Mộng Điệp chiếc nhẫn kim cương trị giá mấy triệu đô – là chiếc nhẫn kim cương lớn nhất vùng Đông Dương lúc bấy giờ.
*Hạ sanh Hoàng Tử: Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân đất thần kinh nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành. Dân chúng biết đó là Hoàng Nam vì là 7 tiếng súng còn nếu là công chúa thì sẽ là 9 tiếng súng. Đó là Thái Tử Bảo Long. Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:
Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.
Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.
Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.
Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.
Những tình nhân của Bảo Đại:
Mộng Điệp: Được Bảo Đại cưng chiều chỉ sau Hoàng Hậu Nam Phương. Được Bảo Đại tín dụng truyền chỉ mang Ấn Kiếm (Nguyễn Triều Chi Bảo) sang Pháp cho bà Nam Phương cất giữ. Bảo Đại và Mộng Điệp có 3 người con:
Phương Thảo sanh năm 1946
Bảo Hồng sanh năm 1954
Bảo Sơn sanh năm 1957.
Lý Lệ Hà: là người đẹp đã theo sát Bảo Đại từ Việt Nam sang Trung Quốc lưu vong. Có người tả hai hàm răng của Lý Lệ Hà là hai hàng bạch ngọc và quý hơn ngọc đã làm cho Bảo Đại say mê và bà Nam Phương phải buồn lòng và lo lắng vì mối tình nầy.
Bà Đầm Monique Baudot: Người tình cuối cùng: Khi bà Nam Phương tạ thế thì cựu Hoàng mới có 65 tuổi còn bà đầm Monique Baudot 35 (chỉ nhỏ hơn cựu Hoàng 30 tuổi thôi mà). Bà đầm nầy với Bảo Long là nước với lửa. Đã choảng nhau, kiện tụng vì cái ấn kiếm. Ai là chủ quyền của Ấn Kiếm nầy? Và hiện nay đang ở đâu?
Cặp Ấn Kiếm – Mệnh danh là Nguyễn Triều Chi Bảo – nầy do vua Bảo Đại truyền chỉ cho thứ phi Mộng Điệp đã đem từ Việt Nam cùng hơn 600 món bảo vật đến tận tay bà Nam Phương Hoàng Hậu bảo quản. Trong lúc tiếp nhận có bốn ông giúp bà đưa vào tủ kiến (các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng và Phạm Bích – con của Phạm Quỳnh). Khi bà còn sanh tiền đã nhắc nhở Thái Tử Bảo Long rằng: Đừng bao giờ mở tủ kiến mà tách hai bảo vật nầy ra hai nơi. Đến khi Bảo Đại viết xong cuốn sách “Con Rồng An Nam” muốn mượn con dấu để đóng lên quyển sách cho thêm phần giá trị thì Bảo Long nhất quyết không cho, viện dẫn lý do là Mẫu Hậu đã có dặn. Vì thế mà có cuộc tranh chấp kiện tụng ra tòa. Tòa xử: “Bảo Đại giữ Quốc Ấn, còn Bảo Long được giữ Quốc Kiếm.” Đến nay không biết hai báu vật – hai linh vật nầy đang ở đâu?
Một người Pháp nói rằng: “Chiếc ấn là vật có hồn.” Suy nghiệm thì ấn kiếm – Nguyễn Triều Chi Bảo là có hồn thật. Cây Quốc Kiếm vì lý do nào đó mà bị gãy đôi là điềm chia đôi đất nước 1954. Khi Quốc Ấn và Quốc Kiếm tách rời nhau thì dân Việt Nam cũng bị chia lìa, chồng xa vợ, vợ xa chồng vì tù đày, vì vượt biên, và mỗi người mỗi nẻo. Những người suy tư đến vận mạng dân tộc, đất nước muốn hai linh vật nầy được châu về hợp phố vì hai báu vật nầy vốn là vật bất khả phân.
*Phần Chót: Rễ Gò Công – Cựu Hoàng Bảo Đại – Vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam đã qua đời lúc 5 giờ sáng ngày thứ năm ngày 31 tháng 7 năm 1997, thọ 83 tuổi.
Đám tang của cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính quyền nước Pháp, điện Elysée đứng ra lo liệu.
Ngày chúa nhật 5 tháng 10 năm 1997, tại chùa Viện Phật Giáo Pháp ở ngoại ô Paris, có tổ chức một lễ cầu siêu 49 ngày cho cựu Hoàng Bảo Đại rất trọng thể gồm 1000 người Việt Nam tham dự, có cả bà chị ruột của Nam Phương là bà Bá Tước Didelot (92 tuổi), Hoàng Tử Vĩnh San, con vua Duy Tân, giáo sư Vũ Quốc Thúc cùng nhiều Ông Bà cùng thời với ông tham dự. (Bà Thứ Phi Monique không có mặt vì không được mời).
Điều làm nhiều người Việt Nam tham dự ngạc nhiên và cảm động đến ứa lệ là Thái Tử Bảo Long – Mà người ta đồn rằng đã quên tiếng Việt – cảm tạ quan khách bằng tiếng Việt chững chạc, rõ ràng trên máy vi âm. Điểm đáng nói là các Hoàng Tử và Công Chúa mặc đại tang màu trắng tiến vào đại sảnh quỳ lạy trước bàn thờ rất thuần thục và đã lạy trả những người đến niệm hương. Sau buổi lễ các hoàng tử và công chúa trong tang phục đứng chờ ở cửa để ân cần cảm tạ quan khách từng người đúng cổ tục. Theo các báo chí, bưổi cầu siêu nầy đã quy tụ đầy đủ các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài. Các người tham dự đều có một nhận xét chung là dù các con cái phải sống lưu vong nới đất khách từ lâu vẫn còn giữ truyền thống Việt Nam, thật xứng đáng là con của Cựu Hoàng.
Ngoài ra, buổi lễ có treo cờ vàng ba sọc đỏ, có cử quốc thiều, có cử bài “Đăng Đàn Cung” và giữ phút mặc niệm rất trang nghiêm. Điều nầy cũng ghi cảm xúc đầy ý nghĩa cho những người tham dự về tinh thần Quốc Gia Dân Tộc.
Trần Văn Nhựt

 
IP IP Logged
tuavanle
Admin Group
Admin Group
Avatar

Tham gia ngày: 30/May/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 335
Quote tuavanle Replybullet Gởi ngày: 11/Nov/2014 lúc 1:39pm

Gò Công: đất khởi nghiệp các dòng học quý tộc

Tác giả: Hứa Hoành 


Khắp các tỉnh Nam Kỳ, Gò Công tuy là một hạt nhỏ nhưng là đất quý hương bên ngoại của nhà Nguyễn, là nơi phát tích nhiều dòng quý tộc hơn cả. Họ Phạm, họ Nguyễn đều được phong tước công, hầu, bá... vì là tổ phụ của bà Từ Dụ Phạm Thị Hàng và nhạc phụ của cựu Hoàng Bảo Đại.
Truy tầm gia phả của bà Từ Dụ, chúng tôi được biết “viễn tổ” dòng họ Phạm là Phạm Đăng Dinh, gốc thứ dân, quê quán tại Quảng Ngãi. Vào cuối thế kỷ 17, ông Dinh cùng gia quyến theo đoàn người Nam tiến, vào lập nghiệp tại vùng đất mà sau đó gọi là huyện Tân Hoà. Khó hình dung được những khó khăn của lớp người tiền phong, di dân lập nghiệp. Họ đổ mồ hôi để phá rừng, khẩn hoang, lập làng xóm trong khi phải tự cấp tự túc lương thực... Chỉ đọc được một vài dòng trên sách báo cũ “sơ khởi, tổ tiên chúng ta di dân vào phía Nam, phải đương đầu với rừng rậm, muỗi mòng, rắn rít và các loại mãnh thú nguy hiểm”. Ở miền Nam, có nhiều truyền thuyết, giai thoại về những người can đảm giết cọp, đánh nhau với cọp, thuần hoá những con cọp hung dữ, rồi cởi nó như cõi ngựa di ăn giỗ (ông Thống Sô ở Cần Đước). Bên cạnh những thử thách của thiên nhiên, người lưu dân gặp những điều kiện thuận lợi: đất rộng người thưa, mặc tình khai phá tuỳ sức lực. Dưới sông cá tôm nhung nhúc, ăn không hết. Nhờ cha là Phạm Đăng Tiên có chút chữ nghĩa, hồi ở Quảng Ngãi làm chức huấn đạo (tương đương với thầy giáo làng), nên khi tới vùng đất mới, với vốn liếng chữ Nho do cha truyền lại, Phạm Đăng Dinh trở thành ông đồ nghèo vừa dạy học, vừa làm ruộng rẫy... Buổi đầu, gia đình Phạm Đăng Dinh cất nhà ven bờ sông Tra bây giờ. Truyền thuyết về sự phát tích dòng họ Phạm trở thành quý tộc, tôi được nghe một vị cao niên kể lại từ hồi còn bên trại tỵ nạn Mã Lai như sau:
Cũng như bao gia đình khổ khác, buổi đầu gia đình họ Phạm cũng gặp khó khăn trên vùng đất mới. Mỗi nhu cầu hàng ngày họ phải ra sức lự làm để thoả mãn... Ông Phạm Đăng Dinh cất một cái chòi lá ven sông, làm ruộng cùng lấy việc dạy năm ba học trò làm vui, không có lương cố định như bây giờ. Bỗng đâu có nhiều đợt di thần nhà Minh được lịnh chúa Nguyễn vào lập nghiệp ở vùng Cù Úc (Mỹ Tho, Tân Hiệp, Tây Lý Tây bây giò) do Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến lãnh đạo. Trong nhóm người Hoa mới xâm nhập, có một thầy địa lý phong thuỷ, hàng ngày giả làm người bán rượu, qua lại các vùng đất cao, các gò đống như Gò Rùa, Gò Cát, Truông Cóc, Giồng Xe... có mục đích thầm kín là tìm một thế đất cho gia tộc, hy vọng đời sau con cháu bộc phát công hầu, khanh, tướng.
Một lần, người bán rượu ấy lỡ độ đường. Vừa quá giang qua sông Tra, thì trời lại tối. Thơ thẩn đi tìm nhà trọ, bụng đói lả, khát nước, người bán rượu gần như tuyệt vọng. May mắn, hắn gặp một người nông dân lam lũ, chất phát nhưng hiền hậu, ở trong một căn chòi gần bờ sông. Người nông dân ấy là ông Phạm Đăng Dinh. Lúc đó, gia cảnh ông Dinh khá đạm bạc. Lợi tức của gia đình trông vào mấy công ruộng mới phá, và bắt cá tôm dưới sông để sanh sống.
Thuộc con nhà Nho, hiếu khách. Phạm Đăng Dinh thương người khách lỡ đường, mời vào nhà nghỉ qua đêm. Tối đến, ông còn sai vợ làm thịt gà đãi khách ăn uống no nê... Trước nghĩa cử tốt đẹp và chân tình ấy, thầy địa lý cảm động, thú thật mình là người đi tìm long mạch an táng cho thân phụ, hy vọng con cháu phát quan. Sáng hôm sau, thầy địa lý dẫn ông Dinh ra phía sau nhà, chỉ gò đất cao, hình dáng khum khum như con Rùa, lúc đó người địa phương gọi chỗ này là “Gò Rùa” và nói:
- Thú thật, tôi mấy lần để ý thế đất Gò Rùa này. Nó là cuộc đất quý, nếu hài cốt thân phụ ông được táng vào đó, sẽ phát quan cho nhiều thế hệ, nhưng phải hơi chậm. Cám ơn ông đã giúp tôi qua cơn đói khát, tôi xin đền ơn bằng cách chỉ cho ông cuộc đất này, đừng bỏ qua. Sau khi người khách Tàu ấy đi rồi, Phạm Đăng Dinh đem lời nói thuật lại với con trai là Phạm Đăng Long. Ông Long trở về Quảng Ngãi tìm hài cốt ông nội đem vào táng tại Gò Rùa. Đến thời Phạm Đăng Hưng, cháu nội ông Dinh, có học chữ Nho với thầy đồ, may mắn đi thi, và đỗ Tam trường (Tú tài) tại trường thi Gia Định năm 1796.
Cuối thế kỷ 18, Chúa Nguyễn Ánh lưu lạc vào Nam, bị quân Tây Sơn vây bắt nhiều lần nhưng thoát được. Ánh cần người địa phương giúp đỡ về nhân lực, vật lực và tài lực. Trong số nhân tài ra phò tá Ánh trong buổi trung hưng có Phạm Đăng Hưng. Về sau, Phạm Đăng Hưng có công giúp Chúa Nguyễn, lập công trạng, và có con gái gả cho vua Thiệu Trị. Từ đó, họ Phạm được liệt vào hạng quý tộc. Các vị tổ phụ, luỹ thứ bậc, được ban tước như công, hầu, bá tử, nam... Đến đời vua Tự Đức (1848-1883) bà Từ Dụ được gia phong làm Thái Hậu, là người có ảnh hưởng rất lớn trong mọi quyết định của nhà vua trong việc trị nước. Bà Từ Dụ Phạm Thị Hàng sinh năm 1810 tại Gò Rùa, về sau vua Tự Đức cho đổi tên Gò Sơn Quy. Làm vợ vua Thiệu Trị trong 8 năm (1840-48), làm mẹ vua Tự Đức (1848-83), rồi làm bà nội các vua Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Dục Đức, bà Từ Dụ còn sống qua các triều vua Đồng Khánh, Thành Thái, sau cùng được truy phong Từ Dụ Nghi Chương Hoàng hậu. Cũng vì Gò Công là quê mẹ của Tự Đức, nên triều đình không muốn vùng đất này lọt vào tay người Pháp, trong khi cả Nam Kỳ trở thành đất thuộc địa. Biết tâm lý đó, người Pháp cũng nhượng bộ bằng cách ghi trong Hoà ước 1862 rằng sẽ “tôn trọng cuộc đất trong phạm vi lăng mộ họ Phạm”.
Ông Nguyễn Liên Phong, soạn giả một quyển sách cổ “Từ Dụ Hoàng Thái Hậu truyện”, in năm 1913, có ca tụng Gò Sơn Quy như sau:
Lệ thuỷ trình tường ngoại,
Quy khâu trúc phước cơ.
Nghĩa là:
Nước ngọt trổ điềm lành,
Gò Rùa vun đất phước
(Gò Công xưa và nay của Huỳnh Minh, tr. 104)

Bà Từ Dụ đóng vai trò quan trọng trong chính sách ngoại giao với Pháp. Trước khi được tiến cung làm vợ của Thiệu Trị, cô Phạm Thị Hàng là người quê quán tại Gò Rùa (sau đổi Gò Sơn Quy), là mẹ của Hồng Nhậm, sau này lên ngôi vua, lấy hiệu Tự Đức.
Trong dân gian vẫn có một nguồn tin nghi ngờ rằng chính bà Phạm Thị Hàng có thông dâm với Trương Đăng Quế, Binh bộ Thượng thư dưới triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị. Dưới triều vua Thiệu Trị, Trương Đăng Quế được thăng tước Văn minh diện đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý Bộ binh kiêm Cơ mật viện (một trong tứ trụ của triều đình). Ông được cử làm phụ chánh đại thần. Trong thời gian ấy, ông dan díu với bà Từ Dụ sanh Hồng Nhậm (?) Tuy nhiên, nguồn tin ấy chỉ là nghi vấn. Tới nay chưa có ai tìm được chứng cớ rõ ràng. Ngoài ra, ở quê ông Trương Đăng Quế cũng có lời dị nghị trong thiên hạ cho rằng “Trương Đăng Quế đã đem con trai mình đổi lấy con trai vua Thiệu Trị, lúc hai đứa trẻ mới sanh. Dư luận tin rằng vua Tự Đức sau này chính là con trai của Trương Đăng Quế, ứng với lời tiên tri, địa lý Tàu khi tin huyệt mả cho dòng họ Trương. “ Đời đời công hầu, nhứt Đại vương”. (Non nước xứ Quảng của Phạm T. Việt, tr. 87)
Mất ba tỉnh miền Đông rồi (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường), vua Tự Đức lẫn bà Thái hậu Từ Dụ ủ dột mấy tháng liền, mất ăn, biếng ngủ. Thôi thúc bởi cố hương, nhà vua cố làm vui lòng mẹ, không ngại tốn kém, cử một phái đoàn do ông Phan Thanh Giản qua Pháp xin chuộc lại, nhưng thất bại. Hiện nay tại Gò Rùa tức Gò Sơn Quy, nằm ở phía Bắc tỉnh lỵ Gò Công chừng 2 km là phần mộ của tổ tiên họ Phạm, gọi là “Lăng hoàng gia”. Khi ông Phạm Đăng Hưng, tước Đức Quốc Công tạ thế, vua Tự Đức ban cho 100 mẫu ruộng làm tự điền để con cháu lo việc cúng tế hàng năm. Quan sát khu lăng mộ, du khách sẽ thấy:
- Lăng Bình Thành Bá Phạm Đăng Dinh (1717- Quảng Ngãi 1811 Gò Công), viễn tổ bên ngoại của vua Tự Đức, được phong làm Hàn Lâm Viện học sĩ, Bình Thành Bá (tam phẩm).
- Lăng Phước An Hầu Phạm Đăng Long (1730-1796), con của Phạm Đăng Dinh, Từ tiện đại phu, Lại bộ Thượng thư, Phước An hầu, rồi thăng Trang nghị Công (nhị phẩm).
- Lăng Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng, nằm ngay chính giữa (1765- 1825).
- Mộ của Phạm Thị Tăng, vợ của Phạm Đăng Long (1744- 18 14) được phong “ Tôn phu nhân Đoàn Kiệt”.
- Mộ Phạm Thị Du, mẹ của bà Từ Dụ (1767-1821) được phong Tân Nhứt phẩm phu nhân “Đoàn Tư”...
Những mộ này đều có mái che (nhà bia).
Vua Thiệu Trị cũng có một bà phi khác là Đinh Thị Hạnh cùng quê quán tại Gò Công, cô ruột của Phạm Thị Hàng. Chính bà Đinh Thị Hạnh giới thiệu cháu gái của mình mà Phạm Thị Hàng mới được tiến cung. Bà Hạnh ăn ở với vua Thiệu Trị, sanh một người con trai tức An Phong Công Hồng Bảo (con trưởng). Theo lệ thường, Hồng Bảo con trưởng phải được nối nghiệp làm vua, nhưng không rõ phụ chính đại thần Trương Đăng Quế có dự mưu gì trong việc phế trưởng lập thứ, để đưa Hồng Nhậm lên nối ngôi, lấy hiệu Tự Đức? Vì lẽ đó, Hồng Bảo bất mãn, có lần âm mưu với một số người nước ngoài, định đảo chánh em, tự lập làm vua. Âm mưu thất bại, Hồng Bảo bị bắt giam trong ngục, rồi buộc phải thắt cổ tự tử. Các con Hồng Bảo phải lấy theo họ mẹ (họ Đinh). Khi vua Tự Đức ra lịnh xây lăng cho mình, lúc đó gọi là Vạn Niên Cơ, bắt mấy ngàn dân phu lao dịch cực khổ ngày đêm, dân chúng oán hận. thuở đó có câu ca dao:
Vạn Niên là Vạn Niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân?

Lợi dụng sự bất mãn của dân phu, ba anh em Đoàn Trưng, Đoàn Trực, Đoàn Ái cùng một số người khác âm mưu tổ chức khởi nghĩa. Họ tôn một người con Hồng Bảo là Đinh Đạo lên làm minh chủ. Nửa đêm, họ tổ chức dân phu từ chỗ xây lăng Vạn Niên kéo về kinh thành, định giết vua Tự Đức. Nhóm dân phu phẫn nộ này lúc kéo về kinh thành mang theo chày giã vôi (xây lăng) làm võ khí, nên sau đó, lịch sử gọi cuộc khởi nghĩa thất bại ấy là “Giặc chày vôi”. Chịu chung số phận với các lãnh tụ cuộc nổi dậy, Đinh Đạo bị xử tử, riêng bà Đinh thị Hạnh bị giáng làm thứ dân, đuổi về quê, mất tất cả phẩm tước của triều đình. Hiện nay tình trạng khu lăng mộ hoàng gia họ Phạm tại Gò Công xuống dốc, tiêu điều. Một người có lòng hoài cổ, viếng lăng, viết bài “Nỗi buồn lăng mộ” tả lại như sau:
Hiện nay khu lăng hoàng gia xuống cấp thảm hại. Khu đền thờ, lăng mộ là nơi an nghỉ, ghi ơn vị công thần dưới triều Nguyễn Phạm Đăng Hưng, lẽ nào hậu thế lại cố tình quên? Lăng hoàng gia, toạ lạc trên một gò đất cao gọi là Giồng Sơn Quy, thuộc làng Tân Niên Đông, cách thị xã Gò Công 3 km. Với diện tích rộng gần 10 hecta, cảnh quan tươi đẹp, khô ráo, đặc biệt không bị ngập lụt. Nơi đây gồm có lăng mộ Phạm Đăng Hưng và 6 ngôi mộ tổ của ông, cùng 8 ngôi mộ khác của dòng họ Phạm. Cách vài chục mét về bên trái, là một ngôi nhà rát lớn, cật bằng gỗ quý, để thờ họ ngoại vua Tự Đức. Họ Phạm là một dòng họ lập nghiệp lâu đời nhứt tại Gò Công. Chinh dòng họ này đã quy tụ nhân dân khai phá đất đai, mở mang kinh tế, phát triển đời sống văn hoá... Phạm Đăng Hưng là cha đẻ bà Từ Dụ, thân mẫu vua Tự Đức Lăng mộ Phạm Đăng Hưng xây theo thế “đảnh trừ” giống hình chiếc nón lá, phân rẽ 8 cánh. Về bên phải có nhà bia, do cụ Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng dựng bia kỷ niệm. Ngoài cùng khu mộ, xây tường uốn vòng, có 4 trụ gạch giông như lăng Thiên Thọ ở Huê. Như vậy mộ phần tỏ ra phong nghi, tam công tứ trụ mà diện cách hàng quân vương chứ không còn ở hàng thần tử nữa. Ngoài những chi tiết trên, mộ còn một nét đặc biệt là phần phong chẩm, đắp nổi hình 5 con sư tử, từ nhỏ đền lớn, biểu hiệu ngũ tước: công, hầu, bá, tử, nam. Sau khi an táng Phạm Đăng Hưng xong, năm 1826 mới bắt đầu xây nhà thờ bằng các loại gỗ quý có 3 gian hai chái. Về sau nhà này xây lại quy mô lớn hơn...
Thời gian cùng với sự thờ ở của con người đã làm tàn phế một di tích cổ có giá trị. Ngôi mộ của Đức Quốc Công họ Phạm mà bao đời nhân dân ngưỡng vọng, hiện tại của ông lúc sinh thời, lần lần đi vào quên lãng. Tường bao bị đập nát, cột đã xiêu đổ. Năm con sư tử lớn nhỏ, được đắp nổi, hài hoà trong tổng thể khu lăng mộ, với nét chạm khắc tinh tế, rắn rỏi, biển hiện sự uy nghi, thiêng liêng đối với công thần đời đời yên nghỉ. Thân thể các chú sư tử ấy toác lở ra, trông chẳng giông hình thù gì nữa. Những hoạ tiết bang sành sứ bị bong ra từng mảng. Các trụ đài sen bầm dập, rơi gần hết cánh. Bốn con rồng châu đầu vào nhau, uốn, lượn như sắp sửa bay. Hai con bị đập mất đầu. Bề mặt lăng tróc lở, cỏ mọc lam nham, rêu phong bám đầy. Tấm bia ghi tên ngày sinh tử, công trạng, sắc phong của ông bị nắng mưa bào mòn hết còn chữ. Án thờ ông hương khói lạnh tanh thuở nào? Đây đó rải rác phân bò, phân trâu, hắt mùi khó thở. Khu quần thể lăng hoàng gia đã xuống cấp đền mức độ báo động.
Còn ngôi nhà thờ dòng họ Phạm cũng đang ở trong tình trạng hư hại nặng. Ngói vỡ, mưa xối, nắng chan triền từ năm này qua năm khác, làm cho đầu cột, kèo lung lay, mục rỗng dần. Bàn thờ Đức Quốc Công và 6 vị cao tổ của ông, đã bị ai đánh cắp? Các bao lam chạm hình rồng, công, phượng với đường nét tài hoa, tinh xảo bị mục nát hoàn toàn. Ai đã từng đền lăng hoàng gia một lần ra về đều tiếc đứt ruột vì sự hư hại nặng nề của nó. Chẳng lẽ con người lại vô cảm trước di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao như thế này ư? Ta cũng không ngờ được từ năm 1975 cho đến nay, chính quyền sở tại chưa chi một đồng, một cắc nào cho công việc bảo quản, chăm sóc, quét dọn cho khu lăng hoàng gia này. Người thủ từ già nua, gầy gò ra tiếp chúng tôi cũng thừa nhận điều đó. Vợ chồng ông sông được cũng nhờ cuộc đất trồng chuối, trồng mảng cầu trong khu lăng mộ. Mấy năm trước, chính quyền không giúp đỡ, còn thu thuế vườn.
Ông Hai Sỹ, người làm văn nghệ ở Gò Công lâu năm, chỉ vào nền đất trông trơn, lổn ngổn gạch đá, bảo tôi:
- Đây là gian nhà khách. Giữa năm 1985, tôi làm đơn xin uỷ ban thị xã Gò Công 6.000 ở thuê người cật dỡ kẻo sợ sập, gây tai nạn chết người. Ngờ đâu sáng xin được tiền, tối đến ngôi nhà sụp đổ.
Tôi giật mình ngoảnh lại khu nhà thờ (phủ thờ) phía sau lưng, đường bệ, tôn nghiêm là thế, kết tinh cho một lối kiến trúc độc đáo của nhân dân ta dưới triều Nguyễn vào thế kỷ 19, cũng đang có nguy cơ bị lật nhào khỏi mặt đất vì mưa nắng, vì sự thờ ở lạnh lùng của hậu thế...
Cộng sản tới đâu phá nát đất nước tới đó. Một vị cao niên đã nói với tôi như vậy. Chiếm được miền Nam rồi, chúng gọi vua chúa “thằng này, thằng nọ”, huống chi lăng mộ của vua chúa, họ muốn phá cho tiêu tan di tích. Bây giờ nghèo túng, họ muốn thu hút khách du lịch nước ngoài, mới bỏ tiền trùng tu một số lăng mộ chớ không phải đã thay đổi quan niệm, cách suy nghĩ của họ. Đừng thấy hiện nay cộng sản tu bổ chùa chiền miễu mạo, lăng tẩm mà vui mừng. Họ bán vé cho khách vào thăm chớ không phải miễn phí như các chế độ trước. Bây giờ cộng sản nhìn ở đâu cũng thấy tiền!



 

 

IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.156 seconds.